🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ba Nhát Đâm Bí Ẩn - Jonathan Kellerman full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo BA NHÁT ĐÂM BÍ ẨN Tác giả: Jonathan Kellerman THE CLINIC (ALEX DELAWARE, #11) NXB: CÔNG AN NHÂN DÂN Người dịch: ĐẶNG THỊ HUỆ Năm: 2007 Chuyển thể thành ebook: amylee tve-4u.org Dành tặng Beverly Lewis JONATHAN KELLERMAN SỰ HẤP DẪN CỦA TIỂU THUYẾT TRINH THÁM PHÂN TÍCH HÀNH VI Một trong những tác gia có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác gia tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware, phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong Sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, những kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ truy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý - giáo dục trẻ em. Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thử nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh loạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgin chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ, bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hàng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngừng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà 1 Chẳng mấy khi những đường phố xảy ra các vụ án mạng lại đẹp. Nhưng có một đường phố ngoại lệ. Đó là một con đường tản bộ cong cong êm ái rợp bóng cây đu cạnh trường Đại học California - Los Angeles, hai bên là những bãi cỏ rộng có các xưởng máy và các khu nhà, mượt như mặt bàn bi-a mới. Dưới một cây đu khổng lồ bên đường là nơi Hope Devane bị đâm chết. Nơi đó cách nhà bà một đoạn đường về phía Tây Nam. Tôi ngó lại một lần nữa, chỉ thấy được lờ mờ dưới ánh trăng lười nhác. Sự yên lặng về đêm ở đây chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng dế mèn và thỉnh thoảng là tiếng xe hơi đời mới tiếng nổ nhẹ như một làn khói. Dân địa phương đang trở về sau buổi làm việc. Vài tháng nay, đã có nhiều người tò mò tới đây để ngó qua cái sân khấu này. Milo châm điếu xì gà và phụt khói ra ngoài cửa kính xe. Xoay cái cửa kính xuống, tôi tiếp tục nhìn cây đu ấy. Một cái thân cây xoắn, to như cây cột điện cao thế bên Xa lộ. Tán lá của nó có bán kính rộng tới 18 mét, tối tăm. Những cành cây chắc chắn, tham lam hiện ra dưới ánh trăng băng giá, một số cành quá nặng, thỉnh thoảng lại quét xuống mặt đất. Có lẽ phải đến 5 năm nay thành phố không cử người tới tỉa cành cho cây cối hai bên đường. Chắc là do thất thu thuế. Người ta nhận định rằng tên giết người đã núp dưới vòm cây, mặc dù không ai tìm thấy dấu hiệu hiện diện của hắn ngoài những vết xe đạp cách đó vài mét. Ba tháng sau khi phát hiện ra xác chết, tất cả vẫn chỉ dừng lại ở nhận định, không có tiến triển gì. Chiếc xe Ford cũ của Milo nằm cùng đoạn đường với hai chiếc xe khác, cả hai đều là Mercedes, đều bị phết phiếu đậu xe sai quy định ở trên kính chắn gió. Sau khi xảy ra vụ giết người, thành phố đã hứa sẽ tỉa cành cho cây cối bên đường, nhưng lời hứa ấy đến nay vẫn chưa hề được thực hiện. Có lần Milo cay đắng thông báo cho tôi về điều này, miệng không ngớt chửi rủa những nhà chính trị, nhưng lời nguyền rủa thực sự của anh lại nhắm vào vụ giết người máu lạnh này. - Một vài bài viết về vụ án, rồi chấm hết. - Các sự kiện thời sự giống như các món ăn nhanh ấy mà - Tôi nói - nhanh, dễ nuốt và dễ quên… - Chúng ta là những người yếm thế quá chăng? - Nghề của tôi là phải biết sống với những người bệnh hoạn mà. Câu nói ấy đã làm Milo bật cười. Nhưng giờ thì anh đang nhăn trán, quệt tay vuốt những sợi tóc vương trên mặt, và thở ra những vòng tròn khói thuốc rung rung. Nhích chiếc xe thêm một đoạn đường nữa, Milo cho dừng lại. Anh chỉ tay vào một trong những ngôi nhà nho nhỏ nhưng trông gọn ghẽ: - Nhà bà ấy đấy. Ngôi nhà có mặt tiền màu trắng, có bốn cột, các cánh cửa chớp màu đen, các đồ trang trí lấp lánh trên cánh cửa bóng loáng. Cao hơn lề đường ba bậc là lối nhỏ có lát đá xuyên qua bãi cỏ. Một cánh cổng có các mũi sắt nhọn chặn trên đường lái ô tô vào nhà. Hai cánh cửa sổ tầng hai có màu hổ phách lấp phía sau các tấm rèm màu tai tái. - Hình như có người ở nhà - Tôi nói. - Xe của ông ấy đang đậu trên lối cho ô tô vào nhà đấy. Một chiếc xe vừa chở khách, vừa chở hàng màu sáng đậu trên lối xe hơi vào nhà. - Ông ta luôn ở nhà - Milo nói - Cứ về nhà rồi là ông ta không đi đâu nữa. - Ông ta vẫn còn để tang ư? Milo nhún vai: - Bà ấy đi xe Mustang nhỏ màu đỏ. Bà ta trẻ hơn ông ấy khá nhiều. - Nhiều là bao nhiêu? - 15 tuổi. - Điều gì ở ông ấy khiến anh quan tâm? - Là hành động của ông ta khi nói chuyện với tôi. - Ông ấy tỏ vẻ bối rối chăng? - Không hợp tác. Paz và Fellows cũng nghĩ như thế. Nghĩa là chẳng có điều gì ông ấy nói giúp ích được cho cuộc điều tra. Milo không đánh giá cao những điều tra viên đã tiến hành vụ này trước khi nó được trao cho anh. Với suy nghĩ rằng mình cũng sẽ rơi vào tình trạng bất lực như họ nên anh rất ưu tư. - Mà này - Tôi nói - Phải chăng người chồng luôn là nghi can đầu tiên trong các vụ án? Cho dù đâm bà ta ở ngoài đường phố nghe có vẻ không tiêu biểu lắm. Anh lấy tay dụi mắt: - Đúng vậy. Đập nát óc bà ta trong phòng ngủ có lẽ tiêu biểu cho một vụ án hôn nhân hơn. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi. - Milo xoay xoay điếu xì gà rồi tiếp - Cuộc sống dài lắm, mọi thứ đều có thể xảy ra. - Chính xác những vết xe đạp đã được phát hiện ở chỗ nào? - Ngay phía Bắc của cái xác nhưng tôi không coi trọng bằng chứng này nhiều. Mấy tay trong phòng thí nghiệm nói rằng những vết xe ấy có thể đã ở đó từ một cho đến mười ngày. Có thể đó là vết xe của một thằng nhóc hàng xóm, sinh viên hay một người luyện tập thể dục. Thêm vào đó, khi tiến hành xét hỏi từng gia đình ở khu vực này mọi người đều nói họ không nhìn thấy một người đi xe đạp lạ nào trong cả tuần đó. - Một người đi xe đạp lạ nghĩa là sao? - Nghĩa là một người nào đó không phù hợp. - Ý nói một ai đó da không trắng phải không? - Đại để là như vậy. - Một khu vực yên tĩnh như thế này mà không ai nghe thấy hay nhìn thấy điều gì đó vào lúc 11 giờ đêm thì thật đáng ngạc nhiên. - Tôi nói. - Điều tra viên nói rằng có thể là bà ta không kêu được. Không có vết thương chứng tỏ có sự phản vệ, vì vậy có lẽ bà ấy đã không kháng cự nhiều. - Ra thế. Tôi đã đọc các kết quả pháp y, hồ sơ, từ báo cáo sơ bộ của Paz và Fellows đến kết luận của nhà nghiên cứu bệnh học và tập ảnh khám nghiệm tử thi. Không biết tôi đã phải nhìn bao nhiêu ảnh loại này trong những năm qua. Đây là lần tôi có cảm giác tởm lợm nhất. - Không kêu được chắc là do bị đâm đúng vào tim? - Tôi hỏi. - Điều tra viên nói rằng có thể cú đâm đó đã làm cho tim bị nát khiến bà ta rơi vào tình trạng đột sốc. Anh bật ngón tay thô kệch kêu một tiếng tách nhẹ rồi đưa cả bàn tay lên vuốt mặt. Nhìn nghiêng, khuôn mặt anh giống của một con hà mã, đầy hút trứng cá và mệt mỏi. Anh rít thêm một vài hơi thuốc nữa. Tôi lại nghĩ tới những tấm ảnh chụp trước khi khám nghiệm tử thi: Xác Hope Devane trắng như băng dưới ánh đèn của điều tra viên; ba vết đâm sâu, tím bầm được chụp cận cảnh - một vết ở ngực, một vết ở đáy xương chậu, một vết ngay phía trên thận trái. Kịch bản phía pháp y đưa ra là Hope đã bị đánh bất ngờ và ngất ngay lập tức bằng một cú đâm trúng tim, rồi tiếp đến là nhát đâm thứ hai ở âm đạo, cuối cùng bị đặt nằm sấp bên lề đường và đâm một nhát vào lưng. - Một người chồng đã làm như vậy à. - Tôi nói - Chắc anh tưởng tượng ra điều còn tồi tệ hơn thế nhưng như thế thì chắc phải có nhiều sự tính toán đấy. - Ông chồng này là một trí thức, phải vậy không? Một người biết nghĩ đấy chứ. Khói thuốc phụt ra khỏi xe thành những dải nhỏ, tan biến ngay khi gặp cơn gió ban đêm. - Anh Alex ạ, thực ra, tôi muốn kẻ giết người đó là Seacrest bởi những lý do cá nhân. Vì nếu không phải là ông ta thì vụ trời đánh này sẽ đúng là một cơn ác mộng. - Có quá nhiều nghi can à? - Chính vậy - Milo nói như hát - Có rất nhiều người có thể được xem là không ưa bà ấy. 2 Một cuốn sách đã làm thay đổi cuộc đời của Hope Devane. Cuốn Những con chó sói và bầy cừu không phải là cuốn đầu tiên bà cho xuất bản. Đó là một cuốn sách chuyên khảo tâm lý. Nó cùng với hơn ba chục bài báo đã đưa đến cho bà chức giảng viên đại học ở độ tuổi 38, hai năm trước khi bà xuống âm ti để giảng bài. Việc bổ nhiệm đã tạo cho bà một chỗ đứng trong trường Đại học Tổng hợp California và trong con mắt của công chúng. Nhưng chính Ban bổ nhiệm chức giảng viên của bà lại không hề ưa thích cuốn sách do bà viết. Cuốn sách đã được liệt vào danh sách sản phẩm bán chạy nhất trong vòng 1 tháng, đưa bà vào trung tâm chú ý của giới truyền thông. Số tiền bà thu được từ việc bán sách bằng tổng thu nhập của bà trong 10 năm làm giáo sư. Công chúng nhiều người ái mộ bà bởi bà có khuôn mặt kiều diễm, bộ tóc vàng và dáng vẻ tao nhã - rất hợp đứng trước ống kính. Những thứ đó cùng với giọng nói nhẹ nhàng, ngân nga đầy tự tin và có sức thuyết phục trên sóng phát thanh, truyền hình khiến bà dễ dàng nhận được sự sủng ái từ công chúng. Và thế mạnh nào bà cũng khai thác triệt để. Bởi vì, dù phụ đề của cuốn sách là “Tại sao đàn ông lại có thói quen làm tổn thương phụ nữ và phụ nữ có thể làm gì để tránh?” và ngữ khí cuốn sách đầy oán thán đấng mày râu, nhưng con người trước công chúng của bà lại tỏ ra là một phụ nữ thông minh, ăn nói mạch lạc, suy nghĩ kín kẽ, dễ mến. Bà bước vào vũ đài công luận với sự miễn cưỡng nhưng những gì bà làm được lại đáng khâm phục. Tôi biết tất cả những điều đó nhưng không thực sự hiểu bà đã là một con người như thế nào. Milo đã để lại cho tôi ba thùng các-tông những bằng chứng của Sở cảnh sát Los Angeles để tôi nghiên cứu: lý lịch tóm tắt của bà, những cuốn băng ghi âm và ghi hình, một số bài báo viết về bà, cuốn sách Những con chó sói và bầy cừu. Tất cả đều được Paz và Fellows bàn giao lại. Họ chưa từng xem qua một thứ nào trong số những cái gọi là bằng chứng này. Tối trước, Milo kể cho tôi về việc nhận lại vụ án khi anh ngồi đối diện với Robin và tôi tại một nhà hàng hải sản ở Santa Monica. Nhà hàng có khá đông thực khách, nhưng một nửa các quầy lại bị bỏ trống. Chúng tôi chọn ngồi tại một góc kín đáo, tránh xa những hình ảnh thể thao đang được chiếu trên màn hình lớn và những người vẻ mặt lo lắng đang cố nói chuyện với hàng xóm lạ mặt xung quanh mình. Đang ăn thì Robin đứng dậy đi vào phòng vệ sinh dành cho các quý bà. Milo chộp ngay lấy cơ hội nói: - Thử đoán xem tôi có quà gì tặng anh nhân dịp Giáng sinh? - Còn mấy tháng nữa mới đến Giáng sinh cơ mà. - Thế nên đây mới không phải là một món quà... Một vụ án giết người máu lạnh. Ba tháng rồi. Nạn nhân là Hope Devane. - Thế thì sao nào? - Nó đã bị bế tắc. - Chắc lại do một tay trung sỹ mới vào nghề đảm trách phải không? Milo nhúng một con tôm vào bát nước xốt rồi bỏ tọt vào miệng. Cái miệng của anh chun lại khi nhai con tôm. Anh tiếp tục ngó quanh mặc dù xung quanh nhà hàng này không hề có gì đáng để nhìn cả. Một nhân viên mới vào nghề đảm nhận điều tra luôn có kết thúc được báo trước như vậy. Anh là sỹ quan thanh tra đồng tính duy nhất được mọi người biết tới tại Sở cảnh sát Los Angeles, nhưng sẽ không bao giờ được công nhận một cách đầy đủ. 23 năm làm việc, leo tới chức vụ Thanh tra bậc 3 đã gắn liền với sự tủi nhục, phá hoại, sự xa lánh và xung đột. Anh có một bảng thành tích công tác tuyệt vời và nhiều lúc nó đã giúp ngăn chặn những thái độ thù địch. Cuộc sống của anh phụ thuộc nhiều vào thái độ của cấp trên. Thủ trưởng mới của anh đã bị thất bại và đang hoảng sợ, nhưng quá bị ám ảnh bởi một Sở cảnh sát sau vụ bạo động tinh thần giảm sút nên không chú ý nhiều tới Milo. - Hắn giao cho anh vụ này vì hắn nghĩ rằng vụ này có ít khả năng giải quyết được đúng không? Anh cười như thể đang thưởng thức một câu chuyện khôi hài của riêng mình. - Ngoài ra - Anh nói - hắn còn nghĩ rằng Devane có thể là người đồng tính. Hắn nói với tôi thế này: “Vụ này phù hợp... với anh, Sturgis ạ”. Một con tôm nữa biến mất. Khuôn mặt lổn nhổn cục của Milo vẫn không hề thay đổi, đôi tay anh gấp chiếc khăn ăn làm hai rồi lại mở ra. Cái ca-ra-vát sọc nâu và hoàng thổ dễ sợ đang chiến đấu tay đôi với cái áo khoác màu xám như răng chó săn của anh. Bộ tóc đen, lúc này đã lốm đốm vài sợi trắng, được phạt ngắn gần sát da ở hai bên, nhưng phần tóc chỏm và bộ mai vẫn dài - và hoàn toàn trắng như tuyết. - Có gì chứng tỏ bà ấy là một người đồng tính không? - Tôi hỏi. - Không hề. Nhưng bà ta hay nói những điều rất khó nghe về đám mày râu, vậy tự bản thân việc đó cũng là một thứ để suy diễn. Robin quay trở lại. Nàng đã tô son môi và búi lại tóc. Cái áo màu xanh da trời làm nổi bật mái tóc màu nâu vàng, đồ lụa làm tăng thêm vẻ mĩ miều cho từng cử động của nàng. Trước đó, tôi và nàng tới nghỉ mát tại một hòn đảo ở Thái Bình Dương. Nước da ô liu của nàng vẫn còn vẻ rám nắng từ bữa đó. Tại hòn đảo ấy, tôi đã giết một người. Đó là hành động tự vệ rõ ràng, cứu cả tôi và Robin thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp những cơn ác mộng. - Trông hai anh có vẻ gì nghiêm trọng nhỉ - Nói đoạn nàng đi vào trong quầy. Hai đầu gối tôi và nàng chạm nhau. - Bọn anh đang làm bài tập về nhà ấy mà - Milo nói. - Anh biết gã này thích học hành, vì vậy anh muốn cùng gã làm mấy bài tập anh được giao về nhà. - Anh ấy mới được giao vụ án Hope Devane - Tôi giải thích. - Em tưởng là người ta chịu bó tay với vụ đó rồi chứ. - Đúng là họ đã bó tay. - Thật kinh khủng. Có điều gì đó trong giọng nói của nàng làm tôi phải chú ý. - Kinh khủng hơn bất cứ vụ án nào khác phải không? - Tôi hỏi. - Có thể lắm, anh Alex ạ. Một khu vực như thế, anh đi dạo ngay bên ngoài ngôi nhà của anh và có ai đó nhảy ra đâm anh vài nhát? Tôi đặt bàn tay lên tay nàng. Nàng tỏ vẻ không để ý. - Điều đầu tiên em nghĩ tới - Nàng nói - là bà ấy bị giết chết vì những quan điểm của mình. Và đó là một hành động khủng bố. Nhưng ngay cả khi có kẻ điên khùng nào đó nhắm vào bà một cách ngẫu nhiên thì đó cũng vẫn là hành động khủng bố ở một nghĩa nhất định. Sự tự do cá nhân trong thành phố này đã bị giảm xuống một bậc. Gối tôi và nàng tách xa nhau. Những ngón tay nàng trở nên băng giá. - Cuối cùng vụ này cũng đến tay anh, anh Milo ạ. Vậy đã có tiến triển gì chưa? - Nàng hỏi. - Vẫn chưa - Milo đáp - tôi sẽ phải điều tra từ đầu. Hi vọng mọi sự sẽ tốt đẹp. Lạc quan lúc này thật là khó khăn cho Milo. Giọng anh thật không tự nhiên chút nào, y như đang tập kịch. - Ngoài ra - Milo nối tiếp - tôi nghĩ rằng Alex có thể giúp được tôi trong vụ này. Tiến sỹ Devane cũng là bác sỹ tâm lý. - Anh có biết bà ấy không, anh Alex? Tôi lắc đầu. Người hầu bàn đến: - Quý khách dùng thêm chút rượu vang nhé? - Vâng - Tôi đáp - Cho xin một chai nữa. *** Sáng hôm sau, Milo đưa đến cho tôi ba thùng các-tông và ra về. Trên cùng là lý lịch học thuật tóm tắt của Hope Devane. Tên đầy đủ của nạn nhân là Hope Alice Devane. Bố nạn nhân tên Andre, mẹ là Charlotte. Cả hai đều đã mất. Mục tình trạng hôn nhân ghi là đã kết hôn, nhưng không kể tên của Philip Seacrest. Mục con cái được ghi là không. Bà sinh ra tại California trong thị trấn Higginsville, cái tên tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Có lẽ nó ở đâu đó thuộc miền Trung của bang vì bà tốt nghiệp từ trường Trung học Bakersfield, thay mặt lớp đọc diễn văn tốt nghiệp và được tặng một bằng khen cấp quốc gia trước khi đăng ký học tại Đại học Berkeley như một sinh viên được học bổng của quỹ Regent. Bất kỳ đâu cũng thấy bà có tên trong danh sách khen thưởng của hiệu trưởng, tốt nghiệp loại giỏi lĩnh vực tâm lý học, rồi tiếp tục học tại Đại học Berkeley để lấy bằng tiến sỹ. Bà