🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bài Học Phần Lan 2.0 - Pasi Sahlberg & Đặng Việt Linh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Giáo Dục]
Ebooks
Nhóm Zalo
Dành tặng Einar Frithiof Sahlberg (1895-1977)
Tôi nghe như mùa đang thay đổi
Mùa đang chuyển mình quanh đây Em không nghe những cơn gió mới đang thổi? Âm thanh kia em không biết thật chăng? Và Trái Đất vẫn đang quay chầm chậm Từ từ quay, từ từ đổi thay...
- Neil Young, Rumblin
LỜI GIỚI THIỆU
Tôi rất lấy làm vinh dự được viết lời giới thiệu cho ấn bản thứ hai của cuốn sách Bài học Phần Lan của tác giả Pasi Sahlberg, một trong những nhà giáo dục hàng đầu của Phần Lan. Cuốn Bài học Phần Lan của ông đến nay đã được dịch ra gần 30 thứ tiếng. Tôi rất vui khi chứng kiến cuốn sách được xuất bản tại Việt Nam bằng tiếng Việt.
Vì đây là cuốn sách kể câu chuyện về hệ thống giáo dục Phần Lan, cho nên tôi muốn hướng độc giả chú ý tới vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Phần Lan. Đất nước tôi đã có sự chuyển mình đáng kể trong vài thập kỷ qua, từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và ngư nghiệp, trở thành một nước công nghiệp hiện đại nơi thành công được dựa trên nền móng của những tiêu chuẩn về “xuất sắc-ưu tú” rất khắt khe. Trong thời kỳ đầu của công cuộc công nghiệp hóa, kinh tế của Phần Lan dựa vào rừng, một nguồn tài nguyên rộng lớn. Kể từ đó, chúng tôi đã đa dạng hóa sản xuất, từ các mặt hàng như giấy, máy móc thiết bị, sản phẩm kim loại và hóa chất cho đến các thiết bị điện tử chuyên dụng tinh vi, các giải pháp công nghệ cao và thân thiện môi trường thế hệ mới, cùng các dịch vụ tư vấn.
Một trong những bí quyết, mà tôi có thể gọi là BÍ MẬT, đằng sau sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của Phần Lan là
hệ thống giáo dục toàn diện và chất lượng cao. Quốc gia chúng tôi đặt chất lượng giáo dục tiên tiến lên hàng đầu, với xuất phát điểm đến nay là việc bảo đảm sự tham gia toàn diện và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Đối với một nước nhỏ bé như Phần Lan, việc huy dộng hiệu quả các nguồn lực trí tuệ trên toàn quốc là điều vô cùng cần thiết. Đây là một trong những yếu tố chủ chốt phía sau thành công của chúng tôi.
Việt Nam và Phần Lan có các quan hệ song phương tuyệt vời. Quan hệ ngoại giao bền chặt của chúng ta khởi đầu từ năm 1973, và trong hơn ba thập kỷ qua, chúng ta đã cùng phối hợp với nhau thông qua hợp tác phát triển. Quan hệ đối tác lâu dài với Việt Nam tạo dựng nên một nền tảng vững chắc cho hợp tác thương mại bền vững vì lợi ích chung của chúng ta trong tương lai. Chúng tôi rất mong chờ chúng ta tiến thêm một bước mới trong quan hệ song phương giữa hai bên và xây dựng quan hệ đối tác dựa trên thương mại, hợp tác kinh tế, tiếp xúc cấp doanh nghiệp-doanh nghiệp và hợp tác về mặt thể chế.
Trong tương lai, giáo dục là một trong những lĩnh vực hợp tác tiềm năng giữa hai nước chúng ta. Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế ấn tượng và những thành tựu của các bạn trong những thập kỷ qua thật ngoạn mục. Có thể thấy, cải cách hệ thống giáo dục là một trong những ưu tiên quốc gia hàng đầu tại Việt Nam.
Tôi hy vọng cuốn sách về giáo dục Phần Lan của Pasi Sahlberg có thể là một đóng góp quý báu mang lại những hiểu
biết về quá trình phát triển của hệ thống giáo dục Phần Lan và là nguồn khích lệ cho cuộc thảo luận giáo dục tại Việt Nam. Chúc các bạn có chuyến hành trình hứng khởi đến với thế giới của giáo dục Phần Lan.
ILKKA-PEKKA SIMILÄ
Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam
GIÁO DỤC PHẦN LAN:
MỘT NỀN GIÁO DỤC ĐỘC ĐÁO
Các bạn đang cầm trên tay cuốn sách về một nền giáo dục rất độc đáo trên thế giới: Nền giáo dục của Quốc gia Phần Lan thuộc bán đảo Scandinavia. Đây là một câu chuyện dài về quá trình hình thành và phát triển chính sách giáo dục Quốc gia trong hàng chục năm qua của quốc gia này.
Không phải ngẫu nhiên mà từ một quốc gia có thứ hạng không phải quá cao trên thế giới về giáo dục nhưng mới đây, lần thứ ba trong bốn năm, Phần Lan tiếp tục giữ vị trí số một về năng lực cạnh tranh trong bảng xếp hạng toàn cầu. Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá Phần Lan có cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô cực kỳ tốt. Thành tựu này có được là nhờ ở các hàng điện tử, đặc biệt là công nghệ thông tin. Kinh tế phát triển với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống, có sự chuyên môn hóa cao. Công nghệ hiện đại là chìa khoá của sự phát triển và Phần Lan là một trong các quốc gia hàng đầu thế giới về sử dụng Internet.
Với tỷ lệ Internet, điện thoại di động và giao dịch ngân hàng điện tử trên đầu người cao hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, Phần Lan có một cơ sở hạ tầng thông tin đảm bảo cho việc hoạch định tương lai của mình. Với chỉ hơn năm triệu người, Phần Lan có tới 20 trường đại học hàng đầu, gần 26 trường đại
học khoa học ứng dụng, nhiều trường kỹ nghệ tiên tiến, và rất nhiều tổ chức nghiên cứu uy tín, cung cấp một trong những lực lượng lao động được đào tạo tốt nhất thế giới.
Đằng sau những sự phát triển đó chính là nền giáo dục. Trong nhiều năm qua, câu chuyện về nền giáo dục Phần Lan đã trở nên nổi tiếng trên thế giới và gây nên sự tò mò đối với cả người Việt Nam. Khi đọc cuốn sách, tôi thấy rất thú vị và thán phục khi biết chi tiết lịch sử phát triển nền giáo dục độc đáo này... Tôi đã ngạc nhiên khi biết tất cả các giáo viên trong các trường học Phần Lan đều phải có bằng Thạc sỹ và nghề giáo là một nghề được ngưỡng mộ nhất, hơn cả bác sỹ, kiến trúc sư và luật sư, và đó không chỉ là khẩu hiệu, mà còn thể hiện ở những hành động thực tế khi lương giáo viên cao hơn mức lương chung các ngành khác chừng 10%.
Trong cuốn sách Bài học Phần Lan 2.0, tác giả đã cập nhật toàn bộ quá trình Phần Lan xây dựng một hệ thống giáo dục đẳng cấp thế giới trong suốt bốn thập kỷ qua. Với bổ sung đáng kể so với ấn bản đầu tiên năm 2011, phiên bản 2.0 này trình bày một cách có hệ thống tập trung vào giáo viên và lãnh đạo chuyên nghiệp, xây dựng lòng tin giữa các xã hội và trường học, và đầu tư vào giáo dục hơn là cạnh tranh, sự lựa chọn, và cải cách thị trường... Đó là những điều đưa các trường học Phần Lan trở thành một mô hình quốc tế thành công.
Như Diane Ravitch đã viết, cuốn sách Bài học Phần Lan 2.0 nhắc nhở chúng ta rằng một quốc gia nếu nhận thức được ý
nghĩa của giáo dục và con người, quốc gia đó hoàn toàn có thể xây dựng một hệ thống trường học tốt đẹp.
Trong bối cảnh nền giáo dục Việt Nam đang tiến hành nhiều thay đổi mạnh mẽ, chúng tôi nỗ lực xuất bản cuốn sách này với mong muốn cung cấp chi tiết câu chuyện về cải cách giáo dục và thiết lập nền giáo dục Phần Lan để giúp các bậc phụ huynh và giáo viên, các nhà nghiên cứu giáo dục, và nhất là các nhà hoạch định chính sách tham khảo một mô hình giáo dục hiện đại và thành công, và tin rằng đây là nguồn tài liệu hữu ích cho những gì chúng ta đang theo đuổi.
Xin chân thành cám ơn Đại sứ quán Phần Lan đã giúp chúng tôi trong quá trình xuất bản cuốn sách này.
Tháng Mười một năm 2016
NGUYỄN CẢNH BÌNH
Giám đốc Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC)
LỜI TỰA CHO ẤN BẢN THỨ HAI
MỘT VŨ TRỤ KHÁC
Cuốn Bài học Phần Lan của Pasi Sahlberg được xuất bản đúng vào thời điểm người ta cần nó nhất. Khi cuốn sách ra mắt, cái gọi là phong trào “cải cách” giáo dục đang đà đi lên ở nước Mỹ cùng những nước khác và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Tổng thống Mỹ Barack Obama và Bộ trưởng Giáo dục Mỹ Arne Duncan là những người ủng hộ nhiệt tình công cuộc “cải cách”. Chương trình của họ, mang tên Cuộc đua Lên đỉnh, được khởi động vào năm 2009, và bao gồm các nguyên liệu chủ chốt của mô hình cải cách: Thi cử, trách nhiệm giải trình xã hội và lựa chọn. Các nhà giáo dục được một phen bất ngờ vì họ kỳ vọng Tổng thống Obama sẽ đặt dấu chấm cho chương trình bị nhiều người ghét của Tổng thống George W. Bush có tên “Không đứa trẻ nào bị bỏ lại đằng sau”. Chương trình Obama được xây trực tiếp trên nền móng lung lay của chương trình Bush. Thay vì loại bỏ hệ thống thi cử một mất một còn, Cuộc đua Lên đỉnh lại gia tăng tầm quan trọng của việc thi cử. Giờ đây, không chỉ học sinh và nhà trường bị quy trách nhiệm về điểm thi của học sinh, mà điểm thi còn được dùng làm công cụ để đánh giá khen thưởng hay sa thải giáo viên.
Phong trào cải cách được tăng tốc vào năm 2010. Mùa xuân năm đó, Tạp chí Newsweek đăng một bài đinh, tuyên bố “chúng
ta phải sa thải giáo viên dạy kém”, cứ như thể các trường học chỉ toàn là giáo viên “dạy kém” vậy. Mùa thu năm đó, bộ phim Ngóng đợi “Siêu nhân”(Waiting for “Superman”) được công chiếu và thành công rực rỡ. Thông điệp của bộ phim là: Các trường học công lập của chúng ta đang thất bại, và hy vọng duy nhất cho các học sinh bị mắc kẹt trong những ngôi trường công “thất bại” là chạy sang một trường công đặc cách* do tư nhân quản lý. Người phụ trách khối trường công khi đó của Quận Columbia, Michelle Rhee, gây xôn xao trên báo chí với bài phát biểu cứng rắn về trường công và sự hài lòng của bà với việc sa thải giáo viên và hiệu trưởng.
Một số các quỹ nhiều tiền nhất của nước Mỹ, Quỹ Bill và Melinda Gates, Quỹ Eli và Edythe Broad, Quỹ Gia đình Walton, và nhiều quỹ khác, rót hàng triệu đô la cho phong trào cải cách này, khuyến khích hệ thống thi cử có tính đặt cược cao, Teach for America (Dạy cho nước Mỹ), trường công đặc cách, và thậm chí (ví dụ: Trường hợp Quỹ Walton) phiếu giảm học phí cho các trường tôn giáo.
Một vài bang, trong đó có Wisconsin, Michigan và Indiana, rút lại Quyền Thương lượng tập thể, và hiệp hội giáo viên trở thành tội đồ, bị quy kết vì kết quả điểm thi thấp và làm đội lên chi phí giáo dục bởi chi phí này phải gánh thêm chi phí chăm sóc sức khỏe và lương hưu của giáo viên. Các cuộc điều tra cho thấy giáo viên đã cảm thấy xuống tinh thần, chẳng sớm thì muộn, trước các cuộc công kích nhằm vào họ và nghề nghiệp của họ.
Do đó, khi Bài học Phần Lan của Pasi Sahlberg được xuất bản, cuốn sách đã mang đến một luồng gió mới cho các cuộc tranh luận giáo dục. Phần Lan thu hoạch điểm số cao trong các cuộc kiểm tra đánh giá học sinh quốc tế, và nước này đang không làm
bất cứ thứ gì mà các nhà cải cách Mỹ của chúng ta vẫn yêu sách. Phần Lan có hệ thống trường công lập vững mạnh, không mở trường công đặc cách hay áp dụng phiếu giảm học phí. Phần Lan đặt tiêu chuẩn đầu vào rất cao đối với ngành sư phạm; không áp dụng kiểu mô hình “Dạy cho Phần Lan” theo đó phép sinh viên trẻ mới tốt nghiệp đại học, còn non kinh nghiệm được phép dạy trong các trường ở Phần Lan. Sahlberg mô tả một chương trình đào tạo giáo viên dài năm năm mà tất cả giáo viên Phần Lan phải hoàn thành thì mới được dạy ở các trường học của Phần Lan.
Giáo viên và hiệu trưởng nằm trong cùng một hiệp hội, và hiệp hội này không chỉ thương lượng các vấn đề lương và điều kiện làm việc mà còn đại diện cho tiếng nói của học sinh và các nhà trường. Dù Phần Lan có cả một chương trình giảng dạy quốc gia nhưng giáo viên có phạm vi quyền lực rộng rãi cho phép họ có thể điều chỉnh chương trình theo những nhu cầu và thế mạnh của họ. Điểm hay nhất là Phần Lan không bắt buộc học sinh bậc tiểu học, bậc cơ sở làm các bài kiểm tra “tiêu chuẩn hóa”, mà chỉ áp dụng bắt buộc hình thức này đối với học sinh học cuối cấp trung học phổ thông. Như Sahlberg viết, các trường học ở Phần Lan là một khu vực không áp dụng thi cử “tiêu chuẩn hóa”.
Điều mà nhiều nhà giáo dục Mỹ yêu thích ở Bài học Phần Lan là ở chỗ, cuốn sách mô tả về một vũ trụ hoàn toàn khác nơi các nhà giáo dục được tôn trọng và tạo điều kiện làm việc tốt nhất, một vũ trụ mà thừa nhận rằng xã hội có bổn phận phải đảm bảo sức khỏe và an sinh cho các em nhỏ. Sahlberg biết rằng câu chuyện Phần Lan hoàn toàn tương phản với những gì đang diễn ra ở nước Mỹ và các nước khác. Ông gọi phong trào thi cử và chọn lọc này là GERM* (Global Educational Reform Movement), tức Phong trào Cải cách Giáo dục Toàn cầu.
Đúng, quả thật, Mỹ, Anh và nhiều nước khác đang bị nhiễm vi trùng GERM nói trên. Bài học Phần Lan 2.0 chính là thuốc diệt con vi trùng này. Cuốn sách nhắc nhở chúng ta rằng bất kỳ quốc gia nào cũng có thể xây dựng một cách có ý thức một hệ thống trường lớp tuyệt vời miễn sao họ biết chú ý sát sao đến nhu cầu của học sinh, chọn lựa và chuẩn bị tốt cho các nhà giáo dục, và xây dựng các cộng đồng giáo dục không chỉ có sức hấp dẫn tự nhiên mà còn có tác dụng tạo niềm vui thú cho việc dạy và học.
DIANE RAVITCH
LỜI NÓI ĐẦU
CHO ẤN BẢN THỨ HAI
Trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới, bức tranh toàn cảnh của nền giáo dục toàn cầu trông rất khác so với bức tranh ngày nay. Có nhiều quốc gia và vùng tự trị tin rằng họ có hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới. Những khoản đầu tư tài chính khổng lồ được đổ vào các cuộc cải cách giáo dục quốc gia, chất chứa trong đó những hứa hẹn về sự ưu tú và những giải pháp mau lẹ, mang đến hy vọng về vị trí dẫn đầu trong các bảng xếp hạng quốc tế. Cùng lúc đó, có những hệ thống giáo dục tập trung gây dựng sự công bằng và bình đẳng trong cơ hội để đảm bảo việc học thành công cho tất cả trẻ em của nước mình. Những nước này không nuôi tham vọng sở hữu nền giáo dục tốt nhất trên thế giới, thay vào đó, họ cố gắng mang lại điều tốt nhất cho trẻ em của mình và cha mẹ các em. Điều trái khoáy là, ngày nay trong số những quốc gia đặt mục tiêu dẫn đầu, không nước nào trong đó hiện đang dẫn đầu; và không hệ thống nào trong số những hệ thống giáo dục thành công hiện tại từng có mục đích vươn lên vị trí số 1.
