🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bạc Liêu Xưa - Huỳnh Minh full prc pdf epub azw3 [Địa lý]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tựa sách : BẠC LIÊU XƯA
Tác giả : HUỲNH MINH
Nhà xuất bản : THANH NIÊN
Năm xuất bản : 2002
------------------
Nguồn sách : Diễn đàn TVE-4U
Đánh máy : vqsvietnam, sakura2808
Kiểm tra chính tả : Lotus, bichdinh, HacLongNinhKieu, Thư Võ
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 11/11/2017
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn tác giả HUỲNH MINH đã chia sẻ kiến thức đến người đọc
MỤC LỤC
BẢN ĐỒ TỈNH LỴ BẠC LIÊU
LỜI NÓI ĐẦU
BIÊN TẬP ĐẠI Ý
Phần thứ nhất : BẠC LIÊU QUA CÁC THỜI ĐẠI LỊCH SỬ BẠC-LIÊU
TRẢI 142 NĂM (1740-1882) TỪ HUYỆN TRẤN DI ĐẾN TỈNH BẠC LIÊU
TÌM HIỂU DANH TỪ BẠC LIÊU
BẠC LIÊU TRẢI QUA CUỘC BIẾN LOẠN
1) LOẠN HOA KIỀU PHỦ LIÊM
2) CUỘC NỔI LOẠN CỦA NGƯỜI MIÊN TIA, SUM 3) NGƯỜI MINH HƯƠNG VÀ THIÊN ĐỊA HỘI
4) LOẠN LÂM LÂM
NHỮNG THĂNG TRẦM, BIẾN CHUYỂN CỦA BẠC LIÊU BỘ MẶT BẠC LIÊU HIỆN THỜI
Phụ Biên : CÀ MAU
NĂM CĂN : MỘT TRONG SÁU QUẬN NỔI TIẾNG CỦA CÀ MAU
Phần thứ nhì : DANH NHÂN BẠC LIÊU – CÀ MAU I. HỔ TƯỚNG DƯƠNG CÔNG TRỪNG
2. NGÔ CÔNG QUÝ : TẬN TRUNG GIÚP CHÚA
3. TRẦN PHƯỚC CHẤT : MỘT VÕ TƯỚNG THEO CHƠN CHÚA NGUYỄN
4. NGÔ VĂN LỰU : BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG 5. NGUYỄN HIỀN NĂNG : TRI HUYỆN NỔI TIẾNG THANH LIÊM MẪN CÁN LỪNG DANH « THẦN MINH »
6. NGUYỄN VĂN ĐỨC : TIỀN HIỀN KHAI ẤP, LẬP XÃ VIÊN
AN
7. TÔ XUÂN : VỊ TU SĨ NỔI DANH Ở QUAN ÂM CỔ TỰ 8. ANH EM HỌ ĐỖ - ĐỖ THỪA LUÔNG, ĐỖ THỪA TỰ OANH LIỆT CHỐNG QUÂN PHÁP
9. NGUYỄN THỊ NƯƠNG, MỘT TIẾT PHỤ ĐƯỢC VUA THIỆU TRỊ TƯỞNG THƯỞNG
TẠM KẾT
Phần thứ ba : ĐỊA DANH, GIAI THOẠI VÀ HUYỀN SỬ ĐỊA DANH
TÌM HIỂU TỪ CHỈ TÊN CÁC QUẬN
VĨNH CHÂU LÀ GÌ ?
HAI TIẾNG GIÁ RAI
NĂM CĂN TỪ ĐÂU MÀ CÓ ?
GIAI THOẠI
« CÔNG TỬ BẠC LIÊU » DO ĐÂU MÀ NỔI TIẾNG ? CHUYỆN BÀ MỤ TRỜI ĐỠ SANH CHO CỌP TẠI RỪNG CÀ MAU
MIẾU BÀ CỐ LINH THIÊNG VỚI QUAN CHÁNH THAM BIỆN NGƯỜI PHÁP
MIẾU BÀ MÃ CHÂU (CÀ MAU)
HUYỀN SỬ
CHUYỆN CÁ SẤU CỨU CHÚA TÔI NGUYỄN ÁNH ĐƯỢC PHONG CHỨC LANG LAI ĐẠI TƯỚNG QUÂN
NGUỒN GỐC AO NGỰ VÀ ẤP GIÁ NGỰ
Bên lề lịch sử : KINH CẠNH ĐỀN ẤP CẠNH ĐỀN KINH CHẮC BĂNG VỚI NGUYỄN ÁNH
Phần thứ tư : DI TÍCH – THẮNG CẢNH – CỔ TỤC DI TÍCH LỊCH SỬ : BẠC LIÊU VỚI VUA GIA LONG 1) ĐỒN BINH TRÊN CỬA SÔNG MỸ THANH VÀ NGÔI MỘ
CỦA MỘT CÔNG NƯƠNG NHÀ NGUYỄN NƠI LÀNG TÂN KHÁNH
2) SÔNG ÔNG ĐỐC : ĐỐC BINH HỌ HỲNH ĐÃ LIỀU THÂN CỨU NGUY CHO CHÚA NGUYỄN ÁNH, NAY CÒN LƯU DANH VÙNG QUẬN SÔNG ÔNG ĐỐC.
3) NHỮNG CƠ SỞ ĐỒN ĐIỀN DO KINH LƯỢC SỨ NGUYỄN TRI PHƯƠNG THIẾT LẬP
4) CHÙA VĨNH TRIỀU MINH TRONG QUẬN VĨNH LỢI 5) NGÔI CHÙA MIÊN BOUTHALET
6) CHÙA VĨNH PHƯỚC AN VÀ CHÙA TAM SƠN QUỐC VƯƠNG HAY CHÙA CÂY ME
7) NGÔI MỘ CỔ CỦA ÔNG ĐÀO CHÂU THÁI VÀ NGHĨA ĐỊA BINH SĨ THỜI GIA LONG TẨU QUỐC
8) DI TÍCH MỘT CHIẾC THUYỀN NGỰ CỦA CHÚA NGUYỄN ÁNH TẠI RỪNG NĂM CĂN
9) MIẾU HỘI ĐỒNG VÀ MIẾU HẢI LINH
10) ĐÌNH THẦN TÂN HƯNG, VỊ BỔN CẢNH THÀNH HOÀNG ĐƯỢC NHÂN DÂN SÙNG PHỤNG, VUA TỰ ĐỨC BAN SẮC PHONG THẦN.
11) MIẾU CÔNG THẦN
ĐIỂU ĐÌNH - SÂN CHIM LỚN NHẤT VÀO THỜI XƯA MỘT NGUỒN LỢI THIÊN NHIÊN ĐÁNG KỂ Ở CÀ MAU MỘT GỐC KIỂNG THỤ SỐNG TRÊN THẾ KỶ TẠI BẠC LIÊU CHIẾC ĐỒNG HỒ XƯA KHÔNG MÁY XÂY BẰNG GẠCH, HIỆN CÒN DI TÍCH Ở BẠC LIÊU
CỔ TỤC
CỔ TỤC CỦA NGƯỜI MIÊN TẠI BẠC LIÊU
MỘT VÀI CỔ TỤC CỦA ĐỒNG BÀO ĐỊA PHƯƠNG THẮNG CẢNH BẠC LIÊU
BÃI BIỂN VĨNH CHÂU VÀ CỬA BIỂN MỸ THANH
HÒN CHUỐI VÀ HÒN ĐÁ BẠC
Phần thứ năm : VẺ ĐẸP BẠC LIÊU – CÀ MAU QUA THI CA
BẠC LIÊU QUA BỘ MÔN SÂN KHẤU KỊCH TRƯỜNG QUÊ HƯƠNG SẢN XUẤT CỦA BẢN VỌNG CỔ
CÁC NHẠC SƯ TÊN TUỔI
SOẠN GIẢ NỔI TIẾNG
NAM NỮ CA KỊCH SĨ LỪNG DANH
VẺ ĐẸP BẠC LIÊU CÀ MAU QUA THI CA
NHỮNG THỔ SẢN ĐỊA PHƯƠNG DANH TIẾNG QUA CA DAO ĐƯỜNG XUÔI HẬU GIANG VỀ TỈNH MUỐI
TRÊN ĐƯỜNG PHỤC HƯNG KIẾN THIẾT
KINH TẾ
NGUỒN LỢI KINH TẾ ĐẦY HỨA HẸN
VÀI NÉT ĐẠI CƯƠNG VỀ BẠC LIÊU TRÊN ĐƯỜNG PHỤC HƯNG KIẾN THIẾT
NÔNG LÂM SÚC : TIẾN TRIỂN ĐỒNG ĐỀU
GIAO THÔNG : MỞ RỘNG ĐƯỜNG SÁ
Y TẾ : SỨC KHỎE DÂN CHÚNG ĐƯỢC BẢO VỆ
CÁC GIÁO PHÁI HIỆN HỮU
GIÁO PHÁI TU TĂNG KHẤT SĨ
TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỌC NAM VIỆT VÀ CƯ SĨ LÂM CỦA NGƯỜI HOA KIỀU
CÔNG GIÁO TIN LÀNH
CAO ĐÀI LƯỠNG PHÁI TIỀN GIANG VÀ HẬU GIANG PHẬT GIÁO HÒA HẢO
TỔNG KÊ CÁC CƠ SỞ THỜ PHƯỢNG
MỘT NGÔI CHÙA ĐẶC BIỆT CỦA HOA KIỀU
TỔNG KẾT
HUỲNH MINH
TÌM HIỂU DANH LAM THẮNG TÍCH CÁC TỈNH MIỀN NAM
BẠC LIÊU XƯA
LOẠI SÁCH SƯU KHẢO
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN 2002
BẢN ĐỒ TỈNH LỴ BẠC LIÊU
LỜI NÓI ĐẦU
Tìm hiểu non sông đất nước vẫn là nguyên động lực thúc đẩy bồi dưỡng tinh thần yêu nước mà mỗi công dân không thể không biết đến. Có biết mới yêu, có hiểu mới rõ cảm xúc thấm thía, lòng yêu mới đậm đà thắm thiết.
Nói rằng yêu nước, mà không hiểu gì hay chỉ hiểu biết mơ hồ về non sông quốc thổ, công nghiệp tiền nhân, nếp sống của đồng bào ruột thịt quê hương, chẳng là một khuyết điểm lớn sao ? Tuy nhiên, không phải ai ai cũng có phương tiện và cơ hội đi khắp đó đây. Phần đông chúng ta đều bị đời sống buộc ràng, có người suốt đời không ra khỏi lũy tre xanh, hay giới ranh của đô thị.
Để bù lại, duy chỉ còn cách tìm đọc sách báo.
Nhưng đọc gì bây giờ ?
Nhan nhản truyện kiếm hiệp, liêu trai, tiểu thuyết rẻ tiền. Loại sách sưu khảo hữu ích thì thưa vắng góp mặt trên thị trường buôn văn bán chữ, vì loại sách này đòi hỏi nơi người viết nhiều học thức lẫn công phu, mà thù tạc lại không bao nhiêu lợi lộc.
Nếu ở đời, ai ai cũng đặt lợi lộc lên trên trước hết, thôi còn chi nữa mà mong ? !
Chúng tôi một nhóm nhân văn ký giả nghèo tiền nhưng không nghèo tâm chí, nhận thấy chỗ khiếm khuyết cần được bồi bổ trong nền văn học quốc gia, muốn đáp ứng sự đòi hỏi của một số đồng bào thật lòng yêu nước, sau mấy phen phiêu lưu đầy huyết lệ đã nhận chân được đâu là nguồn sống và phát triển của dân tộc, chúng tôi không ngần ngại lãnh làm cái công việc vừa khó khăn vừa bạc bẽo : sưu tầm khảo cứa và xuất bản loại sách tìm hiểu danh lam, thắng cảnh và nhân vật nước non nhà.
Khởi đầu với cuốn « ĐỊA LINH NHƠN KIỆT » về tỉnh Kiến Hòa, mà mặc dầu có nhiều khuyết điểm vẫn gặp được sự cảm thông và hoan nghinh nhiệt liệt của báo chí và các giới đồng bào khuyến khích, hôm nay chúng tôi tiếp tục giới thiệu với quí bạn đọc thân mến : tỉnh Bạc Liêu qua các thời đại, và rồi sẽ lần lượt đến tỉnh Định Tường, Cần Thơ, Kiên Giang, Ba Xuyên, Bình Dương, Long An, Biên Hòa v.v...
Đường xa gánh nặng, công trình e quá sức chúng tôi chăng ?
Chúng tôi cũng tự lượng sức mình không thể nào « đội đá vá trời ». Nhưng nếu cứ ngồi một chỗ mà ngại núi e sông thì không bao giờ có công việc gì khởi sự.
Cứ đi rồi sẽ tới !
Và, chúng tôi tin rằng dầu chúng tôi có mệt mỏi giữa đường, sẽ có những người bạn đồng hành đồng chí khác cứ tiến lên, nâng cao ngọn đuốc tinh thần bất khuất của dân tộc.
HUỲNH MINH
BIÊN TẬP ĐẠI Ý
CÂY có cội mới nở ngành xanh ngọn.
NƯỚC có nguồn mới bể rộng sông sâu.
Lịch sử loài người, dân tộc, đất đai sông núi đã có trên quả đất nầy. Tất cả vạn vật đều do thượng đế dựng nên.
Chúng ta đã sanh làm người dân tộc Việt sống trong bản dư đồ chữ S từ Nam Quan chí mũi Cà Mau, há chẳng niệm công ân tổ tiên đã gian lao khổ nhọc gầy dựng nên mà lưu lại hậu thế ? Thiết tưởng chúng ta phải cần biết đất đai, tỉnh lỵ xứ sở làng mạc của mình có những gì, do ai khai sáng, đồng bào dân chúng sống như thế nào ? Tài nguyên kinh tế có trù phú hay không ? Sự tiến bộ qua mỗi thời đại ra sao, điều ấy rất quan trọng và cũng là điều tối cần cho những ai mang dòng máu Tiên rồng, bốn ngàn năm vạn hiến kết tinh.
Ngày nay thế hệ chúng ta ở vào thời đại nguyên tử, vật chất bao trùm, ánh sáng khoa học tây phương càng ngày càng bành trướng khắp thị thành lẫn thôn quê. Văn hóa ngoại lai tràn ngập : tiểu thuyết rẻ tiền, phim cao bồi, kiếm hiệp, chưởng, đảo hải di sơn, v.v… Một số thanh niên nam nữ bị đầu độc, hư thân mất nết, bán lương tâm, mờ tối lương tri, chạy theo dục lạc của thế hệ kim tiền không còn giữ được đạo nghĩa gia phong thuần túy, dường như đặc tính của người việt mất hẳn. Từ tiếng nói, giọng cười cũng đổi, cơ đồ họ muốn quên cả tiếng mẹ đẻ nữa là khác.
Ai là người yêu quê hương đất tổ, mến trọng nghĩa nhân, bảo tồn dân tộc tính, thấy vậy không khỏi đau lòng, e ngại một ngày kia sẽ mất hẳn hết ! ! ! Vì lẽ ấy, chúng tôi tìm qua phần lịch sử của mỗi tỉnh trong miền Nam, nói lên tiếng nói của quê hương, khơi nguồn sống trong lòng dân tộc hòa cùng lòng đất thân yêu của tiền nhân để lại, từ tập tục, sự tích, cổ truyền.
Chúng tôi sẽ trình bày với tánh cách khách quan, hướng dẫn quí đọc giả biết qua lịch sử, địa lý của tỉnh Bạc Liêu từ chương mục. Thiết tưởng khi bắt tay vào việc viết qua « Bạc Liêu xưa và nay », là cả một vấn đề thiếu thốn về phương tiện, nhưng với sự cố gắng, chí nhẫn nại là yếu tố phục vụ của chúng tôi, sẽ không phụ lòng bạn đọc tin yêu kỳ vọng. Chúng tôi sẽ đưa ra nhiều chuyện hay tích lạ của tỉnh nầy, công trình hằng bao nhiêu tháng, sưu tầm khảo cứu, nói lên để làm nổi bật một tỉnh trù phú, khét tiếng giàu có về ruộng lúa, ruộng muối phì nhiêu, sông dài bể rộng, dân chúng đủ cơm ăn áo mặc, sự sống dễ dàng, con người hay tôn thờ tín ngưỡng, hiền lành chất phác, phần đông là người Tiều (Triều Châu), người Hẹ (Hải Nam) đến sanh cơ lập nghiệp nơi tỉnh nầy lúc chưa thành lập. Tỉnh Bạc Liêu ngày xưa có thể là một tỉnh thần huyền và có nhiều giai thoại đặc biệt hơn các tỉnh khác, chúng tôi sẽ trình bày nơi phần thứ ba trong tập sách nầy.
Bạc Liêu hồi thời Pháp thuộc rất sung túc, dân cư đông đảo, nổi tiếng là xứ ăn xài, lắm khách hào hoa phong nhả, chợ búa mua bán phồn thịnh, nền kinh tế dồi dào. Cho đến khi chánh phủ Ngô Đình Diệm chấp chánh, Bạc Liêu sáp nhập về tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng cũ) trước kia thạnh vượng đông đảo bao nhiêu, bây giờ lại hóa ra u trệ bấy nhiêu. Vì bỗng dưng bị thâu hẹp lại thành một quận gọi là quận Vĩnh Lợi, trọn 9 năm châu thành Bạc Liêu lâm vào cảnh vắng vẻ, nền kinh tế bị sụp đổ, du khách có dịp đi ngang qua cảm tưởng cho là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá.
