🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bạc Mệnh - Benjamin Black & Vũ Kim Dung (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
BẠC MỆNH
—★—
Tên Tiếng Anh: Christine Falls Tác giả: Benjamin Black
Dịch giả: Vũ Kim Dung
NXB Văn Học & You Books – 2010 Nguồn: VCTVEGROUP
Mục lục
PHẦNI
1
2
3
4
5
6
7
8
PHẦN2
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
PHẦN3
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
ĐOẠN KẾT
May mà cô đi tàu chở thư lúc chập tối. Với cô, khởi hành lúc sáng sớm chẳng khác cực hình. Trong bữa tiệc tối qua, khi tìm thấy hũ rượu nặng, một sinh viên trường y bèn pha với nước cam ép. Vì uống hai ly nước ấy nên giờ miệng cô khô đắng, đầu nhức như búa bổ. Suốt buổi sáng, cô nằm bẹp trên giường, người vẫn còn ngầy ngật. Cô chỉ muốn thiếp đi một lát nhưng không được, chỉ nằm khóc với chiếc khăn tay nhét đầy miệng ngăn tiếng nức nở vang xa. Nghĩ đến việc buộc phải làm hôm
nay, cô run sợ. Không, phải nói là khiếp đảm mới đúng. Đến cầu tàu ở Dun Laoghaire, cô quá kích động, không thể đứng yên một chỗ nên cứ đi tới đi lui hoài. Nghe lời họ dặn, cô cất hành lý trên khoang tàu thủy rồi trở xuống bến tàu đứng đợi. Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà cô lại nhận lời đề nghị của người ta. Trước đó, cô đã nhận được lời mời đến Boston làm việc và bây giờ thêm cả viễn cảnh sẽ có tiền tiêu rủng rỉnh. Tuy nhiên, cô biết trên tất cả là vì cô sợ bà y tá trưởng nên đã không dám chối từ khi bà đề nghị cô mang theo đứa bé. Kiểu nói chuyện của bà khiến người ta phải khiếp hãi, thậm chí ngay cả lúc tiếng bà khẽ khàng nhất. Hôm đó, bà trợn cặp mắt lồi nhìn cô và bảo:
- Brenda này, ta muốn cô cân nhắc thật kỹ vì đây là một trọng trách to lớn.
Cô gái như lạc vào một thế giới khác: lòng dạ nôn nao, mồm miệng khô đắng... Còn nữa, thứ cô đang mặc không phải bộ
đồng phục y tá mà là bộ váy áo bằng len màu hồng cô mua để dành cho chuyến đi xa đặc biệt này. Bộ quần áo mặc lúc khởi hành, nhưng không phải để mặc sau đám cưới. Đồng thời, thay vì đi hưởng tuần trăng mật, cô sẽ dành hẳn một tuần chăm sóc hài nhi, trong lúc bên cạnh không hề có bóng dáng đức lang quân. Nghe cô nhận lời, nữ y tá trưởng cười nửa miệng trông còn kinh khiếp hơn cả cặp mắt như sắp nhảy khỏi tròng của bà.
- Cô thật tốt bụng, Brenda ạ. Cầu Chúa phù hộ cho cô. Phải, cô chỉ còn biết cầu khẩn Đấng Tối Cao che chở. Cô thiểu não nhủ thầm: Tối nay, cô cùng đứa bé lênh đênh trên thuyền. Suốt ngày mai, họ sẽ rong ruổi đường trường, đi xe lửa đến tận Southampton. Tiếp theo là năm ngày vượt biển và sau đó, có trời biết còn những gì nữa. Cô chưa bao giờ xa nơi chôn nhau cắt rốn, đến một xứ sở hoàn toàn xa lạ, ngoại trừ có một lần, hồi cô còn bé tí, cha cô có đưa cả nhà đi chơi một ngày tại đảo Man.
Chiếc xe hơi đen bóng loáng nhích từng chút giữa đám đông hành khách đang chuẩn bị xuống con tàu nhỏ. Khi còn cách chỗ cô đứng khoảng mười bước chân, xe dừng bánh. Cánh cửa hàng ghế sau bật mở. Một bà tay xách túi bằng vải bạt, tay kia ôm một bọc cuốn chăn kín. Bà không còn trẻ, khoảng sáu mươi tuổi nhưng ăn mặc như người bằng nửa tuổi bà: bộ vest xám bó sát, váy ôm chỉ dài ngang ống chân, chiếc thắt lưng siết chặt ngang eo khiến mỡ bụng phồng lên ngay phía dưới bản rộng của dây lưng. Bà đội chiếc nón nhỏ xíu có mạng màu xanh dương sẫm buông ngang sống mũi. Ngất ngưởng đi ngang qua
vỉa hè lát đá trên đôi giày gót nhọn hoắt, bà mím cặp môi tô son đỏ choét trông như đang cố nặn một nụ cười. Cặp mắt đen của người này nhỏ xíu, ánh mắt sắc như dao.
Bà mở lời:
- Cô là Ruttledge phải không? Tôi là Moran đây.
Giọng nói ỏn ẻn cũng giả tạo, y hệt mọi thứ còn lại thuộc về bà. Bà ta trao túi cho cô và nói:
- Trong này có đầy đủ tã lót và vật dụng cho đứa nhỏ, kèm cả giấy tờ của nó. Khi lên tàu ở Southampton, cô hãy đưa cho viên quản lý tàu. Ông ta sẽ biết ngay thôi.
Bà nheo mắt soi mới nhìn Brenda, biến cặp mắt đen thành hai đường kẻ nhỏ.
- Cô làm sao thế? Trông cô xanh lắm.
Brenda bèn chống chế, bảo rằng cô khỏe, chỉ tại đêm qua cô thức khuya. Bà Moran cười nhạt, chìa bọc chăn.
- Chắc tại "ly sầu tiễn đưa" nên mới ra nông nỗi? Đây, bồng đi. Cẩn thận, kẻo tuột tay đánh rơi nó thì mang họa. (Bà cười sợ sệt, đoạn nhíu mày như tự trách mình đùa quá trớn). Tôi xin lỗi.
Điều đầu tiên khiến Brenda ngạc nhiên là cái bọc kia nóng sực, như thể người ta bọc cục than cháy đỏ trong chăn. Chỉ có điều “cục than” này mềm và động đậy. Khi ôm chiếc bọc trước ngực, lòng dạ cô gái nôn nao.
- Ôi!
Cô kêu lên vì ngạc nhiên, vui sướng. Bà Moran vẫn chưa ngừng nói nhưng cô không còn nghe thấy gì nữa. Có con mắt nhỏ xíu, ươn ướt từ mép chăn nhìn ra với vẻ thờ ơ, không thèm quan tâm chuyện gì đang diễn ra quanh mình. Brenda nghẹn ngào, nước mắt chỉ chực trào tuôn.
- Cảm ơn ạ.
Cô chỉ nói được có thế dù không biết mình đang cảm ơn ai và vì cái gì.
Bà Moran nhún vai, cười nửa miệng.
- Chúc may mắn đấy.
Đoạn bà bươn bả trở lại xe, gót giày cao gót nện mạnh như muốn chọc thủng mặt đường. Vào xe, sập mạnh cửa xong, bà lẩm bẩm:
- Thế là xong việc.
Nhìn qua cửa kính, bà thấy Brenda Ruttledge vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mê mẩn nhìn xuống bọc chăn, quên hẳn chiếc túi du lịch chơ vơ dưới chân. Bà cay đắng:
- Gớm! Cô ta tưởng mình là Đức Mẹ Đồng Trinh chắc! Không bình luận gì thêm, bác tài chỉ khởi động xe trước khi phóng vọt đi.
PHẦN I
1
V
ới Quirke, người chết không có gì lạ, chính người sống mới lắt léo, đầy bí ẩn. Hôm ấy, sau khi chuông đồng hồ điểm mười hai giờ đêm khá lâu, ông vào nhà xác và bắt gặp Malachy Griffin ở đó. Lập tức, sống lưng ông lạnh buốt như báo trước tai họa sắp dồn dập tới. Mal vào phòng làm việc của Quirke, ngồi tại bàn làm việc của ông! Trong phòng mổ xác tối om, Quirke dừng phắt giữa mấy xác người phủ vải trắng kín mít nằm cứng đờ trên băng ca, theo dõi người anh em cột chèo đang hí hoáy viết lách. Mal ngồi xoay lưng ra cửa, cặp mắt chăm chú nhìn xuống sau gọng kính bằng thép. Ánh sáng đèn bàn từ bên trái chiếu vào mặt ông làm vành tai hồng lên trông như người đang cáu giận. Động tác chăm chú ghi chép trên tập bệnh án mở rộng trước mặt kia sao mà ngượng ngùng, không hề giống Mal của ngày thường. Nếu không say, chắc chắn Quirke còn bàng hoàng hơn nữa kìa! Nhìn cảnh ấy, Quirke bất giác nhớ ngày xưa họ từng đi học cùng nhau. Mal lúc nào cũng chăm chú, dù đang ngồi giữa năm mươi sinh viên nghiêm trang trong giảng đường rộng lớn, im lặng như tờ, hay đang ráng sức làm cho xong bài luận giữa kỳ thi bận rộn, không thèm quan tâm đến ánh nắng chênh chếch chiếu qua cửa sổ đổ xuống người ông. Sau một phần tư thế kỷ với bao bể dâu thăng trầm mà mái tóc đen bóng vuốt sáp cẩn thận và kiểu rẽ ngôi thẳng như sợi chỉ của Mal vẫn không hề thay đổi.
Cảm giác có người nhìn mình từ phía sau, Mal ngoái đầu nhìn sâu vào bóng tối trong phòng mổ. Quirke chờ đúng lúc ấy để loạng choạng dấn bước vào giữa vầng sáng lan rộng đến ngưỡng cửa.
Nhận ra người theo dõi chính là Quirke, Mal thở phào nhẹ nhõm:
- Trời đất! Hóa ra là cậu.
Mal mặc lễ phục không cài khuy, khác hẳn với hình ảnh thường ngày. Ông đã gỡ nút thắt của chiếc nơ đen và khuy cổ của chiếc áo sơ mi trắng không cài. Dù đang mò mẫm tìm thuốc lá trong túi áo, Quirke vẫn không để lọt mắt động tác lấy cùi tay che trang viết của Mal. Một lần nữa, ông lại nhớ ngày còn đi học.
- Sao làm việc khuya thế?
Quirke cười gượng gạo. Chất cồn cho phép ông coi đó là lời nói đùa dí dỏm.
- Cậu đến đây làm gì? - Không thèm để ý đến câu hỏi, Mal hơi to tiếng. Ông đẩy gọng kính lên sống mũi bóng dầu bằng một đầu ngón tay. Chỉ khi cực kỳ căng thẳng, ông mới làm vậy. Quirke chỉ tay lên trần nhà và nói:
- Trên lầu đang có tiệc mà.
Mal đã kịp lấy lại vẻ mặt nghiêm nghị thường ngày. Ông cau mày trịch thượng:
- Sao? Tiệc gì thế?
- Y tá Brenda Ruttledge. Tiệc chia tay của cô ta.
Cặp lông mày của Mal sát lại thêm.
- Ruttledge ư?
Thốt nhiên, Quirke thấy chán nản. Ông hỏi Mal có thuốc lá không vì hình như ông hết thuốc rồi, nhưng Mal chẳng trả lời và đứng bật dậy, cố tình cắp tập bệnh án theo, cánh tay vẫn khéo léo che phần lớn thông tin trên đó. Dù phải nheo mắt, Quirke vẫn kịp thấy dòng chữ viết nguệch ngoạc theo lối in hoa ngoài bìa: CHRISTINE FALLS. Trên bàn vẫn còn cây bút máy đen bóng hiệu Parker của Mal với ngòi bút bằng vàng, và chắc chắn, là vàng 22 cara hoặc hơn (nếu ông ta có thể lùng mua được). Thích vật dụng đắt tiền là một trong số rất ít yếu điểm của Mal. Quirke hỏi thăm:
- Sarah khỏe không anh?
Ông nghiêng người, dựa vai vào khung cửa. Đầu óc quay cuồng, mọi thứ trước mắt ông chao đảo, như muốn nghiêng hết về bên trái. Nếu đã say đến mức quá thảm hại thế này, ông biết không còn cách nào khác là phải chờ cho đến khi giã rượu. Mal xoay lưng về phía ông, cất vội tập bệnh án vào một ngăn kéo của tủ đựng hồ sơ màu xám cao ngất ngưởng.
- Khỏe. Chúng tôi vừa đến dự tiệc tối của nhóm các hiệp sĩ. Xong xuôi, tôi kêu taxi chở cô ấy về rồi.
Quirke cố mở to cặp mắt lờ đờ, hỏi:
- Hiệp sĩ nào?
Mal quay ngoắt gương mặt lạnh như đá tảng nhìn Quirke. Cặp mắt kính của ông bắt ánh đèn sáng lóe.
- Hiệp sĩ của nhà thờ Thánh Patrick. Làm như cậu không biết ấy.
Quirke cố nén cười:
- À, ừ nhỉ! Mà này, em hỏi khí không phải, giờ này anh còn làm gì ở giữa đống xác chết ngổn ngang này?
Thi thoảng, Mal có kiểu nhìn như thể mắt muốn nhảy khỏi tròng, thân hình cao gầy vươn ra trước như đang nhao về phía người thổi sáo dụ rắn. Đây không phải lần đầu Quirke thầm thán phục mái tóc bóng mượt, cặp lông mày đầy đặn và đôi mắt trong, màu xám nhạt sau cặp kính thạch anh sáng bóng của Mal. Mal đáp nhấm nhẳng:
- Tôi có việc. Phải kiểm tra một thứ.
- Thứ gì?
Mal không thèm đáp. Sau khi nhìn Quirke từ đầu đến chân, biết ông say rượu đến mềm cả người, Mal không thể giấu được ánh mắt thỏa mãn lạnh lùng.
- Cậu nên về nghỉ đi.
Quirke định lý sự, cãi rằng cái nhà xác này là lãnh thổ của ông, nhưng một lần nữa ông chỉ muốn buông xuôi. Mặc kệ Mal nhìn mình chằm chằm, ông nhún vai quay gót len lỏi giữa những tử thi nằm thẳng cẳng trên giường. Đi được nửa đường, Quirke suýt ngã nên vội quờ tay bám vào thành một chiếc giường có bánh xe. Rủi thay, ông chỉ níu được mép tấm vải trắng phủ trên một xác chết. Mảnh vải trắng toát tuột nhanh trông như tia chớp mờ. Mặt vải nilon mềm nhũn, lành lạnh làm
ông giật mình: nó như mảng da người chết nhớp nháp vừa bị kéo tuột ra. Nằm trên giường là xác một cô gái tóc vàng mảnh mai: khi còn sống, cô khá xinh đẹp nhưng thần chết đã cướp đi sự sinh động và sức sống hừng hực khiến giờ đây cô chỉ như hình hài nhạt nhẽo đẽo từ tảng xà phòng. Hình như linh tính của bác sĩ pháp y mách bảo với Quirke tên của cô gái trước cả khi ông đọc tấm thẻ đeo ở ngón chân cái. Ông lẩm bẩm:
- Christine Falls. Tên đẹp gớm nhỉ.
Nhìn kỹ hơn, ông phát hiện chân tóc màu sẫm ở trước trán và hai bên thái dương: hóa ra là tóc nhuộm!
***
Mấy giờ sau tỉnh dậy, Quirke cuộn mình nằm nghiêng, cảm giác một tai họa nào đó đang đến rất gần. Ông không nhớ tại sao mình nằm đây, giữa đống xác chết thế này. Ông lạnh thấu xương, chiếc cà vạt lệch làm ông ngạt thở. Lồm cồm bò dậy, ông đằng hắng cố nhớ lượng cồn đưa vào người tối hôm trước: ông đã uống một chầu ở quán McGonagle’s, sau đó lại nốc vô tội vạ trong bữa tiệc trên lầu. Cửa phòng làm việc của ông mở rộng. Vậy chắc chuyện Mal ở đó chưa hẳn là giấc mơ? Quirke khó nhọc đứng dậy. Đầu ông nhẹ bỗng như thể đỉnh đầu vừa bị phạt ngang. Giơ một tay lên chào các tử thi vừa làm bạn với mình mấy tiếng vừa qua, Quirke chân nam đá chân xiêu ra cửa.