Bài học Phần Lan ra đời trong bối cảnh giáo dục toàn cầu mới nổi lên này. Các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới bắt đầu tìm kiếm những yếu tố có thể lý giải cho thành tích giáo dục tốt đến không ngờ của Phần Lan, Hàn Quốc, Canada, Nhật Bản, và sau
này là Singapore và Estonia. Câu hỏi làm tôi trăn trở hơn cả điều vừa nói ở trên là việc, các hệ thống giáo dục thành công này không làm những điều gì trong khi các hệ thống giáo dục khác lại làm? Tôi nhanh chóng nhận ra rằng Phần Lan, trong nhiều phương diện, hoàn toàn khu biệt so với tất cả các nước khác. Nước này dường như có nhiều chính sách về trường lớp ở cấp trung ương, mà gần như đối nghịch với những chính sách được áp dụng ở Mỹ, Anh, Úc, New Zealand và nhiều nơi khác trên thế giới. Bài học Phần Lan, được xuất bản cuối năm 2011, là một câu chuyện về những giải pháp giáo dục thay thế đằng sau thành tích giáo dục tốt một cách đáng ngạc nhiên của Phần Lan.
Khi tôi được mời nói chuyện về Bài học Phần Lan, và tôi đã làm việc đó kể từ khi cuốn sách được xuất bản lần đầu trên tất cả các lục dịa của thế giới đến nay, tôi luôn bắt đầu bằng ba lời cảnh tỉnh mà tôi muốn đề cập ở đây. Thứ nhất, ý định của tôi trong cuốn sách này và trong những bài nói chuyện về hệ thống trường học Phần Lan không phải nhằm để thuyết phục độc giả và cử tọa của tôi rằng Phần Lan có hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới. Báo giới quốc tế và một số chuyên gia tạo ra ấn tượng sai lệch về việc có tồn tại một chuẩn đo lường để xác định đâu là những hệ thống giáo dục tốt nhất, và tệ nhất, trên thế giới. Các hệ thống xếp hạng giáo dục quốc tế hiện nay chỉ căn cứ vào một số lượng nhỏ các môn học để làm chỉ số, thường là biết đọc biết viết, toán học và khoa học. Do đó, khi những kết quả đầu tiên của Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA) được công bố vào tháng Mười hai năm 2001 với kết quả Phần Lan xếp số
một, một sỗ người Phần Lan tự nhủ: Hẳn chúng ta hẳn đã sai ở đâu đó khi đứng nhất trong hệ thống đánh giá dựa trên kết quả các bài thi/kiểm tra theo chuẩn nhằm do lường thành tích của học sinh trong ba lĩnh vực học thuật. Có rất ít, nếu có, nhà giáo dục ở Phần Lan cho rằng hệ thống trường học Phần Lan là tốt nhất thế giới.
Thứ hai, tôi không tuyên bố, cả trong cuốn sách này cũng như trong các bài nói chuyện, rằng nếu như các nước khác có thể bắt chước mô hình của Phần Lan trong việc cải cách hệ thống giáo dục của họ thì mọi chuyện sẽ trở nên tốt hơn. Một sổ chuyên gia về cải cách giáo dục trước tôi đã nhận định rằng các cuộc cải cách giáo dục là những du khách rỗng túi. Điều này có nghĩa là cái mà tưởng chừng có thể làm cho một hệ thống giáo dục ở một nơi đạt kết quả vượt mong đợi lại có thể không mang lại tác động tích cực tương tự cho các hệ thống giáo dục ở nơi khác. Quá nhiều lần, tôi phải thú nhận, mình đã gặp những người sau khi đến thăm Phần Lan hay nghiên cứu hệ thống giáo dục Phần Lan tin rằng giá như họ có chương trình học, trường học và giáo viên của Phần Lan thì những thách thức về giáo dục của họ sẽ biến mất. Cuốn sách này và việc đi khắp thế giới nói chuyện về nó là để nhấn mạnh rằng chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau. Phần Lan có thể tạo nguồn cảm hứng cho các nhà giáo dục ở các nước khác suy nghĩ sâu xa hơn về nhà trường và văn hóa của nước họ. Có nhiều bài học, như tôi chia sẻ trong cuốn sách này, mà các nước khác có thể học từ chúng tôi, cũng như
Phần Lan đã học hỏi lấy cảm hứng từ các nhà giáo dục và hệ thống trường học khắp thế giới.
Cuối cùng, điều quan trọng cần phải ghi nhớ là đa phần những cải tiến sư phạm trong các lớp học ở Phần Lan cũng như cảm hứng cho các chính sách giáo dục tại Phần Lan đều bắt nguồn từ các nước khác. Đầu thế kỷ 20 sau khi Phần Lan trở thành một quốc gia độc lập và hệ thống giáo dục của Phần Lan bắt đầu định hình, Đức và Thụy Sỹ được Phần Lan lấy làm mô hình cho những ngôi trường đầu tiên của mình. Sau đó, ý tưởng về một hệ thống trường lớp công bằng, toàn diện bắt nguồn từ những nước Bắc Âu láng giềng, nhất là Thụy Điển. Gần đây hơn, Anh, Scotland, Canada và Mỹ là những nơi mà các nhà giáo dục Phần Lan đã tìm thấy các ý tưởng hay để mở mang cho việc dạy và học ở những ngôi trường của mình. Lý thuyết chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy, các cách đánh giá học sinh và mô hình lãnh đạo đối với các nhà trường là những ví dụ về ảnh hưởng tích cực của hoạt động nghiên cứu và phát triển giáo dục của Mỹ đối với Phần Lan từ những năm 1980 đến nay.
Ấn bản thứ hai này của cuốn Bài học Phần Lan bao gồm những cập nhật toàn diện về giáo dục Phần Lan cũng như những cập nhật về thống kê quốc tế trong việc đo lường thành tích giáo dục. Ấn bản mới này sử dụng dữ liệu từ tất cả các cuộc nghiên cứu và điều tra quốc tế mà Phần Lan đã tham gia từ năm 2011 đến nay. Dựa trên tư liệu được cập nhật này, ấn bản này cũng thảo luận những xu hướng đang diễn ra ở Phần Lan và những phản ứng có
thể có đối với những xu hướng này. Ấn bản này cũng minh họa cơ cấu giáo dục mầm non, mà hiện giờ là một phần của hệ thống giáo dục Phần Lan, mô tả hệ thống giáo dục đổi mới dựa trên các nhu cầu đặc biệt, và kể chi tiết hơn về kỳ thi đại học dành cho học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông.
Đến nay Bài học Phần Lan đã có một chuyến hành trình thành công. Tôi đã trình bày các ý tưởng trong cuốn sách này tại quốc hội của các nước Scotland, Anh, Thụy Điển, Úc, New Zealand và Liên minh Châu Âu. Cuốn sách này đã mang đến cho tôi rất nhiều người bạn và đồng nghiệp mới. Năm 2013, Bài học Phần Lan được nhận Giải thưởng Grawemeyer, một giải thưởng uy tín của Đại học Louisville (Kentucky) ghi nhận những ý tưởng quan trọng trong giáo dục có tiềm năng thay đổi thế giới. Quả thực, nhờ cuốn sách này mà tôi đã được mời tới thỉnh giảng ở các trường đại học hàng đầu khắp thế giới. Tôi xin cảm ơn hàng trăm người đã gửi cho tôi những nhận xét và ý kiến của họ về ấn bản đầu tiên của cuốn sách. Rất nhiều trong số những gợi ý đó bây giờ được lồng ghép vào các trang sách của ấn bản thứ hai này.
Tôi hy vọng Bài học Phần Lan 2.0 truyền cảm hứng cho bạn và thuyết phục bạn rằng sẽ có cách để chúng ta xây dựng những hệ thống trường công tốt dành cho tất cả con cháu chúng ta. Công thức Phần Lan cho một nền giáo dục tốt rất đơn giản: Luôn hỏi bản thân liệu chính sách hay cải cách mà bạn dự định khởi xướng có mang lại lợi ích cho học sinh hay giáo viên hay không.
Nếu bạn do dự với câu trả lời của mình thì đừng thực hiện chính sách hay cải cách đó.
Cambridge,
Massachusetts, mùa thu năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước khi viết phần này, tôi tới một tiệm sách trong khu nhà và đọc phần lời cảm ơn trong vài cuốn sách của các tác giả khác. Tôi thấy nhiều lời cảm tạ trong đó liệt kê dài dằng dặc những cái tên của đồng nghiệp, bạn bè, học trò và đôi khi cả người phản đối. Một số lời cảm ơn khiến tôi thắc mắc liệu tất cả những người được nhắc tới đó có thực sự đáng được cảm ơn hay không. Riêng với cuốn sách này, tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng tất cả những người có tên dưới đây đều đóng một vai trò trong việc khởi thảo hay đóng góp vào nội dung để tôi viết ra cuốn sách. Một số đóng góp nhỏ hơn những đóng góp khác, song tất cả đều quan trọng.
Khi viết một cuốn sách về một chủ đề quá đỗi gần gũi với cuộc sống và công việc của bạn, thì thật khó mà không thi thoảng tham khảo góc nhìn của một người ngoài cuộc. Để viết cuốn sách này, tôi đã dựa vào kiến thức, trí tuệ và kinh nghiệm
của một số đồng nghiệp và bạn bè thân thuộc. Niềm tin của họ rằng câu chuyện Phần Lan đáng được chia sẻ với các nước khác là một cú hích quan trọng để cho tôi viết nên cuốn sách. Nhưng nếu bạn chỉ nghe những người có ý kiến thuận chiều với mình, bạn sẽ không viểt nên được một câu chuyện hay. Đây là lúc tôi nhớ đến lời thông thái của bà tôi: “Nếu tất cả chúng ta đều nghĩ cùng một cách thì có lẽ không ai trong chúng ta thực sự tư duy
nhiều lắm”. Về chuyện này, tôi đặc biệt cảm tạ những người đã mạnh dạn phản bác tôi hoặc bày tỏ với tôi những lo ngại của họ nhưng luôn theo một lối thuyết phục và tôn trọng.
Lời cảm ơn đặc biệt của mình tôi xin gửi đến các đồng nghiệp và những người bạn sau: Erkki Aho, Lisa Belzberg, David Berliner, CIMO, Jean-Claude Couture, Linda Darling-Hammond, Carrie Fuller, Slavko Gaber, Howard Gardner, Kauko Hamalainen, Andy Hargreaves, Tom Hatch, Jarkko Hautamaki, Hannah Hayman, Henry Heikkinen, Olli-Pekka Heinonen, Martti Hellström, Stephen Heyneman, Peter Johnson, Ben Levin, Henry Levin, Stephen Murgatroyd, Cera Murtagh (vì đã gợi ý cho tôi tìm được cái tên cho cuốn sách), Nicholas Negroponte, Hannele Niemi, David Oldroyd, Lyda Peters, Diane Ravitch, Ngài Ken Robinson, Veera Salonen, Laura Servage, Robert Schwartz, Dennis Shirley, Tony Wagner và Win Wiencke. Tôi muốn cảm ơn Sam Abrams vì tình bạn cùng những lời phản biện của anh và sự hỗ trợ tận tình của anh dưới nhiều hình thức khác nhau để giúp cho lối hành văn của tôi trở nên dễ hiểu hơn với người đọc.
Một nguồn cảm hứng quan trọng để tôi viết cuốn sách này còn là hàng chục nghìn người trên khắp thế giới mà tôi đã có dịp gặp tại hàng trăm hội nghị, thảo luận, hội thảo chuyên đề. Họ đã dạy tôi để hiểu rõ hơn và tôn trọng sâu sắc hơn sự phức tạp của cải tổ giáo dục. Thế nên tôi cảm thấy mình nhỏ bé trước câu hỏi tại sao một số quốc gia làm tốt hơn trong việc giáo dục người dân của họ so với các quốc gia khác. Chúng ta thường rất dễ bỏ
qua những khác biệt về bối cảnh và đưa ra những lý giải rất đại khái về việc tại sao học sinh Phần Lan đạt thành tích tốt trong các bài kiểm tra quốc tế hơn học sinh ở hầu hết các nước khác. Những câu hỏi, những cuộc thảo luận, những mối quan tâm then chốt về vấn đề này góp phần rất quan trọng giúp tôi hình thành câu chuyện về sự phát triển giáo dục ở Phần Lan. Các sinh viên quốc tế của tôi ở Đại học Helsinki cũng là một nguồn cảm hứng cho tôi khi chúng tôi tìm hiểu những bí quyết của hệ thống giáo dục Phần Lan dứng trên các quan điểm mà thường bao gồm những trải nghiệm và kỳ vọng rất khác so với trải nghiệm và kỳ vọng của sinh viên Phần Lan. Tôi biết ơn tất cả các khán thính giả và sinh viên của tôi, những người đã biến việc viết cuốn sách trở thành một hành trình thú vị và một quá trình trưởng thành cá nhân của tôi. Bộ Ngoại giao Phần Lan đã quảng bá rộng rãi về Bài học Phần Lan tại các sự kiện của họ và tới các khách mời của họ, và vì điều đó, tôi xin cảm ơn.
Cuốn sách này được xây dựng tiếp nối từ những phiên bản trước đây của nhiều phần trong các phân tích, nghiên cứu và lập luận của tôi có thể được tìm thấy trong phần Tài liệu tham khảo. Những người phê bình và biên tập viên của các tạp chí và các tập sách đã được biên tập trong đó đăng tải các công trình trước đây của tôi cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố lập luận và sự thông suốt của tôi trong quá trình kể ra câu chuyện Phần Lan.
Tôi mãi mãi biết ơn Petra vì đã kiên trì giúp đỡ và vì sự thông thái của cô ấy khi chỉ cho tôi con đường tiến lên phía trước mỗi
khi sức lực và ý chí của tôi như bị tụt dốc không phanh. Con trai chúng tôi, Otto, xứng đáng được một cái hôn thật kêu vì đã cho tôi một lý do mới để viết về nền giáo dục mà mọi trẻ em xứng đáng được hưởng.
GIỚI THIỆU
Vâng, chúng ta có thể
(học hỏi lẫn nhau)
Trong 10 năm tới, khoảng 1,2 tỷ người trong độ tuổi từ 15 đến 30 sẽ gia nhập thị trường việc làm, và với các phương tiện chúng ta hiện có trong tay, khoảng 300 triệu người sẽ có được việc làm. Chúng ta sẽ mang lại cái gì cho những người trẻ này, với quân số khoảng một tỷ người? Tôi nghĩ đây là một trong những thách thức lớn nhất nếu chúng ta muốn đạt được sự phát triển hòa bình và thắp lên hy vọng cho những người trẻ này.
Martti Ahtisaari, cựu Tổng thống Phần Lan, J994-2000, người đoạt giải Nobel Hòa bình
Ở đâu đâu ta cũng thấy rõ một điều là, những ngôi trường mà chúng ta có hiện nay sẽ không thể mang lại cơ hội cho học sinh học được những gì các em cần cho tương lai. Nhu cầu về một hệ thống dạy và học chất lượng cao hơn và về một nền giáo dục công bằng, hiệu quả hơn là nhu cầu mang tính toàn cáu. Quả thực, các hệ thống giáo dục đang phải đối mặt với một thách thức kép: Làm thế nào để đổi mới trường học sao cho học sinh có thể học được những loại hình kiến thức và kỹ năng mới mà thế giới tri thức luôn xoay vần bất ngờ này của chúng ta đòi hỏi, và làm thế nào để phương thức học tập kiểu mới đó được tiếp
cận đến mọi đứa trẻ bất chấp điều kiện kinh tế xã hội của họ. Để vượt qua các thách thức này là một yêu cầu cấp bách cả về đạo đức lẫn kinh tế đối với xã hội cũng như các nhà lãnh đạo của xã hội chúng ta. Nó là một bổn phận đạo đức, bởi vì điều kiện an sinh và hạnh phúc tối thượng của mỗi người có được là nhờ kiến thức, kỹ năng và thế giới quan mà giáo dục mang lại. Nó cũng là một nhu cầu cấp thiết về mặt kinh tế, vì hơn bao giờ hết, sự thịnh vượng của các quốc gia phụ thuộc vào các bí quyết. Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây cho thấy lực lượng người trẻ thất nghiệp đang trở nên tuyệt vọng đến mức độ có thể khiến cho nhiều chính quyền bị hạ bệ. Rất nhiều trong số những người trẻ này bị thiếu hụt một sự giáo dục và đào tạo phù hợp để giúp họ tự lực cánh sinh.