xuất bản hai công trình nghiên cứu đầu tiên khi còn là sinh viên đại học và chuyển tới Los Angeles để được đào tạo về lâm sàng, làm bác sỹ nội trú và trưởng nhóm đào tạo sau đại học tại khoa Nhi của Bệnh viện Đa khoa trong vùng. Sau đó, bà được bầu làm giảng viên khoa nghiên cứu phụ nữ tại trường Đại học California và năm sau đó thì được chuyển tới khoa tâm lý với tư cách là phó giáo sư. Tiếp đó là 10 trang liệt kê các chức vị thành viên của các tổ chức xã hội, công trình nghiên cứu đã xuất bản, bản tóm tắt sách và bài phát biểu tại các hội nghị. Chủ đề nghiên cứu đầu tiên của bà là Những thành tích khác biệt ở nữ sinh và nam sinh trong các bài kiểm tra toán. Sau đó bà chuyển sang đề tài Các vai trò của giới tác động tới khả năng tự kiềm chế bản thân. Trung bình bà có khoảng 5 bài báo mỗi năm tại các tờ báo có tiếng tăm - một thành tích xuất sắc khiến Ban bổ nhiệm phải chú ý. Tôi đọc cho tới cuối phần thư mục tham khảo có một tiêu đề nhỏ ghi: Tác phẩm xuất bản và công bố không có sự cộng tác của đồng nghiệp đã gợi ý xa xôi cho tôi về thời kỳ trước khi chết của bà. Ngay sau khi cuốn Những con chó sói và bầy cừu được xuất bản, cùng với các bản dịch sang tiếng nước ngoài, bà đã có hàng loạt các buổi phỏng vấn trên báo, đài và tivi. Các buổi tranh luận trên tivi với chủ đề như Hãy chống trả!, Bám chặt kẻ săn mồi, Những người nô lệ mới, Âm mưu Testosterone. Phần cuối cùng mang tên Các hoạt động tại khoa và trường kể về những sinh hoạt học thuật tại ngôi trường đầy bụi bặm của bà. Với tư cách là một phó giáo sư, bà có tên trong bốn Ủy ban của trường, đó là Ủy ban lập Thời khoá biểu và Phân bố Giảng đường, Ủy ban Định hướng Sinh viên Tốt nghiệp, Ủy ban An toàn Động vật - một thứ công tác vất vả mà tôi đã từng nếm trải - và cuối cùng, 6 tháng trước khi chết bà làm chủ tịch Ủy ban Hành vi giữa Cá nhân với Cá nhân mà tôi chưa hề nghe tới bao giờ. Có lẽ đó là một tổ chức phụ trách giải quyết vấn đề quấy rối tình dục chăng? Hay phụ trách giải quyết vấn đề giáo viên lợi dụng sinh viên làm việc. Có lẽ nó ẩn chứa một điều gì không thân thiện. Tôi đánh một dấu nhân vào cạnh lời ghi chú và tiếp tục tìm tới cuốn Những con chó sói và bầy cừu. Bìa của cuốn sách có màu đỏ xỉn với những chữ màu vàng đậm và một bức vẽ màu đen nhỏ đặt giữa tên tác giả và đầu đề cuốn sách trông như bóng của sói và cừu. Miệng những con sói đầy nanh và bộ vuốt đang vồ lấy những con cừu bé nhỏ. Bìa cuối là bức ảnh màu của Hope Devane. Bà có khuôn mặt trái xoan và những đường nét đẹp, mặc bộ ca-sơ-mia màu be, cổ đeo vòng xà cừ ngồi nghiêm chỉnh trên chiếc ghế tựa bọc da màu nâu, phía sau là những chiếc giá sách lờ mờ. Trên tay bà cầm cây bút mực Mont-Blanc, lọ mực bằng kim loại nằm trong tầm tay với. Những ngón tay dài, móng sơn đỏ. Bộ tóc màu vàng mật ong được hất ra phía sau để lộ khuôn mặt khả ái, đôi má tăng thêm vẻ mĩ miều bởi dáng hồng e thẹn. Đôi mắt hơi nâu, sáng, to và nhìn thẳng, êm ái mà không hề yếu đuối. Nụ cười tự tin, pha đôi chút châm biếm nở trên đôi môi lóng lánh ánh xà cừ. Những trang đã bị quăn góc. Vết đánh dấu màu vàng của Milo và vết bút mực viết nguệch ngoạc ở khắp lề sách. Tôi đọc xong cuốn sách. Lái xe 3 cây số xuống Beverly Glen, tôi vào trường Đại học California để tìm kiếm trong cái máy vi tính của thư viện một vài thông tin cần thiết. Kết quả thật thú vị. Tôi trở về nhà, xem băng ghi hình các chương trình Devane tranh luận trên tivi. Có bốn chương trình đã được ghi băng. Có bốn người tham gia chương trình, vừa là người đặt câu hỏi, vừa là người trả lời. Chương trình tranh luận mang tên Yolanda Michaels: Điều gì làm nên một người phụ nữ đích thực? Trong chương trình này, Hope Devane chịu trận trước bài hùng biện của một người phụ nữ chống nam nữ bình quyền. Người phụ nữ này giảng về đạo làm vợ là phải học tập Kinh thánh, biết trang điểm, và mặc bộ áo choàng trong suốt bên trong không còn thứ gì khác đứng ở cửa đón chồng đi làm về. Chương trình Sid, truyền hình trực tiếp: Những tù nhân của giới. Trong chương trình này, Hope Devane tham gia tranh cãi với một nhà nhân chủng học. Vị này tin rằng tất cả những khác biệt về giới tính đều là bẩm sinh và không thể thay đổi được, và rằng tất cả đàn ông và đàn bà cần học cách sống với nhau. Hope đã cố gắng đưa ra những lý lẽ sắc sảo để phản bác nhưng cuối cùng những lý luận của bà lại tỏ ra nông cạn. Chương trình Gina Sydney Jerome: Trong chương trình này, Hope Devane tham gia vào cuộc tranh luận bàn tròn với 3 tác giả khác: một nữ chuyên gia ngôn ngữ học - người gạt vấn đề tâm lý sang một bên và cho rằng đàn ông và đàn bà nên học cách diễn đạt ngôn ngữ sao cho đúng đắn, một nhà báo chuyên mục các vấn đề phụ nữ thuộc một tổ chức chuyên cung cấp các bài báo có trụ sở ở New York - nội dung tranh thảo của người này không có gì nhưng được nói bằng những từ đa âm tiết rất kêu và cuối cùng là một người đàn ông có vẻ mặt âu sầu. Ông này nói rằng ông là một người chồng bị vợ ngược đãi và đã viết 300 trang sách để nói về nỗi thống khổ của mình. Toàn là những cuộc tranh cãi vô bổ, cũ mèm. Chương trình truyền hình trực tiếp với Morry Mayhew: Ai thực sự là phái yếu? Tại đây, Hope Devane tranh cãi với một người tự xưng là chủ tịch của một tổ chức và quyền lợi nam giới mà cái tên của nó nghe lạ hoắc. Người này tấn công Hope như là một kẻ ghét hôn nhân cay đắng. Chương trình này thì khác hẳn - mức độ thù địch giữa hai bên cao hơn vài bậc. Tôi tua đi tua lại để theo dõi thật kỹ. Kẻ ghét hôn nhân ấy tên là Karl Neese, khoảng 30 tuổi, gầy, cao, hông bạnh trong bộ quần áo đen tuyền và một bộ tóc thời trang nhưng quan điểm của anh ta thì hoàn toàn cổ hủ. Anh ta nói phần lớn thời gian phát sóng và không ngừng tung ra những lời lẽ mạ lỵ đối với Hope - giống như một vở kịch tâm lý vậy. Đối thủ của anh ta không có phản kháng gì, không cắt ngang lời anh ta và không hề lên tiếng ngay cả khi những bình luận thô bỉ của Neese được những khán giả lỗ mãng vỗ tay tán thưởng. MAYHEW: Được rồi, thưa anh Neese, xin hãy hỏi ý kiến của Đốc tờ(1)... NEESE: Bác sỹ ư? Tôi không thấy bà ấy mang cái ống nghe nào trên cổ cả. MAYHEW: Bà ấy là một tiến sỹ… NEESE: Liệu tôi có cần thiết phải thấy ấn tượng về điều đó không nhỉ? Mà tiến sỹ nghĩa là gì? Phải chăng là “cường điệu” cái gì đó lên? Hay nó có nghĩa là “bố có tiền”? MAYHEW (cố giữ không bật cười): Được rồi, được rồi, thưa tiến sỹ Devane, xin bà cho chúng tôi biết… NEESE: Hãy cho chúng tôi biết tại sao những người bênh vực bình quyền cho nữ giới lại cứ lải nhải mãi về các vấn đề của họ vậy. Nhưng chuyện phá thai là bình thường khi có yêu cầu vì con cái là thứ gì đó không tiện lợi… MAYHEW:... học thuyết của bà về lý do phụ nữ trở thành nạn nhân của những kẻ vô lương tâm… NEESE: Bởi vì họ “ham muốn những thứ” của những kẻ vô lương tâm. Gã đàn ông xấu xa, gã đàn ông nguy hiểm, càng thế càng thú. Và họ còn muốn nhiều hơn thế. Bọn họ nói họ muốn những người đẹp, nhưng lại chỉ cố gắng tìm một người phụ nữ sử dụng cái đẹp. Đẹp nghĩa là yếu đuối, yếu đuối nghĩa là không dẹp. Không đẹp thì chẳng có gì đáng nhìn trộm cả. (Cười, vỗ tay). DEVANE: Không biết chừng ở đó anh sẽ có được thứ gì đấy. NEESE: Đúng, đúng. Tôi có đấy. (mắt liếc nhìn đểu cáng) DEVANE: Đôi khi chúng ta vẫn thường rơi vào những khuôn mẫu hành xử nguy hiểm. Tôi tin rằng ngay từ thời còn nhỏ chúng ta đã được học về các vấn đề nan giải. NEESE: Hãy cho tôi biết cái nan giải của bà, tôi sẽ cho bà thấy cái nan giải của tôi. MAYHEW (cười): Thôi nào, Karl. Bài học đó là gì vậy, thưa tiến sỹ...? DEVANE: Đó là những mẫu hình mà chúng ta lấy làm gương để học tập. Đó là những cách hành xử mà chúng ta được dạy nên bắt chước… Thêm hai mươi phút tranh cãi tay đôi và những phát biểu đầy lý lẽ của Hope nữa. Mỗi lần Neese được đám đông huýt sáo, tung hô thì bà lại đợi cho tới khi mọi thứ trở lại yên tĩnh rồi mới đáp trả bằng một phát ngôn ngắn gọn, súc tích không có gì liên quan tới Neese cả. Bà cứ nói theo cách của bà. Đến cuối chương trình, mọi người có vẻ đang chăm chú nghe những lời của bà con Neese tỏ ra mất bình tĩnh hoàn toàn. Tôi xem lại băng lần nữa, tập trung chú ý tới Hope và những gì khiến lời nói của bà có hiệu quả. Bà đã sử dụng đôi mắt để giao tiếp một cách dũng cảm nên tạo được sự thân mật, toát ra vẻ điềm tĩnh khiến cho những cái đã rõ ràng trở nên sâu sắc hơn. Một thiên tài hùng biện. Một thiên tài bình tĩnh. Nếu cách làm của bà là một thông điệp thì bản thân bà ắt phải là một người đưa tin tuyệt vời. Tôi không khỏi suy nghĩ rằng nếu bà còn sống chắc bà sẽ còn làm được nhiều điều đáng khâm phục nữa. Khi buổi đối thoại kết thúc, máy quay đã chớp được hình ảnh cận cảnh bộ mặt của Neese. Trên khuôn mặt không còn điệu cười ngoác miệng của một gã hợm đời nữa. Một vẻ mặt trầm trọng. Anh ta giận dữ gì chăng? Đây là một ý kiến điên rồ nhưng có thể anh ta đã để cơn giận dữ trong người anh ta phát nộ thì sao? Mà sao lại không chứ? Vì vụ án đã đi đến chỗ bế tắc nên Milo bảo tôi cứ thoải mái đặt giả thuyết. Tôi chép tên Neese vào cuốn sổ rồi với tay lấy tập hồ sơ vụ án. Những con chữ, những bức ảnh. Luôn luôn có những bức ảnh... Khoảng 5 giờ kém, tôi gọi điện tới Ban thanh tra cảnh sát Los Angeles gặp Milo. Tôi thông báo với anh rằng tôi đã kết thúc mọi việc, kể cả việc đọc cuốn sách. - Thế thì nhanh quá. - Rất dễ đọc. Bà ấy có một lối viết khá hay. Toàn là những mẩu đối thoại. Cứ như thể bà đang ngồi trong phòng khách nhà anh, chia sẻ với anh kiến thức của bà ấy vậy. - Anh nghĩ gì về nội dung của cuốn sách? - Nhiều điều trong đó rất rõ ràng như: bênh vực quyền của anh, chăm lo cho bản thân anh, lựa chọn mục tiêu của anh một cách thực tế để có thể thành công và tăng được lòng tự trọng bản thân. Nhưng khi đả động đến những vấn đề cấp tiến thì bà lại không đưa ra các số liệu cụ thể để chứng minh. Phần nói về bệnh thái nhân cách bạo dâm thì hơi dài. - Tất cả những người đàn ông đều là những kẻ sát giới. - Tất cả những người đàn ông đều có tiềm năng trở thành những kẻ sát giới và ngay cả quan hệ tình dục liên ứng cũng vẫn có một phần là sự cưỡng dâm bởi vì dương vật được xây dựng như một thứ vũ khí, sự xuyên thủng có nghĩa là xâm lược và mất quyền kiểm soát của giới nữ. - Bà ấy nói nhiều về vấn đề kiểm soát, phải vậy không? - Đó là chủ đề chính của bà. Tôi đã tới thư viện và nghiên cứu các công trình mà bà ấy trích dẫn. Chúng không nói như những gì bà ấy nói. Bà ta đã lấy những dữ liệu ra khỏi bối cảnh của nó, sử dụng một cách có chọn lựa, và chơi trò lập lờ đánh lận con đen. Nhưng nếu anh không dành thời gian để kiểm tra tỉ mỉ thì khó mà phát hiện ra được. Bên cạnh tài viết lách, tôi còn phát hiện ra lý do vì sao cuốn sách lại bán chạy đến thế. Bà ấy có khả năng rào trước đón sau thiên bẩm bởi vì trong cuốn sách, phụ nữ luôn là những nạn nhân. Anh đã nghe Robin nói tối hôm qua rồi đấy. Khi chúng tôi về tới nhà, cô ấy đã nói với tôi rằng vụ án khiến cô ấy mất ngủ mấy đêm bởi cô ấy thấy đồng cảm với Hope. - Còn về những cuốn băng ghi hình trên tivi thì sao? - Bà ấy cũng thể hiện tài năng ngay cả trong lĩnh vực ấy. Bình tĩnh. Ngay cả khi người ta đã cố tình đưa một kẻ phá bĩnh vào để chống lại bà trong chương trình của Mayhew thì bà ấy vẫn không một phút nào mất bình tĩnh. Anh có nhớ cái tay phá bĩnh ấy không? - Có phải cái tay dở dại, gầy gò, mặc áo đen không? Anh ta thực sự đã cố đánh bà ấy, phải vậy không? - Nhưng bà ấy đã xỏ mũi được anh ta một cách đẹp mắt, không bao giờ để cho anh ta đụng được tới bà. Với tôi, bà ấy là người chiến thắng và anh ta thì có vẻ nổi đóa lên sau đó. Điều gì xảy ra nếu anh ta cứ giữ mối ác cảm ấy? Đầu dây bên kia yên lặng. Rồi bỗng Milo lên tiếng: - Anh đang nói đùa hay thật đấy? - Anh bảo tôi sáng tạo. Những cuộc tranh luận trên truyền hình này là những thùng đựng thuốc súng - nó đả động tới những vấn đề nhạy cảm, khai thác người ta đến tận xương thịt. Nó chính là những điều mà tôi đã được dạy không nên làm với tư cách là một nhà trị liệu tâm lý. Tôi luôn nghĩ, với những cuộc tranh luận kiểu này thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi bạo lực nổ ra. - Hừm - Milo lên tiếng - Được rồi, tôi sẽ điều tra về anh ta. Tên anh ta là gì nhỉ? - Là Karl Neese. Milo nhắc lại cái tên ấy. - Có phải là... Được rồi, thế anh còn ý kiến nào về Hope không? - Hiện tại thì chỉ có vậy thôi. Thế còn anh? - Chẳng có gì cả. Tôi có cảm giác ông chồng bà ấy đang có gì giấu giếm. Mấy người bạn của anh ở trường đại học chẳng chịu giúp đỡ - toàn trích dẫn cho tôi những số liệu về việc sẽ diễn ra nếu giải quyết một vụ án quá lâu, bảo tôi hãy quên vụ án đi. Ngoài ra, họ còn đối xử với tôi như là một người lính đần độn. Họ nói năng vô cùng chậm... - Hợm tầng lớp ấy à? - Có lẽ lúc vào trường tôi đã cọ tay xuống mặt đất trong khi bóc một quả chuối để ăn nên khiến họ nghĩ như vậy. Tôi cười rũ. - Lẽ ra anh phải trình bằng thạc sỹ của anh khi nói chuyện với họ mới phải. - Đúng thế, có thể nó lại gây chút ấn tượng với mấy tay tiến sỹ triết học cũng nên. Thế anh nghĩ sao về những vết thương? Nhát dâm ở chỗ háng có gì liên quan tới vấn đề tình dục không? - Nếu đó là vết đâm có chủ ý thì ắt hẳn thể hiện thái độ căm thù có liên quan tới tình dục. - Đó đúng là vết đâm có chủ ý đấy. Ba vết đâm sạch sẽ, không lệch tí nào, xung quanh không có thêm vết nào nữa. Tên này đã đạt được chính xác những gì hắn muốn: một nhát vào tim, một nhát vào háng và một nhát vào lưng. - Như vậy có vẻ chúng đã được sắp đặt cụ thể - Tôi nói - Đó là một chuỗi hành động rõ ràng. - Nghĩa là sao? - Đâm vào tim trước tiên có thể là hành động liên quan tới tình yêu, theo một ý nghĩa bệnh hoạn. Hay còn gọi là làm tan nát trái tim ai đó, có thể đó là một kiểu trả thù tình. Cũng không loại trừ tên giết người chọn đâm vào tim là để bà ta chết nhanh. Tuy nhiên, nếu vậy thì cắt cổ có phải là biện pháp nhanh gọn hơn không? - Đúng thế. Tim không phải là nơi dễ dàng đâm trúng, có thể anh sẽ đâm vào xương sườn, có thể đâm trượt hoàn toàn. Biện pháp giết người bằng dao găm nhanh nhất vẫn là cắt cổ. Còn những vết thương khác thì sao? - Tại háng - Tôi nghĩ tới thái độ bình tĩnh và cách ăn mặc lịch sự của Hope. Đầu tóc bà được chải chuốt cẩn thận. Vậy mà bị đâm đến chết trên đường phố... - Nhát đâm vào háng có thể là bước tiếp theo của cú đâm vào tim - tình yêu đã hết, giờ đến yếu tố tình dục... Nếu vậy thì nhất đâm vào lưng là nhát đâm cho chết hẳn: đâm dao sau lưng. Đó là biểu tượng của sự phản bội. - Để đâm được bà ta ở sau lưng - Milo nói - thì tên sát nhân phải có thời gian để lật bà lại đặt nằm sấp. Đó là lý do tại sao tôi thấy hứng thú khi anh nói rằng nó được sắp đặt. Hãy nghĩ xem, anh đang đứng ở đó, vừa mới giết chết một người. Anh có dừng lại để làm như vậy không? Với tôi, điều đó nói lên rằng nó là một tội ác xuất phát từ tình cảm nhưng được thực hiện một cách có tính toán. - Một cơn thịnh nộ lạnh lùng - Tôi nói - Có sự thân thiết với kẻ gây ra tội ác - vậy hắn chính là người mà bà ấy biết? - Đó chính là lý do tại sao tôi lại quan tâm đến ông chồng. - Nhưng đối với bà ấy, sự thân thiết có thể có ý nghĩa hoàn toàn khác. Cuốn sách đã đưa bà tới trước mặt hàng triệu con người. Bà ấy có thể khiến một trong hàng triệu người đó nổi giận, thậm chí là một sự giận dữ ảo tưởng. Có người nào đó đã không thích cách ký tên vào các cuốn sách của bà hoặc có ai đó đã theo dõi bà trên tivi và nghĩ tới bà một cách bệnh hoạn. Sự nổi tiếng giống như là lột truồng trên một sân khấu tối, anh Milo ạ. Anh không thể biết được đang có ai cùng ở trên đó. Milo im lặng trong vài phút. - Này anh bạn, dù sao cũng cảm ơn anh vì đã giúp tôi mở rộng danh sách những