Hai bên tường hành lang màu xanh nhạt, phần nhà thiết kế bằng gỗ và mấy cái lò sưởi phủ nhiều lớp sơn màu xanh lá mạ
bóng và dính như keo. Thực ra, trông nó giống cháo nghiền hơn là sơn. Dừng chân ngay bậc dưới cùng của cầu thang rộng và uốn khúc, chẳng hợp với khung cảnh xung quanh chút nào (tòa nhà này vốn là câu lạc bộ của sòng bạc Regency), ông ngạc nhiên vì vẫn còn nghe tiếng cười nói ồn ã của đám người tiệc tùng trên tầng năm vẳng xuống. Đặt một chân lên bậc thang, tay bám vào lan can chuẩn bị leo lên, Quirke lại ngập ngừng. Nào bác sĩ thực tập ư, sinh viên y khoa ư, lại còn đám y tá hay phàn nàn kêu ca nữa chứ! Tôi qua ông đã thấy quá đủ rồi. Vả lại, ngay từ đầu, đám nam thanh nữ tú ấy đã không thích ông góp vui. Ông chậm chạp đi dọc hành lang. Thể nào cảm giác khó chịu sau chầu say túy lúy cũng sẽ hành hạ ông suốt ngày hôm nay cho xem. Chưa gì đầu ông đã nhức như búa bổ rồi đây. Trong phòng của nhân viên bảo vệ đêm, ngay cạnh hai cánh cổng lớn của cửa chính bệnh viện, tivi vẫn mở nhưng với âm lượng nhỏ. Ban nhạc Inkspots đấy! Quirke ngâm nga theo tiếng nhạc: “Nói dối là tội lỗi người ơi...” Thì đúng quá rồi, còn gì phải bàn nữa!
Ra đến bậc tam cấp, ông thấy anh chàng bảo vệ đêm mặc áo gió màu nâu vừa hút thuốc, vừa ngắm bình minh đang lên sau mái vòm của tòa nhà lớn bên kia đường. Anh này vóc người nhỏ nhắn, hoạt bát, mái tóc khô như rơm, luôn đeo mắt kính và có cái mũi nhọn ngộ nghĩnh. Một chiếc xế hộp chạy ào qua con đường tối trước mặt.
- Chào Porter.
Anh bảo vệ bật cười:
- Ông thừa biết tên tôi không phải là Porter kia mà. Kiểu chải tóc của anh chàng này luôn khiến ông bực bội: sao hắn cứ chải ngược mớ tóc nâu khô xác trước trán ra sau thế nhỉ! Đã thế, hắn còn hay lý sự nữa chứ.
- Vâng. Thì tên cậu không phải thế.
Sau tòa nhà lớn bây giờ có đám mây tím sẫm đang nhích dần lên giữa vòm trời, làm lu mờ ánh sáng của vầng dương chưa hiện diện. Quirke vừa dựng cổ áo khoác vừa lờ mờ nhớ lại rằng hình như tối qua, trước chầu nhậu nhẹt “tới bến”, ông có mang áo mưa, nhưng không hiểu bây giờ nó ở đâu. Cả hộp thuốc lá, ông đã đánh mất tự lúc nào.
- Cậu có thuốc, cho tôi vay một điếu nhé?
Anh bảo vệ chìa cả bao:
- Tôi chỉ dùng hiệu Woodbines này thôi.
Ông rút một điếu, cúi xuống ngọn lửa từ hộp quẹt cháy trong lòng bàn tay khum che gió và hít hà mùi khói xăng dìu dịu thoảng bay trong tích tắc. Sau đó, ông ngửa mặt nhìn trời, đoạn rít mạnh khói thuốc khét lẹt vào lồng ngực. Hay hớm thật: mới sáng sớm ông đã bơm đầy hai lá phổi bằng thứ khói độc hại này. Ông đóng nắp hộp quẹt cháy bằng xăng khiến nó kêu lạch xạch. Đến đây, Quirke không thể nén tiếng ho khan, nghe như thể cổ họng ông vừa bị cào tướp. Quirke kêu lên, giọng run rẩy:
- Trời! Sao cậu hút thứ này? Nếu tiếp tục, tôi sẽ sớm phải khiêng xác cậu lên bàn, mổ phanh ngực xem hai lá phổi trông
giống cá trích hun khói!
Anh chàng bảo vệ cười gượng, tiếng cười hào hển nghe không tự nhiên chút nào. Không buồn giữ phép tắc, Quirke bực bội đi qua mặt cậu ta. Khi ông bước xuống bậc tam cấp, vô số đầu dây thần kinh phía sau ông chứng kiến cái nhìn lạnh lùng, đầy ác ý của chàng trai trẻ. Tuy nhiên, ông không thể cảm thấy một ánh mắt khác đầy u uẩn đang dõi theo mình từ một cửa sổ trên lầu năm còn sáng đèn. Phía sau người theo dõi ông thấp thoáng những cái bóng lay động, lắc lư trong cuộc ăn chơi lu bù.
***
Những cơn mưa nhẹ cuối hè nhuộm xám những tán cây trên quảng trường Merrion. Quirke vội vã đi sát dãy hàng rào như thể nó có khả năng che cho ông khỏi ướt. Tay ông nắm chặt ve áo vest dựng lên che kín cổ. Hãy còn quá sớm so với giờ làm việc của nhân viên văn phòng, mọi nẻo phố đều vắng tanh, không thấy bóng dáng xe cộ đâu cả. Nếu trời không mưa, ông sẽ thấy rõ nhà thờ Peppercanister trong không gian rộng mở này. Nó nằm cuối đường Mount, con đường hơi chênh chếch nếu nhìn từ đầu con dốc này. Giữa vô số ống khói của khu dân cư đông đúc, chỉ có vài sợi khói mảnh bay lên. Sắp hết hè, trời hơi se lạnh. Trong khu nhà kiaz ai nhóm lửa sớm thế không biết. Ông hình dung các cô giúp việc dậy từ tờ mờ sáng, xuống tầng hầm xách từng xô than bùn lên nhà bếp. Sau mấy ô cửa sổ cao
vút kia là những căn phòng tối và chủ nhân của chúng hoặc đang vừa đi vừa ngáp, lục tục nấu bữa điểm tâm, hoặc còn tận hưởng thêm nửa tiếng đồng hồ ngủ nướng, vùi trong chăn ấm nệm êm trước khi ông mặt trời ló dạng. Có một lần, cũng vào lúc trước bình minh như hôm nay, ông nghe từ một trong những cửa sổ này văng vẳng tiếng phụ nữ kêu lên trong cơn cực khoái, tiếng kêu vang vọng suốt con phố vắng. Lúc ấy, ông tủi thân biết nhường nào khi lầm lũi đi một mình vào giờ khắc một ngày mới của cả thiên hạ còn chưa tới. Quirke đau nhói lòng, đồng thời lại thấy thỏa mãn bởi trong thâm tâm, ông tôn thờ cuộc sống cô quạnh của mình, coi đó như một dấu son đánh dấu nét độc đáo của ông.
Vào sảnh của tòa nhà, cái mùi khó tả lại thoảng đến mũi ông. Không hiểu sao, ông không thể chỉ mặt đặt tên cho nó, chỉ biết nó khiến ông rã rời, buồn bã như mùi của thời thơ ấu, nếu từ “thời thơ ấu” có thể gán cho thập kỷ đầu đời chỉ toàn đau khổ, cùng cực của ông. Quirke nặng nhọc bước lên cầu thang, trông hệt như người tử tù bước lên giá treo cổ. Đôi giày da ẩm ướt kêu lộp cộp. Leo được nửa cầu thang lên lầu một, ông nghe tiếng cửa dưới tầng trệt kẹt mở. Quirke dừng chân thở dài. Ông Poole từ dưới gắt gỏng nói với lên:
- Lại bù khú suốt đêm, không chợp mắt chút nào phải không?
Quirke quay lại. Ông hàng xóm đứng ngó nghiêng trước cửa nhà mở hé, không định ra cũng chẳng định vào. Ông vẫn giữ tư thế, dáng vẻ quen thuộc: vừa hùng hổ, vừa nhút nhát. Ông
Poole hay dậy sớm, đến độ Quirke ngờ rằng ông ta chẳng bao giờ ngủ vào ban đêm. Ông mặc áo may ô bên trong, ngoài mặc áo sơ mi có nơ và diện quần bằng vải chéo go ủi thẳng nếp, chân đi dép rơm màu xám. Trông ông giống hệt người cha nghiêm khắc của phi công lái máy bay chiến đấu thường thấy trong các phim của Anh quốc, hay nói đúng hơn là giống ông bố của cô gái trót đem lòng yêu gã không tặc người Anh ngổ ngáo. Quirke lịch sự mà xa cách:
- Chào ông Poole.
Thường thì ông Poole khiến Quirke nhẹ nhõm, nhưng sáng sớm nay, tâm trạng ông không được dễ chịu cho lắm. Cặp mắt diều hâu màu xám nhạt của ông hàng xóm ánh lên vẻ hằn học. Ông ta hay nghiến trèo trẹo hàm răng dưới. - Chơi bời thâu đêm suốt sáng. Ồn ào ầm ĩ nhức cả đầu. Mọi căn hộ khác trong tòa nhà đều trống, một mình Quirke ở tít trên tầng ba. Thế mà ông Poole suốt ngày phàn nàn đêm ồn ào quá mức.
Quirke gật đầu:
- Vâng, ớn thật. Chính tôi cũng mệt bã người.
Sau khi ngoái đầu nhìn vào nhà, ông Poole lại ngước lên thì thào:
- Tôi thì dễ tính, chứ bà xã khó chịu lắm đấy. Tôi đã gửi đi bản kiến nghị rất đanh thép. Tôi bảo họ rằng: tôi chống mắt coi các ông xử lý thế nào.
Đó chỉ là trò xuyên tạc mới của ông Poole. Thoạt nhìn, bà Poole vóc người nhỏ thó có kiểu láo liên nhìn trộm rất đáng gờm, nhưng thật ra bà ta điếc nặng.
- Ông nói phải. Chắc có tác dụng đấy.
Người láng giềng nheo mắt hăm dọa:
- Ừ, để rồi xem.
Quirke leo nốt chặng cuối. Mãi khi đứng trước cửa phòng mình, ông mới nghe tiếng người hàng xóm sập mạnh cửa căn hộ dưới lầu trệt.
Phòng khách lạnh lẽo miễn cưỡng đón ông vào. Tiếng mưa thì thào lọc qua hai khung cửa sổ cao và rộng, chứng tích còn lại của một thời vàng son. Dù bên ngoài trời xám xịt, phòng ông vẫn sáng sủa khác thường. Không hiểu sao, ông lại không thích thế. Ông mở nắp hộp đựng thuốc lá bằng bạc trên lò sưởi nhưng bên trong trống trơn. Ông khó nhọc quỳ một gối xuống, dùng hộp quẹt châm lửa lò sưởi đốt bằng khí gas và bực bội khi nhận ra mình quên áo mưa vắt ngang ghế bành từ đời thuở nào. Đứng vụt dậy, ông thấy chóng mặt ghê gớm. Khi mắt dần sáng tỏ trở lại, ông mới thấy mình đang nhìn chằm chằm tấm ảnh lồng trong khung đồi mồi bày trên mặt lò sưởi. Mal Griffin, Sarah, ông lúc hai mươi tuổi và Delia - người sau này là vợ ông, đang cười tươi, chỉ cây vợt tennis vào ống kính. Cả bốn người đều mặc trang phục chơi tennis trắng tinh, nắm tay nhau đứng dưới vầng dương chói lọi. Quirke phát hoảng vì ông không nhớ họ chụp hình ấy ở đâu. Hình như ở Boston thì phải. Nhưng hồi ở Boston, ông tuyệt nhiên không chơi tennis!
Trút bỏ quần áo ướt, ông khoác áo choàng mặc nhà và đi chân đất ngồi trước lò sưởi. Nhìn quanh căn phòng rộng, trần tít trên cao, ông cười buồn: sách vở, hình chụp và tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Đời ông chỉ có thế. Mới qua ngưỡng tứ tuần, ông thấy mình già như thể đã sống chín mươi năm. Thập niên năm mươi của thế kỷ hai mươi hứa hẹn với mọi người một kỷ nguyên mới thịnh vượng và hạnh phúc sẽ đến. Nhưng nó lại thất hứa. Ánh mắt ông dừng ở con búp bê bằng gỗ cao khoảng ba mươi centimet, có khớp nối đứng trên bàn thấp cạnh cửa sổ. Tay chân nó vung cao như sắp nhảy vọt lên. Ông nhíu mày nhìn đi chỗ khác nhưng rồi khó chịu thở dài đứng lên chỉnh tư thế búp bê sao cho thật thiểu não, chán chường hợp với cảm giác ngầy ngật, u ám và bồn chồn của người vừa quá chén. Trở lại ghế bành, ông ngồi phịch xuống. Mưa đã tạnh, không gian im ắng, chỉ có tiếng lửa đốt bằng khí gas kêu xì xì. Mắt ông đau rát như thể chúng vừa bị luộc chín. Ông nhắm mắt, hai mi run rẩy khi chạm vào nhau và trao cho nhau nụ hôn ngắn ngủi, bỏng rát. Một lần nữa ông cố nhớ lại khoảnh khắc có bức hình kia: bãi cỏ xanh mướt, nắng vàng như mật, hàng cây cao ngất và bốn người họ đều trẻ trung, đẹp đẽ mỉm cười dấn bước. Hình chụp ở đâu nhỉ? Họ đứng chỗ nào thế? Còn nữa, ai đứng sau ống kính và bấm máy thế?
2
M
ãi đầu giờ chiều, Quirke mới tập trung sức lực lết đến văn phòng. Vừa thấy ông bước vào khoa nghiên cứu bệnh học, hai trợ lý của ông là Wilkins và Sinclair thầm đưa mắt cho nhau. Ông lên tiếng:
- Chào hai cậu.
Khi ông quay lưng mải treo áo mưa, Sinclair cười cười nhìn Wilkins, làm động tác như đang đưa ly lên và ngửa cồ uống cạn. Anh chàng tinh nghịch Sinclair có cái mũi khoằm, mái tóc đen lượn sóng xõa ngang trán là “cây” trào lộng của khoa này. Mang chiếc cốc vại ra dãy bồn bằng thép đứng xếp hàng dọc bức tường sau bàn mổ hứng đầy nước, ông thận trọng mang nó vào văn phòng bằng bàn tay chưa thể gọi là vững vàng. Đúng lúc lục tìm lọ aspirin trong ngăn kéo bừa bộn, bực mình vì không hiểu đồ lặt vặt ở đâu cứ dồn cả về đó, ông chợt nhận ra cây viết máy của Mal lăn lóc bên bàn thấm mực. Lại một dấu hiệu khác thường nữa của Mal: ông ta không bao giờ quên cây bút quý, nhất là khi thân bút một nơi, nắp một nẻo thế này. Quirke nhíu mày đứng bật dậy, tâm trí cố vượt qua bức màn hư ảo của hơi men để quay về khoảnh khắc sự xuất hiện của ông trong phòng này khiến Mal phải giật mình. Cây bút nằm đó chứng tỏ ông không nằm mơ, nhưng giờ nhớ lại, ông cảm nhận một sự bất ổn lớn lao, không chỉ đơn thuần là sự thật giữa đêm hôm khuya
khoắt, Mal tìm đến ngồi ở chỗ đáng lẽ ông ta không có quyền ngồi.
Quirke quay lại, bước vào phòng lạnh chứa tử thi, đến thẳng giường của Christine Falls và lật tấm nhựa trắng phủ mặt xác chết. Mong sao hai viên trợ lý không thấy ông giật nảy mình vì trước mặt ông là xác một bà già rụng gần hết tóc, ria mép rậm rì như đàn ông, mắt khép hờ, miệng mở hé để lộ hàm răng trắng và đều tăm tắp như răng giả.