Cuốn sách này nói về Phần Lan và làm thế nào người Phần Lan cải tổ mạnh mẽ hệ thống giáo dục của họ từ chỗ rất đỗi tầm thường trong những năm 1980 trở thành một trong những mô hình về sự xuất sắc và công bằng trong giáo dục ngày nay. Các chỉ số quốc tế cho thấy Phần Lan là một trong những nước có tỷ lệ công dân có giáo dục cao nhất trên thế giới, cung cấp cơ hội giáo dục một cách bình đẳng và sử dụng nguồn lực có hiệu quả. Giáo dục Phần Lan gần đây đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả quốc tế. Linda Darling-Hammond (2010) viết rất nhiều về điều này trong cuốn sách của bà có tiêu đề The Flat World and Education (Thế giới Phẳng và Giáo dục). Marc Tucker (2011) lấy Phần Lan là một ví dụ tiêu biểu về mô hình hiệu quả cao đối với nước Mỹ trong cuốn Surpassing Shanghai (Thượng Hải
Phi thường) mà ông chủ biên. Andy Hargreaves và Dennis Shirley (2012) chọn Phần Lan là một ví dụ về một quốc gia đã cải cách thành công hệ thống giáo dục trong cuốn sách của họ có tên The Global Fourth Way (Cách Thứ Tư của Toàn cầu). Diane Ravitch (2013) nhắc đến Phần Lan trong cuốn sách Reign of Error (Sự thống trị của sai lầm) của bà như một ví dụ cho người Mỹ, theo đó bà chỉ ra tại sao việc duy trì giáo dục công lại giúp mang lại một nền giáo dục tốt hơn cho tất cả mọi người. Một chương dành riêng về giáo dục Phần Lan đã trở thành một phần không thể thiếu của bất cứ cuốn cẩm nang hay cuốn sách nào viết về tư duy và thực hành đương đại trong lĩnh vực giáo dục. Các cơ quan phát triển quốc tế, các công ty tư vấn, các hãng truyền thông nhắc đến Phần Lan như một mô hình tốt và “nhân chứng” cho sự chuyển đổi giáo dục công thành công*. Các chuyên khảo về trường học và giáo viên Phần Lan đã được xuất bản ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Slovenia, Mexico, Đức và nhiều nước khác. Ấn bản đầu tiên của cuốn sách này đã được dịch ra 20 thứ tiếng, suy ra rõ ràng là có một mối quan tâm trên bình diện toàn cầu đối với kinh nghiệm của Phần Lan.
Khi dẫn dắt cuộc cải cách giáo dục ở Phần Lan đầu những năm 1990, Tiến sỹ Vilho Hirvi, khi đó là Tổng giám đốc Ban Giáo dục Quốc gia của Phần Lan, nói trong một bài phát biểu với nhân viên của ông rằng “một quốc gia có giáo dục không thể được tạo ra bằng vũ lực”. Ông cho rằng giáo viên và học sinh cần phải được lắng nghe, và rằng con đường tiến lên phía trước đòi hỏi phải có sự phối hợp tích cực. Ở Phần Lan, giáo viên và học
sinh luôn đòi hỏi quyền xử trí linh hoạt và tự do hơn trong việc quyết định thiết kế bài dạy như thế nào, học cái gì, và khi nào. “Chúng ta đang tạo ra một nền văn hóa giáo dục mới và sẽ không lùi bước”, Hirvi hói. Đóng vai trò cơ bản đối với nền văn hóa mới này là việc tạo dựng lòng tin giữa giới chức giáo dục và nhà trường. Lòng tin đó, như chúng ta đã chứng kiến, tạo ra sự cải cách không chỉ bền vững mà còn nằm trong tay của những người giáo viên tiến hành sự cải cách ấy.
LỪNG DANH PHƯƠNG BẮC
Trong những năm 1990, giáo dục Phần Lan không có) điểm gì đặc biệt đối với quốc tế: Các bạn trẻ Phần Lan đi học thường xuyên, mạng lưới trường học phủ rộng và dày đặc, ai nấy đếu được tiếp cận giáo dục phổ thông, giáo dục đại học là một lựa chọn khả thi đối với ngày càng nhiều học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Tuy nhiên, thành tích của học sinh Phần Lan trong các cuộc khảo thí quốc tế khi ấy chỉ mấp mé mức trung bình của quốc tế, trừ môn đọc, là môn mà học sinh Phần Lan làm tốt hơn hầu hết học sinh ở các nước khác. Cuộc suy thoái bất ngờ và chấn động của những năm đầu thập kỷ 1990 đưa Phần Lan tới bên bờ khủng hoảng tài chính. Cần phải có các giải pháp táo bạo và tức thời để khắc phục tình trạng mất cân đối tài chính quốc gia và phục hồi nền ngoại thương vốn biến mất cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô-viết năm 1990. Nokia, thương hiệu công nghiệp toàn cầu chủ chốt của Phần Lan, với các sản phẩm thông tin di động của họ, trở thành một đầu tàu vô cùng
quan trọng kéo Phần Lan ra khỏi vũng lầy kinh tế lớn nhất của đất nước kể từ sau Thế chiến Hai. Một thương hiệu Phần Lan khác chưa được nhiều người bên ngoài Phần Lan biết tới khi đó, peruskoulu, hay hệ thống trường học cơ bản toàn diện 9 năm, là nhân tố chủ chốt còn lại giúp khôi phục kinh tế và xã hội Phần Lan.
Trong thập niên 1990, trên thế giới cũng có những nước mà giới chức lãnh đạo giáo dục thấy hệ thống giáo dục của nước họ đang lâm vào tình trạng tương tự như tình trạng của Phần Lan. Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh đến nhiều trường phổ thông, trường đại học và toàn bộ hệ thống giáo dục. Lấy Ireland, Hy Lạp, Anh hay Mỹ làm ví dụ, thành tích của học sinh còn xa mới đạt được mức cần phải có ở những nền kinh tế tri thức này, nơi hiệu suất và đổi mới là những điều kiện cần thiết cho công cuộc cạnh tranh và tiến tới một đời sống bền vững. Học sinh dường như thấy việc đào tạo ở trường phổ thông và đại học ngày càng nhàm chán và không thiết thực với nhu cầu của mình trong một thế giới đang xoay vần chóng mặt. Câu chuyện về chuyến hành trình giáo dục của Phần Lan trong cuốn sách này mang đến hy vọng cho tất cả những ai đang trăn trở không biết hệ thống giáo dục của họ liệu có thể cải thiện được hay là không. Câu chuyện này cũng đề xuất ý tưởng cho những ai đang tìm cách điều chỉnh chính sách giáo dục để phù hợp với thực tại của sự hồi phục kinh tế. Các bài học từ Phần Lan rất mới mẻ vì chúng khác với các ý tưởng thường được trình bày trong sách hay tạp chí về phát triển giáo dục. Hơn nữa, những bài học
này cho thấy cải thiện có hệ thống là việc làm khả thi nếu chính sách và chiến lược được xây dựng một cách thông minh và bền vững và giáo viên cùng lãnh đạo nhà trường được tham gia vào việc lên kế hoạch, thực hiện và xem xét tất cả các khía cạnh của những thay đổi mà họ muốn tạo ra.
Những bài học này tuy đầy hứa hẹn song lại đặt ra yêu cầu là chúng ta phải kiên nhẫn. Trong kỷ nguyên này, khi người ta đặt nặng vấn đề “kết quả tức thì”, giáo dục đòi hỏi phải có một cách tư duy khác. Cải cách nhà trường là một quá trình phức tạp, từ từ. Vội vàng là hỏng. Câu chuyện được kể trong cuốn sách này làm sáng tỏ điều đó. Các bước đi cần phải được dựa trên cơ sở nghiên cứu và cần phải được phối hợp tiến hành giữa giảng viên đại học, nhà hoạch định chính sách, hiệu trưởng và giáo viên.
Cuốn sách này mô tả việc một quá trình như thế đã diễn ra như thế nào ở Phần Lan từ sau Thế chiến Hai. Đây là cuốn sách đầu tiên được viết cho độc giả quốc tế, kể về câu chuyện bằng cách nào Phần Lan đã tạo ra một hệ thống được ca ngợi là công bằng và có chất lượng cao. Nhiều tờ báo và hãng phát thanh truyền hình lớn của thế giới, New York Times, Washington Post, CNN, Times of London, Le Monde, El País,National Public Radio, NBC, Deutsche Welle và BBC, đều đăng tải về “phép màu” giáo dục Phần Lan này. Nhà làm phim Morgan Spurlock quá bị mê hoặc trước hệ thống nhà trường Phần Lan và đã lồng ghép các hình ảnh nhà trường Phần Lan vào phần nói về giáo dục của chương trình phim tài liệu Inside Man (Con người bên trong) trên
kênh CNN. Hàng nghìn đoàn dại biểu chính thức đã tới thăm giới chức, trường học và cộng đồng Phần Lan để tìm hiểu điều gì là động lực cho sự xuất sắc của giáo dục Phần Lan. Câu chuyện này, tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa được triển khai thành một
tác phẩm có tầm vóc như một cuốn sách để ta có thể liệt kê, kết nối và giải thích về rất nhiều người tham gia, tổ chức và lực lượng phi con người có liên quan.
Phương pháp tiếp cận của tôi trong cuốn sách này vừa mang tính cá nhân vừa mang tính học thuật. Cá nhân là do mối quan hệ gần gũi của tôi với giáo dục ở Phần Lan. Tôi sinh ra ở bắc Phần Lan, lúc nhỏ học ở trường tiểu học làng nơi cả bố cả mẹ tôi đều là giáo viên ở đó. Hầu hết ký ức thời thơ ấu của tôi có liên quan đến trường học theo cách này hay cách khác. Tôi may mắn được chứng kiến những bí mật hậu trường của lớp sau khi tất cả mọi người đã về nhà hết rồi, và tôi thấy thế giới đó thật giàu có. Đó là “nhà” của tôi, và ngôi nhà đầy ắp niềm vui. Có lẽ chẳng ai ngạc nhiên khi sau này tôi trở thành giáo viên. Ngôi trường đầu tiên tôi dạy là một trường phổ thông ở Helsinki. Tôi dạy toán và vật lý ở đó bảy năm. Sau đó, tôi có một quãng thời gian làm trong lĩnh vực quản trị giáo dục và đào tạo giáo viên, đủ dài để hiểu được sự khác biệt giữa giáo dục trong và ngoài nhà trường. Là nhà phân tích chính sách cho Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), chuyên gia giáo dục của Ngân hàng Thế giới và chuyên gia giáo dục của Ủy ban Châu Âu, tôi đạt được một tầm nhìn toàn cầu cần thiết để hiểu sâu hơn vị trí khác biệt của Phần Lan trong giáo dục.
Là đại diện của Phần Lan trong nhiều vai trò khác nhau này, tôi bắt buộc phải có hiểu biết sâu sắc hơn về cái làm nên sự khác biệt trong các phương pháp Phần Lan khi phải trả lởi câu hỏi của cử tọa và giới truyền thông khắp thế giới. Trong 10 năm
qua, tôi đã thực hiện hơn 400 bài phát biểu chính và trả lời 200 cuộc phỏng vấn về hệ thống giáo dục Phần Lan trên khắp thế giới. Tôi đã nói chuyện với hàng nghìn người, điều này đã dạy cho tôi biết rằng phải nhạy cảm với tính phức tạp của đổi mới giáo dục. Trò chuyện với những người quan tâm đến giáo dục, giống như tôi đây, đã góp phần rất lớn thúc đẩy tôi viết cuốn sách này. Dưới đây là một số câu hỏi hay được hỏi đi hỏi lại: “Đâu là bí quyết thành công giáo dục của Phần Lan?” “Vì sao Phần Lan tuyển được toàn tài năng trẻ xuất sắc nhất làm nghề sư phạm?” “Thiếu sự đa dạng sắc tộc có ảnh hưởng như thế nào đối với thành tựu giáo dục tuyệt vời ở nước này?” “Làm sao để biết liệu các trường có tuân thủ theo những gì họ nên làm nếu không thông qua các bài kiểm tra đối với học sinh hay thanh tra đối với giáo viên?” “Phần Lan đã cứu hệ thống giáo dục của mình như thế nào trong cuộc suy thoái kinh tế những năm 1990?” Tôi thật lấy làm biết ơn những câu hỏi như thế và những lời nhận xét mang tính phê bình đối với tư duy của tôi. Không có những điều ấy hẳn tôi sẽ không bao giờ có thể trau chuốt được sự đánh giá của mình đối với những khác biệt của Phần Lan.
Cuốn sách này cũng có địrih hướng học thuật vì nó bắt nguồn từ những nghiên cứu mà tôi tham gia trong suốt hai thập kỷ qua với tư cách tác giả, đồng tác giả và nhà phê bình. Cuốn
sách này, do đó, không phải là một chuyên khảo điển hình được viết ra với mục đích báo cáo kết quả một đề án nghiên cứu hay một sự kiện nào đó. Thay vào đó, nó là một công trình tổ hợp của một thập kỷ phân tích chính sách, kinh nghiệm với tư cách nhà giáo và người quản lý, và việc đối thoại với hàng nghìn nhà giáo dục từ trên khắp thế giới. Tôi có may mắn được ngao du bên ngoài Phần Lan kha khá thời gian và được làm việc với một vài chính phủ nước ngoài đủ dễ hiểu rõ hơn bản chất thực sự và dặc trưng của giáo dục Phần Lan cùng cuộc sống tại các ngôi trường Phần Lan.
Tôi từng dạy một khóa học có tên “Nhập môn về hệ thống giáo dục Phần Lan” tại Đại học Helsinki trong nhiều năm. Sinh viên của tôi đến từ khắp nơi trên thế giới. Đa số đến Phần Lan để học trọn một năm tại đây vì họ muốn tìm hiểu rõ hơn về cấu trúc và tinh thần của hệ thống giáo dục Phần Lan. Việc dạy ở Trường Sau Đại học về Giáo dục của Đại học Harvard đã đưa tôi đến với sinh viên Mỹ, đối tượng hay quan tâm đến nền giáo dục trên khắp thế giới. Cơ hội dạy sinh viên ở các cơ sở giáo dục đến nay là cách tốt nhất để giúp tôi hiểu rõ hơn hệ thống giáo dục Phần Lan. Tôi đã hoàn thiện và cập nhật cuốn Bài học Phần Lan ấn bản lần hai này nhờ nghe ngóng học hỏi từ các sinh viên, khán thính giả, đồng nghiệp của mình.
CẢM HỨNG PHẦN LAN
Hệ thống giáo dục công lập ở nhiều nơi trên thế giới đang gặp khủng hoảng. Mỹ, Anh, Thụy Điển, Na Uy, Pháp và nhiều nước tiên tiến khác đều đang vấp phải thách thức ngày càng
trầm trọng trong hệ thống giáo dục công của mình: Thất bại tràn lan trong việc tạo ra đủ cơ hội học tập cho tất cả học sinh. Các giải pháp cứng rắn hơn không phải là chuyện không phổ biến ở những nước này, với một công thức chung nhẳm chấn chỉnh những hệ thống giáo dục đang gặp thất bại: Cạnh tranh gay gắt hơn giữa trường học, trách nhiệm giải trình lớn hơn về thành tích của học sinh, thù lao cho giáo viên được trả theo kết quả làm việc, đóng cửa những trường gặp rắc rối. Cuốn sách này không có ý nói rằng áp dụng các biện pháp cạnh tranh gắt gao hơn, đòi hỏi nhiều dữ liệu hơn, bâi bỏ công doàn giáo viên, mở nhiều trường công dặc cách hơn, hay áp dụng các mô hình quản lý kiểu các công ty trên thế giới trong hệ thống giáo dục chính là sẽ mang lại giải pháp cho các cuộc khủng hoảng này, mà ngược lại. Thông điệp chính của cuốn sách này là, chúng ta có một cách làm khác để cải thiện các hệ thống giáo dục, khác với tư tưởng cải cách dựa trên thị trường nói đến ở trên. Cách làm khác này bao gồm phát triển đội ngũ giáo viên, hạn chế việc thi cử đến mức tối cần thiết, đặt trách nhiệm và lòng tin lên trên trách nhiệm giải trình, đầu tư vào công bằng trong giáo dục, và giao việc lãnh đạo cấp trường và cấp quận huyện cho các chuyên gia giáo dục có kinh nghiệm. Đây là những nội dung của các chính sách giáo dục phổ biến ở một số nước có thành tích giáo dục cao (trong đó có Phần Lan) trong Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA) 2012 của OECD (2013b; 2013d). Các chương trong sách dẫn giải ra năm lý do khiến Phần Lan là một nguồn cảm hứng thú vị và thích hợp đối với các quốc gia khác đang tìm cách cải thiện hệ thống giáo dục của họ.