Lần lượt chúng tôi sẽ đề cập sự phát triển của Bạc Liêu xưa qua các phương diện.
Phần thứ nhất : BẠC LIÊU QUA CÁC THỜI ĐẠI
Phụ biên Cà Mau (An Xuyên) trải qua các cuộc thăng trầm
LỊCH SỬ BẠC-LIÊU
Ngược dòng thời gian, vào đầu thế kỷ thứ XVIII, Bạc Liêu hãy còn là một hoang địa. Theo sử sách và lời thuật lại theo ký ức của các bô lão, thì dân cư đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng này chưa quá 200 năm. Những di tích lịch sử như các đình chùa, miếu mộ đã xác nhận điều đó.
Những cư dân đầu tiên đã đến sinh cơ lập nghiệp ở đấy vì nhận thấy có hai phương thế thuận lợi để sinh sống. Một là gần biển thuận lợi cho ngư nghiệp. Hai là đất phù sa phì nhiêu thạnh mậu, trồng trọt thứ gì cũng đắc lợi. Nơi người ta đến ở đầu tiên là khu vực của tổng Thanh Hưng hiện thời.
Những người đến ở vùng này trước nhất là người Miên từ Sóc Trăng và Trà Vinh qua, với những người Tàu gốc Triều Châu tới lập cơ sở đánh cá và trồng tỉa hoa màu trên những đồi cát dọc theo bờ Nam Hải. Hiện nay cũng có những Huê kiều tiếp tục sinh nhai về hai nghề ấy. Lại cũng có một ít Huê kiều thử làm ruộng muối.
Những ruộng muối thời xưa nằm gần kề bên tỉnh lỵ Bạc Liêu bây giờ, nhưng ngày nay thì lại cách tỉnh lỵ ấy rất xa. Đó là bằng chứng : ngày trước bờ biển nằm ngay chỗ hiện thời là tỉnh lỵ ; đất bồi lần hồi đã lấn ranh giới của biển dang ra xa, để cho người chiếm ở.
TRẢI 142 NĂM (1740-1882) TỪ HUYỆN TRẤN DI ĐẾN TỈNH BẠC LIÊU
Từ đầu thế kỷ 18, trên bước đường Nam tiến, dân Việt ta lần hồi có mặt nơi vùng đất Bạc Liêu, Cà Mau. Cho đến khi chúa Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, chúa tôi binh tướng nhà Nguyễn qua vùng đất này thường hơn nơi nào cả.
Bạc Liêu khi xưa chỉ là một huyện trực thuộc guồng máy hành chánh của trấn Hà Tiên lúc ấy gồm có 4 huyện như sau :
1) Long Xuyên (Cà Mau bây giờ)
2) Kiên Giang (Rạch Giá)
3) Trấn Giang (Cần Thơ)
4) Trấn Di (Bạc Liêu)
Đầu thế kỷ 19, miền Nam Việt Nam chia thành 6 tỉnh, thường gọi là Nam kỳ lục tỉnh :
Ba tỉnh miền Đông gồm có :
1) Gia Định
2) Biên Hòa
3) Định Tường
Ba tỉnh miền Tây :
4) Vĩnh Long
5) An Giang
6) Hà Tiên
Cố nhiên trong giai đoạn nầy Bạc Liêu vẫn là phần đất còn nằm trong hệ thống tỉnh Hà Tiên. Mà Hà Tiên trải qua các đời Chúa Nguyễn đều giao trọng trách cho họ Mạc (Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích) làm Tổng binh Đại đô đốc, canh phòng chốn biên thùy, ngăn chống quân Xiêm (Xiêm La tức Thái Lan), dẹp quân Chân Lạp (Cao Miên tức Cam Bốt thường
sang quấy nhiễu). Họ Mạc vốn người Việt gốc Hoa, nên lúc Hà Tiên được khai sáng phồn thịnh, thì người Trung Hoa ở Phúc Kiến, Hải Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, vì chống lại nhà Mãn Thanh nên bị săn đuổi trốn sang Hà Tiên ngày một đông. Do đó, đời tổng binh Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu), đoàn người Trung Hoa lưu vong ấy dần dần được di cư tới huyện Trấn Di để khai hoang lập nghiệp, nhiều nhất là người Triều Châu. Chính vì thế mà ngày sau, người Triều Châu (tục gọi là người Tiều) chiếm gần hết guồng máy sinh hoạt ở Bạc Liêu.
Đời Tự Đức, Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương có đến tận vùng nầy lập nhiều đồn điền và làng xã.
Đến lúc sáu tỉnh Nam kỳ thuộc Pháp, từ năm 1882, Bạc Liêu mới được lập thành tỉnh.
TÌM HIỂU DANH TỪ BẠC LIÊU
Danh từ Bạc Liêu, đọc theo tiếng Hoa kiều, giọng Triều Châu gọi là Pô Léo, có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển.
Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là « Bạc » và Léo phát âm thành « Liêu ».
Một thuyết khác cho rằng : Pó là bót, đồn. Liêu là Lào (Ai Lao) theo tiếng Cao Miên, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh do người Lào đồn trú.
Người Pháp do theo tiếng Triều Châu Pô-Léo có nghĩa là xóm nghèo làm nghề hạ bạc – như đã nêu ở trên nên dịch theo nghĩa ấy là Phêcherié – chaume (đánh cá và cỏ tranh)
BẠC LIÊU TRẢI QUA CUỘC BIẾN LOẠN
Từ năm Đinh Dậu 1777, cuộc tranh chấp giữa quân đội Tây Sơn và quân đội chúa Nguyễn đến giai đoạn quyết liệt, vùng Bạc Liêu Cà Mau từng là nơi chúa Nguyễn bôn tẩu. (Chúng tôi sẽ lần lượt kể các chuyện trong khi « Gia Long tẩu quốc » nơi phần thứ II và phần thứ III).
Ngoài cuộc nổi loạn lớn ấy, còn có lắm cuộc biến động hãi hùng trên vùng đất Bạc Liêu :
1) LOẠN HOA KIỀU PHỦ LIÊM
Thế sự tuần hoàn, hết suy đến thịnh.
Sau thời kỳ thua Tây Sơn xiểng niểng và chạy trối chết, lại đến hồi Nguyễn Ánh nhờ ngoại viện trở phản công, Tây Sơn hết thời, Nguyễn Ánh thống nhất giang san, lập triều đại nhà Nguyễn dưới danh hiệu Gia Long hoàng đế.
Suốt thời đại Gia Long, Bạc Liêu không có gì lạ. Qua thời đại Minh Mạng xảy ra cuộc nội loạn do Hoa kiều chủ xướng.
Năm 1840, một Hoa kiều Phủ Liêm gây loạn chống Nam triều. Nguyên do : vua Minh Mạng vì tư thù nên xử tệ với công thần của tiên đế : Tả quân Lê Văn Duyệt Tổng trấn thành Gia Định.
Lúc sống không dám ngang nhiên ngược đãi, vua Minh Mạng chờ đến lúc Tả quân tạ thế mới dùng nghiêm luật nhục mạ đấng công thần, gây công phẫn trong dân tâm, thúc đẩy nghĩa tử Lê Văn Khôi dấy lên. Trong bộ tham mưu của Lê Văn Khôi có người Hoa kiều là Mạch Tấn Giai làm đầu não. Do đó, khi binh triều dẹp xong Lê Văn Khôi chẳng khỏi đàn áp thẳng tay đến người Hoa kiều ở rải rác khắp nơi trên lãnh thổ ta lúc bấy giờ.
Bị tình nghi có dính líu vào cuộc Lê Văn Khôi dấy binh, những Hoa kiều ở Bạc Liêu bị quan quân triều Minh Mạng khủng bố đủ điều. Bất bình, họ nổi loạn chống triều đình, dưới sự lãnh đạo của Phủ Liêm, từng đoàn kéo đi đốt phá cướp bóc không nương tay để trả đũa. Dân chúng ở Cà Mau chịu thiệt hại rất nhiều. Viên tri huyện Nguyễn Hiền Năng bị hạ sát. Tại Tân Xuyên hiện nay có một đài kỷ niệm do dân chúng tự dựng lên, để kỷ niệm công đức ông Huyện Năng (ông huyện này, lúc sanh tiền vốn là một minh quan một người hiền đức mới được nhân dân đối xử như thế)1
Đối với quân nổi loạn của Hoa Kiều do Phủ Liêm cầm đầu, quan quân ở Châu Đốc và Hà Tiên đồng tâm hiệp lực kéo binh qua chinh tiễu một thời gian mới đàn áp được.
Do kinh nghiệm vụ nầy, về sau Nam triều đã lập một huyện tại Cổ Cò, với mục đích hoàn toàn về chiến lược. Đồn binh ở Cổ Cò hiện nay chỉ còn để lại một nền đất cao làm di tích.
2) CUỘC NỔI LOẠN CỦA NGƯỜI MIÊN TIA, SUM
Năm 1859, hai người Cao Miên tên Tia và Sum gốc gác ở Trà Hương là miền hiện thuộc về Sóc Trăng, tự xưng là nguyên soái (Sana) dấy binh làm loạn, lôi kéo theo chúng tất cả người Miên và Hoa kiều. Phong trào phiến loạn sôi nổi dữ dội và trở nên toàn diện ở Bạc Liêu và Sóc Trăng. Viên lãnh binh của Nam triều chỉ huy đồn Bãi Xàu bị tử trận, đồn thất thủ, binh sĩ bị sát hại gần hết.
Hạ được đồn Bãi Xàu, quân phiến loạn phấn khởi thêm lên, kéo đi gây sự khủng bố khắp nơi. Quan binh ở Bạc Liêu vô kế khả thi phải cầu viện với Tổng đốc An Giang.
Vị tổng đốc An giang phái ngay một viên lãnh binh chỉ
huy đoàn thủy quân lục chiến kéo đến đánh dẹp. Trong đạo quân nầy, còn có đoàn quân tình nguyện Mã Lai gọi là « Chiến thắng quân ».
Nghe tin, quân phiến loạn dàn trận chống cự. Một trận đại chiến quyết liệt xảy ra tại Vàm Lẻo cửa vào rạch Bạc Liêu. Đạo binh Nam triều đánh cho quân phiến loạn tả tơi không còn manh giáp. Sana Tia tử trận. Quân phiến loạn tan vỡ, vác thây chủ tướng đào tẩu.
Công cuộc bình định đã xong, an ninh tái lập.
3) NGƯỜI MINH HƯƠNG VÀ THIÊN ĐỊA HỘI
Từ cuộc đô hộ của người Pháp cho đến mãi về sau, người Tàu và Minh Hương trên đất nước nầy được hoàn toàn độc lập.
Những nghị định năm 1867 và 1870 đồng hóa người Minh Hương với người Tàu, cho họ được miễn nhiều sưu thuế. Mãi đến năm 1874 mới có một sắc lệnh ban hành ngày 31 tháng 8 d.l. thâu hồi những nghị định nói trên và kể từ đó người Minh Hương được đối xử hoàn toàn như người Việt. Chính vào thời kỳ nầy ở Bạc Liêu phát sinh phong trào hội kín « Thiên địa hội », sự an ninh trong xứ bị rối loạn vì những hội viên « Thiên địa hội » hoạt động phi pháp khủng bố lương dân, bắt buộc những người có máu mặt trong vùng phải đóng tiền vô quỹ của hội.
Những hội viên của hội kín nầy gồm có người Hoa kiều, người Minh Hương và cả người Việt cũng có chân nữa. Ở vùng Bạc Liêu có hai Thiên địa hội hoạt động mạnh và gây rối loạn hơn hết là Hội Nghĩa hưng kèo (cờ) xanh và Hội Nghĩa hòa kèo vàng. Hai hội tranh đua giành giựt ảnh hưởng và quyền lợi với nhau, thường gây ra những trận ẩu đả chém lộn đổ máu làm mất an ninh. Để vãn hồi trật tự, bảo vệ an ninh cho dân chúng, chánh quyền mới quyết định phải lập một trung
tâm hành chánh tại Bạc Liêu. Do đó, tỉnh Bạc Liêu hình thành vào năm 1882.
4) LOẠN LÂM LÂM
Thổ dân Lâm Lâm cầm đầu dân Lạc Hòa quận Vĩnh Châu nổi loại đồng thời với loạn Tia, Sum đã nói trên tại bãi Phù Tự (tên cũ của Bãi Xàu, tức là quận Mỹ Xuyên hiện thời). Nam triều phải vô cùng vất vả mới dẹp xong. Trong dịp nầy Nguyễn Tri Phương vâng chỉ vua vào tận nơi tổ chức lại hệ thống cơ đội, đồn điền khắp nơi, di tích còn các nền đồn cũ ở các vùng xã Vĩnh Trạch, Vĩnh Mỹ, Long Thạnh, quận Vĩnh Lợi, với một số khí giới tìm thấy khoảng năm 1930.
NHỮNG THĂNG TRẦM, BIẾN CHUYỂN CỦA BẠC LIÊU
Trong thời Pháp thuộc, tỉnh Bạc Liêu thành lập vào năm 1882 do viên chủ tỉnh đầu tiên là Lamothe de Carier nắm quyền cai trị. Lúc đầu chỉ gồm có 2 quận : Vĩnh Lợi và Cà Mau. Đến năm 1904, phân ranh lại, lập thêm quận Vĩnh Châu gồm tổng 5 làng. Rồi đến năm 1918, lại cắt phần đất thuộc quận Cà Mau và tỉnh lỵ mà lập thành một quận nữa là quận Giá Rai. Trước sau tất cả gồm 4 quận, diện tích chung phỏng định 705.000 mẫu tây (1/8 diện tích của miền Nam), chia ra như sau :
- Vĩnh Lợi 44.784 mẫu tây
- Cà Mau 521.000 mẫu
- Vĩnh Châu 31.688 mẫu
- Giá Rai 107.531 mẫu
Năm 1947, quận Phước Long thuộc tỉnh Rạch Giá (bây giờ là Kiên Giang) được sát nhập qua Bạc Liêu, trong khi quận Cà Mau trong tỉnh đã đổi thành tỉnh, chia ra 4 quận :
- Vĩnh Lợi
- Vĩnh Châu
- Giá Rai
- Phước Long
Tám năm sau, tỉnh Bạc Liêu bị chính phủ Ngô Đình Diệm bãi bỏ đi. Do sắc lịnh số 143/NV ngày 25-10-55 bốn quận kể trên đã sáp nhập với Sóc Trăng thành ra tỉnh Ba Xuyên, tỉnh lỵ Bạc Liêu trở thành quân lỵ Vĩnh Lợi. Tỉnh Cà Mau thì đổi tên là An Xuyên. Rồi năm 1961, nghị định số 244/NV ký ngày 24-12-61, lại rút quận Phước Long sáp nhập tỉnh Ba Xuyên mà đem vào địa phận tỉnh Chương Thiện mới thành lập.
Những cuộc thay đổi danh từ và ranh giới đều do một ý định : thủ tiêu các tàn tích của thời kỳ thực dân đô hộ. Dụng
ý vẫn có hay, nhưng vì không nghiên cứu kỹ, nhắm mục đích tuyên truyền chính trị hơn là nghĩ đến sự thiết thực tiện lợi cho quần chúng, chính phủ Diệm đã động phạm đến luật tự nhiên. Rốt cuộc, vẫn phải trở về đường lối cũ.
Kể từ ngày 1-10-64, tỉnh Bạc Liêu được tái lập do sắc lịnh số 245/NV ký ngày 8-9-64 gồm 4 quận cũ, chia làm 5 tổng, 17 xã :
Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai : rút lại của tỉnh Ba Xuyên Phước Long : rút về của tỉnh Chương Thiện
BỘ MẶT BẠC LIÊU HIỆN THỜI
VỊ TRÍ – ĐỊA GIỚI : Tỉnh Bạc Liêu nằm về phía đông nam Nam Việt, Tỉnh lỵ Vĩnh Lợi nằm về hướng đông của tỉnh. Phía bắc giáp tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng và Chương Thiện), đông và nam giáp biển Nam (Nam Hải), tây giáp tỉnh An Xuyên (Cà Mau) và Kiên Giang (Rạch Giá).
DIỆN TÍCH – DÂN SỐ : Diện tích toàn tỉnh phỏng độ trên 238.000 mẫu tây2. Dân số lối 257.154 người. Trong số ấy có 46.552 người Việt gốc Miên, 21.543 người Việt gốc Hoa và một ít ngoại kiều.
1) QUẬN VĨNH LỢI :
Diện tích : 35.172 mẫu tây
Dân số : lối 80.622 người
Nằm dọc theo bờ Nam Hải, quận lỵ đặt tại xã Vĩnh Lợi tức châu thành Bạc Liêu hiện tại, quận Vĩnh Lợi gồm có 1 tổng là tổng Thạnh Hòa, và 5 xã chia làm 59 ấp :
Xã Vĩnh Lợi dân số : 45.853 người
Xã Hòa Bình dân số : 9.591 người
Xã Long Thạnh dân số : 9.019 người
Xã Hưng Hội dân số : 8.429 người
Xã Vĩnh Trạch dân số : 7.640 người
Riêng về thị xã Bạc Liêu, dân số tới 40.000 người (đó là chưa kể quân nhân và gia đình binh sĩ). Mật độ trung bình 825 người sinh sống trên 1 cây số vuông.