Trở lại văn phòng, Quirke lấy hồ sơ của Christine Falls trong tủ mang ra bàn. Cơn đau đầu lên đến đỉnh điểm, ông nghe có tiếng búa nện phía sau xương sọ. Ông giở tập hồ sơ ra xem. Chữ viết tay trong đó rất lạ: chắc chắn không phải chữ của ông nhưng cũng không phải chữ của Sinclair hay Wilkins. Nhìn chữ ký phía dưới, không ai có thể đoán được tên của ai, đặc biệt nó nguệch ngoạc như chữ trẻ con. Cô gái này người tỉnh xa, vì chữ viết xấu quá nên ông không thể nhìn ra đó là tỉnh Wexford hay Waterford. Nguyên nhân tử vong là tắc mạch phổi. Dù chưa tỉnh hẳn rượu nhưng Quirke vẫn lờ mờ nhận ra rằng người trẻ như vậy hiếm khi mắc chứng nghẽn mạch. Wilkins đã vào căn phòng phía sau ông, gót giày cao su của anh ta nghiến ken két trên nền nhà. Wilkins theo đạo Tin Lành, có cặp tai to và cái đầu dài, khoảng ba mươi tuổi nhưng hay rụt rè như thiếu niên mới lớn. Anh ta luôn lịch sự quá mức đến độ khiến người ta phát cáu.
Đặt hộp thuốc lá của Quirke lên bàn, anh ta ho khẽ: - Người ta trả lại ông cái này. Một cô y tá nhặt được đấy ạ.
- À phải.
Cả hai cùng lén nhìn chiếc hộp bằng bạc mỏng dẹt như thể chờ nó mọc chân tự bỏ chạy. Quirke đằng hắng:
- Cô ta tên gì nhỉ?
- Ruttledge ạ.
- Tôi biết rồi.
Bầu không khí im lặng như đòi một lời giải thích. Ông mở hộp thuốc, rút một điếu và châm lửa:
- Tối qua có tiệc trên lầu. Chắc tôi quên ở đó (chìa tập hồ sơ ra, Quirke nói nhanh). Xác người này, cô Christine Falls, đâu rồi?
- Tên gì cơ, thưa ông?
- Tên Christine, họ là Falls. Tối qua cô ta vừa ở đây, giờ không thấy nữa. Họ mang xác cô ấy đi đâu?
- Thưa sếp, tôi không biết.
Quirke thở dài, nhìn tập hồ sơ trước mặt. Ông ước gì mỗi khi được hỏi tới, Wilkins đừng có thưa gửi quá lễ phép như vậy. - Thế còn phiếu chuyển đâu?
Wilkins trở vào phòng lạnh. Quirke lục ngăn kéo bàn lần nữa và thấy lọ aspirin. Bên trong chỉ còn đúng một viên. - Thưa đây ạ.
Wilkins đặt tờ giấy mỏng màu hồng lên bàn. Vẫn chữ ký loằng ngoằng, gần giống trong tập hồ sơ. Thốt nhiên ông nhớ
dáng ngồi viết ngượng nghịu của Mal hồi đêm: dù thuận tay phải, nhưng hôm qua, ông ta viết tay trái.
***
Ngài Malachy Griffin đi thăm bệnh lượt đầu giờ chiều quanh khu nhà dành cho khoa sản. Trong bộ vest sọc nhuyễn chỉnh tề kèm theo nơ cổ màu đỏ, ông di chuyển từ phòng bệnh này đến phòng bệnh khác với dáng người thẳng đơ, cái đầu nhỏ ngẩng cao. Một nhóm học trò ngoan ngoãn cố theo sát bước thầy. Hễ đến ngưỡng cửa mỗi phòng, ông lại dừng chân một thoáng để lôi kéo sự chú ý của mọi người, đồng thời lớn tiếng hỏi thăm:
- Chào các chị. Hôm nay các chị khỏe không?
Sau đó, ông nhìn bao quát phòng và ngoác miệng nở nụ cười có đôi phần buồn nản. Các bà các cô bụng chửa vượt mặt mệt mỏi trên giường bệnh sẽ nhấp nhổm chờ đợi, chỉnh lại cổ áo, vuốt thẳng tóc tai, hoặc dúi xuống dưới gối hộp phấn nén hay gương nhỏ cầm tay lấy ra từ trước để sửa sang vì biết giờ này thể nào ông cũng tới. Mal là bác sĩ sản khoa đắt giá nhất ở thành phố này. Dù tiếng tăm nổi như cồn nhưng ông ta vẫn có đôi chút thiếu quả quyết. Điều đó cực kỳ hấp dẫn đám phụ nữ sắp sửa làm mẹ Vào giờ thăm bệnh, nhiều đức lang quân thở dài sườn sượt khi phải nghe vợ mình khen ngài Griffin không tiếc lời. Còn nữa, nhiều bé trai chào đời ở bệnh viện Holy Family này bị buộc phải khó nhọc gánh lấy cái tên Malachy vì bố mẹ chúng muốn tỏ lòng tôn kính ngài Griffin.
- Tôi phải công nhận các chị thật đáng nể!
Quanh quẩn cuối hành lang, Quirke quan sát Mal oai vệ đi quanh lãnh địa của mình mà bấm bụng thầm cười cay đắng. Ông hít hà cái mùi lạ lẫm ở đây: mùi của người sống, của hài nhi. Vừa từ phòng bệnh cuối cùng đi ra, Mal cau mày khi thấy ông.
- Nói chuyện chút được không?
- Cậu cũng thấy rồi đấy, tôi đang đi thăm bệnh nhân mà. - Chỉ vài câu thôi mà.
Mal thở dài, vẫy tay ra hiệu học trò giải tán. Thọc tay túi áo, cả hai đi thêm mấy bước rồi dừng lại. Tình huống lúc này thật đúng với câu “bằng mặt nhưng không bằng lòng”. Hầu như ai cũng biết Quirke và Mal không ưa gì nhau.
Ông trả Mal cây viết máy.
- Anh để quên cái này.
Mal tỉnh bơ:
- Ô, tôi sơ suất vậy sao? Cảm ơn cậu nhé.
Ông ta cẩn thận cất bút vào túi ngực nằm ở mặt trong của áo khoác. Quirke thầm thán phục cách Mal cẩn trọng với từng động tác nhỏ. Dù chỉ làm những việc vặt vãnh, ông ta cũng trịnh trọng ghê gớm. Quirke mào đầu:
- Tôi định nói về Christine Falls.
Mal chớp mắt, liếc nhanh nhóm sinh viên đang chờ ông. Trước khi quay lại với Quirke, ông ta đẩy nhanh gọng kính lên
trên sống mũi:
- Ừ, thì sao?
- Tôi có đọc tập hồ sơ anh lấy ra xem tối qua. Có gì không ổn à?
Mal bấu nhẹ môi dưới. Từ bé, ông ta đã hay làm thế, và còn nhiều động tác buồn cười khác như dùng một đầu ngón tay đẩy kính lên sống mũi, bẻ khớp tay khùng khục và giật nhẹ hai cánh mũi. Quirke buồn cười vì Mal đang bóp méo hình ảnh của chính mình.
Ông ta cố làm mặt tỉnh rụi.
- Tôi chỉ xem lại vài chi tiết của ca điều trị đó.
Quirke nhướng một bên lông mày:
- Ca điều trị ư?
Mal sốt ruột nhún vai.
- Chứ cậu muốn gì?
- Thứ nhất là cô ta đã chết. Xác cô ấy...
- Chuyện ấy thì tôi mù tịt. Này Quirke, chiều nay tôi bận lắm. Cậu cảm phiền vậy nhé?
Vừa định đi, Mal đã bị Quirke nắm cánh tay.
- Khoa bệnh học thuộc trách nhiệm quản lý của tôi. Anh không có phận sự ở đó thì đừng vào.
Quirke buông tay. Mal không nói không rằng, lạnh lùng quay lưng bỏ đi. Quirke nhìn theo ông ta bước nhanh thoăn thoắt, vẫy tay ra hiệu đám học trò bám theo sau như đàn ngỗng
con theo mẹ đi tìm mồi. Quirke cũng xoay gót xuống cầu thang rộng dẫn tới tầng hầm và vào văn phòng. Ông biết ánh mắt dò xét của Sinclair đang bám nhằng nhằng sau gáy. Vừa ngồi vào bàn, mở hồ sơ của Christine Falls ra xem lại, Quirke đã nghe điện thoại reo. Chiếc điện thoại ấy “ngồi” chồm hổm trên bàn hệt như con cóc và cất tiếng kêu chói tai. Mười lần như một, tiếng kêu của nó làm ông giật bắn mình. Ông lắng nghe người đầu dây bên kia một lát rồi hỏi:
- Năm rưỡi à?
Và cúp máy.
***
Tối nay khí trời ấm áp dễ chịu. Quirke đứng trên vỉa hè rộng, dưới tán cây, vừa hút điếu thuốc cuối cùng vừa nhìn bên kia đường. Có cô gái vừa bước lên bậc tam cấp của khách sạn Shelbourne. Cô gái trẻ mặc váy trắng chấm bi màu đỏ, đội nón nhỏ màu trắng ngộ nghĩnh có gắn lông chim. Mặt hơi xoay sang phải vì cô mải quan sát góc đường Kildare. Một cơn gió nhẹ làm tà váy lay động. Ông thích dáng đứng vừa thận trọng, vừa tự chủ của cô với đầu và vai hơi ngả ra sau, hai bàn chân xỏ trong đôi giày nhỏ nhắn chụm lại, hai bàn tay cầm găng và túi xách nhỏ giơ cao ngang tầm eo lưng. Cô gái khiến ông nhớ Delia quay quắt. Trên đường, một con ngựa nâu sẫm kéo cỗ xe sơn màu xanh ôliu phóng vọt qua. Quirke ngẩng đầu hít thật sâu mùi hương của một tối hè muộn: một hỗn hợp của mùi bụi,
ngựa, hoa lá, khói xăng, và thêm một chút mùi thơm của nước hoa từ chỗ cô gái thoảng đến.
Ông sang đường, vượt qua đầu chiếc xe buýt hai tầng sơn màu xanh lá mạ. Lập tức, xe cất tiếng còi toe toe phản đối. Cô gái nọ ngoái đầu bình thản nhìn ông giẫm lên mảng nắng chen lẫn mảng bóng cây in trên đường. Áo gió khoác trên một cánh tay, tay kia ông đút túi quần, chiếc nón nỉ trên đầu lật ra sau, chỉ chực rơi xuống đất. Vừa đi, ông vừa nhíu mày cố tập trung. Đôi chân bé tí so với thân người đồ sộ của Quirke phải cố lắm mới đưa ông tiến lên trước. Thấy vậy, cô gái bước xuống đến bên ông.
- Dượng hay rình mò gái trẻ thế ư?
Đến trước mặt cô, Quirke dừng lại, đặt một chân lên rìa vỉa hè:
- Như thế nào?
- Như kẻ cướp rình trước cửa ngân hàng ấy.
- Cũng còn tùy cô gái. Cháu có gì đáng để ta cướp không? - Cũng còn tùy dượng coi cái gì là đáng cướp.
Họ im lặng nhìn nhau giây lát, đoạn cô gái mỉm cười: - Dượng sao giống thầy tu quá.
- Thầy tu thì có gì không ổn hả Phoebe?
Cô gái nhăn mặt nhún vai.
- Trên đời có gì ổn đâu.
***
Họ ngồi trên chiếc ghế khảm nhỏ xíu trong sảnh khách sạn, dùng trà với bánh kẹp và bánh ngọt, thứ gì cũng bé tí tẹo. Căn phòng rộng có trần cao và trang hoàng đẹp đẽ này khá đông. Mọi chiều thứ sáu như hôm nay, khách từ nông thôn lên rất đông. Trong trang phục như dân nài ngựa: quần áo bằng vải tuýt và giày dép thô kệch, họ cười nói ông ổng, gọi nhau í ới. Họ làm Quirke khó chịu. Mỗi khi ông tức tối đổi thế ngồi, chỗ để tay ở hai bên ghế bành nhỏ lại bó chặt lấy hông. Rõ ràng Phoebe thích đến đây. Cô gái hài lòng vì có cơ hội được ra dáng cô nương quý phái, đáng mặt con gái của bác sĩ Griffin danh tiếng. Ngắm Phoebe qua miệng ly trà vừa nâng lên môi, Quirke vui vì đã làm đẹp lòng cô. Cởi mũ, cô đặt nó cạnh đĩa bánh. Trông nó như một vật trang trí tao nhã cho mặt bàn. Chiếc lông chim mềm oặt gục xuống. Tóc cô đen tuyền, lọn tóc bóng mượt, óng ả. Cô gái thừa hưởng cặp mắt tinh anh của mẹ. Dù thấy cô tốn quá nhiều phấn son cho việc trang điểm (nhất là cặp môi tô son đỏ chót, không hợp với tuổi chút nào), ông vẫn không chê trách. Ở góc phòng đối diện có một ông già mặc đồ sĩ quan đầu hói bóng và đeo kính một mắt hay nhìn về phía này khiến Quirke lầm tưởng ông lão trợn mắt giễu cợt mình. Phoebe đưa trọn cái bánh ngọt nhỏ xíu vào miệng nhai nhóp nhép. Cô trợn mắt, cười tự giễu.
Quirke hỏi thăm:
- Người yêu cháu hồi này thế nào?
Phoebe nhún vai, nuốt ực miếng bánh.
- Bình thường ạ.
- Vẫn học luật ư?
- Sang năm anh ấy ra nghề rồi.
- Sớm thế sao? Nghề thầy cãi cũng có giá lắm đấy. Phoebe ném vụn bánh về phía ông. Lập tức, Quirke cảm giác có tia nhìn giận dữ lóe lên sau tròng kính một mắt phóng thẳng về phía mình.
- Đừng ăn nói cay độc nữa. Dượng là chúa hay châm biếm. (Mặt cô tối sầm, mắt nhìn xuống tách trà). Họ bắt cháu bỏ anh ấy. Chính vì thế cháu mới gọi điện cho dượng.
Quirke gật đầu, cố giữ cái nhìn bình thản.
- Họ là những ai?
Phoebe hất đầu, mấy lọn tóc nhảy nhót trên vai:
- Thì cả nhà đó. Tất nhiên là có bố cháu. Ông nội cũng hùa theo.
- Thế còn mẹ cháu?
Phoebe cười khẩy, đoạn chúm môi, bắt chước giọng mắng mỏ:
- Mẹ cháu ấy à? “Này Phoebe, con phải nghĩ đến danh gia vọng tộc nhà ta, nghĩ đến tiếng tăm của bố con nữa chứ.” Toàn đạo đức giả!
Liếc nhanh Quirke, cô gái phá lên cười và đưa tay che miệng.
- Dượng không muốn nghe ai nói xấu mẹ, đúng không? Quirke không trả lời, chỉ hỏi lại:
- Vậy cháu muốn ta làm gì?
Phoebe tì ngực lên hai cánh tay khoanh trên bàn: - Dượng phân tích phải trái cho họ nghe. Thuyết phục bố... hoặc ông nội cũng được. Ông nội vốn quý dượng nhất nhà. Sau đó, ông nói gì, bố cũng nghe mà.
Quirke rút hộp thuốc và bật lửa. Phoebe chăm chú nhìn ông gõ gõ đầu điếu thuốc vào móng tay cái. Ông biết Phoebe đang suy tính xem có nên xin ông một điếu chăng. Phà khói lên trần nhà, Quirke nhặt sợi thuốc lá dính trên môi dưới.
- Hy vọng cháu không thực lòng muốn lấy Berti Wooster làm chồng.
- Conor Carrington chứ ạ! Anh ấy chưa cầu hôn đấy thôi. - Năm nay cháu mấy tuổi rồi?
- Hai mươi.
- Làm gì tới.
- Cũng sắp rồi ạ.
Dựa hẳn lung vào lưng ghế, ông chăm chú nhìn Phoebe: - Cháu không định bỏ nhà đi như lần trước đấy chứ? - Không, nhưng cháu đang tính ra ở riêng. Cháu đâu còn trẻ
gì cho cam. Giờ là năm 1959 rồi, đâu phải thời trung cổ nữa. Vả lại, nếu không lấy được anh Carrington, cháu sẽ trốn bố mẹ sang ở với dượng.
Quirke bật cười, kêu lên phản đối:
- Cảm ơn, nhưng không được đâu.