Thứ nhất, hệ thống giáo dục của Phần Lan độc đáo ở chỗ nó đã phát triển từ một hệ thống rất bình thường để trở thành một kiểu mẫu giáo dục đương đại và “có kết quả cao” trong khoảng hai thập kỷ từ cuối những năm 1970. Điểm đặc biệt khác nữa là ở chỗ quốc gia này có thể tạo ra một hệ thống giáo dục trong đó học sinh được học tập tốt và nền giáo dục công bằng đã cạo ra rất ít khác biệt trong thành tích học tập giữa các trường ở các vùng khác nhau của đất nước, như đã được chỉ ra trong tất cả các nghiên cứu PISA kể từ năm 2000 đến nay. Địa vị hiếm có trên quốc tế này có được là nhờ Phần Lan sử dụng nguồn lực tài chính hợp lý và ít phải cố gắng hơn các quốc gia khác trong các nỗ lực cải cách.
Thứ hai, nhờ tiến bộ vững chắc đã được chứng minh này, Phần Lan là minh chứng cho thấy có một cách khác để xây dựng một hệ thống giáo dục thành công, đó là sử dụng các giải pháp đi ngược lại với các chính sách giáo dục dựa trên thị trường vốn đã trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Cách thay đổi kiểu Phần Lan này, như mô tả của Andy Hargreaves và Dennis Shirley (2009) trong cuốn Cách Thứ Tư của họ, là cách dựa trên lòng tin, tính chuyên nghiệp và chia sẻ trách nhiệm. Quả thực, về cải cách giáo dục, Phần Lan là ví dụ về một quốc gia không thanh tra trường học, không dựa vào dữ liệu được thu thập từ bên ngoài, không có chương trình học tiêu chuẩn hóa, không có thi cử kiểu “được ăn cả ngã về không”, không áp dụng chế độ trách nhiệm giải trình dựa trên kết quả kiểm tra của học sinh, không có tư duy kiểu chạy đua-lên-đỉnh.
Thứ ba, nhờ vào thành công của mình, Phần Lan có thể gợi mở những phương án tư duy khác về các giải pháp cho các vấn đề giáo dục kinh niên đang tồn tại ở Mỹ, Anh và các nước Bắc Âu khác như: Tỷ lệ bỏ học cao, giáo viên bỏ nghề sớm, và giáo dục đặc biệt còn yếu và thiếu. Các phương pháp tiếp cân của Phần Lan đối với việc giảm tỷ lệ bỏ học sớm, tăng tính chuyên nghiệp của giáo viên, thực hiện chế độ trách nhiệm giải trình thông minh, áp dụng cách đánh giá học sinh thông minh hơn ở trường học có thể là nguồn cảm hứng đối với các hệ thống trường học khác đang loay hoay tìm kiếm con đường đi đến thành công.
Thứ tư, Phần Lan cũng là quốc gia có thành tích quốc tế cao trong thương mại, công nghệ, phát triển bền vững, điều hành chính phủ tốt, thịnh vượng, bình đẳng giới, phúc lợi trẻ em, và do đó, đặt ra những câu hỏi thú vị về mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và các lĩnh vực khác trong xã hội. Có vẻ như các lĩnh vực chính sách công khác như y tế và việc làm cũng đóng một vai trò trong sự nghiệp phát triển và cải cách giáo dục trong dài hạn. Ở Phần Lan, bình đẳng thu nhập, khả năng dịch chuyển xã hội và lòng tin trong xã hội Phần Lan cũng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp này, như các chương tiếp theo sẽ chỉ ra.
Cuối cùng, chúng ta nên lắng nghe câu chuyện Phần Lan vì nó mang lại hy vọng cho những ai đang đánh mất niềm tin vào giáo dục công và việc liệu giáo dục công có thể được cải thiện hay không. Cuốn sách này cho thấy việc thay đổi mạnh mẽ hệ thống giáo dục là điều có thể thực hiện được, nhưng việc đó đòi hỏi phải có thời gian, sự kiên trì và lòng quyết tâm. Câu chuyện
Phần Lan đặc biệt thú vị nhờ vào một số chính sách và thay đổi chủ chốt được áp dụng trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất mà Phần Lan từng chứng kiến kể từ sau Thế chiến Hai. Điều này cho thấy một cuộc khủng hoảng có thể khơi dậy bản năng sinh tồn giúp mang lại những giải pháp tốt hơn cho các vấn đề rất cấp bách so với một “tình huống bình thường” thường mang lại. Cuốn sách này phản đối những ai tin rằng cách tốt nhất để giải quyết các vấn đề kinh niên ở nhiều hệ thống giáo dục là tước quyền điều khiển từ tay ban giám hiệu nhà trường để trao nó cho những ai có thể điều hành nhà trường một cách hiệu quả hơn, thông qua hệ thống đặc quyền hay các hình thức tư nhân hóa khác. Tuy những ý tưởng có thể được chuyển giao từ Phần Lan sang các quốc gia khác chưa nhiều, song một số bài học cơ bản nhất định có thể có giá trị chung cho các hệ thống giáo dục khác, chẳng hạn như các cách thức phát huy thế mạnh của giáo viên, đảm bảo môi trường học tập thư giãn, không gây sợ hãi cho học sinh, và dần dần tăng cường lòng tin bên trong các hệ thống giáo dục.
Như có thể thấy trong cuốn sách này, không có lý giải duy nhất nào cho một hệ thống giáo dục thành công hay thất bại. Thay vào đó, có một mạng lưới các yếu tố đan xen nhau, giáo dục, chính trị, văn hóa, vận hành khác nhau trong các tình huống khác nhau. Tuy nhiên, tôi muốn kể ra ba yếu tố quan trọng trong chính sách giáo dục Phần Lan kể từ đầu những năm 1970 mà có vẻ còn vượt cả yếu tố văn hóa.
Khía cạnh thứ nhất là một tầm nhìn đầy cảm hứng về thế nào là một nền giáo dục công tốt: Phần Lan trước nay vẫn dành cam kết đặc biệt cho việc xây dựng một hệ thống trường cơ sở tốt cho mọi đứa trẻ, do chính phủ đài thọ và do địa phương điều hành. Mục tiêu giáo dục phổ biến này, vốn xem công bằng trong giáo dục là ưu tiên hàng đầu, đã trở nên bám rễ vào nền chính trị và dịch vụ công ở Phần Lan sâu đến mức nó vẫn tồn tại nguyên vẹn, không suy suyển qua nhiều đời chính phủ và các bộ thuộc các phe phái chính trị đối lập. Kể từ khi hệ thống peruskoulu được đưa vào áp dụng đầu những năm 1970, đã trải qua 20 chính quyền đại diện cho các màu sắc chính trị khác nhau và 27 bộ trưởng giáo dục phụ trách cải cách giáo dục ở Phần Lan. Cam kết có một trường công thật tốt cho mọi đứa trẻ đã trở nên mạnh mẽ đến mức có người gọi nó là Giấc mơ Phần Lan. Cái tên này là một gợi ý cho các quốc gia khi nói đến cải cách giáo dục: Tốt hơn nên có một giấc mơ của riêng bạn thay vì đi vay mượn giấc mơ của người khác.
Khía cạnh thứ hai của cải cách giáo dục Phần Lan đáng được chú ý là cách mà quốc gia này xử trí với những lời khuyên của bạn bè và các nước láng giềng. Cảm hứng để Phần Lan xây dựng một nhà nước độc lập kể từ năm 1917 chủ yếu là đến từ các đồng minh của mình, nhất là Thụy Điển. Mô hình nhà nước phúc lợi, hệ thống chăm sóc sức khỏe và giáo dục cơ bản là những ví dụ điển hình về các ý tưởng được vay mượn từ người hàng xóm phía tây của chúng tôi. Sau này, các chính sách giáo dục của Phần Lan cũng chịu ảnh hưởng từ vai trò dẫn đường
của các tổ chức đa quốc gia, nhất là OECD (Phần Lan gia nhập năm 1969) và Liên minh Châu Âu (Phần Lan gia nhập năm 1995). Trong cuốn sách này, tôi đưa ra một luận điểm là, bất chấp ảnh hưởng quốc tế và việc vay mượn ý tưởng giáo dục từ các nước khác, Phần Lan cuối cùng đã tìm ra cách của riêng mình để xây dựng hệ thống giáo dục mà ngày nay đang tồn tại. Tôi gọi đây là “Cách thức Phần Lan” vì nó khác với cái mà phần lớn phần còn lại của thế giới đã làm trong lĩnh vực cải cách giáo dục trong 25 năm qua. Phương thức khác biệt của Phần Lan là duy trì những truyền thống tốt nhất và những tập quán đang tốt đẹp ở hiện tại rồi kết hợp chúng với những ý tưởng sáng tạo tiếp thu từ các nước khác. Xây dựng lòng tin, tăng cường tính tự chủ, và dung hòa sự đa dạng chỉ là một vài ví dụ về những ý tưởng cải cách ở nhà trường Phần Lan ngày nay. Nhiều ý tưởng sư phạm và sáng kiến giáo dục ban đầu được du nhập từ các nước khác, thường là từ Bắc Mỹ hay Vương quốc Anh, chẵng hạn như mô hình chương trình học của Anh, California và Ontario; cộng tác trong học tập của Mỹ và Israel; đánh giá tổ hợp của Mỹ; việc dạy khoa học và toán học của Anh, Mỹ và Úc; lãnh đạo có hỗ trợ của chính sinh viên của Canada và Hà Lan; và nhiều ý tưởng khác. Đồng thời, Giấc mơ giáo dục Phần Lan được “làm tại Phần Lan” và do đó thuộc về người Phần Lan chứ không phải được thuê mượn từ những nước khác.
Khía cạnh thứ ba trong cuộc cải cách là việc phát triển có hệ thống các điều kiện làm việc tôn sư trọng đạo và gây cảm hứng cho giáo viên cùng hiệu trưởng của các trường học Phần Lan.
Cuốn sách này đặt ra một câu hỏi quan trọng vẫn hay được nhắc lại khi bàn đến cải cách giáo dục toàn hệ thống: Làm thế nào chúng ta thu phục được những thanh niên ưu tú nhất, thông minh nhất chọn dạy học làm nghiệp cho mình? Kinh nghiệm từ Phần Lan, như được minh họa trong Chương 3, cho thấy nếu chỉ xây dựng chương trình đào tạo giáo viên đẳng cấp thế giới hay trả thù lao hậu hĩnh cho giáo viên thì chưa đủ: Đúng là Phần Lan đã xây dựng được chương trình đào tạo giáo viên đẳng cấp thế giới; Phần Lan trả lương cao cho giáo viên. Sự khác biệt đích thực nằm ở chỗ, giáo viên ở Phần Lan được kỳ vọng phát huy tối đa kiến thức nghề nghiệp và khả năng suy xét một cách vừa trên cơ sở độc lập vừa dựa trên tập thể ở trong nhà trường của họ. Họ kiểm soát các chương trình học, hoạt động đánh giá học sinh, cải thiện trường học và sự tham gia của cộng đồng. Đây được gọi là tính chuyên nghiệp của giáo viên. Cũng giống như giáo viên khắp thế giới bước chân vào nghề giáo với sứ mệnh xây dựng cộng đồng và truyền bá văn hóa, nhưng giáo viên Phần Lan, trái với đồng nghiệp của họ ở rất nhiều nước, có những quyền tự do và thẩm quyền để đi đến cái đích của nghề nghiệp.
HỌC TỪ CÁC NƯỚC KHÁC
Phần Lan có thể là mô hình cải cách giáo dục cho các nước khác được không? Nhiều người lấy làm thích thú với thực tế là Phần Lan đã thành công trong việc biến đổi hệ thống giáo dục của mình từ một cái gì đó chỉ dành cho số ít tinh hoa, cái gì đó vô danh và không hiệu quả trở thành một ví dụ mẫu mực về sự
công bằng và tính hiệu quả (Schleicher, 2006). Phần Lan cũng là một trong số ít 34 quốc gia thành viên OECD thành công trong việc cải thiện kết quả giáo dục, được đo bằng các chỉ số quốc tế và các bài kiểm tra thành tích của học sinh. Hơn nữa, nhiều vị khách nước ngoài đã rất ngạc nhiên khi biết rằng dạy học đã trở thành nghề nghiệp đứng số một đối với người trẻ ở Phần Lan, trên cả nghề y và nghề luật, và rằng ngành sư phạm tiểu học ở các trường đại học ở Phần Lan là một trong những ngành học có mức độ cạnh tranh cao nhất. Tất cả các khía cạnh này của hệ thống giáo dục Phần Lan được phân tích kỹ hơn trong cuốn sách này.
Tuy nhiên, có người hồ nghi rằng có phải hệ thống của Phần Lan không có nhiều điểm phù hợp lắm để áp dụng cho các hệ thống giáo dục khác do những tính chất đặc thù của đất nước này. Lập luận phổ biến nhất của họ là: Phần Lan quá đặc thù nên hệ thống giáo dục của nó gần như không có ý nghĩa gì với nước Mỹ, Anh, Úc, Pháp hay các quốc gia khác có tầm vóc hơn nhiều, và Phần Lan cũng “quá khác biệt để trở thành mô hình cho công cuộc cải cách toàn hệ thống ở Bắc Mỹ” như Michael Fullan (2010, trang xiv) viết. Có hai điểm thường được nhấn mạnh khi cân nhắc xem Phần Lan có phải là mô hình phù hợp cho cải cách giáo dục không.
Thứ nhất, Phần Lan vẫn còn khá đồng nhất về mặt văn hóa và chủng tộc và do đó quá khác biệt so với Mỹ, chẳng hạn thế. Cũng đúng, tuy nhiên, Nhật Bản, Thượng Hải, Hàn Quốc, Estonia hay Ba Lan cũng giống Phần Lan về điểm này. Tỷ lệ
công dân gốc nước ngoài của Phần Lan là 5,2% năm 2013 và tỷ lệ công dân không nói tiếng Phần Lan chỉ chiếm trên 10% (Thống kê Phần Lan, 2014a). Đáng chú ý là Phần Lan là một đất nước nói ba ngôn ngữ, đều là ngôn ngữ chính thức: Tiếng Phần Lan, tiếng Thụy Điển và tiếng Sami. Cộng đồng thiểu số ngôn ngữ và sắc tộc lớn nhất ở Phần Lan là Nga, Estonia và Somali. Quá trình đa dạng hóa của xã hội Phần Lan từ giữa thập niên 1990 diễn ra nhanh nhất Châu Âu, với tốc độ 800%. Khi tôi bắt đầu bước vào sự nghiệp giảng dạy ở Helsinki giữa thập niên 1980, trong lớp của tôi hiếm có ai có ngoại hình hoặc nói thứ tiếng khác so với những người khác. Vậy mà đến thập kỷ đầu của thế kỷ 21, số lượng công dân gốc ngoại quốc của Phần Lan đã tăng gần gấp ba. Phần Lan không còn đồng chủng nữa, nhưng, tất nhiên, vẫn chưa thể so sánh với Mỹ hay Úc như một quốc gia đa văn hóa xét về sự đa dạng sắc tộc.
Thứ hai, Phần Lan được coi là quá nhỏ để trở thành một mô hình tốt cho cải cách toàn hệ thống ở Bắc Mỹ. Lập luận này hiểm hóc và khó bảo vệ hơn. Khi xem xét yếu tố quy mô trong cải cách giáo dục, cần lưu ý là nhiều quốc gia liên bang, các bang, tỉnh hay địa phương tương đối được tự chủ trong việc quản lý giáo dục và điều hành các trường học. Trường hợp này cũng giống với Mỹ, Canada, Ưc, Brazil và Đức. Dân số Phần Lan ngày nay là 5,5 triệu người, xấp xỉ dân số bang Minnesota ở Mỹ hay Victoria ở Úc, và nhỉnh hơn một chút so với dân số của Alberta ở Canada hay Nord-Pas-de-Calais ở Pháp. Quả thật, khoảng 30 bang ở nước Mỹ có dân số gần bằng hoặc nhỏ hơn dân số Phần Lan,
trong đó bao gồm bang Maryland, Colorado, Oregon và Connecticut. Dân số các bang Washington, Indiana và Massachusetts cũng tương đối nhỏ và gần bằng dân số Phần Lan. Ở Úc, chỉ có bang New South Wales có dân số nhỉnh hơn một chút so với dân số Phần Lan; và tất cả các bang còn lại của úc đều nhỏ hơn. Ở Pháp, Ile-de-France là vùng duy nhất vượt qua Phần Lan về quy mô dân số. Ở Canada, chỉ Ontario là lớn hơn đáng kể về dân số (và diện tích) so với Phần Lan; tất cả các tỉnh còn lại có quy mô tương đương. Nếu những chính quyền này được tự do xây dựng chính sách giáo dục của riêng mình và tiến hành những cải cách mà họ cho là tốt nhất thì những kinh nghiệm của một hệ thống giáo dục có quy mô tương tự hệ thống giáo dục của Phần Lan sẽ đặc biệt lý thú và phù hợp với họ. Pháp là nước duy nhất trong số các nước nói trên áp dụng phương pháp quản lý giáo dục tập trung, và do đó các nhà hoạch định chính sách giáo dục Pháp có thể cãi rằng những hệ thống giáo dục nhỏ hơn không phải là mô hình phù hợp cho những cải cách của họ.