2) QUẬN VĨNH CHÂU :
Diện tích : 37.060 mẫu tây
Dân số : 50.157 người
Địa phận Vĩnh Châu là một phần đất cũ của quận Vĩnh
lợi được tách rời ra, tọa lạc ở phía đông tỉnh Bạc Liêu, chạy dọc theo bờ biển Nam. Quận lỵ đặt tại xã Vĩnh Châu, gồm có 1 tổng Thạnh Hưng chia làm 5 xã, 38 ấp :
Xã Vĩnh Châu : 12.165 người
Xã Vĩnh Phước : 12.729 người
Xã Lai Hòa : 10.134 người
Xã Lạc Hòa : 9.261 người
Xã Khánh Hòa : 5.397 người
3) QUẬN GIÁ RAI :
Diện tích : 109.119 mẫu tây
Dân số : 86.948 người
Địa phận quận Giá Rai giáp tỉnh Chương Thiện, An Xuyên và biển Nam, nằm về phía tây nam tỉnh Bạc Liêu trên quốc lộ số 4, giữa đường Bạc Liêu đi Cà Mau. Quận lỵ đặt tại trung tâm điểm của quận tại xã Phong Thạnh, gồm có tổng Long Thủy, chia làm 5 xã, 94 ấp :
Xã Phong Thạnh : 23.722 người
Xã Vĩnh Mỹ : 12.295 người
Xã Long Điền : 22.174 người
Xã An Trạch : 14.358 người
Xã Vĩnh Hưng : 14.399 người
4) QUẬN PHƯỚC LONG :
Diện tích : 56.800 mẫu tây
Dân số : 39.448 người
Quận Phước Long nằm giáp ranh 3 tỉnh An Xuyên, Kiên Giang và Ba Xuyên. Gồm có hai tổng : Thanh Bình và Thanh Yên, chia làm 4 xã, 39 ấp :
Xã Phong Thạnh Tây : 5.791 người
Xã Ninh Thạnh Lợi : 7.554 người
Xã Phước Long : 6.483 người
Xã Vĩnh Phú : 19.620 người
ĐỊA CHẤT : Toàn thể tỉnh Bạc Liêu là đồng bằng không có núi non, nhưng sông rạch và kinh đào chằng chịt.
Vùng quận Vĩnh Châu và Vĩnh Lợi đất cao liền lạc và sát biển phù sa, có nhiều giồng cát dài theo mé biển Nam ; từ bắc xuống nam là nơi trồng trọt rất tốt, thuận lợi cho sự chăn nuôi ; có vườn cây trái, nhất là nhãn ngon có tiếng. Dân cư miền nầy hầu hết là người Miên. Phía nam Bạc Liêu, ruộng dọc theo bờ biển đất sét cứng rất tốt để khai thác nghề làm muối.
Vùng Giá Rai và Phước Long trước kia đồng lầy mênh mông, đất phân và đất phèn pha trộn, có nơi thấp hơn mặt nước, nhờ hải lưu ở Thái Lan chuyển đất bùn đến bồi cao dần, đồng thời dòng nước Cửu Long giang cũng cuốn đất phù sa tận cao nguyên Tây Tạng đến tăng thêm phần màu mỡ. Gió mùa từ vịnh Thái Lan thổi vào làm nước ứ đọng hằng niên nên gọi là láng biển. Biển ngày xưa là vùng rộng lớn gồm Cà Mau (nay là An Xuyên), U Minh và Phước Long.
Nhiều rạch bắt nguồn từ láng biển tủa ra khắp nơi không có đường phân nước. Đất Bạc Liêu được làm thành trong thời kỳ yên tịnh của trái đất (đệ tứ nguyên đại) vì người ta không thấy các núi cao hay những loại cá của những nguyên đại trước. Như vậy sự sống của sinh vật không phải là xưa lắm.
SÔNG NGÒI : Bạc Liêu không có núi đồi, chỉ là cánh đồng ruộng mênh mông. Mặt đất chỉ cao hơn mặt biển 4 thước. Đổi lại có nhiều sông rạch.
Sông rạch Bạc Liêu bắt nguồn từ vùng đồng lầy Cà Mau, chia ra làm hai nhóm :
a) NHÓM CHẢY RA NAM HẢI
1) Sông Gành Hàu 55 cây số, nước chảy mạnh, hai bên có nhiều đất đai mới khai phá. Có các nhánh là rạch Giồng Ké, rạch Lộ, rạch Nhà Thờ, rạch Cái Keo, rạch Gốc v.v…
2) Rạch Bạc Liêu 35 cây số nhập với rạch Cổ Cò.
3) Rạch Cổ Cò 18 cây số từ nguồn đến sông Mỹ Thanh hay khúc trong đất liền và khúc trước khi chảy ra biển, từ cây số gọi là sông Mỹ Thanh cũng gọi chung là sông Mỹ Thanh (70 cây số) với các nhánh : rạch Lé, rạch Bạc Liêu, rạch Trà Nho, rạch Trà Niêu, rạch Trà Teo.
Hai bên rạch Bạc Liêu, rạch Cổ Cò và sông Mỹ Thanh, ruộng đất phì nhiêu, dân cư trù phú.
b) NHÓM CHẢY RA SÔNG BA THẮC (BASSAC)
Nhóm nầy toàn là rạch nhỏ của rạch Ba Xuyên, đều chảy ra sông Ba Thắc (thường gọi là sông Hậu tức Hậu Giang).
Rạch nhỏ, rạch nhánh ở Bạc Liêu rất nhiều không kể xiết.
Các sông rạch và kinh đào ở Bạc Liêu đều thông thương với nhau vì có nhiều rạch nhánh và kinh nhỏ nối liền ; hoặc các sông xuyên qua nhau, nên sự đi lại bằng đường thủy rất tiện bằng tam bản, ghe buồm, tàu nhỏ, nhất là sử dụng các loại máy ho-bo (hors bord) hoặc đuôi tôm.
Tàu lớn khó lưu thông vì cửa sông có nhiều cồn cạn và trong sông cũng không được sâu đồng đều, khúc hẹp thì sâu, khúc rộng thì cạn, nước ròng có thể lội qua được.
KINH ĐÀO : Tỉnh Bạc Liêu tuy có nhiều sông chằng chịt nhưng cũng không đủ sức tháo nước phèn và giao thông ; nên chánh quyền và các điền chủ đã hợp tác đào kinh bằng đủ mọi phương tiện.
Hai nhóm kinh đào, nhóm lớn ở phía tây, nhóm nhỏ ở
phía đông.
a) KINH LỚN :
1) Kinh Bạc Liêu – Cà Mau 66 cây số, đào năm 1915.
2) Kinh quan lộ Phụng Hiệp tháo nước phía đông bắc tổng Long Thủy nối liền An Xuyên với Ba Xuyên và Phong Dinh, dài 140 cây số, 34 cây số thuộc địa phận Bạc Liêu đào năm 1915.
3) Kinh quan lộ Giá Rai tháo nước phía tây tổng Long Thủy, nối liền Giá Rai – Chương Thiện, 17 cây số, đào năm 1920.
4) Kinh Hộ Phòng – Quan lộ 14 cây số đào năm 1931.
5) Kinh Bạc Liêu – Ngăn Dừa nối liền Bạc Liêu – Chương Thiện dài 28 cây số (5 cây số thuộc địa phận Bạc Liêu) đào năm 1925.
6) Kinh Lộ Bẽ – Gành Hàu, 18 cây số, đào năm 1925. b) KINH NHỎ :
1) Kinh Giồng Me chạy dài theo ruộng muối.
2) Kinh Bạc Liêu – Bãi Xàu chạy qua Cái Dầy, Phú Lộc nối liền Bạc Liêu – Ba Xuyên.
3) Kinh Thạnh Hưng cạn vì nhiều bùn, nối liền Bạc Liêu – Vĩnh Châu.
4) Kinh Trà Nho, kinh Vĩnh Châu – Cổ Cò nối liền xã Lạc Hòa, Vĩnh Phước, Vĩnh Châu và Cổ Cò.
5) Kinh Vĩnh Châu – Khánh Hòa.
6) Kinh Vàm Sắt và kinh Thị Ngạm tháo nước từ Lạc Hòa ra biển qua rạch Trà Nhiêu và sông Mỹ Thanh.
BỜ BIỂN :
Bờ biển Bạc Liêu dài ước độ 350 cây số. Phần nhiều bùn lầy và nhiều cây cối, nhất là cây bần. Từ cửa sông Gành Hàu đến cửa sông Mỹ Thanh có hai ba bãi cát, bờ biển thấp và phẳng ; dân cư làm muối, trồng trọt hoặc nuôi tép, cá.
Bờ biển không có hải cảng vì bùi lầy và cạn, chỉ có bến ghe nhỏ. Theo truyền khẩu : Năm 1882 bờ biển còn tại chợ chùa Cá Ông và chùa nầy ở tại mé biển. Năm 1926 bờ biển ở tại Xóm nhà mát (cách chùa Cá Ông độ 1.000 thước) nhưng nay bờ biển dang ra 300 thước cách chủa Cá Ông, tức là đất đã lấn nước biển 300 thước.
ĐƯỜNG SÁ : Đường sá tỉnh Bạc Liêu mở mang rất khó khăn, vì đất thấp và mềm. Tuy vậy, một số lớn đường sá thuộc tỉnh Bạc Liêu cũng được tráng nhựa và còn lại số ít cán đá xanh hoặc đất hầm.
QUỐC LỘ SỐ 4
Đường bộ : từ Bạc Liêu lên Sài Gòn 280 cây số, rộng 6 thước bề ngang.
Từ Bạc Liêu đến An Giang : 66 cây số
Từ Bạc Liêu đến Ba Xuyên : 48 cây số
Từ Bạc Liêu đến Cái Dầy : 6 cây số
Từ Bạc Liêu đến Hòa Bình : 11 cây số
Từ Bạc Liêu đến Giá Rai : 30 cây số
Từ Bạc Liêu đến Định Thành : 53 cây số
Tỉnh lộ 38 : Cán đá xanh, bề ngang 4 thước
Đường bộ : Từ Bạc Liêu đến Vĩnh Châu : 30 cây số Đường bộ : Từ Bạc Liêu Lai Hòa : 13 cây số
Đường bộ : Từ Bạc Liêu Vĩnh Phước : 24 cây số Đường bộ : Từ Bạc Liêu Lạc Hòa : 42 cây số
Đường bộ : Từ Bạc Liêu Mỹ Thanh : 43 cây số
Hương lộ 6 :
Bạc Liêu – Hưng Hội – Gia Hòa : 14 cây số
Bạc Liêu – Giá Rai – Gành Hàu : 25 cây số
Bạc Liêu – Giá Rai – Mỹ Điền : 20 cây số
Đường duyên hải : Bạc Liêu, chùa Cá Ông, Vĩnh Châu, Mỹ Thanh 53 cây số, 4 thước bề ngang, đất hầm.
QUỐC LỘ SỐ 7 : Cây Bàng ra biển Vĩnh Lợi 8 cây số.
KHÍ HẬU VÀ THỜI TIẾT : Khí hậu tỉnh Bạc Liêu mặc dầu nóng nực và ướt át, nhưng không quá oi bức, nhờ có gió biển suốt năm và gió mùa nhiều hơn các tỉnh khác. Thời tiết cũng ít thay đổi và đột ngột, nhiệt độ thấp nhất 21o vào mùa mưa, cao nhất 36o vào mùa nắng.
Mưa khá nhiều.
Mùa nắng khí hậu khá độc, nước sông mặn đắng, nơi thiếu bóng cây hơi bùn lầy bốc lên nhiều muỗi mòng. Gió nồm hay gió mùa thổi từ tây nam sang đông bắc từ tháng tư tháng năm đến tháng 10, 11 dương lịch, từ Vịnh Thái Lan thổi vào ẩm ướt. Đây là mùa mưa. Gió đông bắc thổi ngược lại từ tháng 10, 11 đến tháng 4, 5 dương lịch khô ráo, không mưa hoặc ít mưa. Đó là mùa nắng.
Ngoài hai ngọn gió chính còn có gió trở mùa báo trước sự thay đổi khí hậu. Người ta thường bị đau ốm vào khoảng nầy.
Gió nam, thổi từ nam qua bắc, nóng bức, báo trước mùa mưa sắp đến, mùa nắng sắp qua.
Gió tây, thổi từ tây sang đông, hơi lạnh, có khi gây giông tố, báo hiệu sắp có mưa nhiều, nước lụt. Mỗi năm gió tây thổi lại vào khoảng tháng 8 âm lịch.
Gió đông thổi từ đông sang tây, khô ráo, thường bốc lên
từng cơn gió lốc cuốn cát bụi mịt trời, thành những cây gió gọi là con trốt, nên gọi là gió chướng, khoảng tháng chạp và đầu tháng giêng âm lịch, báo mùa lúa chín và Tết đến.
Gió bắc, gọi trại là gió bấc, thổi từ bắc xuống nam, lạnh lùng khô ráo, khoảng tháng chạp âm lịch. Ngọn gió này làm cho bùn lầy mau khô, nước mau cạn, lá mau héo, lúa mau chín, trẻ con chóng lớn, người lớn chóng già.
THẢO MỘC VÀ CẦM THÚ
Tỉnh Bạc Liêu do đất phù sa tạo thành, nên đồng ruộng phì nhiêu. Không có rừng lớn và rậm nên không có nhiều loại thú rừng. Thuở xưa chỉ có một ít thú như mèo rừng, heo rừng, hươu nai, khỉ, lo nồi, chồn đèn, chồn cáo cọc, ở theo rừng rậm.
Ở Bạc Liêu có nhiều rắn : hổ đất, hổ mây, mái gầm, rắn trun hai đầu, rắn lục xanh, lục lửa (rắn độc), rắn nước, trăn (hiền). Dưới sông có loài đẻn (một giống rắn ở nước mặn) cũng có hai thứ độc gọi là đẻn cườm.
Cũng có một ít sấu, loại lớn ở sông, loại nhỏ gọi là sấu cá ở bưng và lung. Lại có giống rái ở theo rạch và ruộng. Rùa còn khá nhiều ở các vùng lau sậy và cỏ mọc um tùm.
Các vùng Thạnh Hóa, Thạnh Hưng, Long Thủy có nhiều loại chim như : chằn bè, gà đãy, cò lông bông, le le, vịt nước, cồng cộc, mỏ nhác, ốc cao, thằng chài, quạ, diệc và nhiều loại chim nhỏ.
Bảy mươi phần trăm đất đai ở Bạc Liêu trồng lúa, độ 5% trồng trọt các loại bắp, khoai, rau cải v.v…
Tại quận Giá Rai có ít rừng tràm, nách dài, các loại cây giá, cây mắm mọc theo sông Gạch Hàu, nhưng thưa thớt.
Quận Vĩnh Châu có rừng mắm và bần mọc ở Cồn Nọc
(thuộc xã Lai Hào). Thường dùng cây mắm làm củi.
Phụ Biên : CÀ MAU
Một quận xưa nổi tiếng của Bạc Liêu và quận Năm Căn, nằm trong địa phận Cà Mau, tức An Xuyên nay.
Trước khi được nâng lên hàng một tỉnh, Cà Mau trong 74 năm là một quận của tỉnh Bạc Liêu.
Thoạt tiên chỉ là một cái trũng, nhờ có vịnh Xiêm La (Thái Lan) bồi đất dần lên cao thành một cánh đồng ruộng mênh mông có đất phân và đất phèn pha trộn, Cà Mau không bao lâu đã biến thành trù phú nhất nhì của miền Nam, thu hút ngày càng đông dân chúng đến sinh cơ lập nghiệp.
Ở miền nầy, đến mùa gió nồm thì nước biển dâng lên làm cho nước mưa ứ đọng mãi hằng năm như ở Đồng Tháp Mười, và mọc đầy những cây đước, tràm, vẹt. Vì nước đọng không chảy được, lá cây rụng lâu ngày mục nát làm cho thúi nước và trở thành màu đen. Do đó, đồng bào gốc Miên thường quen gọi là « Khamau » nghĩa là một xứ nước đen, và người Việt Nam ta biến âm thành « Cà Mau ». Đến lúc người Pháp thôn tính Việt Nam đặt nền đô hộ, Cà Mau lập thành một quận trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Sau khi hiệp định Genève ra đời, Việt Minh đến tập kết tại Cà Mau trong vòng 6 tháng.
Ngày 9-3-56, theo sắc lịnh số 32/NV của chính quyền Sài Gòn, quận Cà Mau trở thành tỉnh Cà Mau. Bảy tháng sau, sắc lịnh số 45/NV ngày 22-10-56 sửa đổi ranh giới và tên các tỉnh Nam Việt, tỉnh Cà Mau được đổi tên là An Xuyên.
Cuốn sách này tuy chỉ nhắm riêng tỉnh Bạc Liêu, chúng tôi vẫn phải dành một phần quan trọng cho Cà Mau vì sự liên hệ mật thiết giữa hai tỉnh.
Vị Trí – Địa Giới
Đông bắc giáp tỉnh Ba Xuyên và biển Nam.
Tây Bắc giáp tỉnh Kiên Giang và vịnh Thái Lan. Nam giáp Nam Hải.
Diện tích - dân Số : *Diện tích chung toàn quận (nay là tỉnh) là 490.640 mẫu tây, kể cả sông và rạch. Trong số nầy 122.920 mẫu ruộng, 3.356 mẫu trồng trọt các thứ hoa mầu cây trái, 167.961 mẫu rừng, và 101.125 mẫu còn bỏ hoang.
Từ một quận của Bạc Liêu, sau khi được nâng lên hàng một tỉnh gồm có 6 quận :
1) Quản Long gồm 4 xã 49 ấp
2) Thới Bình gồm 4 xã 43 ấp
3) Sông Ông Đốc gồm 3 xã 30 ấp
4) Cái Nước gồm 6 xã 72 ấp
5) Đầm Dơi gồm 4 xã 54 ấp
6) Năm Căn gồm 2 xã 24 ấp
* Dân số chung có 256.442 người, chia ra :
253.250 người Việt chính tông
511 người Việt gốc Hoa
2.681 người Việt gốc Miên
Mật độ trung bình : 50 người sống trên 1 cây số vuông. Sông rạch : Phần chảy ra biển Nam :
- Sông Gành Hàu dài 51 cây số
- Sông Bồ Đề dài 10 cây số
Nước của các sông rạch đã giúp một phần lớn dân chúng sống nghề nông và nghề hạ bạc. Nhờ sông rạch nối liền làm cho đồng ruộng bớt phèn và trở nên màu mỡ, việc thông thương tiếp tục được điều hòa.
Bờ biển : Vịnh Thái Lan và bờ biển Nam Hải bao bọc
miền duyên hải, thuộc các quận Thới Bình, sông Ông Đốc, Cái Nước, Năm Căn và Đầm Dơi là những nơi có nhiều nguồn lợi về hải sản.
Dân chúng sống nghề hạ bạc tập trung theo ven biển. Cửa biển sông Ông Đốc sau nầy có thể trở nên hải cảng phồn thịnh ở miền Hậu Giang. Tàu đánh cá ngoại quốc thường đến mua cá chở sang Tân Gia Ba.
Các chiến hạm của Hải quân hoạt động trên hải phận này rất thuận tiện, và các tuần đỉnh của Quan thuế, Thủy lâm cũng di chuyển mau lẹ nên việc kiểm soát rất chặt chẽ dọc theo ven biển.
Rừng : Các khu rừng ở Cà Mau chiếm diện tích 121.456 mẫu, là một nguồn lợi kinh tế rất dồi dào. Rừng gồm có các loại cây : đước, vẹt, dà, cốc, mắm, su, tràm, mốp, dừa nước. Hằng năm rừng sản xuất một số lớn nông sản trị giá hàng trăm triệu bạc. Rừng cũng giúp vùng nầy tránh khỏi nạn lụt.
NHỮNG NGUỒN LỢI – SỰ SẢN XUẤT
Nông sản : Ruộng đất tập trung nhiều nhất ở các xã Tân Xuyên, Định Thành, Hòa Thành, Tân Lộc (thuộc quận Quản Long) ; Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Phong Lạc (quận sông Ông Đốc) ; Tân Hưng Tây, Tân Hưng Đông, Hưng Mỹ, Tân Hưng, Thuận Hưng, Phú Mỹ, (quận Cái Nước) ; Tân Duyệt, Tân An, Tân Thuận, Tân Hòa, (quận Đầm Dơi) ; Tân Phú, Thới Bình, (quận Thới Bình).
Diện tích cấy lúa được 122.920 mẫu, diện tích lập vườn làm rẫy 3.356 mẫu, hầu hết do người Việt khai thác.
Mức sản xuất trung bình :
- Lúa mỗi năm 1 tấn 300 ký.
- Rau cải mỗi mẫu 2 tấn.
- Dừa mỗi mẫu 30.000 trái.
Hải sản : * Ở Cà Mau việc đánh cá trên sông và đồng bằng hằng năm được lối 10.000 tấn cá tươi và 8.000 tấn mắm ; việc đánh cá ngoài biển thì hằng năm được trên 1.500 tấn cá tươi đủ loại, ở trong khoảng từ 300 thước tới 40.000 thước cách bờ và dọc theo ven biển cửa Bồ Đề (phía Nam Hải) dài đến ranh tỉnh Kiên Giang (phía vịnh Thái Lan). Hiện nay có trên 15.000 ghe đánh cá, không kể số ghe ở ngoài tỉnh đến (như ở Gò Công, Vàm Cỏ, Trà Vinh, Ba Xuyên, v.v...).
* Ngoài việc đánh cá ở ngoài biển khơi, dọc theo các cửa sông Gành Hàu, sông Cửa Lớn, mũi Bà Quang, Vàm Rạch Gốc, ngư phủ còn dùng cách giăng đáy để bắt tôm tươi (tôm cỡ ngón tay trở xuống). Hiện nay có trên 3.000 miệng đáy. Số sản xuất trung bình mỗi năm trên 2.000 tấn dùng làm khô để bán vào thị trường nội địa.
Khoáng sản : Tại xã Thới Bình có một nguồn lợi khoáng sản là « than đất » dùng rất tiện và cháy rất đượm, để cầm lửa. Nhưng khoáng sản này chưa được khai thác.
Lâm sản : Các khu rừng tại quận Năm Căn và vùng U Minh Hạ, chiếm một diện tích 167.961 mẫu là một nguồn lợi kinh tế rất dồi dào. Rừng gồm có các loại cây đước, vẹt, dà, mắm, cốc, su, tràm, mốp, lá dừa nước, sáp, và mật ong.
Số than sản xuất – Số tiền thâu được
Năm 1956, 30.473 tấn 370 -- 14.406.190 đồng Năm 1957, 36.853 tấn 780 - 21.416.505 đồng 19 Năm 1958 (sáu tháng đầu năm) 25.745 tấn 023 - 14.841.948 đồng 39
Hiện nay trong toàn tỉnh có tất cả 634 lò than, tập trung tại hai quận Năm Căn và Đầm Dơi.
NĂM CĂN : MỘT TRONG SÁU QUẬN NỔI TIẾNG CỦA CÀ MAU
Nói đến Cà Mau, chúng tôi không thể không đề cập quận Năm Căn, một vùng mới khai thác đã chiếm một địa vị quan trọng về kinh tế và có những điểm lịch sử đáng lưu tâm.
Thành lập ngày 2-4-1956, lấy tên xã Năm Căn làm tên quận lỵ, quận Năm Căn ở tận mũi Cà Mau là vùng duyên hải vừa là quận bìa của tỉnh An Xuyên (Cà Mau) vừa là quận chót hết của nước Việt Nam, nghiễm nhiên là vựa than đước của tỉnh An Xuyên, cung cấp than chụm cho cả miền Nam Việt.
Vị trí : Năm Căn nằm ở chót mũi Cà Mau, đông giáp quận Đầm Dơi, tây giáp quận Cái Nước và vịnh Thái Lan, bắc giáp quận Cái Nước, nam giáp biển Nam Hải. Diện tích : 71.000 mẫu tây. Gồm có 2 xã : xã Năm Căn và Viên An.
Dân số : Xã Năm Căn có 6.714 người, trong đó có 591 người Việt, 130 Hoa kiều. Xã Viên An có 4.494 người, toàn là người Việt. Tổng cộng toàn quận 11.215 người.
Sinh hoạt : Cũng như ở hầu khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam, Hoa kiều mặc dầu là thiểu số, vẫn chiếm ưu thế trên thương trường. Học chuyên nghề thương mại, lò than, chỉ có một số ít làm nghề rẫy bái.
Người Việt ở Năm Căn sống về nghề chài lưới, làm củi, kỹ nghệ than, làm muối, cũng có một số đã ra tranh thương với Hoa kiều.
Trước năm 1945, trong quận Năm Căn chỉ có tiểu công nghệ lò than, phần nhiều do Hoa kiều làm chủ, người Việt chỉ làm củi bán cho họ. Gần đây, người Việt mới đứng lên xây lò làm chủ, và hiện nay chủ lò Việt Nam nhiều hơn Hoa kiều.
Ruộng lúa : quận Năm Căn toàn là rừng sát, quanh
năm nước mặn nên không làm ruộng được ; chỉ nơi đất rẫy nơi sông Bãi Háp, nơi nào trũng sâu, người ta mới cấy chút ít lúa. Tính chung chỉ có lối 10 mẫu ruộng.
Vườn rẫy : xã Năm Căn có chừng 222 mẫu đất rẫy nằm theo sông Bãi Háp và rạch Cái Nháo, trồng dưa, bí, bầu, khoai, đậu, đồ hàng bông. Số sản xuất mỗi năm được chừng 30 tấn bầu, bí, dưa, 15 tấn khoai, 10 tấn đậu, 1 tấn rau cải, hành, hẹ.
Thương mại : Chỉ có một ngôi chợ duy nhất tại quận lỵ, cất hồi năm 1955 bằng cây lợp thiếc, dài 20 thước, rộng 12 thước.
Toàn quận hiện nay có cả thảy 167 tiệm buôn lớn nhỏ. Tại thị trấn Năm Căn đa số tiệm buôn xây cất bằng cây và ngói, ở trong thôn ấp thì bằng cây lá.
Vùng Năm Căn được tặng là kho vàng đen vô tận, ghe thuyền vào ra chở than củi tấp nập nên việc thương mại rất phát đạt.
Kỹ nghệ : chỉ có một nhà máy cưa nhỏ để cưa cây vẹt, cây mắm, dùng tại địa phương
Tiểu công nghệ : tại thị trấn có một lò thợ bạc, chỉ làm đồ vàng bạc ăn công chớ không có bán vàng. Có 2 trại xưởng đồ mộc để sửa ghe cộ. Quan trọng hơn thì có công nghệ làm tôm khô, cá mặn, ướp cá tươi bằng nước đá, chở lên Sài Gòn bán.
Ngư nghiệp : số ngư phủ toàn quận : 2.857 người.
Vùng đánh cá : dựa mé Nam Hải và vịnh Thái Lan chia làm 3 vùng :
1) Lưới biển đánh cá ngoài khơi từ Hòn khoai đến Hòn chuối.
2) Đáy biển bắt tôm tép tại cửa Ông Trang, Gò Công, mũi Rạch Tàu.
3) Đáy sông rạch bắt tôm tép từ rạch Tàu, rạch Gốc, vòng qua sông Bãi Háp.
Sản xuất hàng năm :
Tôm khô 120 tấn
Cá mặn 50 tấn
Cá gộc 120 tấn
Bong bóng cá 2 tấn
Các thứ cá khô 100 tấn
Cua biển 10 tấn
Phân tôm cá 200 tấn
Bán về Sài Gòn, các tỉnh hoặc xuất cảng
Lâm sản : Năm Căn có 71.000 mẫu rừng, chia làm 4 khu : rừng 354, 353, 355 và 534.
Hằng năm khai thác được :
- Củi đước hầm than : 240.000 stères cung cấp cho các lò than trong quận.
- 50.000 stères củi vẹt, bán làm củi chụm.
- Cây cất nhà : cây đước 300 thước khối, cây tạp lớn 480 thước khối, cây tạp nhỏ 10.000 thước khối.
Lò than : toàn quận có 634 miệng lò than, chia cho 268 chủ lò. Sản xuất hằng năm 720.000 tạ than, cung cấp cho Sài Gòn và các tỉnh.
Thú rừng : rừng xứ nầy có heo rừng, chồn, khỉ, lọ nồi và trăn. Dân chúng gài bẫy bắt chồn và khỉ đem bán tại Sài Gòn.
Phần thứ nhì : DANH NHÂN BẠC LIÊU – CÀ MAU
ĐÃ TỪNG THEO CHÂN CHÚA NGUYỄN VÀ KHÁNG PHÁP
Lược qua phần danh nhân ở Bạc Liêu – Cà Mau từ thời xa xưa đã đem xương máu đóng góp cho đại cuộc quốc gia, hoặc dốc lòng hy sinh lo việc khai hoang lập ấp cho đồng bào địa phương yên vui trong đời sống ấm no, hoặc trai trung gái liệt, bảo toàn tiết trong giá sạch, ta sẽ cảm khái khôn cùng…
Chúa Nguyễn Ánh trong lúc bôn tẩu vào Nam, và sau tái chiếm Phú Xuân thống nhất sơn hà, có phải nhờ vào sự ủng hộ của nhân dân miền Nam, với kho lúa phì nhiêu ở vùng đồng bằng lương thực nuôi quân ? Có phải nhờ các danh tướng anh hùng tại đây hết lòng phò tá, không màng gian nguy, vào sanh ra tử, để làm sáng tỏ tinh thần bất khuất dân tộc ?
Nói đến Bạc Liêu mà không nói qua vài nét chí khí can
trường của các hào kiệt, mưu sĩ ở vùng nầy, là một điều thiếu sót lắm vậy.
Chúng tôi xin nêu các vị anh hùng liệt sĩ ở miền Nam đã từng theo chân chúa Nguyễn lập nhiều chiến công hiển hách và liên tục tranh đấu đưa giống nòi đến chỗ vinh quan, cường thạnh.
Thiết tưởng còn biết bao nhà ái quốc chơn thành trong thời cận đại, điểm tô cho nền lịch sử Việt Nam, có công kiến quốc và cứu quốc, chưa được nêu lên, vì sợ e quá sớm. Xin bạn đọc thông cảm, mà chính các sử gia cũng đồng ý với chúng tôi về điểm ấy.
I. HỔ TƯỚNG DƯƠNG CÔNG TRỪNG
Ông là người huyện Long Xuyên (tức Cà Mau ngày nay), nổi danh dũng mãnh, được đương thời xưng tặng là « hổ tướng nhà họ Dương ». Bao nhiêu nhân vật có tiếng võ nghệ ở trong vùng, đến thử sức với ông đều xin bái phục.
Đinh Dậu 1777, Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần (sau truy dân miếu hiệu là Duệ Tông), cùng với cháu là Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đuổi bức, chạy xuống tận Cà Mau. Ông cám cảnh cho nhà vua, đứng ra chiêu tập dân quân theo giúp. Chẳng may chúa Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn bắt tại đấy, rồi đem về Sài Côn (tức vùng Sài Gòn bây giờ) hành quyết, ông càng quyết chí ủng hộ Nguyễn Ánh trong cuộc chống đối Tây Sơn, nhận lấy chức Cai cơ, rồi đổi làm Khâm sai điều khiển.
Dần dần tu chỉnh binh bị, đủ sức quật khởi, ông từ Sa Đéc đem binh hiệp với quân các đạo do chúa Nguyễn chỉ huy ở Hồi Oa, tấn công Tây Sơn tại Long Hồ, rồi đánh thẳng tới, thu phục lại thành Gia Định.
Kỷ Hợi 1779, khoảng tháng 3, Chân Lạp có nội loạn, ông cùng Đỗ Thành Nhân phụng mạng đi dẹp yên. Năm sau có tù trưởng ở Trà Vinh dấy loạn, ông với Đỗ Thành Nhân cùng bình định được.
Quý Mão 1783, ông đóng quân ở Thủ Thiêm, Tây Sơn tấn công. Ông sa cơ bị bắt. Chúng giam ông lại, dụ hàng. Ông ấm ớ cho qua buổi, nhủ lòng sẽ tìm cơ hội tháo cũi sổ lồng. Đã rắp tâm như thế, nên chẳng bao lâu ông trốn thoát, chiêu tập tàn binh hiệp với Nguyễn Văn Nhân kéo sang Xiêm La (nay là Thái Lan), vì chúa Nguyễn Ánh hiện lưu vong nơi đó. Giữa đường, gặp Ngô Công Quý, Lê Thượng, Nguyễn Tần phụng mạng chúa Nguyễn trở về do thám tình hình địch. Cùng nhau bàn định kế hoạch. Ông đưa ý kiến :
Quân địch đang lúc thắng sanh kiêu, không phòng bị. Chúng ta hãy cất quân đánh chiếm Long Xuyên (Cà Mau)3lại làm nơi căn cứ đóng quân, rồi một mặt cho người sang Vọng Các báo cáo với Nguyễn vương, một mặt mộ thêm quân để chuẩn bị tổng tấn công cho thắng lợi.
Các tướng đều tán thành. Ngay hôm ấy, ông kéo quân về đánh úp Cà Mau, bắt sống được tướng địch, chiếm lấy cả đồn lũy. Thành công, ông đóng quân tại đấy và sai thuộc tướng là Nguyễn Văn Nhân sang Vọng Các báo tin.
Nguyễn Vương bảo cùng Nguyễn Văn Nhân :
- Cà Mau là địa đầu đất Gia Định. Quân địch sẽ tranh lấy để có nơi dòm ra biển được, chớ chẳng không. Vả lại, đất ấy đường thủy không tiện, đường bộ cũng thiếu nẻo giao thông, việc hành binh tiến thoái đều khó. Họ Dương cùng các tướng chỉ một nhóm quân cô, thế yếu, lại ở vào nơi tuyệt địa, phỏng như quân địch xuất kỳ bất ý đánh ập đến, ắt là sẽ bị giết cả. Vậy, ngươi hãy lập tức cho dời thuyền ra các hải đảo xa để dò la tin tức địch xưm sao, rồi sẽ định liệu.