- Đó đâu phải tội loạn luân. Tại dượng cưới dì Delia nên mới thành người nhà.
Nét mặt Phoebe chợt khang khác. Cô cắn môi, mắt nhìn xuống và quay sang lục túi xách. Quirke hốt hoảng vì thấy một giọt nước mắt rơi xuống tay con gái. Liếc nhanh tới cuối phòng đối diện, ông thấy vị quân nhân đeo kính một mắt vừa đứng lên, trịnh trọng đi giữa dãy bàn. Đã tìm thấy khăn tay, Phoebe xì mũi ồn ã. Giờ thì người lính già đang nhìn thẳng vào họ. Quirke định thần, cố nghĩ cách chống chế nếu phải đối mặt với ông ta. Con bé khóc đâu phải lỗi của ông? Tuy nhiên, ông nọ đi ngang qua bàn hai người, cười thật tươi và chìa tay cho ai đó phía sau lưng Quirke.
- Trevor đấy à? Tôi tưởng anh...
Phấn son trên mặt Phoebe dính lem nhem cả. Mascara đen hòa với nước mắt đọng thành giọt ngay dưới mi trông như diễn viên kịch câm.
- Dượng ơi! Cháu khổ quá.
Quirke dúi mẩu thuốc vào gạt tàn trên bàn. Cơn đau đầu từ sáng vẫn đeo theo, hành hạ ông:
- Cháu làm gì thế? Bình tâm đi nào.
Phoebe phụng phịu nhìn ông qua hàng nước mắt. - Đừng có bắt cháu bình tâm. Ai thấy cháu cũng bảo “phải bình tĩnh”. Cháu chán lắm rồi!
Cô đóng mạnh nắp túi xách, đứng bật dậy nhìn quanh như thể không nhớ mình đang ở đâu. Vẫn ngồi trên ghế, Quirke ngước lên bảo “Vì lòng kính yêu Đấng Tối Cao”; ông mong Phoebe ngồi xuống nhưng cũng như nước đổ lá khoai vì cô không nghe. Thực khách ở những bàn quanh đó dồn mắt về phía họ.
- Cháu đi đây.
Nói xong, cô bươn bả bỏ đi.
Gọi tính tiền xong, Quirke vội chạy theo và bắt kịp Phoebe ngoài cửa khách sạn. Phoebe đưa khăn tay lên chấm mắt. - Trông cháu ghê chưa kìa. Vào trong “sửa soạn” lại đi. Cô gái nổi cơn lôi đình khi nãy giờ ngoan ngoãn như cừu non. Phoebe nghe lời, trở vào trong khách sạn. Quirke đứng sát cửa kính hút thuốc, chờ Phoebe chỉnh trang. Trời tối muộn. Hàng cây bên đường Green đổ bóng đen thẫm xuống mặt đường. Chẳng bao lâu nữa, mùa thu sẽ tìm về. Quirke đang say sưa ngắm dãy nhà mặt tiền đường Hume có đèn sáng trưng thì Phoebe ra đến nơi. Cô khoác tay ông.
- Mình tìm chỗ khác đi. Đưa cháu vào quán rượu chui hạ đẳng nào đó uống một chầu nhé! (Phoebe siết chặt tay ông, cười khản đặc) Cháu đang muốn “quậy” tưng bừng đây!
Tản bộ dọc đường Green, họ hướng về đường Grafton. Người ta xuống đường đi bộ hóng mát khá đông để tận hưởng những giờ khắc cuối cùng của một ngày đẹp trời có khởi đầu có thể nói là tồi tệ. Phoebe nép sát vào ông, cánh tay cô vẫn khoác chặt tay
ông. Quirke thấy hơi ấm từ người cô lan tỏa và chuyển động nhịp nhàng, uyển chuyển ở phần hông rắn chắc. Ông chạnh nhớ Christine Falls cứng đơ, nhợt nhạt trong quan tài. - Hồi này cháu học hành thế nào?
Phoebe nhún vai:
- Cháu định học ngành khác. Học sử ngán quá trời. - Vậy sao? Thế cháu định học gì?
- Chắc học y thôi. Theo truyền thống gia đình cũng tốt (Quirke không bình luận gì thêm. Phoebe lại siết chặt cánh tay ông). Cháu muốn dọn ra ở riêng thật mà. Nếu mọi người không để cháu tự do, cháu sẽ đi cho xem.
Quirke nhìn cô bật cười.
- Làm sao cháu sống một mình được? Dượng không tin bố cháu sẽ “cung phụng cho cuộc sống phóng túng” của cháu đâu. - Cháu tìm việc làm chứ ạ. Người Mỹ toàn thế. Cháu có người quen nhờ mục “Tìm bạn” trên báo. Cô ấy vừa tốt nghiệp đại học mà không cần nhờ vả ai hết. Cô ấy viết thư cho cháu, bảo rằng “Vừa sống tự lập, tớ vừa hoàn tất chương trình đại học”. Hay chưa?
Vừa rẽ vào đường Grafton, họ gặp ngay quán rượu McGonagle’s. Quirke kéo mạnh cánh cửa lớn lắp kính màu đỏ và xanh lục. Lập tức mùi bia, khói thuốc lá và tiếng nói cười ồn ào ùa ra chào đón họ. Dù chưa phải giờ cao điểm của các hộp đêm và quán bar, nơi này đã đông nghịt.
Phoebe thất vọng, nói:
- Thế này là “hạ đẳng” ư?
Đi sau Quirke, cô đẩy ông tới thẳng quầy bar. Họ tìm được hai ghế trống cao chênh vênh cạnh cột nhà bằng gỗ vuông vức có gắn mảnh gương hẹp. Phoebe kéo váy ngồi lên ghế và mỉm cười với ông. Phải công nhận cô cười rất giống Delia ngày đó. Vừa ấm chỗ, Quirke nhận ra ông đang ngồi đối diện tấm gương sau vai Phoebe nên đòi đổi chỗ vì ông không thích soi gương.
Ngoắc tay kêu phục vụ quầy đến gần, Quirke hỏi Phoebe: - Cháu uống gì?
- Thế dượng định cho cháu uống gì?
- Nước sâm thổ phục linh.
- Không, cháu uống rượu mạnh cơ.
Quirke nhướng lông mày:
- Thật không đấy?
Người phục vụ quầy đã luống tuổi, lưng còng và khuôn mặt nghiêm trang như tu sĩ.
- Davy này, tôi vẫn như mọi khi. Còn quý cô đây dùng rượu gin và tonic.
Ngày xưa, hồi Quirke nghiện rượu nặng, McGonagle’s từng là “quán ruột” của ông. Ông Davy gật đầu, khịt mũi rồi bỏ đi. Phoebe nhìn quanh căn phòng chìm trong khói thuốc. Một bà béo trang điểm lòe loẹt, mặc váy tím, tay run rẩy cầm vại bia đen loại nặng, nháy mắt cười với cô, phô ra hàm răng ám khói thuốc đen xì. Người đàn ông đứng cùng bà ta gầy nhẳng, có mái tóc trắng và cứng xẹp sát da đầu. Phoebe hỏi nhỏ:
- Hai người kia có phải nghệ sĩ kiệt xuất không?
Ai cũng biết McGonagle’s là nơi hội tụ của những người tự xưng là thi sĩ và nhân tình của họ.
- Ở đây ai chả kiệt xuất. Hay ít nhất họ cũng nghĩ mình giỏi giang.
Ông Davy mang đồ uống tới. Có điều rất lạ là Quirke chưa bao giờ thích vị của whisky hay bất kỳ loại đồ uống có cồn nào khác. Ngay cả những lúc thiếu tỉnh táo nhất, đặc biệt là sau cái chết của Delia, vị chua và nóng của nó làm ông muốn nôn mửa. Thế nhưng ông vẫn nhắm mắt nhắm mũi nuốt cả bình đầy. Thực tình ông không thích uống rượu chút nào. Lúc đầu, ông tưởng thói nghiện ngập có sẵn trong máu mình, nhưng thực ra không phải. Có lẽ chính vì thế ông không thành kẻ nát rượu hết thuốc chữa, ngay cả trong thời kỳ buồn bã khóc thương người vợ quá cố.
Ông khẽ nghiêng ly về phía Phoebe.
- Uống mừng tự do!
Cô gái nhìn chăm chăm ly rượu trước mặt, ngắm mấy cục nước đá nổi lềnh bềnh giữa đám bọt trắng.
- Dượng phải lòng mẹ cháu, đúng không?
Quirke sững sờ. Một ông cao lớn, trán cao và bóng nhẫy đi ngang qua họ rồi len lỏi trong đám đông. Quirke nhận ra người này cũng từ khách sạn ban nãy đến đây. Ông ta tên Trevor, người quen của ông già đeo kính một mắt. Người ta nói “trái đất tròn” quả không sai! Phoebe vẫn không chịu chuyển đề tài:
- Hồi xưa, dượng đã yêu mẹ cháu. Bây giờ vẫn yêu. Cháu biết hết rồi.
- Dượng yêu em bà ấy. Dượng lấy dì của cháu cơ mà. - Không! Dượng làm thế để trả đũa. Bố cháu lấy người yêu của dượng. Chính vì thế dượng mới lấy dì Delia.
- Cẩn thận, người chết “có tai” đấy.
- Cháu biết. Cứ cho là cháu chẳng ra gì. Nhưng sự thật đúng là như thế. Vậy dượng còn thương nhớ người xưa không? - Ai cơ?
Phoebe bực mình cong khớp tay cốc mạnh vào xương cổ tay ông. Lông chim trên mũ cô chạm vào trán Quirke: - Trời, hai mươi năm rồi còn hỏi. - Ông im bặt một lát rồi bảo. - Có! Dượng có nhớ dì.
***
Sarah ngồi trên ghế nệm dày nhưng không có lưng dựa ngay trước bàn trang điểm, tự ngắm bóng mình trong gương. Đã choàng lên người chiếc váy lụa màu đỏ thắm, bà vẫn phân vân tự hỏi mặc thế có thích hợp chăng. Thực khách sẽ săm soi bà từ đầu đến chân dù họ luôn vờ làm như không để ý. Họ cố tìm một điểm không vừa mắt, một dấu hiệu khác lạ cho thấy bà không thuộc tầng lớp của họ. Dù bà gia nhập giới thượng lưu đã mười lăm năm nhưng họ không bao giờ chấp nhận, đặc biệt là đám đàn bà con gái. Họ cười nói, tâng bốc, rỉ tai bà vài câu chuyện
làm quà, như thể bà là loài vật lạ mới được vườn thú đem trưng bày. Họ quan tâm thái quá đến những gì bà nói, gật đầu mỉm cười khích lệ bà như thể đang lắng nghe ý kiến của trẻ con hoặc của người thiểu năng trí tuệ. Lát nữa, giọng nói của bà sẽ run rẩy do quá căng thẳng vì phải cố bình thản. Câu chữ sẽ líu ríu theo nhau tuôn ra để rồi chẳng thể lọt vào tai ai. Rồi họ sẽ nhíu mày, giả vờ không hiểu một cách lịch sự mỗi khi bà lỡ lời sử dụng đặc ngữ Mỹ. Họ sẽ bảo; “Thú vị thật! Chị vẫn giữ gìn bản sắc qua giọng nói. Bao nhiêu năm rồi nhỉ?”, như thể bà giống một món hàng, chẳng hạn thuốc lá hoặc gà tây, do đám cướp biển kiêm lái buôn xuyên Đại Tây Dương mang đến đây. Sarah thở dài. Nếu chẳng may xiêm áo này không hợp nhãn đám người nọ, bà cũng chẳng còn hơi sức để thay bộ khác.
Mal vừa từ phòng tắm đi ra. Dù chưa thắt cà vạt, ông đã mặc áo sơmi dài tay và đeo dây quần chỉnh tề. Chìa cặp khuy măng sét ra, ông khó chịu than vãn:
- Rắc rối quá! Mình cài hộ tôi với.
Sarah đứng lên cầm hai chiếc nút cầu kỳ, lạnh ngắt và cài vào cổ tay áo cho chồng. Họ tránh nhìn vào mắt nhau. Mal mím môi, ngoảnh mặt lơ đãng nhìn góc trần nhà. Làn da phía trong cổ tay ông trắng mịn. Hai mươi năm trước, lần đầu tiên bà có ấn tượng mạnh về ông cũng chính bởi mảng da đó. Ngày ấy, anh chàng Mal dáng cao gầy vẻ thư sinh, luôn dịu dàng, hòa nhã, ôn tồn và có phần mềm yếu.
Mal hỏi vợ:
- Phoebe có nhà không?
- Con bé không về muộn đâu, anh đừng lo.
- Ngày thường thì không nói, nhưng tối nay nó về trễ là không được đâu đấy.
- Sao anh nghiêm khắc với con quá thế?
Mal mím môi chặt hơn:
- Còn em nữa! Sao vẫn chưa ra xem ông nội đến chưa. Ông cụ khó tính, khó chiều thế nào, chắc em biết rõ hơn tôi. Sarah tự hỏi từ khi nào họ nói chuyện với nhau nhấm nhẳng, lạnh lùng như hai người lạ chẳng may phải đi chung thang máy!
Sau mỗi bước chân đi xuống cầu thang, Sarah lại nghe tiếng sột soạt của chiếc váy lụa cọ vào đầu gối. Phải, đáng lẽ bà nên mặc trang phục khác nền nã hơn. Chiếc váy này quá “nổi”.
Trong phòng ăn, bà giúp việc Maggie đang bày muỗng nĩa ra bàn.
- Bà Maggie này, mọi thứ xong cả chưa?
Người hầu gái già nhíu mày, quay nhanh sang nhìn như thể chưa nhận ra bà chủ ngay. Mãi sau bà mới gật đầu. Gấu váy phía sau của bộ trang phục người làm dính bẩn. Sarah cầu trời đó chỉ là vết nước xốt thịt. Trước kia nhà có hai người giúp việc, giờ chỉ còn một. Tuy bà Maggie đã quá tuổi lao động từ lâu nhưng Sarah không nỡ bắt bà thôi việc. Với cô hầu gái trẻ người non dạ, Sarah cực chẳng đã mới phải nhìn cô ta rời nhà này cách nay chưa lâu. Nghe tiếng gõ cửa, Sarah nói ngay:
- Để tôi ra.
Bà giúp việc không buồn nhìn lên, chỉ gật đầu nheo mắt nhìn đống muỗng nĩa.
Sarah vừa mở rộng cánh cửa, ông cụ Garret Griffin đã dúi bó hoa vào tay con dâu. Sarah hồ hởi:
- Con chào bố.
Ông cụ đã vào sảnh rồi, Sarah vẫn phân vân không biết phải đón tiếp cụ thế nào vì người nhà Griffin, dù xuề xòa như ông Garret, cũng không dễ dàng để người khác hôn theo nghi lễ xã giao. Chỉ bó hoa cực kỳ xấu xí trong tay Sarah, ông cụ bảo:
- Hy vọng hoa cũng tàm tạm. Bố không rành mấy thứ này lắm.
- Đẹp lắm ạ.
Vừa nói, Sarah vừa thận trọng đưa bó hoa nở hết cỡ lên mũi. Mấy bông cúc giống Michaelmas này có mùi vớ bẩn, nhưng không sao. Được gặp ông cụ là bà mừng rồi. Bà lại khen: - Hoa đẹp quá.
Ông Garret cởi áo khoác treo lên móc sau cánh cửa. Xoay lưng về phía con dâu, ông xoa tay, nói:
- Hình như bố đến sớm nhất thì phải.
- Bất cứ ai đến sau đều trễ giờ đấy ạ.
Ông rên rỉ:
- Trời đất! Sao bố toàn đến sớm thế nhỉ.
- Thế con mới được nói chuyện với bố, kẻo lát nữa ai cũng muốn nói chuyện mãi với bố thôi.
Ông mỉm cười nhìn xuống, đúng dáng vẻ ngại ngần quen thuộc. Sarah hơi bất ngờ trước tình cảm quý mến bà dành cho bố chồng. Đúng lúc đó, Mal xuất hiện trên đầu cầu thang, trang trọng và oai vệ trong bộ vest sẫm màu cùng cà vạt trang nhã. Ông Garret nhìn lên, lạnh nhạt hỏi chiếu lệ:
- Con đấy à?