Cuối cùng, có một số người nghi ngại những so sánh quốc tế không phù hợp hoặc không đáng tin cậy như những gì chúng được mặc nhận. Một quan điểm cho rằng các bài kiểm tra thành tích học tập như PISA của OECD, Nghiên cứu Xu hướng trong Toán học và Khoa học Quốc tế (TIMSS - Trends in International Mathematics and Science Study) và Nghiên cứu Tiến bộ trong Năng lực Đọc Quốc tế (PIRLS - Progress in International Reading Literacy Study) tập trung vào những lĩnh vực quá hẹp
để phản ánh được cả một bức tranh tổng thể của giáo dục nhà trường, và do đó bỏ lơ đi các kỹ năng xã hội, việc trau dồi đạo đức, tính sáng tạo, hiểu biết về máy tính và không xem chúng là những kết quả quan trọng của giáo dục công cho mọi người (về lập luận này, xem Chương 2). Người ta cũng càng ngày càng quan ngại về việc những so sánh quốc tế này đang chi phối chính sách giáo dục và cổ súy cho nền văn hóa “quản trị bằng con số” (Grek, 2009; Meyer & Benavor, 20131; Zhao, 2014). Một nhóm hoài nghi khác (nhóm này bao gồm các nhà khoa học và chuyên gia Phần Lan và nước ngoài* thuần túy lập luận rằng các phương pháp đánh giá được chọn áp dụng trong các bài kiểm tra quốc tế hiện tại đang thiên vị Phần Lan vì chúng trùng khớp với văn hóa giảng dạy ở Phần Lan hơn. Gần đây, Howard Gardner của Trường Harvard cảnh báo các khán thính giả của ông ở Phần Lan nên thận trọng với những nghiên cứu đánh giá học sinh hiện tại kiểu này*, bởi ông cam đoan rằng kết quả trong những nghiên cứu này luôn phụ thuộc vào lĩnh vực kiến thức được kiểm tra và phương pháp nghiên cứu được sử dụng. Thêm vào đó, những nghiên cứu này không đo lường kỹ năng giao tiếp, kỹ năng không gian hay kỹ năng sáng tạo, trong khi những bộ kỹ năng này đang giữ vai trò ngày càng quan trọng trong thế giới đương đại của chúng ta. Dường như có một lực lượng ngày càng đông đảo những người hoài nghi về độ tin cậy của PISA và những người thách thức trật tự thế giới giáo dục mới vốn được thiết lập trên một phạm vi rộng lớn nhờ vào duy nhất phương pháp đánh giá này.
Dù liên tục đạt thành tích cao hơn các quốc gia khác song những thành tựu của Phần Lan bị coi nhẹ trong rất nhiều các báo cáo của chính sách được đề xuất. Ví dụ, trong một báo cáo có uy tín lớn do McKinsey and Company thực hiện (Mourshed, Chijioke & Barber, 2010), Phần Lan thậm chí còn không được coi là “quốc gia mức cải thiện bền vững” trong danh sách các nước hình mẫu tiềm năng trong cải cách giáo dục. Kết quả là các nhà hoạch định chính sách trong nhiều bối cảnh sẽ không xem xét chiến lược của Phần Lan khi họ xây dựng “vốn tiết mục” các tập quán cải thiện trường học. Các chiến lược giáo dục quốc gia và hướng dẫn chính sách gần đây, chẳng hạn như Sách trắng trường học (Schools White Paper) 2010 ở Anh (Bộ Giáo dục, 2010), Bài học từ PISA đối với nước Mỹ (Lessons from PISA for the United States) (OECD, 2013f) và Chiến lược Giáo dục Ngân hàng Thế giới 2020 (Ngân hàng Thế giới, 2011) thường viện dẫn những đặc điểm chung của các hệ thống giáo dục đạt kết quả cao như những tiêu chí đáng mơ ước cho việc cải thiện giáo dục. Mọi sự tập trung vào hiệu quả giáo viên, tự chủ trường học, trách nhiệm giải trình và dữ liệu đều là những yếu tố trọng tâm của hệ thống giáo dục ở Hàn Quốc, Singapore, Alberta và Phần Lan, nhưng theo những cách rất khác nhau. Như cuốn sách này sẽ còn nhắc đi nhắc lại, nét độc đáo nằm ở chỗ Phần Lan sử dụng chính những khía cạnh này của chính sách giáo dục như thế nào. Kinh nghiệm Phần Lan cho thấy, nếu có sự tập trung nhất quán vào yếu tố công bằng và hợp tác trong giáo dục, chứ không phải chọn lọc và ganh đua, có thể dẫn tới một hệ thống giáo dục
trong đó mọi học sinh đều được học hành đâu vào đấy. Trả lương giáo viên dựa trên điểm thi của học sinh hay biến trường công thành trường tư thông qua quyết định nhượng đặc quyền của chính phủ hay các hình thức khác là những ý tưởng không có chỗ đứng trong “vốn tiết mục” cải thiện giáo dục của Phần Lan.
Quy mô dân số Phần Lan và tính đồng chủng tương đối của xã hội Phần Lan rõ ràng biến nhiều khía cạnh của việc xây dựng chính sách giáo dục và tiến hành cải cách trở nên dễ dàng hơn so với ở những nước lớn hơn, đa dạng hơn. Nhưng chỉ những yếu tố này không thôi không giải thích được tất cả sự tiến bộ và thành tựu của giáo dục Phần Lan như được mô tả trong cuốn sách này, và chúng ta không nên để những yếu tố này cản trở chúng ta học hỏi lẫn nhau trong nỏ lực cải thiện một nền giáo dục chung cho mọi học sinh. Tuy nhiên, Phần Lan độc đáo so với các quốc gia khác xét về các giá trị, các yếu tố quyết định văn hóa và sự gắn kết xã hội, như Andre Noel Chaker mô tả đầy thuyết phục trong cuốn sách của ông, Phép màu Phần Lan (The Finnish Miracle ) (2011/2014). Công bằng, trung thực, bình đẳng xã hội đã ăn sâu vào cách sống của người Phần Lan. Người dân có ý thức chia sẻ trách nhiệm cao, không chỉ với cuộc sống của riêng họ mà còn với cuộc sống của người khác. Việc chăm lo cho đời sống an sinh của trẻ em bắt đầu từ trước khi chúng ra đời và tiếp tục cho đến khi chúng trưởng thành. Mọi trẻ em trước khi cắp sách đến trường vào năm bảy tuổi đều được hưởng quyền được chăm nom, và suốt thời thơ ấu của mình tất cả mọi người
Phần Lan đều được tiếp cận dễ dàng với dịch vụ y tế công. Giáo dục ở Phần Lan được nhìn nhận rộng rãi là công ích của nhà nước và do đó được hiến pháp bảo vệ như một quyền con người cơ bản cho tất cả mọi người. “Bé nhưng bé hạt tiêu” và “Chất hơn là lượng” là những ngạn ngữ điển hình về văn hóa thường nhật ở Phần Lan.
Trong cuốn sách này, tôi mô tả cách người Phần Lan xây dựng một đất nước vận hành tốt, bền vững, công bằng nơi có một hệ thống giáo dục công lập bình đẳng thông qua những cách của riêng họ. Phái đoàn Thương hiệu Quốc gia của chính phủ Phần Lan do cựu CEO của Nokia là Jorma Ollila làm chủ tịch viết năm 2010 rằng “ở Phần Lan, mọi người không thích làm mọi thứ theo cách người khác hay làm, từ cách ăn mặc cho đến lối sống. Người Phần Lan làm những gì họ cho là điều hợp lý để làm, chứ không phải ‘điều người ta đã làm’ (Bộ Ngoại giao, 2010, trang 59). Cá tính mạnh mẽ của người Phần Lan, cùng với sự phân tầng xã hội rất nhỏ, cộng với truyền thống sẵn sàng cộng tác với người khác đã mở đường cho vô số tiềm năng sáng tạo. Cảm hứng và tầm nhìn để xây dựng một xã hội với một hệ thống giáo dục tốt và dễ tiếp cận cho tất cả mọi người được rút ra từ kho tiềm năng sáng tạo này.
Dữ liệu cho cuốn sách này không đến từ một nguồn duy nhất, và cuốn sách này cũng không tuyên bố rằng sự xuất sắc trong giáo dục có thể được chứng minh bằng bất cứ một nghiên cứu quốc tế nào. Bằng cứ cho cuốn sách được lấy từ những cơ sở dữ liệu quốc tế có sẵn như PISA và TIMSS, từ các chỉ số giáo dục
toàn cầu và từ các số liệu thống kê chính thức đa tác dụng ở Phần Lan.
CƠ CẤU CUỐN SÁCH
Ấn bản đầu tiên của Bài học Phần Lan cho tôi cơ hội tiếp cận những cuộc đàm luận rất hay, rất chi tiết về thay đổi giáo dục nói chung và mô hình giáo dục Phần Lan nói riêng. Ấn bản thứ hai này bao gồm dữ liệu được cập nhật về các thành quả quốc tế, những mô tả chi tiết hơn về bình đẳng trong giáo dục Phần Lan, sơ đồ được chỉnh sửa của cấu trúc hệ thống giáo dục Phần Lan sau những cải cách thực hiện năm 2013. Tôi cũng sẽ trả lời câu hỏi mà nhiều người đã hỏi tôi từ khi kết quả của PISA 2012 được công bố: Điều gì giải thích cho sự sa sút của Phần Lan trong bảng xếp hạng PISA toàn cầu?
Cuốn sách này được đúc rút từ 10 ý tưởng dưới đây, được giải thích chi tiết trong cuốn sách:
1. Phần Lan có một hệ thống giáo dục mà ở đó người trẻ học tập tốt và những khác biệt về kết quả giữa các trường học là nhỏ, và mọi điều đều đạt được chỉ với chi phí và nỗ lực con người hợp lý.
2. Điều này không phải lúc nào cũng vậy.
3. Ở Phần Lan, dạy học là một nghề có thanh thế, và nhiều người trẻ Phần Lan mong muốn trở thành giáo viên. 4. Do đó, người Phần Lan có lẽ có hệ thống đào tạo sư phạm cạnh tranh nhất và thách thức nhất về mặt học thuật trên thế giới.
5. Do đó, giáo viên ở Phần Lan có rất nhiều tự chủ trong công việc và được phát triển nghề nghiệp có chủ đích trong suốt sự nghiệp của họ.
6. Các chính sách giáo dục Phần Lan từ những năm 1970 đã nhắm đến mục đích xây dựng một ngôi trường tốt cho mọi đứa trẻ thay vì một ngôi trường xếp hạng cao trên các bảng xếp hạng giáo dục quốc tế.
7. Gần một nửa số học sinh Phần Lan 16 tuổi, khi hoàn thành giáo dục bắt buộc, nhận được giáo dục đặc biệt, trợ giúp mang tính cá nhân hóa hay hướng dẫn riêng trong thời gian ở trường.
8. Ở Phần Lan, giờ lên lớp của giáo viên ít hơn và học sinh dành ít thời gian cho việc học hơn, cả trong lẫn ngoài trường, so với giáo viên và học sinh ở các nước khác.
9. Trường học Phần Lan không áp dụng thi cử tiêu chuẩn hóa dựa trên điều tra dân số, luyện thi, hay phụ đạo riêng, phổ biến ở Mỹ và phần lớn phần còn lại của thế giới.
10. Tất cả những yếu tố đằng sau thành công của Phần Lan dường như ngược lại với những gì đang diễn ra ở Mỹ và phần lớn phần còn lại của thế giới, nơi dường như tinh thần ganh đua, trách nhiệm giải trình dựa trên bài kiểm tra, sự tiêu chuẩn hóa và tư nhân hóa đang ngự trị.
Sau phần Giới thiệu này, cuốn sách được chia làm năm chương. Chương 1 giải thích thực trạng chính trị và lịch sử của Phần Lan sau Thế chiến Hai và thực tế này đã định hình cho bước chuyển dịch tiến tới một nhà trường cơ bản chung cho mọi
người như thế nào vào cuối những năm 1960. Khi kể câu chuyện về sự thay đổi giáo dục ở Phần Lan cho vài chục vị khách nước ngoài, tôi đã nhận ra rằng điều quan trọng là phải lội ngược dòng thời gian, về trước cả thời điểm ra đời của peruskoulu* (tôi sử dụng từ Phần Lan này vì không có từ tiếng Anh tương đương) năm 1970. Chương 1 minh họa quá trình cải cách hệ thống nhà trường cũ, vốn chia học sinh theo hai hướng và dựa rất nhiều vào các trường chuyên* tư nhân điều hành và nhà nước-tư nhân đồng tài trợ thành các trường hỗn hợp nhà nước quản lý và chi trả toàn bộ. Chương 1 cũng phác thảo những đặc điểm chính của hệ thống giáo dục hậu giáo dục bắt buộc (ra đời không lâu sau khi cải cách peruskoulu được tiến hành cuối những năm 1970). Những đặc điểm chính của Kỳ thi Tuyển sinh Đại học Phần Lan quan trọng, kỳ thi kết thúc cấp trung học phổ thông ở Phần Lan, cũng được mô tả trong chương này.
Chương 2 giải quyết một câu hỏi căn bản: Có phải trong quá khứ Phần Lan cũng từng có kết quả cao trong giáo dục? Câu trả lời trong chương này giống như dự doán: không. Câu trả lời này lập tức nảy sinh một câu hỏi hệ luận: Điều gì làm nên một hệ thống giáo dục tốt và những cải cách giáo dục nào đã mang lại tiến bộ ấn tượng như vậy ở Phần Lan? Nội dung cốt lõi của chương này là sự thấu triệt rằng thành công của giáo dục Phần Lan trong những so sánh quốc tế, ít nhất ở mức độ nào đó, có thể được hiểu thông qua các nghịch lý. Chúng ta có thể đúc rút ý tưởng này bằng một nguyên tắc đơn giản trong cải cách giáo dục: “Chất lượng hơn số lượng”. Chương 2 cung cấp các ví dụ có
xác cứ về việc ý tưởng nghịch lý này xuất hiện như thế nào trong hệ thống giáo dục Phần Lan ngày nay.
Chương 3 nói về giáo viên và nghề giáo viên ở Phần Lan. Chương này phân tích vai trò rất quan trọng của giáo viên ở Phần Lan và mô tả những đặc điểm chính của nghề sư phạm, công tác đào tạo giáo viên và trách nhiệm của giáo viên ở Phần Lan. Chương này gợi ý rằng tuy công tác đào tạo sư phạm chất lượng cao ở bậc đại học và bổ túc nghề nghiệp liên tục là những điều kiện cần để thu hút những người trẻ tài năng nhất và tận tâm nhất vào nghề dạy học, song chưa phải là điều kiện đủ. Giáo viên phải có môi trường làm việc chuyên nghiệp để họ cảm thấy được trọng vọng và có thể thực hiện được các mục đích đạo đức trong nhà trường. Chương này cũng thảo luận vấn đề giáo viên với tư cách lãnh đạo và những biểu hiện của điều đó trong các giáo viên Phần Lan, bao gồm cả những phát hiện của Cuộc Điều tra Quốc tế về Dạy và Học của OECD (TALIS) 2013 về nghề sư phạm ở Phần Lan.