Nguyễn Văn Nhân nghe ra, vội vã trở về. Vừa đến nơi thì tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham kéo binh đến đánh. Đúng như sự dự đoán của chúa Nguyễn, Dương Công Trừng không gìn giữ, chết mất hai tướng là Nguyễn Tần và Lê Thượng.
Giữa lúc ông tìm đường trốn, bị Phạm Văn Tham cho quân đón bắt được, giải về bản dinh. Tham cười gằn, hỏi ông :
- Ngươi, trước đã khứng về hàng với ta, ta đãi ngươi không bạt bẽo gì, sao ngươi lại phản phúc thế nầy ?
Ông ung dung :
- Cực chẳng đã ngày trước ta ấm ớ cho qua cơn khốn, há chịu khuất thân phục vụ kẻ địch, trong khi chúa ta hãy còn
kia sao ? Ta bỏ đi mới là hợp nghĩa. Nay lại sa cơ, đành chỉ còn một chết mà thôi.
Phạm Văn Tham cả giận, đem ông ra chém.
2. NGÔ CÔNG QUÝ : TẬN TRUNG GIÚP CHÚA
Cũng như Dương Công Trừng, ông quê ở huyện Long Xuyên (Cà Mau) và một lòng theo phò chúa Nguyễn Ánh trong khi chúa bôn tẩu quanh vùng Bạc Liêu – Cà Mau.
Khi chúa Nguyễn chạy ra đảo Phú Quốc rồi sang Xiêm, ông theo hầu cận. Từ ấy, ông đóng vai gián điệp, thường lẻn về vùng Cà Mau, Vĩnh Long trà trộn trong quân cơ của địch để dọ thám. Ông và Nguyễn Tần, Lê Thượng rất giỏi về mặt thu nhặt tin tức địch, nhờ đó chúa Nguyễn dễ bề hoạch định chiến lược đối phó, dần dần đi đến thắng lợi.
Chẳng may khi Dương Công Trừng gặp ông và Lê Thượng, Nguyễn Tần từ Xiêm về dọ thám, cùng nhau kéo quân đánh chiếm lại vùng Cà Mau, chưa kịp tổ chức gì thì đã bị Tây Sơn phản công ; ông chạy thoát, Lê Thượng và Nguyễn Tần đều chết trận. Dương Công Trừng thì bị bắt chém. Thoát nguy, ông càng thận trọng hơn, phục vụ chúa Nguyễn rất đắc lực.
Kỷ vị 1799, ông giữ chức Trung thủy dinh Chánh hậu chi Hữu khâm sai, thuộc nội Cai cơ, quản thanh châu đạo. Bấy giờ lực lượng Tây Sơn ở trong Nam tan vỡ hầu hết, ông lại khéo tổ chức việc an ninh, bình định nhiều vùng, khiến dân chúng đều xưng phục công ơn.
Chúa Nguyễn càng ngày càng đem lòng tín nhiệm ông, giao cho ông hộ giá hoàng thái hậu.
Công lao của ông rất dày. Việc lớn mười phần đã xong đến tám, nhưng ông chưa kịp thấy ngày chúa Nguyễn lên ngôi hoàng đế, thống nhất san hà, thì đã bịnh mất. Chúa Nguyễn thương tiếc khôn cùng, truy tặng ông chức Chưởng cơ.
Đến năm Gia Long thứ 3 (Giáp Tí 1804) ông được liệt thờ vào miếu Hiển trung và miếu Trung hưng công thần.
3. TRẦN PHƯỚC CHẤT : MỘT VÕ TƯỚNG THEO CHƠN CHÚA NGUYỄN
Ông giỏi võ không kém gì Dương Công Trừng, cùng nhau kết nghĩa anh em, thề đồng sanh tử. Khi họ Dương ra giúp chúa Nguyễn Ánh, ông cũng ứng nghĩa trợ lực.
Trong các cuộc đụng độ với Tây Sơn nơi Cà Mau, bao phen chúa Nguyễn thoát nguy, nhờ ở sự gan dạ và lòng trung thành của ông, quyết tử bảo vệ, nên chúa Nguyễn rất tin cẩn ông, thường lưu ở bên cạnh, bàn việc cơ mật.
Liệu cơ chưa thể dàn trận chống đối với Tây Sơn nổi, chúa Nguyễn chạy sang Xiêm, ngụ ở Vọng Các. Ông cũng theo chúa Nguyễn sống cuộc đời lưu vong, chờ ngày kéo về phục cừu huyết hận. Nơi nước người, ông vẫn lo rèn tập đám tàn binh, chiêu mộ thêm quân sĩ xung vào hàng ngũ.
Đến khi chúa Nguyễn đem binh từ Xiêm về, ông được phong Khâm sai Cai cơ. Nhưng số phận vắn vỏi, qua vài trận giao phong cùng Tây Sơn, ông bỏ mình trong trường xung sát.
4. NGÔ VĂN LỰU : BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG
Ông cũng là người huyện Long Xuyên (Cà Mau), ứng mộ theo phò chúa Nguyễn Ánh trên bước đường chạy loạn Tây Sơn. Hơn mấy mươi trận đương đầu cùng Tây Sơn, với tinh thần quyết tử, ông từng làm cho binh tướng Tây Sơn khiếp đảm, những trận đánh ác liệt tại U Minh, Cái Nước v.v…
Khi chúa Nguyễn sang Xiêm, chính ông đã chỉ huy một toán quân đoạn hậu, từng đợt đẩy lùi quân địch, để chúa Nguyễn được an toàn. Rồi đó ông cũng theo qua Xiêm. Những ngày tháng ôm hận lưu trú ở Vọng Các, ông cùng bạn đồng hương là Trần Phước Chất lãnh nhiệm vụ tổ chức lại đội ngũ, tuyển mộ thêm binh sĩ để bổ sung lực lượng.
Canh Tí 1780, mùa hạ, ông giữ chức Cai đội. Toán quân do ông chỉ huy từ khi ở Xiêm về, nổi tiến thiện chiến, đánh đâu thắng đó.
Đang lúc chúa Nguyễn chuẩn bị ra đánh Phú Xuân, ông bỗng vương bịnh mà mất, không kịp thấy ngày đại định, giang san thống nhứt.
5. NGUYỄN HIỀN NĂNG : TRI HUYỆN NỔI TIẾNG THANH LIÊM MẪN CÁN LỪNG DANH « THẦN MINH »
Đời Minh Mạng, viên tri huyện Long Xuyên (Cà Mau) là Nguyễn Hiền Năng rất được lòng dân chúng. Tánh ông cương trực, thanh liêm mẫn cán. Từ lúc ông đến trấn nhậm, bao nhiêu điều oan khúc tình tệ trong dân gian được ông minh chánh xét xử, nhân dân điều cám đức đội ơn ; mà bọn cường hào ác bá cùng đám gian thương, trộm cắp cũng đều khiếp oai phong, không còn dám lộng hành.
Bấy giờ, có một nhóm buôn lậu, người Mãn Thanh, hay chở hàng hóa lậu đi đường biển vô Cà Mau mua bán. Ông đốc xuất toán quân tuần chận bắt được, tịch thâu tàu buồm và tất cả tang vật. Chúng khẩn khoản xin dâng của lót trọng hậu, mong ông làm ngơ cho chúng, rồi sẽ còn đền ơn xứng đáng hơn nữa. Ông cương quyết bài trừ không dung tha.
Du đảng của chúng lấy làm căm giận, trù mưu trả thù báo oán. Thừa dịp, đám Huê kiều do Phủ Liêm cầm đầu gây loạn, vì phẫn uất vụ án cụ Tả quân Lê Văn Duyệt (xin xem ở phần thứ nhất đã có nói đến), bọn Mãn Thanh buôn lậu cho du đảng của chúng trà trộn vào. Chúng kéo thẳng đến dinh quan huyện.
Ông đang bịnh. Được tin Huê kiều gây biến, ông vừa toan sai cắt quân binh đi đánh dẹp thì chúng đã kéo ập vào dinh, mặt khác, chúng đã triệt hạ tất cả đám lính ở chung quanh để chiếm huyện.
Trong gia đình ông có 3 người vợ và 2 người con trai. Người con trưởng giỏi võ và người vợ thứ ba cũng can đảm có thừa, lập tức ngăn chống mãnh liệt. Nhưng than ôi ! « Mãnh hổ nan địch quần hồ », ít không sao cự nổi với một biển người bổ vây, sau khi đã chém giết khá nhiều, dần dần bà vợ
ba và con trưởng của ông cũng đuối sức, đành thọ hại. Thừa thế, chúng tàn sát cả gia đình ông.
Về sau mới biết, tên cầm đầu đám du đảng Mãn Thanh buôn lậu vốn là người họ Quách. Từ ấy Huê kiều họ Quách ở Cà Mau không sao cư trú được trong vùng, nếu không tán gia bại sản đến nỗi phải bỏ đi chốn khác, thì cũng bị hộc máu chết mà thôi. Tình trạng ấy, khiến dân chúng lưu ý, rồi tiếng đồn vang xa, rằng ông hiển linh tru diệt kẻ gian manh tàn ác.
Quan tỉnh phái quan binh về dẹp loạn. Đâu đó đã yên, một ngày kia dân chúng bỗng xôn xao đồn tin ông đạp đồng lên, cho biết đã được Thượng đế phong tặng « Thần minh ».
Đám Huê kiều nhốn nháo khẩn cầu giác linh ông đừng giết các người họ Quách nữa, hằng năm sẽ cúng tế trả lễ, chẳng bao giờ dám quên. Ông nhận lời xin, và từ đó, họ Quách mới được ở yên làm ăn.
Mộ và miếu của ông ngày trước tại móng cầu Quây – Cà Mau bây giờ, đến năm 1941 mới dời mộ ông về gần đình thần An Xuyên (nay đổi tên là Tân Xuyên). Dân chúng chung nhau đóng góp xây cất ngôi miếu thờ ông phía trước mộ.
Hằng năm ngày rằm và ngày 16 tháng 2, lễ cúng tế rất trọng thể.
6. NGUYỄN VĂN ĐỨC : TIỀN HIỀN KHAI ẤP, LẬP XÃ VIÊN AN
Xã Viên An trong quận Năm Căn là xã có một lịch sử đáng biết. Nhất là bậc tiền hiền đã mở mang thành lập xã, ấy là ông Nguyễn Văn Đức, thiết tưởng đáng được lưu danh muôn đời.
Ngày xưa, xã Viên An chỉ là một xóm nhỏ ở tại Cái Xép, có từ trước khi chúa Nguyễn Ánh chạy loạn đến đây. Bằng chứng là lúc chúa Nguyễn chạy đến mũi Cà Mau, vô trong ngọn rạch Xéo Lá đồn binh, hiện nay còn nền đồn là di tích cụ thể. Và binh lính của chúa Nguyễn đóng đồn tại rạch Cái Xép hiện cũng còn dấu vết : nơi đóng đồn ngày trước cây cỏ không mọc được.
Lúc Lê Văn Khôi, nghĩa tử của đức Tả quân Lê Văn Duyệt, nổi loạn chống Nam triều, chiếm xứ miền Nam (Quý Tỵ 1833), thì giặc Tàu Ô (người ta quen gọi là giặc Chà Và) thường hay đến miền duyên hải đánh cướp tiền của và bắt đàn bà con gái ; dân chúng phải chạy sâu vào nội địa cất nhà cửa ở đó trốn giặc.
Bấy giờ trong vùng có ông Nguyễn Văn Đức giỏi võ nghệ, độ lượng khoan dung, hào hiệp. Dân chúng lầm than điêu đứng vì lũ giặc khuấy rối, ông dễ đâu tha thứ cho phường hung bạo, bèn tổ hợp tráng đinh trong vùng đánh dẹp bảo vệ dân lành. Ông đuổi tan đám giặc tại rạch Đốc Neo (nay thuộc ấp Nhưng Miên).
Nhân dân tỏ lòng quyến luyến, xưng phục kính mến ông. Thấy thế, ông cảm động dốc lòng hy sinh cho dân chúng hơn nữa. Ông đứng ra đôn đốc việc khai hoang, mở mang không khí mới, thành lập xã Viên An, nghiễm nhiên là bậc tiền hiền, có công với nhân dân Viên An nói riêng, dân tộc nói chung. Vì từ sau ngày ông quy dân lập ấp, lập xã, ông cũng khéo tổ
chức việc an ninh, trật tự, khiến đâu đều được êm đẹp, vui hòa.
Sau khi mất, ông được phong thần do sắc phong của vua Tự Đức. Cháu chắt của ông hiện giờ hãy còn tại ấp Cái Xép.
Xã Viên An lúc đầu tiên chỉ có hai ấp là Cái Xép và Ông Định, số nóc gia chẳng có bao nhiêu. Lần lần dân chúng các nơi kéo đến thêm đông, cất nhà cửa ở làm nghề hạ bạc và khai thác lâm sản. Cho tới ngày nay, xã Viên An được 10 ấp, dân số non năm ngàn người, quang cảnh thanh mậu, đời sống khá sung túc. Các vị bô lão trong vùng, mỗi khi nhắc đến vị tiền hiền Nguyễn Văn Đức đều chẳng tiếc lời ca tụng tài đức.
7. TÔ XUÂN : VỊ TU SĨ NỔI DANH Ở QUAN ÂM CỔ TỰ
Ông sanh trưởng tại Cà Mau. Từ thuở bé, đã có lòng mộ đạo. Đến tuổi thành nhân, dáng người ông nho nhã, tánh nết thuần hòa, lời ăn tiếng nói không nhiễm tục trần, nghe ra có vẻ tiên căn đạo tố.
Thân phụ ông định cầu hôn cho ông nơi danh gia thế phiệt. Nhưng ông đã phát tâm tu trì, không tưởng đến việc hồng trần thế sự, nên thưa cùng nghiêm thân xin hồi hôn, cho ông được tròn ước nguyện thí thân tầm đạo.
Thân phụ ông không nỡ túng ép chi con, đành chuẩn cho ông muốn thế nào tùy ý. Từ ấy ông xuất gia, cất một cái am nhỏ mà tu hành. Nơi cất am chính là chỗ nền chùa bây giờ.
Trên đường tầm đạo, ông vẫn để tóc chớ không cạo như các tăng sĩ, việc ăn mặc vẫn như thường dân, duy nâu sồng bô vải, cốt giữ lòng trong sạch, chân chánh là đủ.
Ơn trên gia hộ, dần dần ông phát huệ, cứu bịnh độ người thường có điều ứng nghiệm. Xa gần nghe tiếng, thiên hạ đến xin làm đệ tử của ông ngày một nhiều. Rồi đó thiện nam tín nữ cũng góp của, góp công, cất nên một ngôi chùa gọi là « Quan âm tự ».
Chẳng dè có người tên Đỗ Văn Viễn đem lòng ganh ghét, lên tận Gia Định mách với quan trên :
- Có người tên Tô Xuân, lâu nay ẩn vương nương Phật, chính thật là gian đạo sĩ, có phép sái đậu thành binh, toan mưu phản nghịch. Xin lịnh trên kíp cho quân lính xuống Cà Mau bắt tên đạo sĩ ấy cho chóng, kẻo sanh biến to.
Tin bằng lời, quan trên phái một vị lãnh binh dẫn quân đi hỏa tốc xuống Cà Mau.
Trong khi quân binh chưa đến, ông đã biết việc chẳng lành sẽ xảy ra, liền họp các tín đồ lại mà dặn bảo :
- Thầy sắp phải vương nạn lớn. Quân binh sẽ từ trên Gia Định xuống tận đây bắt thầy. Phận thầy, rồi chẳng sao cả, khuyên các đệ tử chớ để lòng lo lắng. Hãy siêng tu tâm dưỡng tánh, lòng ngay thẳng kính tưởng Phật, Trời rồi sẽ được tròn quả phúc.
Các tín đồ đều than khóc. Ông hết lời khuyên giải, đoạn khiến tín đồ phải lui gót, ở đâu thì về đó, cứ yên phận tu hành.
Đúng như lời ông đã thị kiến, không mấy ngày quân binh kéo đến chùa, bắt ông đem xuống thuyền, giải đi Sài Gòn. Mặc dầu có lời ông dặn bảo, các tín đồ hay tin đều động lòng, ùng ùng kéo xuống bờ sông, đứng trông vào thuyền chở ông mà than khóc.
Nhưng đã đến lúc ông dứt nợ trần ai : Ngày mùng 3 tháng 6 ông viên tịch tại chùa Kiêm Chương, không kịp thấy sứ triều đình đem sắc phong cho ông làm hòa thượng, được phép trụ trì chùa quan âm tại Cà Mau.
Linh cữu ông được chuyển về Cà Mau, an táng vào ngôi tháp hiện hãy còn.
Triều đình có truy tặng ông một cây gấm liệm xác, 2 cây tích trượng và một tấm bia.
8. ANH EM HỌ ĐỖ - ĐỖ THỪA LUÔNG, ĐỖ THỪA TỰ OANH LIỆT CHỐNG QUÂN PHÁP
Ngoài các danh nhân đã theo phò chúa Nguyễn Ánh, và một tu sĩ đã được vua Minh Mạng tưởng lệ đã kể trên, vùng Bạc Liêu – Cà Mau đến khi có gót sắt của quân đội Pháp xâm lăng vào đời Tự Đức, lại được vinh dự ghi tên hai anh em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự.