Hai cha con im lặng đứng nhìn nhau. Sarah buộc phải bước lên đứng giữa hai người, phá tan bầu không khí lạnh lùng và dò xét. Bà giơ cao bó hoa xấu xí.
- Anh xem bố mang gì đến này. Hoa đẹp ghê chưa?
***
Quirke ngồi trước ly thứ ba. Tựa sườn vào quầy bar, ông chống khuỷu tay lên mặt quầy, một mắt nheo lại vì khói từ điếu thuốc gắn trên miệng, lơ đãng lắng nghe Phoebe kể về dự định tương lai. Sau khi được ông cho phép uống ly thứ hai, mắt Phoebe sáng long lanh, hai má đỏ ửng như quả bồ quân. Trong lúc cô thao thao bất tuyệt, chiếc lông chim trên mũ rung mạnh, nhất là lúc cô cực kỳ phấn kích. Gã đàn ông tóc rễ tre ngồi cạnh họ liên tục nhìn trộm cô gái, khiến bà bạn to béo của gã khó chịu dù Phoebe không hề biết ánh mắt láo liên của gã liên tục hướng về phía mình. Quirke cười, thầm tự trách mình ngớ ngẩn vì sung sướng được ở bên cô cháu gái sáng láng, trẻ trung trong chiếc váy mỏng nhẹ. Đến giờ này, quán ồn ào không thể
tả. Dù cố lắng tai, ông cũng chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Bất chợt có tiếng người nói lớn ngay sau lưng ông:
- Nếu không phải thần Chết thì gã này đúng là Chúa Giêsu đi giày cao cổ!
Đó chính là Barney Boyle sống sượng, say xỉn ngất ngư và đang vui sướng điên cuồng. Quirke ngoái đầu cười ngượng. Gặp Barney ở đây thì nguy to. Ngày trước, Quirke và ông ta từng là bạn nhậu có nhau trên “từng cây số”. Ông uể oải chào:
- Barney đấy à? Đến bao giờ thế?
Nhìn trang phục của Barney cũng biết ông ta là dân nhậu “xịn”: bộ vest nhăn nhúm, vấy bẩn, nút thắt cà vạt kéo xuống tận bụng, áo sơmi cháo lòng không cài nút cổ như thể chú nhân của nó vừa mở phanh trong một cuộc hỗn chiến. Phoebe mừng rơn vì được giáp mặt Barney Boyle danh tiếng nổi như cồn. Cô suýt bật cười vì ông này đúng là phiên bản nhếch nhác của Quirke. Dù thấp hơn dượng cô một cái đầu, nhưng Barney cũng có bụng bia to bự, chiếc mũi gãy và đôi bàn chân bé tí. Chộp lấy tay cô gái, Barney “dán” vào đó một nụ hôn ướt át. Cô gái để ý thấy hai bàn tay ông ta nhỏ, mềm oặt và mũm mĩm như tay em bé.
Barney quay sang hỏi Quirke:
- Cháu gái ông đấy à? Thượng đế ơi, đúng là “hậu sinh khả úy”. Con gái bây giờ cứ gọi là đẹp như tiên sa. (Ông ta nhăn nhở cười với Phoebe). Mà này, người uống bia uống rượu vào rồi chỉ biết nói toàn sự thật, không hề thêm bớt đâu nhé.
Ông ta gọi thêm đồ uống, mặc Quirke nhất mực can ngăn, bảo Phoebe không uống thêm được. Thấy cô gái trẻ háo hức nhìn mình, Barney tranh thủ khoe mẽ. Một tay kẹp điếu thuốc mềm nhũn, tay kia nâng vại bia đen, ông ta cứ nhấp nhổm như đứng trên tổ kiến lửa. Nghe Phoebe hỏi thăm vở kịch ông đang sáng tác, Barney xua tay gầm lên:
- Tôi “rửa tay gác kiếm” rồi, không có kịch cọt gì hết nữa. Tạo dáng hiên ngang, ông ta cao giọng như đang diễn thuyết trước hàng ngàn khán giả:
- Từ nay trở đi, tài năng của tôi sẽ không thành trái ngọt cho đời. Nhà hát Abbey sẽ phải tự xoay xỏa lấy.
Đoạn ông ta ngửa cổ, há miệng lớn và dốc tuột ly bia vào họng. Cục yết hầu trên cần cổ “vất vả” chạy lên chạy xuống. Đưa mu bàn tay lên quệt ngang đôi môi đỏ mọng, Barney ba hoa:
- Tôi sẽ lại sáng tác thơ, bằng tiếng Ailen hẳn hoi nhé. Đó là thứ ngôn ngữ tuyệt hay tôi học được trong tù, hay còn gọi là trường đại học của giới cần lao.
Quirke chậm rãi mỉm cười lạnh lùng. Ngày xưa, có nhiều đêm ông và Barney từng đứng trong quán này, cùng cười nói huyên thuyên đến tận giờ đóng cửa. Hết cụng đầu lại cụng ly, họ tâng bốc nhau lên tận mây xanh. Giờ tất cả đã thành dĩ vãng. Lúc Barney định gọi thêm, Quirke cương quyết giơ tay xin kiếu, bảo đã đến giờ đưa cháu gái về.
Làm như không thấy ánh mắt bực bội của Phoebe, Quirke leo xuống ghế:
- Xin lỗi anh Barney. Đành hẹn anh lần khác vậy. Barney nhếch môi, nhìn ông khinh khỉnh. Từ chiều đến giờ, Quirke đã hai lần chuẩn bị tinh thần đối đầu. Lúc này, ông cũng đang nghĩ cách tránh đòn sao cho khéo. Dù vóc người thấp tịt, Barney đánh đấm không tồi chút nào. May thay, ánh nhìn của ông ta chuyển sang Phoebe. Ông nheo mắt hỏi:
- Cô có phải cháu ông Garret Griffin, thẩm phán hàng đầu của Tối cao Pháp viện, xuất thân dòng dõi công hầu khanh tướng?
Vừa cố nài Phoebe xuống ghế bằng cách giật nhẹ khuỷu tay cô, Quirke vừa nhanh nhẹn vơ nón và áo mưa. Ông đỡ lời: - Chỉ trùng tên thôi, không có liên quan gì đâu.
Barney không thèm nghe, tiếp tục phân trần với Phoebe: - Bởi vì chính ông ta và bè lũ đã bỏ tù tôi vì tội chiến đấu bảo vệ quê cha đất tổ! Năm 1939, ở Coventry, nhóm tôi đã ném pháo vào địch. Cô Griffin làm sao biết chuyện ấy! Nói thật với cô, mấy quả bom tự chế ấy chỉ nhỉnh hơn cây bút máy (trán Barney bóng nhẫy mồ hôi, con ngươi thụt sâu hơn vào hai hố mắt trũng sâu). Vậy mà về đến nhà, thay vì được khen thưởng xứng với công trạng, tôi phải ngồi nhà đá. Quan tòa Griffin đã làm cả phòng xử án cười ồ lên khi bảo sẽ cho chúng tôi bóc lịch mỏi tay. Hồi đó tôi mới mười sáu tuổi đầu. Xin hỏi chính kiến của cô Griffin về chuyện ấy?
Đến đây, Quirke cương quyết bỏ đi, lôi theo Phoebe miễn cưỡng vì chưa muốn về. Chăm chú nghe chuyện nãy giờ, gã đàn
ông tóc rễ tre giơ một ngón tay lên, nói:
- Theo tôi...
Không thèm nhìn gã, Barney lẩm bẩm:
- Thôi ông biến đi.
Mụ béo mặc váy tím đập lại:
- Mày biến đi thì có. Mày, bạn mày và con ranh kia đều chẳng ra gì.
Chuếnh choáng say, Phoebe cười ngớ ngẩn. Quirke kéo mạnh tay cháu gái lần cuối. Nếu không có cánh tay vững vàng của ông kịp thời đỡ lấy, Phoebe đã ngã nhào xuống ghế. Barney nói oang oang cho cả quán cùng nghe:
- Tôi nghe nói ông ta đang cố làm sao để được giáo hoàng phong làm bá tước. Theo tôi, ông ta nên đếm tội sớm đi mới phải.
3
K
hách khứa rì rầm trò chuyện trong phòng lớn. Họ chừng hai chục người, chia thành nhiều nhóm. Quý ông ăn mặc giống nhau: toàn lễ phục màu sẫm, còn trang phục dạ hội của các quý bà chẳng khác nào vườn hoa khoe sắc. Sarah len lỏi giữa đám thực khách, ân cần bắt tay người này, thân mật chạm cánh tay người kia và cố giữ cho nụ cười luôn tươi tắn. Bà tự trách mình không có khả năng yêu mến những người này: họ không là bạn của Mal thì cũng là tri kỷ của ông Garret. Ngoài số đông tăng lữ, khách còn là doanh nhân, luật sư hoặc bác sĩ. Họ đều giàu có, nhiều đặc quyền đặc lợi và thuộc giới thượng lưu của thành phố này. Cách nay rất lâu, bà đã biết mình e ngại tất cả bọn họ chứ không riêng những người đáng sợ như ông Costigan kia. Sarah không thể ngờ bố chồng và chồng mình lại giao du với những người như thế. Nhưng ngoài họ ra, còn ai khác nữa đâu. Thế giới họ gia nhập quá nhỏ bé và bà không bao giờ quen với nó. Bà tự nhủ thầm: bà có mặt trong đó nhưng không thuộc về nó. Tuy nhiên, bà không thể để lộ suy nghĩ ấy.
Bà tự nhắc mình: cười đi nào, phải luôn tươi tỉnh mới được. Tự nhiên, bà muốn xỉu nên phải dừng bước, níu tay vào mép bàn cố đứng vững.
Từ góc phòng đằng kia, Mal nhận thấy Sarah bị chóng mặt, hay như bà Maggie hay bảo là “lên cơn”. Tự thâm tâm, ông thấy
tiếc cho bà, coi như vợ mình mắc chứng bệnh “bất hạnh” và nó sẽ lấy mạng bà nay mai. Nghĩ đến đó, ông bất chợt nôn nao. Mal cúi đầu, nhắm mắt giây lát rồi cố bắt mình quay sang nói chuyện với bố:
- Nhân đây con xin chúc mừng bố vừa được phong tước hiệp sĩ. Vinh dự quá lớn rồi!
Vị quan tòa khịt mũi, mân mê tẩu thuốc và nói giọng ngờ vực:
- Anh nghĩ thế thật ư? (ông nhún vai) Chắc tại bố cũng phụng sự nhà thờ ít nhiều.
Họ im lặng và đều muốn bỏ đi nhưng chưa tìm được cớ thỏa đáng. Sau khi định thần, Sarah đến bên họ, cố cười trong lúc đầu óc vô cùng căng thẳng.
- Có chuyện gì mà mọi người trịnh trọng thế ạ?
Mal mở lời:
- Anh đang chúc mừng bố...
Ông Garret giận dữ cắt ngang:
- Thôi nào. Anh đừng cho tôi đi tàu bay giấy nữa. Lại im lặng ngượng ngùng. Sarah không biết phải “chữa cháy” như thế nào. Mal e hèm:
- Con ra đây một lát.
Nói xong, ông nhẹ nhàng bỏ đi.
Sarah khoác tay Garret và trìu mến khẽ dựa vào ông. Bà thích mùi vải tuýt ám khói thuốc lá và mùi của người già. Đôi
khi, bà cảm giác chỉ có mỗi ông Garret là đồng minh của mình nhưng rồi suy nghĩ ấy làm bà thấy mình có tội vì nghĩ rằng tại sao bà cần đồng minh và vì cớ gì bà có nhu cầu đó? Tuy nhiên, Sarah biết câu trả lời. Bà dõi mắt nhìn Costigan nắm cánh tay Mal và nghiêm mặt nói câu gì đó. Ông ta vóc người thấp đậm và có mái tóc đan dày chải ngược ra sau. Cặp kính gọng sừng càng làm ánh mắt ông thêm sắc sảo. Sarah thở dài:
- Con không ưa Costigan. Ông ta làm nghề gì thế? Vị quan tòa chặt lưỡi:
- Hình như hắn làm xuất nhập khẩu thì phải. Thú thật, trong đám bạn của Mal, bố cũng ghét hắn nhất.
- Chắc con nên ra “giải cứu” nhà con.
- Nên thế. Phải tiếp chuyện hắn thì không gì khổ bằng. Sarah cười tủm tỉm nhìn ông và đi xuống cuối phòng. Costigan không nhìn thấy bà đang tiến đến gần. Ông ta đang nhắc tới Boston và “người của ta ở đó”. Hình như mọi điều Costigan nói đều ngầm ý đe dọa. Sarah tự hỏi không hiểu sao Mal có thể giao du cùng loại người đó. Ông giật mình khi vợ chạm vào tay mình, như thể đầu ngón tay bà có điện. Costigan lạnh lùng mỉm cười thay lời chào, khoe hàm răng dưới đen kịt, dính đầy bựa.
Kéo Mal ra ngoài, bà cười dịu dàng:
- Anh với bố lại bất đồng chuyện gì sao?
Mal nghiêm mặt:
- Bất đồng gì đâu. Anh vừa nói mấy câu, bố đã chỉ trích kịch liệt rồi.
Sarah suýt thốt lên thành tiếng: “Trời đất! Sao anh hay để bụng thế!”
- Phoebe đâu rồi? - Mal hỏi
Sarah ngần ngừ. Mal tháo kính ra lau. Lát sau Sarah mới đáp: - Nó chưa về.
Mal khựng lại:
- Sao lại...
Đúng lúc đó, Sarah thở phào nhẹ nhõm vì nghe tiếng cửa trước kẹt mở. Bà để mặc Mal đứng đó, vội vã ra sảnh. Phoebe vừa đưa cho bà Maggie mũ nỉ và áo khoác nam. Sarah bực mình nói khẽ vào tai con gái:
- Sao giờ con mới về? Bố con đang...
Bà im bặt, máu dồn cả lên mặt. Quirke vừa xoay lưng lại phía cửa, mỉm cười hối lỗi.
- Chào anh Quirke.
- Sarah đấy à? Em khỏe không?
Quirke vẫn trẻ trung và vụng về như ngày nào. Ông nhìn bà cười tươi, trông chẳng khác nào cậu trai tóc vàng to xác. - Anh đưa con bé về, trao tận tay em rồi nhé.
Mal bước vào sảnh. Thấy Quirke, ông khựng lại, trợn mắt nhìn giống người mắc nghẹn. Thấy vậy, bà Maggie cười thầm, ý tứ lui thật nhẹ chân vào bếp. Quirke lên tiếng trước:
- Kìa Mal, cứ vui vẻ đi. Tôi không định ở lại...
Phoebe kêu lên:
- Dượng ở lại được mà! Đã không cho con mời anh Conor Carrington thì ít nhất bố mẹ cũng phải cho con mời dượng chứ! Phoebe bướng bỉnh nhìn khắp lượt ba bậc bề trên đứng trước mặt. Nhưng cô chỉ tập trung được giây lát. Khi ánh mắt bắt đầu đờ đẫn, Phoebe lảo đảo xoay lưng, hờn dỗi giậm mạnh chân trên đường lên cầu thang. Quirke nhìn quanh tìm bà Maggie và chiếc mũ. Ông lẩm bẩm:
- Thôi tôi về đây.
Sarah giơ tay như thể muốn chặn Quirke lại, nhưng bà không chạm vào ông.
- Khoan đã! Cha anh Mal có đến đấy. Nếu anh không qua chào một tiếng trước khi về, ông cụ sẽ trách em mãi thôi. Không nhìn Mal, bà nắm cánh tay Quirke xoay ông hướng mặt về phòng khách. Ông kháng cự yếu ớt trước khi nghe theo. Sarah nói rất nhanh. Quirke muốn ngắt lời cũng không kịp: - Lần gần nhất anh ghé thăm là khi nào thế? Giáng sinh năm ngoái phải không? Bỏ bê bạn bè thế là không tốt đâu nhé! Ông Garret huơ huơ tẩu thuốc, say sưa nói chuyện với một nhóm thực khách. Vừa nhác thấy Quirke, ông làm bộ giật mình, giơ hai tay lên trời, mắt mở lớn.