Kể từ sự phục hồi kinh ngạc của Phần Lan sau cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng đầu những năm 1990, và gần đây hơn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhiều người đã nói về mô hình Phần Lan trong việc xây dựng một xã hội thông tin toàn diện và một nền kinh tế tri thức cạnh tranh (Castells & Himanen, 2002; Dahlman, Routti, & Yla-Anttila, 2006; Halme và cộng sự, 2014). Điều có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế của Phần Lan là, khi nền kinh tế Phần Lan và nhất là khu vực công đang điều chỉnh để thích ứng với cạnh
tranh ngày càng gay gắt hơn và để đạt năng suất cao hơn, thì cùng lúc đó hệ thống giáo dục cũng có những cải thiện vững chắc. Chương 4 minh họa một số mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chính sách giáo dục Phần Lan và các chính sách khu vực công khác cùng đang là trọng tâm của sự phục hồi kinh tế. Hơn nữa, chương này gợi ý rằng, tiến bộ trong ngành giáo dục diễn ra đồng thời với những thay đổi trong hoạt động điều hành của chính phủ, những thay đổi đã làm cải thiện năng lực cạnh tranh kinh tế, tính minh bạch và chính sách phúc lợi.
Cuối cùng, Chương 5 nêu lên câu hỏi mà, thật đáng ngạc nhiên, hiếm khi các vị khách đặt ra đối với người Phần Lan: Tương lai của giáo dục nhà trường ở Phần Lan là gì? Nằm ở tâm điểm chú ý toàn cầu cũng có cái giá của nó. Tuy người Phần Lan đã tổ chức hàng nghìn chuyến tham quan giáo dục cho các đoàn giáo dục nước ngoài từ cuối năm 2001 song lại chỉ có rất ít thời gian và năng lượng để định hình về hệ thống giáo dục tương lai của chính họ. Những dấu hiệu đầu tiên của tác động này được nhắc tới trong nghiên cứu PISA 2009 và được tái khẳng định trong phân tích PISA 2012. Chương 5 kết thúc bằng việc khẳng định rằng bài học quan trọng rút ra cho Phần Lan từ chính quá khứ của nó là Phần Lan cần phải biết rõ tiếp theo đây cần phải làm gì. Tôi kết luận rằng chính vai trò Trung tâm trong cuộc tranh luận về cải cách giáo dục đã ngăn cản người Phần Lan tư duy về một mô hình giáo dục cần thiết trong tương lai. Chương này khép lại bằng việc thảo luận sự cần thiết phải cải cách, bất
chấp thực tế là hệ thống hiện tại đang được ca tụng vì sự ưu việt và dường như nó vẫn đang vận hành tốt.
Có một điểm lưu ý quan trọng mà người đọc cuốn sách này cần ghi nhớ. Trong nghiên cứu của tôi, tôi lấy dữ liệu chủ yếu từ các cơ sở dữ liệu của OECD và Thống kê Phần Lan vẫn được phổ biến công khai cho những độc giả quan tâm. Tôi đã lập các biểu đồ chỉ ra mối tương quan hay không tương quan giữa hai biến số, ví dụ, mối quan hệ giữa chi phí giáo dục và thành quả giáo dục ở các nước khác nhau. Theo đạo lý ngàn đời trong thống kê và khoa học, tương quan không nhất thiết hàm ý quan hệ nhân quả; điểm này cũng phải được lưu ý khi đọc cuốn sách này. Điều đó có nghĩa là, kể cả nếu có một mối tương quan giữa hai biến số, điều ấy cũng không mặc nhiên được hiểu là biến số này gây ra biến số kia. Quan hệ tương quan là cần thiết cho quan hệ nhân quả tuyến tính, và tương quan thường gợi ý rằng quả thực biến số này gây ra biến số kia. Hình 2.8, 2.10, 4.1 và 5.1 minh họa những mối tương quan tuyến tính như vậy.
CHƯƠNG 1
Giấc mơ Phần Lan
MỘT TRƯỜNG HỌC TỐT CHO MỌI NGƯỜI
Lạy Chúa lòng lành! Có một thực tế là chúng ta thậm chí còn không biết chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái là gì, trong khi biết đọc là nghĩa vụ đầu tiên của mọi công dân Công giáo. Quyền lực của pháp luật, của giáo luật nhà thờ, có thể buộc chúng ta phải làm việc đó. Và bạn biết loại mày nào Nhà nước dùng để theo dõi, chực ngoạm lấy chúng ta giữa hai hàm của nó nếu chúng ta không ngoan ngoãn học đọc rồi đấy! Những cái cùm đang đợi chúng ta, những người anh em của tôi ơi, những cái cùm đen; những cài hàm dữ tợn của chúng ngoác ra như hàm gấu đen. Vị mục sư trưởng đã dọa chúng ta bằng những gọng kìm gớm ghiếc kia, và ông ta chắc chắn sẽ thực hiện lời đe dọa trừ phi ông ta thấy chúng ta say sưa học tập mỗi ngày.
“Bảy người anh em” (Seven Brothers). Aleksis Kivi
Câu chuyện về Phần Lan là câu chuyện về sự sinh tổn. Câu chuyện này được Aleksis Kivi kể hùng hổn trong tiểu thuyết tiếng Phần Lan đầu tiên, Bảy người anh em, xuất bản năm 1870. Câu chuyện kể về mấy anh em trai mồ côi cha mẹ, họ nhận ra rằng biết đọc biết viết là chìa khóa dẫn đến hạnh phúc và một cuộc sống tốt đẹp. Từ những ngày đó đến nay, đọc là một phần không thể tách rời trong văn hóa Phần Lan. Giáo dục đã trở
thành một chiến lược cốt yếu để xây dựng một xã hội biết đọc biết viết và một quốc gia mà ngày nay được thế giới biết tới vì những thành tựu văn hóa và công nghệ của mình. Do đó, Bảy người anh em nằm trong danh sách những tác phẩm nòng cốt ở hầu hết các nhà trường Phần Lan ngày nay.
Vị thế của một quốc gia tương đối nhỏ nằm kẹp giữa các cường quốc lớn hơn nhiều ở phía Đông và phía Tây đã dạy cho Phần Lan học cách chấp nhận thực tế đang tồn tại và thử vận may với những cơ hội sẵn có. Ngoại giao, hợp tác, giải quyết vấn đề và tìm kiếm sự đồng thuận, do đó, đã trở thành những đặc trưng của văn hóa Phần Lan đương đại. Những nét đặc trưng này đóng một vai trò quan trọng trong việc gây dựng lên một hệ thống giáo dục đã thu hút sự chú ý toàn cầu nhờ vào việc phân bổ một cách công bằng việc dạy tốt, học tốt trên toàn đất nước.
Chương này mô tả con đường Phần Lan tiến lên như thế nào từ một nước nông nghiệp nghèo, với một nền giáo dục khiêm tốn thành một xã hội tri thức, hiện đại, với một hệ thống giáo dục đạt hiệu suất cao và một môi trường đổi mới sáng tạo đẳng cấp thế giới. Mở rộng phạm vi tiếp cận đối với giáo dục từ giáo dục mầm non cho tới những bằng cấp học thuật cao nhất và giáo dục người trưởng thành đã là một lý tưởng ra đời từ lâu trong xã hội Phần Lan. Chương này bắt đầu bằng việc đưa ra bối cảnh lịch sử và chính trị chi tiết cho việc hiện thực hóa Giấc mơ Phần Lan này, tiếp đến, mô tả quá trình phát triển của một hệ thống thống nhất các trường phổ thông thành trường phổ thông hỗn hợp, hay còn gọi là peruskoulu trong tiếng Phần Lan, và một
số nguyên tắc của giáo dục trung học phổ thông vốn là một phần quan trọng dẫn đến thành công của Phần Lan trong giáo dục. Các cấu trúc và chính sách hiện tại của hệ thống giáo dục Phần Lan được mô tả vắn tắt ở phần cuối chương này.
PHẦN LAN THỜI HẬU CHIẾN
Chiến tranh được liệt vào một trong những khủng hoảng nghiêm trọng nhất có thể tưởng tượng được đối với bất kỳ quốc gia dân chủ nào. Trừ một khoảng thời gian ngắn đình chiến, Phần Lan ở trong tình trạng chiến tranh từ tháng Mười hai năm 1939 đến mùa xuân năm 1945. Cái giá của chiến tranh đối với một nền dân chủ độc lập, non trẻ, với dân số chưa đến bốn triệu người đó thật tàn khốc: 90.000 người chết và 60.000 người bị thương tật vĩnh viễn. Ngoài ra, 25.000 bị mất vợ, mất chồng, và 50.000 trẻ em trở thành mồ côi. Hòa ước với Liên bang Xô-viết đã được ký ở Mát-xcơ-va ngày 19 tháng Chín năm 1944, nhưng các chiến dịch quân sự nhằm đẩy lùi quân Đức khỏi lãnh thổ Phần Lan vẫn tiếp diễn tới tận tháng Tư năm 1945. Những điều kiện mà Phần Lan phải chấp nhận thật hà khắc: Phải nhượng 12% lãnh thổ của mình cho chính phủ Liên Xô và phải tái định cư 450.000 người tương đương với 11% tổng dân số Phần Lan; những nhượng bộ của Phần Lan cho chính phủ Liên Xô ước tính lên tới xấp xỉ 7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này: Một bán đảo gần Helsinki buộc phải cho quân đội Xô-viết thuê làm căn cứ quân sự; tù nhân chính trị phải được phóng thích; các nhà lãnh đạo thời chiến bị đưa ra xét xử tại các tòa án chiến
tranh; một vài hiệp hội chính trị bị cấm, và Đảng Cộng sản được thành lập như một thực thể chính trị Phần Lan hợp pháp. Những nhượng bộ này dẫn tới những thay đổi căn bản về chính trị, kinh tế, văn hóa tới mức một số người đã coi kỷ nguyên hậu chiến là sự ra đời của một “nền cộng hòa thứ hai”*.
Điều quan trọng nhất là, Phần Lan đã chiến đấu cho tự do của mình và đã sống sót. Các mối đe dọa từ bên ngoài trong và sau Thế chiến Hai đã đoàn kết người Phần Lan vẫn còn chưa nguôi ngoai từ những vết thương của cuộc nội chiến 1918 trước đó lại với nhau. Kỷ nguyên hậu Thế chiến Hai là kỷ nguyên của bất ổn chính trị và thay đổi mạnh mẽ về kinh tế, song nó cũng tạo dà cho các lý tưởng và chính sách xã hội mới, nhất là ý tưởng về cơ hội giáo dục bình đẳng. Thật khó mà hiểu được tại sao giáo dục lại trở thành một trong những thương hiệu của Phần Lan nếu không xem xét những diễn biến chính trị và xã hội hậu Thế chiến Hai này. Thậm chí trong chính những người Phần Lan vẫn có người cho rằng công cuộc tìm kiếm các yếu tố thành công chủ chốt trong hệ thống giáo dục Phần Lan phải được nới rộng ra về thời gian, sớm hơn nhiều so với năm 1970, thường được xem là dấu mốc lịch sử trong nền giáo dục Phần Lan, và những lý do cho điều này sẽ được giải thích sau trong chương này.
Lịch sử thường dễ hiểu hơn khi nó được chia thành các thời kỳ hoặc giai đoạn phát triển, và lịch sử gần đây của Phần Lan không nằm ngoài chiến lược này. Tùy vào mục đích và góc nhìn của người kể, có nhiều cách để kể về lịch sử của Phần Lan, song
trong trường hợp này, cách hữu ích nhất là chia lịch sử phát triển hệ thống giáo dục Phần Lan thành ba giai đoạn tương quan với ba giai đoạn phát triển kinh tế sau Thế chiến Hai như sau:
• Gia tăng cơ hội bình đẳng trong giáo dục trong quá trình quá độ từ một quốc gia nông nghiệp phương bắc lên thành một xã hội công nghiệp hóa (1945-1970)
• Tạo ra một hệ thống trường công toàn diện trong bối cảnh của một xã hội phúc lợi Bắc Âu có khu vực dịch vụ ngày càng phát triển và trình độ công nghệ và đổi mới công nghệ ngày càng cao (1965-1990)
• Cải thiện chất lượng giáo dục cơ bản và mở rộng giáo dục đại học để bắt nhịp với bản sắc mới của Phần Lan với tư cách một nền kinh tế tri thức, công nghệ cao (1985-hiện tại) (Sahlberg, 2010a)
Thập niên 1950 vốn đã là thời kỳ thay đổi nhanh chóng của cấu trúc kinh tế Phần Lan, nhưng thập niên 1960 mới được coi là phi thường theo các tiêu chuẩn quốc tế (Aho, Pitkänen, & Sahlberg, 2006; Dahlman, Routti, & Ylä-Anttila, 2006). Thập niên 1960 chứng kiến xã hội Phần Lan, nhìn một cách tổng quát, đã từ bỏ nhiều giá trị cũ kỹ của mình, và các thể chế Phần Lan truyền thống bắt đầu chuyển mình. Dịch vụ công, nhất là giáo dục cơ sở, là một trong những khu vực thay đổi rỗ rệt nhất. Khi thời khắc cải cách khốc liệt đã chín muồi, tốc độ và sự triệt để của nó đã khiến nhiều người Phần Lan sửng sốt vì ngạc nhiên.
Thế chiến Hai chấm dứt là động lực thôi thúc những thay đổi triệt để trong cấu trúc chính trị, xã hội, kinh tế của Phần Lan tới mức đặt ra yêu cầu cần lập tức đưa ra ngay những thay đổi trong giáo dục và các thiết chế xã hội khác. Quả thực, giáo dục nhanh chóng trở thành động lực chính đối với quá trình biến đổi xã hội và kinh tế sâu sắc trong kỷ nguyên hậu chiến. Năm 1950, các cơ hội giáo dục ở Phần Lan không hể có sự bình đẳng, nghĩa là, chỉ những ai sống ở thị trấn hay các thành phố lớn mới được tiếp cận trường trung học hoặc trường cơ sở. Hầu hết các em thiếu niên rời ghế nhà trường sau sáu hoặc bảy năm giáo dục cơ bản chính quy. Ở địa bàn nào có trường trung học chuyên, học sinh đã học bốn, năm hay sáu năm giáo dục cơ sở ở trường công lập có thể đăng ký, nhưng những cơ hội như vậy cũng hạn chế. Ví dụ, năm 1950, chỉ 27% trong số các trẻ em 11 tuổi ở Phần Lan đăng ký nhập học trung học phổ thông, gồm năm năm ở bậc cơ sở và ba năm ở bậc trung học. Một con đường học vấn khác sau bảy năm giáo dục cơ bản bắt buộc là hai hoặc ba năm học ở cái gọi là trường công dân vốn được hầu hết các thành phố ở Phần Lan cung cấp. Học sinh học xong giáo dục cơ bản này có thể học nghề và kỹ thuật, nhưng chỉ những thành phố và trị trấn lớn mới có các cơ sơ đào tạo nghề và kỹ thuật.
Năm 1950, ở Phần Lan có 338 trường trung học có dạy nghề sau chương trình cơ bản sáu năm (Kiuasmaa, 1982). Nhà nước Phần Lan điều hành 103 trong số đó, các thành phố điều hành 18 trường, 217 trường còn lại (khoảng hai phần ba tổng số trường) do tư nhân hay các hiệp hội điều hành. Gánh nặng chủ
yếu của sự mở rộng nhanh chóng cấp học sau giáo dục cơ sở được những trường tư này gánh vác. Một cải tổ xã hội quan trọng năm 1950 là việc ban hành luật đảm bảo trợ cấp nhà nước cho trường tư, và đông thời mở rộng kiểm soát của chính phủ đối với những trường này. Sự thay đổi này tạo điều kiện cho chính phủ đáp ứng mối quan tâm ngày càng tăng của công chúng đối với giáo dục thông qua việc mở thêm các trường tư mới, vì trợ cấp của nhà nước sẽ tránh được bớt rủi ro tài chính cho những trường tư này.
Trong những năm đầu sau khi Phần Lan giành được độc lập, việc dạy ở trường tiểu học mang tính chính quy, lấy giáo viên làm Trung tâm và tập trung nhiều vào phát triển đạo đức hơn là phát triển nhận thức. Tuy các ý tưởng sư phạm nhằm đem lại lợi ích xã hội và phát triển quan hệ giữa con người mang tính tổng thể hơn được biết tới ở Phần Lan từ những năm 1930, song không tạo được ảnh hưởng lớn đến giáo dục nhà trường (Koskenniemi, 1944). Ba nội dung chủ chốt trong chính sách giáo dục quốc gia Phần Lan từ năm 1945 đến năm 1970 là để thay đổi mô hình truyền thống này:
• Cấu trúc của hệ thống giáo dục sẽ tạo điều kiện cho tất cả người dân tiếp cận giáo dục tốt hơn cả về lượng và chất. • Hình thức và nội dung chương trình học sẽ tập trung vào phát triển nhân cách mang tính cá nhân và toàn diện của học sinh.