Cuộc chinh phục của Pháp quân bắt đầu, Bạc Liêu, cũng như nhiều tỉnh khác của miền Nam, đã tỏ tinh thần bất khuất của dân tộc bằng những cuộc khởi nghĩa chống xâm lăng, đem xương máu viết nên trang hùng sử.
Ngọn cờ khởi nghĩa được dựng lên đầu tiên ở Cái Tàu, làng Khánh An. Hai chàng thanh niên đầy nhiệt huyết : Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự, con trai của vị võ cử nhân Đỗ Văn Nhân, đã đứng ra qui tụ nghĩa quân kháng chiến vào năm 1872.
Hùng khí có dư, hy sinh không thiếu, dần dần anh em họ Đỗ lập nhiều chiến công oanh liệt, khiến quân Pháp phải khiếp đảm. Dưới sự chỉ huy của anh em ông, nghĩa quân từng đoạt được cả súng đại bác của quân địch, mà đem bố trí tại vùng U Minh hạ, phản công lại rất hữu hiệu.
Nhưng trong tình thế đất nước đã dần dần bị thôn tính, thêm hạng xu mị dần dần cũng quá nhiều ngã theo ngọn cờ tam sắc, lực lượng kháng chiến của anh em họ Đỗ dẫu hùng mạnh đến thế nào, vẫn khó cứu vãn toàn thể đồng bào, lãnh thổ đã bị chà đạp dưới gót chân xâm lược !
Tuy nhiên, Anh hùng tử khí hùng nào tử ! Tinh thần Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự muôn năm hằng sáng chói tỉnh Bạc Liêu.
9. NGUYỄN THỊ NƯƠNG, MỘT TIẾT PHỤ ĐƯỢC VUA THIỆU TRỊ TƯỞNG THƯỞNG
Có hào kiệt, có anh hùng, có tu sĩ vang danh, Bạc Liêu há chẳng có phụ nữ đáng trọng vọng ?
Sách « Đại Nam nhất thống chí » phần ghi về lục tỉnh, huyện Long Xuyên (Cà Mau) vẫn có phụ nữ đáng kể. Ấy là Nguyễn Thị Nương.
Bà Nguyễn Thị Nương quê ở thôn Tân Mỹ, có chồng là Lý Văn Phước.
Dẫu là dân của xứ « quê mùa » như ca dao vẫn hằng rêu rao « Bạc Liêu là xứ quê mùa », bà vẫn là người đoan trinh tiết liệt, một đức tánh cổ truyền của dân tộc Việt mấy ngàn năm văn hiến.
Một hôm, nhân khi đi cùng thuyền với người thân thuộc của chồng là Trần Văn Xung. Xung toan cưỡng bức, bà cương quyết không để thất tiết. Xung bóp cổ bà chết.
Quan địa phương dâng sớ tâu về triều. Năm Thiệu Trị thứ 3 (Quý Mão 1843) nhà vua truy tặng tiết phụ, tưởng thưởng cho tông tộc.
Chuyện vẫn là chuyện thường. Nhưng đầy ý nghĩa. Một Nguyễn Thị Nương đủ để tượng trưng tinh thần liệt nữ Bạc Liêu. Gương tốt đẹp đã có, tự nhiên trong toàn tỉnh còn có biết bao điều tốt đẹp. Sử sách dẫu ghi chép không có mấy, nhưng xuyên qua một Nguyễn Thị Nương, đủ minh chứng một xứ dẫu nổi tiếng « quê mùa » mà nhân dân chất phác, đầy tinh thần dũng cảm (Dương Công Trừng, Ngô Công Quý là tượng trưng), nghĩa khí (Nguyễn Văn Đức với công nghiệp dẹp loạn, khai hoang lập xã), tiết liệt đáng ngợi biết bao nhiêu.
TẠM KẾT
Quí bạn đọc đã lãnh hội tinh thần anh dũng, cương nghị của một ít danh nhân mà chúng tôi sưu tầm được và trình bày sơ lược chớ không đầy đủ lắm. Tiếc vì những tài liệu các vị anh hùng trên đây rất hiếm hoi, sử liệu chỉ nói đại cương chớ không dồi dào như các vị anh hùng khác, nên chúng tôi không thể nói dài dòng được, xin quí bạn đọc cảm thông cho.
Từ thời xa xưa trở lại đây, hãy còn bao anh hùng chí sĩ, đã vì tiếng gọi của non sông mà đứng lên kháng Pháp tại vùng rừng thiên nước độc, ngã gục vì bịnh tật, hoặc đền xong nợ nước nơi chốn rừng già, chôn vùi khí phách hiên ngang, bao liệt sĩ hữu danh và vô danh ấy đáng được muôn đời tưởng niệm.
Thay vì nước nhà vẫn còn trong cảnh trạng bất yên, nên các sử gia không ghi chép được đầy đủ, chúng tôi đành cam thiếu sót với niềm ân hận khôn cùng, miên man thương cảm. Tuy nhiên, chúng tôi cảm thấy có bổn phận gạch thêm mấy dòng ở nơi đây gọi là chút lòng thành, dâng nén tâm hương tưởng niệm anh linh các liệt sĩ còn mai một tánh danh trên đường phụng sự cho dân tộc, trong khi hy sinh bảo vệ cho đất nước.
Tổ quốc sẽ ghi ơn những anh hùng hữu công, đã vị quốc vong thân, với những trang sử oai hùng được lưu truyền mãi mãi.
Phần thứ ba : ĐỊA DANH, GIAI THOẠI VÀ HUYỀN SỬ
ĐỊA DANH
Bạc Liêu là xứ quê mùa,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.
Tác giả mở đầu phần Địa danh và huyền thoại của tỉnh Bạc Liêu bằng câu ca dao được truyền tụng rất lâu đời ở miền Nam Việt Nam, ấy là muốn cho những ai chưa biết Bạc Liêu hay chưa đến Bạc Liêu lần nào cũng hình dung được phần nào về đặc tính của địa phương nầy.
Nhưng Bạc Liêu có phải là xứ quê mùa không ? Về điểm này đối với ngày nay, khi ánh sáng văn minh đã tràn khắp tỉnh thành, làng xóm thì chuyện quê mùa kể như không thành vấn đề nữa. Nhưng trả Bạc Liêu về thời kỳ xa xưa, nghĩa là chừng nửa thế kỷ trước, thì Bạc Liêu vẫn đúng với hai chữ « quê mùa ». Vì thuở trước dân chúng Bạc Liêu từng sống với nghề nông và nghề biển, đời sống phần đông gắn liền với đồng quê.
Ai đã từng đi thăm ruộng lúa ở Bạc Liêu tất nhận thấy tỉnh Bạc Liêu xưa và nay quả là một vựa lúa nhỏ, trong cái vựa lúa lớn của miền Nam Việt Nam.
Tỉnh Bạc Liêu từng sản xuất ra nhà triệu phú Trần Trinh Trạch có lúc dám cho chánh phủ Pháp vay bạc, ấy cũng nhờ cái kho lúa mênh mông của tỉnh nhà.
Trên 30 năm trước đây, người ta thường nói đến các tay « công tử Bạc Liêu » như Dù Hột, cậu Ba Huy từng nổi tiếng như cồn là «Hắc công tử».
Như vậy Bạc Liêu, thời xưa tuy quê mùa, mà nay có phồn thịnh nhờ cái vựa lúa thiên nhiên của vùng đồng bằng trù phú. Các tay công tử Bạc Liêu xài tiền như nước, dám đốt giấy bạc để mồi xì-gà, dám lái máy bay đi thăm ruộng lúa.
Sự kiện này đã làm cho Bạc Liêu gây được một thời kỳ
oanh liệt, ăn chơi suốt từ Nam chí Bắc, mỗi khi nghe danh « công tử Bạc Liêu » là thiên hạ phải thán phục về lối xài tiền đỏm dáng.
Nói về cá chốt ở Bạc Liêu, ai cũng công nhận rằng địa phương nầy có hằng hà sa số cá chốt, nó nhiều có thể nói là vô địch đối với các tỉnh từ Nam chí Bắc. Ai có đi tàu hay đi ghe trên sông Ba Thắc (thường gọi là sông Hậu Giang) hoặc sông Gành Hàu, muốn biết cá chốt nhiều hay ít, người ta cứ tiểu tiện đại trên sông, tức thì cá chốt nổi lên đặc ngàu lền sông, có người thấy chóng mặt hoặc không dám ăn cá chốt nữa.
Cá chốt Bạc Liêu đã nổi tiếng là nhiều vô địch không đâu bằng, nên rất dễ gợi cho người phương xa mỗi khi tới viếng Bạc Liêu trở về, đều không quên được cá chốt Bạc Liêu tức là sẽ nhớ mãi các đặc điểm khác lạ của địa phương nầy.
Bạc Liêu còn nổi danh là nhiều người Triều Châu. Người Tàu đến làm ăn sanh sống ở đây đã hơn một thế kỷ rồi. Nhưng trong số nầy người ta thường phân biệt người Triều Châu, người Hải Nam, người Quảng Đông v.v… đặc biệt chỉ có người Triều Châu là chiếm đa số. Họ nhiều đến đỗi thấy người Quảng Đông hay người Hải Nam, người ta cũng coi là người Triều Châu.
Ngôn ngữ thông dụng ở đây nhứt cũng là tiếng Tàu. Ai muốn làm ăn buôn bán tại Bạc Liêu ngày trước mà không biết tiếng Tiều hay không rành tiếng Tiều là điều thiệt thòi lớn. Mấy mươi năm trước, tới Bạc Liêu, người ta đã có cảm
tưởng tỉnh Bạc Liêu là tỉnh đặc biệt của người Triều Châu, giống như ngày nay người ta coi Chợ Lớn là thành phố của người Tàu.
Ngày nay trải qua bao nhiêu biến cố của đất nước, Bạc Liêu đã sống vững và trưởng thành, nhưng trước nhứt Bạc Liêu không còn là xứ quê mùa như xưa nữa. Thứ đến, Bạc
Liêu không còn là tỉnh thành của người Triều Châu, vì trước sự tiến hóa không ngừng của dân tộc Việt Nam, thành kiến cũ đã bị xóa tan : người Triều Châu không còn là đa số cũng không còn là giềng mối của mọi sanh hoạt hằng ngày.
TÌM HIỂU TỪ CHỈ TÊN CÁC QUẬN
VĨNH CHÂU LÀ GÌ ?
« Vĩnh Châu » có nghĩa là hạt châu tồn tại muôn đời, nói lên lòng trìu mến của nhân dân đối với vùng đất mến yêu.
Thông thường, người ta quen gọi Vĩnh Châu là quận Trà Nho, do từ « Chrui Nhor » của Cao Miên là tên một giống cây mọc nhiều ở vùng nầy. Tuy nhiên, chính người Miên cũng không đồng ý với nhau về ý nghĩa của hai tiếng Trà Nho. Theo một truyền thuyết khác, Trà Nho do hai tiếng Miên « Chrui Yor » có nghĩa là « Vịnh tử thần ». Vì ngày xưa ghe thuyền nào vô ý vào cập bến Vĩnh Châu, là người trên thuyền đều bị một hung thần vật hộc máu chết tươi ngay.
Theo truyền sử, Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu, có đóng quân ở Cồn Đầm (nay gọi là Cồn Nóc) thuộc quận Vĩnh Châu, đặt tên chỗ ở là Mỹ Thanh. Nơi đây, ngày nay còn di tích nền thành đồn trú, giếng nước, chùa và dòng Thư yết.
HAI TIẾNG GIÁ RAI
Về danh từ quận Giá Rai thì thú vị hơn Vĩnh Châu nhiều, mộc mạc đến thành ngô nghê buồn cười.
Khoảng giữa thế kỷ 19, từ Bạc Liêu đến Cà Mau không có lộ và kinh thẳng. Sự giao thông liên lạc phải dùng các sông rạch thiên nhiên quanh co khúc khuỷu theo rạch Cái Hưu, Cây Gian, rạch Rắn, rạch Lộ Bẽ, trở ra nơi cách Hộ phòng chừng 800 thước. Khách qua lại thường gặp nhau tại khoảng rạch Cây Gian và rạch Rắn có xóm nhà xen lẫn với từng chòm cây Giá mọc lai rai. Họ hỏi nhau :
- Xóm gì đấy ?
Người đối thạo cũng mù tịt chẳng biết gì hơn, cười mà
nói đùa :
- Thì là… xóm « Giá lai rai » chớ gì.
Lần hồi người ta quen gọi như vậy và lâu ngày gọi gọn lại là « Giá Rai ».
Đối lại, ở cách tỉnh lỵ chừng 4 cây số, có một xóm ở giữa vùng cây giá mọc um tùm, người ta gọi xóm nầy là xóm « Giá Râm » để đối lại với « Giá Rai ».
NĂM CĂN TỪ ĐÂU MÀ CÓ ?
Đến từ Năm Căn, kể ra cũng ngô nghê mộc mạc không kém gì giai thoại về « Giá Rai » trên đây.
Từ Năm Căn bắt đầu có từ năm 1092.
Lúc ấy vùng nầy chưa có nhà cửa xóm làng, chỉ có một thiểu số đồng bào làm nghề săn thú rừng và hạ bạc, ở rải rác các rạch xẻo mà thôi. Nơi vàm con rạch Tắt đi qua sông Bãi Háp, con đường duy nhất để đi Cà Mau, lúc sơ khai chỉ có một trại đáy vỏn vẹn cất năm căn. Kẻ qua người lại nơi rạch Tắt ấy hỏi nhau :
- Rạch gì ?
Kẻ đối thoại trông quang cảnh mà đáp phóng mạng : - Rạch trại đáy Năm Căn.
Lâu ngày, dân tới ở thêm đông thành xóm, người ta gọi ngay là xóm Năm Căn. Và tên Năm Căn… đi vào lịch sử cho tới ngày nay.
Vâng, tên Năm Căn đáng được đi vào lịch sử tới nay vì nơi chốn sơn cùng thủy tận nầy, khoảng 1935, từng hân hạnh được viên thống đốc Nam Kỳ là Pagès đi kinh lý đấy. Và cũng chính Pagès cho nó và xã Viên An gồm lại, thành lập
làm phân quận hành chánh, tùy thuộc quận Cà Mau ; nay thì đã nghiễm nhiên là quận, trong khi Cà Mau được lên hàng tỉnh.
Đồng Nọc Nạn có thể nói là một địa danh rất nổi tiếng trên địa hạt kinh tế cũng như về mặt sanh hoạt nông thôn.
Dầu không ở tại Bạc Liêu, nhiều người cũng biết danh đồng Nọc Nạn. Cái tên khô khan và nôm na này không phải tự nhiên mà có, đồng Nọc Nạn cũng không phải vô cớ mà nổi danh, sự thật nó là một huyền thoại phát sanh gần một thế kỷ rồi mà bất luận người dân quê nào ở quận Giá Rai hay toàn tỉnh Bạc Liêu cũng đều biết rất rành mạch.
Vậy đồng Nọc Nạn được liệt vào địa danh của tỉnh Bạc Liêu hay của cả một miền Hậu Giang cũng không phải là quá đáng.
Đi thăm đồng Nọc Nạn không phải là việc khó lắm. Chúng ta cứ theo đường liên tỉnh nối thành phố Bạc Liêu với thị xã Cà Mau qua khỏi quận Giá Rai khoảng cách Bạc Liêu chừng 30 cây số ngàn, về phía tay phải, có một cánh đồng ngày nay trở nên mầu mỡ, phì nhiêu. Nơi đó, ngày nay cũng trở thành xóm vườn đông đúc dân quê, nối tiếp với những thôn xóm lân cận, đó là ấp Nọc Nạn thuộc xã Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Cái tên Nọc Nạn xuất phát từ chỗ trước kia nơi nầy là một vùng sình lầy rộng lớn đầy rừng tràm, choại, dớn, lau sậy chen chúc nhau mọc đầy, quanh năm chỉ còn có chim muông và rắng độc trú ẩn.
Vì sự sống hằng ngày, người dân quê đói khổ của vùng Phong Thạnh, Giá Rai phải chịu gian khổ, rủ nhau đem mồ hôi sức lực ra khai phá cánh đồng sình lầy.
Người dân quê đi khai hoang đến vùng nầy, muốn có chỗ che nắng che mưa, tránh rắn độc nên dựng lên những cái
chòi. Bởi vì đất sình đất dớn không thể cất nhà như ở trên khô, người dân quê phải chặt cây làm nọc đóng xuống sình rồi gác nạn bên trên làm sàn để cất nhà lên đó.
Công việc thật là gian nan vất vả, người dân quê phải tốn không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt ; kiên gan từ tháng nầy đến năm nọ. Công việc kéo dài suốt chín, mười năm trường, mới lần hồi biến được vùng đất sình lầy, đầy choai dớn trở thành cánh đồng mầu mỡ gieo trồng được.
Nếu chỉ có như vậy thôi, thì cái tên đồng Nọc Nạn không thể trở thành một huyền thoại, tô đậm sự nhớ thương của mọi người, cũng như ấp Bình An, Phong Phú.
Như trải qua gần một thế kỷ nay, người miền Nam biết đến đồng Nọc Nạn nhiều, nhắc nhở đến đồng Nọc Nạn luôn, đó là do câu chuyện sau đây :
Vào khoảng 40 năm về trước, hồi đồng Nọc Nạn còn là bãi hoang, thì gia đình của ông cha một nông dân tên là Mười Chức, đã đi tiên phong đến khai hoang ở đây.