- Nhìn xem ai vừa đến kìa!
Ông Garret reo mừng, bước vội tới bỏ lại khách khứa mỉm cười độ lượng nhìn theo. Quirke vội chào:
- Con chào bố.
Sarah buông tay em rể, bước lùi lại. Ông Garret nắm tay thụi nhẹ vào ngực cậu con nuôi:
- Nhãi con, tưởng tối nay anh bận không đến được chứ! Quirke nhún vai, cười ngượng nghịu và cắn môi không nói. Thoáng nhìn, ông Garret cũng thấy cậu con nuôi say rồi. - Phoebe nhất định kéo con vào. - Quirke lí nhí.
- Ta biết. Con bé ấy giỏi thuyết phục lắm.
Hai cha con nhìn nhau từ đầu đến chân trước sự chứng kiến của Sarah đang mỉm cười dịu dàng và Mal mặt lạnh như tiền. Quirke cố tỏ ra nghiêm túc:
- Con có lời chúc mừng bố ạ.
Ông Garret vỗ nhẹ vào ngực Quirke.
- Thôi dẹp đi, đừng trịnh trọng quá thế. Nhưng thật lòng ta hy vọng sau này vinh dự ấy giúp ta có được vé mời vào cổng thiên đường.
Quirke gõ gõ đầu thuốc lá vào móng tay cái và nói: - Count * Garret Griffin nghe cũng oai chứ ạ.
Mal ho khẽ trước khi xen ngang:
- Phải nói là Garret, Count Griffin mới chuẩn. Cũng như cách gọi John, Count McCormack vậy thôi.
Sau khi nghe Mal “sửa gáy” Quirke, ai nấy đều im bặt. Giây lát sau, ông Garret cười méo xẹo.
- Thôi mà Malachy.
Đoạn quay sang thân mật khoác vai Quirke:
- Bố khát rồi. Anh lấy cho bố một ly về đây.
Nhưng Sarah nhận ngay việc ấy. Bà ngại nếu cứ đứng đó, bà sẽ không kiềm chế được mà ré lên cười thì nguy. Khi Sarah mang ly whisky trở lại, Mal đã bỏ đi tự lúc nào. Ông Garret đang kể cho Quirke nghe hồi xửa hồi xưa, ông có thụ lý một vụ ở quận Courts, trong đó có một ông bán dê hay mua dê gì đó bị ngã xuống giếng. Dù nghe chuyện đó không biết bao nhiêu lần nhưng Sarah không hề nhớ chi tiết. Quirke gật gù, cười hết cỡ. Chuyện đã nghe hàng trăm lần rồi, có gì lạ đâu mà ông có vẻ thích thú quá vậy? Quirke nhận ly từ tay Sarah nhưng không khách sáo cảm ơn theo nghi lễ xã giao. Ông nâng ly về phía bố nuôi.
- Uống mừng tầng lớp quý tộc.
Ông Garret kêu lên:
- Chà! Ta còn cách họ một khoảng xa.
Phoebe vào phòng, sắc mặt cô xanh xao và ít nhiều mất tỉnh táo. Cô đã thay trang phục và thoải mái với quần ống rộng, áo thun đen bó chặt cứng vòng một. Sarah đưa ly cho con, bảo đó là nước chanh nhưng Phoebe coi như không biết. Cô đi thẳng đến bàn bày đồ uống, dốc ngược chai rượu gin vào ly.
Ong Garret vờ ngạc nhiên, gọi Mal đang tiếp chuyện thực khách ở cuối phòng.
- Malachy đâu? Anh cho phép tiểu thư đây uống rượu từ bao giờ thế?
Mọi tia nhìn trong phòng đổ dồn vào Mal khiến mặt ông trắng bệch. Ông Garret làm bộ lỡ lời, vội đưa tay lên che miệng. Ông cụ ghé sát Quirke, nói nhỏ:
- Thực ra, nhìn mặt cũng biết con bé uống vài ly từ trước rồi. Mal đi ngang qua phòng, đến bên nhỏ nhẹ khuyên bảo con nhưng Phoebe quay mặt đi, coi như không có ông ở đó. Sững sờ giây lát, Mal nắm chặt hai tay (Quirke hiểu rõ cơn tức giận của Mal có thể dẫn tới điều gì). Ông ta quay phắt lại, giận dữ nhìn Quirke và ông Garret. Sarah làm động tác như can ngăn nhưng Quirke đã giơ một bàn tay lên, nói:
- Anh không sai. Tôi xin nhận lỗi. Hồi chiều, Phoebe có nài tôi đưa đến McGonagle’s.
Trán Mal trắng bệch, lấm tấm mồ hôi. Ông vừa định lớn tiếng quát nạt thì Sarah đã nói nhanh:
- Ta vào bàn ăn được chưa ạ?
Bà cố cười gượng, quay sang đám đông hiếu kỳ nhưng cố giả vờ không để ý đến loạt dấu hiệu cho thấy chủ nhà bất lực vì không thể “đóng cửa bảo nhau”. Xưa nay, họ hiếm khi được xem “kịch hay” thế này ở nhà Griffin! Sarah nói lớn, giọng bà như muốn vỡ ra:
- Tiệc đứng đã sẵn sàng chờ mọi người rồi đây.
Nhưng Mal chưa chịu thôi. Ông tức giận nói khẽ với Quirke: - Cậu tưởng đưa con gái ở độ tuổi này đến quán rượu là hay ho lắm ư?
Quirke định cự nự nhưng ông Garret đã lại quàng vai con nuôi, xoay người Quirke sang hướng khác, tránh cơn giận dữ của Mal. Ông tặc lưỡi:
- Quán McGonagle’s cơ à? Chà, ta chưa hề đặt chân vào nơi tội lỗi đó vì không thể biết khi nào…
***
Quirke không ăn, chỉ uống thêm thật nhiều whisky. Đột nhiên, ông nhận ra mình đang đứng trong bếp, cạnh bà Maggie. Mắt ông đờ đẫn, ngỡ ngàng nhìn xung quanh. Ghì sát ly rượu vào bụng, ông tựa vai vào tủ kính bày đồ sứ cạnh bồn rửa chén, hai chân bắt chéo nhau nơi mắt cá. Ông không còn tỉnh táo để nhớ chuyện gì đã xảy ra từ lúc đứng bên ông Garret đến giờ. Bà Maggie bận luôn tay, nhưng vẫn để tâm nói chuyện với ông. Rõ ràng bà đang trả lời câu hỏi của Quirke, chỉ có điều ông không nhớ mình đã hỏi cái gì. Trông bà Maggie giống mụ phù thủy già trong chuyện cổ tích: lưng còng, da nhăn nheo, mũi khoằm và mớ tóc bạc rối bù. Thậm chí bà còn cười khúc khích. Phải nói đây là một dịp hiếm hoi, vì bà ít khi cười lắm.
Quirke lái câu chuyện sang hướng khác:
- Thôi quên chuyện đó đi. Hồi này sức khỏe bà thế nào, bà Maggie?
Dừng chân trước bếp lửa, bà liếc ông, cười nhếch mép. - Tôi đang muốn hỏi cậu đây. Cậu uống nhiều thế là không hay đâu đấy.
Quirke đùa cợt, gí sát ly whisky vào mắt rồi quay sang bà, giả vờ phật ý. Bà lắc đầu, tiếp tục việc bếp núc. Vừa khuấy thứ gì đó trong chiếc nồi bốc hơi, bà vừa nheo mắt ngó vào miệng nồi. Tiếng quan tòa Garret hùng biện với thực khách từ phòng ngoài vọng vào: “... Hy vọng mọi người tin rằng tôi thật lòng khi bảo tôi không xứng với ân sủng giáo hoàng vừa ban cho tôi và gia tộc Griffin. Mọi người đều biết tôi xuất thân từ đâu. Phải nói tôi cực kỳ may mắn cả trong quan hệ xã hội lẫn đời tư...”
Bà Maggie cười khẩy:
- Chắc cậu không lạ gì chuyện con nhỏ đó.
Quirke nhíu mày:
- Ai cơ? Phoebe phải không?
Bà giúp việc lại khịt mũi nhạo báng:
- Không. Con bé kia cơ. Con bé chết rồi ấy.
Tràng pháo tay rộ lên ngay sau khi ông Garret dừng lời. Sarah bưng một chồng đĩa bẩn bước vào. Hơi sững sờ khi thấy Quirke nhưng bà vẫn đi tiếp đến bên bàn bày đầy tô đĩa chờ rửa. Với vẻ độ lượng và có phần hơi mệt mỏi, Sarah hỏi bà Maggie món xúp sắp xong chưa.
- Tôi e ngoài đó, mấy khay bánh kẹp sạch trơn cả rồi. Thế nhưng, người hầu gái già vẫn cắm cúi bên chiếc nồi to bốc khói, lẩm bẩm câu gì nghe không rõ.
Sarah thở dài mở vòi nước nóng. Quirke ngà ngà say, cười bâng quơ đứng nhìn.
Không nhìn ông, bà nói khẽ:
- Mong là anh đừng đưa Phoebe đến những nơi như McGonagle’s nữa. Mal nói đúng. Trẻ người non dạ như Phoebe chớ nên la cà nơi tửu quán.
Quirke hối hận, đáp:
- Đáng lẽ anh cũng không nên đến đây.
Ông cúi đầu nhưng mắt vẫn cố nhìn lên ngó chừng thái độ của Sarah.
- Từ quán rượu đến thẳng đây thì không nên thật. - Nhưng anh muốn gặp em.
Bà xoay người, liếc nhanh Maggie.
- Quirke, đừng! Chớ có khơi ra nữa.
Nước nóng chảy từ vòi vào bồn rửa. Hơi nước cuồn cuộn bay lên. Sarah đeo tạp dề, lấy cái liễn sứ từ kệ xuống. Lắc đầu vì thấy bụi phủ đầy, bà lặng lẽ dùng bọt biển rửa sạch. Thấy bà xúc động mạnh, Quirke hả lòng hả dạ. Sarah mang liễn ra bếp chờ bà Maggie múc xúp vào.
- Bà mang ra phòng ăn hộ tôi nhé!
Quirke châm thuốc hút. Khói thuốc quyện mùi xúp, hòa trộn mùi rượu gợi lên trong ông niềm tiếc nuối ngọt ngào. Nếu ngày xưa ông hành xử khác đi thì bây giờ rất có thể mọi thứ quanh đây đã thuộc về ông: nhà đẹp có quản gia, bạn hữu quây quần và cả người đàn bà mặn nồng hương sắc trong bộ váy dạ hội đỏ thắm, đi giày cao gót và đôi vớ dài bằng lụa đẹp tuyệt... Quirke ngây người ngắm Sarah giữ cánh cửa cho bà Maggie bưng liễn xúp đi ra. Dưới ánh đèn, mái tóc nâu lượn sóng óng
ánh như cánh đồng lúa mì gặp mưa. Nhưng ông đã chọn Delia Crawford, cô gái tối như bóng đêm giờ đã thành người thiên cổ. Mà không, hình như chính Delia chọn ông thì phải.
- Em có nhớ hồi ở Boston, thứ gì ở em quyến rũ anh nhiều nhất không?
Quirke chờ nhưng bà không trả lời, cũng không nhìn ông. Ông nói nhỏ:
- Mùi thơm của em.
Bà khẽ bật cười hỏi lại:
- Cái gì? Anh còn nhớ mùi nước hoa của em?
Ông lắc đầu quầy quậy:
- Không, không, không. Không phải nước hoa mà là em cơ. - Thế mùi ấy làm sao?
- Đã bảo không có “mùi ấy” nào cả. Em tỏa một mùi rất riêng. Bây giờ vẫn vậy.
Sarah nhìn ông, run rẩy cười mà lòng dạ rối bời. Giọng bà nhẹ bẫng, như thể nỗi đau làm bà mệt mỏi:
- Chẳng phải ai cũng có mùi đặc trưng đó sao?
Lần này, Quirke chỉ khẽ lắc đầu:
- Em khác. Hương thơm từ cơ thể em chỉ thoang thoảng, rất nhẹ nhàng.
Sarah quay lại bồn rửa chén. Bà biết mặt mình đang ửng đỏ. Lúc này bà cũng như ngửi thấy mùi cơ thể ông. Nói đúng hơn bà cảm nhận hơi ấm từ người ông lan tỏa, áp vào da thịt bà, hệt
như bầu không khí oi ả của một ngày hè đe dọa sấm sét sẽ giáng xuống bất kỳ lúc nào. Sarah vờ vui vẻ:
- Quirke thôi đi. Anh say quá rồi đấy!
Quirke hơi loạng choạng nhưng đứng thẳng lên ngay: - Em đẹp lắm.
Sarah không trả lời, chỉ nhắm chặt hai mắt. Bà nắm chặt mép bồn rửa chén. Mấy khớp ngón tay trắng bệch. Tiếng bà lẫn trong hơi thở:
- Đáng lẽ anh không nên nói với em như thế. Thật không phải chút nào.
Quirke sán đến, gần đến nỗi chỉ cần ngả người một chút, ông có thể vùi mặt vào mái tóc xõa trên vai bà, hoặc chạm môi vào tai hay hôn lên gò má trắng ngần. Ông mỉm cười ngớ ngẩn, người hơi chao đảo. Bất chợt Sarah quay phắt lại. Nhìn cặp mắt tóe lửa của bà, Quirke vội lùi ra xa, người lắc lư như con lật đật. Môi bà trắng bợt.
- Anh thích trò này lắm à? Đùa giỡn, khen người ta thơm tho, xinh đẹp cốt chỉ để xem phản ứng họ ra sao và nếu có thú vị hay ho thì cũng giúp anh giải sầu chứ gì!
Bà bật khóc không thành tiếng. Dòng lệ long lanh tuôn trào từ mí mắt nhắm chặt. Môi bà mím chặt, hai khóe miệng trễ xuống. Chợt cánh cửa sau lưng bà bật mở. Phoebe xộc vào, hết trợn mắt nhìn mẹ cúi gục đầu lại nhìn sang Quirke đang nhún vai, lông mày nhướng cao như muốn phân trần rằng mình hoàn toàn vô tội. Ngần ngừ giây lát, cô thoáng run sợ nhẹ chân
thoái lui, nhẹ tay khép cửa, hoàn toàn không gây một tiếng động nhỏ.
Trong cùng một buổi tối phải chứng kiến nước mắt đàn bà đến hai lần khiến Quirke tỉnh hẳn rượu. Ông chìa khăn tay nhưng Sarah lục túi váy lấy khăn riêng, giơ cao cho ông thấy.
- Lúc nào em cũng mang bên mình cái này, ngộ nhỡ có khi cần đến.
Bà cười nghẹn ngào, lau nước mắt nước mũi, đoạn nắm chặt thành bồn rửa, ngửa mặt rên rỉ ai oán:
- Trời ạ, sao tôi khờ thế này. Tự nhiên vào bếp khóc lóc ỉ ôi! Mà vì cái gì cơ chứ? (Quay sang nhìn Quirke đăm đăm, bà lặng lẽ lắc đầu). Này Quirke, anh tệ quá chừng!
Thấy người yêu cũ mỉm cười qua hàng nước mắt, Quirke được thể giơ tay định chạm vào má Sarah nhưng bà nghiêm mặt, nghiêng đầu né tránh. Bà cứng cỏi:
- Muộn rồi, Quirke. Muộn đến hai mươi năm cơ.
Cất khăn tay vào ống tay áo, cởi tạp dề vắt lên tủ bày đồ sứ, Sarah đứng im giây lát. Ánh mắt trống trải ngó xuống đất. Thấy vậy, Quirke ngộ ra một điều: cuối cuộc chơi, bà trở nên mạnh mẽ hơn ông nhiều. Ông lại dấn lên, định chạm vào Sarah nhưng bà lùi lại. Quirke buông thõng hai tay. Lắc đầu như tự trách mình, Sarah bỏ ra ngoài.
Quirke nấn ná thêm giây lát, cặp mắt vô hồn nhìn ly rượu trên tay. Ông tự hỏi tại sao trong các mối quan hệ, người ta không hành xử hợp lý và dễ dàng tiên đoán nhỉ? Quirke thở dài.