• Việc đào tạo giáo viên sẽ được hiện đại hóa đã đáp ứng nhu cầu nảy sinh từ những diễn biến này. Giấc mơ tương lai của
Phần Lan được xây dựng trên tri thức và kỹ năng; do đó giáo dục được nhin nhận là nền tảng xây dựng tương lai (Aho, Pitkänen, & Sahlberg, 2006).
Cấu trúc kinh tế Phần Lan năm 1950, tương tự với kinh tế Thụy Điển năm 1910, đang trong giai đoạn chuyển tiếp. Các ngành công nghiệp chủ chốt đang chuyển dịch từ canh tác nông nghiệp và kinh doanh nhỏ sang sản xuất công nghiệp và công nghê. Môi trường chính trị mới trong kỷ nguyên hậu chiến cũng đã khích lệ các gia đình thuộc tầng lớp lao động, họ nhất quyết cho rằng con cái họ cần có cơ hội hưởng lợi từ nền giáo dục công mở rộng. Kết quả là, mô hình trường hỗn hợp cho mọi học sinh và chương trình học thống nhất, được để xuất lần đầu năm 1920, được hồi sinh và trở thành chủ đề thảo luận chính sách giáo dục không lâu sau khi Thế chiến Hai kết thúc. Rõ ràng là, để trở thành một thành viên được công nhận của cộng đồng các nền dân chủ và kinh tế thị trường phương Tây, Phần Lan cần có một lực lượng dân số có học thức hơn. Đây là tầm nhìn cho cả quốc gia.
GIÁO DỤC CƠ BẢN PHỔ CẬP
Hai thập kỷ đầu sau Thế chiến Hai là quãng thời gian đẩy những bất ổn chính trị ở Phần Lan. Đảng Cộng sản trở lại sần khấu chính trưởng thường nhật trong các cuộc tuyển cử hậu chiến đầu tiên năm 1944, và xác định giáo dục là một trong những chiến lược cơ bản của mình để tiến tới xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Phần Lan. Trong dợt bẩu cử năm 1948, ba đảng
phái chính trị nhận được số ghế gần bằng nhau trong Quốc hội Phần Lan: Đảng Dân chủ Xã hội (50 ghế), Đảng Trung Nông (49 ghế) và Đảng Cộng sản (49 ghế). Công cuộc tái thiết Phần Lan bắt đầu; đồng thuận chính trị là điều kiện tiên quyết cho các cuộc cải cách bao gồm cả cải cách hệ thống giáo dục Phần Lan. Đảng Bảo thủ giành được sự tin yêu hơn vào những năm 1950 và trở thành lực lượng chính trị thứ tư được liệt vào trong các cuộc thương lượng nghị viện Phần Lan. Các ủy ban giáo dục chính trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi mà công tác đặt nền móng cho giáo dục cơ bản toàn diện cho mọi học sinh Phần Lan được tiến hành, và giấc mơ đó cuối cùng trở thành hiện thực năm 1970.
Có ba ủy ban giáo dục liên quan đến chính trị rất đáng được nhắc đến. Thứ nhất, tháng Sáu năm 1945, chính phủ thành lập ủy ban Chương trình Giảng dạy tiểu học. Thư ký của ủy ban đó là Matti Koskenniemi (1908-2001), người mà vài năm trước đã viết một cuốn sách quan trọng có ảnh hưởng sâu xa về sư phạm tiểu học (Koskenniemi, 1944). Thông qua những đóng góp của ông, quan điểm về chương trình học ở Phần Lan dịch chuyển từ tập trung vào chương trình môn học(lehrplan trong tiếng Đức) sang mô tả mục tiêu giáo dục, quá trình giáo dục và đánh giá giáo dục. Đây là những cải cách đầu tiên nhằm hiện đại hóa chương trình giảng dạy của Phần Lan theo tiêu chuẩn quốc tế, và âm hưởng của những cải cách này vẫn còn vang vọng trong tư duy của chương trình giảng dạy đương đại.
Có vài lý do giải thích tại sao ủy ban này nắm một vị trí trung tâm trong lịch sử giáo dục Phần Lan. Thứ nhất, các thành viên của ủy ban rất chú trọng đến việc xây dựng mục tiêu mới cho giáo dục, theo đó tách giáo dục Phần Lan ra khỏi truyền thống Đức. ủy ban đề xuất ý tưởng là nhà trường cần nhắm tới mục tiêu giáo dục thiếu niên để các em nhìn nhận mình như những cá nhân toàn diện, có động lực tự thân để theo đuổi việc học cao hơn. Nội dung của việc giáo dục hướng tới mục tiêu chung này được chia thành năm nhóm lĩnh vực chuyên đề, liên ngành, mà sau này trở thành hình mẫu cho ủy ban Chương trình Giảng dạy Giáo dục phổ thông năm 1970.
Thứ hai, cải cách chương trình đào tạo được dựa trên nghiên cứu thực nghiệm tiến hành ở 300 trường tham gia nghiên cứu với 1.000 giáo viên. Bằng cách này, nghiên cứu trở thành một phần của quá trình hoạch định chính sách giáo dục. Thứ ba, và nhờ vào hai lý do trước, chất lượng công việc của ủy ban được coi là đặc biệt cao. Biên bản ghi nhớ Cuối cùng của ủy ban, xuất bản năm 1952, có giá trị ở chỗ đã hệ thống hóa các mục tiêu giáo dục, có tầm nhìn rộng lớn lấy học sinh làm Trung tâm, hiện đại hóa cách trình bày và làm giàu nội dung giáo dục, và coi trọng vai trò của sự gắn kết xã hội trong giáo dục. Các cột mốc quan trọng trong lịch sử hậu chiến của Phần Lan đạt được năm 1952 là: làm chủ nhà Thế vận hội Mùa hè ở Helsinki, Hoa hậu Phần Lan Armi Kuusela lên ngôi Hoa hậu Hoàn vũ đầu tiên và hoàn tất việc bồi thường chiến tranh cho Liên bang Xô-viết. Cũng là hợp lý khi xem chương trình giảng dạy dành cho hệ
thống trường tiểu học của Phần Lan là một trong các cột mốc 1952 của nước này; với sự mới mẻ và mang tầm vóc quốc tế, chương trình đã mở đường cho thành công giáo dục khoảng nửa thế kỷ sau đó.
Một ủy ban thứ hai quan trọng, Ủy ban Hệ thống Giáo dục, ra mắt năm 1946, có chức năng để ra các quy định đối với giáo dục bắt buộc và xây dựng một khuôn khổ chung các nguyên tắc nhằm xác định cách liên kết các phần khác nhau của hệ thống giáo dục lại với nhau. Ủy ban này bao gồm đại diện của tất cả các đảng phái chính trị hàng đầu tại thời điểm đó và do Tổng giám đốc Ban Giáo dục
Quốc gia, Yrjö Ruutu, người ủng hộ Đảng Cộng sản, làm chủ tịch. Chưa đầy hai năm sau khi ra mắt, ủy ban này đề xuất rằng nền móng của hệ thống giáo dục Phần Lan nên là hệ tám năm cơ bản bắt buộc chung cho mọi học sinh bất kể điéu kiện kinh tế-xã hội như thế nào. Ủy ban tư vấn rằng hệ thống trường học này cần phải tránh lối mòn của việc định hướng các em có lực học tốt vào các môn học “học thuật” còn những em thích học các kỹ năng tay chân hơn vào việc học “nghề”, như cách làm của hộ thống giáo dục song song thịnh hành thời đó.
Tuy nhiên, ủy ban giữ lại tiêu chuẩn mà theo dó chỉ những học sinh đã học ngoại ngữ ở bậc cơ sở sẽ được phép vào học trung học phổ thông hay gymnasium, con đường duy nhất để vào đại học. Tuy ý tưởng về trường phổ thông hỗn hợp được nêu ra một cách rõ ràng, song không khả thi vì những chỉ trích gay gắt từ phía các Trường Đại học và Liên hiệp Các Nhà giáo Các
Trường chuyên. Tuy nhiên, để xuất của ủy ban có tác dụng kích thích việc tranh luận nhiều hơn trong xã hội Phần Lan về bình đẳng xã hội và cơ hội giáo dục bình đẳng-những nguyên tắc mà, hai thập kỷ sau, sẽ được thực hiện và làm nền móng cho chính sách giáo dục Phần Lan.
Các lĩnh vực giáo dục khác nhau tiếp tục được phát triển trong những năm 1950. Bùng nổ trẻ sơ sinh sau Thế chiến Hai khiến số lượng trường học gia tăng nhanh chóng. Các điều luật mới quy định giáo dục bắt buộc bao gồm sáu năm tiểu học và hai năm giáo dục công dân đối với những học sinh không học tiếp lên phổ thông. Chương trình giảng dạy mới ban hành năm 1952 bắt đầu làm thay đổi việc học tập và sinh hoạt ở trường học. Dạy nghề trở thành một bộ phận của ngành giáo dục. Giấc mơ về giáo dục phổ thông cho mọi người của Phần Lan vẫn sống động, nhưng trên thực tế, hệ thống trường lớp song song vẫn tồn tại. Kết quả là, một ủy ban thứ ba có tầm quan trọng chủ chốt, ủy ban Chương trình Nhà trường, được thành lập năm 1956 để thống nhất hệ thống giáo dục Phần Lan và mang lại sự thay đổi đồng bộ trong các nhánh giáo dục khác nhau. Việc thành lập ủy ban này dưới sự lãnh đạo của Reino Henrik Oittinen, Tổng giám đốc Ban Giáo dục Quốc gia và đảng viên Dân chủ Xã hội, là một bước tiến tiếp theo để hiện thực hóa giấc mơ lớn về giáo dục Phần Lan.
Công việc của ủy ban này dựa trên một phân tích chưa từng có tiền lệ về các chính sách giáo dục quốc tế. Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là nhận định của ủy ban rằng các nước Bắc Âu có
nhiều điểm chung trong chính sách giáo dục thời đó. Tăng cường sự bình đẳng trong các cơ hội giáo dục, một ưu tiên thời đó ở Anh và Mỹ, trở thành một chủ đề Trung tâm trong tư duy chiến lược của ủy ban. Thời kỳ từ năm 1956 đến năm 1959, khi ủy ban có tính đa dạng về chính trị này tiến hành gần 200 cuộc họp, là thời gian đặc biệt bất ổn: Suy thoái kinh tế toàn cầu, xung đột chính trị gay gắt cả trong nước và với Liên Xô, và việc phóng sputnik nhanh chóng gây ảnh hưởng đến các cuộc cải cách giáo dục trên khắp thế giới. Tuy vậy, ủy ban này vẫn bám trụ và công việc của ủy ban trở thành viên đá đặt nền móng trong lịch sử cải cách giáo dục ở Phần Lan.
Ủy ban Chương trình Nhà trường công bố các đề xuất của mình vào mùa hè năm 1959. ủy ban gợi ý rằng giáo dục bắt buộc trong tương lai ở Phần Lan nên dựa trên hệ thống nhà trường phổ thông hỗn hợp chín năm tại các thành phố với cấu trúc như sau:
• Bốn lớp đầu tiên áp dụng chung cho tất cả học sinh. • Lớp 5 và lớp 6 thuộc về trường phổ thông cơ sở nơi học sinh có thể chọn tập trung vào hoặc là các môn học thực hành hoặc là ngoại ngữ.
• Từ lớp 7 đến lớp 9 có ba hệ: Định hướng nghề nghiệp và thực hành, một hệ “trung bình” học một ngoại ngữ, và một hệ cao cấp với hai ngoại ngữ.
ủy ban này không thể thống nhất ý chí chính trị xung quanh cấu trúc nhà trường phổ thông này; quả thực, ngay cả nội bộ ủy ban cũng xuất hiện bất đồng gay gắt về các nguyên tắc chính
sách chính chủ đạo. Tuy nhiên, hệ thống được đề xuất sẽ dần dần hợp nhất trường phổ thông tư thục và trường công lập thành phố thành một hệ thống trường mới thuộc thành phố, và giảm dần vai trò của trường tư. Nhìn chung, công việc của ủy ban này khởi xướng tranh luận sâu sắc và có ý nghĩa về những giá trị cốt lõi trong giáo dục ở xã hội Phần Lan. Câu hỏi chủ chốt là: Về nguyên tắc, liệu mọi học sinh đều có thể được giáo dục và có thể đạt được mục đích học tập tương tự không? Các cầu trả lời cho câu hỏi này tạo ra những luồng ý kiến chia rẽ, thậm chí ngay trong các gia đình. Giáo viên tiểu học tin rằng mọi học sinh có thể học tốt như nhau, trong khi các trường đại học thường nghi ngờ ý tưởng này, còn các chính trị gia vẫn còn mỗi người mỗi ý. Vào thời đó, với nhu cầu tiến tới vị trí cao hơn về chính trị và kinh tế trên trường thế giới, Phần Lan không có lựa chọn nào ngoài việc chấp nhận cái định để rằng bất cứ ai, nếu có đủ cơ hội và sự ủng hộ, đều có thể học ngoại ngữ và học tiếp lên các bậc học cao hơn so với những gì họ vốn mặc nhận trước đấy.
Càng khó chấp nhận đối với nhiều chính trị gia ở chỏ kiến trúc giáo dục thời đó, vốn duy trì và thực chất là đào sâu hơn nữa bất bình đẳng trong xã hội Phần Lan, về lâu dài không thể
đảm bảo cho Phần Lan đạt được mục tiêu trở thành xã hội tri thức. Hình 1.1 minh họa những đặc điểm của hệ thống giáo dục song song cho tới tận đầu những năm 1970, trong đó học sinh lứa tuổi 11-12 được phân thành hai hệ riêng biệt. Trên thực tế,
học sinh không thể chuyển đổi giữa hai hệ này một khi đã quyết định chọn một trong hai con đường.
Đề xuất ban đầu năm 1959 của ủy ban Chương trình Nhà trường được Ban Giáo dục Phổ thông Quốc gia tiếp tục triển khai kỹ càng hơn vào đầu những năm 1960, và cuối cùng được đưa ra Quốc hội vào ngày 22 tháng Mười một năm 1963. Cuộc tranh luận sau đó diễn ra gay gắt. Một số người dự đoán về một tương lai ảm đạm đối với Phần Lan nêu những ý tưởng mới liên quan đến hệ thống trường công thống nhất chung cho mọi đối tượng học sinh được thông qua: Trình độ tri thức suy giảm; lãng phí tài năng quốc gia hiện có; và Phần Lan, với tư cách một quốc gia, sẽ tụt hậu trong cuộc đua kinh tế quốc tế. Trong cuộc bỏ phiếu cuối cùng, đề xuất về hệ thống giáo dục mới ở Phần Lan được thông qua với 123 phiếu thuận và 68 phiếu chống. Việc ăn mừng sự ra đời hệ thống trường học mới ở Phần Lan bị ngắt quãng khi người phát ngôn của Quốc hội loan tin Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã bị ám sát ở Dallas, Texas, chỉ vài phút trước đó.
Sẽ là không thích hợp nếu cho rằng sự ra đời của hệ thống trường phổ thông Phần Lan mới hay hệ thống peruskoulu, vốn thường được coi là nền tảng cấu trúc cho danh tiếng giáo dục của Phần Lan ngày nay, chỉ là công lao của các chính trị gia và nhà chức trách. Nhiều người khác trong đó có cả giáo viên phổ thông và giảng viên đại học đều đóng góp vào quá trình hình thành hệ thống nhà trường của Phần Lan. Đặc biệt quan trọng là vai trò của một số tổ chức xã hội dân sự của Phần Lan. Tiến
hành phân tích sâu hơn ảnh hưởng của những tổ chức này đối với cải cách giáo dục Phần Lan nằm ngoài phạm vi của chương này. Tuy nhiên, một ví dụ điển hình về sự tham gia của xã hội dân sự vào việc phát triển chính sách giáo dục là vai trò của Hiệp hội Giáo viên Tiểu học Phần Lan (FPSTA). Ngay từ năm 1946, FPSTA đã lên tiếng ủng hộ ý tưởng về một hệ thống thống nhất các trường cơ sở. Vào giữa những năm 1950, hiệp hội công bố chương trình phát triển giáo dục của riêng mình kèm theo đề xuất chi tiết, được lập luận tốt về một hệ thống thống nhất các trường hỗn hợp. Điều khác thường về chương trình được đề xuất này là, không như những kiến nghị của các hiệp hội giáo viên dựa trên công đoàn, chương trình này có tính cấp tiến và hướng về tương lai. Chương trình nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ các thành viên của FPSTA, đại diện cho gần 90% tổng số giáo viên tiểu học Phần Lan. Đề xuất của FPSTA mất năm năm để hoàn thành và khuấy động một cuộc thảo luận quốc gia nhấn mạnh rõ ràng vào nhu cầu tăng cường bình đẳng và công bằng xã hội trong xã hội Phần Lan thông qua một hệ thống giáo dục bình đẳng hơn. Có lẽ điều quan trọng nhất là, việc công bố đề xuất về chương trình của FPSTA là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy trường học và giáo viên đã sẵn sàng cho một cuộc cải cách triệt để.
Trong hai năm 1955-1956, các trường phổ thông của Phần Lan tuyển sinh xấp xỉ 34.000 học sinh. Năm năm sau, số học sinh tuyển sinh đã tăng lên 215.000 và còn tiếp tục tăng, lên tới mức 270.000 năm 1965 và 324.000 năm 1970 (Aho, Pitkänen,
& Sahlberg, 2006). Hệ thống cũ của Phần Lan gần như không thể đứng vững sau khi mà các bậc phụ huynh đòi hỏi phải có một hệ thống giáo dục cơ bản được cải thiện và toàn diện hơn cho con em họ với hy vọng đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho chúng sau này. Sức ép xã hội đó mang lại một chủ đề mới trong cuộc tranh luận về chính sách giáo dục: Tiềm năng phát triển của cá nhân. Các nhà nghiên cứu khi ấy lập luận rằng năng lực và trí thông minh của một cá nhân luôn tăng lên đạt đến mức yêu cầu của xã hội, và rằng các hệ thống giáo dục chỉ phản ánh được những giới hạn hay nhu cầu này.
TRƯỜNG HỌC MỚI RA ĐỜI
Luật mới (1966) và chương trình giảng dạy quốc gia mới (1970) được soạn vào nửa cuối thập niên 1960. Bầu không khí chính sách xã hội khi dó đã củng cố các giá trị về bình đẳng và công bằng xã hội trong mọi tầng lớp xã hội Phần Lan. Theo nhà khoa học chính trị Phần Lan nổi tiếng Pekka Kuusi, phí tổn phát sinh từ lý tưởng về một nhà nước phúc lợi được nhìn nhận như một khoản đầu tư vào việc gia tăng năng suẩt hơn là một phí tổn xã hội cần thiết để duy trì một xã hội công nghiệp (Kuusi, 1961). Hệ thống trường học toàn diện mới sẵn sàng được đưa vào áp dụng năm 1972. Theo kế hoạch, một làn sóng cải cách sẽ bắt đầu ở các vùng phía bắc của Phần Lan, và sẽ lan tới các khu vực đô thị ở miền nam vào năm 1978.
Tín niệm căn bản liên quan đến cấu trúc cũ là mọi người không thể học được hết thảy mọi thứ, nói cách khác, tài năng trong
xã hội không được phân bổ đồng đều xét về khả năng hấp thụ của mỗi cá nhân. Ở Phần Lan, có người đồng ý với Báo cáo Coleman được xuất bản ở Mỹ, ủng hộ quan điểm cho rằng tính khí và đặc điểm của một người trẻ được định hình ở nhà chứ không thể bị ảnh hưởng đáng kể từ việc đi học (Coleman và cộng sự, 1966). Điều quan trọng là hệ thống peruskoulu mới quẳng đi những tín chấp này và do đó giúp xây dựng một xã hội công bằng hơn với trình độ học vấn cao hơn cho tất cả mọi người.
Ý tưởng trung tâm của peruskoulu, như Hình 1.2 cho thấy, là hợp nhất các trường chuyên, trường công dân và trường tiểu học hiện có thành hệ thống trường hỗn hợp của thành phố chín năm. Điều này có nghĩa là việc phân luồng học sinh vào trường chuyên và trường công dân sau khi hoàn thành bốn năm tiểu học sẽ chấm dứt. Mọi học sinh, bất kể nơi ở, điều kiện kinh tế-xã hội hay sở thích, đều sẽ đăng ký vào cùng hệ thống giáo dục cơ sở chín năm do các nhà chức trách giáo dục địa phương điều hành. Việc thực thi mang tính cách mạng, mặc dù như đã nói ở trên, ý tưởng đằng sau nó không mới. Những người chỉ trích hệ thống mới thỉ cho rằng không thể có kỳ vọng giáo dục giống nhau đối với học sinh đến từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau và có mức độ trí tuệ rất khác nhau. Những người phản đối cho rằng toàn bộ tương lai Phần Lan với tư cách một quốc gia công nghiệp phát triển sẽ bị lâm nguy vì thành tựu giáo dục nói chung sẽ bị điều chỉnh thấp xuống để phù hợp với những học sinh kém tài năng hơn.
Theo kế hoạch, làn sóng áp dụng hệ thống mới bắt đầu ở các vùng phía bắc của Phần Lan năm 1972. Chương trình giảng dạy Quốc gia dành cho Trường học Phổ thông là chương trình dẫn dắt nội dung, cách tó chức và tốc độ dạy học trên khắp cả nước. Tuy cấu trúc trường hỗn hợp là như nhau cho mọi học sinh,
song Chương trình giảng dạy Quốc gia cung cấp cho các trường công cụ để xây dựng cách dạy khác nhau cho các nhóm năng
lực và tính cách khác nhau. Ví dụ, việc dạy ngoại ngữ và toán học được tiến hành sao cho học sinh lớp 7 đến lớp 9 được chọn ba cấp dộ học: Cơ bản, trung bình, và nâng cao. Chương trình ở cấp độ cơ bản giống với chương trình trước đây của trường công dân, và chương trình ở cấp độ nâng cao tương đương với chương trình của trường chuyên cũ. Lý do đằng sau việc phân cấp chương trình là nếu việc học ngoại ngữ là bắt buộc với mọi học sinh, thì phải có các khóa học khác nhau cho các đối tượng học sinh khác nhau.
Nhóm thành phố miền nam cuối cùng chuyển sang hệ thống trường phổ thông hỗn hợp mới vào năm 1979. Việc nhóm học sinh theo năng lực cuối cùng bị bãi bỏ trong tất cả các môn học trong năm 1985. Kể từ đó tới nay, mọi học sinh học cùng chương trình đào tạo và đề cương môn học.
Cải cách nhà trường hỗn hợp khởi động cho sự phát triển của ba khía cạnh cụ thể của hệ thống giáo dục Phần Lan mà sau này đã chứng tỏ được vai trò quan trọng trong việc tạo ra một hệ thống giáo dục có kết quả tốt. Thứ nhất, việc hòa nhập học sinh có hoàn cảnh sống và nguyện vọng rất khác nhau trong cùng trường và cùng lớp đòi hỏi phải có một phương pháp tiếp cận cơ bản hoàn toàn mới đối việc dạy và học. Nguyên tắc cơ hội bình đẳng cho rằng mọi học sinh cần phải được tạo cơ hội bình đẳng để thành công và thích thú với việc học. Từ rất sớm, người ta đã hiểu rằng việc giáo dục học sinh có nhu cầu đặc biệt sẽ chỉ thành công nếu những khó khăn trong việc học và các khiếm khuyết cá nhân khác được phát hiện sớm và xử lý kịp thời. Giáo
dục đặc biệt nhanh chóng trở thành một phần rất quan trọng trong chương trình giảng dạy của nhà trường, và tất cả thành phố và trường học nhanh chóng dành chỗ cho các chuyên gia được đào tạo để hỗ trợ học sinh có nhu cầu đặc biệt. Giáo dục đặc biệt được thảo luận chi tiết hơn trong chương sau.
HỘP 1: ĐỒNG THUẬN PHẦN LAN LÀ GÌ?
Quốc hội Phần Lan đi đến quyết định-trên-nguyên tắc đối với cải cách trường phổ thông hỗn hợp tháng Mười một năm 1963. Quyết định này không có được sự nhất trí hoàn toàn; bộ phận cốt lõi của phe đa số gồm Đảng Nông nghiệp và những người phái tả. Quyết định này, có lẽ là sự đồng thuận quan trọng nhất trong lịch sử giáo dục Phần Lan, sẽ không đạt được nếu thiếu sự ủng hộ của Đảng Nông nghiệp và sự đồng lòng trên toàn quốc vì lợi ích chung.
Đảng Nông nghiệp trong một thời gian dài trước đó đã phản đối ý tưởng về một hệ thống trường phổ thông hỗn hợp. Phe những người trẻ trong đảng hiểu rằng việc tái cấu trúc nền kinh tế Phần Lan và quá trình đô thị hóa kèm theo đòi hỏi sự phát triển hệ thống giáo dục kiểu cũ đang tồn tại thời đó. Điéu đặc biệt quan trọng là phải đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục tốt cho những vùng nông thôn ở Phần Lan đang chứng kiến cảnh di cư ồ ạt ra các trung tâm đô thị và sang Thụy Điển. Câu hỏi thú vị là: Tại sao Đảng Nông nghiệp ủng hộ cuộc cải cách giáo dục dựa trên ý tưởng về một trường học phổ thông hỗn hợp cho tất cả học sinh? Một thế hệ chính trị gia mới thân thiết với Hiệp hội
Giáo viên Tiểu học tin rằng mọi học sinh đều có thể có mục tiêu học tập giống nhau và rằng mọi học sinh có thể cùng học tập dưới một mái trường. Tổng thống Phần Lan và cựu thành viên Đảng Nông nghiệp Urho Kekkonen là một trong những người ủng hộ cuộc cải cách này.
Giấc mơ vẻ một mái trường công chúng cho tất cả trẻ em Phần Lan đã tồn tại từ khi Trường Học Nhân dân Phần Lan ra đời vào những năm 1860. Quá trình dán tới quyết định của Quốc hội năm 1963 hoàn toàn là một quá trình chính trị. Nó đảm bảo rằng tầng lớp ưu tú chính trị của Phần Lan sẽ cam kết mạnh mẽ với cải cách trường học hỗn hợp. Hậu thuẫn chính trị đối với cuộc cải cách này đóng vai trò quan trọng vì nó làm cho cuộc cải cách tiến nhanh mà không bị đình chỉ bởi chính phủ mới. Nền tảng cho một chính sách giáo dục bền vững được tạo ra. Nguyên tắc đồng thuận Phần Lan này đã tồn tại trong suốt nhiều thập kỷ cho tới tận ngày nay.
Việc tiến hành cải cách trường học hỗn hợp đòi hỏi một vài thỏa hiệp chính trị khác. Giáo sư Pauli Kettunen từng nói rằng nhà nước phúc lợi Bắc Âu được xây dựng trên ba lý tưởng chính trị: Di sản của những người nông dân được giải phóng, tinh thần tư bản chủ nghĩa, và sự không tưởng của chủ nghĩa xã hội. Bình đẳng, hiệu quả và đoàn kết, các nguyên tắc trọng yếu của ba lý tưởng chính trị này, hòa vào thành một sự đồng thuận nơi cả ba bổ trợ lẫn nhau. Tôi nghĩ đây là gốc rễ của nền tảng vững chắc dựa vào đó chính sách giáo dục Phần Lan được xây dựng.
Erkki Aho, Tổng giám đốc (1973-1991) Ban Giáo dục Phổ thông Quốc gia
Thứ hai, tư vấn hướng nghiệp trở thành một phần bắt buộc trong chương trình học trường phổ thông hỗn hợp ở tất cả các trường. Khi đó người ta cho rằng nếu tất cả học sinh vẫn học nguyên ở một mái trường ấy cho đến khi hoàn thành giáo dục bắt buộc, thì học sinh sẽ cần được tư vấn một cách có hệ thống về lựa chọn sẽ làm gì sau khi hoàn thành giáo dục cơ bản. Mục tiêu của hướng nghiệp là làm giảm thiểu khả năng học sinh đưa ra những lựa chọn không phù hợp cho tương lai của các em. Về nguyên tắc, học sinh có ba lựa chọn: Tiếp tục học lên trung học phổ thông, vào trường nghề, hoặc đi tìm việc làm. Cả hai loại hình giáo dục trung học phổ thông đều đưa ra một vài lựa chọn nội bộ. Tư vấn hướng nghiệp nhanh chóng trở thành nền tảng của cả giáo dục cơ sở lẫn giáo dục trung học, và đến nay vẫn là một yếu tố quan trọng giải thích cho tỷ lệ lưu ban và bỏ học thấp ở Phần Lan (Välijärvi & Sahlberg, 2008). Hướng nghiệp cũng đóng vai trò cầu nối giữa giáo dục chính quy và thị trường việc làm. Trong chương trình hướng nghiệp chung, mỗi học sinh ở peruskoulu phải dành hai tuần ở một nơi làm việc được lựa chọn.
Thứ ba, peruskoulu mới này đòi hỏi giáo viên đang làm việc ở các trường rất khác nhau cụ thể là trường chuyên mang tính học thuật và trường công dân hướng nghiệp, phải bắt đầu nhóm chung vào với nhau trong cùng một ngôi trường với học sinh thuộc đủ loại năng lực. Như Jouni Välijärvi giải thích, cải cách
trường hỗn hợp không chỉ là một thay đổi về mặt tổ chức mà còn là một triết lý giáo dục mới đối với các trường học Phần Lan (Hautamäki và cộng sự, 2008; Välijärvi và cộng sự, 2007). Triết lý này bao gồm các tín niệm cho rằng mọi học sinh đều có thể học nếu chúng có cơ hội và được ủng hộ thỏa đáng, rằng việc hiểu biết và học tập thông qua sự đa dạng của loài người là một mục tiêu giáo dục quan trọng, và rằng trường học nên vận hành như những nền dân chủ thu nhỏ, như John Dewey đã kêu gọi như vậy từ nhiều thập kỷ trước. Do đó, peruskoulu mới đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp giảng dạy khác lạ, tạo ra môi trường học tập cho phép các đối tượng học sinh khác nhau học theo những cách khác nhau, và coi dạy học là một nghề cao quý. Những kỳ vọng này dẫn tới cuộc cải cách quy mô lớn trong đào tạo sư phạm vào năm 1979: Một luật mới về đào tạo giáo viên nhấn mạnh vào phát triển nghề nghiệp và tập trung vào đào tạo sư phạm dựa trên nghiên cứu, vấn đề này sẽ được thảo luận chi tiết ở Chương 3.
Một hệ quả cụ thể khác từ sự ra đời của peruskoulu là việc mở rộng nhanh chóng giáo dục trung học phổ thông. Các bậc phụ huynh mong muốn con mình học lên cao hơn, và bản thân những người trẻ Phần Lan cũng hy vọng tiến xa hơn trên con đường tự phát triển của mình. Bây giờ chúng ta hãy xem giáo dục trung học phổ thông đã mở đường cho việc cải thiện vốn con người ở Phần Lan như thế nào.
MỞ RỘNG GIÁO DỤC TRƯỜNG HỌC
Trường trung học được tổ chức giống trường truyền thống cho tới năm 1985 khi Đạo luật Giáo dục Trung học phổ thông mới bãi bỏ hệ thống cũ và đưa vào áp dụng cơ cấu chương trình học kiểu hợp phần. Hai học kỳ mỗi năm được thay thế bằng năm hay sáu kỳ mỗi năm học, dựa vào kế hoạch giảng dạy của các trường. Điều này có nghĩa là việc dạy và học được tái cơ cấu thành các kỳ 6-7 tuần, trong khoảng thời gian đó, học sinh sẽ hoàn thành các môn học mà mình đã chọn. Sự thay đổi này tạo điều kiện cho các trường sắp xếp lại lịch giảng dạy, và nhờ đó tác động cả đến việc lên kế hoạch chương trình học của địa phương vì lẽ các trường có nhiều sự linh hoạt hơn để xắp xếp thời khóa biểu cho các môn học trong các học kỳ (Välijärvi, 2004). Giai đoạn phát triển tiếp theo là thay thế việc phân lớp theo lứa tuổi bằng một hệ thống không phân lớp vào giữa thập kỷ 1990. Cách tổ chức trường trung học mới này không dựa trên một lớp cố định (trước gọi là lớp 10, lớp 11 hay lớp 12). Học sinh do đó có nhiều phạm vi lựa chọn hơn trong việc sắp đặt kế hoạch học tập xét về cả nội dung học lẫn trật tự các môn học. Khung chương trình giảng dạy mới chú trọng hơn đến việc hiểu được quá trình phát triển nhận thức của học sinh và củng kêu gọi các trường phát huy tối đa thế mạnh của chính họ và của cộng đồng. Tuy được tự do hơn để lên kế hoạch và chọn lựa trong việc học, song tất cả học sinh vẫn phải học kiến thức cơ bản của 18 môn bắt buộc. Học sinh phải hoàn thành ít nhất 75 khóa học, mỗi khóa 38 tiết. Khoảng hai phần ba trong số này là bắt buộc, và một phần ba còn lại do học sinh tự chọn để lấy