Trải nhiều cực khổ, ông cha của Mười Chức và đám dân quê mới biến đổi được đất sình thành ruộng lúa. Mọi người đang yên phận với cảnh sống chơn lấm tay bùn trên đồng Nọc Nạn, thì có một cường hào ở vùng Giá Rai, là một ông Phủ, đã lợi dụng thời cơ dựa vào thế lực của thực dân Pháp vào thời kỳ đó, bằng cách vận động đứng ra lập sổ để một Huê kiều tên Bang T đứng làm tấm bình phong, rồi xin đóng thuế với thực dân Pháp để cướp đoạt đất đai do công lao của dân quê tạo nên.
Sau đó, ông Phủ cùng tên Mã Ngân đem lính tráng vào đồng Nọc Nạn, tự tiện cắm trụ đá làm ranh đất, bắt hết thảy đám nông dân có công khai hoang phải ký giấy làm tá điền, mướn ruộng của tên Huê kiều này.
Cái lối cướp đất ngang ngược này lại được thực dân Pháp
che chở và đồng lõa, nên ông Phủ4kể như chiếm được đồng Nọc Nạn rồi, hằng ngày ông cho lính tráng đi dọa nạt dân quê, ức hiếp phải làm theo ý muốn của mình.
Trong số người không chịu được sự áp chế của ông Phủ và những bất công của thực dân Pháp, có anh Mười Chức và một đám nông dân. Họ đã nổi lên dùng gậy gộc dao mác chống lại viên cò Pháp Tournier cùng đám lính mã tà, vì ăn tiền của ông Phủ mà biến thành tay sai, hằng ngày kéo vào đồng Nọc Nạn uy hiếp dân quê để góp lúa ruộng.
Ban đầu cuộc kháng cự của Mười Chức và đám nông dân còn yếu ớt vì họ chỉ muốn biểu lộ sự phẫn uất một cách ôn hòa cho viên cò Pháp rút lui. Nhưng thực dân Pháp và cường hào ác bá thời đó, thường ỷ vào sức mạnh của đồng tiền, của thế lực và võ khí, nên chẳng những họ không rút lui mà họ còn ra mặt đánh đập bắt bớ dân lành.
Mầm công phẫn nổi dậy đùng đùng, Mười Chức và đám dân quê liền đứng lên kháng cự quyết liệt.
Đồng Nọc Nạn nghiễm nhiên trở thành sân khấu của các cuộc đàn áp, đấu tranh đẫm máu. Kết quả, viên cò Pháp Tournier bị đâm chết, Mười Chức cũng bị bắn chết trong cuộc giao tranh, và nhiều người bị thương tích.
Tấn bi kịch không phải tới đó đã hạ màn. Hồi ấy, một viên thực dân bị đâm chết như vậy chẳng phải là một việc may cho dân chúng ; trái lại, là một tai họa tày trời đối với đám nông dân đồng Nọc Nạn ! Thực dân Pháp sai lính tráng đi ruồng bắt những người trong gia đình Mười Chức. Các người anh em của anh bị bắt bớ đánh đập tàn nhẫn và bị đày ra Côn Đảo.
Một số nông dân khác cũng đành cam chịu số phận lầm than nơi chốn ao tù ! Thế là cánh đồng Nọc Nạn lại rơi vào tay bọn cường hào ác bá.
Bây giờ đồng Nọc Nạn đã trở thành một địa danh ưu tú, một cánh đồng lịch sử, do công khai hoang lập ấp của dân quê, nhưng than ôi ! những bàn chân lấm tay bùn ấy lại bị quân cường hào dùng quyền lực cướp mất.
Ngày nay, nhắc đến đồng Nọc Nạn là gây sự xúc động và căm phẫn trong giới nhà nông, vì họ đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt để bồi đắp cho cánh đồng Nọc Nạn được phong phú như thế này.
Người đến Bạc Liêu, ít ai không đi thăm đồng Nọc Nạn.
GIAI THOẠI
« CÔNG TỬ BẠC LIÊU » DO ĐÂU MÀ NỔI TIẾNG ?
Ba bốn mươi năm về trước, thuở tiền bạc đắt đỏ, lúa chỉ có 7, 8 cắc một giạ, tỉnh Bạc Liêu đã nổi tiếng là tỉnh giàu bậc nhất miền Nam, có lắm nhà triệu phú về ruộng lúa, ruộng muối. Ngay trong lúc kinh tế khủng hoảng lúa chỉ còn 0 đồng 25 một giạ, đến nỗi cụ Bùi Thế Mỹ tức nhà văn Lan Đình đã phải thốt mấy câu :
« Nghèo đến thằng mình còn chạy quýnh,
« Giàu như ông Trạch cũng buồn hiu !
Ông Trạch tức là nhà triệu phú Trần Trinh Trạch ở Bạc Liêu. Kinh tế khủng hoảng thì mặc kinh tế, các tay công tử Bạc Liêu vẫn cứ còn tiền xài « thả cửa ». Vâng, Bạc Liêu là tỉnh trù phú, dân cư đông đúc, chợ búa mua bán tấp nập, cũng là nơi nổi tiếng ăn xài, từng sản xuất các tay công tử năm mươi ngàn « đổ một trận cười như không ». Từ Nam chí Bắc đều nghe danh công tử Bạc Liêu một thuở nào.
Thời thực dân phong kiến cai trị, chúng buông thả cho dân chúng tha hồ chơi đủ thứ : hốt me, đá gà, tổ chức những hộp đêm buôn hương bán phấn v.v… Nhất là tỉnh giàu như Bạc Liêu thì dân chúng tha hồ hơn nữa. Có thể nói tứ đổ tường (bốn bức vách tửu, sắc, tài, khí) người Bạc Liêu phần đông đều vướng mắc, chẳng nhiều thì ít. Do đó, hạng con ông cháu cha sa ngã trong các mê hồn trận, được thời nổi danh « công tử » đệ nhất là « công tử Bạc Liêu » thì thôi, ai cũng ngán cái nước khuân tiền đổ sông đổ biển của họ.
Đây, thành tích ăn xài khét tiếng của các tay công tử Bạc Liêu hữu hạng :
Chính tại Bạc Liêu người nổi danh nổi tiếng « công tử số
một » là Huỳnh Văn Phước kêu là xã Dù Hột (sau nầy là Ban biện Hột), con ông chủ Chá. Ăn xài tại tỉnh nhà phung phí có tiếng, là dân cậu, mỗi khi lên Sài Gòn – tất nhiên phải ăn xài hơn nữa – thì công tử nhà ta càng trổ ngón xài sao cho thiên hạ đều kính nể. Ở thì ở các khách sạn hạng sang như Continental, Majestic chẳng hạn. Ra đường, một mình đi chơi thì dùng đến năm ba chiếc xe kéo, chiếc chở nón, chiếc chở cây gậy (canne), chiếc chở cặp da, mắt kiếng v.v… Đánh bạc thì vô các nhà « xẹt » (cercle) lớn, dám đánh một cây bài đôi ba chục ngàn đồng bạc (nên biết là tiền bạc thuở lúa bảy tám cắc một giạ, thấy công tử Bạc Liêu xài tiền như nước ai ai cũng phải sợ.
Công tử Bạc Liêu đứng vào hàng số 2, sau Dù Hột (Huỳnh Văn Phước) kể trên, kế đó là ba anh em Trần Trinh Đình, Trần Trinh Huy5. Trần Trinh Khương, con ông Hội đồng Trần Trinh Trạch. Gọi là số 2, vì đi sau « cậu » trước, kỳ thực về mức ăn xài lớn của cậu ba Huy chẳng nhượng gì Dù Hột. Cũng đởm dáng đủ điều, cũng phung phí huy hoát. Đến cái nước ganh đua với một tay công tử khác ở Mỹ Tho là Phước Georges, thì cậu ba Huy còn xài buông tay hơn nữa. Trong đêm tối, một bạn bè đánh rơi một vật chi nơi xó kẹt chăng ? Lập tức Phước Georges lấy giấy con công (giấy bạc 5$ thời trước) quẹt diêm đốt rọi cho bạn kiếm. Cậu ba Huy có mặt nơi đó há dễ chịu thua ? Thản nhiên như không, « cậu » móc ngay tấm giấy bộ lư (bạc 100$) hay gọi giấy « săng » (cent) đốt tiếp. Ấy là chuyện điển hình hai tay công tử Bạc Liêu và Mỹ Tho… tranh hùng một thuở chơi hoang. Và vì diện mạo của hai người, Phước Georges trắng trẻo, cậu Huy đen nám, thiên hạ đặt cho danh hiệu là Bạch công tử ở Tiền Giang và Hắc công tử ở Hậu Giang.
Tại Bạc Liêu còn có thêm hạng công tử ăn xài rất đúng cách và óc bảo thủ là Út Thượng, người nầy đã mất nhưng còn mang tên một con kinh trong điền kêu là kinh Út Thượng, tại điền của ông ngày nay.
Đại khái cái danh « công tử Bạc Liêu » là như thế. Mặc dầu vậy, chớ tưởng hàng công tử ở tỉnh muối đều là thứ ăn chơi. Bên cạnh hạng công tử Bạc Liêu (xài phá hoang phí) mà đời thường nhắc nhở với ý tiếc rẽ, hãy còn một hạng công tử Bạc Liêu đáng mặt hơn. Điển hình cho hạng sau nầy là Phan Kim Cân, tay công tử hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, hiện nay còn ở Bạc Liêu.
Đã là công tử Bạc Liêu, Ba Cân cũng thuộc hạng bảnh về mặt ăn xài, có điều Ba Cân chẳng khác một Đơn Hùng Tín thuở loạn Tùy sang Đường, hay đem tiền của trợ cấp cho những anh hùng hào kiệt còn thất cơ lỡ vận. Điểm đặc biệt của công tử Phan Kim Cân, là có mắt xanh nhận biết trang lỗi lạc siêu quần trong cơn phong vũ trần ai, sẵn sàng giúp đỡ cho. Nơi nhà Ba Cân thường nuôi giấu chí sĩ cách mạng. Chính Nguyễn An Ninh khi xuống Bạc Liêu đã được Ba Cân tỏ ra trọng đãi vô cùng.
Xuyên qua hai công tử Bạc Liêu mà chúng tôi đề cập ở bài nầy, hẳn ai cũng nhận thấy cả về hai hạng ăn chơi vị kỷ và hoang phí có ý vị tha – phương diện nào công tử Bạc Liêu vẫn khác thường thiên hạ. Bởi lẽ khác thường ấy, cái danh xưng « công tử Bạc Liêu » tự nó đã hội đủ yếu tố để đáng được… ghi vào lịch sử nhỉ ?
Điều nên biết thêm, cả hai hạng công tử Bạc Liêu ấy, dẫu sao cũng danh chấn nhất thời mà thôi. Ngày nay gia đình xã Dù Hột (điển hình giới ăn chơi) và Ba Cân (điển hình giới hào hiệp trọng nghĩa khinh tài) đều đã sa sút nghèo nàn. Dù Hột nay đã mất nhưng còn người chị là cô Hai Ngó đã chán chê cảnh phù hoa, gột rữa trần tâm phần nào mà hướng về nẻo Đạo có lập một cảnh chùa tại Bạc Liêu, người sau là cậu Ba Cân còn sống phong thái vẫn ung dung trong cảnh nhà cửa suy sụp, nhưng tên tuổi vẫn còn để cho người đời nhắc nhở. Âu cũng là bài học hay cho đời noi gương, xem đó tu tâm luyện tánh.
Tạo nghiệp đã đành là phải trả cho xong nghiệp quả. Nghiệp trần ai mang nặng nhiều tội lỗi sa đọa, còn kịp có ngày giờ ăn năn sám hối thì hãy còn làm lại cuộc đời tốt đẹp được. Và vương mang nghiệp hào hoa mà còn biết xét nét qua dĩ vãng trong hành vi cử động của mình, còn biết có lúc phải làm đôi điều phải đạo, phải lẽ, dẫu mai sau thất vận, nợ trần ai tay trắng trả vay hoàn tay trắng, hãy còn đôi chút an ủi chuỗi ngày tàn vậy.
Nói đến đất Bạc Liêu mà không đề cập đến các tay công tử thời ấy là một điều thiếu sót, chúng tôi chỉ sơ lược qua vài nét của hai hạng công tử đã nói trên, còn sự phê phán xin nhường cho độc giả, tác phẩm thuộc về loại sưu khảo qua nhiều khía cạnh vì lẽ đó nên không thể đi sâu chi tiết về hành động của một cá nhơn nào, xin bạn đọc thông cảm cho.
CHUYỆN BÀ MỤ TRỜI ĐỠ SANH CHO CỌP TẠI RỪNG CÀ MAU
Ngày nay tại tỉnh Cà Mau, hầu hết đồng bào ở đây còn truyền tụng câu truyện bà Mụ Trời làm một việc bất đắc dĩ, mà cũng là một việc hy hữu, tức là hộ sanh cho cọp.
Cách gần đây một thế kỷ (100 năm) Cà Mau là một vùng đất phù sa sình lầy, gần như hoang vu. Dân cư thưa thớt, nhưng có nhiều thú dữ như cọp, có nhiều loại có nọc độc như trăn, rắn mái gầm, và rắn hổ v.v… còn muỗi thì nhiều vô số kể ăn cơm phải giăng mùng đốt ung thì mới có thể ngồi ăn được.
Vào thời đó, tại Rạch Bàn, thuộc quận Cái Nước bây giờ, có một bà rất nhơn đức, tên là Trần Thị Hoa, tục gọi là Bà mụ Tư, làm nghề hộ sanh. Thuở ấy hộ sanh là một việc làm phước, không ai chịu lấy tiền công đức, bởi vậy dân chúng thường tặng các bà hộ sanh là mẹ sanh.
Thường lệ nơi đây, hễ mặt trời lặn thì ai ở nhà nấy, rồi
cửa đóng then gài. Vì thú dữ quá nhiều, nên họ sợ…
Một bữa nọ vì phải giúp một sản phụ khó sanh, nên Bà mụ Tư về muộn. Chủ nhà phải mướn bốn người trai tráng đưa bà. Về gần tới nhà, bỗng nghe tiếng cọp hộc rất lớn làm mọi người hốt hoảng, tay chân bủn rủn, người ướt trong quần. Khi hoàn hồn bốn tráng đinh thấy mất Bà mụ Tư thì quả quyết bà bị ông thầy bắt ăn thịt. Vào thời ấy dân chúng rất sợ cọp, sợ hãi đến nỗi không dám gọi đích danh ông hổ hay ông cọp mà phải kính cẩn gọi là ông thầy, có nơi còn lập miếu thờ cọp, nên bốn tráng đinh tất tả chạy về làng đánh mỏ và thùng thiếc báo động. Dân làng được tin cọp loạn rừng, cùng nhau mang dao rựa cung nỏ đi ruồng kiếm, nhưng vô hiệu quả.
Rạng ngày dân làng tiếp tục đi tìm dấu cọp. Họ tiến gần đến nhà Bà mụ Tư thì thấy dấu chưn cọp, còn ràng ràng trên mặt đất. Quanh nhà bà cũng thấy có dấu chưn cọp, chứng tỏ hồi chiều hôm qua cọp có đến rình nhà bà. Thấy cửa hé mở, dân làng xô cửa bước vào, họ thấy một người hình dạng giống bà mụ Tư đang nằm trên giường day mặt vô vách.
Nghe tiếng động bà mụ Tư giựt mình ngó ra ngoài. Quả thật là bà mụ Tư. Ban đầu dân làng ngỡ là ma hiện hình, nhưng sau khi nghe bà lên tiếng thì họ mới hết sợ.
Một trong bốn tráng đinh đã đưa bà về nhà chiều hôm qua đánh bạo lên tiếng : « Rõ ràng chiều hôm qua, chính mắt tôi trông thấy bà bị ông thầy bắt. Nhưng sao bây giờ bà còn sống ngồi ở đây ? Phải chăng bà là ma hiện hồn ? Chúng tôi vái hồn bà có linh thiêng, xin đừng về đây quấy nhiễu, dân làng chúng tôi sẽ lập miếu thờ bà. »
Bà mụ Tư cười đáp :
- Nào tôi có chết chóc gì đâu mà đòi lập miếu thờ… Thật ra, tôi bị ông thầy bắt… nhưng câu chuyện còn dài, mấy chú
ngồi chơi, chờ tôi rửa mặt mày một chút bớt mệt, tôi sẽ kể chuyện lại cho mấy chú nghe.
Rửa mặt xong, bà ngồi lại kể chuyện : « Chiều hôm qua tôi đi đỡ đẻ ở xóm trên rồi trở về, còn chừng hơn mười sải nữa tới nhà, thình lình tôi nghe tiếng ông thầy hộc lên dữ dội, liền đó tôi bị lấn ngã, hồn vía tôi lên mây, tôi bất tỉnh nhân sự không hay biết gì hết… Rồi tôi cảm thấy mặt tôi ươn ướt, bên tai tôi nghe tiếng rên, rồi thì tiếng gà rừng gáy vang. Mở mắt ra tôi thấy nằm dưới đất gần bên bà thầy (cọp cái) đang chuyển bụng có vẻ đau đớn lắm và coi mòi khó sanh. Lúc ấy không biết tại sao tôi hết sợ hãi. Tôi chỉ thấy có bổn phận tận tụy đỡ sanh. Dưới bóng trăng khuya, tôi dùng phương pháp đỡ đẻ cho người, mà giúp đỡ bà thầy hạ sanh hai con được khỏe mạnh. Sanh xong « ông thầy » liếm tay tôi cho sạch huyết dơ rồi tha tôi về đây. Mệt quá tôi để y nguyên quần áo như vầy mà ngủ thì mấy chú vô nhà làm tôi thức giấc.