Ông thấy mình có tội vì đã trót gắn bó với một thứ quá đẹp đẽ, quá tinh tế, trong khi bản thân lại quá vụng về. Đặt ly xuống bàn, ông quyết định không nói tiếng nào, chỉ lẳng lặng ra về. Quirke sắp đến ngưỡng cửa thì hai cánh cửa bật mở. Bước nhanh vào trong, Mal cao giọng hỏi:
- Cậu nói gì cô ấy thế?
Quirke im bặt, cố nhịn cười. Trông điệu bộ ông ta rất hợp vào vai diễn đức lang quân nổi giận. Mal sừng sộ: - Nói đi chứ!
Quirke vừa cố ra vẻ vô can vừa làm như hối lỗi:
- Không có gì đâu mà.
Mal nheo mắt nhìn người anh em cột chèo, nhưng giọng ông bình thản đến không ngờ:
- Cậu chỉ giỏi gây chuyện thôi. Cậu đến nhà tôi trong bộ dạng say xỉn bệ rạc, đã vậy còn khéo chọn tối nay, lúc bố tôi vừa... - Kìa Mal...
- Dẹp cậu đi!
Sấn tới trước mặt Quirke, ông ta thở hổn hển. Sau cặp kính, đôi mắt của Mal lồi hẳn ra. Bà Maggie xuất hiện trước cửa và cũng làm đúng như Phoebe lúc trước. Thấy hai ông gườm gườm nhìn nhau, bà hả hê liếc họ thật nhanh rồi nhanh chóng rút lui. Mal cất giọng đều đều, chậm rãi:
- Nhà này không có chỗ cho cậu. Có thể cậu tưởng mình có chân ở đây, nhưng cậu lầm rồi.
Quirke định đi qua mặt ông ta để ra ngoài nhưng Mal đã đẩy mạnh vào ngực ông. Quirke hơi ngả ra sau, chân đứng không vững. Ông thoáng hình dung cảnh ông và Mal vụng về túm chặt lấy nhau, miệng gầm gừ, chân xoay tứ phía. Chưa bao giờ ông thấy buồn cười như lúc này.
- Anh nghe đây! Tồi chỉ đưa Phoebe về chứ có làm gì đâu. Tất nhiên, lẽ ra tôi không nên dẫn nó đến quán rượu. Giờ tôi xin lỗi. Thế được chưa?
Mal lại nắm chặt hai tay. Trông ông ta giống kẻ xấu trong đoạn phim câm ngày xưa. Quirke cố mềm mỏng: - Mal này, đừng vô cớ thù ghét tôi như thế!
Mal nói nhanh như thể ông ta biết Quirke định nói gì: - Vô cớ hay có cớ chính tôi mới là người quyết định. Tôi muốn cậu tránh xa Phoebe. Tôi không cho phép cậu biến nó thành một phiên bản của cậu. Hiểu chưa?
Không ai nói thêm câu gì nữa. Bầu không khí im lặng giữa họ nặng nề, hung hiểm. Cả hai đều nghe máu dồn lên thái dương rần rật, nhưng nguyên nhân khác hẳn nhau: Mal vì tức giận, còn Quirke vì uống nhiều rượu mạnh. Quirke đi vòng qua Mal, đoạn nói giọng nặng như chì:
- Chào anh, tôi về.
Chỉ còn cách ngưỡng cửa một bước chân, ông quay đầu hỏi: - Christine Falls là bệnh nhân của anh à?
Mal chớp mắt đờ đẫn. Hai mí mắt bóng láng chậm chạp cụp xuống che hai con ngươi hơi lồi ra.
- Cậu mới nói gì?
- Christine Falls, cô gái bị chết ấy. Anh chữa bệnh cho cô ta phải không? Có phải vì thế nên đêm qua anh đến khoa tôi lục lọi bệnh án? (Mal không nói năng gì, chỉ đứng ngó Quirke trân trối bằng cặp mắt ốc nhồi). Mong là anh không sơ sẩy, vụng về. Tội cẩu thả trong lúc hành nghề nặng lắm đấy.
***
Quirke vẩn vơ ngoài hành lang, chờ bà Maggie lấy mũ và áo khoác. Nếu nhanh chân, ông vẫn kịp ghé qua quán McGonagle’s làm một chầu trước giờ đóng cửa. Chắc như mọi khi, Barney Boyle chưa về dù say quắc cần câu. Nhưng khi không có Phoebe, Barney sẽ không nổi giận và như thế Quirke và ông ta sẽ vui vẻ hơn nhiều. Biết đâu, ông sẽ gặp một cô gái trong quán, thuyết phục cô ta đồng ý về nhà mình. Tất nhiên là chỉ khi ông tìm được cách lén đưa cô vào mà ông Poole thức năm canh và bà vợ luôn cảnh giác không hay biết.
Nỗi tủi thân và cơn giận vô cớ (do máu có nồng độ cồn cao) ập đến. Quirke lẩm bẩm: “Đời mình lộn xộn quá lắm!” Bà Maggie làu bàu suốt dọc đường mang áo mũ ra cho Quirke. Lúc chìa tay nhận áo, Quirke lại hỏi thăm sức khỏe của bà vì tưởng chưa hỏi. Bà tặc lưỡi khó chịu và bảo ông nên về nhà ngủ ngay bởi ông lú lẫn rồi.
Chợt ông sững người giữa lúc lờ mờ hồi tưởng.
- Lúc nãy bà có nhắc đến một cô gái. Là ai thế?
Bà lão nhíu mày nhìn cổ áo cáu bẩn của Quirke trước khi trao nó cho ông:
- Cái gì chứ?
Quirke cố moi óc nhớ lại:
- Bà bảo “Con bé chết rồi ấy”. Cô ta là ai?
Bà Maggie nhún vai.
- Tên nó có chữ Falls, tôi không nhớ lắm.
Nhìn trong lòng mũ nỉ, Quirke thấy có một hình tròn láng bóng. Falls, Christine. Lại là cô ta. Vừa định gặng hỏi thêm, Quirke đã nghe giọng nạt nộ ngay sau lưng:
- Dượng định đi đâu?
Giọng của Phoebe. Quirke nói dối:
- Về nhà.
- Dượng định bỏ mặc cháu với đám người trong kia ư? Không có chuyện đó đâu.
Bà Maggie khịt mũi nghe như tiếng cười khẩy. Lắc đầu nhìn Quirke như trách ông định bỏ mặc mình, Phoebe với tay lấy chiếc khăn quàng vắt ngang tay vịn cầu thang quàng vào vai và túm chặt tay ông.
- Chàng hộ pháp dẫn đường đi nào.
Bà Maggie nổi cáu và nhăn nhó hạch hỏi:
- Nhỡ có ai hỏi, tôi biết ăn nói thế nào?
Phoebe tỉnh rụi:
- Cứ bảo tôi bỏ nhà theo cướp biển rồi.
Ngoài trời đã có sương giá. Trên đường đi, Phoebe ghì chặt tay ông. Những tán cây rậm lá trên dây đèn đường như những bóng ma, lá cây xào xạc trong màn tối. Trời khuya lạnh lẽo làm dịu hơi men bốc ngùn ngụt lúc trước, để lại nỗi buồn man mác len lỏi tới từng đường gân thớ thịt của Quirke. Phoebe đột nhiên cũng bớt hung hăng. Im lặng thật lâu, cô mới gặng hỏi:
- Lúc nãy, sao dượng và mẹ cãi nhau vậy?
- Nào ai cãi cọ gì đâu. Chỉ nói chuyện bâng quơ thôi. Toàn chuyện người lớn, cháu không biết đâu.
Phoebe cười khẩy:
- Thật thế sao? Chuyện bâng quơ gì lạ thế! Chắc dượng bảo vẫn yêu mẹ cháu và hối hận vì đã không lấy mẹ mà lấy dì Delia, đúng không?
- Này, từ nay đừng đọc tạp chí lá cải nữa nhé.
Phoebe cúi đầu cười khúc khích. Không khí giữa đêm hôm khuya khoắt theo đường thở vào tận trong người Quirke mà nhắc ông nhớ rằng: ông đang mệt mỏi rã rời. Tuy nhiên, cái níu tay háo hức của Phoebe cho thấy ông chưa thể nghỉ ngơi sau một ngày dài đằng đẵng và lắm chuyện nhức đầu. Lý trí nghiêm khắc bảo ông từ nay uống in ít thôi, nhưng phần còn lại trong ông lại cười nhạo mệnh lệnh ấy.
- Rõ là ông nội quý dượng hơn bố cháu, nhỉ?
Không thấy ông trả lời, Phoebe hỏi tiếp:
- Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, dượng thấy thế nào?
Quirke mỉa mai:
- Tuyệt! Toàn ngồi mát ăn bát vàng thôi!
- Hồi ở Connemara... Chỗ ấy gọi là gì nhỉ? Thôi, cháu quên rồi. Hồi ở đó, người ta có đánh dượng không?
- Gọi là trường nghề Carricklea. Có, học sinh hư có bị đòn. Họ không đánh mới là lạ.
Trên cao, dãy cửa sổ trống trải nhìn xuống giống người ngoài cuộc thờ ơ chứng kiến nỗi đau đớn và nhục nhã của Quirke. Hồi đó, cậu bé Quirke có đủ sức mạnh tự bảo vệ mình trước những gã trai mồ côi khác trong trường, nhưng trong hội bằng hữu lại là chuyện khác: không ai được phép động thủ với người trong hội.
Phoebe giật mạnh cánh tay ông.
- Rồi ông nội cứu vớt dượng, đưa dượng ra khỏi đó, đúng không? Dượng kể đi mà.
- Ông nội cháu là thành viên Hội đồng Giám sát. Không hiểu sao ông chú ý đến dượng, bảo lãnh cho dượng ra trại và gửi vào trường tốt, cho ăn học đàng hoàng. Ông bà nội cháu nhận dượng là con nuôi.
Phoebe im lặng, ra chiều suy nghĩ rất lung. Sau chừng mươi bước chân, cô gật gù:
- Vậy bố cháu và dượng giống hai anh em ruột còn gì. Quirke khẽ cười khùng khục.
- Bố cháu không muốn nghe câu ấy đâu.
Đến góc đường, họ dừng lại, tắm mình trong ánh đèn đường. Trong đêm sâu, những ngôi nhà sau bờ giậu xanh rì im
ắng lạ, chỉ còn vài cửa sổ sáng đèn.
- Thế dượng có biết cha mẹ đẻ của mình ở đâu không? Quirke nhún vai. Lát sau, ông thủng thẳng:
- Làm trẻ mồ côi có khi còn tốt đẹp hơn vạn cảnh đời khác. Bóng lá lung linh trên đầu họ. Đêm nay trăng sáng vằng vặc. Quirke rùng mình, người lạnh cóng. Bao sự cách biệt, bao suy nghĩ sâu xa bủa vây ông. Bất ngờ, Phoebe ôm choàng Quirke, ép chặt môi vào miệng ông, hôn thật mãnh liệt và vụng về. Hơi thở cô bé có mùi rượu trộn hương kẹo caramen. Quirke kinh hoàng xô mạnh Phoebe, cuống quýt đưa tay lên quệt ngang miệng. Ông kêu ầm lên:
- Cháu điên à?
Phoebe ngây người, toàn thân giật giật như thể vừa bị sét đánh. Muốn nói nhưng không được, miệng cô méo xẹo và nước mắt giàn giụa. Cô quay phắt, chạy về nhà. Quirke cũng quẩy quả đi về hướng ngược lại. Đôi chân mỏi nhừ bước nhanh dần như thể ông đang chạy trốn.
4
Q
uirke thích nhất quán McGonagle’s vắng tanh lúc nửa đêm về sáng. Vài khách quen còn ngồi lỳ, người chúi mặt vào trang báo thể thao, người lơ đãng gãi đũng quần. Trong góc quán có thi sĩ mới nổi đeo xà cạp, đi giày đinh ngây người ngắm ánh sáng màu vàng nâu dưới đáy ly whisky sóng sánh. Quirke sẽ lật trang cáo phó trên tờ Evening Mail, đọc vài câu vè đại loại như: “Ôi mẹ yêu con nhớ mẹ mông mênh, Những ngày cuối con không ngờ mẹ bệnh...” và nghe giọng chua như dấm của ông Davy kể chuyện tiếu lâm. Ngồi gà gật trên ghế dài bọc nhung đỏ đầy vết bẩn, Quirke thả hồn lâng lâng trong men rượu và khói thuốc, tận hưởng viễn cảnh được nhàn tản thêm vài tiếng đồng hồ trước khi quán đóng cửa. Ngay lúc đó, Quirke nghe tiếng chân bước đến gần và dừng ngay ở bàn của ông. Ngước nhìn lên thấy Mal đúng đó, Quirke không hiểu trong hai cảm giác: ngạc nhiên và khó chịu, thứ nào mạnh hơn:
- Lạy Chúa! Mal, anh đến đây làm gì?
Không đợi mời, Mal ngồi lên ghế đẩu thấp, chỉ cái ly trước mặt Quirke hỏi:
- Gì thế?
- Thiên hạ gọi là whisky. Chưng cất từ ngũ cốc. Uống vào sẽ bị chóng mặt.
Mal ngoắt tay gọi ông Davy. Ông già ủ ê đến bên, sịt mũi thật mạnh khiến một giọt nhỏ màu bạc chạy ngược vào trong mũi. Mal chỉ ly của Quirke:
- Cho tôi một ly giống vậy. Whisky gì gì đó.
Nghe như ông ta vừa gọi một bát máu của người bị đem hiến tế vậy.
- Thưa ông chủ, có ngay đây ạ.
Nói xong, ông Davy nhẹ nhàng lui ra.
Quirke quan sát Mal giả vờ thích thú, nhìn bao quát quán rượu. Ông ta đang bồn chồn. Đúng là chưa bao giờ Mal thực sự thoải mái, nhưng hồi này ông ta thường căng thẳng, bất an. Khi ông Davy mang rượu tới, Mal lục túi tìm ví nhưng khi nhìn lên, Quirke đã nhanh tay thanh toán trước. Mal rón rén nhấp môi, cố không nhăn mặt. Ánh mắt bâng quơ của ông ta bắt gặp tờ nhật trình Mail trên bàn.
- Báo có gì hay không?
Quirke bật cười:
- Anh muốn gì, sao không nói thẳng ra đi?
Hai bàn tay úp trên đầu gối, Mal trề môi dưới trông như cậu học trò bị móm vừa nghe cô giáo gọi lên trả bài. Đây không phải lần đầu Quirke tự hỏi: Mal trở thành bác sĩ sản khoa hàng đầu của xứ sở này bằng cách nào. Phải chăng tất cả đều nhờ “ô dù” vững chãi trong tay bố ông ta.
Mal vào đề đột ngột:
- Tôi hy vọng cậu chưa nói với ai về Christine Falls.
Quirke không ngạc nhiên.
- Sao lại thế?
Mal nắn vải quần phủ trên đầu gối. Ông ta nhìn đăm đăm tờ báo trên bàn. Mặt trời lúc chiều muộn tìm được kẽ nứt phía trên cánh cửa sổ ở mặt trước quán rượu và tạo một mảng sáng hình thoi run rẩy trên mặt thảm trải sàn ngay cạnh chân họ.
Mal đưa ngón tay đẩy gọng kính lên cao và nói nhỏ xíu: - Cô ấy giúp việc trong nhà.
- Cái gì... nhà anh ư?
- Chỉ một thời gian ngắn thôi. Đơn giản là dọn dẹp, phụ giúp bà Maggie.
Rụt rè nhấp thêm ngụm rượu, Mal chăm chú nhìn bàn tay của chính mình trả ly ngay ngắn lên đế lót bằng cói. - Tôi không muốn người ngoài đàm tiếu chuyện đó... - Chuyện đó là chuyện gì?
- Cái chết của cô ấy và mọi chi tiết liên quan. Tôi không muốn người ta xầm xì, nhất là ở bệnh viện. Chắc cậu cũng biết đám y tá chúa hay ngồi lê đôi mách.