kẻ tình nghĩ tới vô tận... Còn đây là những điều chưa từng được báo chí đăng tải: Bà ta có thói quen đi dạo khoảng nửa giờ hoặc một giờ mỗi đêm từ 10 giờ 30 đến 11 giờ. Thường thì bà đi dạo cùng với con chó của bà - con Rottweiler - nhưng hôm đó con chó bị đau bụng nặng và phải ở lại chỗ bác sỹ thú y qua đêm. Có thú vị không? - Nghĩa là bị đầu độc? - Sáng nay tôi đã gọi điện đến chỗ bác sỹ thú y, ông ấy nói rằng ông ấy không khám cho con chó vì đến sáng hôm sau thì nó đã bình phục, nhưng các biểu hiện của nó giống như là đã ăn phải thứ bẩn. Ông ấy nói rằng chó vẫn thường ăn các thứ rác rưởi. - Con chó này cũng thế chứ? - Ông ấy không dám chắc. Và bây giờ thì đã quá muộn để tiến hành các xét nghiệm. Chắc là Paz và Fellows cũng không hỏi đến việc này. - Đánh thuốc độc con chó - Tôi nói - Chắc hẳn đã theo dõi một thời gian và nắm chắc thói quen hoạt động của bà ấy. - Hoặc là kẻ đó đã biết được các thói quen này từ trước. Vậy người chồng là đối tượng nghi vấn lý tưởng còn gì? Biết đâu ông ta chả bị cắm sừng? - Ông chồng này bị cắm sừng thật ư? - Tôi không biết. Nhưng cứ cho là như vậy đi. Và nếu Seacrest thông minh và có máu lạnh hơn một người chồng bị phản bội bình thường thì cách nào làm chệch hướng nghi vấn tốt hơn là bày thành một vụ án giết người trên đường phố? - Nhưng chúng ta đều biết ông ta là một giáo sư lịch sử đã có tuổi và không hề có thành tích bạo lực trong gia đình. Không hề bạo lực bao giờ, chấm hết. - Nhưng cái gì cũng luôn có lần đầu tiên - Anh đáp lại. - Vậy anh có biết ông ấy đã làm gì khi tiếng tăm của vợ nổi như cồn không? - Không biết. Như tôi đã nói, ông ấy chẳng nói gì cả. - Có thể đây là một điểm đáng lưu ý trong quan hệ của họ: Ông ấy thì già hơn và rất có thể đã có được chút tiếng tăm trong giới học thuật cho tới khi bà ấy viết cuốn sách. Và có lẽ ông ấy ghét bị đem ra bàn luận trên tivi. Mặc dù trong các cuốn băng tôi xem bà ấy thường nói về chồng mình bằng giọng đầy yêu thương. - Đúng - Milo nói - Philip là con người đáp ứng được những đòi hỏi của một người phụ nữ nhưng ông ấy là trường hợp rất hiếm. Lẽ nào ông ấy hơi tỏ vẻ bề trên không thèm chấp bà ấy? - Còn một điều nữa - Tôi nói - Tôi không bao giờ thấy tổ chức đấu tranh vì quyền bình đẳng cho nữ giới nào lên tiếng về cái chết của bà. Có thể bà ấy không gia nhập một tổ chức nào cả - ít nhất thì tôi cũng không thấy có liệt tổ chức nào trong bản lý lịch tóm tắt. - Ra thế - Milo nói - Vậy bà ta là một người đơn độc? - Bà ấy vẫn thường làm các công việc của Ủy ban, tham gia các tổ chức học thuật. Nhưng không hề có gì mang tính cách chính trị cho dù giọng điệu của cuốn sách mang tiếng là bênh vực cho quyền bình đẳng phụ nữ. Và nói đến bản lý lịch tóm tắt, còn một điều nữa đã đập vào mắt tôi: Bà ấy làm chủ tịch Ủy ban mang tên Ủy ban Hành vi Cá nhân với Cá nhân. Có vẻ Ủy ban này dính dáng đến vấn đề quấy rối tình dục - có thể nó nhận giải quyết các phàn nàn, khiếu kiện của sinh viên đối với cán bộ trong trường. Cái này có thể là nguyên nhân gây tranh cãi. Điều gì xảy ra nếu bà ấy đã làm cho sự nghiệp của một ai đó bị đe doạ? - Ủy ban Hành vi Cá nhân với Cá nhân à? Tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. - Nó chỉ là một lời ghi chú ở cuối bản lý lịch thôi. - Cảm ơn anh vì đã để ý đến điểm này. Đúng như anh nói, điều này nghe khá lý thú. Anh có muốn làm phước cho tôi bằng cách đến trường đại học để kiểm tra không? Ông trưởng khoa ở đó vẫn chưa gọi điện lại cho tôi kể từ lần đầu tiên tôi nói chuyện với ông ấy. - Có phải là ông Ed Gabelle không? - Đúng đấy, không hiểu ông ấy làm gì nhỉ? - Ông ta là một chính trị gia đấy - Tôi nói - Được rồi, tôi sẽ hỏi cho. - Cảm ơn anh. Giờ thì tôi xin nói cho anh những suy nghĩ của tôi về giáo sư Devane. Có sự khác biệt giữa những gì bà ấy viết và cách bà ấy diễn trên tivi. Trong sách, bà ấy hầu như coi tất cả những người đàn ông là kẻ xấu. Anh có thể nghĩ rằng bà ấy là người căm thù đàn ông bậc nhất. Nhưng trên các cuộn băng bà ấy lại tỏ ra là một người phụ nữ thích đàn ông. Bà ấy cho rằng chúng ta có rất nhiều việc phải làm và thậm chí còn tỏ ra xót thương cho chúng ta. Nhưng anh Alex ạ, thái độ nói chung của bà ấy là thân thiện. Bà ấy tỏ ra vui vẻ với những người đàn ông - và còn hơn thế nữa. Tôi tự thấy rằng bà ấy giống như người bạn trai mà anh có thể muốn uống một vài cốc bia cùng. - Giống như là trong một bữa tiệc cốc-tai sâm-banh ấy chứ. - Tôi nói. - Đúng thế. Nhưng sự tương phản này rất đáng lưu ý. Ít nhất tôi thấy như vậy. - Anh biết đấy - Tôi nói - đọc bản lý lịch tóm tắt, anh cũng sẽ có ý nghĩ tương tự. Nửa đầu là lời của một nhà học thuật nói có sách mách có chứng, nửa sau lại là lời nói luyên thuyên của một ngôi sao truyền hình. Cứ như thể bà ấy là hai con người riêng biệt vậy. - Và còn một điều nữa: có thể đánh giá của tôi không phải là chuẩn nhất nhưng tôi thấy trên tivi bà ấy rất khêu gợi. Cái đánh mắt với máy quay, điệu cười chúm chím, chân bắt chéo để lộ một phần đùi thon nhỏ - nói chung là rất khêu gợi. Ngoài ra, sự im lặng chính là cách để bà ấy nói được rất nhiều đấy. - Đó là những thủ thuật ngừng nghỉ của một bác sỹ tâm lý chuyên nghiệp. Chúng tôi thường phải học cách sử dụng sự im lặng để khiến người khác phải nói. - Vậy thì bà ấy đã học rất giỏi. - Được rồi. Vậy nếu bà ấy khêu gợi thì có liên quan gì? - Tôi đang nghĩ không biết bà ấy có phải là loại người thích làm chuyện nguy hiểm... Tôi đang không biết phải nghĩ như thế nào cho phải? - Có thể điều anh đang định nói là sự phân thân hóa. Phân chia các khía cạnh đời sống của bà ấy ra thành nhiều phần rồi đặt chúng vào những cái hộp nhỏ riêng biệt. - Những cái hộp nhỏ bí mật - Anh nói - Và những điều bí mật ấy có thể trở nên nguy hiểm. Mặt khác, có thể điều gì đó thật ngô nghê đã xảy ra - chẳng hạn một kẻ điên khùng nào đó thấy bà trên tivi và tin rằng “Chúa trời” ra lệnh cho hắn giết bà ấy. Hoặc một kẻ bị tâm thần đi săn mấy ả tóc vàng ở Westside và bà ấy chẳng may đã xuất hiện không đúng nơi đúng lúc. Lạy Chúa... Thôi được rồi, rất cảm ơn anh đã dành thời gian. Tôi sẽ làm việc ở đây tới khuya, nếu anh có ý kiến gì nữa thì gọi cho tôi nhé. - Tôi sẽ tìm cách nói chuyện với Ed Gabelle về cái Ủy ban hành vi đó. Nếu có gì hay ho, tôi sẽ a lô ngay cho anh. - Đã có khối thứ hay ho rồi - Anh nói, đoạn văng tục. (1) Bác sỹ, tiến sỹ (Tiếng Anh). 3 Ed Gabelle là nhà tâm sinh lý học hay nổi đóa thất thường, mái tóc hóa râm cứng như rễ tre, cái miệng nhỏ xíu và giọng nói the thé thỉnh thoảng lại pha chút âm sắc của người Anh chính gốc. Chuyên ngành của ông là tạo ra những thương tổn trong hệ thống nơ-ron thần kinh của gián và quan sát kết quả. Gần đây, nghe nói ông ta đang tìm cách để có được một khoản tiền tài trợ nhằm nghiên cứu về sự lạm dụng ma túy. Ngay sau bữa ăn trưa, tôi gặp được Gabelle khi ông ta đang rời khỏi câu lạc bộ khoa. Ông vận chiếc quần jeans màu xanh da trời, áo sơ-mi vải bông chéo, chiếc ca-ra-vát có họa tiết đơn điệu. Lời chào gượng ép của ông ta biến mất nhanh chóng khi tôi nêu ra điều tôi cần biết. - Cảnh sát hả, anh Alex? - Ông nói, vẻ khinh khỉnh - Lý do? - Trước kia tôi đã từng làm việc với họ. - Thế hả... ồ, tôi e là không thể giúp gì được anh về vấn đề này. Đây không phải là một vấn đề liên quan đến khoa tôi quản lý. - Vậy thuộc thẩm quyền của ai? - Thuộc thẩm quyền của... à, mà Hope là người theo chủ nghĩa cá nhân. Anh hiểu ý tôi nói chứ - là tôi nói tới cuốn sách của bà ấy đó. - Nó không được khoa đón nhận nồng nhiệt phải không? - Không, không, đó không phải là cái tôi muốn nói. Bà ấy là người thông minh, tôi cá rằng cuốn sách đã đem lại cho bà ấy nhiều tiền, nhưng bà ấy không dành nhiều thời gian... cho đoàn thể. - Nghĩa là không có nhiều thời gian với các đồng nghiệp? - Chính xác. - Thế còn với các sinh viên? - Sinh viên ư? - Ông làm như vẻ đó là một từ xa lạ - Tôi cho rằng bà ấy có dành một chút cho sinh viên đấy. Thế thôi, rất vui được gặp anh, anh Alex. - Cái Ủy ban - Tôi nói - Ông nói rằng đó chỉ là dự án của riêng bà ấy thôi à? Ông ta liếm môi. - Nghĩa là sao, hả ông Ed? - Tôi không thể nói rõ với anh được. Đó là một vấn đề còn chưa rõ ràng, anh ạ. - Dự án ấy đã chấm dứt rồi. Cái chết của bà ấy làm thay đổi tất cả phải không? - Anh nghĩ thế ư? - Ông ta bắt đầu bước đi. - Ít nhất là thế, xin ông cho tôi biết… - Tất cả những gì tôi có thể cho anh biết - Ông ta vừa nói vừa kéo dài giọng - là tôi không thể cho anh biết điều gì cả. Hãy lên cấp cao hơn mà hỏi. - Chẳng hạn như? - Hiệu trưởng. Khi tôi trình bày điều tôi cần với thư ký của ông hiệu trưởng, giọng cô ta phụt câm như mạch máu bị mỡ làm tắc nghẹn. Một lát cô ta mới nói được và bảo tôi chờ một chút. Tôi đặt máy, gọi cho Milo. Anh nói: - Đồ con lừa. Tôi thích việc này ghê. Được rồi, tôi sẽ tự đến gặp ông hiệu trưởng xem sao. Cảm ơn vì anh đã đọc bản lý lịch tóm tắt một cách cẩn thận. - Đó là việc tôi làm để trả công anh thôi. Milo cười, rồi đột nhiên trở nên nghiêm trọng: - Thế thì đúng là Hope đã “làm xù lông” ai đó bằng cái Ủy ban của bà ta rồi. Lại nói đến việc làm xù lông, tôi có kiếm được số điện thoại của trợ lý sản xuất chương trình Mayhew rồi. Anh có muốn đảm nhiệm giúp tôi việc này để tôi tập trung vào quấy rối mấy nhà giáo không? - Tất nhiên là tôi đồng ý. - Tôi trả lời. - Tên cô ta tên là Suzette Band - Anh nói - nếu không quấy rầy cô ta một mẻ thì cô ta sẽ không chịu gọi điện lại cho anh đâu, vậy thì cứ việc thoải mái mà chọc giận cô ta nhé. Phải mất 5 lần gọi mới gặp được Suzette Band, nhưng khi cô ta nói chuyện thì giọng cũng khá dễ chịu và vui vẻ. - Cảnh sát à? Cứ mạo danh một sỹ quan cảnh sát sẽ dễ dàng hơn là giải thích chính xác về cương vị của tôi nên tôi nói luôn: - Cô có nhớ một vị khách, giáo sư Hope Devane, mà cô đã mời năm ngoái không? - Ồ... có. Thật khủng khiếp. Kẻ giết bà ấy đã bị bắt chưa? - Chưa. - Vậy làm ơn báo cho chúng tôi ngay khi hắn bị bắt nhé. Chúng tôi muốn làm một phóng sự về chuyện này. Tôi nói nghiêm túc đấy. Chắc chắn tôi sẽ làm như cô nói. - Tôi sẽ cố hết sức, thưa cô Band. Nhưng ngay lúc này, xin cô giúp cho một việc. Hôm đó có một vị khách mời nữa cùng trong chương trình với giáo sư Hope Devane, một người đàn ông tên là Karl Neese... - Có chuyện gì về anh ta thế? - Chúng tôi muốn nói chuyện với anh ta. - Vì sao... à mà không, xin anh đừng làm ra vẻ nghiêm trọng vậy. - Rồi cô ta cười - Đó là một chuyện thật tức cười. Không, tôi có thể hiểu tại sao rồi... nhưng xin anh đừng phí thời gian tìm hiểm về Karl nữa. - Tại sao thế? Ngừng một lúc. - Có phải anh đang ghi âm không đấy? - Không. Im lặng. - Cô Band? - Chắc chắn là anh không ghi âm đấy chứ? - Tôi khẳng định. Có chuyện gì vậy? - Thực ra, người mà anh thực sự cần phải nói chuyện với là Eileen Pietsch - nhà sản xuất. Nhưng mà bà ấy đang đi công cán. Tôi sẽ yêu cầu văn phòng của bà ấy gọi cho anh khi nào... - Tại sao lại phải chờ đợi tốn thời gian như thế nếu như Karl là người không đáng để chúng tôi phải lưu ý? - Thực sự không đáng đâu, anh ạ. Đó chỉ là... chương trình của chúng tôi... Karl là một... - Một khách mời chuyên nghiệp? - Ý tôi không phải thế. - Vậy tại sao anh ta lại không đáng để chúng tôi phải lưu ý? - Nghe này... lẽ ra tôi không nên nói với anh, tôi không muốn anh làm to chuyện này ra mang tiếng cho những người làm chương trình. Có trời mới biết hiện có hàng trăm kẻ đang rình mò tìm kiếm những người giơ đầu chịu báng. Chúng tôi cảm thấy chúng tôi đang làm một việc có thành ý với công chúng. - Và Karl là một phần của cái đó? Tôi nghe thấy tiếng thở dài ở trên máy. - Được rồi - Tôi nói - Như vậy anh ta đã được các cô trả tiền để đứng trước ống kính làm nền cho bà giáo sư. - Tôi không định nói như vậy. - Nhưng anh ta là một diễn viên, đúng không? Nếu tôi kiểm tra hóa đơn thanh toán hay bảng phân công công tác, có thể tôi sẽ tìm ra anh ta. - Này - Cô ta nói to hơn, rồi lại thở dài - Vâng, anh ta là một diễn viên. Nhưng theo tôi biết thì chính anh ta cũng có những quan điểm đó thật. - Vậy thì tại sao chúng tôi lại không cần phải quan tâm đến anh ta chứ? Tình hình hôm đó giữa anh ta và giáo sư Devane đã trở nên rất xấu. - Nhưng đó là... Này anh, sao anh không chịu buông tha cho tôi chứ... Vậy thì đành phải nói thật với anh, Karl là một diễn viên chuyên nghiệp. Nhưng anh ta là một gã rất tốt. Chúng tôi đã sử dụng Karl từ trước và trong các chương trình khác nữa. Chúng tôi đưa những người như anh ta vào để thêm mắm thêm muối cho chương trình. Đặc biệt là với những giáo sư vì họ thường là những người rất khô khan. Tất cả các chương trình đối thoại đều làm như thế. Một số nhà sản xuất còn sử dụng cả diễn viên làm khán giả. Chúng tôi thì không bao giờ làm thế. - Nghĩa là cô khẳng định anh ta thực sự không có thái độ thù địch với giáo sư Devane. - Tất nhiên rồi. Karl là người vui tính. Thực ra, tôi nghĩ chúng tôi đã sử dụng anh ta trong chương trình truyền hình “Người vui tính” vào năm ngoái - anh biết đấy - kéo dài rất lâu và được mọi người tán thưởng. Anh ta làm khá tốt, dễ thích nghi, có khuôn mặt mà anh dễ dàng quên. - Nghĩa là không ai nhớ rằng họ đã từng nhìn thấy anh ta? - Chúng tôi thêm vào họ bộ râu quai nón hoặc bộ tóc giả. Dù sao, người xem cũng không tò mò tìm hiểu kỹ làm gì. - Tôi vẫn cứ muốn nói chuyện với anh ta. Cô có số điện thoại của anh ta không? Lại gián đoạn. - Cái gì cơ... à mà tôi muốn thỏa thuận với anh một chuyện. - Liệu tôi có phải lựa chọn giữa tiền và điều bí ẩn sau bức màn thứ ba không đấy? - Rất hài hước - Cô ta nói, rồi sự thân thiện trở lại trong giọng nói - Đây là thỏa thuận: Hãy gọi cho tôi ngay sau khi anh giải quyết được vụ án để chúng tôi có những phóng sự đầu tiên, còn tôi sẽ cho anh biết số của Karl. Được chứ? Tôi giả vờ cân nhắc rồi nói: - Được. - Rất tuyệt, mà này, có thể anh cũng đến với chúng tôi luôn đấy nhé. Một thanh tra xuất sắc và một vụ án! Anh có quen đứng trước ống kính không? - Đèn chiếu làm cho mắt tôi đỏ nhưng bộ nanh của tôi thì luôn trắng muốt. - Ha ha... rất hài. Có lẽ anh sẽ làm tốt. Chúng tôi đã từng làm chương trình với các cảnh sát nhưng họ thường là những cục gỗ. - Giống như những giáo sư? - Giống hệt. Phần lớn mọi người đều như cục gỗ cả nếu không có sự giúp đỡ. Hoặc ít nhất là phải có cả một câu chuyện để mà kể. - Tôi đã xem các cuốn băng có sự tham gia của Devane - Tôi nói - Dường như bà ấy đã làm khá tốt. - Anh biết đấy, bà ấy thực sự làm rất tốt. Giáo viên vốn cũng là một diễn viên trên lớp. Bà ấy thật biết cách làm thế nào để tác động tới khán giả. Những gì xảy ra với bà ấy khủng khiếp quá. Nếu còn sống, có lẽ bà ấy sẽ là khách mời thường xuyên của chúng tôi. * Số của Karl Neese là một số máy ở tận Thung lũng Trung tâm nhưng khi tôi gọi tới thì máy cho biết có thể gặp được anh ta tại nơi làm việc nếu đó là chuyện vai diễn. Nơi Karl làm việc là cửa hàng thời trang nam của Bo Bancroft ở Đại lộ Robertson. Tôi tra địa chỉ. Nó nằm giữa đường Beverly và đường Đệ tam, ngay cạnh Designer Row. Vào giờ này, chỉ cần lái xe 20 phút là tới. Cửa hàng to bằng một căn phòng nhỏ, đầy gương. Các đồ cổ Braxin đã nhuốm màu thời gian được trang trí bằng các họa tiết hoa hồng và hình tượng tôn giáo, những mắc áo có treo các bộ com-lê có giá tới 3 ngàn đô-la. Tiếng nhạc disco vang lên trên hệ thống âm thanh. Có hai người đang làm việc, cả hai đều mặc quần áo màu đen: một cô gái tóc vàng, mắt như hai lỗ khoan ngồi phía sau bàn sổ sách, và Neese - anh ta đang gấp những chiếc áo len ca-sơ-mia. Kể từ buổi trình diễn trên truyền hình, Neese đã để tóc dài xuống tận vai. Bộ râu đã mọc lởm chởm như gai. Khi nhìn tận mặt thì anh ta có vẻ trẻ hơn tuổi. Nước da màu tái và dáng vẻ đói ăn. Những ngón tay rất dài và trắng. Tôi tự giới thiệu và nói luôn ý định của tôi cho anh ta. Anh ta ngừng gấp áo và quay mặt trở lại một cách chậm chạp. - Có phải ông đang nói đùa không? - Tôi ước gì được đứng đây mà nói đùa với anh, anh Neese ạ. - Ông biết không, ngay sau buổi diễn đó, tôi đã tự hỏi liệu sẽ có ai đó gọi cho tôi không. - Tại sao lại thế? - Vì chương trình trở nên thật tồi tệ. - Tồi tệ hơn mức độ đặt ra? - Không, họ đã trả tiền để tôi phá đám. Họ bảo tôi là hãy diễn mấy trò hề để quấy - Anh ta cười - Không hiểu chỉ đạo nghệ thuật như thế có vấn đề gì không? - Họ còn bảo anh làm gì nữa? - Họ đưa cho tôi cuốn sách của bà ấy, bảo tôi đọc để biết bà ấy sắp nói gì. Rồi sau đó lên sân khấu như một kẻ phá quấy điên khùng, cốt làm cho chương trình hấp dẫn đến cực điểm. Không phải là một hợp đồng tồi. 6 tháng trước, tôi đã đóng trong chương trình Xavier làm một ông bố loạn luân không hề biết hối cải. Thêm một chút ria, cặp kính đen và cái áo sơ-mi, tôi sẽ không bị người ta phát hiện là giả, nhưng ngay cả thế thì tôi vẫn lo rằng có một kẻ đần độn nào đó sẽ phát hiện ra tôi ở trên đường và tống cho tôi vài quả đấm. - Anh đã làm như thế này rất nhiều rồi phải không? - Không nhiều như tôi muốn. Mỗi chương trình tôi kiếm được 500 đến 600 đô-la nhưng có khá nhiều chương trình mời tôi. Dù sao tôi cũng không nghĩ rằng việc ông đến đây để xem tôi có phải là một con chó sói tồi tệ hay không là một điều kỳ quái. Vào cái đêm bà ấy bị giết, tôi đang tham gia một chương trình phục vụ bữa tối ở Costa Mesa. Chương trình đó tên là “Người đàn ông của La Mancha”. Có đến 400 công dân cao quý đã trông thấy tôi - Anh ta cười - Ít nhất là cũng thấy được lờ mờ bóng dáng của tôi. Trời đất, có thể vài người trong số họ còn tỉnh táo. Đây là số của nhà sản xuất chương trình. Anh ta đọc một số tại tổng đài 714, đoạn thốt lên: - Tệ thật. - Anh than vãn điều gì? - Về việc bà ấy bị giết. Tôi không thích bà ấy nhưng Hope thực sự rất sắc sảo, đã giải quyết trò phá đám của tôi một cách tuyệt hay. Chắc ông phải ngạc nhiên lắm vì đã có rất nhiều người không thể đối chọi được với trò của tôi dù họ biết trước. - Nghĩa là bà ấy cũng biết trước anh sẽ làm gì? - Tất nhiên. Chúng tôi không hề luyện tập chính thức cùng nhau một phút nào nhưng họ đã cho chúng tôi ngồi với nhau ngay trước khi chương trình diễn ra. Tại căn phòng màu xanh lá cây ấy. Tôi nói với Hope rằng tôi sẽ lên sân khấu giống như Frankenstein. Bà ấy nói rằng không vấn đề gì. - Vậy tại sao anh không thích bà ấy? - Bởi vì bà ấy đã cố tình làm cho tôi phát điên lên. Chuyện đó xảy ra ngay trước khi chúng tôi bắt đầu diễn. Bà ta đối xử với tôi khá thân thiện khi nhà sản xuất có mặt, hoàn toàn là giả bộ. Nhưng ngay khi chỉ còn có chúng tôi với nhau, bà ấy đã rụt rè đến chỗ tôi, nói vào tai tôi - toàn những lời khiêu khích. Bà ta bảo tôi rằng bà ta đã gặp rất nhiều diễn viên rồi và tất cả bọn họ đều bị lên dây cót về mặt tâm lý. Cảm thấy không thoải mái với việc bị nhận diện là cách bà ấy đã nói. Rồi là đóng vai để cảm thấy bị điều khiển - Anh ta cười khùng khục - Điều đó là đúng, nhưng ai có thể chịu được khi nghe bà ấy lải nhải những điều chết tiệt đó? - Anh nghĩ bà ấy đang tìm cách hăm dọa anh đúng không? - Rõ ràng là bà ta đang tìm cách hăm dọa tôi. Mục đích là gì? Toàn là sự giả dối. Giống như một cuộc đánh vật trên tivi. Tôi là nhân vật phản diện còn Hope là nhân vật chính diện. Chúng tôi đều biết bà ấy sẽ là người kiểm soát tôi trên sân khấu. Vậy thì tại sao lại làm một việc thừa đó chứ? * Đóng vai để cảm thấy bị kiểm soát. Có thể Hope đã tự xem mình là một diễn viên. Trở về nhà, tôi gọi điện cho nhà sản xuất của công ty sản xuất chương trình Costa Mesa. Trợ lý của ông ta kiểm tra nhật ký và xác nhận rằng Karl Neese thực sự có tham gia chương trình vào cái đêm xảy ra vụ án mạng. - Vâng, đó là một trong những chương trình hay của chúng tôi - Cô trợ lý nói - Chúng tôi bán được khá nhiều vé. - Vẫn còn ăn khách đấy chứ? - Không. Chẳng cái gì tồn tại lâu ở California cả. *** Milo gọi đến nhà tôi lúc 5 giờ kém 10. - Trong nhà anh có gì để ăn không? - Tôi nghĩ là có thể tìm thấy cái gì đó. - Thử tìm xem có gì không đi. Tôi đang đói meo rồi. Nghe Milo nói có vẻ hồ hởi. - Chuyến viếng thăm ông hiệu trưởng có kết quả gì không? - Tôi hỏi. - Hãy cho tôi ăn rồi tôi sẽ kể cho mà nghe. Tôi sẽ đến trong vòng nửa tiếng nữa đấy. Trong nhà không thiếu đồ ăn. Tôi và Robin vừa mới đi chợ. Cái tủ lạnh mới nhà tôi có khả năng chứa gấp đôi cái cũ. Tôi làm cho anh một chiếc bánh kẹp thịt bò quay. Cái bếp màu trắng dường như rộng mênh mông. Nó quá rộng và quá trắng. Tôi vẫn còn đang phải làm quen với căn nhà mới. Căn nhà cũ có diện tích 162 mét vuông. Các cột gỗ đỏ nạm bạc, ván ốp tường đã cũ nát, cửa kính đã bạc màu và các góc không vuông. Căn nhà được một nghệ sỹ người Hungary xây lên từ những vật liệu cổ và gỗ tái sinh. Tôi đã mua căn nhà này từ nhiều năm trước vì thấy khung cảnh nơi đây thật hấp dẫn: nằm sâu dưới chân những quả đồi phía bắc Beverly Glen và ngăn cách với những hàng xóm bởi khu đất công cộng có cây lấy gỗ mọc dày. Căn nhà đưa đến sự riêng tư khiến tôi gặp chó hoang nhiều hơn gặp người. Sự hẻo lánh đó đã được chứng minh là tuyệt hảo cho một kẻ tâm thần. Hắn đã thiêu rụi ngôi nhà vào một tối mùa hè hanh khô. “Cái bùi nhùi đặt trên một bình xăng” - đó là cách giải thích của các nhân viên chữa cháy. Tôi và Robin quyết định xây dựng lại. Sau một vài lần đàm phán không thành với những chủ thầu ti tiện, nàng bắt đầu tự mình đứng ra giám sát thi công. Cuối cùng chúng tôi đã có một căn nhà rộng 260 mét vuông trát vữa xtucô, mái ngói màu xám, sàn gỗ và bậc thang bóng loáng, lan can bằng đồng, cửa sổ mái. Rất nhiều cửa sổ nhằm tiết kiệm điện thắp sáng và làm mát. Ở phía sau căn nhà là xưởng làm việc của Robin, hàng ngày nàng vui vẻ xuống đó cùng Spike, con chó bun giống Pháp của chúng tôi. Nhiều cây lâu năm đã bị đốn nhưng chúng tôi thuê máy đưa vào những cây bạc hà quấn bầu và cây thông đảo Canary, cây gỗ đỏ duyên hải, đào lấy một cái vườn kiểu Nhật Bản và cái ao đầy cá con. Robin yêu ngôi nhà. Vài người bạn đến nhà chơi đều khen đẹp. Lời khen của Milo thế này: “một con gà quay trên đĩa, nhưng tôi vẫn cứ thích”. Tôi gật đầu cười và nhớ lại mùi mốc thoang thoảng từ những đồ gỗ cũ mỗi buổi sáng thức dậy. Những cánh cửa sổ tầng hầm như bị viêm khớp, những tấm ván sàn gỗ thông đã được chân mài nhẵn thín. Cho thêm một ít dưa muối vào miếng bánh kẹp thịt của Milo, tôi đặt cái đĩa vào trong chiếc tủ lạnh khổng lồ, pha chút cà phê và xem lại những ghi chép của tôi về lời tư vấn giám hộ gần đây nhất cho Tòa án Gia đình: hai bố mẹ đều là kỹ sư, hai đứa con nuôi, tuổi 3 và 5. Người mẹ đã bỏ đi theo một anh chủ trang trại ở Idaho, người bố phát điên lên và không hề biết chăm sóc trẻ con thế nào. Hai đứa trẻ ngoan ngoãn đến thương tâm nhưng những bức vẽ của chúng nói lên rằng chúng đã biết rõ hoàn cảnh của gia đình mình như thế nào. Vị thẩm phán chuyển vụ án lên Tòa án Gia đình là người có năng lực nhưng người tiếp nhận nó thì hầu như chưa bao giờ đọc các báo cáo về vụ án. Luật sư cả hai bên đều bị mếch lòng bởi việc tôi không đồng ý với những quan điểm của họ. Gần đây, tôi và Robin đã bắt đầu bàn đến việc sinh con cái. Tôi đang đọc bản thảo báo cáo cuối cùng thì tiếng chuông cửa kêu. Tôi ra cửa, nhìn qua lỗ nhỏ thấy bộ mặt to lớn của Milo. Tôi mở cửa. Chiếc xe xấu xí của anh đậu không thẳng hàng phía sau cái xe thùng của Robin. Từ phía sau nhà, tiếng cưa máy vang lên ù ù, rồi tiếng con Spike sủa. - Đồ chó má - Anh nhìn vào chiếc đồng hồ Timex - Anh thấy có nhanh không? Từ trường Đại học về đây tôi đi đúng 5 phút. - Anh thực sự đã trở thành một tấm gương sáng đấy. Vừa cười Milo vừa chùi đôi chân lên tấm thảm ở cửa rồi nhảy vào nhà. Tấm thảm Péc-xích mới mềm mại, điểm những họa tiết bằng lụa lóng lánh ở trên mặt. Tôi rất thích nó. Tất cả những công trình nghệ thuật của tôi đều bị lửa thiêu rụi và bốn bức tường nhà hiện trống trơn như một tờ giấy viết thư còn mới tinh tươm. Dù là nhà mới hay nhà cũ, bếp vẫn luôn là nơi thu hút Milo. Trong lúc anh đi xuống đó, ánh sáng từ bên trên chiếu xuống khiến cả người anh thành một màu trắng. Một người tuyết khổng lồ. Đến khi tôi vào được bếp với anh, Milo đã ngồi ở bàn, tay cầm chiếc bánh kẹp thịt và hộp sữa tươi. Anh ngoạm miếng bánh ba phát một. - Có muốn làm cái nữa không? - Không, cảm ơn. À, mà sao lại không chứ? - Đưa hộp sữa tươi lên môi, anh hút cạn rồi vỗ vỗ vào cái bụng. Tháng này, Milo đã thôi uống rượu và giảm một chút trọng lượng xuống còn 108 cân. Phần lớn thịt trên người anh tập trung ở bụng và ở mặt. Đôi chân dài khiến anh cao hơn 1,9 mét, không phải là gầy, nhưng sự tương phản giữa chân và thân làm cho đôi chân trông loèo khoèo. Milo đang mặc chiếc áo cảnh sát ngắn tay màu xám bên ngoài chiếc sơ-mi trắng, chiếc quần nâu, cái ca-ra-vát đen và đôi giày da màu vàng nhạt. Râu ria anh đã cạo nhẵn thín ngoại trừ ở cái bớt nhỏ màu nâu phía sau tai trái. Những cái cục trên khuôn mặt chồi ra giống như một tác phẩm tượng đất sét đắp chưa hoàn chỉnh. Tĩnh điện làm tóc anh bay nhảy trên đầu. Trong khi tôi làm chiếc bánh thứ hai thì Milo cũng bắt đầu lôi mớ giấy tờ ra khỏi chiếc ca-táp của mình. - Chiến lợi phẩm đây: một danh sách những đối tượng có tiềm năng - Anh lấy mu bàn tay chùi đôi môi bóng mỡ. Tôi đưa bánh đến cho Milo. - Ngon quá. - Anh vừa nói vừa ngoạm miếng đầu tiên - Anh mua thịt ở đâu đấy? - Ở siêu thị. - Bây giờ anh phải đi chợ rồi à? Này, anh có thể đi tranh cử tổng thống được đấy. Hay là anh và bà chủ nhỏ thay nhau làm việc đó? - Bà chủ nhỏ à - Tôi nói - Nhớ đừng có nói thế trước mặt cô ấy đấy. Anh cười: - Vụ này làm tôi phải suy nghĩ nhiều quá. Tôi thường xem bản thân mình nằm ngoài những thứ có liên quan đến giới tính nhưng sự thật là: tất cả chúng ta với nhiễm sắc thể Y đều được sinh ra và lớn lên như những kẻ dã man, phải vậy không? Đùa tí chứ ông hiệu trưởng tỏ ra khá vui tính. Khi tôi tới gặp ông ta, ông ta đã đối xử với tôi rất nhã nhặn và nhiệt tình. Khi tôi chìa tấm thẻ cảnh sát ra và nói về chuyện muốn đưa Ủy ban Hành vi lên các phương tiện thông tin đại chúng thì bắt đầu gặp vấn đề. Đột nhiên ông ấy lôi tôi vào phòng riêng, đóng cửa lại, mời tôi uống cà phê, bắt tay tôi rối rít. Rồi ông ta bảo tôi đừng khơi chuyện cái Ủy ban ấy ra làm gì nữa, rằng nó không là Ủy ban thường xuyên. Đó là chưa kể những từ ông ta nói như “lâm thời” và “trong thời gian ngắn”. Cái Ủy ban đó đã bị giải tán bởi vì có những vấn đề vi phạm hiến pháp và tự do phát biểu ý kiến. Anh lôi từ cái ca-táp ra một xếp tài liệu. - Thật may, ông ta cứ nghĩ là tôi đã biết rất nhiều về vụ này. Vậy nên tôi cứ thế mà nói phét rằng tôi đã nghe được rất nhiều điều tiếng khác nhau ở xung quanh trường. Ông ta nói rằng không thể có chuyện đó vì nó là một vấn đề đã qua. Tôi nói giáo sư Devane cũng đã chết. Tại sao ông không cho tôi biết rõ đầu cua tai nheo chuyện này là gì. Và ông ấy đã kể. Anh lắc hộp sữa: - Còn sữa không? Tôi lấy cho anh một hộp sữa nữa, anh hút ừng ực rồi lại chùi môi. - Anh đã đoán đúng về việc nó là một Ủy ban liên quan tới vấn đề quấy rối tình dục. Nhưng không phải là giữa các sinh viên và cán bộ của trường mà là giữa sinh viên với nhau. Đó là ý tưởng riêng của giáo sư Devane. Họ đã nghe được ba vụ, toàn là những cô gái tham gia lớp của bà về vai trò của giới tính và bọn họ kêu than với bà. Devane không đi theo các kênh chính thức của nhà trường mà chỉ tự động tiến hành riêng. Bà thấy những lời kêu ca, gặp những người bị tố cáo và lập lên một tòa án nhỏ. - Các sinh viên đều không biết rằng cái đó là ý riêng của bà nằm ngoài quyền của nhà trường? - Ông hiệu trưởng nói rằng các sinh viên không hề biết. Cách xử lý như thế rất sư phạm đúng không? - Ô kìa anh bạn - Tôi nói - đó là do các vấn đề liên quan tới hiến pháp và tự do phát biểu ý kiến thế mà nghe giống như là các vấn đề tài chính ấy, như là trong một vụ kiện ấy. - Ông ấy không thừa nhận nhưng đó chính là bức tranh mà tôi thấy được. Sau đó ông ấy khẳng định rằng Ủy ban ấy chắc chắn không thể liên quan gì tới vụ giết bà giáo sư được. Nhưng khi tôi hỏi lý do tại sao thì ông ấy không đưa ra câu trả lời. Ông ấy còn nói nếu đưa việc này ra trước công chúng thì sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, một sai lầm có thể khiến Sở cảnh sát gặp rắc rối, bởi vì tất cả những người tham gia - cả người bị tố cáo và người tố cáo - đều yêu cầu bí mật tuyệt đối và họ có thể sẽ kiện chúng ta. Khi tôi không trả lời, ông ấy liền dọa sẽ gọi cho ngài cảnh sát trưởng. Tôi ngồi và cười. Ông ta cầm máy lên, rồi lại đặt xuống và bắt đầu van lơn. Tôi nói tôi hiểu ý ông ấy và không muốn gây rắc rối, rồi đề nghị ông ấy đưa cho tôi tất cả những hồ sơ viết tay, hứa sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Milo vẫy vẫy xếp hồ sơ: - Đây là biên bản ba vụ việc. Hope cũng đã cho ghi âm. - Vì sao lại phải ghi âm? - Có trời mới biết. Có thể bà ấy chuẩn bị cho một cuốn sách nữa. Một chuyện tình cờ đã xảy ra. Bà ấy đã làm om sòm về việc đưa Ủy ban ra công khai. Bà ấy lập luận rằng việc không công khai là vi phạm tự do nghiên cứu. Rồi cuốn sách Những con chó sói và bầy cừu ra đời. Bà ấy cũng mất hứng thú với chuyện Ủy ban luôn. - Có thể bà ấy định sử dụng Ủy ban đó như một tư liệu cho các chuyến thuyết trình trước công chúng về công trình nghiên cứu của mình. - Ông hiệu trưởng cũng nghi ngờ như vậy. Ông ấy nói đã từng cảnh cáo Hope rằng bà ấy đang đặt mình vào tình thế nguy hiểm về mặt pháp lý. Rằng theo các luật sư của Trường, vì bà ấy không được nhà trường chính thức chấp thuận nên bà ấy chỉ hoạt động với tư cách một bác sỹ tâm lý độc lập khi đứng chân chủ tịch Ủy ban Hành vi, không phải là một cán bộ nhà trường. Vì vậy, nếu bà tiết lộ thông tin, thì sẽ vi phạm vào quyền giữ bí mật và có thể bị thu giấy phép hành nghề. Bà ấy không đồng ý và dọa sẽ thuê luật sư riêng, nhưng rồi đã thay đổi ý kiến. - Thật lạ là sau vụ Hope bị giết không hề thấy ai đả động gì đến chuyện này. - Mọi người đều muốn giữ kín. Ban giám hiệu, các sinh viên - đặc biệt là các sinh viên. Milo trao cho tôi xếp tài liệu: - Hãy đọc cái này khi nào anh có thời gian. Khi nào xong hãy nói cho tôi biết anh nghĩ gì. Tôi không thể để mắt được tới cái này bởi tôi vẫn thích đó là ông chồng bà ấy hơn. Hiện tôi còn thấy hứng thú hơn trước nữa, bởi vì tôi vừa mới xem xét các khoản hoàn thuế của bà ấy. - Cuốn sách đã làm bà ấy trở nên giàu có? Milo gật đầu: - Nhưng ngay cả trước khi chuyện ầm ỹ trong nội bộ trường ấy xảy ra thì Hope đã có một vài hoạt động ngoài khuôn viên khá thú vị. Anh đã bao giờ nghe tới người có tên là Robert Barone chưa? Tôi lắc đầu. - Đó là một luật sư có tiếng, chuyên bào chữa cho các bị cáo - đại khái trong các vụ rắc rối giữa những người làm đồ khiêu dâm và ban kiểm duyệt, vài vụ mánh khóe làm tiền, gian lận, một vài trò giải trí - những thứ vẫn thường xảy ra ấy mà, phải vậy không? Năm ngoái, ông ta trả cho Hope 40 ngàn đô-la phí tư vấn, năm trước nữa là 28 ngàn. - Lập các báo cáo giảm tội do trạng thái thần kinh hoặc tâm thần bất bình thường? - Có lẽ là vậy. Barone có các văn phòng ở thành phố Century và San Francisco. Ông ta vẫn chưa hồi đáp các cuộc gọi của tôi. Uống thêm chút sữa nữa, Milo nói tiếp: - Khách hàng tư vấn nữa của Hope là một vị bác sỹ ở Beverly Hills tên là Milan Cruvic. Danh bạ điện thoại ghi ông ta là một chuyên gia phụ khoa và sinh sản. Anh có biết tại sao một chuyên gia phụ khoa và sinh sản lại phải trả tới 36 ngàn đô-la cho một bác sỹ tâm lý không? Mà trả trong 2 năm liền? - Có thể bà ấy làm công tác chọn lựa những người để ông ta điều trị. - Đó có phải là hoạt động quy định không? - Nói về thủ tục thì vô vàn lắm. Một bác sỹ thận trọng có thể muốn biết bệnh nhân nào đã có đủ tâm lý để tiến hành điều trị. Hoặc sẽ tư vấn cho những ai chưa vững dạ. - Vậy tại sao không giới thiệu thẳng tới bà ấy? Tại sao lại rút tiền túi mình ra để trả cho bà ấy làm gì? - Anh hỏi câu này rất hay! - Khi tôi gọi điện tới văn phòng của Cruvic, y tá của ông ta nói rằng ông ta đang thực hiện một dịch vụ công tại bệnh viện phụ sản nào đó. Điều đó cũng có nghĩa là ông ta đi tiến hành các ca phá thai - một vấn đề nữa có khả năng gây ra thù địch nếu Hope tham gia. Bạo lực của việc phá thai không phải là điều công chúng Los Angeles hiểu và quan tâm, nhưng chúng ta thì hiểu hết ngọn ngành. Và cái tay ghê tởm trên tivi - Neese ấy - đã liên tục nhắc đến vấn đề đó, gắn bà ấy với cái tên “Người đấu tranh vì bình quyền cho phụ nữ cấp tiến chuyên thải những bào thai thành miếng nhỏ”. Biết đâu đấy, sau khi xem chương trình này đã có một số kẻ sùng đạo điên rồ nào đó phát điên. - Bản thân Neese thì không thể - Tôi nói và kể cho anh nghe về việc Neese có đủ chứng cớ ngoại phạm. - Có một điểm đáng lưu ý - Milo nói - là Neese đã nói rằng Hope làm cho anh ta phát điên lên đúng vậy không? - Đó là cách nói của Neese. Nghĩa là bà ấy cố gắng tìm cách kiểm soát anh ta. - Vậy nên có thể bà ấy đã làm phát điên một người nào đó ngoài ý muốn... Anh có cho rằng chúng ta nên theo đuổi khía cạnh phá thai này không? - Không hẳn - Tôi nói - Hope không phải là một đối tượng tiêu chuẩn cho mục tiêu chính trị và nếu là một kẻ ám sát có tính cách chính trị thực hiện thì họ đã đứng ra để tuyên bố trước công chúng rồi. - Đúng... nhưng tôi vẫn muốn biết bà ấy đã làm gì cho Cruvic và Barone. Chúng ta biết rằng Hope đã thu được trên 100 ngàn đô-la trong vòng 2 năm. Mặc dù sau khi có cuốn sách thì bà ấy không cần đến số tiền đấy nữa. Anh lôi từ trong cái ca-táp ra một bảng hoàn thuế được phô tô. - Đây là những hồ sơ cuối cùng của bà ấy. Tổng thu nhập của bà là 680 ngàn đô-la, phần lớn thu được từ tiền trả trước, tiền nhuận bút và các cuộc diễn thuyết trước công chúng. Thu nhập sau thuế của bà gần đạt tới con số nửa triệu đô-la và đang nằm trong một chương mục ở thị trường tiền tệ Merrill Lynch đăng ký bằng tên của bà và của Seacrest. Không có nợ nần gì. Hope có chiếc xe Mustang từ trước và ngôi nhà Seacrest được thừa hưởng từ cha mẹ đẻ trị giá khoảng nửa triệu đô-la nữa. Thật là một sự chung vốn đầu tư không tồi, đặc biệt nếu hôn nhân không thuận lợi. - Họ đã lấy nhau được bao lâu? - 10 năm. - Họ gặp nhau trong hoàn cảnh thế nào, anh biết không? - Seacrest nói rằng họ gặp nhau tại trung tâm giải trí của trường Đại học, khi đang bơi. - Trước đó ông ấy đã kết hôn lần nào chưa? - Chưa, ông ấy nói với Paz và Fellows rằng ông là một trong những người độc thân lâu đời ù lì. Ngoài 500 ngàn đô-la ra, ông ấy vẫn còn có các khoản thu khác. Người đại diện văn học của Hope không cho tôi những con số cụ thể nhưng nói rằng năm tới, ông ấy sẽ còn thu được nhiều tiền nhuận bút từ cuốn sách của bà ấy hơn nữa. Doanh số sách bán trước khi bà ấy chết rất cao, nhà xuất bản còn định đề nghị bà viết cuốn tiếp theo. Hope và Seacrest đã lên kế hoạch tài sản từ mấy năm trước, thiết lập một tài khoản tín thác hôn nhân nhằm tránh bị đánh thuế tài sản, vì thế Seacrest sẽ giữ toàn bộ số tiền của cả hai người. Thu nhập năm vừa rồi của ông ấy là 64 ngàn đô-la, toàn là từ lương do trường Đại học trả. Chiếc xe Volvo của ông ấy đã sử dụng được 8 năm và ông ấy cũng gửi tiền vào quỹ lương hưu của khoa. Ngoài ra là căn nhà. Ông ấy cũng viết một số cuốn sách, nhưng không nhận được tiền nhuận bút. - Tỷ lệ thu nhập gần đây của họ là 1-10 - Tôi nói. - Đó là một khía cạnh ghen tị khác. Điều gì xảy ra nếu Hope quyết định bỏ chồng khi bà kiếm được nhiều tiền? Chẳng hạn bà ấy sẽ đi tìm một gã đàn ông khác - đây là mối quan hệ - tình yêu - tình dục - phản bội mà chúng ta đã suy đoán qua ba vết đâm, thêm vào đó là số tiền khổng lồ mà họ có. Một sự cám dỗ, phải vậy không? Và ai có khả năng biết được các thói quen của bà ấy, khả năng đầu độc con chó hơn là ông chồng chứ? Hope đã phát biểu một ý kiến rất chính xác: Có nhiều phụ nữ bị giết hại bởi những người được cho là “thân yêu” hơn là bởi những kẻ vô lại. - Đã bao năm nay ông Seacrest sống không hề có nhiều tiền - Tôi nói - Phải chăng gần đây ông ấy trở thành một người sống xa hoa? - Không, ngược lại, không hề có sự thay đổi nào trong cuộc sống của ông ấy cả: vẫn đi làm việc mỗi ngày và trở về nhà đúng giờ. Đến cuối tuần, ông ấy chỉ ở trong nhà. Seacrest nói rằng ông chỉ thích đọc sách và xem tivi. Ông ấy thậm chí không còn buồn thuê băng video về xem. Nhưng nếu bà ấy có cắm sừng ông thì có trời mới biết một ông già sống độc thân kiểu cũ như thế sẽ hành xử thế nào. Đã từng có người nghiên cứu về chuyện tình yêu - anh không nên quên vết đâm vào tim bà ấy. Ông ấy năm nay đã 55, anh Alex ạ. Biết đâu ông ấy bị khủng hoảng ở tuổi này. Và như tôi đã nói, tôi cứ nghĩ chắc chắn ông này đang có điều gì đó giấu giếm. - Tại sao? - Tôi cũng không biết rõ, thế mới nên chuyện. Ông ta trả lời tất cả các câu hỏi nhưng không hề tự nguyện đưa ra thông tin nào. Chưa một lần nào ông ấy gọi cho Paz và Fellows để xem kết quả điều tra của họ đến đâu rồi. Khi được giao vụ này, tôi đã gọi ngay cho ông ấy và có cảm giác đang quấy rầy làm mất thì giờ quý báu của ông ấy. Giống như kiểu ông ấy sắp lên đường đi đâu đó. - Có thể Seacrest vẫn còn bị sốc. - Không, dường như ông ấy đang có điều gì lý thú để làm thì đúng hơn. Nếu một người thân yêu của anh bị giết hại như thế, anh sẽ phản ứng thế nào? Hãy nói xem anh sẽ nghĩ gì, làm gì nếu anh là người tận mắt chứng kiến? Tôi định sẽ tới nhà ông tối nay, độ khuya mới tới. Không phải là tôi lợi dụng một người bạn đâu - nếu anh thực sự dành cho vụ án này một chút thời gian nghiêm túc thì tôi sẽ - Anh thở dốc - trả lương cho anh. Milo lôi từ trong túi áo ra một mẫu đơn. - Một sự ngạc nhiên từ bác Milo! Hô hô! Tấm thẻ cảnh sát và một hợp đồng chuyên viên được sao làm ba bản, tên của tôi được đánh máy trên dòng kẻ chấm. Sở cảnh sát sẵn sàng tuyển dụng tôi trong thời gian 50 giờ với mức lương theo giờ bằng một phần tư mức thu nhập tôi tự làm tại nhà. Một dòng chữ nêu giới hạn trách nhiệm của Sở cảnh sát Los Angeles với tôi, đại ý: nếu tôi dẫm vào vỏ chuối bị ngã hay bị bắn chết thì họ sẽ bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc nhưng sẽ không bỏ một xu nào ra để lo chữa cháy hay ma chay. - Chẳng có gì là nhiều nhặn - Milo giải thích - nhưng theo các tiêu chí của Sở cảnh sát thì cũng đủ để đi siêu thị một bữa. - Làm sao mà anh lấy được những thứ này cho tôi? - Tôi đã nói dối cấp trên rằng nghe nói những người đấu tranh vì quyền lợi phụ nữ cấp tiến, những kẻ đồng tính luyến ái đang phàn nàn về tiến độ chậm chạp của vụ án. Nếu Sở cảnh sát không làm gì để tỏ ra đang làm hết sức thì thể nào các sếp cũng bị triệu ra trước Ủy ban Cảnh sát Liên bang. Tôi nói với ông ta rằng mấy kẻ ấy thích những bác sỹ tâm thần và sẽ coi việc anh tham gia vào vụ án như một minh chứng về sự nhạy bén của cảnh sát. - Rất sáng tạo. - Tôi cũng đề nghị mua một chiếc máy tính mới cho vụ này, nhưng thuê anh rẻ hơn mua máy tính. Vậy anh sẵn sàng nhận nhiệm vụ chứ? - 50 giờ - Tôi nói - Thời gian đó đã bao gồm cả việc làm món cho anh ăn không đấy? Trở lại tủ lạnh, anh lấy một miếng bánh sôcôla hạnh nhân ra ăn. - Mặc dù anh nghi ngờ Seacrest - Tôi nói - nhưng tôi vẫn nghĩ anh nên xem xét một cách nghiêm túc đến khả năng có một kẻ lạ mặt bị ám ảnh bởi ảo tưởng nào đó về bà ấy đã làm vụ này. - Vì sao vậy? - Trong cách bày trí các vết đâm có một sự điên rồ lạnh lùng nào đó. Chắc phải là một người căm thù phụ nữ sâu sắc. Và từ cách lập cái Ủy ban Hành vi của Hope chứng tỏ bà không được tế nhị trong hành xử. Vậy ai mà biết bà ấy đã đắc tội với người nào? Có thể ở ngoài đời hay ở trên màn hình tivi. Anh đã bao giờ tìm thấy những vụ giết người có cùng kiểu bày trí vết thương như thế chưa? - Tôi đã tìm các hồ sơ vụ án giết người bằng dao trong vòng 3 năm ở Westside nhưng không có trường hợp nào tương tự. Ngày mai tôi sẽ thử tìm tại Sở cảnh sát Wilshire và lừa đảo tất cả những ai khác để họ nhớ xem có vụ nào thế không. Tôi cũng sẽ gửi điện tới những cơ quan tòa án có thẩm quyền khác, nhưng Paz và Fellows cũng đã làm thế rồi mà không có kết quả gì. Vậy anh có muốn cùng tôi tới gặp Seacrest tối nay không? Tất nhiên là nếu anh và cô nàng để tôi ngó ra sau chào cô ấy và con chó lấy một tiếng. Tôi không là người ghét loài vật đâu. 4 Trong lúc hai chúng tôi bước qua khu vườn để tới xưởng của Robin, Milo dừng lại ngắm nhìn những con cá đang bơi dưới ao, rồi mới lê bước đi tiếp. Lưng anh hơi gù và đôi cánh tay lúc lắc một cách nặng nhọc. Tôi tự hỏi không biết lần cuối cùng anh ấy ngủ được ngon giấc là lúc nào. Robin đang làm những mặt gỗ đỏ của một cây ghi ta bên ghế. Cái sân nhà bằng gỗ thích mới còn nhẵn bóng ngoại trừ đống vỏ bào đã được quét vào một góc. Con Spike đang ngủ dưới chân nàng bỗng tỉnh dậy, ngẩng cái đầu to lù dòm chúng tôi. Milo ném cái nhìn nửa thù địch, nửa thân thiện tới con chó. Spike chạy lại để được tới xoa đầu. Robin giơ một ngón tay lên và tiếp tục gò chặt những cạnh của cây đàn vào khuôn. Khoảng hơn chục nhạc cụ khác đang trong các giai đoạn sửa chữa, được bày trí khắp căn phòng, nhưng dự án mà nàng đang thực hiện không hề mang tính chất kinh doanh. Trận cháy đã phá hỏng bộ áo khoác Martin cũ cùng với cây ghi ta phòng khách rất đẹp mà nàng làm cho tôi mấy năm trước. Tôi mua một bộ Martin khác của cửa hàng Mandolin Brothers ở đảo Staten. Một cây đàn ghi ta khác là lời hứa của nàng nhân dịp năm mới. Một cú đập cuối cùng và nàng đã làm xong. Lau đôi bàn tay, nàng nhón chân và hôn lên má Milo, rồi lên má tôi. Phía trong cái tạp dề, nàng mặc áo phông ngắn và quần jeans. Tóc nàng được quấn trong cái khăn rằn màu đỏ. Cặp kính bảo hộ và cái mặt nạ treo lủng lẳng ở cổ nàng, cả hai đều đầy bụi. Spike bắt đầu sủa giống như một con chó săn, lăn qua lăn lại. Tôi quỳ gối gãi bụng nó. Nó thở hổn hển sung sướng. Những con chó bun của Pháp là phiên bản thu nhỏ của giống chó Anh nhưng tai to và dỏng, hình dáng khỏe mạnh hơn. Con chó tự nhiên đến nhà chúng tôi và ở lại. Khi nào không vui vì điều gì đó thì nó vờ húc húc đầu. Milo giả tảng khinh miệt nó nhưng lần nào cũng đem quà đến cho. Lúc này, anh lôi một gói bánh kẹp thịt ra khỏi túi áo khoác. - Đến giờ ăn rồi, đồ mặt mẹt. Spike ngồi bất động, Milo tung miếng bánh và nó bắt được giữa không trung, nhai ngấu nghiến rồi nuốt chửng. Milo và con chó nhìn nhau trừng trừng. Anh xoa tay lên mặt nó. Spike cất tiếng sủa. Milo lại làu bàu rồi ném thêm cho nó ít bánh. - Biến đi chỗ khác mà ăn. Spike húc đầu vào chân Milo. Mắt đảo, miệng càu nhàu, Milo cúi xuống vuốt ve nó. Con chó tiếp tục sủa, húc đầu vào Milo, anh lại cho nó ăn nữa. Cuối cùng, Milo chìa cái túi đã trống rỗng ra cho nó xem. Spike nhảy chồm lên cướp lấy, đầu lắc lắc làm nước dãi văng vãi lung tung. - Đủ rồi - Robin quát - Mày đang vãi nước dãi lung tung ra nhà rồi kia kìa. Spike ngước cặp mắt to đen nhìn nàng - dáng điệu của Orson Welles - thiên thần bị quấy rối. Ngồi yên đấy! - Nàng khẽ ra lệnh. Con chó vâng lời. Vòng tay quanh eo tôi, nàng hỏi: - Có gì mới không, anh Milo? Đó chỉ là cách hỏi lịch sự. Tối trước, chúng tôi đã nói chuyện nhiều về vụ giết người rồi. - Chưa đâu vào đâu cả - Milo trả lời - Tôi nghĩ tôi sẽ mượn anh Alex của cô tối nay, nếu cô không cần đến anh ta. - Em luôn cần đến anh ấy. Anh cần phải cam đoan với em sẽ trả lại anh ấy cho em nguyên vẹn. - Nguyên vẹn, no nê, tắm rửa sạch sẽ và có nước hoa bôi đầy người! * Sau khi Milo về, tôi trở lại nghiên cứu các biên bản của Ủy ban Hành vi. Những tài liệu của Ủy ban đều được đóng dấu bảo mật từng trang, và trước đó là lời khuyến cáo của các luật sư trường Đại học rằng tiết lộ nội dung các tài liệu này với công chúng sẽ bị truy tố theo luật dân sự. Kế đến là đánh giá của các luật sư về tội trạng: người đánh giá duy nhất, giáo sư Hope Devane. Nhưng có thêm hai người khác cũng đã ngồi đó với tư cách người phán xét cùng bà: giáo sư khoa hóa học tên là Julia Steinberger, sinh viên tâm lý tên Casey Locking. Tôi lật qua trang đó. Thể thức phân xử làm tôi ngạc nhiên. Bà để cho người tố cáo và bị cáo đối mặt trực tiếp với nhau. Phải chăng đây là phiên bản đối thoại trên truyền hình của Hope được thực hiện tại trường đại học? * Vụ thứ nhất: Deborah Brittain, sinh viên năm thứ hai, 19 tuổi, chuyên ngành tiếng Pháp, tố cáo Patrick Allan Huang, sinh viên năm thứ hai, 18 tuổi, chuyên ngành cơ khí, về tội bám đuổi dai dẳng cô ta trong thư viện của trường, đưa ra những lời đề nghị dâm đãng và khêu gợi. Huang phản bác mọi lời tố cáo rằng anh ta có những ham muốn tình dục với Brittain, nói rằng chính cô ta đã đến “mời gọi” anh ta trước qua lời nhờ giúp mở cái máy vi tính tìm kiếm của thư viện và không ngớt mồm khen anh ta thông minh. Britain nói rằng có thực sự cần Huang giúp đỡ bởi vì “anh ta có vẻ là người biết về máy tính”, và đúng là đã khen sự thuần thục của anh ta bởi vì “đó chỉ là những lời khen cho phải phép. Tại sao một người phụ nữ lại không thể tỏ ra lịch thiệp mà không bị quấy rối chứ?” Giáo sư Devane: Có câu trả lời nào cho câu hỏi vừa rồi của Brittain không, anh Huang? Huang: Câu trả lời của tôi là: Cô ta là một kẻ phân biệt chủng tộc, đã lợi dụng tôi. Cô ta đã gây cho tôi rất nhiều phiền phức, chứ không phải là tôi quấy rối cô ta. Vì tôi thấy cô ta có vẻ thân thiện nên tôi đã mời đi chơi. Sau đó cô ta ra điều kiện với tôi và khi tôi không muốn làm một kẻ nô lệ tìm dữ liệu cho cô ta nữa thì cô ta nổi đóa và bày ra trò kiện cáo đối với tôi. Đúng là một chuyện rắc rối. Không phải tôi đến trường đại học để nhận sự rắc rối này. Giáo sư Devane: Vậy anh đến trường đại học để nhận cái gì? Huang: Để được đào tạo về cơ khí. Giáo sư Devane: Anh còn phải học nhiều thứ ngoài những gì học trên lớp. Huang: Tất cả những gì tôi muốn là học và chỉ quan tâm đến chuyện của cá nhân tôi, được chưa? Toàn bộ chuyện này chỉ chứng tỏ cô ta là kẻ phân biệt chủng tộc. Brittain: Anh ta đang nói dối. Chính anh ta đã đề nghị giúp đỡ tôi. Điều tôi cần lúc đó là sự hướng dẫn ban đầu, tôi không biết gì về chương trình tìm tin, nhưng sau đó thì tôi hoàn toàn có thể tự mình làm được. Nhưng mỗi lần thấy tôi là anh ta lại mò tới. Rồi anh ta rủ rê tôi đi chơi và lúc nào cũng buộc tôi phải đồng ý - rất nhiều lần. Tôi có quyền từ chối, phải vậy không? Tại sao tôi phải chịu đựng việc đó chứ? Việc đó khiến tôi thậm chí không còn muốn tới thư viện. Nhưng tôi phải viết một bài về Mô-li-e, không hiểu sao anh ta cứ lân la ở đó? Sách về cơ khí ở thư viện Cơ khí. Rõ ràng là anh ta muốn lượn lờ để tấn công các cô gái. * Tiếp tục những câu tranh luận của hai sinh viên, không hề có nhân chứng. Devane đặt câu hỏi, rồi tổng kết lại và chỉ ra rằng Deborah Brittain đã bị tổn thương vì quá căng thẳng. Bà khẳng định Brittain có quyền thích học ở đâu tùy ý không ai được phép quấy rầy, nhẹ nhàng khuyên bảo cô ta tránh những cách ăn nói phân biệt chủng tộc “dễ gây những hiểu nhầm”. Tiếp đó, bà lên lớp cho Patrick Huang một bài về tôn trọng quyền phụ nữ. Huang nói anh ta biết tất cả những điều đó. Devane đề nghị anh ta phải suy nghĩ về chuyện này và cảnh cáo nếu có ai khác phàn nàn về anh ta thì Huang có thể sẽ bị đình chỉ học hoặc bị đuổi khỏi trường. Không có hình thức kỷ luật nào được áp dụng. * Vụ thứ hai: Sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành tiếng Anh, Cynthia Vespucci, tham dự buổi tiệc trước Giáng sinh ở hội trường khu nội trú. Tại đây, cô gặp anh chàng sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành thương mại tên là Kenneth Storm. Nhận ra anh ta cùng học thời cấp ba nên cô đã nhảy cặp với anh ta. “Bởi vì mặc dù những người khác đều say cà phê đặc nhưng anh ta vẫn hoàn toàn là người đàng hoàng trong đêm hôm đó”. Vespucci và Storm bắt đầu hẹn hò nhau. Không có chuyện gì liên quan đến xác thịt xảy ra cho tới cuộc hẹn lần thứ tư của họ. Theo tuyên bố của Vespucci, Storm đã lái xe đưa cô ta tới một địa điểm rất xa ở Bel Air, cách trường Đại học tới 4, 5 ki-lô-mét và đòi quan hệ. Khi cô ta từ chối, Storm đã nắm lấy cánh tay cô. Cô ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của Storm, vùng vẫy thoát được khỏi tay cậu ta và đòi cầm lái. Cậu ta liền đuổi Vespucci ra khỏi xe, ném bóp của cô ta ra ngoài, giật hỏng dây đeo, rải những thứ đựng bên trong lung tung, có cả tiền lẻ của cô, rơi xuống rãnh nước. Sau đó, cậu ta lái xe đi, bỏ cô mắc kẹt ở đó. Cô đã cố tìm một nơi trú ngụ nhưng tất cả các nhà đều kín cổng cao tường, không ai chịu ra trả lời chuông cổng của cô. Cô buộc phải đi bộ về khu nữ sinh, làm hỏng mất đôi giày và “gây cho tôi sự sợ hãi không gì tả nổi”. Khi bị yêu cầu trả lời, Kenneth Storm từ chối và tuyên bố rằng “đây đúng là một trò vớ vẩn”. Bị thúc ép bởi giáo sư Devane, anh ta đành nói: “Vậy các người muốn tôi nói cái quái gì?” Đến lúc đó, cậu sinh viên Casey Locking bắt đầu tham gia cuộc đối thoại: “Này cậu, tôi là một người đàn ông nhưng tôi không hề thông cảm với những người đàn ông gây ra đau khổ cho phụ nữ. Nếu những gì cô ấy nói là đúng thì cậu cần phải được dạy một bài học và rất may cậu được dạy bài học đó khi còn trẻ. Nếu cậu không đồng tình thì hãy lên tiếng. Nhưng nếu cậu chọn con đường phó mặc, thì sau này đứng có kêu ca đấy. Storm đáp lại bằng “một loạt các từ tục tĩu”. Rồi bỗng nhiên, Cynthia Vespucci dường như có sự thay đổi về tình cảm: “Được rồi, bây giờ chúng ta sẽ không còn gì liên quan tới nhau nữa. Hãy chấm dứt mọi chuyện ở đây” (Khóc). * Giáo sư Devane: Vespucci, em cầm lấy cái khăn này đi. Vespucci: Thôi được rồi, xin hãy quên tất cả chuyện này. Devane: Em có chắc thế không, Vespucci? Vespucci: Em không biết. Giáo sư Devane: Khi em tìm tới tôi, em đang rất đau đớn. Vespucci: Em biết. (Bắt đầu khóc). Nhưng em... bây giờ em muốn dừng chuyện này lại. Được không? Xin giáo sư làm ơn? Giáo sư Devane: Tất nhiên là được. Chúng tôi làm việc này là vì lợi ích của em. Tuy nhiên em nên nhớ rằng quá trình xét xử đang được tiến hành. Storm: Tôi không thể tin được. Cô ấy đã xin chấm dứt cơ mà. Vậy thì hãy làm như thế đi. Tôi không thèm quan tâm làm khỉ gì đến các bà hay cái nơi chết tiệt này. - Locking: Anh kia, hãy bình tĩnh... Storm: Không, anh mới cần phải giữ bình tĩnh, thằng đần độn. Đây đúng là trò chết tiệt. Tôi sẽ ra khỏi đây. Locking: Tôi cảnh cáo anh, anh kia... Storm: Về cái gì, hả thằng đần? Mày nghĩ tao sẽ thèm để ý đến mày và cái trường đại học thối tha của mày chắc? Cái nơi chết tiệt này! Đ. mẹ mày! Tôi chửi cả cô nữa, cô Cindy. Làm sao cô có thể làm điều này với tôi chứ? Điều đầu tiên tôi sẽ làm sau khi ra khỏi đây là gọi điện cho mẹ cô và... Vespucci: Anh Kenny(2)! Xin đừng. Cho em xin, anh Kenny. Đừng làm thế mà. Giáo sư Steinberger: Có chuyện gì với mẹ của cô ấy, anh Storm? Storm: Hãy bảo cô ta nói cho bà biết đi. Giáo sư Steinberger: Cô Cindy? Storm: Thật là nực cười! Đây đúng là một câu chuyện cổ tích thối tha. Locking: Thưa các giáo sư, có vẻ trước khi chúng ta tiếp tục, gã này cần phải được... Giáo sư Steinberger: Còn điều gì khác giữa hai người mà em không nói cho chúng tôi biết, Cindy? Vespucci (khóc): Đó là lỗi của em. Storm: Đ, mẹ cái... Locking: Cẩn thận với cái mồm của anh đấy! Storm: Mẹ k... Giáo sư Steinberger: Này anh kia, chúng tôi sẽ nghe anh nói sau. Nhưng bây giờ hãy để cho cô ấy nói đã. Được chứ? Xin cảm ơn. Thế nào, Cindy? Vespucci: Đó là lỗi của em. Giáo sư Devane: Là gì vậy, Cindy? Vespucci: Em... đã... yêu... anh ấy say quá... có lẽ một phần là vì mẹ em. Giáo sư Devane: Anh ta đã làm gì mẹ của em? Storm: Đúng đấy, tôi là một kẻ hiếp dâm. Hãy nói cho họ biết đi, Cindy, hãy nói đi. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Có phải cô đánh mất lưỡi rồi không đấy? Cô đã đưa tôi đến đây bằng lá thư đó. Tôi nghĩ tôi sắp sửa bị đình chỉ học tập rồi. Thật là một trò chó ch... Vespucci: Dừng lại! Cho em xin mà. Storm: Vậy thì hãy nói cho họ biết đi, nếu không tôi sẽ nói đấy. Giáo sư Devane: Nói cái gì? Vespucci: Đó là việc làm ngu ngốc. Storm: Đúng là như vậy. Mẹ cô ta và bố tôi đã... họ từng hẹn hò với nhau. Cho tới khi bố tôi không còn thích bà ấy nữa vì bà ấy quá tả khuynh. Có lẽ Cindy đã đổ tội cho bố tôi về việc mẹ cô ta không giữ được một người đàn ông. Vì thế, khi cô ta thấy tôi ở buổi tiệc, cô ta đã quyết định đánh tôi để trả đũa. Vespucci: Không! Không phải vậy! Anh đến với tôi trước! Tôi nhảy với anh bởi vì anh tỏ ra là một người đàng hoàng... Storm: Một con cừu cái già! Lúc đó cô mặc mỗi cái áo nhỏ màu đen... Giáo sư Devane: Khoan đã. Lúc nãy anh nói “tả khuynh”, phải chăng anh định nói tới quan điểm chính trị? Storm: Còn gì nữa chứ? Chủ nghĩa nam nữ bình quyền cấp tiến. Mẹ cô ta là một người cực đoan chủ nghĩa. Bà ấy căm thù đàn ông và dạy Cindy kiểu căm thù đàn ông như vậy. Cô ta đã cố tình bày trò với tôi để... Vespucci: Tôi không làm thế, anh Kenny! Lúc đó anh đúng là một người đàn ông đàng hoàng, không giống... Storm: Không giống cha tôi chứ gì? Tại sao đồ mặt mẹt nhà cô không tố cáo ông ấy đi? Vespucci: Tôi không định nói thế. Tôi nói những người khác ở... Storm: Đúng. Vespucci: Anh Kenny... Storm: Chết tiệt. Giáo sư Steinberger: Này anh Kenny, bố anh có cho phép anh chửi thề kiểu đó không? Storm: Thôi, tôi xin lỗi. Đó là do tôi quá nóng. Bởi vì chuyện này hoàn toàn không công bằng. Bố tôi và mẹ cô ta có chuyện vì thế cô ta cố tình đặt điều với tôi. Chuyện này... Vespucci: Em không làm thế! Em xin thề! Storm: Được. Cô chọn tôi chỉ vì tôi có khuôn mặt đẹp trai... Giáo sư Devane: Bây giờ hãy tập trung vào vấn đề mấu chốt. Dù động cơ ban đầu buổi gặp mặt của hai người là gì, anh Storm ạ, thì anh cũng đã hẹn hò với cô Vespucci. Cô ấy khẳng định anh đã cố tình ép buộc cô ấy làm tình với anh. Storm: Đồ con... không. Không... đồ chẳng ra gì! Đúng, tôi đã mời cô ấy đi chơi. Tại sao lại không chứ? Chúng tôi đã hẹn hò với nhau vài lần rồi. Nhưng tôi đâu dám động tới cô ta nếu không được phép - đúng không, hả Cindy? Vì vậy tôi hỏi xem cô ta có muốn làm chuyện ấy không. Giờ theo các ông bà, đó có phải là một tội không? Giáo sư Devane: Việc đẩy cô ấy ra khỏi xe khi cô ấy từ chối thì đúng là một tội đấy, thưa quý anh. Storm: Đúng, nhưng tôi không hề đẩy cô ấy ra khỏi xe. Cô ta nổi đóa và tự nhảy ra khỏi xe rồi ngã xuống đất. Thực ra, tôi đã cố ngăn cô ta lại - đó chính là lần duy nhất tôi nắm cánh tay cô ta. Giáo sư Devane: Đó không phải là những gì cô ấy nói - đúng không, Vespucci? Vespucci: Xin hãy quên chuyện này đi, thưa các thầy cô! Giáo sư Devane: Này Cindy, tôi thực sự không... Vespucci: Em cầu xin các thầy cô đấy. Giáo sư Devane: Hãy nói về cái bóp vậy, Cindy. Em có khẳng định rằng nó đã bị ném ra khỏi xe không? Storm: Trời ạ, không hề. Sau khi cô ấy ra khỏi xe, tôi đã đưa nó cho cô ấy bởi vì nó là của cô ấy và... Giáo sư Devane: Vậy nên anh đã ném vào cô ấy. Storm: Không phải là vào cô ấy mà là cho cô ấy. Tôi cần cái bóp để làm gì? Có Chúa. Cô ta đã không chịu đón lấy vì thế nó mới rơi xuống đường phố. Vespucci: Nhưng lúc đó em đã bảo anh là em muốn vào, thế mà anh đã lái xe bỏ đi. Storm: Tôi không nghe thấy tiếng cô. Vespucci: Khoảng cách giữa chúng ta lúc ấy đâu có xa xôi gì! Storm: Nhìn vào mồm tôi này: Tôi không nghe thấy cô. Trước đó tôi đã mời cô đến cả chục lần mà cô vẫn từ chối vì thế tôi mới chia tay chứ. Đó là điều thật ghê tởm, Cindy ạ. Cô đã lừa tôi. Cô biết điều đó và mẹ cô cũng sẽ biết điều đó. Giáo sư Devane: Anh không được gọi điện để dọa... Storm: Bà nghĩ đây là cái gì vậy? Cái nơi chết tiệt này... Vespucci: Em rất lấy làm tiếc, cho em xin lỗi, thành thật xin lỗi, thưa giáo sư, nhưng em muốn chấm dứt chuyện này ở đây. Ngay bây giờ! Giáo sư Steinberger: Có lẽ... Giáo sư Devane: Cindy, ngay bây giờ, em đang có nhiều áp lực. Em không nên đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào lúc này. Vespucci: Em không cần biết, em muốn dừng chuyện này lại ngay! Em đi đây. (Bỏ ra ngoài). Storm (cười): Bây giờ thì sao, hả? Giáo sư Devane: Quý anh muốn giải thích thêm cho bản thân mình phải không? Storm: Không phải cho tôi, mà là cho các ông các bà đấy. Bà là mụ đàn bà chết tiệt. Và mày nữa, thằng đàn ông khốn kiếp, mày không thích thế phải không? Hãy đi ra ngoài kia mà diễn trò, nhá! Locking: Cậu không biết cậu đang nói chuyện với ai... Storm: Nào, nói ra đi, thằng con đẻ người máy này - hà, đồ khốn. Tao chửi cha mày, chửi cha cả cái trường đại học này và những bọn rác rưởi tả khuynh. Tao sẽ gọi điện cho bố tao, ông làm nghề nhà đất, biết khối luật sư. Ông ấy sẽ nấu cái mông của các người lên để làm bữa sáng (đi ra). Một ghi chú do các luật sư trường Đại học viết nói rằng Kenneth Storm, học sinh nam của trường và là hội viên thông tin của Ban giám hiệu đã tiếp xúc với một luật sư tên là Pierre Bateman. Bốn tuần sau, luật sư này viết một lá thư khiếu nại với trường Đại học yêu cầu giải tán ngay lập tức Ủy ban Hành vi, đòi Trường phải có một lá thư xin lỗi và bồi thường 100 ngàn đô-la cho Storm, Storm bỏ khỏi trường Đại học và xin chuyển tới Đại học Palms ở Redlands. Các luật sư trường Đại học cũng lưu ý rằng điểm trung bình môn kỳ 1 của cậu học sinh này là 1,7 và đang trong thời gian thử thách. Điểm kỳ 2 cũng không hơn gì kỳ 1 và sắp bị đuổi ra khỏi trường. Tuy nhiên vụ này cũng nên được giải quyết ổn thỏa và hai bên đã đi đến một thỏa thuận: Gia đình Storm đồng ý không truy cứu tiếp để đổi lại không phải trả học phí cho Kenneth ở trường Palms trong vòng 3 năm rưỡi còn lại. Ngoài ra, Ban giám hiệu cũng đề nghị giải tán Ủy ban Hành vi. Cả hai vụ đều có cảm giác không hay nhưng mức độ giận dữ ở vụ thứ hai này làm cháy bỏng cả tài liệu tôi đang đọc. Kenneth Storm nóng nảy quá sức. Cậu ta còn tính toán cả chuyện bị làm gián đoạn quá trình học tập tại trường đại học. Chuyện gì xảy ra nếu thỏa thuận giải quyết giữa nhà trường và gia đình không làm nguôi ngoai cơn thịnh nộ của cậu ta? Paz và Fellows không hề biết gì về cái Ủy ban này. Tôi nghĩ chí ít Milo cũng đã đọc lướt qua các biên bản, nhưng Phillip Seacrest vẫn là nghi can số một của anh. Đó là bởi vì số tiền mà vợ chồng họ có cũng như cách hành xử của Seacrest đã khiến Milo nghĩ vậy. Nhưng rõ ràng Storm có sự hận thù rất mãnh liệt với giáo sư Hope. Một cậu bé 19 tuổi liệu có giải quyết sự hằn thù của mình như thế không? Dù sao thì cơ quan điều tra cũng đã phát hiện các vết bánh xe ở vệ đường. Mà sinh viên vẫn thường đi tới trường bằng xe đạp. Tôi viết chữ K. Storm Jr vào cuốn sổ và chuyển sang xem xét biên bản thứ ba, ngày tháng ghi trên đó xác định đúng một tuần sau trận cãi lộn Vespucci-Storm và ba tuần trước khi luật sư của Kenneth Storm viết thư yêu cầu Ủy ban bị giải tán. Lúc này, ban xét xử chỉ còn giáo sư Hope Devane và Casey Locking. Phải chăng giáo sư Steinberger đã không còn hứng thú với những vụ thẩm tra nữa? Khi đọc, tôi mới nhận ra rằng vụ thứ ba này mới là vụ nghiêm trọng nhất. Sinh viên năm thứ hai chuyên khoa tâm lý học tên Tessa Ann Bowlby tố cáo nghiên cứu sinh chuyên khoa nghệ thuật sân khấu tên là Reed Muscadine về tội hiếp dâm khi hai người hẹn hò. Cả bị đơn và nguyên đơn đều đồng ý ở một vài điểm ban đầu: Họ đã gặp nhau tại hội sinh viên trong bữa ăn trưa và đã hẹn hò một lần duy nhất vào đêm hôm đó, đi xem bộ phim “Tốc độ” ở rạp Village. Sau đó, họ rủ nhau đi ăn tối ở nhà hàng Pinocchio, nhà hàng Italia trong làng Westwood. Ăn uống xong, hai người rủ nhau tới phòng của Muscadine nằm trong quận Mid-Wilshire để uống rượu và nghe nhạc. Hai người bắt đầu âu yếm và cởi một phần quần áo của nhau ra. Từ đoạn này trở đi thì câu chuyện của mỗi người một khác. Bowlby nói rằng cô ta không muốn đi xa hơn nhưng Muscadine đã nằm lên bụng cô và dùng vũ lực để thực hiện hành vi giao cấu. Muscadine lại nói sự giao cấu giữa hai người là có sự đồng ý. * Bowlby: (khóc, người run rẩy) Tôi... Giáo sư Devane: Có gì thế, cô bé? Bowlby: (hai tay ôm trước ngực, lắc đầu). Giáo sư Devane: Anh có gì để giải thích không, Muscadine? Muscadine: Tôi chỉ nói rằng tôi thấy kiểu làm việc ở đây giống như phong cách Kapka(3) vậy. Giáo sư Devane: Anh nói tới khía cạnh nào vậy, hả quý anh? Muscadine: Là tôi nói tới việc tự nhiên bị nghi ngờ mà không có phán xử hay cảnh cáo gì trước cả. Tessa, nếu như điều đã xảy ra làm tổn thương tới cô thì tôi thành thật xin lỗi. Nhưng cách cô giải quyết tình cảm của mình như thế này là không đúng. Có thể cô đã thay đổi trong suy nghĩ, nhưng tôi nói thật, chuyện xảy ra hôm đó là mong muốn của đôi bên - cô chưa bao giờ có ý kiến khác. Bowlby: Lúc đó tôi đã yêu cầu anh dừng lại! Muscadine: Không, cô thực sự không có nói thế, cô Tessa ạ. Bowlby: Tôi có nói, tôi có nói thế! Muscadine: Từ trước tới giờ, tôi và cô vẫn thường tranh luận tới lui về chuyện này, Tessa. Cô chỉ cảm thấy là đã phản đối, tôi biết, nhưng tôi thì không hề nghe thấy điều gì đó giống như một sự phản đối từ phía cô. Nếu như tôi mà thấy, chắc chắn tôi đã dừng lại rồi. Giáo sư Devane: Tại sao anh dám khẳng định chắc chắn là anh sẽ dừng lại? Muscadine: Bởi vì tôi không ép buộc phụ nữ đi chơi với tôi. Ngoài chuyện đáng ghét ra, điều đó còn là không cần thiết. Giáo sư Devane: Tại sao lại không cần thiết? Muscadine: Bởi vì tôi có thể chiếm được những người phụ nữ mà không cần phải ép buộc họ. Giáo sư Devane: Anh nói chiếm được phụ nữ? Muscadine: Tôi xin lỗi vì đã sử dụng ngôn từ lỗ mãng, tôi vẫn còn thấy lúng túng bởi chuyện xét xử này. Ý tôi là tôi thường tạo được quan hệ tốt với những người phụ nữ. Tôi có thể đạt được tình thân thiết mà không cần phải sử dụng tới sự cưỡng ép. Đó là lý do tại sao toàn bộ câu chuyện này là... Locking: Anh là sinh viên chuyên khoa nghệ thuật sân khấu, phải vậy không? Muscadine: Đúng thế. Locking: Chuyên về gì? Muscadine: Đóng kịch. Locking: Vì thế nên anh rất giỏi che đậy tình cảm của mình. Muscadine: Điều anh nói có ý gì vậy? Locking: Thế anh thấy nó có ý nghĩa gì? Muscadine: Anh biết đấy, tôi đến đây với quyết tâm là sẽ giữ bình tĩnh và có lý trí, nhưng sự tò mò về đời sống riêng tư của người khác ở đây khiến tôi thấy hơi khó khăn đấy. Giáo sư Devane: Đây là một vấn đề thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân. Muscadine: Tôi biết, nhưng tôi đã nói với giáo sư... Locking: Anh có gặp vấn đề gì về kiểm soát hành vi không? Muscadine: Không, chưa bao giờ cả. Nhưng tại sao? Locking: Nghe anh nói có vẻ gì bực dọc. Muscadine (cười): Không, tôi hoàn toàn bình thường - chỉ là thấy hơi khó chịu một chút. Locking: Về chuyện gì? Muscadine: Về việc xét xử này. Về việc đã tới đây. Tôi có vẻ hơi bực dọc ư? Tất nhiên là thế rồi. Anh có thể không bực dọc được trong tình huống này không? Và đó thực sự là tất cả những gì tôi phải nói. Giáo sư Devane: Về vụ quan hệ. Thế nó có đạt đến cao trào không? Muscadine: Với tôi thì có. Và tôi nghĩ rằng cô cũng được thưởng thức cảm giác cao trào ấy, cô Tessa nhỉ? Bowlby: (Khóc) Muscadine: Vậy là tôi đã lầm. Giáo sư Devane: Thế anh có đeo bao cao su không, hả quý anh? Muscadine: Đó là chuyện... đó chỉ là sự ngẫu hứng. Ham muốn mãnh liệt quá. Chúng tôi tháo nó ra... hay ít nhất tôi nghĩ là chúng tôi đã đeo. Không có kế hoạch trước, chuyện đó tự nhiên xảy ra. Giáo sư Devane: Thế anh đã đi thử nghiệm xem có bị nhiễm HIV không chưa? Muscadine: Không, nhưng tôi đảm bảo là tôi... Giáo sư Devane: Thế anh có sẵn lòng để thử không? Muscadine: Tại sao? Giáo sư Devane: Để Tessa cảm thấy yên lòng. Và ngay cả anh cũng thế. Muscadine: Ôi trời, cho tôi xin mà... Giáo sư Devane: Anh tạo được mối quan hệ tốt với phụ nữ. Anh đã chiếm đoạt nhiều, rất nhiều phụ nữ rồi. Muscadine: Đó không phải là vấn đề. Giáo sư Devane: Vậy là gì? Muscadine: Đó là việc bị chọc kim vào bên trong cơ thể. Giáo sư Devane: Hiếp dâm cũng là sự chọc vào bên trong cơ thể đấy. Muscadine: Tôi chưa bao giờ hiếp dâm ai cả. Giáo sư Devane: Thế tại sao lại sợ thử máu? Muscadine: Tôi cần phải suy nghĩ đã. Giáo sư Devane: Vậy anh có vấn đề gì nghiêm trọng sao, hả quý anh? Muscadine: Không, nhưng mà... Giáo sư Devane: Nhưng gì? Muscadine: Tôi không biết. Giáo sư Devane: Vậy tóm lại anh đã quan hệ tình dục không an toàn với một phụ nữ, người đã tuyên bố anh hiếp dâm cô ấy. Điều tối thiểu mà anh có thể làm là... Muscadine: Có lẽ là hơi... quá đáng. Bà quan hệ tình dục xong rồi lại phải chứng minh bà khỏe mạnh ư? Tôi đã ngủ với không biết bao nhiêu phụ nữ khác và chưa thấy có vấn đề gì hết. Giáo sư Devane: Vấn đề là ở đó, thưa quý anh. Chi tiết chính xác về những gì xảy ra đêm hôm đó có thể sẽ không bao giờ được chứng minh, nhưng rõ ràng hiện có Bowlby đang trải qua những đau đớn thực sự. Muscadine: Không phải là do tôi gây ra. Bowlby: Chính anh đã hiếp tôi. Muscadine: Này cô Tessa, tôi không hề làm việc đó. Tôi lấy làm tiếc. Cô đã bịa ra chuyện này... Bowlby: Câm miệng lại! (khóc). Muscadine: Này Tessa, nếu có cách nào để được làm lại chuyện đó thì tôi cũng vẫn sẽ làm. Chúng ta không cần thiết phải làm tình, chúng ta có thể chỉ... Giáo sư Devane: Thôi, hãy thôi ngay, thưa quý anh. Cảm ơn. Em ổn chứ, Tessa? Casey, hãy đưa cho cô ấy khăn lau mới... Cảm ơn. Như tôi đã nói, anh Muscadine ạ, chi tiết cụ thể chính xác có thể sẽ không được biết bởi vì không có ai làm chứng cả. Nhưng cô Bowlby hiện đang đau khổ và cô ấy cần phải chấm dứt tình trạng này. Xét đến lịch sử quan hệ tình dục của anh, cô ấy sẽ cảm thấy ổn hơn nếu anh chịu đi thử và được chứng minh là HIV âm tính. Chúng tôi trong Ủy ban này cũng muốn được biết như thế thôi. Muscadine: Có phải thật sự là thế không, cô Tessa? Bowlby: Anh nói là anh đã ngủ lang chạ ư, trời ơi. Muscadine: Ôi dào, từ Kafka tới Dracula ai chẳng thế - tôi nói là tôi đã ban phát cho nhiều người chất dịch nhầy từ cơ thể tôi. Được, chẳng có gì phải giấu cả - tôi có phải trả tiền cho chuyện đi thử không? Giáo sư Devane: Việc thử máu có thể được tiến hành ở Ban y tế sinh viên, không phải trả tiền. Tôi đã có mẫu giấy phép đây, sẽ biết tất cả các kết quả. Muscadine: Được... được, tôi chẳng có gì phải che giấu cả nhưng cô ta cũng phải đi thử cùng. Bowlby: Tôi đã đi thử rồi. Ngay sau đó. Hiện tôi được xác định là âm tính. Muscadine: Cô sẽ vẫn âm tính. Ít nhất là từ tôi - nghe này Tessa, tôi thật sự lấy làm tiếc về chuyện đã xảy ra với cô, nhưng tôi - thôi hãy quên chuyện này đi. Ngày mai tôi nhất định sẽ đi thử máu. Thế nào? Nếu như đó là tất cả những gì tôi cần phải làm. Giáo sư Devane: Anh còn cần phải nghiêm túc suy nghĩ về vấn đề hiếp dâm nữa. Muscadine: Tôi không cần phải làm thế. Giáo sư Devane: Đôi khi chúng tôi không nhận ra... Muscadine: À, tôi nói là tôi đồng ý. Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó. Bây giờ tôi có thể đi được chưa? Giáo sư Devane: Hãy ký vào biên bản này, tới Ban y tế sinh viên, và thử máu trong vòng 24 giờ. Muscadine: Được, được. Thật là một kinh nghiệm khốn nạn - ơn Chúa, tôi là một diễn viên. Giáo sư Devane: Tại sao anh lại nói lung tung thế, hả? Muscadine: Đối với một diễn viên, tất cả đều là tư liệu. Có thể một ngày nào đó tôi sẽ dùng đến tư liệu này. Giáo sư Devane: Tôi tin là anh không làm, thưa quý anh. Như tôi đã nói với anh lúc bắt đầu ấy, tất cả những gì diễn ra đây đều là bí mật. Muscadine: Ô... đúng. Cần phải như thế. Vì Chúa, cũng là vì tôi. Giáo sư Devane: Ý tôi là anh không được sử dụng tới nó. Đó là một phần trong thỏa thuận của chúng ta. Muscadine: Tôi không có ý nói sẽ sử dụng nó một cách trực tiếp. Tôi định sử dụng nó trong tiềm thức thôi. Đừng để ý đến làm gì... Tạm biệt Tessa. Hãy tránh xa nhau ra nhé. Hãy ở cách nhau một hành tinh nhá. (2) Kenneth (3) Kafkaesque: Dùng để chỉ những tình huống xã hội lố bịch, kịch cỡm gây ra lo lắng, đau khổ. 5 Tối hôm đó, khi cùng Milo đi xe tới thăm Phillip Seacrest, tôi nói: - Tôi nghi Kenneth Storm. - Tôi nghĩ anh cũng sẽ thích nhân vật này. Một tình huống tồi tệ, đúng không? - Theo anh, liệu Storm có thực sự chuyển tới trường Đại học Palms không? - Tôi không rõ, có việc gì vậy? - Chuyện gì xảy ra nếu người ta không nhận anh ta? Hoặc anh ta đã vào rồi lại bị đuổi? Trong đầu anh ta sẽ chỉ còn có những kỷ niệm đau buồn và cái Ủy ban ấy sẽ bị xem là ngọn nguồn của mọi rắc rối. Nếu thế thì hai thành viên kia của Ủy ban cũng sẽ gặp nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu trả thù tất cả thành viên thì sẽ bị phát hiện ra động cơ. Nếu tôi cần một nạn nhân để thỏa mãn thì người đó sẽ là kẻ cầm đầu. Milo gật đầu. - Mà người đó chính là Hope. Và kẻ cầm đầu thứ hai sẽ là anh chàng nghiên cứu sinh tên là Locking. Anh ta luôn luôn hùa theo bà ấy. Người thứ ba, giáo sư Steinberger, không nói gì nhiều, và bà ấy cũng không có mặt trong vụ xét xử thứ ba. - Có thể bà ấy đã bị vỡ mộng - Tôi nói - Lẽ ra Casey Locking không có quyền được ngồi cùng với bà ấy. Anh ta đang là nghiên cứu sinh ngành tâm lý và tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu Hope chính là giáo viên giám sát của anh ta hoặc có một quyền hành nào đó với anh ta. - Vụ xét xử thứ ba là vụ duy nhất có một cô gái kêu là mình bị hiếp dâm. Anh nghĩ gì về việc Hope đề nghị tay sinh viên nghề diễn viên - Muscadine ấy đi thử AIDS? - Có thể bà ấy đã tin rằng anh ta thực hiện hành vi hiếp dâm đối với cô gái thật, nhưng vì biết không có chứng cứ để đưa ra truy tố hình sự nên quyết định làm tất cả vì nạn nhân. Cô gái - Tessa - cũng đã thử máu. Vì thế, rõ ràng cô gái này đã lo lắng. - Kỳ lạ - Milo phát biểu - Đúng là một chuyện kỳ dị. Và những chuyện đó chưa bao giờ được đăng tải lên mặt báo - Anh ngừng nói trước ánh sáng màu đỏ của hoàng hôn và quan sát những xe cộ đi ngang qua. - Nhưng mà anh vẫn nghi cho Seacrest nhiều hơn là Kenneth Storm. - Tôi hoàn toàn không thành kiến gì, nhưng đúng là thế. Nửa triệu đô-la đáng xem là một động cơ. Và Seacrest lại có sự tinh vi và cơ hội để dựng lên vụ này - hãy nghĩ về con chó bị đầu độc mà xem. Tất nhiên, trong số ba sinh viên, Storm là kẻ đáng nghi nhất, nhưng anh ta mới có 19 tuổi và căn cứ vào thành tích học tập của anh ta thì anh ta đâu phải là thiên tài. Liệu cách bày trí vết đâm như thế có vẻ nào là của một cậu nhóc tóc ngắn, miệng còn hơi sữa không? Nếu như anh ta làm thật thì có lẽ số vết đâm phải đến 50 mới phải hoặc chí ít cũng là đập nát óc bà ta. Ngoài ra, Storm đã tìm được các kênh để trút cơn uất hận rồi, đã trả được mối thù thông qua luật sư của bố nó rồi. - Vậy tôi mới hỏi liệu anh ta có còn ở trường không. Có thể các kênh ấy chưa làm nguôi ngoai anh ta. Và đừng bỏ qua những vết bánh xe. - Một thằng nhóc phóng xe tập thể dục. * Ánh chiều thay đổi, Milo rẽ sang hướng Đông. Anh lái chầm chậm cho tới khi đường ít xe cộ hơn rồi quặt nhanh sang hướng Nam của đại lộ. Chúng tôi đã đến gần con đường xảy ra vụ án. Theo các quy định của Los Angeles thì giáo sư Hope từng là hàng xóm của chúng tôi. Robin có lẽ cũng đã nghĩ đến điều này. Chúng tôi cho xe lướt qua khu vực lạnh lẽo tối đen của đồi Holmby, qua những bức tường cao và những cây cổ thụ; những bảng hiệu nhỏ không hiếu khách nhắc nhở chúng tôi rằng đoạn đường này thường có cảnh sát giao thông có trang bị vũ khí đi tuần tra. Milo lái qua bến xe trên đại lộ và tiếp tục đi về phía Nam. Ruộng đất đã nhường chỗ cho nhà cửa khi chúng tôi tiến vào Westwood. - Tôi sẽ tiến hành điều tra kỹ về Storm - Milo nói - Tất cả ba người. Chắc sẽ làm cho nhiều người ăn mừng đây. * Chúng tôi đậu xe một lát dưới gốc cây đu lớn, nói chuyện về vụ giết người và vài vấn đề khác trước khi im lặng. Không có chuyển động nào phía sau những tấm rèm cửa sổ có ánh sáng màu vàng. Không một dấu hiệu của sự sống. - Sẵn sàng gặp ông ta chưa? - Rất hồi hộp. - Đúng, ông ta là gã khiến người khác phải hồi hộp. Khi chúng tôi vừa định mở cửa bước ra thì đèn trước của một chiếc xe rọi thẳng vào chúng tôi. Chiếc xe dừng lại ngay trước nhà của Devane/Searest, quay đầu vào đường ô tô, và đậu phía sau là chiếc Volvo. Một chiếc xe Mustang màu đỏ. - Kìa, ông ta đấy - Tôi nói - Ông ta có ra ngoài. Đã đi được một vòng trong con xe thể thao. - Đó là chiếc xe thể thao của bà ấy - Milo chăm chú quan sát, miệng ngậm chặt, mắt điều chỉnh. Đèn trước của chiếc xe phụt tắt. Một người đàn ông bước ra khỏi xe, đi bộ tới trước cửa nhà. - Đó không phải là Seacrest, Seacrest cao lớn hơn cơ. Người đàn ông nhấn chuông cửa. Trời tối nên rất khó nhận dạng một cách chi tiết nhưng người này thấp - có lẽ khoảng 1 mét 65 - mặc áo khoác dài, hai tay đút túi, lưng quay lại phía chúng tôi. Một bóng đèn điện trong nhà bật sáng ở phòng tầng một. Cánh cửa hé mở. Người đàn ông lách vào bên trong. - Một người bạn? - Tôi nói - Một người mà Seacrest cho mượn xe. - Nhân tiện ông ta đang có bạn, ta vào tham dự luôn thôi. * Nhấn chuông được một lúc lâu cửa mới mở. Cuối cùng, phía sau cánh cửa cũng có tiếng nói: - Có việc gì thế? - Tôi là thanh tra Sturgis đây, thưa giáo sư. Cánh cửa lại hé mở. Phillip Seacrest thực sự cao lớn hơn người đàn ông mặc áo choàng khi nãy. Gần cao bằng Milo nhưng có lẽ nhẹ hơn khoảng 20 cân, vai hẹp và trễ, khuôn mặt vuông đã trở nên nhếch nhác do bộ râu không được cạo. Mũi ông thấp và to, có lẽ đã một lần bị vỡ. Mái tóc hoa râm không được chải chuốt đã mọc trùm cả lên tai nhưng đỉnh đầu thì chỉ có vài sợi. Ông mặc chiếc áo sơ-mi ô vuông xám - xanh, cái quần vải chéo màu xám một thời rất đắt tiền, nhưng giờ đã bóng lên ở đầu gối chắc do xê dịch nhiều quá trong phòng ngủ. Tay áo sơ-mi đã được cuốn lên tận khuỷu tay, để lộ ra đôi cánh tay mềm nhão không có lông. Trên cẳng tay trái Seacrest là hình xăm cái mỏ neo nhỏ, màu xanh nhạt, được xăm một cách thô sơ, có lẽ đó là kỷ niệm thời phục vụ hải quân. Tôi biết ông ta mới 55 nhưng nhìn bề ngoài có vẻ già trước tuổi. Có thể đó là do nỗi đau mất vợ gây nên. Hoặc cũng không ngoại trừ đó là vấn đề thuộc về gien. Biết đâu đấy, cái vẻ già ấy lại chẳng phải do hàng ngày cứ làm mãi một công việc mà chẳng bao giờ có sự đổi mới gây ra. - Chào ông thanh tra. Ông vịn tay vào cái trụ cửa. Tiếng nói nhỏ, chỉ to hơn tiếng thì thào. Nếu ông sử dụng giọng nói ấy mà giảng bài thì những hàng ghế cuối lớp chẳng thể nghe được gì. Phía sau lưng ông, tôi có thể nhìn thấy những đồ đạc cũ kỹ xếp lộn xộn, giấy dán tường hoa văn, một chiếc đồng hồ to đặt ở vòm của gầm cầu thang. Trên trần là chiếc đèn chùm nhỏ màu đồng. Tôi ngửi thấy mùi thức ăn được nấu bằng lò vi sóng nhưng chưa chín. Một chiếc gương lồi lớn trông như con mắt của một vị thần khổng lồ được đặt ở góc trong của lối đi. Không nhìn thấy người lái chiếc xe Mustang vừa nãy đâu. - Chào giáo sư - Milo lên tiếng. Mắt Seacrest to, đen, hai lòng đen còn đen hơn những con mắt của bà vợ đã khuất, và ướt như mắt trẻ con. - Tôi có thể giúp gì được ông, ông Sturgis? - Chúng tôi đã chen ngang vào chuyện gì của ông sao, thưa ông? Nói đến từ “chúng tôi” làm ông ta để ý tới tôi, nhưng không lâu. - Không có gì. - Vậy chúng tôi vào được chứ? Seacrest lưỡng lự trong một thoáng: - Được. Ông ta nói to hơn - để cảnh báo cho người đàn ông kia chăng? Ông ta vẫn đứng ở giữa cửa, rồi bước sang một bên. Hai bên không đánh mắt nhìn nhau. Tôi đã nhận thấy sự lảng tránh mà Milo vẫn nghi ngại. Rồi đột nhiên Seacrest đánh mắt nhìn chúng tôi. Nhưng ánh mắt ấy không chứa đựng một chút cảm tình nào. Thỉnh thoảng cảnh sát và gia đình nạn nhân gắn bó với nhau, nhưng với ông Seacrest thì không hề có. Ngược lại chúng tôi chỉ cảm thấy được sự lạnh nhạt. Có thể đó là bởi vì ông ấy không thích đột nhiên cảnh sát tạt vào nhà mình. Hoặc bởi vì ngay từ đầu ông bị đối xử như một kẻ tình nghi. Biết đâu, ông ta đáng bị đối xử như vậy. Ông vẫn đứng ở phòng ngoài, lưỡi liếm môi, tay trái sờ cổ và ngoái đầu lại nhìn qua vai vào cầu thang. Chắc người đàn ông lùn hơn đang ở trên đó? Milo bước tới gần hơn còn Seacrest thì lùi lại một bước. Ông ta đã lại gần cái kính lòi và trở thành một đốm lớn trong gương. Seacrest nhắc lại: - Tôi có thể giúp gì cho ông? - Tôi chỉ đến để kiểm tra lại thôi – Milo nói. - Không có tiến triển gì à? - Tôi e rằng không thưa ông. Seacrest gật đầu, như thể sắp đón nhận tin tức gì không hay. Tôi đã ở bên trong căn nhà. Căn nhà như được bài trí như một sảnh đường trung tâm thành phố. Tiền sảnh nhỏ, được trải lớp thảm trông giống đá hoa cương trắng, cầu thang có trải thảm xanh nhạt. Phía bên phải là phòng khách, bên trái là phòng ăn. Những đồ đạc bên trong còn cũ hơn nhưng không đủ cũ để được xem là đồ cổ. Ngôi nhà là do ông được thừa hưởng từ cha mẹ. Có lẽ những thứ đồ trong nhà có từ thời ông còn nhỏ. Những chiếc thảm khác nhau bị ném lung tung cạnh chân tường. Đằng sau cầu thang là một căn phòng nhỏ có tường pa nô gỗ thông xếp đầy sách. Có cả sách ở trên sàn nhà và chiếc giường xếp vải bạt hoa. Chiếc đồng hồ đứng khổng lồ không được đặt giờ, cái quả lắc nằm bất động. Tiếng chân thình thịch vọng xuống từ tầng hai. - Đó là một trong những sinh viên của Hope - Seacrest giải thích, tay gãi cằm - Cậu ta đến để lấy một số tài liệu nghiên cứu mà Hope để lại. Cuối cùng tôi cũng đã dám đụng đến và gói ghém những món đồ của bà ấy sau khi cảnh sát lục tung hết cả lên. Hai vị thanh tra đầu tiên đến đây đã ném mọi thứ lung tung khắp nơi - đợi một chút đã. Ông ta trèo lên nửa cầu thang: - Đã xong chưa? - Ông gọi - Cảnh sát đang ở đây đấy. Giọng người ở tầng trên nói điều gì đó, Seacrest từ từ quay trở xuống, giống như một cô dâu bị ép gả chồng. - Tài liệu nghiên cứu - Milo nói - là của người sinh viên này à? - Họ làm việc cùng nhau. Đó là quy tắc ở bậc tiến sỹ. Tôi nói: - Bà ấy có nhiều sinh viên không? - Tôi cho là không có nhiều. - Bởi vì cuốn sách à? - Milo hỏi. - Ông nói gì cơ? - Những yêu cầu về thời gian ấy. - Thưa vâng, tôi cho là như vậy. Nhưng cũng bởi vì Hope là người đặc biệt - Seacrest liếc nhìn về phía cầu thang - Còn bề bộn lắm - phương pháp tiếp cận của Hope với mọi thứ là... bà ấy không quá... ép buộc. Điều đó không có nghĩa đầu óc của bà ấy thiếu tính tổ chức. Thật sự thì bà ấy có đầu óc tổ chức rất cao. Cao đến mức tuyệt vời. Đó là một trong nhiều tài năng của bà ấy. Có lẽ đó là nguyên nhân. - Nguyên nhân gì vậy, thưa giáo sư? Seacrest chỉ tay lên gác như thể chỉ vào cái bảng trên giảng đường. - Tôi đã luôn tự hỏi liệu có phải nguyên nhân khiến Hope có thể làm việc được trong sự lộn xộn chính là vì bên trong con người bà ấy rất ngăn nắp - một sự khái quát hóa tuyệt vời - nên bà ấy không cần có sự trật tự ở bên ngoài. Ngay cả khi còn là sinh viên, Hope vẫn thường vừa học vừa nghe radio, xem ti vi. Tôi thấy không thể tin nổi. Riêng tôi thì cần phải có sự yên tĩnh tuyệt đối mới có thể làm việc được. Ông ta sụt sịt: - Bà ấy tài giỏi hơn tôi nhiều lắm. Mắt ông đã đẫm lệ. - Vậy tối nay ông không được yên tĩnh nhiều rồi - Milo nói. Seacrest cố nở nụ cười. Miệng ông không dịch chuyển nhiều khiến nụ cười thành ra nửa như cười, nửa như khóc. - Vì vậy, tôi chẳng có được ý tưởng gì mới - Ông lại nói - Ước gì tôi có một vài ý tưởng nào đó mới của riêng tôi. Nhưng sự điên rồ vẫn là sự điên rồ. Vô vị quá. - Tôi đang xuống đây - Giọng nói từ trên cầu thang vọng xuống. Người đàn ông thấp hơn đi xuống, hai tay bê một thùng các-tông lớn. Anh ta khoảng chừng 25 tuổi, tóc dài, đen và xuôn thẳng được vuốt ngược ra phía sau làm lộ khuôn mặt góc cạnh như của James Dean(4). Anh ta có đôi môi đen và đầy đặn, má hóp, da mịn, và đôi lông mày đen, rậm. Chiếc áo choàng dài của anh ta bằng da đã bị sờn và phía dưới đường viền là gấu áo lơ vê vải bông chéo màu xanh rộng 2 cen-ti-mét. Anh ta đi đôi giày đen đế cao và có khóa crôm. Người thanh niên đưa mắt nhìn chúng tôi. Những chiếc lông mi dài, cong nằm gọn ghẽ bên trên đôi mắt màu thẫm. Tầng trên là phòng ngủ. Tôi nghĩ đến những lời nói to như để báo động của Seacrest và tự hỏi liệu anh ta còn đến đây để tìm kiếm cái gì đó khác ngoài dữ liệu phục vụ nghiên cứu không. Lái xe của Hope... đặc ân đối với một sinh viên. Nhưng đối với một người bạn mới thì... Tôi liếc nhìn Milo. Anh vẫn không hề có phản ứng gì. Anh thanh niên đã xuống đến chân cầu thang, ôm cái thùng bằng hai tay ở phía trước như đang cung tiến lễ vật. Những dòng chữ viết nắn nót bằng bút màu đen trên cạnh thùng: “Tự nghiên cứu, khóa 4, sơ khảo”. Anh ta đặt cái thùng xuống nền nhà. Những miếng nắp thùng mở một nửa để lộ ra những tài liệu được in ra từ máy tính. Anh ta có đôi tay dài và mảnh khảnh. Ngón tay trỏ của bàn tay phải có đeo một chiếc nhẫn đầu lâu lớn bằng bạc. Đôi mắt của cái đầu lâu được làm bằng thủy tinh đỏ. Đó là thứ mà bạn có thể mua được từ cửa hàng bán đồ linh tinh tại đại lộ Hollywood. - Xin chào, tôi là Casey Locking - Giọng anh ta sâu và trong trẻo, thoải mái giống như người giới thiệu các ca khúc trên radio vào ban đêm. Milo tự giới thiệu. Locking nói: - Tôi đã nói chuyện với hai vị thanh tra bữa nọ ngay sau khi chuyện xảy ra. Hàm Milo co rúm lại. Không hề thấy ghi gì về cuộc phỏng vấn này trang tập hồ sơ do Paz và Fellows bàn giao lại. - Các ông đã tìm ra được gì chưa? - Locking hỏi. - Vẫn chưa. - Bà ấy là một giáo viên giỏi và là một con người tuyệt diệu. Seacrest thở dài. - Xin lỗi giáo sư - Locking nói. - Nghe tên anh quen quen - Milo lên tiếng. - Tôi nhớ rồi. Anh chính là một thành viên của Ủy ban Hành vi, phải vậy không? Đôi lông mày đen của Locking trở thành hai bộ thanh chắn nhỏ bé: - Đúng, đúng vậy. Saerest đột nhiên quay sang nghe cuộc nói chuyện với sự hào hứng. Locking lấy tay vân vê cái ve áo da để lộ chiếc áo thun ngắn bên trong. - Có phải các ông nghĩ rằng Ủy ban có liên quan tới... những gì đã xảy ra chăng? - Vậy anh cho rằng không có khả năng đó sao? Locking vê vê các ngón tay: - Thề có Chúa, tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. - Tại sao lại không? - Nó không có vẻ. Tôi đoán rằng tất cả những kẻ ấy đều là bọn hèn hạ. - Tôi cũng cho rằng giáo sư Devane đã bị giết theo một kiểu hèn hạ. Tôi cố gắng kín đáo theo dõi các biểu hiện của Seacrest. Ông đang nhìn xuống sàn nhà, cả tay và chân thả lỏng. - Tôi cũng nghĩ thế - Locking nói - Ông là thanh tra, nhưng... ông có biết rằng Hiệu trưởng đã ra một sắc lệnh hay không? Tất cả mọi thứ liên quan đến Ủy ban đều được giữ bí mật. Vì vậy, tôi không thể nói gì thêm về nó. - Mọi thứ đã thay đổi - Milo nói. - Đúng, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng đó thực sự là tất cả những gì tôi có thể nói - Locking ôm cái thùng lên - Chúc các ông may mắn. Milo lại gần anh ta. Độ cao và bề rộng của anh thường làm cho người ta phải lùi lại, nhưng Locking thì không. - Vậy anh cùng tham gia nghiên cứu với giáo sư Devane phải không? - Bà là người hướng dẫn luận văn cho tôi. Chúng tôi cũng cùng làm một số công việc. - Thế anh đã tìm được giáo viên hướng dẫn khác chưa? - Chưa. - Bà ấy giám sát bao nhiêu sinh viên khác? - Chỉ có tôi và một người nữa. - Người kia tên là gì? - Mary Ann Gonsalvez. Cô ta đã đến Anh sống được 1 năm nay rồi. Quay sang Seacrest, Locking nói tiếp: - Thưa giáo sư, chiếc xe chạy tốt lắm. Tôi đã thay dầu và bơm thêm hơi. Chìa khóa tôi bỏ trên gác. - Cảm ơn cậu, Casey. Locking bước ra cửa, buông một tay ra để mở trong khi ép chiếc thùng vào ngực. - Cái nhẫn đẹp đấy - Milo nói. Locking dừng lại, buông một tiếng cười chậm phát ra từ bụng: - Loè loẹt quá phải không? Có người tặng tôi đấy. Tôi nghĩ mình nên bỏ nó đi. (4) Diễn viên điện ảnh Mỹ. 6 Milo đóng cửa sau khi Locking đã ra ngoài. - Anh ta tốt bụng nhỉ, đã sửa cái xe cho ông à? - Một sự trao đổi thôi - Seacrest nói - Tôi tìm kiếm dữ liệu cho anh ta, còn anh ta thì chăm sóc cái xe cho tôi. Còn điều gì nữa chăng, ông Sturgis? - Không, tôi đến để xem ông đã nghĩ thêm được điều gì chưa thôi. Và nhân tiện tôi muốn giới thiệu với ông bác sỹ Delaware. Anh ấy là chuyên gia tâm lý tư vấn của chúng tôi. Đôi mắt ôn hòa liếc nhìn tôi: - Ồ, thế ư? - Xét tới nền tảng của vợ ông, chúng tôi nghĩ rằng bác sỹ Delaware có thể sẽ giúp đỡ được chúng tôi trong công tác điều tra. - Vâng, tôi nghĩ đó là một ý kiến hay. - Nhân tiện tôi xin hỏi, con chó hiện giờ ở đâu? - Ông nói cái gì cơ? - Con Rottweiler nhà ông ấy. - Con Hilde chứ. Tôi đã bán nó đi rồi. Nó là con chó của Hope. - Ông không phải là người yêu quý chó hay sao? Seacrest không ngừng nhìn tôi, đoạn nói: - Sự thật là, tôi đã mệt mỏi. Dường như không thể tìm lại được sức lực của mình. Tôi không thể quan tâm tới Hilde như là nó đáng được hưởng. Và tôi không cần có một thứ gì đó làm nhớ lại những gì đã qua. - Ông đã bán nó cho ai? - Một tổ chức có tên “Cứu lấy Rottweiler”. - Con Hilde trước kia như thế nào? - Là một con chó đẹp, có hơi ầm ĩ một chút. - Nó có thể dùng để phòng thân được không? - Dường như là được, mặc dù đó không phải là lý do Hope mua nó về. Bà ấy muốn có bạn. Lúc mà bà ấy đi dạo ấy. Seacrest lau mắt. - Thế có bao giờ hai ông bà cùng đi dạo không? - Milo hỏi. - Không, tôi không phải là người thích luyện tập thể dục. Hope thích các hoạt động thân thể và Hilde là một con chó tích cực. Nó luôn để mắt tới Hope. Đó là lý do tại sao... thật trớ trêu. Hilde lại không có mặt vào lúc xảy ra chuyện - Ông lấy tay gãi chòm râu. Đôi mắt lại mở to, rất sáng như thể được phản chiếu từ kim loại nóng trắng. - Sau khi Hope mất, con chó rất đau khổ - Ông nói tiếp - Tôi bị suy sụp, không sẵn sàng chăm nom cho nó. - Ai trông nom Hilde khi giáo sư Devane đi thuyết giảng về cuốn sách? - Tôi, chính tôi, nhưng Hope không bao giờ rời đi đâu lâu. Bà ấy thường đi hai hoặc ba ngày gì đó, rồi lại về vài ngày sau mới đi tiếp. - Con Hilde có lịch sử các vấn đề về dạ dày không? - Không - Mắt Seacrest rời khỏi mắt tôi một cách miễn cưỡng - Hai vị thanh tra đầu tiên đến đây đều hỏi không biết con chó có bị đầu độc bởi kẻ giết người không. Giá như tôi nghĩ tới điều này thì đã cho nó đi kiểm tra rồi. Tất nhiên làm như thế cũng chẳng ích gì, tôi nghĩ thế. - Tại sao không? - Nếu có xác định được rằng con chó đã bị người ta cho ăn cái gì đó thì chúng ta cũng không biết ai cho nó ăn. Seacrest lại nhìn tôi. - Một nhà tâm lý học cảnh sát, đó là công việc mà Hope sẽ không bao giờ chịu làm. - Tại sao không? - Milo vặn. - Bà ấy không tin vào cơ quan quyền lực. Tôi đến từ một thế hệ khác. - Bà ấy không thích cảnh sát ư? - Milo dấn tới. - Bà ấy cảm thấy rằng tất cả các tổ chức chính phủ vốn đã thiếu hiệu quả. - Và ông phản đối. - Tôi có một... sự tôn trọng nhất định với các cơ quan thực thi pháp luật - Ông nói - Có lẽ bởi vì tôi là một nhà sử học. - Ông đã bao giờ nghiên cứu về lịch sử tội phạm chưa? - Thực tế là không. Mối quan tâm chính của tôi là thời kỳ trung cổ, nhưng tôi cũng quan tâm tới lịch sử thời kỳ Elizabeth và trong đầu tôi luôn có một câu chuyện về thời ấy. Trong thời kỳ Elizabeth, tử hình được thực hiện đối với rất nhiều loại tội. Kể cả tội móc túi cũng bị treo cổ. Rồi những người tốt bụng và hòa nhã hơn đã thắng thế, cái thòng lọng bị phá bỏ đối với những tội ít nghiêm trọng hơn. Anh có đoán được điều gì đã xảy ra không? - Chắc là tội phạm lại càng nhiều hơn - Milo đáp. - Anh được điểm A, thanh tra ạ. - Ông có ủng hộ án tử hình không, thưa giáo sư? Seacrest lại đưa tay lên gãi chòm râu: - Thực ra tôi không hiểu mình ủng hộ cái gì nữa. Mất đi người vợ đã làm lay chuyển hết những định kiến của tôi - anh sẽ làm gì để giúp tìm ra kẻ giết hại Hope, hả bác sỹ Delaware? - Tiến hành phân tích hồ sơ - Tôi trả lời - Có lẽ tôi sẽ nói chuyện với một số đồng nghiệp của vợ ông. Tôi nên nói chuyện với ai đầu tiên nhỉ? Ông lắc đầu: - Cuộc sống nghề nghiệp của chúng tôi tách biệt nhau. - Ông không biết người nào có liên hệ với bà ấy ư? - Không, về mặt nghề nghiệp thì không. - Còn về bạn bè thì sao? - Chúng tôi thực sự không có bạn bè. Tôi biết điều này rất khó tin, nhưng chúng tôi sống cách li với mọi người. Làm việc, viết lách. Hilde là thứ duy nhất đánh cắp chút riêng tư của chúng tôi. - Chắc chắn sau khi cuốn sách ra đời, cuộc sống biệt lập của ông bà có phần khó khăn hơn, phải vậy không? - Với Hope thì như vậy. Bà ấy tránh không để tôi bị công chúng soi mói. Cuộc sống biệt lập có gì liên quan? - Thưa giáo sư - Milo nói - Ông có nghe cái tên Robert Barone quen tai không? Một cái lắc đầu chậm chạp. - Thế còn Milan Cruvic? - Không. Họ là ai vậy? - Những người mà vợ ông đã làm việc cùng. - Đấy, anh thấy rồi đấy. Tôi không hề biết. - Vậy là hoàn toàn tách biệt ư? - Milo hỏi. - Với chúng tôi thì như thế - Seacrest quay sang tôi - Khi nào anh nói chuyện với các đồng nghiệp của Hope, tôi sẵn sàng đánh cược trước về những gì họ sẽ nói với anh. - Họ sẽ nói gì, thưa giáo sư? - Rằng bà ấy thông tuệ nhưng là người sống thui thủi một mình. Một bác học, học giả bậc nhất - Đôi bàn tay ông nắm lại - Thưa các quý ông, cho tôi xin lỗi vì đã mạo muội nói ra điều này, nhưng tôi không tin biện pháp tiếp cận vấn đề như thế sẽ có tác dụng. - Ông nói biện pháp tiếp cận nào thế, thưa ông? - Milo vặn lại. - Là đi nghiên cứu sự nghiệp giảng dạy của Hope. Đó không phải là cái đã giết bà ấy. Vấn đề nằm ở cuốn sách. Bà ấy đã có dũng khí để viết ra những điều gây tranh cãi và sự tranh cãi ấy đã thôi thúc con quỷ tâm thần nào đó. Chúa ơi... Một tay xoa trán, ông nhìn chằm chằm xuống sàn nhà: - Hãy đưa tôi đến một nơi ẩn dật yên tĩnh vào bất kỳ ngày nào đó, thưa ông thanh tra. Hãy cho tôi trốn khỏi thực tại này. Milo hỏi liệu chúng tôi có thể lên phòng làm việc của Hope để xem xét không. - Các ông cứ thoải mái. Các ông có phiền gì không nếu tôi ở dưới này uống chút trà? - Xin ông cứ tự nhiên. - Trên gác, phòng đầu tiên bên trái. Cứ thoải mái tìm kiếm bất kỳ đâu các ông muốn. Trên tầng hai của căn nhà là ba phòng ngủ nhỏ và một phòng tắm ngay cạnh cầu thang giữa. Căn phòng ở bên trái xếp đầy những cái hòm hiện đại rẻ tiền của Thụy Điển được nhét từ đỉnh tới đáy toàn sách báo, những cái giá sách võng xuống vì sức nặng. Tấm mành được dùng để chắn ở hai cửa sổ. Những đồ đạc để lung tung chứ không được sắp đặt gọn ghẽ: Hai cái ghế ghép đôi cộc lệch, bàn làm việc, và bàn đặt máy tính, máy in, mô-đem, các cuốn cẩm nang sử dụng phần mềm. Một cuốn Hướng dẫn Phong cách của Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, từ điển và cuốn từ đồng nghĩa. Đặt cạnh chiếc máy tính là vài bản cóp-py một bài viết mà Hope là tác giả đăng trên tờ Nhân cách và tâm lý học xã hội vào năm ngoái. Đồng tác giả là Casey Locking. Bài báo mang tựa đề: Tự kiềm chế là một chức năng phân biệt giới tính. Tôi đọc qua phần trích. Sử dụng một kỹ thuật hành vi đã xác định được rằng không có sự khác nhau nhiều giữa đàn ông và đàn bà về khả năng kiểm soát thói quen cắn móng tay. Không có mối quan hệ nào giữa sự thành công và quan điểm của những chủ thể về hành vi và sự công bằng giới tính. Trong cuốn Những con chó sói và bầy cừu, Hope tuyên bố rằng phụ nữ giỏi hơn đàn ông trong việc bỏ các thói quen xấu bởi vì estrogen có vai trò “kìm nén sự thôi thúc”. Một trường hợp ngoại lệ duy nhất: ăn quá nhiều có tính chất không kiểm soát nổi, bởi vì áp lực xã hội đã tạo ra sự xung đột về hình ảnh cơ thể ở phụ nữ. Bài báo thì nói ngược lại. Tôi lật tới phần “tranh thảo” ở phía sau. Hope và Locking thoái thác kết quả của mình bằng cách nói rằng những thí dụ của họ là quá nhỏ. Trong khi Milo mở các ngăn kéo tủ và đọc các gáy sách thì tôi đi xem xét phần còn lại của căn phòng. Sách báo để lung tung chiếm hết một nửa không gian sàn nhà. Chiếc khăn len màu đỏ bị vứt bừa lên cái thùng. Giống như cái thùng các-tông mà Locking đã đem đi, cái này cũng có những dòng chữ màu đen viết ngay ngắn ở cạnh. Năm thùng các-tông được niêm phong do nhà xuất bản gửi đến có đóng dấu ghi: Những con chó sói và bầy cừu, các bản in được đẩy vào một góc nhà. Những ram giấy in vẫn chưa được bóc ra. Thùng các-tông có ghi chữ tiếp tục chứa các bài báo đã xuất bản của Hope, trong đó có hai bài đồng tác giả với Locking. Không hề thấy nhắc tới tên của sinh viên còn lại, Mary Ann Gonsalvez trong danh sách tác giả. Anh ta là trò cưng của giáo sư chăng? Xét theo những biên bản của Ủy ban Hành vi thì Locking đúng là người thân cận với giáo sư. Còn gì hơn thế nữa không? Anh ta trẻ tuổi, thông minh và điển trai, nếu sử dụng để làm hình quảng cáo đồ lót thì rất hợp. Một thanh niên trẻ và một phụ nữ già. Trước tiên, tôi có nhiều ngờ vực về Locking và Seacrest còn giờ tôi lại suy đoán về một chuyện nam nữ. Ta đang nghĩ đến điều tội lỗi, phải không Delaware? - Nhưng cách bố trí những vết đâm có hàm ý điều gì tội lỗi - một ý tưởng về cách trừng trị tội lỗi. Một nhát đâm vào tim, một nhát vào háng và một nhát đâm sau lưng. Sức nóng của sự đam mê được tăng cường bởi kế hoạch lạnh lùng. Seacrest có vẻ chính là loại người lạnh lùng ấy. Ông ta đã từng đổ máu bao giờ chưa? Milo tìm kiếm thêm một lúc nữa rồi hỏi: - Có tìm được gì không? Tôi nói cho anh nghe sự khác biệt giữa bài báo và cuốn sách của bà giáo sư. - Đúng thế, bà ta đã làm chuyện bịp bợm thiên hạ. Anh ngó đầu qua cánh cửa phòng làm việc của bà, qua đầu cầu thang và đi ra. Tôi theo anh tới phòng làm việc của Seacrest. Cũng toàn là sách và được sắp xếp một cách thiếu mỹ học, nhưng gọn ghẽ. Cạnh đó là phòng ngủ của Seacrest. Bởi vì bây giờ tất cả là của riêng ông nên vị giáo sư sử học đã giữ cho không gian ngủ của mình ngăn nắp. Cái khăn hoa trải giường màu đồng được gấp gọn ghẽ trông giống một bức vẽ đặt trên cái gối. Chúng tôi xuống tầng một. Không thấy Seacrest đâu cả. Milo gọi: - Giáo sư? Và thấy Seacrest từ bếp đi vào phòng ăn, tay cầm chiếc cốc lớn. Cái nhãn và dây gắn của gói trà chanh treo lủng lẳng bên thành cốc. Thành cốc có in dòng chữ đề tặng của trường Đại học. - Các anh còn muốn xem xét thứ gì nữa không? - Những hồ sơ hành nghề của tiến sỹ/bác sỹ Devane hiện ở đâu - hồ sơ bệnh nhân, đại loại những thứ như thế ấy? - Nếu cái gì đó không ở nhà này thì chắc chắn ở văn phòng của bà ấy trong trường Đại học. - Tôi đã tìm trong đống tư liệu của bà ấy nhưng không thấy các hồ sơ bệnh nhân. - Vậy tôi không còn biết nói gì với các ông nữa. - Bà ấy có văn phòng riêng không? - Không. - Bà ấy có thăm bệnh cho bệnh nhân tại đây không? - Không. - Bà ấy có bao giờ thăm bệnh cho bệnh nhân không? - Hope không bao giờ bàn về công việc với tôi. - Tôi không hỏi về việc làm cụ thể của bà ấy, thưa giáo sư Seacrest. Tôi chỉ muốn hỏi liệu bà ấy có khám bệnh cho bệnh nhân nào không? - Nếu bà ấy có làm đi nữa thì bà ấy cũng không bao giờ nói ra. Chúng tôi không nói đến chuyện công việc của nhau. Chỉ... nói những vấn đề khoa học thôi.