Mọi người nghe bà mụ Tư thuật chuyện xong, thảy đều vui mừng khen ngợi bà ăn ở có đức lớn, nên Trời Phật độ mạng.
Bà nói :
- Nhờ trời mà tôi thoát chết, nên mai này tôi sẽ cúng heo để trả lễ Trời Phật, luôn dịp mời bà con đến chia vui với tôi.
Sáng hôm sau, vừa mở cửa bà mụ Tư thấy một con heo rừng lớn nằm ngay trước cửa. Bà hoảng hốt, nhưng xem kỹ thì thấy con heo rừng này đã bị cọp móc họng vừa mới chết.
Xóm làng hay được tin nầy đều bảo rằng đó là ông thầy đền ơn bà mụ. Bà nhờ lối xóm giúp tay ngã heo rừng cúng Trời Phật và đãi xóm làng. Mọi người không ngớt miệng khen ngợi bà là con Trời nên mới dám đỡ đẻ cho « bà thầy » từ đó về sau ai nấy đều gọi bà mụ Tư là Bà mụ Trời.
Thỉnh thoảng Hổ cũng mang biếu bà mụ Trời một vài con thịt rừng cho đến khi bà mãn phần.
Hiện nay đồng bào vùng Bạc Liêu - Cà Mau còn truyền tụng bà mụ Trời là do tích hộ sanh cho hổ cái.
MIẾU BÀ CỐ LINH THIÊNG VỚI QUAN CHÁNH THAM BIỆN NGƯỜI PHÁP
Tại Bạc Liêu (Vĩnh Lợi) ngày nay ai đến bến xe đò, gần nhà đèn đều trông thấy một ngôi cổ miếu, vách gạch lợp ngói âm dương rộng độ 20 thước vuông, dựng tại gốc cây đa cổ thụ cành lá sum sê ngả ngọn de tàn bao trùm trên nóc miếu mát rượi cả ngày, gốc rễ mộc ra chằng chịt thân cây ba bốn người ôm mới giáp. Ngôi miếu này do vị tham biện người Pháp tên Boudineau trùng tu lại cách nay trên 60 năm để thờ Thất Thánh nương nương, đồng bào ở đây thường quen gọi là Miếu Bà Cố. Trước kia miếu Bà nằm trong phần đất của tòa Tỉnh trưởng, cách dinh ông chánh chừng 200 thước.
Hiện thời vào những ngày sóc vọng, đồng bào bá tánh tụ họp để đốt nén tâm hương chiêm ngưỡng thành kính sự anh linh của bà, khói hương nghi ngút, đôi bạch lạp sang rỡ trước linh bàn như vầng nhựt nguyệt.
Nhưng, cũng như tất cả những gì do bàn tay con người xây dựng ngôi cổ miếu nầy non một thế kỷ bền gan chịu đựng sự tàn phá của mưa nắng gió sương. Đứng trước cảnh rêu phong ngói đổ, vách lở tường long, chúng ta cảm thấy tấc dạ bùi ngùi mà hồi tưởng những truyện linh thiêng hiển hách, do các bô lão địa phương thuật lại.
Xưa kia miếu nầy có một sự tích hết sức ly kỳ, mãi đến ngày nay dân chúng còn truyền tụng.
Vào thời Pháp thuộc, cách đây hơn 70 năm, gần dinh quan Tỉnh trưởng tức là dinh ông Chánh tham biện, gọi tắt là
dinh ông Chánh, có một cây đa to, cành lá xanh tươi. Tại gốc đại thọ nầy có dựng một cái trang nhỏ, lợp bằng lá dừa nước, để thờ cốt bà. Nơi đây ngày đêm hương khói nghi ngút. Dân chúng địa phương rất tin tưởng oai linh cốt bà, nên mỗi khi đi ngang qua miếu, người người đều phải lột khăn nón xá bà, không ai dám thất lễ.
Ít lâu sau, ông Chánh tham biện tức là chủ tỉnh Bạc Liêu, nhận được nghị định quan Thống đốc Nam kỳ, dạy mở rộng địa thế tòa tỉnh trưởng và xây cất dinh chủ tỉnh lại bằng gạch để thay thế dinh cũ. Vì nới rộng đất tòa tỉnh trưởng, thành thử miếu bà nằm trong phần đất thuộc phạm vi của dinh chủ tỉnh xa độ hai công đất.
Tánh người Pháp không muốn có đình miếu cất trong đất ông Chánh, nên gởi trát cho quận phải triệt hạ miếu bà và đốn cây đa. Quan chủ quận được lệnh đem dân đến đốn nhưng không ai dám phạm búa vào cây đa linh thiêng nầy cả. Ông quận bèn trình lên quan chánh tham biện Pháp đến thị chứng. Ông nầy đến tận miếu buộc phải đốn cây đa tức khắc. Dân làng sợ quá mới bẩm :
- Bẩm quan lớn, chúng tôi không dám phạm đến oai linh của bà, nếu quan lớn muốn đốn cây đa nầy thì xin quan lớn cầm búa chém vào cây đa ba búa trước, thì dân làng chúng tôi mới dám tiếp tục đốn ngã cây đa.
Ông chánh thấy dân chúng quá tin tưởng dị đoan, thừa dịp nầy ngài muốn làm cho dân chúng bớt mê tín, nên mạnh dạn huơ búa định chém vào cây. Bất thần, trong đám dân làng có một người nhập cốt xưng danh Thất Thánh nương nương, dõng dạc bảo thẳng với chánh tham biện Pháp :
- Ta nói cho nhà ngươi rõ. Nếu ngươi ngang nhiên đốn phá chỗ của ta ở, thì ta sẽ vật mấy đứa con trai của ngươi chết liền trước mắt !
Nói xong thăng ngay. Quan chánh tham biện nổi xung, chém mạnh vào cây đa một nhát búa, song chưa kịp rút ra thì thấy tên bồi giúp việc nhà cho ông sợ hãi chạy tới cấp báo với ông rằng : Mấy đứa con trai nhỏ của ông là cậu Rọt, cậu Chel, câu Jacque đang ngồi chơi bỗng nhiên hộc máu và bất tỉnh.
Ông nghe nói hốt hoảng cấp tốc trở về dinh và cho mời liền bác sĩ đến điều trị. Bác sĩ xem mạch khám bịnh bảo là các em bị té nặng động phổi và cho uống thuốc cầm máu nhưng vô hiệu quả. Cả nhà còn đang lo sợ, lúc ấy có ông chủ quận Trương Công Lành bảo nhỏ với bà chánh tham biện : chắc có lẽ lúc nãy quan lớn khắc búa vào cây đa miếu bà nên bị bà quở hành mấy cậu. Vậy bà lớn nói với quan lớn vái tạ miếu bà thì chắc các cậu mạnh liền. Bà chánh nói lại với ông chánh và có ý phiền trách hành vi của chồng vừa rồi, việc làm đã không có lợi mà còn thêm hại cho con. Bà khuyên chồng mau mau lại miếu bà vái xin lỗi lạy tạ. Ông chánh nghe qua bán tính bán nghi, tuy nhiên phần thì thương con, phần nể vợ, nên chịu ra miếu bà. Ông khấn vái : « Nếu bà linh thiêng xin cho con tôi khỏe mạnh, tôi sẽ cất miếu lại cho bà. » Vái rồi ông về đến dinh thì thấy mấy đứa con ngồi chơi như thường. Cả nhà ông chánh đều vui mừng. Liền đó ông thâu hồi lệnh triệt hạ miếu bà và cây đa, rồi xuất tiền riêng mướn dân làng xây cất miếu lại bằng gạch lợp ngói rất đẹp và nới rộng rãi hơn xưa.
Từ đó ông chánh bà chánh hết lòng tin tưởng sự huyền bí của bà, ông bèn ra lịnh chuyền đèn điện vào miếu đốt sáng đêm, trước điện thờ bà không để cho tối, sự linh hiển của bà vẫn liên tục đến nay, đồng bào liên tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Cần Thơ mỗi khi đến xin xâm cầu nguyện, được bà mách bảo sự kiết hung rất linh ứng, còn những kẻ ngang ngược khinh khi ngạo nghễ bà sẽ hành cho thấy trước mắt.
Chúng tôi nghe tin đồn sự linh hiển của bà do một ít
người thâm niên ở Bạc Liêu lên Sài Gòn kể lại, chúng tôi bán tín bán nghi, muốn rõ hư thật thế nào, đích thân xuống tận Bạc Liêu tìm đến nhà các vị cao niên thân hào nhân sĩ tại đây, hỏi qua sự tích miếu bà Cố do người đồn đãi từ lâu. Quý vị ấy không ngần ngại tường thuật những sự việc mắt thấy tai nghe cho chúng tôi rõ chi tiết, và còn rất nhiều chuyện hiển linh khác nữa, đồng bào quanh vùng chợ Bạc Liêu có dịp chứng kiến.
Nghe qua câu chuyện chúng tôi có cảm nghĩ và băn khoăn : Giữa cái thời đại nguyên tử nầy tại sao có những chuyện thần thoại gieo rắc vào đầu óc con người như thế ? Có phải phản sự tiến bộ của dân tộc không ? Chẳng riêng miếu bà Cố ở Bạc Liêu và còn biết bao nhiêu chuyện huyền bí khác đã xảy ra trên thế giới nói chung và ở xứ ta nói riêng, như miếu Bà Mã Châu ở Cà Mau, miếu bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc v.v… hằng năm đồng bào lục tỉnh đổ xô đến hằng triệu người để chiêm ngưỡng trong những ngày vía.
Trở lại vấn đề miếu Bà Cố, chúng tôi không thần thánh hóa để gieo sự mê tín cho đồng bào, chỉ thuật lại những lời đồn đã thâu lượm được, cần nêu lên cho độc giả rõ biết với tinh thần hiếu cổ và cũng là một di tích lịch sử ở tỉnh Bạc Liêu ngày nay được đồng bào sùng kính, hầu hết khắp nơi đều nghe biết. Tỉnh Bạc Liêu trải qua bao lần biến cố, cảnh vật tiêu hao, nhưng miếu Bà Cố vẫn được an toàn, lúc nào cũng có người tới lui lễ bái không ngớt.
Trước tòa cổ miếu có một tấm biển sơn son thếp vàng viết trên hiên bằng chữ Hán như sau : THẤT THÁNH CHÍ LINH CHƠN TRUYỀN CỔ MIẾU
Và hai bên cột có hai câu đối, chúng tôi mạn phép xin ghi nguyên văn :
THÁNH ĐỨC TỪ BI THÔNG DIỆU PHÁP
THẦN LINH PHỔ ĐỘ VẠN THIÊN CƠ
Sau khi ghi chép đầy đủ về sự tích miếu Bà, lòng tôi nao nao, cảm thấy hình như còn thiếu sót một cái gì, nên có cảm tác những vầng thơ dưới đây :
CẢM TÁC
Một giai thoại, nghe qua càng hào hứng
Đề cao câu nên kính Thánh trọng Thần
Ngôi cổ miếu, địa phương đều tôn kính
Bài học hay, cho tham biện Pháp triều.
Để chứng minh, oai linh thiêng Thần Thánh
Cõi hữu hình, đồng nhứt với vô vi
Trơ với non sông tàn cây cổ thụ
Đêm trăng về, tô đậm nét huyền linh.
Ve dế gáy, kết tinh thành nhạc điệu
Gió vờn bay, lá đổ lạnh tê rờn !
Cặp rắn thần6, như đến ngay chầu chực
Bóng đèn khuya lả ngọn xé màn đêm,
Chiều về đến, ánh tà dương lổ đổ
Khói hương trầm nghi ngút quyện không gian
Khúc phim đời, chớp nhoáng tuân lệnh gió
Như bức tranh, sống đẹp nét huy hoàng.
Linh Thượng Đế vạn năng quyền tối thượng
Linh Thánh Thần làm tiêu biểu nhơn gian
Để đồ đậm câu « Hữu cầu tất ứng »
Miếu có Bà, chùa điện có Phật Trời.
MIẾU BÀ MÃ CHÂU (CÀ MAU)
Về sự tín ngưỡng, thờ phượng, ngôi miếu được hầu hết đồng bào địa phương, nhất là đồng bào Việt gốc Hoa, sùng phụng nhiều hơn cả, là miếu thờ Bà Mã Châu. Chẳng những tại Bạc Liêu có miếu thờ, mà tại Cà Mau, Năm Căn cũng đều có.
Kể về mặt anh linh hiển hách, miếu Bà Mã Châu có tiếng
thiêng liêng chẳng kém gì miếu Bà Cố.
Đời vua Minh Mạng năm thứ 12 (1831), vùng Bạc Liêu Cà Mau hãy còn trong tình trạng bán khai. Dân cư Cà Mau hầu hết sống với nghề làm củi hoặc nghề hạ bạc. Người Hoa kiều thì sống với nghề thương mại, dùng ghe bầu làm phương tiện di chuyển, lưu thông trong vùng Cà Mau để tiếp xúc với đồng bào địa phương, bán chác hàng hóa.
Ngày kia, dân chúng bỗng xôn xao về tin đồn :
- Có một cái xác đàn bà lờ đờ mãi ở ngã ba giáp nước, hình dung còn tươi rói.
Ai nấy đổ xô về phía ngã ba sông Gành Hàu, rạch Tắc Thủ mà xem. Quả thật, xác người đàn bà lững đững trên dòng nước mãi, không trôi đi đâu cả. Thấy lạ, dân làng vớt lên, không ngớt bàn tán. Vả lại cũng không thấy ai quanh vùng nhận xác, vì chẳng ai có thân nhân mất tích. Như thế, đích là xác lạ trôi từ ngoài biển vào, không phải là dân trong làng xã. Nhà chức trách địa phương xét không ra mối, đàng cứ cho chôn cất.
Bất ngờ một cô gái làng bỗng bị hồn thiêng nhập xác, tuyên bố dõng dạc về cái xác vô thừa nhận :
- Ta là Mã Châu đây, người trong hoàng tộc triều Thanh, đi thuyền chạy giặc, chẳng may gặp bão tố ngoài khơi, sóng nhận chìm thuyền. Xác ta trôi dạt nơi nầy, đành lòng nương tựa cõi đất thiêng. Các ngươi lập miếu thờ phượng, ta sẽ phù trì cho dân làng làm ăn được phát đạt, mua may bán đắt.
Dân làng cũng chưa lấy làm tin. Lạ thay ! liên tiếp nhiều đêm, nhân dân quanh đấy đều mộng thấy bà hiện về báo cho biết nhiều điều linh ứng. Cho đến các nhà tai mắt trong vùng, dần dần cũng cảm nhận sự linh thiêng của bà. Do tấc lòng sùng kính, đồng bào địa phương bèn cất miếu thờ bà từ đó.
Miếu cất xong, vách ván, lợp lá, sự hiển hách của bà càng thêm biểu lộ. Chẳng mấy lúc, bá tánh hoàn toàn xưng phục, xây cất miếu lại khang trang mỹ lệ cho đến ngày nay. Nơi miếu Bà, thiên hạ lui tới dập dìu, khói hương nghi ngút suốt ngày đêm.
Hằng năm, lễ cúng tế nhằm ngày mùng 9 tháng 3 âm lịch, tại miếu bà ở Cà Mau. Còn hai ngôi miếu ở Bạc Liêu và Năm Căn cũng làm lễ ngày ấy.
Ngày đại lễ, bá tánh thập phương kéo đến dâng hương đông nghẹt, chen chơn không lọt.
Kẻ khiêng heo quay, gà vịt xôi, bánh để cúng tế tấp nập, giấy tiền vàng bạc đốt vô số kể, khói hương ngút tỏa cả một vùng, có người chịu không nổi, chảy nước mắt sống ngộp hơi thở ngất xỉu. Còn giới đồng bóng có phần âm nhập xác lên nói tiếng Tàu, múa hát chúc tụng dưng hoa, dưng lộc, bên ngoài cũng có dàn nhạc, phụ họa nghe rất êm tai, thật là một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt.
Kẻ tới, người lui không ngớt, hai bên mái hiên có những bàn đoán xâm, xủ quẻ. Quán xá che từ khóm mọc lên như nấm, bán đủ thức ăn và đồ giải khát. Đồng bào địa phương nhờ trong những dịp nầy mua bán kiếm được tiền nhiều.
So sánh ngày vía Bà Mã Châu Cà Mau không kém gì vía bà chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc), từ ngày 23-24-25 tháng 4 hằng năm, có người ở xa đi trước kiếm chỗ trọ, sự tín ngưỡng của người Việt Nam không thể tả được.
Theo sự chúng tôi biết, mỗi năm nhằm ngày vía như trên, số tiền của khách thập phương đem đến cúng bà có cả mấy trăm ngàn.
Mấy năm gần đây, tình hình chẳng được yên ổn, số người đi dự lễ không được phần đông đảo như lúc trước, nhưng không kém phần náo nhiệt.