Quirke ngả người, dựa hẳn vào lưng ghế dài săm soi nhìn ông anh cột chèo lênh khênh trên ghế đẩu, trong lòng ngổn ngang bao mối lo âu. Cổ Mal vươn ra trước, cục yết hầu động đậy liên hồi. Quirke mềm mỏng:
- Thật lạ đời! Lạ nhất là anh vào quán rượu, gọi whisky và nhắc tôi chớ nói ai hay chuyện một cô gái lạ nào đó bị chết...
Chắc anh không mưu tính chuyện ngớ ngẩn gì đấy chứ? Mal lừ mắt nhưng dịu xuống ngay.
- “Chuyện ngớ ngẩn” nào?
- Làm sao tôi biết được. Tôi đang mong anh chỉ giáo đây. Có phải cô ta là bệnh nhân của anh không?
Mal chậm chạp nhún vai, tỏ vẻ chán nản và khó chịu. - Phải mà không phải. Gia đình cô ấy từ dưới quê gọi điện xin gặp tôi. Họ là nông dân nghèo, chất phác. Tôi liền cho xe cứu thương đến ngay. Tuy nhiên cô ấy chết trên đường đến bệnh viện.
- Nguyên nhân tử vong là tắc nghẽn mạch phổi. Tôi có đọc bệnh án.
Mal ngẩng phắt, trợn mắt nhìn. Ông thở phào, gõ nhịp mấy đầu ngón tay lên bàn, mắt lại lơ đãng nhìn quanh: - À, ra thế. Cậu không hiểu được đâu. Vì đối tượng nghề nghiệp của cậu không phải người sống. Khi bệnh nhân được giao cho mình thiệt mạng, nhất là bệnh nhân trẻ, mình thấy... đôi khi mình thấy như mất người thân vậy... Tôi không biết cảm giác ấy do đâu mà có... (Mal buồn bã nhìn Quirke, nhưng vẫn không giấu được vẻ khó chịu: Phải, ngài Malachy Griffin không thích bị người khác chất vấn). Tôi chỉ xin cậu chớ nói đến chuyện đó, nhất là ở bệnh viện.
Quirke đáp trả tia nhìn của Mal soi vào mắt mình. Họ cứ ngồi nhìn nhau như thế thật lâu cho đến khi Mal phải cụp mắt xuống trước. Quirke không tin lời Mal nói về nguyên nhân cái
chết của Christine Falls. Ông tự hỏi tại sao mình không ngạc nhiên trước sự thiếu tin tưởng ấy. Tuy nhiên, nếu tối nay Mal không đến nói chuyện, ông đã nhanh chóng quên Christine Falls rồi. Suy cho cùng, cô ta chỉ là một thành viên của thế giới người chết đông vô số kể.
- Anh uống thêm nhé?
Mal từ chòi, nói rằng ông phải đi, rằng Sarah đang đợi ông ở nhà bởi họ sắp đi dự tiệc tối, rằng ông còn phải thay đồ cho kịp... Nói tiếng nhỏ dần, Mal nhìn Quirke tuyệt vọng, đau khổ và nhẫn nhịn đến độ Quirke chỉ muốn vỗ vai ông anh rể, đỡ anh đứng lên cho vững. Như đoán được ý nghĩ của Quirke, Mal đứng phắt dậy, vội vã bỏ đi.
Còn lại một mình, Quirke ngẫm nghĩ rất lung. Quả thực nếu Mal không lo cuống lên về vụ Christine Falls, ông cũng chẳng quan tâm đến cô ta làm gì. Rời quán khi mới ngà ngà say lúc tối khuya hôm đó, Quirke không về nhà mà đến bệnh viện. Ông mở cửa văn phòng, lục tủ hồ sơ định lấy bệnh án của Christine Falls ra xem lại. Lạ thay, tập bệnh án đã không cánh mà bay.
***
Mulligan, nhân viên phụ trách việc đăng ký nhập viện ung dung ngồi nghỉ. Ngửa đầu trên lưng ghế tựa, gác cả hai chân lên bàn làm việc, anh ta vừa hút thuốc, vừa đọc báo. Cạnh chân ghế có ly trà nóng nằm trong tầm với của anh. Mulligan khoái bài viết trên báo People số Chủ Nhật tuần trước kể về một cô gái gọi
và lão già bao cô ta đi lừa một lão già khác, đem tiền về cho bồ nhí. Báo còn đăng ảnh của cô nọ: một cô gái tóc vàng mặc váy ngắn cũn cỡn. Người trong ảnh hơi giống cô y tá trên lầu đã lên đường đi Tân Thế Giới ngày hôm kia. Hình như cô ta phải lòng sếp nên bị thuyên chuyển... Vừa nghĩ đến đấy, ông sếp nọ đã xuất hiện trong trang phục hôi hám như mọi khi. Mulligan vội bỏ hai chân xuống, dúi mẩu thuốc vào gạt tàn, nhét báo vào ngăn kéo trong lúc Quirke vẫn chưa buông núm cửa lạnh lùng đứng nhìn. Ông nói nhanh:
- Tìm cho tôi hồ sơ về ca cấp cứu bệnh nhân họ Falls, tên Christine. Tối hôm kia, xe cứu thương xuống Wicklow hay Wexford gì đó chở cô ta lên đây.
Mulligan đã nghiêm túc trở lại, lục tủ hồ sơ lấy cuốn sổ cái ghi từ đầu tháng dò từng trang.
- Falls ư? Có phải F-A-L-L-S không ạ?
Quirke gật đầu nhưng không vào và vẫn nhìn anh ta bằng cặp mắt lạnh lùng, vô cảm:
- Tên là Christine. Chết trên đường đến bệnh viện. - Rất tiếc, thưa ông. Không có ai họ Falls, cũng không có bệnh nhân nào dưới tỉnh cả (Quirke ngẫm nghĩ giây lát rồi gật đầu dợm bước đi). Khoan đã. (Nhân viên trực chỉ vào giữa trang sổ). Đây có cô Christine Falls, trùng tên. Tuy nhiên không phải ở tỉnh lỵ. Bệnh nhân ở thành phố. Xe đón cô ta lúc năm giờ bảy phút sáng, tại đường Crimes, khu Stoney Batter. Số nhà mười bảy. Chủ hộ là (anh ta cúi sát trang giấy) Dolores Moran.
Có phần đắc thắng, anh ta ngẩng lên nhìn, kỳ vọng sẽ được khen vì đã không bỏ sót thông tin nào. Nhưng tất nhiên làm gì có chuyện khen tặng. Quirke chỉ nhặt mảnh giấy và cây viết chì trên bàn, bắt anh ta đọc lại địa chỉ rồi quay lưng định đi. Chợt ông dừng lại, nhìn ly trà dưới chân ghế, ôn tồn hỏi:
- Cậu cũng bận rộn nhỉ?
Mulligan bẽn lẽn nhún vai.
- Buổi sáng vào giờ này hơi ít việc ạ.
Khi Quirke khuất dạng, anh ta chỉ dám sập nhẹ cánh cửa và lẩm bẩm:
- Đáng ghét.
Mulligan tự hỏi Christine Falls là ai mà sếp quan tâm đến vậy. Tuy nhiên, anh ta tặc lưỡi: Chắc ông ta lại quá chén nên nhìn gà hóa cuốc thôi. Anh ta vừa ngồi vào bàn, định lấy báo ra đọc tiếp thì cửa lại bật mở. Quirke trở lại đứng choán gần hết khung cửa hẹp.
- Này cậu, người ta đưa xác Christine Falls đi đâu nhỉ? Quên biến mình đang nói chuyện với ai, Mulligan buột miệng gắt:
- Hỏi gì?
Thấy Quirke nghiêm mặt, anh vội lúng túng đứng lên: - Xin thứ lỗi! Sếp vừa hỏi gì ạ?
- Tôi hỏi cái xác. Nó đâu rồi?
- Chắc là ở nhà xác của thành phố thôi ạ (Anh lật cuốn sổ cái vẫn còn trên bàn). Đúng vậy, ở nhà xác của thành phố. - Cậu kiểm tra xem nó còn ở đó không nhé. Nếu gia đình chưa đến nhận, hãy mang nó về đây.
Mulligan hốt hoảng nói:
- Nếu thế, tôi sẽ phải làm thủ tục và ký nhiều giấy tờ nhiêu khê lắm ạ.
Miệng nói vậy nhưng anh không hề biết thủ tục ra sao. Từ trước đến nay, chưa ai bảo anh đến nhà xác đòi lại tử thi bao giờ.
Quirke không thèm quan tâm.
- Thì cứ làm đi. Còn giấy tờ, cậu cứ mang về đây, tôi ký (Vừa bước một chân ra ngoài, ông đã rụt lại, ngoái đầu vào bảo). Việc nhiều lên rồi đấy nhỉ?
***
Sau đó, Quirke lưỡng lự không biết chọn ai trong số hai phụ tá ở lại giúp mình một tay. Cuối cùng, Quirke kết luận dù Sinclair gốc gác Do Thái và giỏi nghề hơn nhưng Wilkins đáng tin cậy hơn. Anh ta đồng ý ngay, không hỏi han gì và chỉ rụt rè vừa nhìn móng tay vừa xin nghỉ thêm một ngày vào cuối tuần để về quê thăm mẹ. Bố anh mất đã lâu, giờ chỉ còn mình bà mẹ. Đó chẳng phải yêu cầu gì quá đáng mặc dù lịch làm việc của khoa đã dày kín. Tất nhiên, Quirke nhượng bộ nhưng kiểu trao
đổi thẳng thừng ấy khiến sự quý mến mà ông dành cho Wilkins giảm xuống một bậc. Giờ ông lấy làm tiếc vì không chọn Sinclair. Quan sát Sinclair với kiểu cười mỉa mai và sở thích châm biếm chua cay, Quirke biết cậu ta, tuy không dám ra mặt nhưng đúng là có coi thường ông. Tuy nhiên, Sinclair quá kiêu hãnh đến độ sẽ không lên tiếng xin nghỉ bù vì giúp Quirke một việc mà anh gọi là “một ý thích ngẫu hứng”, giống như bao lần “ngẫu hứng” khác của Quirke.
Ông nhanh chóng biết bí mật của Christine Falls. Thi thể cô theo xe từ nhà xác về bệnh viện lúc sáu giờ chiều. Chưa đến bảy giờ, Wilkins đã xong việc và nhón chân ra về. Không hiểu sao, Quirke vẫn nghĩ kiểu ý tứ như thế là lén lút. Vẫn mặc nguyên áo choàng và tạp dề cao su, Quirke ngồi trên chiếc ghế đẩu cao đặt cạnh bồn rửa bằng thép loại lớn, hút thuốc và suy nghĩ mông lung. Ông biết ngoài kia trời vẫn sáng. Nhưng căn phòng không có cửa sổ và kín mít như bể chứa nước khổng lồ này luôn tối như đêm ba mươi. Trong số bồn rửa có một vòi nước lạnh nhểu nước tí tách, dù sửa cách nào cũng không hết. Còn nữa, cụm đèn neon ngay phía trên bàn mổ có một bóng kêu o o và chớp tắt hoài. Dưới ánh sáng chói gắt, tử thi từng là cô Christine Falls tràn căng sức sống giờ nằm ngửa trên bàn, ngực và bụng mổ phanh như người ta mở túi du lịch, để lộ toàn bộ lục phủ ngũ tạng ướt át bên trong.
Thi thoảng Quirke thấy thích xác chết hơn người sống. Phải, ông thầm thán phục tử thi, thích những cỗ máy sinh học mềm mại có lớp da như làm bằng sáp mới bất ngờ ngưng hoạt động.
Dù có thối rữa hay hư hại cách nào, mỗi xác người đều hoàn hảo theo cách riêng của nó. Chúng vô tình như đá cẩm thạch. Quirke ngại rằng càng ngày ông càng thích chúng. Thậm chí, xét theo một khía cạnh nào đó, cơ thể ông cũng giống xác chết. Nhiều khi ngồi nhìn hai bàn tay đăm đăm, Quirke thấy da thịt ở tay mình cũng mềm nhũn, lờ đờ và đầy lỗ chân lông, hệt như tay những xác chết ông từng mổ xẻ. Hình như một loại chất nào đó từ chúng thấm từ từ, đều đặn vào cơ thể ông mỗi ngày. Phải, ông bị sự bí ẩn thầm lặng của xác người hấp dẫn. Mỗi tử thi đều có một bí ẩn độc đáo: nguyên nhân tử vong đích thực. Nhiệm vụ của ông là phải tìm cho ra bí ẩn đó. Với ông, người chết cũng hấp dẫn chẳng khác gì người sống.
Gõ điếu thuốc vào thành bồn, ông thấy một đoạn tro tàn rơi xuống miệng ống thoát nước tạo nên tiếng xèo xèo nhỏ xíu. Kết quả xét nghiệm tử thi đã khẳng định điều ông nghi ngờ. Nhưng ông sẽ làm gì với thông tin đó và quan trọng hơn, tại sao ông cho rằng sắp tới ông sẽ dùng đến bí mật vừa được khám phá?
5
Đ
ường Crimea cũng giống mấy con đường gần đó. Con phố dành cho thợ thuyền này có hai dãy nhà mặt tiền xoay vào nhau với các cửa sổ thấp có treo rèm đăng ten và cửa ra vào hẹp. Một chiều cuối hè, Quirke đi dọc con phố, lẩm nhẩm đọc số nhà. Dưới vòm trời sáng trong có mây màu đồng sáng viền quanh, không gian yên tĩnh lạ thường. Trước cửa nhà số mười hai có một ông mặc áo gilê cũ cáu bẩn đang xúc phân ngựa từ thùng xe mở nắp chất thành đống trên vỉa hè. Ông ta buộc túm hai gấu quần bằng dây bện nhỏ. Tại sao phải buộc túm như thế? Quirke đoán già đoán non, cho rằng để lũ chuột không chạy xộc thẳng lên trên ống quần. Ra thế, trên đời còn lắm nghề tệ hơn nghề nghiên cứu bệnh học. Khi Quirke đi ngang qua, ông ta dừng tay, tì vào cây chạc ba, bỏ mũ xuống để đỉnh đầu hói bóng hưởng chút gió trời. Con lừa nhỏ phía đầu xe đứng yên bất động, mắt nhìn xuống như thả hồn tận đâu đâu. Hình ảnh con lừa, người đàn ông, ánh chiều chạng vạng và mùi phân ngựa tươi hòa quyện vào nhau làm Quirke thấy quen quen nhưng không thể nhớ thật rõ ràng. Nó gợi nhớ một dĩ vãng quá xa xôi, thoắt ẩn thoắt hiện ngoài tầm trí nhớ của ông có thể với tới. Thuở thiếu thời côi cút của Quirke như một sự thiếu vắng để lại vô vàn hậu quả khó lường.
Ông phải gõ cửa nhà bà Moran hai lần, bà mới ra mở cửa và chỉ mở hé, vừa đủ để một con mắt gườm gườm ngó ra. - Bà là Dolores Moran phải không?
Một giọng the thé chói tai đáp lời:
- Ông là ai mà hỏi tôi thế?
- Tôi là Quirke, muốn hỏi thăm vài câu về cô Christine Falls. Con mắt sau cánh cửa trợn lên nhìn ông.
- Chrissie ư? Nó làm sao mà phải hỏi?
Chủ nhà làm thinh, ra chiều suy nghĩ. Lát sau, bà bảo: - Ông chờ một chút.
Đoạn bà đóng sập cửa lại. Chừng một phút sau, bà mang theo túi xách, áo khoác và khăn quàng cổ bằng lông cáo còn dính nguyên đầu con cáo nhỏ và bộ móng vuốt đen bé tí xíu. Mặc váy hoa may theo kiểu quá trẻ so với tuổi, bà Moran lênh khênh trên đôi giày đế cao và to màu trắng. Mái tóc nhuộm của bà màu nâu vàng. Quirke ngửi thấy mùi nước hoa quyện mùi khói thuốc. Cách tô son của bà ta cũng khác người: một hình vòng cung phủ lên đường viền thật của môi trên. Mắt bà và mắt cáo của bộ da trên cổ giống nhau lạ thường: chúng đều nhỏ xíu, đen nhánh. Bà nói:
- Đi nào, ông Quirke. Mời tôi uống vài ly rồi muốn nghe chuyện gì tôi sẽ kể cho.
Bà đưa ông đến một quán rượu dưới tầng hầm tên là Moran’s và nói lạnh lùng: