🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bà Mụ - Chris Bohjalian full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin sách
Tên sách: BÀ MỤ
Nguyên tác: Midwives
Tác giả: Chris Bohjalian
Người dịch: Thi Trúc
Nhà phát hành: Phương Nam
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
Khối lượng: 600g
Kích thước: 11.5x17.5 cm
Ngày phát hành: 04/2011
Số trang: 552
Giá bìa: 120.000đ
Thể loại: Tiểu thuyết Đương đại
Thông tin ebook
Nguồn: http://tve-4u.org
Thực hiện ebook: thanhbt
Ngày hoàn thành: 01/02/2017
Dự án ebook #278 thuộc Tủ sách BOOKBT
Giới thiệu
Vào một đêm mùa đông tại vùng Vermont (Mỹ) bà mụ Sibyl vốn dày dặn kinh nghiệm đã thực hiện ca mổ lấy thai trên cơ thể người mẹ mà bà nghĩ đã chết sau cơn đột quỵ. Nhưng... nếu thai phụ chưa thực sự chết? Phải chăng Sibyl đã vô tình giết chết cô ấy?
Trong tiểu thuyết Bà mụ, tác giả Chris Bohjalian đã tường thuật lại những sự kiện dẫn đến phiên tòa xét xử Sibyl Danforth, một bà mụ lành nghề ở thị trấn nhỏ Reddington, từng đỡ đẻ cho hơn 500 đứa trẻ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đó không đơn thuần là phiên tòa về tội bất cẩn gây chết người của Sibyl, mà còn là cuộc đối đầu giữa giới bác sĩ và bà mụ, những người luôn bị xem là cái gai trong mắt của chính quyền và cộng đồng y tế.
Sững sờ và ám ảnh, Bà mụ - một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất mà bạn nên đọc.
Tác giả
Nhà văn, nhà báo Chris Bohjalian, sinh ngày 12/8/1960, tốt nghiệp đại học Amherst và sống một thời gian ở New York, sau đó chuyển về một thị trấn nhỏ ở Vermont và sống ở đó đến nay.
Ông là tác giả của khá nhiều tiểu thuyết khá đặc sắc. Tác phẩm của Bohjalian thường tập trung vào một số vấn đề như: tình trạng vô gia cư, luật bảo vệ động vật hay vấn đề sinh thái. Ông có thói quen đặt những nhân vật bình thường của mình vào những hoàn cảnh khó khăn bất thường để làm nổi bật một khía cạnh nào đó trong con người họ. Ông chia sẻ rằng chính Vermont yên tĩnh đã tạo nguồn cảm hứng cho ông.
Tác phẩm của Chris Bohjalian đã được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ và xuất bản ở hai mươi mốt quốc gia. Có hai tiểu thuyết đã được dựng thành phim là Bà mụ và Băng qua khán đài.
Năm 2002, ông đoạt giải thưởng sách New England cho thể loại hư cấu.
Ngoài sáng tác tiểu thuyết, ông còn viết bài cho nhiều tạp chí, trong đó có Cosmopolitan, Reader’s Digest, và Boston Globe Sunday Magazine, là người phụ trách chuyên mục xã luận Chủ nhật cho báo Burlington Free Press từ năm 1992 đến nay. Hiện ông sống với vợ và con gái ở Vermont.
Các tác phẩm
AKilling in the Real World (1988)
Hangman (1991)
Past the Bleachers (1992)
Water Witches (1995)
Midwives (1997) dịch sang tiếng Việt với tựa đề Bà mụ, do NXB Thời đại và Phương Nam book ấn hành (2011)
The Law of Similars (1999)
Trans-Sister Radio (2000)
The Buffalo Soldier (2002)
Idyll Banter: Weekly Excursions to a Very Small Town (2003)
Before you know kindness (2004)
The double bind (2007)
Skeletons at the Feast (2008)
Secrets of Eden (2010)
The night strangers (2011)
The scandcastle girls (2012)
The light in the ruins (2013)
Lời khen tặng dành cho tiểu thuyết Bà mụ của Chris Bohjalian
Giải Quyển sách hay nhất của Publishers Weekly[1]
“Một Bản đồ thế giới thứ hai... xúc động... đau đớn.”
Glamour
“Sự kết hợp giữa cường độ kể chuyện, nhân vật và bối cảnh thuyết phục, giọng văn xuôi tinh tế và chủ đề quan trọng đủ hiếm thấy để được trân quý.”
Portland Oregonian
“Quyển sách phải đọc của mùa này.”
Woman’s Own
“Thông minh và phóng khoáng... Bà mụ còn hơn cả một quyển sách hay để đọc.” Burlington Free Press
“Quyến rũ... Bohjalian chuyển tải sự nhạy cảm đáng kinh ngạc vào tác phẩm mô tả nữ giới của ông.” San Antonio Express-News
“Một quyển sách hay mê hoặc... Bohjalian... là bậc thầy trong tác phẩm của ông.” Concord Sunday Monitor (New Hampshire)
“Lôi cuốn, sâu lắng... Độc giả sẽ bị mê hoặc trước sức hút không thể cưỡng lại của câu chuyện.” Publishers Weekly
“Một tiểu thuyết hấp dẫn, phức tạp.”
Kirkus Reviews
Vì Chúa chẳng hề bỏ cho đến đời đời:
Dù Ngài đã làm cho lo buồn,
còn sẽ thương xót
theo sự dư dật của lòng nhân từ Ngài.
Vì đó chẳng phải là bổn tâm Ngài,
làm cho con cái loài người cực khổ và buồn rầu.
CA THƯƠNG 3:31-33
Mỗi người chúng ta chịu trách nhiệm về thảm họa
mà chúng ta lẽ ra ngăn ngừa được
JAMES MARTINEAU
Tặng Victoria
người phụ nữ đã mang nặng đẻ đau
để làm đẹp cả cuộc đời tôi
Và tặng tôi con gái nhỏ
Grace
Tưởng nhớ đến mẹ tôi,
Annalee Nelson Bohjalian
(1930-1995)
Lời nói đầu
Vào một đêm mùa đông bão bùng năm 1981, một ca đẻ tại nhà ở bang Vermont, miền bắc nước Mỹ, đã biến thành bi kịch. Đường dây điện thoại bị đứt, đường sá bị phong tỏa vì băng đá. Không thể đưa bệnh nhân đến bệnh viện, bà mụ Sibyl Danforth đã nỗ lực hết sức để cứu cả bà mẹ lẫn thai nhi trong lúc người học việc thiếu kinh nghiệm của bà và người chồng hoảng sợ của thai phụ chỉ biết bất lực đứng nhìn. Thai phụ đã chết nhưng đứa bé được sống nhờ quyết định vào phút chót của Sibyl: mổ lấy thai. Nhưng cơn ác mộng chỉ mới bắt đầu: người học việc một mực cho rằng thai phụ chưa chết lúc Sibyl tiến hành mổ đẻ.
Trong tiểu thuyết Bà mụ, tác giả Chris Bohjalian đã tường thuật lại những sự kiện dẫn đến phiên tòa xét xử Sibyl Danforth, một bà mụ lành nghề ở thị trấn nhỏ Reddington, từng đỡ đẻ cho hơn 500 đứa trẻ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đó không đơn thuần là phiên tòa về tội bất cẩn gây chết người của Sibyl, mà còn là cuộc đối đầu giữa giới bác sĩ và bà mụ, những người luôn bị xem là cái gai trong mắt chính quyền và cộng đồng y tế.
Bà mụ được kể lại qua cách nhìn của Connie, cô con gái mười bốn tuổi của Sibyl. Khi câu chuyện về điều gì đã xảy ra trong đêm mùa đông định mệnh ấy dần mở ra cũng là lúc người đọc bước vào một thế giới lạ lùng của nghề bà mụ. Ở đó có những người phụ nữ không xem việc đỡ đẻ là một “nghề nghiệp” mà là một “duyên phận” chỉ dành riêng cho một số người, và họ thực hiện nó như một nghi thức tôn giáo thiêng liêng. Những người như Sibyl Danforth luôn tin rằng “phụ nữ đẻ con hiệu quả nhất trong môi trường mà họ thông thuộc nhất và điều đó khiến họ cảm thấy thoải mái nhất; tương tự, việc chào đón một đứa trẻ đến với thế giới này trong một căn phòng ấm áp, và đỡ lấy đứa bé với đôi tay trìu mến, là điều rất quan trọng”. Ở đó có những ca đẻ tại nhà với sự cộng hưởng cảm xúc của tất cả những người có mặt khiến ta chỉ muốn “đóng chai những rung cảm trong căn phòng đó và để dành một ít cho những ca đẻ cô đơn hơn”.
Bà mụ cũng có thể được xem là “duyên phận” của tác giả Chris Bohjalian khi ý tưởng viết quyển sách đến với ông như một sự sắp đặt. Chris kể rằng khoảng sáu tháng sau khi cô con gái của ông chào đời, vợ chồng ông đến dự một buổi tiệc tối tại Vermont nơi họ sinh sống, và ngồi cạnh ông là một bà mụ hành nghề độc lập ở địa phương. Nghe tin vợ chồng ông phải lặn lội lái xe hơn 50 cây số giữa đêm mới đến được bệnh viện gần nhất để sinh con, bà đã mỉm cười nói: “Nếu anh chị dùng đến tôi, thì anh chị đã có thể đẻ con trong phòng ngủ của mình và anh đã có thể đích thân đỡ lấy cháu bé rồi.”
Nhà văn kể lại: “Tôi chưa bao giờ nghe người ta nói động từ “đỡ” trong bối cảnh sinh đẻ, thế là tôi lập tức cảm thấy thích thú. Ngày hôm sau, chúng tôi ăn trưa với nhau, và bà chia sẻ với tôi những quyển sách về nghề bà mụ như Trái tim và đôi tay và Nghề bà mụ thiêng liêng. Rồi bà giới thiệu tôi với những ông bố bà mẹ từng đẻ con tại nhà. Tôi đã gặp gỡ những bà mụ và bác sĩ sản phụ khoa khác, và tôi phát hiện ra rằng một câu chuyện tuyệt vời đang chờ được viết ra.”
Bà mụ (xuất bản năm 1997) là tiểu thuyết thứ năm của Chris Bohjalian. Là tác giả, Chris nhớ ơn người phụ nữ đã gợi ra cho ông một đề tài sáng tác tuyệt vời. Là bạn đọc, tôi cám ơn cuộc gặp gỡ định mệnh đó, vì nó là duyên lành cho sự ra đời của một tác phẩm hé mở về thế giới ít được biết đến của những bà mụ, của một nghề đang dần mai một. Đọc Bà mụ, thấy đồng cảm với niềm tin bất biến của những người làm nghề đỡ đẻ vào sự thiêng liêng không thể thay thế của sinh đẻ tại nhà. Thấy thương hơn những vất vả “mang nặng đẻ đau” của người làm mẹ, dù ở đâu và bên cạnh ai. Rồi bất chợt nhận ra, hình như có một lúc nào đó giữa những trang sách, ta đang nghĩ về giờ phút chào đời của chính ta và thấy yêu mẹ của ta nhiều hơn một chút.
Đó là khi ta chạm đến sự đồng điệu với tác giả, như ông đã tâm sự: “Bà mụ đề cập đến nhiều câu chuyện, nhưng trên hết, tôi xem quyển tiểu thuyết này như một câu chuyện về tình mẫu tử thiêng liêng.”
Thi Trúc
Sài Gòn, tháng 11 năm 2010
Về tác giả
Chris Bohjalian đã cho ra đời mười ba tác phẩm, mới nhất là Bí mật vườn địa đàng (Secrets of Eden) xuất bản tháng 2/2010. Tiểu thuyết Bà mụ từng chiếm vị trí số 1 trong danh sách bán chạy của New York Times, đoạt giải “Quyển sách hay nhất” của Publishers Weekly và được tuyển chọn trong Câu lạc bộ sách của Oprah.
Tác phẩm của Chris Bohjalian đã được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ và xuất bản ở hai mươi mốt quốc gia. Đến nay, đã có hai tiểu thuyết của ông được dựng thành phim, gồm Bà mụ và Băng qua khán đài. Năm 2002, ông đoạt giải thưởng sách New England (New England Book Award) ở thể loại hư cấu.
Ngoài sáng tác tiểu thuyết, ông còn viết bài cho nhiều tạp chí, trong đó có Cosmopolitan, Reader’s Digest, và Boston Globe Sunday Magazine, và là người phụ trách chuyên mục xã luận Chủ nhật cho báo Burlington Free Press từ năm 1992 đến nay. Hiện ông sống ở Vermont với vợ và con gái.
Tiểu thuyết
The double bind (Nghịch lý)
Before you know kindness (Trước khi bạn biết lòng tử tế)
The buffalo soldier (Chiến binh trâu)
Trans-sister radio (Đài phát thanh chị em)
The law of similars (Lấy độc trị độc)
Midwives (Bà mụ)
Water witches (Phù thủy nước)
Past the bleachers (Băng qua khán đài)
Hangman (Người treo cổ)
Akilling in the real world (Một vụ giết người trong thế giới thật)
Tuyển tập tản văn
Idyll Banter: Weekly excursions to a very small town (Idyll Banter: Những cuộc dạo chơi hàng tuần đến một thành phố nhỏ)
Dẫn nhập
TRONG SUỐT MÙA HÈ DÀI trước khi phiên tòa của mẹ tôi bắt đầu, và trong những ngày thu hanh khô sau đó, khi cuộc đời bà bị phê đấu trước cả hạt - thanh danh bà bị bêu xấu, kiến thức bà bị công kích - tôi đã nghe lỏm được nhiều hơn bố mẹ tôi tưởng, và tôi đã hiểu được nhiều hơn những điều họ muốn.
Thông qua tấm van nhiệt trên sàn phòng ngủ, tôi có thể nghe được những cuộc bàn luận của bố mẹ với luật sư trong phòng làm việc vào lúc tối muộn, sau khi người lớn nghĩ rằng tôi đã ngủ được nhiều giờ rồi. Nếu ba người tình cờ ở trong dãy phòng cạnh nhà bếp mà mẹ dùng làm phòng làm việc và phòng khám bệnh, có thể để tìm kiếm một tài liệu cũ trong hồ sơ của bà hoặc bệnh án sản khoa của bệnh nhân, thì tôi thường nằm trên sàn nhà tắm phía trên họ và lắng nghe giọng nói hai người đi lên phía tôi thông qua những lỗ khoan để lắp ống nước. Và dù tôi chưa bao giờ quá đáng đến nỗi nhấc điện thoại trên lầu lên khi nghe mẹ nói chuyện qua điện thoại phụ ở nhà bếp, tôi vẫn thường rón rén bước xuống cầu thang cho đến khi nghe được từng lời bà nói. Tôi hẳn đã nghe được hàng chục cuộc điện đàm theo kiểu này - đứng im bất động trên bậc thang cuối cùng, khuất khỏi tầm nhìn từ nhà bếp vì dây điện thoại chỉ dài một mét tám - và đến khi phiên tòa bắt đầu, tôi tin mình có thể dựng lại hầu như chính xác những gì luật sư, bạn bè, hoặc bà mụ nói ở đầu dây bên kia.
Tôi vốn đã thích quan sát nhất cử nhất động của bố mẹ, nhưng trong những tháng phiên tòa diễn ra, tôi càng trở nên đặc biệt sít sao. Tôi để ý những cuộc cãi vã của họ, và nhận thấy áp lực đã khiến cho các cuộc tranh cãi nhanh chóng trở nên căng thẳng; tôi nghe họ xin lỗi, một người thường nức nở, và rồi tôi sẽ đợi nghe những âm thanh nghèn nghẹt hơn (nhưng vẫn giải mã được) khi họ leo lên giường và yêu nhau. Tôi nắm được đại ý những cuộc bàn bạc của họ với các bác sĩ và luật sư, tôi hiểu tại sao một số nhân chứng lại đáng ghét hơn những người khác, tôi bắt đầu ghét những người mà tôi chưa từng gặp và chả biết mặt mũi ra sao. Chuyên gia pháp y của bang. Luật sư của bang. Một bà mụ có vẻ chuyên nghiệp đến từ Washington, D.C.
Vào buổi sáng thẩm phán ra chỉ thị cho bồi thẩm đoàn và yêu cầu họ hội ý để quyết định số phận mẹ tôi, tôi đã nghe luật sư của mẹ giải thích với bố mẹ điều mà ông cho là chuyện khó lý giải trong kiện tụng: Bạn có thể biết bồi thẩm đoàn đã quyết định gì vào thời điểm họ quay lại phòng xử sau khi nghị án, bằng cách họ nhìn bị cáo. Hoặc không nhìn anh ta. Nhưng đừng tin điều đó, ông ta bảo bố mẹ tôi. Đó chỉ là chuyện đồn thổi.
Tuy mùa thu năm ấy tôi đã mười bốn tuổi, nhưng với tôi, đó không đơn thuần là chuyện đồn thổi. Nó có độ tin cậy như tôi đã từng nghe trong chuyện kể của nhiều bà vợ - và bà mụ, một lẽ hiển nhiên được xác tín chắc chắn qua nhiều thế kỉ quan sát. Trẻ con chào đời khi trăng tròn. Nếu khoai tây luộc bị khét, trời sẽ mưa trước buổi tối. Một con sâu bướm lông rậm là dấu hiệu của mùa đông lạnh giá. Đừng bao giờ nấu đường cho đến khi sông ngòi chảy trở lại.
Luật sư của mẹ có thể không tin vào chuyện đồn thổi mà ông kể với bố mẹ tôi, nhưng tôi thì chắc chắn là tin. Tôi thấy nó có lý. Tôi đã nghe ngóng được nhiều điều trong sáu tháng qua. Tôi biết rõ chuyện đồn thổi nào nên tin, còn chuyện nào nên bỏ qua.
Và vì thế khi bồi thẩm đoàn bước vào phòng xử án, một tu đoàn tông đồ gồm mười hai người, tôi đã quan sát ánh mắt họ. Tôi quan sát xem họ sẽ nhìn mẹ tôi hay nhìn đi nơi khác. Ngồi cạnh bố ở hàng ghế thứ nhất, ngay sau lưng mẹ và luật sư của bà như tôi đã ngồi mỗi ngày trong suốt hai tuần, tôi bắt đầu thầm cầu nguyện: Xin đừng nhìn xuống giày của các ông bà, xin đừng nhìn thẩm phán. Đừng nhìn xuống hoặc lên hoặc ra ngoài cửa sổ. Làm ơn, làm ơn, hãy nhìn tôi, hãy nhìn mẹ tôi. Hãy nhìn chúng tôi, nhìn đây, nhìn đây, nhìn đây.
Tôi quan sát các bồi thẩm viên trong nhiều ngày liền, tôi thấy họ quan sát tôi. Tôi đếm râu, tôi để ý từng nếp nhăn, tôi dán mắt một cách vô cớ và bất lịch sự vào dáng ngồi của người sau này trở thành chủ tịch bồi thẩm đoàn, khoanh tay trước ngực, giấu bàn tay đã bị biến dạng nhiều năm trước vì một chiếc cưa máy. Ông ta có một ngón tay cái, nhưng không có những ngón còn lại.
Họ bước vào từ căn phòng liền kề với mười hai chiếc ghế của họ và tìm chỗ ngồi. Vài người phụ nữ bắt chéo chân, một người đàn ông dụi mắt và ngả ghế ra sau một lúc. Một vài người nhìn về bức tường cuối phòng xử án, một vài người nhìn về phía biển hiệu thoát hiểm nằm trên cửa chính tựa như nhận ra rằng bi kịch của họ sắp kết thúc và sự giải thoát đang nằm trong tay.
Có một người, một bà đứng tuổi tóc bạc với một tủ quần áo đầy những chiếc váy hoa đỏ cực đẹp, người mà tôi tin chắc là mang họ Lipponcott đến từ Craftsbury, đã nhìn về phía sau nơi có chiếc bàn của luật sư bang và trợ lý của ông ta.
Và đó là khi tôi suy sụp. Tôi cố không làm thế, nhưng tôi có thể cảm thấy mắt mình ngấn nước, tôi có thể cảm thấy vai mình bắt đầu run lên. Tôi chớp mắt, nhưng mi mắt của một đứa con gái mười bốn tuổi không thể diễn tả nỗi đau đớn mà tôi đang chất chứa trong lòng. Tiếng khóc của tôi lúc đầu còn lặng lẽ, âm thanh của một lời thì thầm ai oán, nhưng nó nhanh chóng biến thành cuồng nộ. Người ta nói tôi đã rú lên.
Và dù tôi chẳng lấy gì làm tự hào về bất cứ cơn kích động nào mà tôi đã bộc phát ngày hôm đó trong phòng xử án, tôi cũng không xấu hổ vì nó. Nếu có ai phải cảm thấy hổ thẹn vì bất cứ chuyện gì đã xảy ra vào khoảnh khắc ấy trong một căn phòng xử án nhỏ bé ở Đông Bắc Vermont, thì theo tôi, đó chính là bồi thẩm đoàn: Giữa những tiếng nức nở và gào thét của tôi, người ta nói rằng tôi đã lớn tiếng van nài, “Hãy nhìn chúng tôi! Ôi Chúa ơi, xin làm ơn, làm ơn nhìn chúng tôi đây này!”. Vậy mà vẫn không có một thành viên bồi thẩm đoàn nào buồn liếc mắt về phía mẹ tôi hoặc tôi lấy một cái.
Phần một
1
TỪ KHI CÒN BÉ, tôi đã dùng từ âm hộ như cách một số đứa trẻ khác nói cái mông, dương vật hoặc nôn mửa. Đó không hẳn là một lời chửi tục, nhưng tôi biết nó khiến người lớn giật bắn mình. Âm hộ là một trong những từ mà ở mọi gia đình, trừ gia đình chúng tôi, biểu lộ đồng thời cảm xúc và quan điểm rằng đó là một bộ phận đơn giản trong môn giải phẫu người cơ bản để chỉ một giới tính hoặc một hành động - như nôn mửa - vốn là một chức năng khá căn bản của cơ thể con người.
Tôi nhớ mình chơi ở nhà Rollie McKenna vào một buổi chiều nọ, trong lúc mẹ nó tiếp một người bạn đến từ Montpelier. Đó là một trong những ngày hè hiếm hoi mà bầu trời ở Vermont xanh đến nỗi trông như màu xanh dạ quang - kiểu màu xanh chúng tôi thường thấy vào tháng giêng trong những ngày nhiệt độ không leo nổi lên trên âm mười bảy độ C và khói từ lò sưởi nhà hàng xóm trông như muốn đóng băng khi vừa hiện ra trên chóp ống khói, nhưng hiếm khi vào tháng sáu hoặc tháng bảy.
Cũng như bà McKenna, bạn của bà làm việc tại cơ quan giáo dục của tiểu bang. Khi hai người lớn đang ngồi quanh chiếc bàn sắt trên sân thượng lót gạch của nhà McKenna (một cái sân thượng trông có vẻ lịch sự thái quá với tôi ngay cả vào lúc ấy), nhấm nháp trà đá với lá bạc hà hái từ vườn của mẹ tôi, tôi bắt đầu kể cho họ nghe về ca đẻ của Cynthia Charbonneau với toàn bộ chi tiết mà tôi nhớ được.
“Em bé của cô Charbonneau nặng bốn kí mốt, nhưng mẹ cháu vẫn mát xa được âm đạo và kéo giãn cơ vì thế đáy chậu không bị rách. Đa số phụ nữ có con nặng bốn kí lô đều phải bị rạch âm hộ - tức là cắt đáy chậu từ âm hộ đến hậu môn - nhưng cô Charbonneau thì không. Âm đạo của cô ấy vẫn bình thường. Và nhau ra ngay sau Norman - đó là tên người ta đặt cho đứa bé - đâu chừng hai phút. Mẹ cháu bảo nhau cũng to lắm, được chôn ở ngay cái cây phong mà chú Charbonneau trồng trước sân nhà họ. Bố cháu bảo ông mong rằng con chó của họ sẽ không đào nó lên, nhưng biết đâu được. Ý cháu là con chó ý.”
Lúc đó có lẽ tôi đã chín tuổi, nghĩa là gia đình McKenna đã sống ở Vermont được hơn một năm, vì họ mới dọn đến thị trấn của chúng tôi từ một vùng ngoại ô Westchester của thành phố New York vào sinh nhật lần thứ tám của tôi - chính xác là vào đúng ngày sinh nhật tôi. Khi chiếc xe tải chuyển nhà bắt đầu xình xịch leo lên quả đồi nhỏ ở trước nhà, tôi nói với bố hi vọng nó sẽ rẽ trái vào đường chạy xe đến nhà chúng tôi và thả quà của tôi xuống.
Bố mỉm cười lắc đầu, bảo như thế chẳng khác nào mong cho mặt trăng rơi từ trên trời xuống nóc nhà chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ đến Weschester, nhưng tôi có ngay cảm giác rằng gia đình McKenna đến từ một thị trấn cầu kỳ hơn Reddington: Cái sân thượng là dấu hiệu rõ ràng nhất, nhưng họ cũng kiểu cách hơn nhiều so với những người từng sống ở Vermont chúng tôi - đặc biệt là bạn bè của bố mẹ tôi từ thời họ tụ tập đàn đúm với những người làm ở Hãng tin Liberation[2] và xem chuỗi hạt tình yêu[3]là một tuyên ngôn chính trị sâu sắc. Tôi thích nhà McKenna, nhưng từ giây phút Rollie giới thiệu tôi với mẹ nó, tôi đã bán tín bán nghi rằng gia đình này sẽ không trụ được lâu tại khu của chúng tôi ở bang Vermont. Họ có thể sống được ở Burlington, thành phố lớn nhất bang, chứ không phải ở một ngôi làng nhỏ như Reddington.
Tôi đã nhầm. Nhà McKenna sống khỏe ở đây, nhất là Rollie. Và dù thật ra có những ông bố bà mẹ trong thị trấn không cho con gái nhỏ của họ chơi ở nhà tôi - một số người đơn giản chỉ vì lo sợ con gái của họ sẽ chứng kiến một ca sinh đẻ nếu mẹ tôi không tìm được người trông trẻ, những người khác tin rằng giữa mớ thảo dược và cồn thuốc kì lạ mà mẹ tôi dùng làm dụng cụ can thiệp y tế là cần sa, bồ đà, và nấm gây ảo giác - gia đình McKenna dường như chẳng bận tâm chuyện mẹ tôi làm bà mụ.
Kể với bà McKenna và bạn của bà ấy về chuyến đi của Norman Charbonneau xuyên qua đường âm đạo của mẹ nó là một việc tự nhiên đối với tôi lúc chín tuổi cũng giống như kể với bố mẹ tôi về một bài kiểm tra mà tôi đã làm tốt ở trường, hoặc như tôi thích thú ra sao vào một ngày bất kì trong tháng mười hai khi
chơi trượt dốc xuống quả đồi phía sau nhà Sadie Demerest.
Đến khi tôi mười bốn tuổi và mẹ tôi bị xét xử, tôi đã bắt đầu chán ngấy cảnh những người lớn thảng thốt trước sự hiểu biết y khoa của tôi về việc sinh đẻ tự nhiên hoặc những câu chuyện đáng kinh ngạc của tôi về các ca sinh tại nhà. Nhưng tôi cũng hiểu rằng những từ như âm hộ phát ra từ một đứa con gái mười bốn tuổi nghe sẽ kém dễ thương hơn từ một đứa bé hơn.
Hơn nữa, đến khi tôi mười bốn tuổi và cơ thể tôi đã tiến rất xa trong quá trình chuyển biến từ trẻ con sang vị thành niên - tôi đã bắt đầu mặc áo lá vào mùa hè giữa lớp năm và lớp sáu và bắt đầu có kinh gần một năm trước khi tòa án hạt trở thành ngôi nhà thứ hai của tôi - toàn bộ ý tưởng về bất cứ thứ gì nặng bốn kí mốt rặn tìm lối ra qua khe hở bé một cách lố bịch giữa hai đùi tôi khiến tôi muốn nôn mửa.
“Con thật chả hiểu làm sao một thứ to như thế lại có thể chui lọt qua một thứ bé như vậy!” tôi thường nói, và sau đó bố tôi thỉnh thoảng lại lắc đầu bình phẩm, “Thiết kế dở quá, nhỉ?”
Nếu mẹ tôi có mặt, bà sẽ luôn phản bác lại ông: “Làm gì có!” bà thường nói. “Đó là một thiết kế tuyệt diệu và đẹp đẽ. Nó thật hoàn hảo.”
Vì mẹ tôi là một bà mụ, nên tôi nghĩ bà có chiều hướng suy nghĩ theo lối này. Tôi thì không. Hơn nữa, tôi nay đã ba mươi tuổi, và vẫn chưa thể hình dung nổi làm thế nào mà một vật to như đứa bé lại có thể một ngày nào đó trườn hoặc ngọ nguậy hoặc va đập qua thứ mà với tôi vẫn là một đường hầm cực kì mỏng manh.
...
Dù mẹ không bao giờ đưa ai trong số bạn bè tôi đến xem đỡ đẻ, nhưng khi tôi sắp lên tám, tôi bắt đầu theo bà đến những ca đẻ nếu có một đứa trẻ quyết định chào đời vào ngày hoặc đêm mà bố tôi không có ở nhà còn những người trông trẻ của mẹ lại bận đột xuất. Tôi không biết trước đó bà đã làm cách nào, nhưng bà luôn tìm được người khi cần, bởi vì ca đỡ đẻ đầu tiên mà tôi nhớ - lần đầu tiên tôi nghe mẹ lẩm bẩm, “Con bé nhú ra rồi,” câu nói khiến cho tôi đến hôm nay vẫn hình dung một em bé chui ra từ khe sinh với một chiếc mũ chóp dự tiệc trên đầu - xảy ra vào một đêm có sấm rền vang và tôi đang học lớp hai. Lúc đó là gần cuối năm học, có lẽ sắp vào hè, ở tuần thứ nhất hoặc thứ hai của tháng sáu.
Mẹ tôi tin rằng trẻ con thường chào đời khi trời kéo mây đen hơn là khi trời quang mây tạnh, vì áp suất khí quyển thấp hơn. Và thế là khi mây bắt đầu kéo đến vào buổi tối hôm đó trong lúc hai chúng tôi đang ăn tối ngoài hiên nhà, mẹ nói rằng khi ăn xong có lẽ bà phải xem ai rỗi để trông trẻ tối nay, nếu chuyện đó xảy ra. Bố tôi đang ở bên phía New York của hồ Champlain tối hôm đó, vì hôm sau cánh thợ xây sẽ khởi công một khu nhà toán và khoa học mới mà bố góp phần thiết kế cho một trường cao đẳng ở đó. Đấy không phải là dự án của riêng ông - lúc này vẫn còn là ba năm trước khi ông mở công ty riêng - nhưng bố tôi có thể nhận vinh dự đã giải quyết được những chi tiết liên quan đến việc xây công trình đó lên sườn đồi và đảm bảo nó trông không giống nơi làm việc của Bộ Tư lệnh không quân chiến lược Bắc Mỹ.
Đứa bé đầu tiên chào đời tại nhà mà tôi được chứng kiến là Emily Joy Pine. E.J., như sau này con bé được gọi, là một ca đẻ dễ, nhưng trông không dễ chút nào với tôi khi còn một tháng là đến sinh nhật lần thứ tám. Tôi đã ngủ chẳng hay biết gì khi David Pine gọi điện đến nhà chúng tôi vào khoảng mười giờ tối, có lẽ vì mẹ tôi vẫn còn thức và nhấc điện thoại lên ngay. Và thế là với tôi, sự chào đời của Emily bắt đầu bằng đôi môi mẹ hôn lên trán tôi, sau đó là hình ảnh tấm rèm cửa sổ cạnh giường tôi dồn về phía hai chúng tôi trong cơn gió nhẹ. Không khí rất ẩm, nhưng trời vẫn chưa mưa.
Khi chúng tôi đến, Lori Pine đang ngồi ở một bên giường với một chiếc chăn bông nhẹ quấn quanh vai, nhưng hầu hết những vật dụng trên giường khác - chăn, tấm trải giường và drap giường - đã được tháo ra và chất thành một đống nhỏ trên sàn nhà. Có vài chiếc gối phồng ở đầu giường, trông như được lấy từ một chiếc ghế sofa cũ. Trên nệm phủ một tấm drap giường với hoa văn trông có lẽ phù hợp hơn với một tấm rèm phòng tắm vừa to vừa xấu: những đóa hướng dương mờ mờ ảo ảo với cánh hoa hình giọt nước, và những mặt trời tỏa sáng nóng bức.
Tôi nghe lỏm rằng tấm drap đó đã được cho vào một chiếc túi giấy màu nâu và nướng hơn một giờ đồng hồ trong lò nướng của nhà họ. Nó có thể nhạt thếch, nhưng nó vô trùng.
Khi mẹ con tôi đến, cô gái lúc bấy giờ còn học việc của mẹ tôi đã có mặt. Khoảng hai mươi tư, hai mươi lăm tuổi vào lúc đó, Heather Reed đã giúp mẹ tôi đỡ đẻ gần bốn mươi đứa trẻ tại gia; khi chúng tôi bước vào phòng ngủ, cô đang bình tĩnh bảo Lori tưởng tượng cảnh đứa con của mình trong dạ con vào lúc đó.
Mẹ tôi không thể làm được gì nếu không vệ sinh thật sạch, và sau khi chào hỏi, bà đi thẳng vào phòng tắm nhà Pine để rửa ráy. Bà thường dành hẳn mười phút để chà hai bàn tay và rửa xà phòng hai cánh tay trước khi nhẹ nhàng đặt lòng bàn tay mình lên bụng một thai phụ, hoặc đeo một đôi găng tay cao su mỏng và dùng ngón tay thăm khám cổ tử cung của một bà bầu đang chuyển dạ.
Khi đi từ phòng tắm ra, mẹ bảo Lori nằm xuống để xem tình hình thế nào. Hai đứa con trai nhỏ của Lori và David đã được đưa đến nhà dượng của chúng ở đầu phố, trong khi dì của chúng - chị gái của Lori - thì ở đây, xoa vai cho Lori qua lớp chăn. David vừa từ nhà bếp trở ra, sau khi chuẩn bị trà từ blue cohosh, một loại thảo dược mà mẹ tôi tin rằng giúp kích thích sinh đẻ.
Lori nằm ngửa xuống giường, khi đó tấm chăn rơi ra và tôi nhìn thấy cô khỏa thân phía dưới chăn. Tôi đã nghĩ rằng cô sẽ không mặc pajama và quần dài đi ngủ như tôi, nhưng khi đứng trong căn phòng ấy, tôi không hề nghĩ rằng cô sẽ không mặc áo ngủ như mẹ tôi, hoặc có thể là một chiếc áo thun rộng như kiểu mà mẹ và tôi thường mặc để đi ngủ vào những đêm mùa hè oi bức.
Không, Lori Pine thì không. Trần như nhộng. Và to đồ sộ.
Trong mắt tôi, Lori Pine luôn là một người phụ nữ to lớn. Cô cao hơn tôi rất nhiều so với đa số các bà mẹ khác mỗi khi chúng tôi đứng cạnh nhau tại quầy tính tiền của Cửa hàng Bách hóa Reddington, hoặc trong một tiền sảnh đông người trước hoặc sau lễ nhà thờ. Các con của cô bé hơn tôi, một đứa kém hai tuổi và một đứa kém bốn tuổi, vì thế tôi không có liên hệ gì với cô ở trường. Nhưng tôi nhận thấy dường như cô thường đứng cạnh tôi, và lúc đó tôi đã lo sợ rằng nếu tôi cần vượt qua cô trong trường hợp khẩn cấp, thì cô sẽ đứng nút hết khung cửa, một cái nút bằng người khổng lồ, ngoại cỡ, mông to.
Giờ đây tôi tưởng tượng rằng trong một tình huống khẩn cấp thật sự, Lori Pine thật ra sẽ dùng kích cỡ của mình để xua tôi cho nhanh ra khỏi nguy hiểm, ném tôi qua lối thoát hoặc khung cửa một cách dễ dàng như tôi ném mấy con mèo của mình ra khỏi nhà vào buổi sáng.
Nhưng điều khiến tôi choáng nhất khi nhìn thấy Lori Pine khỏa thân trên giường đơn giản chính là cái bụng bầu của cô. Đó là thứ tôi nhìn thấy, đó là điều tôi nhớ: một quả lê bằng thịt khổng lồ nằm trên đùi và nhô cao lên đến tận hai đầu gối gập lại của cô, với một núm nhỏ ở giữa khiến tôi nhớ đến những nút nhú lên từ ức con gà mái hoặc gà tây đã nấu chín. Khi ấy tôi chưa biết rằng bụng bầu khá cứng, vì thế tôi cứ chờ cho nó phẳng ra và chảy sang hai bên người cô như một khối mayonnaise khi cô nằm xuống; khi nó không phẳng ra, khi nó trồi lên trên giường như một quả núi, tôi đã nhìn chăm chú với ánh mắt hiếu kì đến nỗi Lori phải xoay mặt về phía tôi và nói hổn hển từ mà tôi khi đó tin là “Bao cao su.”
Tôi chưa bao giờ hiểu nổi liệu đối với tôi từ đó có nghĩa là một lời khuyên mà tôi nên ghi lòng tạc dạ, kiểu như “Hãy yêu cầu người đàn ông của cháu luôn đeo bao cao su để cháu không phải rơi vào cảnh cố rặn một quả dưa muối qua một chiếc ống hút,” hay như một lời cảnh báo về kiểu ngừa thai đó: “Đây hoàn toàn là lỗi của một chiếc bao cao su. Có những cách ngừa thai tốt hơn, và nếu tôi có lấy một chút lý trí thì tôi đã dùng một trong những cách ấy rồi.”
Dù Lori Pine có thực sự nói bao cao su hay điều gì khác, hay chỉ đơn giản là tên của tôi khi cô trông thấy tôi đứng đó - tên tôi là Constance[4], nhưng từ bé tôi đã thích cái tên Connie hơn - tôi sẽ không bao giờ biết được. Tôi muốn tin rằng cô đã nói bao cao su; quá nhiều điều tôi tin tưởng khác tan vỡ khi tôi trưởng thành, tôi muốn giữ điều này nguyên vẹn.
Dù sao thì, câu nói của cô khiến mọi người trong phòng nhận ra rằng tôi đang ở đó, tựa lưng vào tường.
“Cô có phiền không nếu con bé ở đây, Lori?” mẹ tôi hỏi, gật nhẹ đầu về phía tôi. “Cứ nói thật nhé.”
Chồng của Lori nắm tay cô, vỗ vỗ lên đó và nói, “Con bé có thể đến chơi với lũ con trai ở nhà dượng của chúng, chị biết đấy. Tôi chắc rằng Heather sẽ không phiền nếu phải chở nó đến đấy.”
Nhưng Lori Pine cũng rộng lượng và thoải mái như thân hình quá khổ của cô vậy, cô bảo không phiền khi tôi có mặt ở đó. “Thêm một cặp mắt thì đã làm sao, Sibyl?” cô nói với mẹ tôi, trước khi bắt đầu nhăn mặt vì một cơn co thắt, đầu cô giật về phía tôi như thể vừa bị tát.
Và thế là tôi ở lại, chứng kiến cảnh sinh nở của Lori Pine và sự chào đời của E.J.Pine. Mẹ con tôi đến vào khoảng mười giờ ba mươi tối, và tôi đã thức gần hết đêm đến sáng hôm sau. Tôi đã ngủ gật trên đống trải giường bị ném xuống sàn nhà, nhất là khi tiếng sấm trước đó di chuyển về phía đông qua thung lũng Champlain và dãy Green Mountains tiến qua chúng tôi vào New Hampshire, nhưng đó chỉ là những giấc ngủ chập chờn. Tôi thức giấc lúc sáu giờ kém mười lăm khi mẹ bảo Lori bắt đầu rặn, và lần nữa vào lúc bảy giờ ba mươi lăm khi E.J. nấp dưới xương mu lần cuối, mẹ tôi ấn các ngón tay vào đầu đứa bé để làm nó chậm lại và cho đáy chậu của mẹ nó thêm vài giây để thở.
E.J. chào đời lúc bảy giờ ba mươi bảy - giống như số hiệu máy bay. Cơn đau đẻ kéo dài khoảng chín giờ rưỡi đồng hồ, và theo quan điểm của mọi người, đó là một ca nhẹ nhàng. Mọi người trừ tôi. Khi tôi gà gật ngủ, có thể đó là do tôi không còn chịu đựng nổi phải chứng kiến Lori Pine đau đớn như thế và phải nhắm mắt lại - chứ không chỉ vì tôi mệt mà hai mắt tự đóng sầm lại.
Căn phòng tối lờ mờ, chỉ thắp sáng bằng một cặp nến Giáng sinh với hai bóng đèn màu đỏ mà David lôi ra từ gác mái cho sự kiện này ngay sau khi tôi và mẹ đến. Nếu đêm ấy không nhiều gió đến thế thì họ đã dùng nến thật, nhưng Lori muốn để cửa sổ mở khi đẻ, và David đã đề nghị hi sinh sự chân thật để đổi lấy sự an toàn.
Lori đã bắt đầu lộ vẻ thất vọng khi trông thấy David xuất hiện trở lại với hai đế nến bằng nhựa thay vì nến sáp, nhưng rồi một cơn co thắt nữa xâm chiếm cơ thể cô và cô dùng cả hai bàn tay chộp lấy cánh tay mẹ tôi, rồi thét lên qua hàm răng nghiến chặt: một âm thanh giống như cỗ máy nhỏ có bộ khởi động kém đang cố gắng nổ máy.
“Thở nào, Lori, thở nào,” mẹ tôi điềm tĩnh nhắc cô, ‘hít vào sâu và chậm,” nhưng nhìn đôi mắt Lori trợn tròn vào trong đầu, tôi biết bảo cô hít thở chẳng khác nào bảo cô đi ra ngoài treo một cánh cửa garage mới lên, và đó là lần cuối cùng bất kì ai trong chúng tôi nghe Lori Pine nói về nến trong đêm đó.
Tôi chưa từng thấy một người lớn đau đớn trước đó. Tôi đã thấy trẻ con la khóc, thỉnh thoảng trong những trường hợp phải là đau đớn tột độ - khi Jimmy Cousino bị gãy xương đòn lúc chúng tôi học lớp một. Jimmy rú lên như một đứa bé bị đau quặn bụng, với cái loa là hai lá phổi có kích thước của một đứa bé sáu tuổi, và nó kêu gào không ngừng cho đến khi được một giáo viên đưa từ sân chơi đến bệnh viện.
Tuy thế, thấy một người lớn khóc lại là một chuyện khác hẳn. Mẹ tôi rất tử tế với Lori, không ngừng mỉm cười và trấn an cô rằng cô và đứa bé đều ổn, nhưng cả đời tôi cũng không hiểu nổi vì sao mẹ tôi không cho người lớn ấy một liều tương đương viên thuốc aspirin vị cam dành cho trẻ em mà bà đã cho tôi uống khi tôi cảm thấy không khỏe. Loại thuốc ấy có tác dụng thần kì.
Thay vì vậy, mẹ tôi lại đề nghị Lori đi quanh nhà, nhất là trong những giờ đầu tiên sau khi chúng tôi đến nơi. Mẹ bảo cô đi bộ qua phòng ngủ của hai đứa con trai; bà đề nghị Lori tắm nước ấm. Bà bảo chị gái của Lori xoa lưng và mát xa vai cho cô. Có lúc mẹ bảo Lori và David cùng xem những tấm ảnh trong một quyển album về những ca sinh tại gia của hai đứa con trai họ - những tấm ảnh được chụp trong chính phòng ngủ đó.
Và dù tôi không tin rằng chứng kiến cơn đau của Lori Pine đã làm tôi hoảng sợ đến mức ám ảnh, nhưng đến tận ngày nay tôi vẫn nhớ rất, rất rõ một vài âm thanh và hình ảnh cụ thể: Mẹ tôi thì thầm vào tai Lori về chuyện ra máu báo chuyển dạ, và máu mà tôi trông thấy trên tấm vải cũ mẹ dùng để lau drap giường. Lori thở hổn hển, chồng và chị gái cô cũng chồm về trước và thở hổn hển cạnh cô, bộ ba người lớn trông
như đang cùng nhau thở gấp. Lori Pine đập mu bàn tay vào tấm ván đầu giường, những đốt ngón tay nện lên đó tựa như cùi chỏ cô là một cái lò xo bị cơn đau kích động, và tiếng xương chạm vào gỗ anh đào - với tôi nghe như tiếng một con chim đang lao vào tấm ván ghép. Cơn hoảng loạn tuyệt vọng trong giọng nói của Lori khi cô nói cô không thể làm được, cô không thể làm được, không phải lần này, có gì đó không ổn, trước đây không bao giờ đau như thế này, và lời nhắc nhở bình tĩnh của mẹ tôi rằng thật ra trước đây đã đau như thế. Hai lần. Những lúc vào cuối cơn đau đẻ khi Lori bò ra khỏi giường, được mẹ tôi và Heather giúp vào nhà tắm, hai tay cô quàng qua vai họ như một binh sĩ bị thương mà tôi từng thấy trong phim được các nhân viên y tế giúp đỡ từ chiến trường, những người bạn tốt, hoặc những người trước đó chưa từng là bạn. Hình ảnh những ngón tay đeo găng của mẹ tôi biến mất định kì vào trong âm hộ của Lori Pine, và sự ngọt ngào dễ mến trong giọng nói của bà khi bà thốt lên - những lời nói khẽ chỉ hơn tiếng thì thầm một chút - “Ôi, cô làm tốt lắm. Không, không phải tốt, mà là tuyệt vời. Em bé của cô sẽ có mặt ở đây trước bữa ăn sáng!”
Và đúng là như vậy. Lúc sáu giờ kém mười lăm phút sáng khi Lori Pine bắt đầu rặn, bầu trời nhẹ tênh dù bị mây che, nhưng mưa đã di chuyển về phía đông tự lúc nào. Chẳng ai bận tâm rút phích điện hai cây nến Giáng sinh bằng nhựa, nên tôi đã làm: Dù là năm 1975, dù chưa đầy tám tuổi, tôi đã là một nhà bảo vệ môi trường quan tâm đến nguyên liệu tái chế. Hoặc là như thế hoặc vì tôi là một con dân New England tiết kiệm, luôn tắt hết đèn khi không cần dùng đến.
2
Sách vở thường viết rằng sự thụ thai xảy ra khi tinh trùng xâm nhập vào trứng, và tất cả đều dùng từ đó - xâm nhập. Sách nào cũng thế! Cứ như sự sống bắt đầu bằng một trận chiến vậy:“Hãy đột chiếm lấy trứng nào!” Hoặc, có thể là, như một sự thâm nhập của các điệp viên hay những kẻ phá hoại:“Chúng ta sẽ im lặng áp sát trứng, rồi sau đó bò vào qua cửa sổ nhà bếp khi cô ả ngủ say!” Tôi thật không hiểu, tôi chẳng hiểu tại sao lúc nào cũng phải gọi là xâm nhập. Sao không gọi là gặp gỡ, hoặc hợp nhất, hay gần gũi nhau?
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
TRONG SẢN KHOA, khi sự việc trở nên xấu đi, chúng sẽ xấu đi rất nhanh. Chúng rơi tòm xuống vực. Phút trước mẹ và thai nhi còn vui vẻ thưởng ngoạn phong cảnh trên đỉnh núi, phút sau họ đã ngã nhào xuống vực sâu, rơi tự do lên đất đá và cây cối tít phía dưới.
Tôi thường nghe các bác sĩ ví von như thế suốt thời gian tôi trưởng thành. Và dĩ nhiên hầu như mỗi một bác sĩ sản phụ khoa mà chính quyền bang trình ra trước bồi thẩm đoàn khi mẹ tôi bị xét xử đều có một bài diễn văn của riêng họ mô tả chuyện sinh đẻ giống như làm xiếc trên không.
“Trong đa số trường hợp, việc sinh con cũng giống như lái xe ở miền đồng quê. Sẽ không có gì bất thường xảy ra. Nhưng đôi khi - đôi khi - bạn sẽ đâm phải một khối băng trong suốt và xe trượt ra khỏi lòng đường, hoặc một chiếc xe chở rác sẽ mất tay lái và lao vào xe bạn.”
“Hầu hết các ca sinh đẻ không đòi hỏi bất kì sự can thiệp y tế nào. Đó là một quá trình tự nhiên mà phụ nữ đã thực hiện kể từ khi, xem nào, kể từ khi bắt đầu có sự sống. Nhưng trí nhớ tập thể của chúng ta đã không còn kí ức về việc dù cho sinh đẻ là chuyện tự nhiên, nó vẫn rất nguy hiểm. Hãy đối mặt với sự thật, đã có lúc phụ nữ và trẻ em liên tục mất mạng trong quá trình sinh nở.”
Quan điểm của họ lúc nào cũng giống nhau: Phụ nữ không nên sinh con ở nhà với mẹ tôi. Họ nên sinh trong bệnh viện với bác sĩ.
“Bệnh viện cũng giống như ghế ngồi an toàn cho trẻ em trong xe ô tô: Nếu sự cố xảy ra và có va chạm, chúng tôi có dụng cụ để kéo em bé ra khỏi lò,” một bác sĩ nhấn mạnh, trộn lẫn các hình ảnh ẩn dụ và nhầm lẫn một cái dạ con với một thiết bị nhà bếp của Sears[5].
Vào cuối những năm 1970 và đầu 1980, mẹ tôi là một trong khoảng một chục bà mụ độc lập hay còn gọi
là “không chuyên” làm việc đỡ đẻ tại nhà ở Vermont. Hầu như không có bác sĩ nào làm việc đó. Chi phí mua bảo hiểm cho sơ suất trong quá trình đỡ đẻ tại nhà rất đắt, và đa số bác sĩ sản phụ khoa tin rằng sẽ an toàn hơn nếu đưa một đứa trẻ từ tử cung ra ngoài đời ở trong bệnh viện.
Mẹ tôi không đồng tình, bà và các bác sĩ khác thường dùng số liệu thống kê để đấu với nhau. Khi còn bé, tôi thường nghe những cụm từ và con số bay qua bay lại như quả cầu trên sân cầu lông, và tôi rất thích thú với sự dứt khoát đằng sau những từ ngữ nghe có vẻ rất bệnh viện, rất sạch sẽ. Bệnh tật của sản phụ. Tử vong ở trẻ sơ sinh. Tử vong khi sinh.
Từ sinh non mê hoặc tôi. Sinh non. Lúc chín hay mười tuổi, tôi cứ nghĩ nó có nghĩa là một ca đẻ ở chốn luyện ngục, một ca đẻ diễn ra mãi mãi.
“Nó vẫn còn đang được đẻ à?”
“Phải rồi. Đáng sợ quá nhỉ? Bây giờ đang đẻ đến năm thứ ba rồi đấy...”
Mẹ tôi tin rằng đẻ tại nhà rất an toàn, ít nhất một phần bởi lẽ bà từ chối đỡ đẻ tại nhà cho những ca mang thai có nguy cơ cao. Ví dụ như phụ nữ có huyết áp cao. Tiểu đường. Sinh đôi. Bà nhấn mạnh những thai phụ đó phải vào bệnh viện, ngay cả khi họ nài nỉ bà đỡ đẻ tại nhà cho họ.
Và bà chưa bao giờ chần chừ khi phải chuyển một thai phụ đang chuyển dạ cho bệnh viện, nếu có gì đó khiến tim bà đập nhanh hơn một chút - như bà đã có lần mô tả cảm giác đó với tôi. Đôi khi vì linh cảm của mẹ tôi về một ca sinh không tiến triển trong nhiều giờ liền, và bệnh nhân của bà mệt lả. Đôi khi mẹ tôi có thể đề nghị nhập viện vì bà sợ một chuyển biến nguy hiểm đang cận kề, điều mà giới y khoa mô tả một cách hoa mỹ là “sự cố không lường trước”: nhau bong ra khỏi thành dạ con trước khi đứa bé chào đời hoặc những dấu hiệu thai suy như nhịp tim giảm.
Dữ liệu cho thấy trong suốt những năm mẹ tôi hành nghề, chỉ có khoảng bốn phần trăm trường hợp bà đưa thai phụ đang chuyển dạ đến bệnh viện.
Trong đầu tôi không hề nghi ngờ chuyện mẹ tôi và giới y khoa không ưa nhau. Nhưng bà không bao giờ để những mâu thuẫn ấy ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân. Đó là một thực tế.
Tôi có thể bắt đầu câu chuyện của mẹ tôi bằng cái chết của Charlotte Fugett Bedford, nhưng như thế đồng nghĩa với việc tôi đã chọn cách mở đầu cuộc đời bà bằng một điều mà đối với bà là khởi đầu của dấu chấm hết. Nó sẽ khiến bạn nghĩ rằng điều quan trọng nhất trong cuộc đời bà chính là thử thách nghiệt ngã ấy, điều đã biến gia đình tôi thành một phần trong chú thích nhỏ đầy bi kịch của câu chuyện.
Vì vậy tôi sẽ không làm thế.
Vả lại, tôi xem đây cũng là chuyện của tôi, và là lý do tại sao tôi tin rằng trẻ em cũng trở thành sứ mệnh của tôi.
Và tôi tin rằng câu chuyện của chúng tôi bắt đầu vào đầu mùa xuân năm 1980, tròn mười tám tháng trước khi mẹ tôi chứng kiến cảnh cuộc đời mình tan nát trong một phòng xử án đông người ở Bắc Vermont, và ít nhất một tháng trước khi gia đình Bedford chuyển đến bang chúng tôi.
Đây là những gì tôi nhớ: tôi nhớ năm đó bùn đất là một cơn ác mộng, nhưng nghề nấu đường thì tuyệt vời. Thường là như thế. Nếu bùn rất bẩn, thì cây phong sẽ tốt, vì bùn và cây phong là anh em họ về mặt khí tượng học với nhau. Kiểu thời tiết biến những con đường bẩn ở Vermont thành cát lún trong tháng ba - một mùa đông lạnh lẽo, đầy tuyết, nối tiếp bằng một mùa xuân với ngày ấm và đêm lạnh, rất lạnh - cũng kích thích cây phong sản sinh ra thật nhiều nhựa ngọt, tuôn chảy như những dòng sông cuồn cuộn nước tan ra từ băng và tuyết.
Gia đình nội ngoại của tôi đã không còn nấu đường nữa, vì thế kí ức của tôi về tháng ba năm ấy tập trung nhiều vào bùn hơn là vào nhựa đường: Với tôi, tháng ba ấy chủ yếu là một dòng chảy không dứt của lớp
bùn nâu nhớp nhúa. Bùn bám lên đôi bốt của tôi đến tận cẳng chân mỗi khi tôi dò dẫm bước qua đoạn đường bốn mươi lăm mét từ đầu đường chạy xe vào nhà từng là đất tơi đến căn phòng nhỏ nằm giữa cửa phụ và nhà bếp, được gọi là phòng bùn vào những ngày đó: Sàn và tường lúc nào cũng phủ một lớp bùn. Khi bùn ướt, nó có màu thuốc lá sậm; khi bùn khô, màu trở nên nhạt hơn và giống loại bột mà lúc đó chúng tôi dùng để pha sữa chocolate.
Nhưng dù ướt hay khô thì bùn cũng xuất hiện khắp nơi trong hai tuần tháng ba năm 1980. Những con đường lầy lội bắt đầu biến thành những miếng bọt biển khiến xe cộ liên tục bị lún và mắc kẹt, đôi khi lún sâu đến nỗi người lái xe không thể mở cửa để thoát thân mà phải trèo ra ngoài qua cửa sổ xe. Sân trở thành đầm lầy, khiến lũ chó chạy lệt bệt như đang đi. Hầu như gia đình nào trong thị trấn chúng tôi cũng trải vài ba tấm ván dài hoặc tấm phản để làm cầu bắc qua những vũng bùn trên thảm cỏ, hoặc bắc cầu nối từ điểm đỗ xe đến trước hiên nhà.
Mẹ tôi đỗ chiếc xe nhà ga[6] của bà ngay cạnh đường nhựa, cuối đoạn đường chạy xe vào nhà của chúng tôi, như bà vẫn thường làm vào mùa đông và đầu mùa xuân, để đảm bảo đến nhà bệnh nhân kịp lúc. Dù vậy, thỉnh thoảng vẫn có những ca sinh mà ngay cả người quyết đoán như mẹ tôi cũng không thể đến kịp. Khu nhà cũ mà mẹ dùng làm phòng làm việc có một bức tường treo đầy ảnh chụp những đứa trẻ sơ sinh do mẹ tôi đỡ đẻ với bố mẹ chúng, và một trong những tấm ảnh đó chụp một đứa bé đang nhú đầu ra còn người mẹ đang được chị gái đỡ đẻ. Người chị đang kẹp điện thoại giữa tai và vai trong lúc chuẩn bị đỡ lấy đứa bé. Mẹ tôi đang ở đầu dây điện thoại bên kia, hướng dẫn người chị cách đỡ đẻ, vì một trận bão tuyết đã khiến mẹ tôi lẫn đội cứu hộ của thị trấn không thể đến chỗ thai phụ trước khi đứa bé quyết định đã đến lúc chui ra.
Mùa xuân năm đó, ngay cả một thành phố chẳng có gì ngoài đường trải nhựa và vỉa hè cứng như Montpelier - thủ phủ của bang - cũng đã xuất hiện những lớp bùn bóng mượt trên hàng dặm nhựa đường và xi măng.
Nhưng nghề nấu đường thì rất thuận lợi và đó là năm bội thu mật đường. Bạn thân của tôi, Rollie McKenna, có một con ngựa, và dù cả hai chúng tôi không nên cưỡi ngựa cùng lúc, nhưng chúng tôi vẫn cưỡi thường xuyên. Tháng ba năm đó, chúng tôi cưỡi ngựa lên xưởng đường của nhà Brennan sau giờ học ít nhất ba, bốn lần để ngửi làn khói ngọt ngào bao trùm khu vực khi Gilbert và Doris chậm rãi nấu nhựa cây thành nước mật đường.
Đương nhiên, còn có nhiều lý do khác để cưỡi ngựa lên quả đồi nơi nhà Brennan treo hàng trăm chiếc xô trên những cây phong. Chúng tôi còn cưỡi ngựa đến đó vì đường đến xưởng đường sẽ dẫn chúng tôi đi ngang qua sân bóng của thị trấn, nơi Tom Corts và các bạn của anh thường đứng hút thuốc.
Vào năm mười hai tuổi (và sắp lên mười ba), tôi thường không quản ngại cưỡi ngựa, chạy bộ hoặc đi bộ nhiều cây số để xem Tom Corts - lớn hơn tôi hai tuổi và đang học lớp chín - hút thuốc. Có thể tôi cũng sẽ không quản ngại vượt nhiều cây số để xem Tom Corts chất củi hay sơn ván che. Anh lúc nào cũng mặc áo cổ lọ, thường là màu đen hoặc xanh nước biển, và chúng luôn khiến anh trông khá ngầu. Nhưng anh lại có mái tóc vàng rất nhạt, và đôi mắt màu xanh lục trông chẳng khác gì con gái, khiến cho tinh hoa của nét lãng tử hấp dẫn bao trùm xung quanh anh trở nên rất thi vị. Tom là người đầu tiên trong số nhiều chàng trai hút thuốc có tâm hồn nhạy cảm mà tôi yêu mê mệt, và dù chưa bao giờ thử hút thuốc, nhưng tôi biết rất rõ vị khói trên đầu lưỡi mình.
Tom Corts hút Marlboro đựng trong hộp chống móp, anh thường cầm điếu thuốc giống kiểu những tên tội phạm nguy hiểm trong phim: bằng ngón cái và ngón trỏ. (Vài năm sau khi tôi lên trung học, một đứa con trai học bằng lớp tôi và là đệ tử của Tom đã dạy tôi cách cầm một mẩu theo kiểu như vậy.) Anh không hít vào nhiều, có lẽ chỉ vừa đủ để làm cháy điếu thuốc, rồi giữ cho nó cháy; phần lớn thời gian điếu thuốc từ từ biến mất trên tay anh, để lại tàn trên đất hoặc bùn của sân bóng, vỉa hè, hoặc mặt đường.
Tom nổi tiếng làm cho người lớn phát điên, dù hiếm khi theo cách mà họ nghĩ là họ phải - hoặc có thể - kỉ luật được anh. Tôi nhớ mùa đi săn đầu tiên khi anh được giao một khẩu súng và đem nó vào rừng với những người lớn tuổi hơn trong hội đi săn, anh đã bắn trúng một trong những con hoẵng đực to nhất bị hạ
trong năm đó ở hạt. Tuy thế, niềm kiêu hãnh của cánh đàn ông dành cho chàng trai trẻ đã giảm sút khi họ trông thấy Tom làm dáng trước ống kính trong tấm ảnh mà ông chủ cửa hàng bách hóa chụp cho anh và con hoẵng để treo lên bức tường danh vọng hằng năm của ông ta. Tom quàng một tay qua cổ con hoẵng đã chết và giả vờ khóc, tay kia giơ cao tấm biển trên đó anh viết tên con hoẵng, “Vô tội.”
Người trong thị trấn cũng tin rằng Tom là kẻ cầm đầu nhóm trộm những lon sơn màu vàng mà đội công nhân làm đường dùng để kẻ vạch trên đường cao tốc, và vào một lễ Halloween dùng nó phủ lên bức tường ngoài phòng làm việc của tân thư kí tòa thị chính. Tòa nhà đó, một vật thấp lè tè chướng mắt mà ngay cả các ủy viên hội đồng thị chính cũng không thể chấp nhận nổi, là một sai lầm mà toàn thể thị trấn hối tiếc, và cả cảnh sát cấp hạt lẫn cấp bang đều chẳng buồn nhọc công tìm xem ai là thủ phạm.
Vào bất kì ngày nào, rất có thể thấy Tom ở đâu đó đọc một quyển sách bìa mềm về thần thoại Hi Lạp - không phải bài tập về nhà - hoặc một quyển tạp chí về trượt tuyết bằng xe; anh thuộc kiểu người khó đoán, có thể bỏ một chuyến tham quan của lớp học đến cung thiên văn ở St. Johnsbury, nhưng sau đó lại viết một bài luận về lỗ đen khiến thầy giáo phải kinh ngạc.
Thoạt đầu, bố tôi không thích Tom, nhưng chưa đến nỗi khiến ông can ngăn tôi tìm cách thu hút sự chú ý của anh, hay bảo rằng tôi và Rollie không nên cố gắng lấy lòng bạn bè anh. Tôi cho rằng bố tôi - mẫu kiến trúc sư ngăn nắp, thường mỗi tối sắp xếp những đồng tiền xu theo kích thước trong suốt cuộc đời, để vào một buổi sáng bất kì tôi có thể tìm thấy trên bàn làm việc của ông những tháp nhỏ đồng 25 xu, 5 xu và 10 xu - nghĩ rằng Tom hư hỏng quá. Bố tôi xuất thân từ một gia đình thành đạt - dòng dõi những người nông dân đã thực sự ăn nên làm ra trên nền đất đá lởm chởm của Vermont, tiếp nối bằng hai thế hệ doanh nghiệp nhỏ thành đạt - và ông nghĩ nòi giống không mấy tốt đẹp của Tom có vấn đề. Dù biết rằng Tom rất thông minh, nhưng ông vẫn lo sợ anh kết cục sẽ giống như hầu hết những người mang họ Corts ở Reddington: ngày làm việc ở garage ô tô bừa bộn trông như một nghĩa trang ô tô, còn đêm thì mua bia Budweiser bằng tem phiếu. Đó có thể không phải là một cuộc đời tồi tệ nếu nhớ tiêm văcxin ngừa uốn ván đủ liều, nhưng đó không phải cuộc sống mà bố tôi mong muốn cho đứa con duy nhất của ông.
Mẹ hiểu tại sao tôi thấy Tom đáng yêu, nhưng cả bà cũng bảo lưu ý kiến của mình. “Có thể còn có người tệ hơn cả cậu Tom Corts trên thế gian này,” bà từng cảnh cáo, “nhưng mẹ vẫn muốn con cẩn thận với cậu ta. Hãy tỉnh táo.”
Cả hai đều đã đánh giá thấp Tom, như họ sẽ nhận ra vào năm sau đó. Anh đã luôn có mặt bên tôi khi tôi cần anh nhất.
Vào mùa bùn năm 1980, con ngựa Witch Grass của Rollie tròn hai mươi tuổi, và dù những năm tháng tốt đẹp nhất của nó đã qua, nó vẫn là một con ngựa giỏi. Kiên nhẫn. Không đòi hỏi. Và tăng tốc chậm. Đặc điểm cuối cùng này rất có ý nghĩa với chúng tôi (và, tôi phải nghĩ rằng, với bố mẹ chúng tôi), vì chúng tôi đã bỏ học cưỡi ngựa chính thống từ một năm trước, quá chán ngán khi bị bảo phải ngồi thẳng lưng, nhổm mông, và phi nước kiệu.
Witch Grass có thể chở cả tôi và Rollie đi một quãng đường dài trên tấm lưng màu hạt dẻ, dù chúng tôi cố gắng giảm thiểu thời gian chất khối lượng tám mươi sáu kí lô lên cột sống già nua của nó. Một trong hai đứa đôi khi lại xuống đi bộ cạnh bên.
Có lẽ là vào tuần thứ ba của tháng ba, tôi đã để Tom hôn tôi lần đầu tiên.
Đừng hiểu nhầm, đó không phải là khoảnh khắc “chúng tôi đã hôn nhau” nồng nàn đến vậy: tôi đã thụ động một cách cố ý suốt thời gian diễn ra nụ hôn đầu đời, và dù Tom là người khởi xướng nụ hôn (còn tôi thật ra là kẻ tham gia nhiệt tình), nhưng anh lại kết thúc nó rất chóng vánh, và chúng tôi còn quá trẻ - mà nền đất thì quá lầy lội - để cảm thấy mặt đất chỗ chúng tôi đứng di chuyển.
Tôi và Rollie dự định thay phiên nhau cưỡi Witch Grass lên đồi Gove như đã làm ngày hôm trước. Đó là điểm duy nhất ở Reddington mặt đất vừa không lát xi măng vừa không có bùn quá sâu mà mẹ của Rollie có thể nghĩ đến. Khi con ngựa đã có cơ hội sải bước, chúng tôi cùng nhau cưỡi nó băng qua đường và ngang qua cửa hàng bách hóa đến sân bóng, trộm nhìn Tom Corts và đám bạn lêu lổng của anh. Chúng
tôi sau đó lại đi tiếp đến xưởng đường của nhà Brennan, vì ngay từ trung tâm thị trấn đã có thể trông thấy khói bốc lên từ những hàng cây như một mạch nước nhỏ phun trào cực mạnh.
Vậy là Rollie cưỡi Witch Grass trước, còn tôi leo qua hàng rào điện để vào cánh đồng cạnh chuồng ngựa nơi con ngựa thường gặm cỏ mỗi khi Rollie đi học, và bắt đầu xúc những tảng phân ngựa to thành cái mà tôi và Rollie bí mật gọi là Gò Phân. Witch Grass không phải là ngựa của tôi, nhưng tôi đã dành nhiều thời gian cưỡi nó, nên tôi cũng giúp một tay trong việc chăm sóc và cho nó ăn - chủ yếu là làm công việc xúc phân vào buổi chiều.
Tôi chỉ mới làm được một lúc thì nghe chiếc xe nhà ga của mẹ nổ máy trên đường tiến về phía tôi, với tiếng động cơ kêu xình xịch khó chữa không lẫn vào đâu được. Nó là một chiếc xe màu xanh bằng gỗ to khổng lồ từ cuối những năm 1960, và dù bố mẹ đã tính đến chuyện đổi nó trong cuộc khủng hoảng dầu năm 1973 - một cuộc tranh luận bắt đầu vừa vì tội lỗi do con vật nuốt quá nhiều xăng dầu vừa vì chi phí bơm những con khủng long chết vào bụng nó để nó tiếp tục chạy - mẹ tôi vẫn không thể nào rời xa nó. Bà đã có chiếc xe đó gần bằng thời gian bà có tôi, nó đã đưa bà an toàn đến hơn năm trăm ca đẻ, và bà không thể chịu nổi cảnh ném người bạn đường thân thiết này ra bãi cỏ.
Cánh đồng nằm cạnh một con đường nhộn nhịp của Reddington, con đường uốn cong vào Đường 15 - nằm ở phía tây Morrisville và phía đông St. Johnsbury. Như vậy có nghĩa là mẹ tôi có thể đang trên đường đến bất kì đâu: tiệm tạp hóa, ngân hàng, bà bầu đang chuyển dạ.
Mẹ giảm tốc độ khi trông thấy tôi, cho xe dừng lại giữa đường (bà không dám đỗ xe vào vũng bùn bên đường), và hạ cửa kính. Tôi băng qua đường, tay vẫn cầm xẻng của nhà McKenna, và giữ thăng bằng hai chân trên đường vạch màu vàng kẻ giữa vỉa hè, giả vờ như hai đường vạch là hai sợi dây thừng trên không.
“Em bé của cô Wanda Purinton sắp chào đời rồi,” mẹ nói, mỉm cười thanh thản như cách bà vẫn cười mỗi khi một bà bầu của bà bắt đầu chuyển dạ.
“Cô ấy còn chờ lâu không ạ?” tôi hỏi.
“Chẳng biết nữa. Xem chừng sắp co thắt rồi. Để xem thế nào.”
“Mẹ sẽ không về ăn tối đúng không.” Tôi cố giấu sự thất vọng; tôi cố thể hiện nhận thức này như một thực tế đơn giản cần được xác nhận, nhưng lại không nói ra được như thế.
Mẹ lắc đầu. “Không, cưng ạ. Con và bố ăn một mình nhé. Con không phiền khi phải nấu bữa tối chứ?” “Không ạ.” Nhưng thực ra thì có. Và dĩ nhiên mẹ tôi biết điều đó.
“Mẹ lấy ít thịt băm ra khỏi tủ đông rồi. Con làm hamburger nhé.”
“Vâng ạ.” Trình độ nấu nướng của tôi ở tuổi mười hai chỉ đạt đến món hamburger mà thôi. Hamburger và phô mai nướng. Thực ra, đến trước khi tôi tham gia lớp học nấu ăn hai tuần để tiêu khiển vào tháng giêng ở năm hai cao đẳng, thì đó là tất cả những gì tôi biết nấu.
“Có thể cơn đau đẻ chỉ ngắn thôi. Cô Wanda là người nhà Burnham, mà người Burnham thì thường đến nhanh lắm.”
“Và cũng có thể mẹ sẽ ở đấy cả đêm.”
Bà nhướng một chân mày. “Có thể lắm. Dù sao thì chúng ta cũng sẽ có một buổi ăn sáng thịnh soạn cùng nhau.” Bà rướn đầu một nửa ra khỏi cửa xe. “Thơm mẹ một cái nào?”
Tôi vâng lời, hôn chiếu lệ lên má bà, rồi nhìn theo chiếc xe tăng tốc và lao đi. Tôi không hẳn là giận mẹ mà chỉ thấy thất vọng: Công việc của bà và đứa bé của cô Wanda Purinton đồng nghĩa với việc tôi phải về
nhà sớm hơn dự định. Không phải vì một bữa tối với hamburger và đậu đóng hộp lại mất nhiều thời gian chuẩn bị, nhưng tôi luôn cảm thấy có trách nhiệm đạo đức phải có mặt ở nhà khi bố đi làm về mỗi lần mẹ vắng nhà. Tôi không biết tư tưởng này ăn vào đầu óc tôi do mấy bộ phim truyền hình nhiều tập mà tôi xem hàng giờ liền trên chiếc ti vi thường xuyên bị nhiễu của gia đình chúng tôi, hay đó là kết quả từ cảm nhận của tôi về cách cư xử của mẹ các đứa bạn - những người phụ nữ khác nhau một trời một vực như bà McKenna từ Westchester và cô Fran Hurly, người Vermont chính hiệu - nhưng như những gì tôi biết, trừ bà đỡ ra, bà mẹ nào cũng thường phải có mặt ở nhà khi ông bố đi làm về.
Tôi bước trở lại cánh đồng và uể oải xúc phân được vài phút, biết rằng sẽ không có thời gian để vừa cưỡi ngựa lên đồi Gove vừa lấy con ngựa làm cớ để xem Tom Corts hút thuốc. Và thế là tôi cắm xẻng lên một tảng đá khô to, thả lai quần jeans xuống đôi bốt đen cao cổ, và quyết định đi bộ một mình dọc theo sân bóng. Tôi tự nhủ thực ra mình định ghé qua cửa hàng bách hóa để mua kẹo cao su, nhưng ngay cả làm thế cũng là có động cơ: hơi thở thơm tho hơn nếu Tom hoặc tôi... hơi thở thơm tho hơn.
Tom đang ngồi với hai anh chàng lớn tuổi hơn khi tôi lững thững đi qua, những chàng trai vị thành niên đủ lớn để quyết định không cần học hết phổ thông để đi rửa bát ở những nhà hàng nằm xung quanh Power Peak, khu nghỉ mát trượt tuyết nằm ở phía Nam, hoặc trở thành thợ mộc làm thuê, và vì thế đã bỏ học. Tôi nhận ra một người là con nhà O’Gorman, nhưng anh ta lớn hơn tôi bốn tuổi và tôi chẳng biết anh ta là ai trong số anh em nhà đó, người kia là Billy Metcalf, kiểu con trai ngày càng gầy và cao khiến hàm râu lởm chởm trở nên đáng sợ kì lạ.
Nếu Tom ở một mình, tôi hẳn đã lấy hết can đảm đi một vòng đến khán đài ngoài trời băng qua đống rác mà trong một hai tháng nữa sẽ trở thành bãi cỏ, nhưng anh không ở một mình, vì thế tôi lê bước thẳng tiến đến cửa hàng. Kẹo cao su và kẹo bạc hà nằm trên kệ kim loại đối diện quầy tính tiền bằng gỗ mà John Dahrman thường ngồi ở phía sau ngày này qua ngày khác, một ông già góa vợ trầm lặng có mái tóc bạc trắng và đôi mắt sâu hoắm như hai hốc mắt ma quái của Abraham Lincoln trong các tấm ảnh chân dung in đầy chương Nội chiến trong sách giáo khoa lịch sử của tôi. Dù tóc bạc trắng và mắt thâm quầng, nhưng da của ông rất mềm mại, và lúc đó tôi đã tưởng tượng rằng ông phải trẻ hơn rất nhiều so với hình dung ban đầu của mọi người. Ông đã sở hữu cửa hiệu này ít nhất là từ khi tôi ra đời và nhận thức được về những điều như mua bán và kẹo cao su, được một lô lốc những cháu trai cháu gái phụ giúp ở quầy tính tiền khi chúng đã lớn và biết làm phép tính.
Khi tôi đang trả tiền kẹo cao su, thất vọng não nề vì không thể tiếp cận phạm vi ba mươi mét quanh đối tượng làm tôi phát cuồng, thì tôi nghe thấy tiếng chuông leng keng trên cửa. O’Gorman và Billy Metcalf đang tiến về phía tủ lạnh có bia ở cuối cửa hàng. Họ chưa đủ tuổi để mua bia, nhưng trước đây tôi từng thấy họ đứng lảng vảng ở đó và dán mắt vào lốc sáu chai bia sau cửa kính, lớn tiếng bàn tán xem họ uống được bao nhiêu và nên mua hiệu nào khi đã đủ tuổi. Cuối cùng ông Dahrman thường tống cổ họ ra ngoài hoặc lùa họ đến dãy hàng có bán khô bò và bánh phô mai phồng nhân tạo, những sản phẩm họ cảm thấy cũng thú vị chẳng kém gì bia mà lại được pháp luật cho phép mua.
Tôi chờ Tom Corts bước vào sau họ, nhưng không thấy. Tôi nghĩ như thế có nghĩa là anh đã về nhà, nhưng vẫn nuôi hi vọng mong manh rằng anh đang ở ngoài sân bóng một mình, và nếu tôi đi nhanh, tôi có thể có chút thời gian với anh trước khi O’Gorman và Metcalf quay lại với mớ thức ăn Slim Jim và Jax. Tôi không thể hình dung được khi ấy mình sẽ làm gì, bởi phần lớn những cuộc giao tiếp của tôi và Tom cho đến lúc đó chỉ là những lời chào gói gọn vào lòng bàn tay khi chúng tôi vẫy nhau.
Hóa ra chẳng cần bận tâm, vì Tom đã đi rồi. Khán đài ở mặt thứ nhất và mặt thứ ba của sân bóng trống trơn, và sự sống duy nhất mà tôi nhìn thấy là con chó tha mồi màu vàng ngu ngốc của nhà Cousino, một con chó ngốc đến nỗi có thể sủa hàng giờ liền trước những gốc cây và miệng trụ nước. Lúc này nó đang sủa cái lò nướng bằng gạch nằm giữa vạch kẻ bên phải sân bóng và con sông chảy cạnh sân bóng. Tôi cố gắng quên đi nỗi thất vọng bằng cách hài lòng với những quả bong bóng thổi to và vị ngọt của kẹo cao su khi tôi dùng lưỡi đè nó thật chặt vào thành răng, rồi đi bộ trở về cánh đồng nơi tôi xúc phân khi nãy. Tôi chẳng bận tâm Tom đã đem nét mặt cau có và những điếu thuốc của anh đi đâu, tôi chỉ chấp nhận thực tế rằng anh đã biến mất và tôi phải chờ thêm một ngày nữa mới được thấy anh.
Tôi sải chân qua hàng rào điện và nhặt cái xẻng lên từ tảng đá mà tôi đã cắm nó xuống. Đứng tựa lưng vào tường chuồng ngựa cách đấy chưa đến hai mươi mét là Tom Corts. Anh rút điếu thuốc ra khỏi môi và bắt đầu tiến về phía tôi, lơ đễnh - hay không bận tâm - trước thực tế rằng với từng bước đi, đôi giày của anh lại lún sân xuống phân ngựa hoặc bùn.
Tôi đứng yên, chờ đợi với trống ngực đập thình thịch. Khi anh đã đến rất gần, tôi ngửi thấy mùi thuốc lá trong hơi thở anh, anh dừng lại và hỏi, “Họ trả tiền cho em làm việc này à?”
Tôi khựng lại, suy nghĩ, Việc này? Rồi tôi nhận ra: xúc phân. “Không.”
“Vậy tại sao em lại làm?”
“Vì Rollie là bạn em.”
Anh gật đầu: “Và vì em cưỡi con ngựa ấy.”
“Ừ, vì thế nữa.”
Anh thọc bàn tay không cần dùng để hút thuốc vào sâu trong túi áo khoác jeans màu xanh của mình. “Tối nay trời sẽ lạnh lắm đấy. Lạnh kinh khủng đối với lũ gia súc. Bản năng của chúng đang mách bảo chúng rằng mùa xuân đang ở đây và một tháng giêng lạnh lẽo đã qua. Nhưng rồi tối nay nhiệt độ sẽ xuống còn âm sáu độ, và vì chúng không nghĩ đến điều đó, chúng sẽ cảm thấy như âm hai mươi độ.”
Tôi chẳng biết giả thuyết của Tom có giá trị hay không, nhưng chiều hôm đó nó nghe chừng có lý. Và nhân từ. Nó cho tôi thấy người con trai này có một tâm hồn bí ẩn cũng như đôi mắt dịu dàng của anh vậy.
“Gia đình anh có gia súc không?” tôi hỏi. Gia đình Corts đã không làm nông trong nhiều năm nay, nhưng tôi cảm thấy mình cần phải hỏi gì đấy. “Bò hay ngựa?”
“Ông bà anh - tất cả họ - đều từng có. Ông nội anh có một đàn gia súc năm mươi con trong nhiều năm, trước đây thế là to lắm. Và họ cũng có nuôi vài con ngựa nữa. Giống ngựa Morgan.”
“Anh có biết cưỡi ngựa không?”
Anh lắc đầu. “Không. Chỉ trượt tuyết bằng xe thôi. Và cưỡi xe máy.”
Tôi đã thấy Tom trượt tuyết bằng xe, thường vào những khi bố và tôi đi băng qua hạt đến trượt tuyết trên những con đường cao tốc thiên nhiên và đường mòn ở Bắc Reddington. Chúng tôi thường phải tấp vào lề trên ván trượt hàng chục lần để nhường đường cho Tom và những người bạn lớn tuổi hơn cùng anh em họ của anh. Nhưng tôi có cảm giác anh đang nói dối về chuyện cưỡi xe máy, và chẳng hiểu sao điều đó lại khiến tôi mến anh, cũng như sự hiểu biết của anh về loài vật vậy.
“Em chưa bao giờ trượt tuyết bằng xe.”
“Anh sẽ chở em, nếu em thích. Có thể là năm nay đi luôn. Chúng ta sẽ có nhiều tuyết hơn, em biết đấy.” “Ồ, em biết.”
“Anh đã thấy em trượt tuyết. Với bố mẹ em.”
“Chỉ có bố thôi. Mẹ em không thích trượt tuyết.”
“Bác ấy thông minh đấy. Trượt tuyết bằng xe vui hơn. Em đi nhanh hơn, và em sẽ luyện tập thể thao được nhiều hơn. Nhiều hơn đa số người vẫn nghĩ.”
“Em nghĩ mẹ cũng không thích trượt tuyết bằng xe.”
Anh búng điếu thuốc xuống chân rồi đạp nó lún xuống bùn.
“Em học tiếng Pháp với cô Purta phải không?”
“Vâng.”
“Thích cô ấy không?”
“Có. Đương nhiên.”
Anh gật đầu, tiếp nhận thông tin này và chuyển hóa nó vào trong đầu để hiểu ý nghĩa. Một tín hiệu. Có thể là xác nhận về sự trưởng thành của tôi. Rồi sau đó anh nói một câu có thể mang tính đe dọa đối với tôi nếu tôi đã không nghe ba từ đó từ mẹ tôi chỉ một lúc trước đó, một sự trùng hợp cho tôi thấy sự sắp đặt của duyên số. Hơn nữa, giọng nói của anh đột ngột trở nên lúng túng, giống như giọng tôi vậy.
“Hôn một cái trước khi anh đi, nhé?” anh hỏi, và giọng nói anh run run làm cho từ “nhé” trở thành một mệnh lệnh. Tôi đứng như trời trồng trước mặt anh, mà ở tuổi mười hai đó là cách gần nhất để tôi nói đồng ý, và sau một giây đủ dài để gai ốc sởn lên dọc cánh tay và nhảy múa dọc làn da dưới tay áo sơ mi và áo khoác của tôi, anh đã rướn về phía tôi và dán môi anh lên môi tôi. Chúng tôi đều hé miệng ra và nếm hơi thở của nhau.
Chỉ sau khi anh đứng thẳng lên và cơ thể chúng tôi rời nhau ra, tôi mới nhận ra anh đã không đưa lưỡi vào miệng tôi. Tôi rất mừng, nhưng chủ yếu là vì tôi không biết làm thế nào để vờn lưỡi của Tom Corts với một thỏi kẹo cao su bong bóng giấu trong má mình.
Lúc đó hẵng còn tám tháng trước khi tôi và Tom trở thành bạn trai và bạn gái của nhau, và tròn một năm rưỡi trước khi tôi nhìn về cuối phòng xử án ở Newport và thấy anh đứng đó, quan sát. Lúc đó là tròn một năm rưỡi trước khi tôi khóc trong vòng tay anh giữa đêm.
3
Hợp tử không phải là một từ xấu, nhưng nó cũng chẳng hề hoàn hảo. Một mặt, tôi thích nguồn gốc của từ này - tiếng Hi Lạp có nghĩa là “hợp lại với nhau.” Tôi cảm thấy như vậy là đúng, vì đó chính là điều đã xảy ra. Một trứng và một tinh trùng đã hợp lại với nhau, và chúng tiến hành một chuyến hành hương nho nhỏ đến dạ con.
Mặt khác, tôi không thích cách phát âm của từ này khi ta nói to nó ra: Hợp tử! Nó luôn nghe như cần một dấu chấm than. Nó luôn nghe như một tiếng chửi thề từ một nhà khoa học cáu giận phát điên nào đó. Hợp tử! Chiếc cốc thí nghiệm bị nứt rồi! Hợp tử! Radium lan khắp phòng thí nghiệm rồi!
trích nhật kí bà mụ Sybil Danforth
MẸ TÔI ĐƯỢC ĐẶT TÊN SIBYL theo tên bà ngoại của mình. Bà ngoại của bà được sinh ra tại một ngôi làng nhỏ ở Đông Mexico, con gái của những nhà truyền đạo đến từ Massachusetts. Những nhà truyền đạo ấy - ông bà cố của mẹ tôi - đã sống mười năm tại một thị trấn nhỏ ven biển có tên gọi Santiago, trong một thập kỉ đó họ đã lập ra một nhà thờ Thiên chúa giáo, đã kết bạn tâm giao với một thầy thuốc của làng tên là Sibella, và có hai đứa con. Một trong hai người con ấy sống sót - bà ngoại của mẹ tôi - còn một người thì không.
Người không còn sống là một bé trai tên Paul, và chính cái chết của cậu đã phá vỡ đức tin của gia đình, buộc họ khăn gói trở về Mỹ. Tôi nghe kể Paul bị chết đuối trong chỗ nước cạn, điều đó làm cho trong nhiều năm liền trong đầu tôi luôn hiện lên hình ảnh một con sóng dữ ở vùng Vịnh gần bờ, và một cậu bé ba tuổi nhấp nhô vài lần trên sóng trước khi bị nhấn chìm mãi mãi. Cuối cùng mẹ tôi bảo bà không hề tin rằng đó là điều đã xảy ra. Truyền thống của gia đình - đồn đại hay thực tế, ai mà biết được - nói rằng cậu bé chết trong bồn tắm.
Khi những nhà truyền đạo và con gái của họ trở về Mỹ, họ suýt nữa thì tái định cư ở miền Trung Massachusetts như đã dự tính, nhưng trong một nỗ lực nhằm làm lại cuộc đời, họ quyết định làm lại từ đầu tại một nơi mới, và cứ tiếp tục tiến về phía Bắc cho đến khi họ ra khỏi Massachusetts và New Hampshire, đến Vermont. Ở Reddington.
Tôi nghĩ đa số những người ở tuổi tôi đều cho rằng trẻ con ở thế kỉ mười chín thường xuyên tử vong đến mức người ta không đau buồn sâu sắc hoặc trong thời gian dài như chúng ta ngày nay. Tôi không tin là vậy. Người phụ nữ mà mẹ tôi được đặt theo tên chào đời năm 1889, và em trai bà chào đời năm 1891. Cậu qua đời năm 1894: Có một vật đánh dấu cho cậu bé ở nghĩa trang Reddington, một cái khác ở lô đất của gia đình tại một nghĩa trang trong thị trấn Worcester, Massachusetts, và một bia mộ thứ ba đánh dấu thi hài thực sự của cậu bé tại một nghĩa trang ở Santiago.
Không ai biết người nào chịu trách nhiệm tắm Paul khi cậu chết. Chi tiết đó bị thất lạc trong lịch sử gia đình chúng tôi.
Dù sao thì, khi những nhà truyền đạo đó, những người từng hăng hái dọn đến Mexico để truyền đi lời của Chúa và xây một nhà thờ - về nghĩa đen là giúp dựng lên công trình bằng sa thạch đó dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt bằng chính đôi tay New England trắng trẻo của họ - cuối cùng định cư tại Reddington, họ hiếm khi đặt chân vào bất kì nhà thờ nào, Thiên Chúa giáo hay Tin lành, một lần nữa.
Mẹ tôi thực sự là dân hippie yêu chuộng hòa bình, thích hãng tin Liberation, tự do tự tại và thành thật với Chúa. Đây là một thành tựu không nhỏ, vì bà lớn lên trong một ngôi làng nhỏ ở phía Bắc Vermont. Những ngôi làng như Reddington chậm tiếp nhận thay đổi văn hóa do núi cao, thời tiết khắc nghiệt, tín hiệu truyền hình kém, và mật độ dân cư thưa thớt (điều này có thể giải thích vì sao bà không bao giờ thực sự tìm cách bỏ trốn đến những nơi như San Francisco, East Village, hoặc Woodstock), vì thế phải dành đáng kể sự quan tâm tìm hiểu và lòng can đảm mới tìm ra cuộc cách mạng ấy - hoặc thậm chí tìm ra một chiếc váy bohemian tử tế.
Dù mẹ chưa bao giờ thực sự đặt chân lên một chiếc xe buýt đưa đón học sinh hay vào công xã, nhưng những bức ảnh chụp bà trong nửa sau thập niên 1960 cho thấy một cô gái yêu thích quần ống loe và khăn choàng, chuỗi hạt tình yêu, huy hiệu và dép xăng đan. Những tấm ảnh đó cho thấy một cô gái có đôi mắt tròn xoe xanh biếc và mái tóc vàng sậm xoăn tít, những đặc điểm mà tôi thừa hưởng, dù tóc tôi thẳng hơn tóc bà nhiều.
Bà đến học ở trường cao đẳng Mount Holyoke trong hai năm, nhưng đã gặp một người đàn ông khá lớn tuổi hơn trong thời gian làm bồi bàn ở Cape Cod vào mùa hè giữa năm hai và năm ba rồi quyết định bỏ học, trải qua mùa đông trong một căn nhà thôn dã với ông ở miền biển. Mối quan hệ này không kéo dài. Đến Lễ Tạ ơn bà đã dọn đến Jamaica Plain ở Boston, giúp tổ chức Những Con Báo Đen khởi xướng một chương trình bữa ăn sáng cho người nghèo, trong khi làm thêm bằng nghề trực điện thoại cho một tờ báo. Đến mùa xuân, bà cảm thấy đã quá đủ - không phải vì bà mệt mỏi với Phong trào này, mà bởi vì bà nhớ đồng quê. Nhớ Vermont. Bà muốn về nhà, và cuối cùng đã về.
Bà trở về ngay trước sinh nhật thứ hai mươi của mình, nói với bố mẹ rằng bà sẽ ở đến hết mùa hè rồi sau đó đi học lại vào mùa thu. Ông bà ngoại tôi luôn quả quyết rằng mẹ đã bỏ học khi điểm số rất tốt, toàn A và B, và trường Mount Holyoke sẽ vui mừng nhận bà vào học lại.
Nhưng tôi không tin việc trở lại trường cao đẳng là khả thi. Bà đã hình thành trong lòng một cảm giác rất phổ biến lúc bấy giờ, đó là chán ghét hầu hết chính quyền truyền thống hoặc học viện, và Mouth Holyoke đã trở nên đáng nghi trong mắt bà. Vả lại, đến tháng bảy bà đã gia nhập một nhóm nghệ sĩ tự phát ở khu đồi phía bắc Montpelier, một hội gồm những ca sĩ, họa sĩ và nhà văn, trong đó có một họa sĩ minh họa sau này quyết định trở thành kiến trúc sư thay vì thiết kế bìa album ca nhạc - bố tôi. Nam giới trong hội vẫn duy trì việc học cao đẳng để hoãn quân dịch, nhưng nữ giới thì đã bỏ học và chuyển sang nặn lọ gốm, đan thảm, viết ca khúc.
Mẹ có mang tôi không lâu sau đó, cả bà và bố luôn cam đoan với tôi rằng họ chưa bao giờ tính đến chuyện tìm một chuyên gia ở Boston hay Montreal để bỏ tôi.
Biết rõ bố mẹ mình, tôi thực tình tin rằng ý tưởng bỏ tôi chưa bao giờ xuất hiện trong đầu mẹ, nhưng tôi tin chắc suy nghĩ ấy đã đến với bố tôi. Tôi chắc chắn như thế. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ tình thương của ông, và tôi tin ông rất vui khi tôi ra đời, nhưng ông luôn là một người ngăn nắp, mà những cái thai ngoài dự tính luôn là những sự cố rườm rà. Việc thụ thai tôi đã hoãn vô thời hạn, và sau đó là mãi mãi, bất kì cuộc thảo luận nào về việc mẹ đi học trở lại.
Đó là một trong những lý do chính khiến mẹ tôi trở thành một bà mụ không chuyên thay vì một nữ hộ sinh có đào tạo bài bản, hoặc thậm chí có thể là một bác sĩ sản phụ khoa: không có chứng chỉ cao đẳng và - theo thời gian - kết luận rằng bà không cần chứng chỉ đó.
Đương nhiên, mẹ cũng hết sức tin rằng trong đa số trường hợp, thai phụ nên sinh con tại nhà. Bà nghĩ như thế sẽ tốt hơn cho mẹ và em bé. Trong suy nghĩ của mẹ, phụ nữ đẻ con hiệu quả nhất trong môi trường mà họ thông thuộc nhất và điều đó khiến họ cảm thấy thoải mái nhất; tương tự, việc chào đón một đứa trẻ đến với thế giới này trong một căn phòng ấm áp, và đỡ lấy đứa bé với đôi tay trìu mến, là điều rất quan trọng. Nghĩ đến loại kẹp đầu em bé giống như đồ kẹp xà lách và máy siêu âm bụng khiến mẹ tôi cáu tiết, và - cuối cùng, điều này lại chứng tỏ là sự trớ trêu nghiệt ngã nhất - bà sẽ cho một thai phụ đang chuyển dạ mọi cơ hội trên đời này để đẻ con qua âm đạo. Trong vài trường hợp, bà đợi trong nhiều ngày liền, luôn luôn kiên nhẫn, trước khi đưa thai phụ đến bệnh viện để bác sĩ gây mê, sau đó rạch bụng và thành tiểu của thai phụ rồi nhấc đứa bé ngơ ngác lên dưới ánh đèn huỳnh quang của phòng mổ.
Mẹ tôi biết đẻ tại nhà không phải dành cho tất cả mọi người, nhưng bà muốn nó được duy trì thành một lựa chọn cho những ai có nhu cầu. Và nếu bà có trở thành bác sĩ hay nữ hộ sinh đi chăng nữa, thì chắc chắn Ủy ban nghề y của bang cũng sẽ phải cố gắng ép buộc mới khiến bà chịu hành nghề trong bệnh viện.
Quy định là như thế vào thời đó; quy định là như thế vào lúc này. Nếu bác sĩ và nữ hộ sinh đỡ đẻ tại nhà, thì họ sẽ hành nghề mà không có bảo hiểm sai sót hoặc sự phê chuẩn của bang. Vì thế theo quan điểm của mẹ tôi, chẳng có lý do gì để lấy bằng cấp y khoa cả. Bà biết mình đang làm gì.
Liệu Sibyl Danforth có ghét bệnh viện và điều mà các công tố viên mô tả là cơ sở y tế không? Đã có lúc, tôi nghĩ rằng bà ghét những nơi đó. Bà có phải là, như họ gọi, một kẻ nổi loạn không? Còn phải hỏi. (Dù khi bị buộc tội là người nổi loạn trước tòa, bà đã mỉm cười và nói, “Tôi thích nghĩ mình là một người tiên phong hơn.” Mỗi khi đọc đến đoạn ghi chép đó trong những đống hồ sơ giấy tờ tòa án mà tôi đã thu thập được, tôi lại mỉm cười.)
Có những chuyện hài hước về thái độ chống bác sĩ sản phụ khoa của mẹ nhưng chúng không bao giờ xuất hiện ở tòa án. Trong một bức ảnh của mẹ chụp năm 1969, bà đứng dựa lưng vào một chiếc xe con bọ VW, và ở đầu gối bà là hai miếng dán: HÃY HỎI CHÍNH QUYỀN! và CHỈ CÓ VỊT MỚI ĐƯỢC LÀM LANG BĂM. Lòng nghi ngại bà dành cho cái gọi là quyền lực bị xói mòn của những giáo sư và hiệu trưởng cao đẳng, bà cũng dành nó cho các bác sĩ và ban quản trị bệnh viện.
Và dù cho bà đã bỏ qua rất nhiều sự bất tín nhiệm dành cho bác sĩ - dù bà chưa bao giờ lãng phí thời gian khi quyết định một thai phụ cần can thiệp y tế, dù bà chắc chắn đưa tôi đến bác sĩ nhi khi tôi thấy không khỏe lúc còn bé - đa số bác sĩ lại chưa bao giờ tin tưởng bà.
...
Ca đẻ của tôi không phải là ca đẻ đầu tiên mẹ có mặt. Đó là ca thứ ba.
Trong vòng một năm rưỡi kể từ khi bà trở về từ Boston đến lúc tôi chào đời ở Vermont, hai người phụ nữ khác trong nhóm bạn ở Đông Bắc Montpelier đã sinh con, và mẹ tôi đã có mặt tại ca đẻ đầu tiên do tình cờ, và tại ca đẻ thứ hai do lựa chọn. Thích hợp làm sao, ca đẻ đầu tiên lại diễn ra tại phòng ngủ của một căn nhà cũ tạm bợ nằm trong trang trại ở Vermont, không phải trong một phòng sinh đẻ vô trùng ở bệnh viện.
Ca đẻ đầu tiên - và là thử thách đầu tiên của mẹ tôi với nghề bà mụ - chính là ca đẻ của Abigail Joy
Wakefield.
Cô bé được dự tính sinh trong bệnh viện, nhưng lại chào đời sớm hai tuần. Sáu người lớn có mặt vào đêm mẹ cô bé bắt đầu đau đẻ, trong đó có hai người sau này trở thành bố mẹ tôi, sợ rằng họ đã quá phê thuốc đến độ không lái nổi chiếc xe nào trong số xe đỗ bừa bãi cạnh ngôi nhà nhỏ như thể ở đó vừa xảy ra một trận động đất. Kết quả là, họ quay lại phân công nhiệm vụ theo giới tính, sự phân công mà tôi cho rằng một phần thuộc về bản năng, một phần do bị xã hội hóa, cánh đàn ông đồng ý chạy bộ gần sáu cây số đến cửa hàng bách hóa để dùng điện thoại công cộng gọi xe cấp cứu, còn cánh phụ nữ thì đưa người mẹ đang chuyển dạ lên lầu để giúp cô cảm thấy thoải mái - và đỡ đẻ đứa bé, nếu việc đó xảy ra.
Tại sao cả ba người đàn ông đều đi, trong đó có bố tôi, đã trở thành một chuyện khó lý giải được bạn bè của bố mẹ tôi kể đi kể lại trong nhiều năm. Bố tôi nhấn mạnh rằng đó là một quyết định tự phát bắt nguồn từ việc tất cả cánh đàn ông đều đã phê thuốc và đơn giản là không thể suy nghĩ sáng suốt về quyết định đó. Tuy nhiên, mẹ tôi và những cô bạn luôn trêu ông rằng mỗi người trong số họ là một kiểu đàn ông điển hình, muốn tháo chạy khỏi bà bầu đau đẻ càng xa càng tốt. Thực ra, sau khi đi được gần năm cây số trong đêm tối, cánh đàn ông đã quyết định đứng bên con đường chính đợi xe cấp cứu, để chắc chắn chiếc xe tìm được đường đến ngôi nhà đó.
May mắn là cả mẹ tôi lẫn mẹ của Abigail Joy, cô Alexis Bell Wakefield, đều tỉnh táo. Tối hôm đó họ hầu như chẳng hút tí cần sa nào.
Lúc đầu, mẹ tôi và Alexis ở trong phòng ngủ cùng Luna Raskin. Khác với hai người phụ nữ còn lại, Luna có đủ mọi thể loại hóa chất nhân tạo trong người, và mỗi khi Alexis nức nở, “Ôi trời ơi, đau quá, đau quá đi mất!” Luna lại túm lấy áo sơ mi của mẹ tôi và gào lên, “Họ đang giết cô ấy, họ đang giết cô ấy!”
Mẹ tôi thoạt đầu nghĩ rằng Luna muốn nói đến những cơn co thắt của Alexis. Nhưng cô ấy càng nói, mẹ tôi càng nhận ra với một cảm giác kết hợp giữa khiếp đảm và ngạc nhiên rằng Luna đang nói đến Tổng thống Lyndon Johnson và Ngoại trưởng Dean Rusk, hai nhân vật có ảnh đăng trên trang nhất số báo ngày hôm đó.
Vào lúc đó mẹ tôi tống Luna ra khỏi phòng và tự mình đỡ đẻ đứa bé.
Mẹ tôi không biết mình sẽ cần đến dụng cụ đỡ đẻ nào, và đã thực hiện một quyết định cho thấy bà quả thật có duyên làm bà mụ: Bà kết luận rằng phụ nữ đã đẻ con từ lâu, rất lâu trước khi có người phát minh ra dụng cụ đỡ đẻ, bất kể chúng là gì. Bà tưởng tượng cơ thể người phụ nữ hiểu khá rõ nó cần phải làm gì, nếu bà có thể đơn giản giữ cho Alexis bình tĩnh.
Dù vậy, bà vẫn gom toàn bộ vải vóc và khăn mà bà tìm được, rồi đổ đầy nước sôi vào một chiếc giỏ bắt tôm hùm to tướng. Bà không biết nhau trông như thế nào, bà chẳng hiểu rặn có ý nghĩa gì, và (sau này nhận ra như thế thì lại tốt hơn) bà chưa từng nghe nói đến thuật ngữ như sự không cân đối đầu và xương chậu - một cái đầu trẻ sơ sinh có kích thước to hơn xương chậu của mẹ.
Bà tắt bóng đèn ở trần phòng ngủ, nghĩ rằng Alexis sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu không phải nhìn thẳng vào ánh sáng chói mắt; chiếc đèn bàn ở góc phòng soi vừa đủ ánh sáng cho mẹ tôi nhìn rõ tất cả những điều mà bà không hiểu.
May mắn là mẹ của Alexis luôn nhắc nhở con gái phải đi khám bác sĩ sản phụ khoa, và Alexis đã tự đọc một số sách. Cô cũng may mắn khi chuyển dạ rất ngắn và hạ sinh một đứa trẻ bé xíu - nhưng khỏe mạnh. Nhưng chẳng có cơn đau đẻ nào là dễ dàng, và dù mẹ tôi chưa bao giờ mất đi niềm tin rằng tiến trình mà bà chứng kiến đẹp không thể tả, nhưng khi cơn đau của Alexis trở nên tồi tệ hơn, mẹ tôi bắt đầu lo sợ rằng có gì đó không ổn. Bà xoa chân của Alexis và mát xa lưng cho cô, thủ thỉ rằng Alexis chỉ đang trải qua điều mà hầu hết mọi phụ nữ đều cảm thấy kể từ khi có sự sống loài người. Nhưng trong lòng mẹ tôi cũng không mấy tin điều mình đang nói.
Khi một giờ đã trôi qua mà cánh đàn ông lẫn xe cấp cứu đều chưa đến, mối lo sợ ấy khiến bà đi rửa tay một lần nữa, lần này với một sự tỉ mỉ có thể gây ấn tượng với cả một bác sĩ giải phẫu tim. Bà cởi những
chiếc vòng đeo tay bằng bạc và ba chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay, trong đó có một chiếc bố tôi tặng bà sau một đại hội nhạc rock ở gần Walden Pond, rồi chà cổ tay và cánh tay đến tận cùi chỏ.
Khi hai tay đã sạch đến mức bà tin là chấp nhận được, mẹ tôi đưa một ngón tay vào sâu bên trong âm đạo của Alexis hết mức có thể, hi vọng biết được đứa bé có sắp chui ra hay chưa.
“Tớ đã giãn ra chưa?” Alexis rên rỉ, đầu lăn qua lăn lại trên gối như thể cột sống cổ của cô làm bằng thạch Jell-O.
Vào thời điểm đó trong cuộc đời của Sibyl, từ giãn nở luôn được dùng khi nói đến đồng tử và ma túy. Bà không hề biết rằng Alexis đang nói đến cổ tử cung của cô. Vì thế mẹ tôi ngước lên từ giữa hai chân Alexis để nhìn mặt bạn mình, nhưng cô ấy đã nhắm tịt mắt.
“Tớ nghĩ là rồi,” mẹ tôi trả lời; dù bà không thể nhìn thấy đồng tử của Alexis, nhưng bà cho rằng bất kì ai dành nhiều thời gian rên la như Alexis hẳn đều phải giãn toét cả mắt.
“Bao nhiêu rồi?”
“Suỵt,” bà mụ bất đắc dĩ nói. Bà luồn đầu ngón trỏ vào trong Alexis và lướt qua một vật cứng mà bà hiểu ngay là cái đầu. Đầu đứa bé. Rất nhanh bà xoay ngón tay quanh nó, ngạc nhiên khi thấy có thể sờ được nhiều đến vậy.
“Cậu có sờ được cái đầu không?” Alexis hỏi.
“Tớ có sờ được cái đầu,” Sibyl đáp, mê hoặc, và từ từ rút ngón tay ra.
Chỉ vài phút sau Alexis gào lên rằng cô phải rặn, và cô đã rặn.
“Cố lên,” mẹ tôi nói. “Cậu làm tốt lắm.”
Mẹ tôi đỡ Alexis dựa vào tấm ván đầu giường và chất gối xung quanh người cô, không nghĩ gì đến tính hợp lý trong hành động này mà chỉ thấy yên tâm ở một mức độ nguyên thủy rằng đó là việc nên làm. Mẹ tôi nghĩ nếu Alexis ngồi dậy, trọng lực sẽ giúp đứa bé rơi ra.
Sau đó bà quỳ gối trên giường giữa hai chân của Alexis và nhìn vài phút trong lúc cô ấy rặn, rên rỉ và nghiến răng, và tuyệt đối không một điều gì xảy ra. Môi âm đạo của cô ấy có thể đã ẩm ướt hơn, nhưng chắc chắn không có cái đầu nào bắt đầu nhô ra giữa chúng.
“Hãy nghỉ mệt một phút nào. Tớ nghĩ cậu đã tiến bộ rất nhiều rồi đấy,” mẹ tôi nói dối. Bà luồn cánh tay xuống từng đầu gối của Alexis rồi nhấc chân cô dạng ra, hi vọng nới rộng lối ra cho em bé. “Sẵn sàng chưa?” bà hỏi Alexis, và Alexis gật đầu.
Trong ba mươi phút tiếp theo Alexis cứ rặn rồi nghỉ, rặn rồi nghỉ. Suốt thời gian đó mẹ tôi không ngừng cổ vũ cô, nói đi nói lại rằng cô sẽ làm được, cô sẽ rặn thêm một giây nữa, một giây nữa, và đứa bé sắp phọt ra như cái nút bấc nếu cô rặn, rặn, rặn, rặn.
Gần một giờ sáng, khi mẹ tôi đã sắp ngã ngửa ra giường thì toàn bộ nỗ lực rặn đó đột nhiên phát huy tác dụng, chỏm tóc đen đã trêu ngươi bà sau môi âm đạo suốt từ nãy đến giờ đội nhiên phọt ra, và bà đang nhìn xuống trán của em bé, đôi mắt em bé, cái mũi em bé, và cái miệng em bé. Đôi môi chúm chím như nụ hồng, bé xíu xiu như môi búp bê. Bà lấy hai tay đỡ cái đầu, dự định làm gối đón nó đến với cuộc đời, thì một cái vai thò ra, rồi một cái nữa, và rồi toàn bộ Abigail Joy và cuống rốn. Đứa bé màu hồng, và khi mở mắt nó bắt đầu khóc rống lên, một tiếng khóc trẻ thơ rất dài khiến Alexis vừa khóc vừa cười, một tiếng khóc ré ấn tượng đến mức nếu mẹ tôi vào lúc đó biết thang điểm Apgar[7]là gì, bà hẳn sẽ cho đứa bé một điểm mười hoàn hảo.
Khi mẹ tôi nghiên cứu hai điểm nơi cuống rốn của mẹ và bé nối với nhau, nghĩ rằng bà phải dùng kéo cắt
nó trong khi chưa biết làm thế nào, thì bà nghe thấy tiếng còi hụ leo lên đồi tiến về phía ngôi nhà, và bà biết một chiếc xe cấp cứu sắp đến. Bà ngay lập tức cảm thấy nhẹ nhõm, đồng thời với thất vọng. Bà đã hoảng sợ, không nghi ngờ điều đó, nhưng áp lực vào giây phút đó đã đem lại cho bà niềm đê mê khiến bà choáng váng. Bà đang chứng kiến sinh lực sống, phép màu nằm trong sức lực và cơ thể người mẹ - một cơ thể đã chuyển biến trước mắt một con người - và phép màu nằm trong đứa bé, một linh hồn trong một hình hài nhỏ bé nhưng khỏe mạnh, có khả năng tự đẩy nó đến với cuộc đời và gần như ngay lập tức tự thở, ngọ nguậy và khóc thét.
Khi cô bạn Donna của mẹ tôi sinh con vài tháng sau đó, cô đã nhờ bà túc trực bên cạnh trong bệnh viện. Tôi chưa ở trong người mẹ khi bà đỡ đẻ Abigail Joy, nhưng tôi đã có mặt tại ca đẻ thứ hai mà bà chứng kiến. Tôi tính ra mình được sáu tuần tuổi, có lẽ chỉ dài chừng một centimet, với khung xương bằng sụn và cái đầu rất dày mới chớm hình thành. Không mỏng như da tôi lúc bấy giờ.
4
Bác sĩ dùng từ “co thắt” và rất nhiều bà mụ dùng từ “thúc”. Tôi thực sự không thích cả hai từ đó: Co thắt thực dụng quá, còn thúc mơ hồ quá. Một từ quá sinh học còn một từ thì quá... đời thường. Ít nhất đối với tôi.
Tôi không rõ từ khi nào mình bắt đầu dùng từ “dâng trào tinh hoa”, hoặc trong lúc đỡ đẻ, đơn giản là từ “dâng trào”. Rand tin rằng đó là khi tôi đỡ đẻ Casey, con trai đầu lòng của Nancy Deaver, một ngày sau khi tất cả chúng tôi đứng quanh trụ sở nghị viện bang ở Montpelier, reo hò cổ vũ McGovern. Rand không có mặt tại ca đẻ, dĩ nhiên rồi, nhưng Casey ra đời vào buổi chiều và chính trong bữa ăn tối hôm đó, Rand bảo anh nghe thấy tôi dùng những từ dâng trào và dâng trào tinh hoa.
Có lẽ anh đã đúng. Hẳn tôi đã liên hệ giữa sự ngây ngất của tất cả chúng tôi ở Montpelier khi McGovern phát biểu ngày hôm trước, hầu hết đều không bị hóa chất tác động, với sự ngây ngất của tôi và Nancy vào ngày hôm sau. Tôi đã cảm thấy rất tốt đẹp về hành tinh và tương lai trong cả hai buổi chiều. Khi tất cả chúng tôi đứng trên bãi cỏ của trụ sở nghị viện bang lắng nghe ông ấy, ngoài trời lạnh cóng, và khi hai má tôi lạnh đến nỗi da đau buốt, tôi có thể nhìn thấy hơi thở của mọi người khi họ nói chuyện, trông như họ đang phát tiết tinh hoa của mình một cách rất ư thiêng liêng, ý nghĩa và có lẽ đơn giản là khỏe mạnh.
Và dù tôi luôn hiểu lý do sinh học căn bản của việc dùng từ “co thắt” trong các cơ quan y tế, dựa trên cả ca sinh của Connie lẫn tất cả những ca sinh mà tôi đã chứng kiến, ý tưởng về một sự dâng trào phản ánh cả khát vọng chào đời của đứa bé lẫn sức mạnh không thể tin nổi của người mẹ. “Dâng trào” cũng có thể chính xác hơn về mặt tinh thần, nhất là khi nó được gọi là “dâng trào tinh hoa.”
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
MÃI ĐẾN MÙA THU NĂM 1981 - mùa thu diễn ra phiên tòa của mẹ - bố Rand của tôi vẫn còn để tóc mai dài. Những sợi tóc không bò xuống mặt ông đến khóe miệng như người ta thường để vào những năm 1960 và đầu 1970, nhưng tôi nhớ đã nhìn lên má ông khi chúng tôi ngồi cạnh nhau trong phòng xử án và để ý thấy tóc mai xõa như những móng ngựa quanh tai ông, mọc dài xuống ngay phía dưới dái tai.
Khi lời cung khai tỏ ra đặc biệt bất lợi cho mẹ tôi, hoặc khi mẹ bị luật sư của bang đối chất, tôi đã nhìn bố hồi hộp kéo chùm tóc đen mà ông đã để mọc dài phía sau tai.
LUẬT SƯ WILLIAM TANNER: Vậy bà đã yêu cầu Mục sư Bedford đem đến cho bà một con dao? SIBYL DANFORTH: Đúng.
TANNER: Bà không phải yêu cầu một con dao bất kì. Bà đã yêu cầu một con dao bén, có đúng không? DANFORTH: Có thể. Tôi không nghĩ mình lại đi yêu cầu một con dao cùn.
TANNER: Cả Mục sư Bedford và người học việc của bà đều kể lại rằng bà yêu cầu “con dao bén nhất trong nhà.” Đó có phải là lời của bà không?
DANFORTH: Đó có thể là lời của tôi.
TANNER: Có phải lý do bà cần “con dao bén nhất trong nhà” là vì bà không đem theo dao mổ không? DANFORTH: Ý ông là đến các ca đẻ?
TANNER: Chính xác là vậy.
DANFORTH: Không, dĩ nhiên là tôi không đem theo. Tôi chưa từng gặp một bà mụ nào làm thế cả. TANNER: Bà chưa từng gặp một bà mụ nào đem theo dao mổ à?
DANFORTH: Đúng.
TANNER: Đó có phải là vì bà mụ không phải là bác sĩ phẫu thuật?
DANFORTH: Đúng.
TANNER: Bà có tin rằng bác sĩ phẫu thuật có chuyên môn đặc biệt mà bà với tư cách là một bà mụ không có?
DANFORTH: Lạy Chúa tôi, ông không nghĩ thế à?
TANNER: Thưa bà Danforth?
DANFORTH: Đúng, bác sĩ phẫu thuật biết những điều mà tôi không biết. Tương tự như phi công lái máy bay và cô nuôi dạy trẻ.
TANNER: Bà đang nói đến việc đào tạo của họ?
DANFORTH: Tôi chưa bao giờ nói tôi là bác sĩ phẫu thuật.
TANNER: Một ca mổ đẻ có phải là một ca phẫu thuật không?
DANFORTH: Đương nhiên.
TANNER: Bà có nghĩ bà đủ trình độ thực hiện cuộc phẫu thuật này?
DANFORTH: Ngay cả trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình, tôi cũng không bao giờ hình dung tôi sẽ phải làm thế.
TANNER: Tôi sẽ lặp lại câu hỏi của mình. Bà có nghĩ bà đủ trình độ thực hiện cuộc phẫu thuật này? DANFORTH: Không, và tôi chưa bao giờ nói tôi nghĩ rằng mình đủ trình độ.
TANNER: Vậy mà bà lại làm. Với một con dao bếp, trên một người phụ nữ sống, bà... DANFORTH: Tôi sẽ không bao giờ gây nguy hiểm cho người mẹ để cứu thai nhi... TANNER: Bà không gây nguy hiểm cho người mẹ, bà đã giết...
HASTINGS: Phản đối!
Lẽ ra tôi phải ngạc nhiên khi đến cuối phiên tòa, đầu bố tôi dường như chẳng còn sợi tóc nào. Trong những tấm ảnh chụp vào mùa đông năm sau đó, tóc ông trông như bắt đầu bạc, nhưng tóc mai thì vẫn
nổi bật như mọi khi.
Sứ mệnh của mẹ tôi - đối với bà, nó chưa bao giờ là một công việc hay nghề nghiệp - đồng nghĩa với việc bố phải chăm sóc tôi khi tôi còn bé nhiều hơn các ông bố của bạn bè tôi. Luôn có một danh sách dài các cô trông trẻ đính lên cửa tủ lạnh bằng nam châm, và thỉnh thoảng tôi lại có mặt cùng mẹ tại ca đẻ của một ai đó, nhưng chuyện sinh đẻ thường vừa ngoài dự đoán vừa tốn thời gian, và bố thường xuyên lấp đầy lỗ hổng trông-nom-Connie. Dẫu sao thì tôi vẫn là con một, còn mẹ tôi thì thường biến mất mỗi lần mười hai giờ đồng hồ, hoặc một ngày, hoặc một ngày rưỡi.
Bố tôi không phải là bạn chơi nhiệt tình cho lắm khi tham gia trò mặc áo cho búp bê hoặc đập phá nồi niêu xoong chảo bằng nhựa khắp nhà bếp đồ chơi của tôi (thực ra, ông cũng không được khéo lắm với những vật dụng ấy bằng gang hoặc kim loại), nhưng ông rất sáng tạo khi tôi cần giả giọng mới cho các chú lùn, và cực kì hữu ích khi cần xây một ngôi nhà đồ chơi lâu dài bằng gỗ, hoặc một cái tạm thời bằng bàn chơi bài và drap giường. Ông thường chịu đựng bất kì chương trình nào mà tôi muốn xem trên ti vi, ngay cả khi việc đó có nghĩa là phải vật lộn đến phát cáu để điều chỉnh bộ anten râu trên ti vi suốt mười lăm phút trước khi chương trình của tôi bắt đầu. (Tín hiệu tại chỗ chúng tôi sống ở Vermont kém đến nực cười. Tôi nhớ một ngày mùa xuân nọ - khi mùa bóng chày đã bắt đầu còn mùa bóng rổ và khúc côn cầu đang bước vào giai đoạn các trận hòa không dứt - bố tôi đang xem một trận bóng rổ qua màn hình hạt và nhiễu đến độ mẹ tôi ngồi xuống ghế sofa bên cạnh ông, lật qua các trang tạp chí trong năm, mười phút, rồi ngước lên và hỏi, “Người ta đang chơi môn gì vậy?”)
Bố và tôi cũng dành kha khá thời gian cùng nhau dạo quanh miền Bắc Vermont trên chiếc xe Jeep của ông. Ông thường làm tài xế chở tôi và Rollie đến nhà sách hoặc cửa hàng đồ chơi ở tận Montpelier, cửa hàng bách hóa ở St. Johnsbury, hoặc đến nhà một đứa bạn thứ ba ở Hardwick hoặc Greensboro hoặc Craftsbury. Vào tháng chín và tháng mười, dường như ngày nào ông cũng chở chúng tôi đi đâu đó, rồi sau đó làm việc tại bàn ăn trong nhà suốt đêm để cố gắng bắt kịp công việc mà ông đã bỏ bê vào ban ngày tại văn phòng: Đã có một cuộc bùng nổ dân số đáng chú ý tại hạt vào mùa thu năm đó, khoảng chín tháng sau mùa đông lạnh nhất, khắc nghiệt nhất trong nhiều năm liền, và mẹ tôi rất bận rộn.
Dù cho bố cực kì kiên nhẫn với tôi, và luôn luôn ít nhất cũng làm ra vẻ mãn nguyện trước viễn cảnh lại dành một buổi chiều thứ bảy hoặc buổi tối thứ tư làm bạn với đứa con gái tám, chín tuổi, nhưng tôi biết những yêu cầu trong công việc của mẹ đã làm cuộc hôn nhân của họ trở nên căng thẳng. Khi họ cãi nhau, và tôi nhớ họ cãi nhau nhiều nhất khi tôi học tiểu học, ở độ tuổi mà tôi còn đủ bé để cần người giám sát liên tục và đã đủ lớn để hiểu những xung động của điều đang xảy ra ở chừng mực nào đó, các cuộc cãi vã của họ thường được lọc qua tấm van nhiệt trên trần các căn phòng ở tầng trệt.
“Mẹ kiếp, con bé cần một người mẹ!” bố tôi thường quát lên, hoặc “Cô chẳng bao giờ có mặt ở đây vì con!” hoặc “Tôi không thể làm việc này một mình!” Bất chấp thực tế, ông tiếp tục tin rằng có thể dùng tôi như con át chủ bài để thuyết phục mẹ ở nhà. Điều này không bao giờ phát huy tác dụng, và nó thường xuyên khiến ông phải thay đổi chiến thuật từ tội lỗi sang đe dọa:
“Tôi không cưới cô về để sống một mình trong cái nhà này!”
“Một cuộc hôn nhân cần đến sự quan tâm của hai người, Sibyl ạ.”
“Tôi sẽ có một cô vợ trong đời này, Sibyl. Đó là sự thật.”
Vào lúc bắt đầu của những cuộc cãi cọ này, mẹ tôi luôn có vẻ lúng túng và tổn thương hơn là tức giận, nhưng ẩn sau nỗi buồn ban đầu trong giọng điệu của bà là một sự bướng bỉnh không khoan nhượng, cũng như loại đá granite của Vermont vậy. Bà không thể dừng đỡ đẻ trẻ em nếu người ta không dừng tạo ra chúng.
Nhưng tôi cũng nghĩ rằng bố xứng đáng được điểm cao vì đơn giản đã chịu đựng tất cả những điều đó: Chồng của đa số các bà mụ không chịu đựng nổi giờ giấc làm việc của vợ được lâu, đặc biệt là khi chính họ cũng lên chức bố, và hầu hết bạn bè trong nghề của mẹ tôi đều đã li dị ít nhất một lần.
Các cuộc cãi vã của bố mẹ thường kết thúc trong im lặng, thông thường vì bố tôi nổi tính đa nghi: “Đợi đã. Đứa bé chào đời lúc sáu giờ tối phải không?” Tôi có thể nghe ông hỏi thế. “Ừ. Julia. Thật là một cô bé xinh xắn.”
“Bây giờ hơn chín giờ rồi! Cô làm cái quái gì trong ba giờ đồng hồ qua?”
“Xếp quần áo trẻ con. Anh biết em thích xếp quần áo trẻ con mà.”
“Cô xếp quần áo trẻ con những ba giờ đồng hồ á? Vậy bố mẹ đứa bé hẳn phải làm chủ cả một cửa hàng bán đồ trẻ em đấy.”
“Ôi, vì Chúa, Rand ạ. Anh biết em đâu phải chỉ ở đấy để xếp quần áo trẻ con. Em muốn đảm bảo mọi người đều ổn cả. Đó làcon đầu lòng của họ, anh biết không.”
“Vậy cô dành thời gian bao lâu...”
“Ba mươi phút, Rand à. Có lẽ em đã dành ra ba mươi phút để xếp những bộ đồ sơ sinh và những chiếc áo cổ lọ tí hon của Julia.”
“Nhưng cô đã la cà trong ba giờ đồng hồ...”
“Vâng, đúng thế. Em đảm bảo Julia được bú đầy đủ, và mẹ của Julia đi lại khỏe mạnh. Em đảm bảo gia đình ấy có nhiều thức ăn trong tủ lạnh, và những người hàng xóm đang chuẩn bị đem món thịt hầm đến trong vài ngày tới.”
“Và cô đảm bảo quần áo trẻ con được xếp lại.”
“Còn phải hỏi,” mẹ tôi nói, và tôi có thể mường tượng cảnh bố lắc đầu ngán ngẩm. Một lúc sau tôi nghe ông rời nhà bếp, nơi họ đã cãi nhau, rồi đi một mình lên phòng ngủ của họ trên lầu. Đôi khi, sau đó, tôi nghe họ yêu nhau khi đã làm lành: Đến hôm nay, tôi nhớ tiếng động do giường họ tạo ra là một trong những âm thanh làm vững dạ nhất mà tôi từng nghe.
Không may là, cũng có những cuộc cãi nhau càng lúc càng leo thang và trở nên tồi tệ, đôi khi vì bố tôi đã có hơi men. Ông hẳn đã ngà ngà say khi mẹ tôi về nhà, còn bà hẳn đã rất mệt mỏi và cáu kỉnh. Đây là một sự kết hợp dễ bùng nổ. Và trong khi mẹ tôi sẽ không bao giờ uống rượu để bắt kịp bố - tinh thần trách nhiệm của một bà mụ khiến bà không uống hoặc hút cần sa mỗi khi bà làm nhiệm vụ - nhưng khi bị tổn thương, bà có thể mắng té tát với một nỗi giận dữ vừa lưu loát vừa thô bạo về mặt từ ngữ. Tôi chưa bao giờ nghe bố mẹ tát hoặc đánh nhau, nhưng dưới sự khống chế của rượu scotch rởm và sự kiệt sức, họ thường nói những điều gây tổn thương không kém gì một nắm đấm. Có thể còn hơn cả thế. Tôi đã nghe những từ ngữ và lời đối đáp mà tôi không hiểu vào lúc đó nhưng vẫn khiến tôi hoảng sợ vì tôi biết một ngày nào đó tôi sẽ hiểu ra.
Tôi không bao giờ kể chi tiết các cuộc cãi vã của bố mẹ cho Rollie, nhưng tôi kể cho nó nghe đủ để một ngày nọ, nó cho tôi lời khuyên rất có ích: Thỉnh thoảng thay thế khoảng hai centimet rượu Clan McGregor bằng chừng đấy nước máy. Phải sáng suốt nếu chai rượu sắp cạn, và luôn ghi nhớ trong đầu vị trí chính xác trên nhãn mà chất lỏng chạm đến - chẳng hạn như đường viền của váy người thổi kèn túi hoặc chiếc kèn túi, hoặc đáy của dòng chữ ghi tên nhãn hiệu rượu.
Nó bảo đã làm thế với chính bố mẹ nó trong nhiều năm rồi, và nhìn xem cuộc hôn nhân của họ tốt đẹp thế nào.
Vào những đêm bố chọn cách chôn vùi nỗi bực dọc của mình trong men rượu, các cuộc cãi vã của họ bùng nổ như sấm sét lúc ba giờ sáng: ồn ào và đáng sợ, đôi khi mãi thật lâu sau mới qua đi, nhưng thiệt hại nhìn thấy được mà nó gây ra rất nhỏ. Khi tôi nhìn sân nhà vào buổi sáng sau một trận bão tháng tám
đặc biệt dữ dội và đáng sợ, ánh mặt trời thường hé lộ tổn thất nhỏ nhoi. Vài đóa hoa tú cầu trắng cuối hè vương vãi trên đất; một cây phong yếu ớt mất vài chiếc lá; sau nhà chúng tôi, thậm chí còn có cả một cái cây từ trong rừng, bị gió thổi đến bãi cỏ.
Nhưng ánh mặt trời luôn trấn an tôi rằng bão không bao giờ tồi tệ như âm thanh của nó, và tôi thường cảm thấy thế sau những trận cãi nhau của bố mẹ, khi chúng tôi ăn sáng cùng nhau vào ngày hôm sau. Tôi biết bố mẹ chưa bao giờ ngừng yêu nhau - rất nồng nàn, điên cuồng, hỗn loạn - và một trong hai người luôn có mặt vì tôi.
Căn cứ vào khoảng thời gian mà tôi được bố chở đi khắp nơi khi trưởng thành, chẳng có gì ngạc nhiên khi lần đầu tiên tôi làm quen với gia đình Bedford là khi tôi đi với bố. Nhưng dĩ nhiên số phận hai gia đình gắn kết với nhau chính là thông qua mẹ tôi: Cô Bedford là một bệnh nhân của mẹ và là trung tâm của những bi kịch công khai mà hai gia đình chúng tôi phải đối mặt.
Cô Bedford - Charlotte Fugett Bedford, sau này tôi biết cái tên ấy từ báo chí - đến từ Mobile, Alabama. (Rất dễ liên tưởng cô ấy với “một trong những người mang họ Fugett ở Mobile”, nhưng như thế sẽ hàm ý một dòng dõi ấn tượng hơn thế hệ những người lĩnh canh, bán rượu lậu và trộm cắp vặt mà tôi biết mới thực là tổ tiên cô ấy). Chồng cô, Mục sư Asa Bedford, đến từ một thị trấn nhỏ ở Alabama, nằm cách xa bờ biển, gọi là Blood Brook. Nhiều năm sau, khi tôi quyết định đến thăm vùng này, tôi đã nhìn chăm chú hàng giờ liền vào chấm nhỏ đánh dấu nó trên một tấm bản đồ của câu lạc bộ ô tô tiểu bang trước khi đánh liều đến đó. Khi đến nơi, tôi đã ngay lập tức sợ hãi và ngạc nhiên trước trí tưởng tượng chính xác của mình. Nó là một giao lộ bẩn thỉu tập trung những căn nhà lụp xụp, không khí dày đặc muỗi và ruồi, còn cái nóng có thể khiến những khu vườn của Vermont tàn héo chỉ trong vài phút.
Tôi hình dung ở Blood Brook không có trường học, và quả đúng là như thế. Tôi luôn hình dung ở đó có một nhà thờ để gây cảm hứng cho Mục sư Asa, và đúng là như thế thật. Lớp sơn trắng đã tróc ra khỏi ván như lớp da bị thối rữa, và cỏ nhọn mọc cao từ những khe hở trên lối đi trước nhà thờ: Với một ngày tận thế cận kề, chẳng có lý do gì để sơn phết hoặc nhổ cỏ.
Tuy nền tảng địa lý đó đã được lưu ý, và tính mỉa mai của tôi đã bộc lộ, tôi vẫn muốn nói rằng mình đã rất thích gia đình Bedford khi gặp họ. Đa số mọi người đều đáng mến: Họ là những kẻ cuồng đạo, nhưng cô ấy rất dễ mến, còn Mục sư thì tử tế. Tôi biết họ có tín đồ và cho rằng họ cũng có bạn bè.
Khi mới đến Vermont, nhà Bedford sống cách chúng tôi ba mươi phút về phía Bắc ở Lawson, còn xứ đạo nhỏ bé của Mục sư Bedford thì cách đấy thêm hai mươi hoặc ba mươi phút nữa về phía Bắc, ở Fallsburg. Nhà thờ của Mục sư - một nhà thờ đạo Quaker được tu sửa lại, cách Newport mười sáu cây số về phía Tây Bắc, trên một đường quốc lộ cao tốc hai làn chỉ có cây cối xung quanh- nằm cách biên giới Canada chỉ một cuốc đi bộ sớm. Vào lúc cao điểm, giáo đoàn của Bedford tập hợp khoảng sáu mươi giáo dân từ Vermont và Eastern Townships của Quebec, những người một lòng tin tưởng rằng sự tái lâm của Chúa sẽ diễn ra trong thời đại của họ.
Khi gia đình Bedford đến Green Mountains, tin rằng vùng Vương quốc Đông Bắc[8] quê mùa của Vermont đã đủ chín muồi để tiến hành phục sinh. Họ đã có một đứa con, một cậu bé bảy tuổi tên là Jared, nhưng cô Bedford luôn gọi là Foogie - một cách gọi rút gọn của họ Fugett.
Ngay cả nếu mẹ tôi không làm bà mụ, thì tôi vẫn sẽ gặp gia đình Bedford, dù tôi không tưởng tượng mình sẽ biết về họ rõ như tôi đã biết, hoặc rằng ngày hôm nay tên của hai gia đình sẽ được liên hệ trong đầu nhiều người đến thế. Và dù mối liên hệ đầu tiên của chúng tôi rất phức tạp, nhưng nó cũng tự nhiên, chắc chắn, và không thể tháo rời như một cái cuống rốn vậy. Foogie được bố mẹ dạy học ở nhà, có nghĩa là mẹ của Rollie bạn tôi phải đến thăm họ định kì với tư cách thanh tra giáo dục của bang. Bà McKenna có trách nhiệm đảm bảo rằng gia đình họ tôn trọng những điều cơ bản trong giáo trình cần học. Có thể vì nhà Bedford còn lạ nước lạ cái ở Vermont, có thể vì bà McKenna muốn đảm bảo rằng cậu bé Foogie được tiếp xúc với thế giới bên ngoài nhà thờ của cha cậu càng nhiều càng tốt, bà đã đề nghị con gái mình, Rollie, làm một cô trông trẻ tận tụy và có trách nhiệm với cậu bé.
Vì thế, với tư cách là bạn của cô trông trẻ, tôi đã gặp gia đình Bedford lần đầu tiên khi bố chở tôi đến đấy vào cuối một chiều thứ bảy để chơi với Rollie khi nó trông Foogie tối hôm đó. Rollie đã có mặt từ bữa ăn sáng, trong lúc Mục sư và cô Bedford đến miền Nam New Hampshire để dự hội nghị Người rửa tội của hai bang. Dù họ không phải là người rửa tội, nhưng Mục sư Asa vẫn thường tìm được một hoặc hai gia đình tại những nơi ẩn dật cuối tuần kiểu này, những người sẽ chăm chú lắng nghe ông nói về đức tin của mình, và cân nhắc chuyện mời ông đến nhà thờ của họ.
Ngôi nhà của họ giản dị và cũ kĩ, nằm ẩn sâu trong rừng ở cuối một con đường đất dài. Một thế kỉ trước, khu rừng này từng là đồng cỏ và đất trang trại, bố tôi nói lên quan sát của ông khi lần đầu tiên chở tôi đến đó, chỉ vào những bức tường đá rêu xanh thấp lè tè ngoài cửa xe Jeep mà chúng tôi băng qua khi chiếc xe lóc xóc chạy trên đường. Tôi không thể hình dung ra một điều như thế; tôi không thể tưởng tượng có ai đó có thể khai quang một khu rừng rậm thế này vào thời đại trước khi có sự ra đời của cưa máy và xe chở gỗ.
Dù hầu hết những người nông dân canh tác trên đồi ở Vermont đều rất cẩn thận chọn xây nhà của họ trên đỉnh cơ ngơi của mình, nhưng cũng có vài người vì lý do này hay lý do khác chọn thung lũng - có lẽ vì một người dò mạch nước đã tìm thấy một cái giếng cạn ở đấy. Bất kể ai đã xây nơi ở của nhà Bedford hàng trăm năm trước đều nằm trong số ngoại lệ đó. Tôi có thể cảm thấy mình chúi về trước trong xe Jeep khi chúng tôi tiến xuống sâu hơn vào trong rừng, và sợi dây an toàn để thắt ngang đùi ấn vào eo tôi.
Ấn tượng đầu tiên của tôi về nơi ở của nhà Bedford - một ấn tượng thu được lúc hai tháng trước sinh nhật thứ mười ba của tôi - là một người nào đó có ít tiền hoặc kĩ năng làm mộc đang cố hết sức để giữ nó ngăn nắp. Cỏ mọc cao trong bãi cỏ nhỏ bao bọc quanh ngôi nhà, trông như chưa được cắt vào mùa xuân năm đó (Ngày lễ Tưởng niệm[9] chỉ mới diễn ra cách đó một tuần), nhưng ai đó đã đặt những phiến đá xanh hình vuông trên lối đi từ con đường đất đến cửa trước chỉ mới đây thôi, đến nỗi tôi có thể thấy dấu bàn tay người ấn thẳng xuống đất tại mép các phiến đá. Hai cửa sổ ở tầng thứ nhất của ngôi nhà có những vết nứt dài được dán lại bằng bột matit trắng, nhưng sau khung cửa là những tấm rèm bằng ren trang nhã. Nhiều tấm ván đã mục, nhưng những cây đinh đóng xuyên qua chúng để giữ chúng dính vào các bức tường bên ngoài còn mới đến độ bốn mặt ngôi nhà lấp lánh những đốm bạc nhỏ.
Đó là một ngôi nhà hình hộp hai tầng gọn ghẽ, góc mái nhà rộng và thanh nhã, tường sơn màu vàng hoa thủy tiên. Lớp sơn đã bắt đầu bong tróc, nhưng vẫn đủ sáng để khi Mục sư Bedford khởi động xe chở Rollie và tôi về nhà tối hôm ấy, ánh sáng từ đèn pha khiến ngôi nhà tỏa màu lưu huỳnh rực rỡ.
Vào ngày thứ bảy, tôi gặp ba người nhà Bedford - Foogie vào cuối buổi chiều và vợ chồng Mục sư lúc gần mười giờ tối - chùm tế bào sẽ trở thành Veil (đọc là Vel với lý do mà tôi nghĩ chỉ có Mục sư Asa mới hiểu hết) còn chưa tồn tại, nhưng sẽ hình thành không lâu sau đó.
Bất kể Mục sư Asa che giấu trong người nỗi sợ hay sự phấn khích gì, điều đó thường không biểu hiện trên nét mặt ông. Khuôn mặt ông tròn trĩnh giống như tròng mắt kính ông đeo, còn mái tóc thì đã lùi lại xa trên đầu; tuy thế, phần tóc còn lại rất dày và có màu nâu đỏ. Hầu như lần nào tôi cũng thấy ông mặc áo sơ mi trắng là thẳng thớm, cài nút chỉn chu. Giống như bố tôi, ông là mẫu người mà tôi hình dung rằng khá gầy khi còn trẻ, nhưng giờ đã phát tướng và nặng nề hơn ở tuổi trung niên.
Trông ông giống kiểu doanh nhân nông thôn mà tôi thường thấy ở St. Johnsbury hoặc Montpelier: kém tinh tế, ít nhất là trong mắt tôi, so với những doanh nhân mà tôi đã thấy trên ti vi hoặc bố tôi, đương nhiên.
Ông cũng là một trong số hiếm hoi những người lớn đặc biệt có khả năng giả vờ ngờ nghệch giống hệt một đứa trẻ. Và Foogie sùng bái ông vì điều đó. Tôi thấy Mục sư Asa giả vờ làm con lừa đi trên bãi cỏ bằng tay và đầu gối, khịt mũi, cất tiếng hí và chở đứa con trai khoái chí của mình trên lưng. Tôi chứng kiến vị mục sư đi lạch bạch như vịt để làm Foogie vui, và nghĩ ra các vần điệu để dạy thằng bé đọc một số âm:
“Phóc! Bóc! Ô kìa con sóc!”
“Em thổi kèn, anh rước đèn, các bạn khen!”
“Con cá nằm trong cối đá, đem nấu với cà, đãi được cả nhà!”
Khi ở cạnh Rollie và tôi, ông rất lịch thiệp và nghiêm trang; tôi hiểu ở một chừng mực nào đó rằng ông bị đa số người khác cho là hơi kì lạ, nhưng gia đình tôi và gia đình McKenna chắc chắn không phản đối việc chúng tôi chơi đùa cạnh ông hoặc với gia đình ông. Khu Vương quốc Đông Bắc luôn nổi tiếng về sự mộ đạo và các cộng đồng dân cư, còn nhà thờ nhỏ của Mục sư Asa thì chỉ đơn giản là một ví dụ nữa về sự vô hại.
Mặt khác, dù tôi chưa bao giờ nghe ông truyền đạo, nhưng tôi tưởng tượng ông rất thích điều mà tôi gọi là trường phái thuyết giảng giăng bẫy. Đôi khi ông cho phép mình thốt ra lời bình phẩm trước mặt tôi và Rollie mà tôi dám chắc bố mẹ chúng tôi sẽ tá hỏa nếu chúng tôi kể lại với họ. Vào một đêm trời đặc biệt tối khi ông chuẩn bị đưa Rollie và tôi về nhà sau khi chúng tôi đã trông nom Foogie, ông đứng trên lối đi đá xanh nhìn lên bầu trời đen và lẩm bẩm, “Đêm tối sớm muộn sẽ không còn. Chúng ta sớm muộn sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay mặt trời nữa.”
Lần khác, khi cô Bedford đang ở trên lầu dỗ Foogie đi ngủ và ông thấy những lá thư duy nhất ông nhận được ngày hôm đó là mớ hóa đơn từ công ty điện thoại và khí đốt, ông nói với những chiếc phong bì - không nhận ra Rollie và tôi đang ở trong tầm nghe thấy - “Ta thực tình rất vui lòng trả lại Caesar những gì thuộc về Caesar, nhất là khi ta biết tất cả các ngươi sẽ chết lần thứ hai trong hồ lửa.”
Ông có giọng miền nam đặc sệt, khiến tôi luôn cảm thấy những câu nói của ông nghe như bài hát, dù một số bài hát ấy có thể đáng sợ không ngờ.
Charlotte Bedford là một người phụ nữ nhỏ bé, trông có vẻ yếu đuối, chỉ to hơn Rollie và tôi khi cơ thể chúng tôi đến tuổi dậy thì. Cô không cao, người chỉ có da bọc xương. Da cô lúc nào trông cũng trắng bệch như ma, và tôi tin rằng Charlotte không cố tạo ra vẻ bề ngoài đó. (Vài năm sau, khi nhà Bedford đã đi qua cuộc đời gia đình tôi như một thiên tai, tôi vào học cao đẳng ở Massachussetts. Trong năm thứ hai ở trường, tôi kết bạn với một hoa khôi đến từ một thị trấn trên hồ Pontchartrain, Lousiana, và cô ấy thực sự cố gắng để trông trắng bệch như bột, vì thế tôi tin mình biết sự khác biệt.)
Nhưng cô không xử sự như thể mình ốm yếu, và điều đó rõ ràng trở thành một vấn đề quan trọng tại phiên tòa. Mẹ tôi tin là có một sự khác biệt quan trọng giữa yếu đuối và ốm yếu. Bà đã khuyến nghị nhiều phụ nữ có tiền sử bệnh tật không nên đẻ con tại nhà, nhưng những người phụ nữ gây cho ta ấn tượng họ trông thật yếu đuối tại khu mua sắm hoặc nhà thuốc thực tế lại không có vấn đề gì về sức khỏe - những phụ nữ đó mẹ tôi rất sẵn lòng giúp đỡ khi họ có mang. Mẹ tôi tin rằng đẻ tại nhà là một trải nghiệm cực kì mạnh mẽ và tăng cường sức lực, nó cho những người phụ nữ yếu đuối nguồn năng lượng, sự tự tin, và sức mạnh: Họ biết cơ thể mình có thể làm được gì, và nó cho họ sự động viên.
Và tôi biết mẹ tôi đã nhận ra khá nhanh rằng Charlotte chưa sẵn sàng cho những ngày ngắn ngủi, cái lạnh tê tái, và những trận tuyết rơi không dứt của mùa đông Vermont. Đặc biệt là mùa đông Vermont nằm cách không xa biên giới phía Bắc của bang. Ngay từ đầu tháng mười, khi Charlotte ở thai kì thứ hai và đến khám thai định kì ở phòng mạch của mẹ tại nhà chúng tôi ở Reddington, cô đã hốt hoảng và lo lắng khi nói về thời tiết.
“Tôi thật không biết chúng tôi phải làm gì ở trên này, tôi thật không biết chúng tôi sẽ vượt qua thế nào đây,” tôi nghe cô nói với mẹ tôi. “Asa thậm chí còn không có thời gian để sắm một chiếc xẻng xúc tuyết, mà tôi thì chẳng biết tìm một đôi bốt thích hợp ở đâu nữa. Và chúng sao mà đắt quá, đắt kinh khủng.”
Họ đã đến Vermont vào khoảng thời gian tốt nhất trong năm để rồi bị huyễn hoặc với niềm tin sai lầm rằng bang này có khí hậu thân thiện, chào đón, và ôn hòa. Tôi có thể hình dung suy nghĩ của cô khi họ đến vào giữa tháng tư, ngay sau mùa bùn kinh khủng của năm đó, khi những quả đồi lởm chởm đá của Vermont - những quả đồi dày đặc cây phong, cây thông và tro bụi - bùng nổ màu sắc sau một đêm, còn ngày đang trở nên dài và ấm hơn. Có lẽ cô đã tưởng tượng những mùa đông thần thoại thực ra chỉ là như thế: là thần thoại mà thôi. Đương nhiên trời có tuyết, nhưng chính quyền có máy cào tuyết. Có thể đôi khi
mưa sẽ đóng băng, có thể đường chạy xe vào nhà sẽ lầy lội một chút vào tháng ba... nhưng không có gì mà một mục sư và gia đình ông lại không thể giải quyết.
Nhưng cô đã được biết đến một mùa thu khó chịu ở Vermont còn mùa đông thì thậm chí khắc nghiệt hơn nữa. Có một đợt sương giá rét mướt vào cuối tháng tám năm đó, và cô đã mất sạch số hoa cô trồng ven lối đi lát đá xanh vào mùa xuân trước; có một đợt tuyết nhẹ trong tuần thứ hai của tháng chín, và tuyết đã đóng dày hơn hai mươi centimet vào ngày thứ sáu và thứ bảy của lễ Columbus.
Charlotte có đôi mắt màu xám như đá mặt trăng, mái tóc mỏng màu rơm. Cô trông cũng xinh, nếu bạn không bận tâm đến cảm giác yểu mệnh phảng phất nhưng không thể nhầm lẫn dường như phát ra từ làn da tái nhợt đó.
Rollie và tôi đón Lễ Quốc khánh ở nhà Bedford, trông nom Foogie. Buổi chiều chúng tôi mặc áo phông và quần sooc, nhìn Foogie mặc đồ tắm chạy tung tăng dưới bình phun nước, rồi sau đó dùng vòi xịt nước vào cậu bé. Nó rất thích. Nó có làn da trắng giống mẹ, gần như trong suốt, nhưng lại có mái tóc màu đỏ và cái đầu tròn của Mục sư Asa. Nó là một đứa bé đáng yêu, nhưng lại thừa hưởng những nét xấu xí của bố mẹ nó.
Rollie lúc bấy giờ đã có kinh, còn tôi thì chưa. Nó đang gặp “đèn đỏ” lần thứ tư vào cuối tuần đó, một sự thật mà nó chẳng lấy gì làm tự hào khi chia sẻ với tôi: sự đau đớn của những cơn co thắt mà nó đang khổ sở chịu đựng, lượng máu chảy mà nó nói là quá mạnh đến nỗi nó phải bỏ tôi một mình với Foogie hầu như mỗi tiếng một lần để chạy vội vào trong thay băng vệ sinh mới.
Một lần khi Foogie không nghe thấy, tôi trêu Rollie, bảo rằng nó đang bịa ra chuyện “đèn đỏ”. “Sao cậu có thể nói như thế?” nó hỏi.
“Quần sooc màu trắng của cậu,” tôi trả lời. “Khi tớ có kinh, còn lâu tớ mới mặc quần trắng. Nhỡ băng bị tràn thì sao?”
“Băng không bị tràn đâu,” nó nói chắc nịch, với giọng ngụ ý tôi chả biết tí ti gì về điều mình đang nói. “Vả lại, tại sao tớ phải nói dối là tớ đang có kinh cơ chứ? Đây đâu phải là một lớp tiếng Pháp mà tớ muốn trốn học.”
Tôi nhún vai để nói rằng mình không biết, nhưng tôi biết. Hay ít ra tôi nghĩ rằng tôi biết. Rollie và tôi đều là những cô gái xinh xắn, nhưng tôi có thứ mà nó không có: bộ ngực. Không quá to đến mức lũ con trai sẽ trêu chọc tôi hoặc làm tôi cảm thấy xấu hổ, nhưng rõ ràng đủ để một người như Rollie phải chú ý. Có lẽ chính vì sự vô tư của mẹ tôi về cơ thể, về chuyện đẻ đái, về chuyện một đứa bé hình thành trong dạ con như thế nào, mà Rollie và tôi đã trở thành những đứa con gái biết tuốt. Chúng tôi nói chẳng bao giờ đủ về chuyện hôn hít, vuốt ve và ngừa thai - bao cao su, thuốc, màng chắn, và một thứ khiến cả hai đứa không khỏi kinh hoảng, gọi là vòng tránh thai.
Nằm giữa những quyển tiểu thuyết trinh thám bìa mềm đã quăn góc mà bố mẹ Rollie đặt trên kệ sách trong phòng ngủ của họ là quyển sách đã được đọc nhiều lần mang tên Người đàn ông đầy khoái cảm và - phía sau dãy sách bìa mềm, tựa vào bức tường của kệ sách - là một quyển sách bìa cứng nhan đề Lạc thú tình dục. Rollie và tôi thường cùng nhau đọc quyển sách ấy tại nhà nó, và thu thập từ đó một sự hiểu biết trước tuổi đáng sợ về những chuyện như liếm mút cho nữ, liếm mút cho nam, và mọi cách kích thích trước khi giao hợp. Chúng tôi tưởng tượng người tình của mình sau này sẽ thực hiện những động tác được đề nghị trong sách: đút chiếc lưỡi cong của họ vào cốc uống rượu mạnh, chống đẩy hàng giờ liền. Khi ấy tôi vẫn chưa từng nhìn thấy một cái dương vật thật, và tôi có cảm giác sự cương dương thật có thể khiến tôi sợ đến chết nếu tôi bị như thế, nhưng giữa những chi tiết giải phẫu học về cơ chế hoạt động của bộ phận sinh dục nam và nữ mà tôi đã lượm lặt được từ mẹ qua thời gian, và cảm giác thỏa mãn có được từ những cơ quan này như đề cập trong sách của bà McKenna, tôi nghĩ mình ít bị lúng túng về chuyện tình dục hơn rất nhiều so với đa số những đứa con gái tuổi tôi vào mùa hè giữa lớp sáu và lớp bảy. Rollie cũng thế.
Cả hai đều hi vọng rằng khi chúng tôi trở lại trường vào mùa thu, lũ con trai sẽ bắt đầu để ý chúng tôi. Chúng tôi không cao lắm, mà điều đấy rất quan trọng, và chúng tôi không có mụn. Chúng tôi thông minh, điều mà tôi biết sẽ làm vài cậu trai phát khiếp, nhưng không phải kiểu con trai mà chúng tôi thích: Có lẽ không có thứ gì làm một chàng trai như Tom Corts sợ hãi, chúng tôi nghĩ thế, và chắc chắn không phải là thứ vô hại như sở thích đọc sách.
Và, may mắn thay, ngoại hình chúng tôi không giống nhau, chúng tôi cho đó là điều tốt: Nó sẽ giảm thiểu khả năng một cậu con trai có thể thích cùng lúc cả hai chúng tôi, hoặc chúng tôi cùng thích cậu ta. Chúng tôi hiểu từ những năm tháng cưỡi ngựa và chơi đùa cùng nhau rằng chúng tôi là một đôi cạnh tranh với nhau, và vì tôi có tóc vàng hoe trong khi Rollie tóc nâu, tôi có mắt xanh còn nó mắt nâu, điều đó sẽ giảm thiểu khả năng một đứa con trai can thiệp vào tình bạn của chúng tôi.
Hoặc, như Rollie giải thích vào ngày Lễ Quốc khánh năm đó, “Con trai săm soi chúng ta như chúng ta săm soi lũ ngựa: màu lông, chiều cao, mắt, đuôi. Bọn họ không thể không có sự thiên vị.” Con ngựa của Rollie màu nâu hạt dẻ, và theo quan điểm vũ trụ học của Rollie McKenna về sự thiên vị, điều đó có nghĩa là Rollie có thể luôn luôn thích ngựa màu hạt dẻ đến hết đời. Bản chất con người mà.
Chiều hôm đó Rollie giúp tôi lên phương án để duy trì liên lạc với Tom Corts cho đến khi trường học khai giảng lại vào tháng chín và chúng tôi sẽ ở bên nhau trong cùng khu mê cung bằng gạch giống như trò lắp ghép Lego mà một người nào đó nghĩ rằng là thiết kế thích hợp cho một ngôi trường. Tom có việc làm vào mùa hè năm ấy và tôi xem đó như là một trong những tín hiệu (chẳng hạn như, tủ quần áo dường như chỉ có toàn áo cổ lọ màu đen của anh) rằng anh muốn làm được nhiều việc hơn là sửa xe ô tô trong garage tồi tàn của gia đình, hoặc phóng bạt mạng trên xe máy cho đến khi đội cứu hộ đưa vội anh vào bệnh viện với một tay hay một chân treo lủng lẳng. Anh đang làm việc cho Powder Peak, khu nghỉ mát trượt tuyết gần đó, xén cỏ quanh khu nhà nghỉ tầng hầm, cũng là nơi đặt văn phòng làm việc của công ty, và làm trợ lý cho đội bảo trì khi họ cần điều chỉnh ghế ngồi trên cáp đưa người trượt tuyết lên núi và lau chùi máy móc. Anh sắp mười lăm tuổi (cũng như tôi sắp lên mười ba), và anh có thể tụ tập với anh em và bố của mình ở garage, anh có thể dành cả tháng bảy và tháng tám để hút thuốc vô tội vạ với bạn bè của anh em và bố, nhưng anh đã không làm thế: Anh đi nhờ xe lên núi vào mỗi buổi sáng và đi nhờ một thành viên của đội bảo trì về nhà mỗi buổi tối. Dù xén cỏ và tra dầu ghế cáp chẳng có gì là to tát, nhưng vì anh làm việc đó ở cách nhà vài cây số, nên tôi thấy anh rất có chí.
Dĩ nhiên, công việc cũng khiến anh phần lớn thời gian không có mặt ở làng. Dù Tom và tôi chỉ mới hôn nhau một lần, và lần duy nhất đó đã là ba tháng rưỡi trước, nhưng tôi vẫn tin chắc rằng chúng tôi có thể có tương lai nếu một trong hai đứa tìm được cách đưa cơ thể mình vào trạng thái gần gũi hợp lý. Tôi tin rằng Tom đã không cố hôn tôi lần nữa vì hai lý do đơn giản, và theo thiển ý tôi, khiến tôi vững dạ. Thứ nhất, anh lớn hơn tôi hai tuổi, và do đó với sự ga lăng của một đấng nam nhi tử tế và hiểu biết, sợ rằng tôi còn quá bé để hôn thường xuyên. Ngoài ra, chuyện anh lớn hơn tôi hai tuổi còn có nghĩa đường đời chúng tôi đơn giản là không giao nhau với bất kì tần số nào - chắc chắn là không giao nhau từ tháng chín đến tháng sáu, khi cả hai cùng học trường trung học công đoàn nhưng lại có cả một khối nằm giữa hai chúng tôi như một vùng đệm, và giờ đây vào mùa hè cũng thế, vì anh có người lớn cho đi nhờ đến khu nghỉ mát trượt tuyết.
Nếu Rollie không tin chắc như tôi rằng Tom Corts là định mệnh của tôi, thì nó ít nhất cũng đồng tình rằng anh là một chàng trai tốt để tôi hẹn hò. Anh thông minh, độc lập, và dễ thương. Và bởi sẽ chẳng còn khả năng nào để đường đời của Tom và tôi giao nhau vào mùa thu, khi anh học lớp mười còn tôi học lớp tám, Rollie tin rằng chúng tôi phải cố gắng thúc đẩy mối quan hệ vào mùa hè. Trong tâm trí của một cô bé mười ba tuổi như Rollie, điều này có nghĩa đơn giản là phải hiện diện trước mắt Tom để anh lại có thể nảy ra sáng kiến gì đó.
“Quán kem tươi,” nó chu đáo đưa ra đề nghị với tôi vào chiều hôm đó. “Cậu phải lượn lờ ở quán kem tươi một khi đã xác định được khi nào anh ấy đến đó.”
“Tớ sẽ không lượn lờ ở quán kem tươi đâu. Tớ sẽ béo lên cho mà xem.”
“Cậu không cần phải ăn gì cả. Cậu chỉ cần đến đó.”
“Không đời nào. Tớ nghĩ tớ sẽ bị ốm nếu hít quá nhiều dầu mỡ từ món khoai tây chiên.” “Cậu đâu có hít vào dầu mỡ.”
“Và tớ sẽ bị nổi mụn.”
“Cậu có thể sẽ nổi mụn khi cậu có kinh.”
“Cậu đâu có!”
“Tớ rửa mặt bảy tám lần mỗi ngày. Hai giờ một lần.”
“Vậy thì tớ cũng sẽ làm thế. Cậu nghĩ tớ là gì chứ, con lười à?”
“Tớ nghĩ cậu đang lý do lý trấu để khỏi chạm mặt Tom vì cậu mắc cỡ.”
“Tớ chẳng thấy cậu có tình cảm đặc biệt với ai.”
“Hiện giờ chẳng có đứa con trai nào khiến tớ quan tâm cả.”
Tôi lắc đầu, trong lúc Foogie chĩa vòi nước vào một tổ ong bầu gần mái hiên của ngôi nhà. “Tớ sẽ không lượn lờ ở quán kem tươi, đơn giản thế thôi.”
“Cậu có ý gì hay hơn không?”
“Có thể là cửa hàng bách hóa. Anh ấy phải mua thuốc lá trước khi lên núi.”
“Hoặc khi anh ấy về nhà.”
“Ừ.”
“Cậu không thể lảng vảng ở cửa hàng bách hóa, cậu biết mà.”
“Nhưng tớ có thể đến đấy khi anh ấy ở đó.”
Và câu chuyện tiếp diễn đến gần hết ngày. Chúng tôi vẫn ở bên ngoài, ngồi trên bậc tam cấp trước nhà đợi vợ chồng Bedford về, khi chiều chầm chậm chuyển sang tối. Qua cửa sổ phòng khách, chúng tôi nghe thấy Foogie đang xem phim truyền hình nhiều tập cũ phát lại trên ti vi, trong lúc đâm một chiếc đĩa bay bằng nhựa vào chiếc gối phồng trên ghế sofa hết lần này đến lần khác.
Những câu chuyện mà các luật sư và nhà báo sẽ chọn để kể - dù trong tâm trí tôi, chúng chắc chắn không phải là câu chuyện của mẹ tôi - bắt đầu từ buổi chiều hôm ấy. Vợ chồng Bedford về nhà lúc sáu giờ, sau khi hầu hết các cuộc liên hoan ngoài trời ở Vermont đã bắt đầu bốc khói, nhưng còn cách vài giờ trước khi màn trời đêm được thắp sáng với những chùm pháo hoa gầy gò, rực rỡ. Khi Mục sư Bedford đang trả tiền cho Rollie (một khoản phí mà nó sẽ chia với tôi ngày hôm đó, dù nó mới là người trông trẻ chính thức của Foogie), cô Bedford kéo tôi vào nhà bếp.
Bằng một giọng thì thào mềm mỏng, bằng một ngữ điệu cho thấy cô đang trao đổi về một đề tài bị cấm đoán một cách mơ hồ, cô hỏi, “Connie à, mẹ của cháu, bà ấy có đúng là bà mụ không?”
5
Tôi đã đỡ đẻ cho hai thợ làm bánh, nhưng chưa đỡ đẻ cho nhân viên nhà băng nào.
Các bà mẹ của tôi là họa sĩ, nghệ sĩ điêu khắc, nhiếp ảnh gia, và tất thảy những người được trời phú cho tài năng thực sự tuyệt vời. Có ba bà mẹ của tôi là những nghệ sĩ đan sợi cực kì tài giỏi, và hai người trong số đó đã đan nên những tấm thảm kì diệu nhất mà tôi từng thấy trong đời. Khi có những cha mẹ là nghệ sĩ nhưng nghèo túng, tôi đã được trả công bằng những chiếc chăn thủ công do chính họ làm ra, những bức tranh, tác phẩm chạm trổ và tranh thủy tinh màu. Ngôi nhà chúng tôi đẹp đẽ là nhờ sự trao đổi hàng hóa.
Và cũng có nhiều nhạc sĩ trong số các ông bố bà mẹ của tôi, trong đó có cả Banjo Stan. Và Sunny Starker. Và nhóm Tullys.
Có những thanh niên làm trang trại, thợ mộc - có lẽ số lượng đủ để xây thành Rome trong một ngày - vợ của những người điều hành báo in, những chị em làm trang sức, gốm, làm nến từ sáp ong. Nếu tôi xem lại sổ sách của mình, tôi có thể tìm thấy một vài giáo viên, một biên tập viên báo chí, những người thợ điện làm công nhật, một chị chuyên làm đẹp cho chó, một anh thợ cắt tóc, vợ của những thợ cơ khí ô tô, chồng của những cô bồi bàn đang chuyển dạ, một đôi vợ chồng hướng dẫn trượt tuyết, người quét dọn ống khói, thợ lợp mái nhà, mục sư, thợ đốn gỗ, thợ hàn, thợ đào đất, một cô nhân viên mát xa, thợ máy, người điều khiển cần cẩu, một nữ giáo sư, và đại biểu nữ đầu tiên của bang chuyên trách giao thông và du lịch.
Nhưng không có nhân viên nhà băng. Không luật sư. Và không bác sĩ.
Không có người làm quảng cáo để kiếm tiền, hoặc trám răng, hoặc tính thuế của người khác. Không có người, như Rand, thiết kế nhà hoặc cao ốc hoặc trung tâm khoa học của trường cao đẳng.
Những kiểu người đó thường thích chọn bệnh viện hơn sinh tại nhà, và chọn bác sĩ sản phụ khoa hơn... hơn những người như tôi. Thế cũng hay. Họ nghĩ như vậy an toàn hơn, và dù thống kê cho thấy trong hầu hết các trường hợp, sinh tại nhà cũng không rủi ro hơn sinh tại bệnh viện là bao, nhưng họ cần làm những gì đúng đắn đối với họ. Tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn bình thường.
Ðôi khi tôi chợt nghĩ thật buồn cười khi tôi chưa bao giờ đỡ đẻ cho một nhân viên nhà băng. trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
KHI MỘT CHIẾC MÁY BAY BỊ RƠI, thường là có hơn một thứ gặp trục trặc. Hệ thống an toàn trên những chuyến bay chở khách chồng chéo lên nhau, và trong đa số trường hợp cần một chuỗi những sai sót và xui xẻo để một chiếc máy bay cày xuống một khu rừng ở ngoại ô Pittsburgh, hoặc trượt khỏi một đường băng ở La Guardia vào Vịnh Flushing. Một chiếc máy bay Fokker F-28 do hai phi công kì cựu điều khiển một ngày nào đó có thể chúi mũi xuống hồ Champlain vài giây trước khi hạ cánh xuống sân bay Burlington cạnh bên theo kế hoạch, làm thiệt mạng ít nhất năm mươi sáu hành khách và bốn người trong phi hành đoàn, nhưng một vụ rơi máy bay như thế dù gì thì gì cũng cần phải có một chuỗi những lỗi do con người và sai sót cơ khí. Một cơn gió nghịch chiều đương nhiên có thể hạ chiếc Fokker F-28 đó, gí nó xuống đất đột ngột từ độ cao tám, chín trăm mét, và một ngày nào đó điều đó sẽ xảy ra, nhưng có lẽ chỉ gió thôi là chưa đủ.
Cần phải có thêm, ví dụ như, cơ trưởng bị ốm khi ông lẽ ra phải có mặt tại buổi huấn luyện định kì của hãng hàng không về gió nghịch chiều - khi nào thì nó xảy ra, làm sao để đưa một chiếc máy bay băng qua nó.
Hoặc có thể đó đã là một chuyến bay êm ái từ Chicago đến Burlington, và dù cho lúc này mây xám đang cuồn cuộn còn sấm dội rền vang ở Tây Bắc Vermont, nhưng chuyến bay nhẹ nhàng tiến về hướng đông đã ru ngủ các phi công một chút, và họ đang phớt lờ quy định buồng lái nghiêm ngặt của Cục Hàng không liên bang Mỹ về việc cấm các cuộc nói chuyện ngoài lề dưới độ cao ba nghìn mét. Có thể viên phi công đang bình phẩm về việc các con của ông rất thích đi bộ đường dài vào rừng sâu ở Đông Bắc Burlington đúng vào lúc cơn gió nghịch chiều đập mạnh lên nóc máy bay, lời bình của ông về rừng rậm làm trì hoãn một giây quan trọng việc đưa ra quyết định tăng tốc máy bay lao về trước và bỏ lệnh hạ
cánh.
Hoặc có thể đúng vào giây phút còi báo động gió nghịch chiều trong buồng lái gào lên âm thanh cảnh báo nhức óc và viên phi công theo bản năng lái máy bay sang bên phải để tránh hạ cánh, nhân viên không lưu ở tháp điều khiển Burlington đang thông báo với ông về cơn gió và yêu cầu tăng độ cao lên về phía bên trái; trong mớ hỗn loạn cảnh báo - một máy, một người - chỉ cần nửa giây chần chừ cần thiết để cơn gió đẩy chiếc máy bay lắp ráp từ những năm 1970 xuống hồ nước chứa hàng trăm chiếc phà, xuồng, và những khẩu đại bác bằng sắt từ thế kỉ mười tám và mười chín.
Tôi đang kể với bạn những điều này vì đó là những gì luật sư của mẹ tôi nói đến rất nhiều khi ông ấy mới nhận lời bào chữa cho bà. Ông có thể nói thao thao bất tuyệt, luôn luôn dẫn đến một quan điểm giống nhau. Đại khái là, phân phải thực sự đập vào cánh quạt thì máy bay mới rơi chúi mũi được.
Luật sư của mẹ tôi từng là thợ cơ khí mặt đất trong không lực hồi chiến tranh Việt Nam, nhưng vô cùng khát khao được trở thành phi công: Tuy nhiên, do vừa mù màu vừa cận thị, nên thị lực của ông không cho phép ông làm điều đó. Như tôi nhớ, cách nói ví von của ông vào năm 1981 chủ yếu xoay quanh cánh máy bay đóng băng thay vì gió nghịch chiều, hoặc - một cách nói rất ưa thích của ông ấy - chuỗi những sự kiện bất ngờ thường phải xảy ra để khiến một chiếc máy bay phản lực bị rơi vì nó hết nhiên liệu. Nhưng ông rất thích kiểu nói ví von của mình.
Lúc ông ngồi ở bàn ăn trong nhà chúng tôi giữa những chồng giấy ghi chú màu vàng, hoặc lúc ông đi đi lại lại trong nhà bếp, thỉnh thoảng dừng lại trước khung cửa sổ nhìn ra con đường trượt tuyết trên núi Chittenden, quan điểm của ông trong suốt những ngày và đêm đó là bất biến khi ông bắt đầu chuyển dịch tất cả những biến số trong đầu: Cần phải có cùng một chuỗi những bất hạnh và sai lầm để một bệnh nhân của mẹ tôi chết trong lúc sinh con, cũng như để một chiếc máy bay rơi xuống.
Và sự việc có vẻ là như thế, ít nhất là lúc đầu, trong cái chết của Charlotte Fugett Bedford. Cô ấy chết vào giữa tháng ba, sau một cơn đau đẻ dài như ác mộng. Lớp băng đá rơi mãi không ngừng đêm hôm đó đã làm mẹ tôi và người học việc của bà kẹt lại với Mục sư Asa và Charlotte. Ngay cả xe tải chở cát và xe xúc tuyết còn bị trượt ra khỏi mặt đường như những chiếc xe trượt tuyết bằng nhựa. Điện thoại không bị mất tín hiệu quá lâu vào ngày 14 tháng ba, nhưng chúng đã mất tín hiệu đúng vào khoảng bốn giờ sinh tử từ mười hai giờ hai mươi lăm đến bốn giờ mười lăm sáng hôm đó.
Và có một lúc Charlotte thực ra đã có biểu hiện khiến mẹ tôi lo sợ hiện tượng nhau bong non: Nhau bong ra khỏi thành dạ con, khiến người mẹ có thể chảy máu đến chết. Có lúc Charlotte chảy máu xối xả từ âm đạo, và cơn đau trong người cô dường như nghiêm trọng hơn kiểu đau đẻ tự nhiên. Nhưng máu đã chảy chậm lại thành nhỏ giọt, rồi dừng hẳn, và nếu nhau có bong non, thì rõ ràng nó đã vón lại và bắt đầu tự lành.
Lại có lúc huyết áp của Charlotte hạ xuống mức bảy mươi lăm trên năm mươi trong thời gian ngắn, còn nhịp tim của thai nhi chậm lại trong khoảng sáu mươi đến bảy mươi nhịp một phút. Mẹ tôi và trợ lý của bà chỉ mới làm việc cùng nhau được ba tháng tính đến tháng ba năm đó, và Anne Austin vẫn còn phải học hỏi nhiều: khi cô ấy - một cô gái trẻ chỉ mới hai mươi hai tuổi - đặt ống nghe lên bụng Charlotte và nghe thấy tim đứa bé đập chậm lại, cô đã bật khóc để mẹ tôi nghe thấy, điều đó dĩ nhiên khiến Charlotte sợ hãi khóc thành tiếng.
Rõ ràng đã có náo loạn trong căn phòng đó ngay cả trước khi điều tồi tệ nhất xảy ra.
Do đó, khi Stephen Hastings - từ cựu binh Việt Nam chuyển sang làm luật sư Vermont - mới nhận lời đại diện cho mẹ tôi, ông đã kết luận rằng hẳn phải có một sự kết hợp giữa thời tiết khắc nghiệt, đường dây điện thoại bị đứt, và vận xui để Charlotte Bedford tử vong. Trong suy nghĩ của ông, nếu không có băng đá trên đường, mẹ tôi hẳn đã lái xe chở bệnh nhân của bà đến bệnh viện ở Newport. Nếu điện thoại hoạt động được, bà hẳn đã gọi cho đội cứu hộ, và họ hẳn đã tức tốc đưa Charlotte đến đó. Và, đương nhiên, mẹ tôi sẽ làm mọi điều có thể nếu Charlotte bị sốc vì nhau bong non. Mẹ tôi đã chuẩn bị cung cấp khí oxy. Bà đã chỉ đạo Anne lôi từ trong chiếc túi đồ nghề bằng vải in hoa ra nào ống nhựa, nào kim và túi chất dịch trong suốt mà bà sẽ truyền cho Charlotte để giữ cho cô không bị mất nước... nhưng Charlotte
đột nhiên ổn định.
Không, nguyên nhân tử vong không phải là nhau bong non, như khám nghiệm pháp y sau này khẳng định. Và mẹ tôi hiểu điều này rất rõ trước khi cơn khủng hoảng thật bắt đầu: một thứ giống như chứng phình động mạch não ở đâu đó sâu bên trong não của Charlotte.
Đôi khi tôi nghe mẹ cố gắng giải thích với Stephen rằng dù đã có những khoảnh khắc hỗn loạn và lúng túng vào đêm đó, nhưng chuỗi những sự kiện tước đi mạng sống của Charlotte Fugett Bedford lại không hề phức tạp như kiểu chuỗi sự kiện lôi máy bay từ trên trời và con người vào chỗ chết. Bà cố gắng nói với ông rằng nó vô cùng bình thường, và ông luôn từ tốn nhắc bà rằng nó không phải thế.
Hoặc ít nhất là, ông ấy thường nói, nó không bình thường trong mắt bồi thẩm đoàn. Và rồi họ lại thảo luận một lần nữa điều không thể chối cãi đã xảy ra trong căn phòng ấy.
Charlotte Fugett Bedford chuyển dạ đứa con thứ hai của cô vào ngày thứ năm, 13 tháng ba, năm 1981. Các cơn co thắt của cô bắt đầu xuất hiện vào cuối buổi sáng, và Charlotte kết luận rằng cơn đau lưng của cô chẳng liên quan gì đến cách cô nhấc chiếc máy hút bụi lên khi lau xong phòng khách. Vào lúc một giờ ba mươi lăm, cô gọi điện cho chồng mình ở văn phòng của ông tại nhà thờ và nói chuyện với ông trong ba phút. Vào lúc một giờ bốn mươi, cô gọi cho mẹ tôi, gặp bà lúc bà đang chuẩn bị ra khỏi nhà để thay dầu chiếc xe nhà ga. Charlotte và mẹ tôi nói chuyện trong sáu phút.
Mẹ tôi biết Charlotte đã chuyển dạ rất dễ dàng khi sinh Foogie, dù giai đoạn đầu - khoảng thời gian khi cổ tử cung mở đến mười centimet, và các cơn co thắt trở nên dài hơn, thường xuyên hơn, và ồn ào hơn - đã diễn ra trong một ngày rưỡi dưới cái nóng của Alabama. Tuy nhiên, giai đoạn thứ hai lại rất ngắn: Khi Charlotte đã sẵn sàng rặn, cô đẩy Foogie qua khe sinh sau hai mươi phút.
Dù không có bản ghi chép nào về cuộc nói chuyện của mẹ tôi và Charlotte trên điện thoại, nhưng bên công tố chưa bao giờ nghi ngờ lời khai của bà. Bà kể Charlotte nói với bà những cơn co thắt của cô vào đầu buổi chiều thứ năm hôm đó vẫn còn cách nhau hai mươi phút và kéo dài khoảng ba mươi hoặc ba mươi lăm giây. Vì thế mẹ tôi quyết định vẫn đi thay dầu xe như đã dự định và sau đó tiến về phía bắc đến nhà Bedford. Bà tính toán mình sẽ đến đó lúc ba giờ hoặc ba giờ ba mươi, và bà đã đúng.
Tuy nhiên, bà đã gọi điện cho người học việc mới và yêu cầu Anne đến nhà Bedford ngay lập tức. Bà không biết khi nào Mục sư Asa mới về, và bà muốn đảm bảo Charlotte có người bên cạnh.
Tôi nhớ mình đã bước xuống xe buýt đưa đón học sinh ở Reddington buổi chiều hôm đó đúng vào lúc bầu trời bắt đầu phụt xuống một cơn mưa tháng ba lạnh buốt. Trên núi vẫn còn một tấm chăn tuyết dày, được làm mới có lẽ hai ngày một lần, nhưng trận tuyết duy nhất ở Reddington ngày hôm đó là dòng chảy chậm dọc những mặt tối của các tòa nhà. Nhiệt độ vẫn lơ lửng giữa khoảng âm sáu đến âm một độ trong phần lớn các buổi chiều, nhưng chúng tôi biết mùa đông đang lui dần và mùa bùn sẽ sớm đến.
Tôi không ngạc nhiên rằng mẹ đã đi vắng khi tôi bước vào nhà. Tôi không cần đọc lời nhắn bà viết bằng cây bút nỉ mực xanh mà bà yêu thích, để biết bà đang đến nhà Bedford. Tôi đã trông đợi lời nhắn ấy nhiều ngày rồi.
Vào khoảng cùng lúc tôi đi học về, một trong các giáo dân của Mục sư Asa ghé qua nhà Bedford để đón Foogie. Nhà của gia đình Bedford rất nhỏ, và bố mẹ của Foogie đã đồng ý rằng tốt nhất là để cậu con trai ở một nơi nào khác khi em nó chào đời.
Giai đoạn chuyển dạ đầu khi sinh đứa con thứ hai của Charlotte lâu hơn rất nhiều so với dự đoán của hầu hết các bà mụ và bác sĩ. Mẹ tôi đến nhà Bedford vào tầm giữa buổi chiều, và khai trước tòa rằng bà dự tính Charlotte sẽ sinh con không lâu sau bữa tối. Bà nói bà chưa bao giờ đi đến một ca đẻ mang theo bất kì hi vọng nào, hoặc mục tiêu tính theo giờ nào trong đầu: chẳng hạn như một giai đoạn đầu thì phải kéo dài mười giờ, sau đó là chín mươi phút rặn. Bà nói không một bà mụ hay bác sĩ nào làm thế. Nhưng khi bị luật sư của bang chất vấn, bà nói nếu bà có bất kì hi vọng nào, thì đó hẳn là bà nghĩ cổ tử cung của Charlotte sẽ mở hoàn toàn vào khoảng sáu hoặc bảy giờ tối, và đứa bé sẽ chui ra vào khoảng chín hoặc
mười giờ tối hôm đó - muộn nhất là thế.
Lúc không giờ kém mười lăm phút, khi Charlotte đã mở được tám centimet và đầu đứa bé đã xuống dưới xương sống đốt háng đến vị trí thuận lợi đầu tiên - đó là khi, theo suy nghĩ của mẹ tôi, cuống rốn không còn khả năng trượt qua cổ tử cung đi qua đầu đứa bé, gây nguy hiểm cho thai nhi - mẹ tôi thận trọng cắt lớp màng đang chặn nước ối của Charlotte.
“Tôi không hiểu tại sao chị lại làm thế,” Anne thì thầm với mẹ tôi, lo rằng sự can thiệp này là không cần thiết.
“Đã đến lúc,” mẹ tôi nhún vai đáp.
Vào giữa đêm trời bắt đầu mưa, và những giọt nước mưa biến thành băng đá khi chạm xuống mặt đất giá lạnh. Lúc đó là âm một độ C tại trung tâm thời tiết của Trường cao đẳng bang Lyndon. Vào lúc không giờ hai mươi lăm, điện thoại giữa Newport và Richford, giữa Reddington và Derby Line bị cắt đứt, do sức nặng của băng đá đóng trên đường dây điện thoại, và vài cơn gió không đúng lúc. Mẹ tôi và người học việc của bà không hề biết điện thoại đã hỏng lúc đó, nhưng họ sẽ sớm biết điều này.
Cổ tử cung của Charlotte đã mở hoàn toàn lúc một giờ sáng. Giai đoạn đầu tiên của cô kéo dài mười ba giờ đồng hồ. Sự chuyển biến của Charlotte, giai đoạn kinh hoàng đối với nhiều bà mẹ ấy, chỉ ngay trước khi họ phải bắt đầu dùng hết sức bình sinh để rặn, những khoảnh khắc mà nhiều bà mẹ lo lắng với nỗi sợ bản năng rằng họ sẽ không sống nổi qua thử thách này, đầy biến động. Cả mẹ tôi lẫn Asa Bedford đều khai trước tòa rằng Charlotte bắt đầu khóc trong cơn đau, nói đi nói lại rằng đứa bé trong người đang sắp xé toạc cô ra. Cô van nài họ giúp cô, nói với họ rằng cô cảm thấy khác so với lần sinh Foogie, đây là kiểu đau chết người, đây là sự tra tấn mà cô không còn chịu đựng nổi nữa và cô sẽ không sống nổi.
“Tôi không làm được, tôi không làm được! Chúa ơi, tôi không làm được!” cô kêu gào.
Và, trong ít nhất một phương diện, Charlotte đã đúng khi cô ấy nói rằng cô cảm thấy khác so với lần sinh con đầu lòng. Không như lần sinh con thứ nhất, ngày và đêm đó ở Vermont, cô đang chịu đựng cơn cực hình chuyển dạ với một đứa bé nằm ở vị trí chẩm sau bên phải: Đầu đứa bé đang đè lên xương cùng, đốt xương ở phía sau khung chậu của Charlotte. Thay vì úp mặt xuống khi nhú ra, rất có khả năng đứa bé sẽ ngửa mặt chào đời.
Nhưng điều này không khiến mẹ tôi hoảng hốt. Thông thường đứa bé sẽ xoay lại vào cuối giai đoạn chuyển dạ đầu tiên hoặc vào đầu giai đoạn thứ hai. Và để tăng khả năng đứa bé xoay lại - cũng như để giảm đau lưng cho Charlotte - mẹ tôi bảo Charlotte đứng lên và đi lại giữa những cơn co thắt, bà để cô chuyển dạ trong lúc bò trên hai tay và đầu gối. Đôi khi mẹ bảo Anne đắp miếng gạc hoặc khăn nóng lên lưng Charlotte; thỉnh thoảng bà bảo Charlotte ngồi xổm.
Giữa một giờ và một giờ ba mươi phút sáng, khi Charlotte ở trong tình cảnh khốn khổ nhất và tiếng la khóc của cô rất lớn, kéo dài đầy tuyệt vọng, Mục sư Asa đã cầu nguyện. Mẹ tôi đã khai sau khi tuyên thệ rằng bà vẫn xem ca đẻ là bình thường, và những gì đã xảy ra đều không hề có tính cảnh báo với bất kì bác sĩ sản phụ khoa hoặc bà mụ nào ở bất kì nơi đâu trên thế giới. Cơn đau đẻ của Charlotte đến thời điểm ấy là rất vất vả, nhưng nó không đe dọa tính mạng hoặc nguy hiểm cho đứa bé bên trong cô.
Thoạt đầu Mục sư Asa còn cầu nguyện nhẹ nhàng, giọng của ông đều đều và bình tĩnh, nhưng khi tiếng rên rỉ của Charlotte mỗi lúc một ai oán và dễ sợ, tiếng cầu nguyện của ông trở nên gấp gáp và căng thẳng hơn.
Cả mẹ tôi và Anne đều khai rằng ông đã cầu xin Đức giáo hoàng giúp đứa con của Ngài là Charlotte vượt qua thử thách này, cho cô sức mạnh và lòng can đảm để chịu đựng nó, và bảo vệ cô suốt chặng đường. Ông cầu nguyện trôi chảy nhất khi Charlotte im lặng nhất: Khi Charlotte mở to miệng để la hét, ông thường giảm lời cầu nguyện xuống còn bài kinh cầu Chúa hết lần này đến lần khác.
Đôi khi Charlotte cố gắng đọc kinh cầu Chúa với ông, nhưng cô không bao giờ đọc hết trước khi phải
dừng lại để thở trong đau đớn.
Còn mẹ tôi vẫn không ngừng trấn an cả hai người - và, khi đêm ngày càng dài hơn, điều này còn trấn an cả cô trợ lý của bà nữa - rằng cơn đau đẻ ở lưng rất vất vả và đau đớn, nhưng không gây chết người.
Ngay sau một giờ ba mươi phút, không lâu sau khi mẹ tôi đề nghị Mục sư Asa trèo lên giường và ngồi sau lưng vợ khi cô rặn, mẹ tôi để ý thấy vết máu. Bà tự nhủ đấy chỉ là máu báo chuyển dạ, nhưng thời điểm chảy máu và lượng máu khiến nhịp tim bà đập theo kiểu làm bà hồi hộp. Bà và Anne chỉ vừa mới đặt tấm trải sạch, được tiệt trùng trong lò nướng lên giường để đón đứa bé, và vết máu loang ra trên tấm vải trắng như một ly rượu vang đỏ bị đổ trên khăn trải bàn mới.
Charlotte khiến mẹ tôi ngạc nhiên khi nâng cơ thể mình lên với một sức lực khiến cô suýt lăn ra khỏi giường. Đến khi mẹ tôi níu được cô và bảo rằng cô vẫn ổn, thì máu đã vấy lên đùi và mông cô, cũng như lòng bàn tay mà cô dùng để đập vào giường trong lúc đau.
Sự chịu đựng của Charlotte có vẻ đã quá sức, và khi mẹ đo huyết áp cho cô, bà thấy nó đã giảm trong một giờ đó: huyết áp tâm thu đã giảm xuống còn tám mươi, và tâm trương xuống sáu mươi. Mạch của Charlotte đã tăng lên một - hai mươi, rồi một - ba mươi, nhưng nhịp tim của thai nhi vẫn không lên nổi chín mươi nhịp một phút.
Mẹ tôi quyết định sẽ không bảo Charlotte rặn thêm trong vài phút nữa, trong lúc bà theo dõi cô. Nếu huyết áp Charlotte tiếp tục giảm, nếu bà nghĩ cô ấy đang rơi vào trạng thái sốc hoặc nếu thấy thêm bất kì dấu hiệu nào của hiện tượng thai suy, bà dự định sẽ gọi đội cứu hộ của thị trấn để đưa cô đến bệnh viện. Nếu vì lý do nào đó họ không có sẵn người, bà sẽ đích thân chở cô đến đấy.
Ba phút sau, huyết áp của Charlotte giảm xuống bảy mươi lăm trên năm mươi, còn nhịp tim thai nhi đã giảm xuống sáu mươi hoặc bảy mươi nhịp một phút. Máu âm đạo đã trở thành dòng chảy nhỏ giọt rất nhỏ, hầu như không nhìn thấy, và rồi dừng hẳn... nhưng tấm trải giường ướt sũng nhắc lại quy mô của đợt sóng trước đó. Và thế là mẹ tôi nói với hai người làm cha mẹ trong phòng đó rằng vì lợi ích của Charlotte cũng như của thai nhi, đứa bé nên được sinh trong bệnh viện. Bà nói - và rõ ràng lời nói của bà lập tức trở nên hụt hơi và lo lắng - có khả năng nhau đã bong ra khỏi thành dạ con. Bà giải thích điều này có nghĩa là đứa con của họ sẽ không có đủ dưỡng chất cần thiết, và Charlotte có thể đang chảy máu trong.
Mẹ tôi không bao giờ đưa ra quyết định một cách chóng vánh hoặc hời hợt rằng bệnh nhân của bà cần đến bệnh viện, nhưng bà cũng không bao giờ chần chừ đưa một thai phụ đang gặp nhiều biến chứng nguy hiểm đến sinh con với tấm lưới an toàn của y học hiện đại trải ra bên dưới cô ấy. Trước ngày 14 tháng ba năm 1981, tỉ lệ thai phụ được Sibyl Danforth đưa đến bệnh viện vì nhiều lý do là một phần hai mươi lăm.
Cả bà và Mục sư Asa sau này đều khai rằng nếu điện thoại hoạt động vào đêm hôm đó, thì mọi việc có thể đã kết thúc khác đi. Không như một vài bậc cha mẹ van nài mẹ tôi để họ tiếp tục cố gắng, những người hoặc quá yêu thích sinh con tại nhà hoặc ghét bệnh viện với lòng căm ghét tột độ đến mức họ sẵn sàng đau đẻ hàng giờ liền bất chấp nguy hiểm, gia đình Bedford sẵn sàng chấp thuận rằng họ sẽ mạo hiểm đến những chiếc giường đẻ được cơ khí hóa với đường ray kim loại và những căn phòng phẫu thuật vô trùng của Bệnh viện North Country ở Newport.
Mẹ tôi nhấc điện thoại trong phòng ngủ lên để gọi cho đội cứu hộ (thời đó hầu hết điện thoại ở Vương quốc Đông Bắc thực ra đều yêu cầu họ phải quay số gọi về nghĩa đen) và phát hiện không có tín hiệu. Theo phản xạ, bà ấn vào hai nút trên giá để ống nghe và kiểm tra kết nối: kết nối của dây vào điện thoại và vào lỗ cắm gần chân tường. Khi thấy cả hai đều được gắn vào, bà đề nghị Anne kiểm tra điện thoại ở nhà bếp dưới lầu. Một lúc sau Anne gọi với lên lầu để thông báo với mẹ tôi rằng điện thoại ở tầng trệt không hoạt động.
“Nó cũng hỏng rồi!” cô ấy nói to với họ, và cả mẹ tôi lẫn Mục sư Asa đều nhận ra sự hoảng loạn trong giọng nói của cô gái trẻ, sự hoảng loạn mà họ hi vọng Charlotte không nghe thấy. Tuy nhiên, rõ ràng cô đã nghe.
Lúc ấy mưa và đá thủy tinh cứng đã đập vào cửa sổ phòng ngủ trong hơn một giờ, dù mẹ tôi nói bà chỉ nhận ra âm thanh ấy ngay sau khi Anne hét lên tin dữ từ lối đi nhỏ ở chân cầu thang. Sau khi người học việc phát hiện chắc chắn rằng điện thoại đã hỏng, Charlotte trở nên im lặng trong sợ hãi, còn cơn mưa và băng đá vẫn đập lên cửa kính không dứt nghe như, theo lời khai của mẹ tôi ở bục nhân chứng, “như ai đó đang dùng hết sức bình sinh ném hàng nắm sỏi, như thể họ đang cố làm vỡ kính.”
Mẹ tôi gọi Anne trở lại phòng ngủ để ở bên cạnh Charlotte và Mục sư Asa trong khi bà đi ra ngoài để khởi động xe: Chiếc xe nhà ga của bà to hơn chiếc Sunbird bé nhỏ của gia đình Bedford hoặc chiếc Maverick tí hon của Anne, và Charlotte sẽ cảm thấy thoải mái nhất khi ngồi trong đó.
Mặt đất đã trở nên trơn trượt thế nào? Chuyến vật lộn của mẹ tôi băng qua lối đi được Mục sư Asa lát đá xanh và qua mười ba mét đường lái xe vào nhà đến điểm đỗ xe của bà sẽ không đến nỗi buồn cười nếu nó không đau khổ đến vậy. Ba ngày sau, vào ngày thứ hai, luật sư của mẹ đã chụp hình những vết bầm - vẫn còn xanh tím và xấu xí - dọc hai chân bà. Họ cũng chụp hình những vết cắt dài dọc phía trong bàn tay bà, cũng như mắt cá chân bị bong gân sưng phồng mà bà phải dán miếng băng Ace suốt mấy tuần liền sau đó.
Mẹ nói bà đã ngã bốn lần trước khi bò bằng tay và đầu gối đến xe của mình, sau đó đứng lên bằng cách vịn vào tay cầm kim loại của cửa trước chiếc xe. Tuy vậy bà vẫn dự định sẽ chở Charlotte đến bệnh viện, và bắt đầu bằng cách cố đưa chiếc xe đến ngay bậc thềm trước nhà - mặc kệ cái sân và đá xanh - để Charlotte không phải đi bộ trên sân trượt băng đã bao phủ khu đất nhà Bedford. Khi bà từ từ đạp chân xuống ga, các lốp xe xoay tít như những bánh xe lễ hội không di chuyển được, trước khi đột ngột đẩy chiếc xe về trước và rồi quay nó gần như ba trăm sáu mươi độ. Chiếc xe trượt xuống phần sót lại của một bức vách tuyết phủ băng mà một giáo dân của Mục sư Asa đã đắp lên trong lúc xúc tuyết đường lái xe vào nhà suốt mùa đông năm ấy. Và dù chiếc xe của mẹ tôi không hề hấn gì, bà biết chuyện lái xe đến bệnh viện là bất khả thi.
Nếu mẹ tôi có khóc - và tôi nghĩ bà có toàn quyền làm điều đó khi đẩy cửa xe ra và lăn xuống đất trước khi quay trở về nhà của Bedford - thì bà cũng đã nín khi có mặt trở lại cạnh Charlotte, Mục sư Asa và Anne. Nhưng sau này bà nói bà đã khóc. Bà từng đỡ ra thai nhi đã chết, những đứa bé đẻ non có linh hồn mà bà nói rằng đã lên thiên đường trước khi da thịt kịp biết đến một thế giới rộng lớn hơn tử cung, nhưng kinh nghiệm không làm cho thử thách lần này bớt buồn hơn. Bà nói bà luôn khóc cho những đứa bé ấy và cho cha mẹ chúng, và bà lo sợ lúc này rằng đứa bé bên trong Charlotte sẽ chết, và gia đình Bedford sẽ mất đứa con thứ hai của họ. (Sau đó, điều tra của bang cho thấy trước ngày 14 tháng ba năm 1981, có ba ca thai nhi tử vong trong lúc được mẹ tôi đỡ đẻ, hay gần bằng chính xác tỉ lệ thường xảy ra đối với những thai phụ được bác sĩ sản phụ khoa đỡ đẻ.)
Mẹ tôi khai rằng dù mặt đất trơn trượt vì băng đá, nhưng vẫn có một ít bụi tuyết bám vào cỏ, và khi bà trông thấy nó, bà đã tưởng tượng cảnh lớp bã nhờn thai nhi bao bọc cơ thể của đứa bé vô hồn, không còn thở của nhà Bedford. Bà tưởng tượng đứa bé là một bé trai.
Nhưng dù mẹ tôi lo lắng họ sẽ mất đứa bé, bà bảo chưa bao giờ nghĩ đến cảnh Charlotte Fugett Bedford sẽ chết. Bà biết mình có thể cầm máu ngay sau khi đã đỡ đứa bé ra (dù sống hay chết), và chắc chắn đường dây điện thoại sẽ nhanh chóng được sửa. Bà nhắc mình rằng Charlotte phải mất ba lít, ba lít rưỡi hoặc bốn lít máu trước khi xảy ra tình trạng tim ngừng đập, và đó, theo quan điểm của mẹ tôi, là rất nhiều máu.
Bà biết trong túi đồ nghề của mình có ống tiêm, lọ thủy tinh đựng thuốc Pitocin và Ergotrate - những loại thuốc khiến tử cung co thắt mạnh, và đôi khi có thể kiểm soát tình trạng chảy máu trong. Dĩ nhiên, bà bị cấm sở hữu những vật chất được pháp luật kiểm soát này, nhưng mọi bà mụ đều đem chúng theo. Mẹ tôi cũng không cá biệt.
Tuy nhiên, hình ảnh Sibyl Danforth đi khắp nơi ở Bắc Vermont đem theo một chiếc túi to chứa đầy những loại thuốc cấm và ống tiêm không phải là một hình ảnh có lợi tại tòa án.
Trớ trêu thay, khi mẹ tôi quay trở lại phòng ngủ của nhà Bedford, Charlotte lại có vẻ khá hơn. Huyết áp
của cô đã trở về bình thường, nhịp tim thai nhi cũng thế: một trăm, một - mười, rồi sau đó là con số trấn an: một trăm và hai mươi nhịp đập nhỏ bé một phút. Charlotte đã ngưng chảy máu, và cô chắc chắn không hề có triệu chứng gì của một cơn choáng. Da cô không lạnh, sắc diện trông rất ổn, thái độ rất tốt. Cuối cùng thì chẳng cần đến khí oxy hoặc truyền dịch. Không cần đến Pitocin.
“Tôi tin rằng bây giờ mình đã khỏe rồi, chị Sibyl ạ,” cô ấy nói, giọng nói mệt mỏi nhuốm hi vọng.
Với tuyên bố này, Charlotte có thể chẳng muốn nói gì hơn ngoài ý cơn đau của cô, vào lúc đó, đã trở nên chịu đựng được. Vượt qua được. Chống chọi được. Nhưng trong giọng nói của Charlotte mẹ tôi còn nghe được nhiều hơn. Trong giọng nói của Charlotte mẹ tôi đã nghe thấy một sự chứng nhận âu yếm trước sức mạnh của lời nguyện cầu: Trong lúc mẹ tôi trượt ngã thê thảm bên ngoài dưới trời mưa và băng đá lạnh mà mỗi bước sau đó đều gây cho bà một cơn đau hồn xiêu phách lạc, thì Mục sư Asa, Charlotte và cả Anne đã cầu nguyện. Mục sư Asa đã quỳ gối bên giường vợ, ôm lấy đôi tay thuôn dài, xanh xao của cô, và cùng nhau họ đã cầu nguyện để máu ngừng chảy và cơn đau giảm nhẹ; họ đã cầu nguyện cho đứa bé trong người cô được sống, và cho cuộc đời họ được ban phước với sự hiện diện của nó.
Anne nói trước tòa rằng cô chưa bao giờ nghe thấy nhiều tình yêu thương đến thế trong lời nói của một người đàn ông như cô đã nghe trong lời nói của Asa Bedford vào sáng sớm hôm đó.
Mẹ tôi lập tức cảm thấy được an ủi và xúc động. Bà không còn lo sợ nhau bong non nữa. “Xem nào,” bà nói đơn giản, “hãy đưa đứa bé ra khỏi người cô nào.” Khi đó, theo ghi chú mà bà viết vội, là hai giờ ba phút sáng.
Mẹ tôi dựng Charlotte ngồi dậy trên giường giữa hai chân Mục sư Asa và để cô dựa người vào ông một lần nữa: Lưng cô tựa vào ngực ông, còn lưng ông thì tựa vào tấm ván đầu giường. Đôi tay của Mục sư Asa có thể chạm đến đùi trong của vợ và giữ chân cô dạng ra trong lúc cô rặn, để đứa bé có chỗ chui ra. Đầu, cổ và xương sống của Charlotte nằm trên một đường thẳng, cô ngồi trên một chiếc gối cứng mà mẹ tôi mới mua tại một cửa hàng giảm giá và đã giặt sạch, để mông cô cách nệm vài centimet.
Mẹ tôi không tin rằng thai nhi đã xoay tròn trong lúc chui ra. Vì thế, bà chờ đợi nó sẽ chào đời ngửa mặt nhìn trần nhà, thay vì nhìn xuống đất, và phía sau đầu nó sẽ tiếp tục gây đau đớn cho Charlotte khi nó thực hiện chuyến đi cuối cùng qua xương chậu của cô.
Charlotte từng chuyển dạ một lần trước đây và cô đã tham gia vài khóa học sinh sản của mẹ tôi, vì thế cô biết nên thở và rặn thế nào. Cô biết làm sao để vượt qua cơn co thắt giai đoạn hai, và tận dụng tối đa từng lần một. Cô biết khi nào nên giữ khí lại trong người và rặn, khi nào nên thả lỏng và hít thở vừa phải, nhẹ nhàng.
Trong một giờ Charlotte đã rặn qua từng lần co thắt, mỗi lần như thế, mẹ tôi, Mục sư Asa và Anne lại cổ vũ cô rặn thêm một, hai giây nữa:
“Cô làm được mà, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa!”
“Em làm tốt lắm, tốt lắm! Hoàn hảo!”
“Một giây nữa, một giây nữa, một giây nữa!”
“Ôi trời ơi, chị giỏi lắm, Charlotte ạ, giỏi lắm, giỏi lắm!”
“Em làm được mà, em đang làm rất tốt, rất tốt, rất tốt. Làm tốt lắm!”
“Cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên!”
Tôi đã nhìn thấy mẹ tôi đỡ đẻ đủ nhiều để biết bà là một người hướng dẫn giỏi truyền cảm hứng và là một hoạt náo viên năng nổ nhiệt tình. Tôi cũng đã thấy cách mà hầu hết các ông bố để cho mẹ tôi dùng lời nói đem lại phần lớn sự tự tin. Mẹ tôi thật giỏi làm chuyện này.
Nhưng ai nói gì trong khoảng từ hai giờ đến sáu giờ sáng là điều rất quan trọng đối với chính quyền bang, và họ nhấn mạnh - còn mẹ tôi và luật sư của bà không bao giờ bác bỏ - rằng Mục sư Asa và Anne đã nói hầu hết các câu “Làm tốt lắm,” trong khi mẹ tôi nói hầu hết là “Một chút nữa” và “Một giây nữa.”
Charlotte nhắm mắt và nghiến răng khi cô rặn, những nếp nhăn kéo dài đến tận thái dương trên mặt cô trở nên hằn sâu hơn. Như tất cả các bà mẹ chuẩn bị sinh con, Charlotte đã căng người, đã cố gắng và chắc chắn đã nỗ lực hết sức. Đôi khi khuôn mặt cô chuyển sang màu xanh khi mẹ tôi thúc cô ép xuống mạnh hơn nữa.
“Một giây nữa, một giây nữa, một giây nữa!”
“Ôi trời ơi, cô làm tốt lắm, Charlotte, tốt lắm, tốt lắm!”
Sau khi Charlotte đã rặn suốt một giờ liền, mẹ tôi để cô nghỉ hai mươi phút. Charlotte một lần nữa lại trải qua nỗi sợ rằng cô sẽ không thể rặn đứa bé ra, và cô rất hoảng hốt. Mẹ tôi trấn an cô rằng đứa bé sẽ ổn, và cô cũng thế.
Đầu đứa bé, như mẹ tôi khai trước tòa, đã có tiến triển trong suốt một giờ đó, dù kết quả khám nghiệm pháp y không xác định được. Chuyên gia pháp y không thể biết chắc đứa bé đã đi xa cỡ nào, và ông ấy chắc chắn không thể tự tin nói nó đã đi đến đâu vào lúc ba giờ, bốn giờ, hoặc năm giờ sáng hôm đó.
Lúc ba giờ mười lăm, Charlotte tiếp tục rặn. Quai hàm nghiến chặt nhưng hai môi banh ra, cô tiếp tục cố gắng rặn đứa con ra đời. Đôi khi đầu cô dựa vào vai Mục sư Asa, đôi khi cô tựa cằm vào ngực mình.
“Cô có thể làm được, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa!” “Cô làm tốt lắm, tốt lắm! Tuyệt vời!”
Cô ấy đã cố gắng, như mẹ tôi nói, hết sức có thể như bất kì thai phụ nào mà bà từng thấy. Cơn dâng trào quét qua cơ thể Charlotte rất dài, và mẹ tôi thuyết phục cô tận dụng tối đa mỗi lần cao điểm.
Và giữa những cơn dâng trào, Charlotte lại lấy hơi, và lại cố gắng lần nữa.
“Cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên!”
Vài phút sau bốn giờ sáng, mẹ tôi để Charlotte nghỉ lần thứ hai. Bà thấy Charlotte đã kiệt sức, và bà cũng thấy được rằng sự tự tin của cô đang vơi dần.
Có hai định nghĩa y khoa phổ biến để chỉ về giai đoạn chuyển dạ thứ hai kéo dài: một giai đoạn hai kéo dài hai giờ rưỡi, và một giai đoạn hai đã diễn ra một giờ mà đầu đứa bé vẫn không dịch chuyển thêm.
Mẹ tôi nhấn mạnh rằng đầu đứa bé thật ra đã dịch chuyển xuống trong lần nỗ lực thứ hai của Charlotte. Bà nói về sau rằng đến bốn giờ sáng, đứa bé đã thương lượng với đốt sống háng và phần lớn xương chậu: Nó chỉ cần định vị được xương mu và sau đó sẽ nhú ra.
Gần bốn giờ ba mươi cảm giác mót rặn quá dữ dội, Charlotte bảo mẹ tôi và chồng của cô rằng cô muốn cố lần nữa. Và cô đã rặn. Cô rặn mạnh hết cỡ, cô dùng hết sức bình sinh để rặn, cô rặn mạnh đến nỗi khi cuối cùng cô thở ra, cô gầm lên như một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp vào thời điểm đập mạnh vợt vào quả bóng trong cú ve ở đường biên.
Trong vài giây ngắn ngủi vào cao trào rặn của Charlotte, mẹ tôi có thể thấy chỏm tóc đen của đứa bé, nhưng đứa bé dường như luôn tụt lại vào trong.
Liệu mẹ tôi có nghĩ đến chuyện bỏ cuộc, và cố gắng làm điều mà bà biết là khó khả thi - xác định phương hướng lái xe trên con đường băng tuyết đang ngăn cách họ với bệnh viện? Mẹ tôi nói rằng bà đã nghĩ đến, dù bà không hề nói điều đó với Anne. Nhưng ngay cả Mục sư Asa cũng khai rằng từ năm đến sáu giờ sáng, mẹ tôi đã đi đến cửa sổ phòng ngủ và kéo tấm rèm mỏng để nhìn ra ngoài.
“Có phải tôi nghe thấy tiếng xe tải chở cát không nhỉ?” bà đã một lần hỏi như thế trong khoảng thời gian đó, một câu nói mà luật sư của bà tranh luận rằng là bằng chứng cho thấy bà đã thiết tha hi vọng đến một ca đẻ mổ do một bác sĩ thực hiện ở Newport.
Nhưng từ cửa sổ phòng ngủ của nhà Bedford, đường lái xe vào nhà vẫn lấp lánh như thủy tinh, còn mưa và băng đá vẫn tiếp tục rơi. Xe của mẹ tôi vẫn nằm bên vách tuyết, một sự nhắc nhở nghiệt ngã về tình trạng đường sá lúc ấy, và bà chỉ cần nhìn xuống những vết cắt trên tay mình để nhớ lại đi trên mặt đất như thế thì nguy hiểm nhường nào.
Và, Stephen Hastings chỉ ra, mẹ tôi đã không thực sự nghe thấy tiếng xe tải chở cát: Không có chiếc xe tải nào lăn bánh trên đường ở trong hoặc quanh khu Lawson từ hai giờ mười lăm đến sáu giờ ba mươi sáng hôm đó. Và ngay cả vào lúc sáu giờ ba mươi, như lời chứng nhận của thành viên đội công trình giao thông Graham Tuttle, đường sá vẫn còn “rất xấu. Tôi chạy xe ngay phía trên vạch sơn vàng, lấp cát và cào tuyết chỉ một bên làn đường. Tôi không dám chạy trên phần đường của mình, nếu không sẽ bị lao xuống mương.”
Rõ ràng Charlotte không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cố gắng rặn đứa bé ra trong phòng ngủ của cô, và vì thế dù mẹ tôi có thể đã hết lòng mong muốn rằng họ đến được bệnh viện, nhưng bà không bao giờ đề nghị ý tưởng đó với Mục sư Asa. Bà đã không bao giờ đề cập đến ý tưởng về một ca đẻ mổ tại bệnh viện North Country, vì bà biết họ không có hi vọng thật sự để đến đó.
Vả lại, mẹ tôi thực lòng tin rằng Charlotte đang có tiến bộ. Đứa bé sắp ra đời, bà nghĩ thế. Có thể chỉ cần một lần co thắt và một cú rặn thật quyết liệt nữa thôi.
Và thế là Charlotte lại cố. Cô không rặn lâu, cô không cố qua những đợt co thắt nối tiếp nhau. Nhưng khi mặt trời mọc ở đâu đó trên những dải mây đã đem băng đá và mưa đến góc này của Vermont, mọc đâu đó quá xa phía sau tấm màn đen và xám đến nỗi bầu trời không sáng nổi mãi cho đến lúc gần bảy giờ ngày hôm đó, Charlotte đã dùng toàn bộ sức lực mà cô có thể để cố gắng rặn đứa bé ra khỏi xương mu.
Đôi khi mẹ tôi thay đổi tư thế của Charlotte. Đôi khi Charlotte chuyển dạ trong lúc ngồi xổm. Đôi khi cô chuyển dạ với tấm lưng dựng thẳng, nhưng nằm hơi nghiêng qua một bên.
“Cô có thể làm được, cô có thể làm được, làm được, làm được, làm được, rặn đi, rặn đi, rặn đi, rặn đi!”
Lúc sáu giờ mười phút, khi mới bắt đầu đợt rặn thứ tư, Charlotte Fugett Bedford bị một chứng mà mẹ tôi tin là vỡ động mạch phình ở não - hoặc theo cách gọi của bà là đột quị. Bà hình dung rằng áp suất trong sọ từ nỗ lực của Charlotte đã khiến một mạch máu nhỏ trong não người phụ nữ bất hạnh này vỡ ra.
Mục sư Asa và mẹ tôi, cho đến phút đó, vẫn bảo Charlotte rằng cô có thể làm được, cô có thể đẩy đứa bé ra khỏi mình vào phòng ngủ với họ:
“Ôi trời ơi, em giỏi lắm, Charlotte, giỏi lắm, giỏi lắm!”
“Một giây nữa, một giây nữa, một giây nữa!”
Mục sư Asa đã chuyển đến đứng giữa hai chân vợ để đón đứa bé, trong khi Anne và mẹ tôi đứng hai bên, đỡ lấy cô. Đột nhiên, trong lúc gắng sức giữa cơn co thắt, cằm Charlotte bật lên từ ngực cô khi cô rặn với bất kể sức lực nào còn lại, cô mở mắt ra, và rồi thở ra với một tiếng ré nhỏ. Chồng cô trông thấy mắt cô trợn tròn, rồi nhắm lại. Mẹ tôi và Anne cảm thấy cơ thể Charlotte thõng ra trong tay họ khi cô lịm đi.
Cô có vẻ suy kiệt rất nhanh. Suy hô hấp bắt đầu gần như lập tức. Mẹ tôi được đào tạo bài bản chẳng kém những tình nguyện viên trong đội cứu hộ thị trấn, và bà đã cố gắng làm Charlotte tỉnh lại. Bà quỳ gối bên cạnh cô và thổi một hơi sâu qua miệng vào phổi cô, nỗ lực làm cô thở lại; bà dùng tay ấn mạnh xuống ngực Charlotte,hét lên,”Một và hai và ba và bốn và năm và sáu và bảy và tám và chín và mười và mười một và mười hai và mười ba và mười bốn và mười lăm!”
Mười lăm lần ấn và hai lần thổi. Mười lăm lần ấn sau đó là hai lần thổi.
Dường như không có mạch, và mẹ tôi van nài Charlotte trong lúc bà cấp cứu. Bà vừa khóc vừa đếm to, bà van nài người phụ nữ này hãy chiến đấu vì sự sống của mình.
“Cô làm được mà, mẹ kiếp, tôi biết cô có thể, có thể, có thể, có thể! Làm ơn đi mà!” Anne nói mẹ tôi đã đòi hỏi ở một người phụ nữ rõ ràng đã chết.
Liệu mẹ tôi đã thực hiện ít nhất tám hoặc chín lần hô hấp nhân tạo như bà nói, hay bốn hoặc năm lần như Mục sư Asa nhớ lại? Đó là kiểu chi tiết thường gây tranh cãi. Nhưng vào lúc nào đó trong vòng vài phút của điều mẹ tôi tin là một cơn đột quị, sau khi bà kết luận rằng nỗ lực làm tỉnh lại của bà đã không thể tạo lại mạch hoặc hơi thở, bà gào lên gọi Mục sư Asa và Anne tìm con dao bén nhất trong nhà.
Mục sư Asa nói trước tòa rằng ông đã làm theo lời bà mà không nghĩ ngợi gì, ông nói rằng không biết mẹ tôi định làm gì với con dao. Ông nói ông tin rằng lúc đó mẹ tôi sẽ dùng con dao và tìm cách cứu mạng vợ ông. Mẹ tôi là bà mụ còn ông thì không phải, mẹ tôi biết hô hấp nhân tạo còn ông thì không biết. Mẹ tôi chịu trách nhiệm chính. Còn ông thì không.
Có thể ông nghĩ mẹ tôi sẽ tiến hành phẫu thuật mở khí quản. Có thể không. Có thể trong thực tế ông đã biết. Có thể không.
Anne đòi đi cùng Mục sư Asa vì những lý do khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Một lần vì cô không chịu nổi phải ở chung phòng với người chết. Một lần vì cô sợ phải ở chung phòng với mẹ tôi: Cô thấy mẹ tôi đột nhiên trở nên điên loạn.
Vì lý do nào đi nữa, Mục sư Asa và Anne cũng đã cùng nhau chạy xuống lầu đến nhà bếp, và Mục sư Asa lôi ra từ hộp cắm dao bằng gỗ đen trên quầy bếp mà Foogie không với tới được một con dao dài hai mươi lăm centimet, trong đó phần lưỡi dao bằng thép dài mười lăm centimet, cạnh dao để cắt bo tròn như một mũi tên. Cán dao bằng gỗ, dính màu xanh đậm của quả bí đấu, tiệp màu với hộp cắm dao.
Khi họ quay lại, mẹ tôi nói qua làn nước mắt, “Tôi không tìm ra mạch, Asa. Tôi không thể cứu cô ấy.” “Chị hô hấp nhân tạo thêm được không?” Mục sư Asa hỏi, thả con dao xuống chân giường.
“Ôi trời ơi, Asa, tôi có thể làm hô hấp cả ngày, nhưng cô ấy vẫn ra đi. Cô ấy sẽ không quay lại.” Mẹ tôi đang ngồi cạnh Charlotte, lúc ấy vẫn nằm ngửa trên giường.
Như đã làm vào đầu buổi tối hôm đó - thật ra là đêm hôm trước rồi - Mục sư Asa quỳ xuống bên thành giường. Ông ngả đầu lên ngực vợ, và nhìn trân trối lên mặt cô, ông vén tóc mai của cô, vẫn còn ướt đẫm mồ hôi do cơn chuyển dạ khó nhọc. Ông lẩm bẩm gọi tên cô, và mẹ tôi đã siết vai ông một lần.
Rồi mẹ tôi di chuyển với một sự đột ngột khiến cả Mục sư Asa và Anne hoảng sợ.
“Đi nào,” bà nói, vẫn còn sụt sịt, “chúng ta không còn thời gian.” Với đôi tay mới siết vai ông chỉ vài giây trước, bà nhặt con dao lên khỏi tấm trải giường.
Điều bà đã không làm - và khi luật sư của bang nhắc lại điều này trong phòng xử án với Anne, lời khai của cô khiến ngay cả tôi cũng thoáng nghi ngờ mẹ mình - là hỏi Mục sư Asa xem ông muốn làm gì. Bà đã không hỏi người bố xem ông có muốn cố gắng cứu đứa bé hay không. Nếu ông ấy nói không, thì hẳn bà sẽ vẫn làm, nếu đó là điều bà muốn; nhưng nếu ông ấy nói có, thì bà ít nhất cũng tìm được sự đồng tình.
Và bà đã không đặt ống nghe trở lại lên bụng Charlotte để xem tim thai còn hay không. Đương nhiên, đứa trẻ sẽ chứng tỏ nó còn sống, nhưng không kiểm tra một lần cuối trước khi làm việc bà đã làm - điều đó gây ngạc nhiên và bất ngờ cho ngay cả những bà mụ lành nghề nhất.
Từ giây phút Mục sư Asa và Anne trở lại phòng cho đến khoảnh khắc mẹ tôi bắt đầu cắt, bà không bao
giờ kiểm tra một lần cuối để xem Charlotte còn mạch hoặc nhịp tim hay không. Có thể bà đã làm - như bà tuyên thệ - kiểm tra ngay trước khi họ đem dao đến. Nhưng cả người bố lẫn người học việc đều không nhìn thấy mẹ tôi đảm bảo Charlotte đã chết trước khi bà ấn con dao vào người cô.
“Ý chị là sao?” Mục sư Asa hỏi mẹ tôi, sau khi bà bảo với ông rằng họ không còn thời gian. Ông thấy bà lau nước mắt, và sau đó ông nói rằng có cái gì đó trong hành động này khiến ông nghĩ rằng mẹ tôi đã bị suy sụp tinh thần. Đó là một cử chỉ hoảng loạn, như thể bà nghĩ rằng mình có thể xé toạc căn phòng.
“Đứa bé chỉ còn vài phút, và chúng ta đã dành phần lớn thời gian đó cho Charlotte!” “Chị định làm gì?”
“Cứu đứa con!” Giọng nói của mẹ tôi nghe rất chói tai, cả Mục sư Asa và Anne đều nghĩ thế, và Mục sư Asa nói trước tòa ông tự hỏi liệu mẹ tôi có phát cuồng không. Mẹ tôi nhấn mạnh rằng nếu giọng bà nghe chói tai, thì đó không phải là vì bà đã phát cuồng: Đó là vì bà muốn làm Mục sư Asa chú ý.
“Cứu đứa con?”
“Cứu đứa con của ông!”
Mẹ tôi đã kéo chiếc áo ngủ cũ mà Charlotte mặc lúc chuyển dạ lên gần cổ của cô khi bà nỗ lực làm tim cô đập lại, vì thế không còn áo quần gì để cởi ra trước khi tiến hành ca mổ lấy thai. Mục sư Asa đứng dậy và đi về phía sau mẹ tôi khi bà mở chiếc đèn bàn để bên giường lần đầu tiên trong đêm đó.
“Cô ấy chết chưa?”
“Chúa ơi, Asa, đúng thế! Dĩ nhiên rồi!”
Thật không? Chúng tôi không bao giờ biết được. Chuyên gia pháp y là một trong nhiều nhân chứng của bang nói rằng về mặt y học, rất có thể tim của Charlotte Fugett Bedford đã ngừng đập một lúc, nhưng nỗ lực hô hấp nhân tạo của mẹ tôi đã làm nó đập lại - và, trong một khoảng thời gian, đã làm cô ấy sống lại. Nhưng Mục sư Asa và Anne không nghi ngờ việc mẹ tôi tin Charlotte đã chết.
Khi mẹ tôi nói với Mục sư Asa rằng - đúng thế, dĩ nhiên rồi! - vợ ông ấy đã chết, ông gật đầu, và mẹ tôi xem cử chỉ đó như một sự đồng ý. Dĩ nhiên Mục sư Asa không làm gì để ngăn cản bà. Ông lê bước chậm rãi về phía cửa sổ không nói một lời và nhìn lên trời, bầu trời dường như đã mặc định sẽ tối mãi mãi.
Mẹ tôi sau này nói rằng trong những giờ phút sáng sớm ngày 14 tháng ba, bà đã tiến hành mổ cấp cứu vì bà không thể chịu nổi nhìn hai con người qua đời. Bà không chịu nổi điều đó. Và Charlotte chắc chắn là đã chết.
Liệu mẹ tôi có sai không? Anne nghĩ như thế, cũng như chuyên gia pháp y chắc chắn tin rằng có chỗ để nghi ngờ. Mục sư Asa đang đứng bên cửa sổ khi mẹ tôi thực hiện nhát cắt đầu tiên, nhưng sau đó ông nói rằng - như Anne - ông nhìn thấy máu bắn ra.
Máu được điều khiển, như luật sư của bang nhấn mạnh, bởi một con tim đang bơm.
Nhưng Anne khi ấy không nói gì, quá trẻ để biết chắc về điều cô đã nhìn thấy. Lúc đó là còn nhiều giờ trước khi cô nhấc điện thoại lên, bối rối, không thể ngủ được, và gọi bác sĩ dự bị của mẹ tôi. Sau này cô nói rằng cô không thể tin được máu lại có thể phọt ra như thế từ một người đã chết, nhưng luật sư của mẹ tôi nói rằng có thể còn lý do khác để cô gọi bác sĩ Hewitt: Stephen Hastings luôn xem Anne như một con chuột sợ sệt nhảy khỏi tàu Titanic.
Cô thực hiện cuộc gọi quan trọng đó vào cuối buổi sáng, trong lúc cách đấy hàng dặm, ở Burlington, chuyên gia pháp y đang thực hiện ca khám nghiệm tử thi, cố gắng - và thất bại - không tìm thấy dấu hiệu
của chứng phình động mạch não.
...
Mẹ tôi dùng móng tay vạch một đường tưởng tượng từ rốn Charlotte đến xương mu. Đôi tay bà run run.
Bà nhớ đã đọc ở đâu đó rằng một bác sĩ giải phẫu có thể lôi đứa bé ra khỏi người mẹ đang ở tình trạng nguy cấp trong vòng hai mươi hoặc ba mươi giây, nhưng điều đó dường như là chuyện không thể đối với bà. Bao nhiêu là lớp như thế. Cắt vào trong một con người. Không muốn cắt phải bào thai. Có vẻ như không thể thực hiện được.
Dù mẹ tôi tin rằng bà sẽ không gây hại gì cho Charlotte, bà vẫn di chuyển chậm rãi, như thể bà sợ cắt phải một cơ quan nội tạng. Bà giả vờ như đường mà bà vạch ra dưới rốn của Charlotte là có thật và rồi ấn mũi dao mạnh xuống da người phụ nữ đã chết.
Máu phọt ra từng đợt từ người Charlotte vào thời khắc mẹ tôi thực hiện vết rạch. Anne nói đây không phải là sự phun trào mà ta biết từ một trái tim đang đập khỏe mạnh, mà là sự phun trào nhỏ nhoi từ một trái tim yếu ớt. Tuy nhiên, Anne cảm thấy dòng máu đó đã di chuyển qua người Charlotte, và bơm ra từ nơi mẹ tôi đã rạch một nhát trên người cô.
Khi nhìn thấy máu bắn từng đợt vào không trung - vấy lên các ngón tay mẹ tôi - ý tưởng đầu tiên hình thành trong đầu Anne Austin là mẹ tôi đang thực hiện mổ lấy thai trên một người sống.
Nhưng Anne không thấy cơ thể Charlotte nhúc nhích, cô không thấy sự co giật nào cả. Và nhịp phun của máu nhanh chóng dừng lại, máu chỉ thuần túy chảy ra. Một dòng mảnh xuất hiện, rồi rộng ra. Mẹ tôi ấn lưỡi dao sâu hơn vào người cô, xuyên qua da đến mỡ đến cân, rồi ấn qua lớp cơ là phần duy nhất trong cơ thể Charlotte phản kháng lại sự thọc vào của lưỡi dao thép. Sau đó bà kéo con dao xuống âm đạo Charlotte.
Máu chảy dọc xuống bụng cô, thấm lên hai bên hông và cặp đùi xanh xao của cô, rồi nhỏ xuống tấm trải giường, tạo thành những vết loang mới. Mẹ tôi đè một chiếc gối lên vết thương một lúc để thấm máu, để bà có thể nhìn vào bên trong vết rạch. Sau này bà nói rằng, khi giữ chiếc gối ở đó, bà đã xác định rằng thực ra bà không phải thực hiện một vết rạch của bác sĩ giải phẫu, mà chỉ là tạo ra một cái lỗ toang hoác, không thể khép lại trên bụng của Charlotte Bedford. Nó đột nhiên trở nên khổng lồ đối với bà, to vật vã, và bà nghe tiếng hàm răng mình bắt đầu đánh lập cập trong đầu trước khi thực sự cảm thấy và hiểu tiếng động đó là gì. Không hiểu sao bà đổ mồ hôi.
Khi bà kéo chiếc gối ra, bà nhìn thấy hình bán cầu của một quả bóng màu hồng da cam, một nửa lớp vỏ mịn màng, bóng loáng của tử cung. Hình cầu. Sạch sẽ. Giống như chín mọng. Nó nằm đó, bốc hơi giữa lớp mỡ tỏa sáng trong bóng tối, và những dải cơ ẩm giống như thịt. Mẹ tôi không phải hạng người yếu bóng vía, nhưng bà nói hình ảnh đó khiến bà choáng váng - không hẳn vì nó lại ấm và trơn như thế, mà vì đây chính là sự sống ở cấp độ cơ bản nhất. Nguyên thủy nhất. Đây chính là sự sống trong dạ con.
Bà lần ngón tay trên đáy dạ con cho đến khi biết được đứa bé nằm ở đâu, rồi sau đó vơ lấy con dao trên nệm. Dùng mũi dao như một cái đinh ghim, bà chích vào tử cung như một quả bóng tại một điểm cách xa bào thai. Vẫn còn một ít chất dịch màng ối. Và nỗi lo sợ của bà rằng nó sẽ xịt ra không khí và phủ đầy cánh tay, mặt mũi và bàn tay của bà là vô căn cứ. Bà đã rạch lớp màng trước đó rồi, bà nhớ lại; sẽ không còn gì để văng tung tóe nữa.
Sau đó bà đặt một ngón tay vào trong dạ con và nhẹ nhàng xé nó ra bằng cả hai tay, sợ không dám cắt nó bằng dao: Đứa bé ở quá gần.
Bà kể lại trong phòng xử án rằng xé cái dạ con cũng dễ như xé bột nhồi ẩm để làm bánh, nhưng dù vậy, bà vẫn cảm thấy khó thở khi làm điều đó.
Khi vết mở đã đủ rộng để thò tay vào, bà đưa tay vào sâu bên trong và cảm thấy khuôn mặt đứa bé. Bàn
tay bà lướt trên cái mũi nó, và bà đưa tay sờ lên đầu, cổ, cột sống đứa bé, cho đến khi bà phát hiện ra một cái đùi mũm mĩm ngắn tũn của nó. Bà trườn tay lên hai cẳng chân cho đến khi chạm được một bàn chân, và sau đó chạm bàn chân kia bằng tay còn lại.
Sau đó bà nhấc đứa bé ra khỏi mẹ nó, và trong không khí của căn phòng, thai nhi lập tức biến thành một đứa trẻ sơ sinh trong mắt mẹ tôi. Một đứa con trai. Khi bà hút nước nhầy trong cổ họng đứa bé bằng ống bơm tai và nó từ từ sống lại - ngáp, rồi thở, và cuối cùng khóc rống lên - nó trở thành một lời nhắc nhở sống với bố nó về cuộc sống, cái chết và nỗi thống khổ khôn nguôi của Charlotte Fugett Bedford.
Phần hai
6
Eleanor Snow chào đời sáng nay, và đó là đứa trẻ bé bỏng đáng yêu tuyệt vời nhất. Nặng ba kí bảy, dài năm mươi mốt centimet. Chiếc mũi giống như cú nhảy trượt tuyết bé nhỏ êm ái. Những cuộn mỡ tí hon trên hai cánh tay tạo thành những chiếc vòng tay nhỏ ở cổ tay. Và mái tóc cô bé, ít nhất là hồi sáng nay, có màu vàng nghệ.
Hôm nay mắt cô bé màu xám, nhưng tôi nghĩ mai này chúng sẽ thành màu xanh.
Cơn chuyển dạ của Dottie Snow rất nhanh: Anne và tôi đến đó lúc sáu giờ mười lăm phút sáng, Dottie đã mở mười centimet và sẵn sàng khai hoa nở nhụy. Tôi nghĩ cô ấy chỉ rặn không đến nửa giờ, và niềm hân hoan trong phòng khi cô ấy vượt cạn thật là không thể tin nổi. Không thể tin nổi! Cô ấy có mẹ, hai chị gái, và đương nhiên cả Chuck ở bên cạnh. Chuck cũng đã có mặt trong những lần sinh hai đứa con trước, và anh ấy quả thật là một người hướng dẫn dịu dàng. Anh và Dottie hôn nhau và ôm nhau giữa mỗi cơn dâng trào, anh liên tục xoa ngực và vai cho cô. Tôi thực sự xúc động trước kiểu tình yêu như thế.
Nhưng điều khiến tinh hoa trong căn phòng mạnh mẽ đến thế chính là sự kết hợp giữa tình yêu vợ chồng, tình chị em, và tình mẹ con. Các chị em gái của Dottie ôm ấp cô, họ ôm nhau, và họ ôm Chuck. Thật là tuyệt diệu. Tôi ước gì mình có thể đóng chai những rung cảm trong căn phòng đó và để dành một ít cho những ca đẻ cô đơn hơn.
Những ca đẻ cô đơn là điều đáng buồn nhất trên thế gian này.
Chúng có thể khiến tôi ủ rũ trong nhiều ngày liền.
Ca đẻ của Charlotte Bedford có thể là một ca đẻ cô đơn. Ít nhất thì cũng có tiềm năng như thế. Charlotte không có gia đình ở gần đây, trừ Asa. Và Asa là một người đàn ông ngọt ngào, nhưng ông ấy quá bận bịu với giáo đoàn của mình đến nỗi dường như chẳng còn sức lực nào dành cho Charlotte.
Và tôi nghĩ mình chưa từng gặp một cô bạn nào của cô ấy. Nữ cũng như nam! Cô ấy đã gặp gỡ vài người bên ngoài giáo đoàn của chồng, cô kể lúc chúng tôi nói chuyện, và họ giữ một khoảng cách tôn trọng nhất định vì cô là vợ của nhà truyền đạo mới. Tôi có thể là bạn thân nhất của cô ở đây, vì thế những ca khám thai của cô thường kéo dài bất tận.
Không nghi ngờ gì nữa, ca đẻ của cô là một ca đẻ cô đơn. Và một kì hậu sản cô đơn. Tôi hi vọng giáo xứ của Asa sẽ giúp đỡ họ. Tôi phải tin họ sẽ làm thế, họ là người tốt mà. Nhưng giá tôi biết nhiều người hơn nữa ở mạn trên Lawson hoặc Fallsburg.
Có lẽ tôi sẽ gặp thêm vài người trước khi đứa bé chào đời. Có lẽ tôi sẽ thử cố gắng. trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
ĐẾN BỮA SÁNG MẸ TÔI VẪN CHƯA VỀ từ ca đẻ của Bedforth, và trong lúc ăn bánh quế nướng, bố con tôi đã thảo luận xem Charlotte tội nghiệp trông như thế nào vào giữa ca đẻ kéo dài từ mười tám đến hai mươi tư giờ như thế.
Ngày hôm đó trường học không đóng cửa, nhưng những tiết học đầu tiên được dời lại hai giờ để đội công trình giao thông có thời gian biến những sân băng ngoằn ngoèo trên khắp Đông Bắc Vermont thành đường đi trở lại. Và vì thế bố đi làm trước khi tôi đi học.
Charlotte Fugett Bedford và con trai Veil ra đi mỗi người một ngả ngay sau khi Veil chào đời. Thi thể của Charlotte được chuyển trong xe của giám đốc công ty mai táng đến Burlington sau khi luật sư bang và
chuyên gia pháp y đã khám nghiệm căn phòng, và cảnh sát bang đã chụp những bức ảnh hậu sản không được bình thường đó. Chuyên gia pháp y nói với mẹ tôi rằng ông ta sẽ tiến hành mổ khám nghiệm tử thi khi ông ta và thi thể Charlotte về đến Burlington, nhưng ông nói đó chỉ là một thủ tục bình thường và không có gì khiến bà phải lo lắng.
Mẹ tôi, Mục sư Asa và Anne thực sự đã rời khỏi nhà Bedford trước cả những người mặc y phục và đồng phục. Họ vẫn đang lượn lờ quanh tấm nệm đầy máu và cho các vật dụng - găng cao su ướt, vụn trà thảo dược khô, một ống tiêm sạch, một chiếc khăn dính máu - vào những chiếc túi nhựa trong khi Veil được đưa đến bệnh viện North Country ở Newport, nơi bác sĩ nhi khoa có thể khám cho nó thật cẩn thận. Mẹ tôi đã gọi điện đến văn phòng bố từ bệnh viện để kể với ông chuyện gì xảy ra. Bà định sẽ đích thân kể với tôi khi tôi đi học về.
Như tất cả những điều đã xảy ra quanh sự chào đời của Veil Bedford, sự việc không diễn ra như mẹ tôi tưởng. Tin tức về cái chết bất ngờ, nhất là khi nó rùng rợn, truyền đi rất nhanh ở góc này của Vermont. Những vụ va chạm liên quan đến xe tải nhỏ và xe ô tô dẫn đến tử vong, tai nạn cưa gỗ với cưa máy hoặc xe chở gỗ, chết đuối ở vùng nước sâu của hẻm núi gần đó, đều là đề tài bàn tán. Khi có người chết, người ta tán chuyện - đặc biệt là những đứa trẻ mới lớn.
Do đó, tôi biết tin về cái chết của Charlotte Bedford trong tiết học thể dục, ngay trước giờ ăn trưa. Sáng hôm đó chúng tôi chơi bóng chuyền.
Khi tôi mới nghe tin này, câu chuyện chưa dính đến mẹ tôi. Có lẽ nếu cắt đứt được những kiểu kết nối tin đồn với hiện thực và tách bạch những phần riêng rẽ với nhau, thì lời kể của họ sẽ cho thấy tôi chính là người đầu tiên gắn Sibyl Danforth vào câu chuyện - ít nhất là ở trường, ít nhất là giữa những đứa trẻ mới lớn ở hạt của chúng tôi.
Tôi đang thay quần sooc thể dục thành quần jeans xanh thì Sadie Demerest nói với tôi, “Vị mục sư kì lạ ở Lawson vừa mới mất vợ - người đến từ miền Nam ấy.” Giọng của nó rất vô tư và thản nhiên, như thể nó đang kể với tôi về một sai lầm thời trang của một học sinh nào đó - một đứa con gái mặc chiếc áo khoác hơi bị trịnh trọng đến trường, hay một lọn tóc màu đen bất thường của nó trông hơi bị phá cách.
“Cô ấy chết rồi à?” tôi hỏi.
“Ừ. Trong lúc đẻ con.”
Và tôi lẩm bẩm thành tiếng một suy nghĩ mà tôi không tin rằng đã kịp lướt qua đầu Sadie, mặc dù chắc chắn nó sẽ sớm đến. “Chẳng biết mẹ tớ có ở đấy không,” tôi nói.
Sadie khựng lại trên băng ghế trước tủ cá nhân của nó, chiếc quần jeans vẫn còn nằm trên đùi.
“Mẹ cậu đỡ đẻ cho cô ấy à?” nó hỏi sau một lúc lâu, và tôi gật đầu. Tiếng động trong phòng thay quần áo - tiếng nước chảy từ vòi hoa sen cách đấy vài mét, tiếng cười khúc khích và ha hả từ những đứa con gái khác, tiếng bật nhỏ của những ổ khóa kim loại khi được mở ra và đóng lại - dường như biến mất trong lúc Sadie nhìn tôi trân trối. Vào lúc đó tôi không hiểu hết mức độ thay đổi sẽ xảy đến cho cuộc đời tôi, nhưng những ý niệm tăm tối mơ hồ đầu tiên đã bắt đầu định hình.
Tôi có thể thấy thông tin về việc mẹ tôi có thể ở đó khiến Sadie hoảng sợ và làm thay đổi thái độ của nó đối với câu chuyện một cách khủng khiếp. Đột nhiên, đây không còn là một bi kịch với những diễn viên giấu mặt, một câu chuyện kinh dị đủ xa lạ để cho phép sự mường tượng thông thường về tính chất man rợ cốt lõi của nó. Cơn ác mộng nhỏ nhoi này có liên quan đến mẹ của Connie Danforth. Mẹ của Connie Danforth đã có mặt với người chết, bà ta đã giúp cô ấy đẻ con.
Mà người ta lẽ ra không chết trong lúc đẻ con, ngay cả ở cái góc Vương quốc quê mùa này của chúng tôi. Và thế là Sadie hỏi tôi câu hỏi mà mọi người trong hạt sẽ hỏi nhau trong nhiều tháng sau đó, câu hỏi mà không ai có thể trả lời đầy đủ tại tòa và không ai có thể trả lời một cách chắc chắn từ hôm đó trở đi. Trong trường hợp của Sadie, đó là một câu hỏi tu từ, một thắc mắc nó phải biết rằng tôi không thể trả lời.
Nhưng đó là một câu hỏi mà nó - như mọi người khác - không thể không hỏi.
Xoắn hai ống quần jeans trong tay, làn da trở nên tái nhợt trước mắt tôi, Sadie hỏi, “Connie, chuyện gì đã xảy ra?”
Khi tôi đi học về, bố đang ở trong nhà bếp. Mẹ đang ngủ.
“Đi học thế nào?” bố hỏi. Ông đang mặc quần tây, áo sơ mi mà ông đã mặc đi làm, nhưng cà vạt đã tháo ra - có lẽ đã tháo ra từ lâu trước ba giờ rưỡi chiều. Tôi tưởng tượng ông đã về nhà nhiều giờ rồi.
“Tốt ạ.”
“Được, được,” ông nói, giọng đều đều xa cách và trầm lặng. Tôi nhìn thấy ai đó đã pha một ấm cà phê đặt trên quầy bếp sau khi tôi đi học, nhưng có vẻ như không ai chạm đến nó.
“Con cần phải dịu dàng với mẹ một chút,” ông nói thêm.
“Vì những gì đã xảy ra ạ?”
Ông ngồi xuống chiếc ghế nhà bếp bằng gỗ và khoanh tay trước ngực. “Con đã nghe được những gì?” “Con nghe nói cô Bedford đã chết.”
Ông lắc đầu buồn bã. “Sao con không để cặp sách xuống và nói cho bố nghe con biết được gì. Rồi bố sẽ nói bố biết gì.”
“Những chi tiết ạ?”
“Nếu con chưa biết chúng.”
Suốt buổi chiều, có hai ý nghĩ khiến tôi không nghe được một từ nào mà giáo viên Anh văn hoặc lịch sử đã nói. Ý nghĩ thứ nhất là Foogie giờ đây đã mồ côi mẹ, và tôi không thể tưởng tượng nổi thằng bé sẽ chịu đựng thế nào. Vào thời điểm đó trong đời, tôi chưa từng gặp một đứa bé mồ côi mẹ. Ý nghĩ thứ hai là nỗi sợ rằng gia đình tôi sẽ đột nhiên trở nên nghèo túng.
Ở tuổi mười ba, tôi không hiểu cặn kẽ về bảo hiểm sai sót trong nghề y, nhưng tôi biết rằng các bà mụ ở Vermont không mua loại bảo hiểm này. Chẳng có công ty nào trong bang bán bảo hiểm này cho họ. Và tôi biết đây thỉnh thoảng là vấn đề giữa bố mẹ tôi, thường là sau khi mẹ về nhà từ một ca đẻ mà bà mô tả là phức tạp.
Tôi nghĩ vào buổi chiều sau khi Charlotte Bedford qua đời, điều này cũng là mối bận tâm lớn của bố: một vụ kiện dân sự. Tôi không tin ý nghĩ cảnh sát bang đến nhà chúng tôi trong vài giờ nữa từng lướt qua đầu ông.
“Vậy con đã nghe những gì?” ông hỏi lại khi tôi ngồi lên chiếc ghế cạnh ông. “Người ta đang nói gì?” “Chẳng có ai biết nhiều đâu. Chủ yếu chỉ là vợ của vị mục sư đến từ miền Nam đã qua đời.” “Trong lúc sinh con? Họ có biết cô ấy chết lúc sinh con không?”
“Có ạ.”
“Họ có biết mẹ con có mặt không?”
“Vâng, họ biết.” Tôi không nhắc đến việc mình phải chịu trách nhiệm vì đã tiết lộ thêm chi tiết đó vào trong câu chuyện khi nó lan truyền trong trường.
“Còn gì nữa?”
“Không ai biết liệu đứa trẻ có chết hay không. Nó có chết không ạ?”
“Không, đứa bé còn sống và khỏe mạnh. Họ đã có một bé trai.”
“Thế cũng tốt, ít ra là vậy.”
“Ừ, đúng thế.”
“Họ đặt tên nó là gì ạ?”
“Mục sư Bedford đặt tên cậu bé là Veil,” bố tôi nói, nhấn mạnh đại từ nhân xưng để đối tượng mà tôi gọi là “nó” có một giới tính trong tâm trí tôi. “Người ta còn nói gì nữa?”
“Như con nói, không ai thực sự biết nhiều. Tất cả những gì con nghe thấy là cô Bedford chết lúc sinh con, và đó là một cái chết đầy máu me. Nhưng con biết sinh đẻ thì lúc nào mà chẳng máu me, và hình như không ai có thể cho con biết tại sao.”
“Tại sao...”
“Tại sao nó lại quá máu me.”
Ông vân vê một bên tóc mai rồi đặt các ngón tay lên ngực trở lại. Tôi nhận ra tôi đang ngồi lên tay mình. “Ai nói với con?” ông hỏi.
“Sadie.”
“Có nhiều bạn nói về chuyện đó không?”
“Vâng. Đến hết ngày thì là thế đấy ạ.”
“Trên xe buýt đưa đón học sinh?”
“Con đoán thế.”
“Các bạn có hỏi con nhiều không?”
“Không ạ, chỉ một câu thôi. Chúng cứ hỏi con rằng mẹ có ở đấy không.”
“Và con trả lời chúng là có?”
Tôi gật đầu. “Như thế có được không ạ?”
“Chúa ơi, Connie, dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên là được. Mẹ con tuyệt đối không làm gì sai cả. Không hề. Đôi khi phụ nữ chết trong lúc sinh con, cũng như đôi khi người ta ốm và qua đời. Nó không xảy ra thường xuyên, nhưng nó có xảy ra. Cô Bedford chỉ tình cờ là một trong số ít người qua đời ấy. Đây là chuyện buồn - rất buồn - nhưng những chuyện như thế này vẫn xảy ra.”
“Thật không may.”
“Ừ. Thật không may.”
Ông nhìn ấm cà phê và lần đầu tiên nhận ra nó còn đầy. Tôi chờ ông đứng dậy, rót một tách, nhưng ông không rời khỏi ghế.
“Nó có máu me không ạ?” cuối cùng tôi hỏi.
Tựa cùi chỏ lên bàn và chống tay dưới cằm, ông gật đầu. “Có, nó rất máu me.”
Lúc đó ông có thể đã kể cho tôi nghe rằng mẹ đã thực hiện một ca mổ lấy thai, nhưng chúng tôi nghe tiếng bước chân ở lối đi trên lầu. Chúng tôi đều nhận ra mẹ đã thức, và bà đang trên đường đi xuống cầu thang. Bố muốn để mẹ kể cho tôi nghe một số chi tiết đại khái về chuyện đã xảy ra trong phòng ngủ của nhà Bedford vào sáng sớm hôm đó.
Khi mẹ bước vào nhà bếp, tóc bà vẫn còn bù xù, đôi mắt thì đỏ hoe, trông đầy đau đớn. Bà đang mặc áo ngủ, điều bà hiếm khi làm vào ban ngày ngay cả khi bà ngủ trưa sau một ca đẻ ban đêm kéo dài, và bà đi chân trần. Trông mẹ có vẻ già, và đó không chỉ đơn giản vì bà đi cà nhắc hoặc vì dưới mắt bà có quầng thâm. Không chỉ đơn giản vì trông bà mệt mỏi.
Tinh hoa, như cách nói mà mẹ yêu thích, của lòng nhiệt tình không giới hạn dường như luôn bao bọc lấy bà, đã tiêu tan. Nguồn năng lượng - một phần lạc quan, một phần kiên nhẫn, một phần hân hoan - đôi khi bao phủ căn phòng khi bà bước vào, đã biến mất.
Rõ ràng mẹ cũng không ngủ được bao lâu, và dù có chợp mắt được chút nào, đó cũng không phải là giấc ngủ sâu. Những đêm mà giấc ngủ đến dễ dàng, những buổi chiều khi giấc ngủ trưa đến nhanh, những giờ phút khi giấc mơ của bà êm đềm và yên tĩnh, đã ra đi mãi mãi.
7
Mẹ của Clarissa Roberson, Maureen, là một người phụ nữ rất có tổ chức. Bà chào đời trong bệnh viện, và tất cả những đứa con của bà cũng thế (dĩ nhiên trong đó có cả Clarissa).
Nhưng David Roberson được sinh tại nhà, và anh muốn con của mình được sinh tại nhà. Thế là Clarissa bé nhỏ ở đó, toàn bộ cơ thể 62 kí lô của cô - 62 kí lô vào lúc chín tháng mười ngày! - chuyển dạ trên giường trong phòng ngủ, và mẹ cô ở đó bên cạnh David và tôi, giúp con gái mình vượt cạn.
Ðó là một cơn chuyển dạ dài, mà Maureen thì đã gần sáu mươi tuổi. Nhưng bà ấy thật tuyệt vời. Không hề mệt mỏi.
Mặc dù tôi đã thấy nhiều bà mẹ có mặt lúc con gái vượt cạn, quan sát khi những cô con gái bé bỏng của họ giúp họ lên chức bà, nhưng tôi chưa từng thấy ai muốn tham gia nhiệt tình như Maureen. Hoặc tham gia một cách đầy âu yếm, hiểu biết và ủng hộ như thế. Vài bà mẹ trở nên khó ở và hồi hộp khi con của họ lâm bồn, và tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn có thể hiểu được. Những cơn dâng trào có thể quá hớp và rùng rợn, còn máu có thể rất đáng sợ. Tôi nghĩ đó là lý do vì sao nhiều bà mẹ giúp con gái sinh con chỉ giới hạn mình làm những việc như pha trà, hoặc cổ vũ con từ đầu giường.
Nhưng Maureen thì không. Bà ở ngay đó với tôi. Có lúc giữa những cơn dâng trào, tôi đặt chai Johnson’s xuống để hỏi David một câu gì đấy, và khi tôi quay lại, Maureen đã ở đó, xoa dầu trẻ em đến tận cùi chỏ và mát xa đáy chậu cho con gái.
Cảnh tượng ấy thật đẹp. Ðẹp một cách ngất ngây, ngất ngây.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
MẸ TÔI NÓI RẤT ÍT TRONG KHOẢNG THỜI GIAN từ lúc tôi đi học về đến lúc cảnh sát bang đến.
Bà mặc áo ngủ ngồi trên ghế sofa trong phòng khách, quấn một tấm chăn quanh vai. Căn phòng nhỏ tỏa hương quế từ tách trà thảo dược bà đang nhâm nhi. Mỗi khi điện thoại reo - nó hẳn đã reo ba, bốn lần trong buổi chiều hôm đó - bố tôi lại nhấc máy và tiếp chuyện người gọi.
Vào khoảng năm giờ ba mươi, mặt trời rực sáng lần cuối, không lâu trước khi biến mất vào màn đêm ở đường chân trời phía tây. Nhưng trong vòng vài phút, ánh mặt trời đã tỏa sáng khắp phòng, và ngọn lửa
bố tôi nhóm lên trong lò sưởi trước đó dường như không còn cần thiết nữa.
Mẹ hỏi tôi hai lần về việc hôm ấy đi học thế nào, nhưng tôi biết không lần nào bà nghe câu trả lời của tôi.
Một lần bà hỏi xin bố thêm thuốc aspirin để giảm đau ở mắt cá chân, rồi khi ông đem những viên thuốc và một ly nước lạnh đến, ông phải nhắc bà nhớ rằng chính bà đã yêu cầu chúng.
“Ngày mai em đi chụp phim X-quang mắt cá chân nhé,” bố tôi đề nghị.
“Vâng. Hãy làm thế,” mẹ đáp. Bà hiếm khi nhìn bố hoặc tôi. Bà dán mắt vào ngọn lửa qua lớp cửa kính ở lò sưởi, bà dán mắt vào trà trong cốc của mình. Đôi khi bà đặt cốc trà xuống bàn cạnh ghế sofa và nhìn những vết cắt trên tay.
“Đó có phải là Anne không?” mẹ hỏi bố khi ông quay lại sau một lần trả lời điện thoại ở nhà bếp.
“Không. Là Sara. Chị ấy hi vọng em có thể nướng một ổ bánh cho buổi tiệc của sở cứu hỏa vào cuối tuần tới.”
“Là người gây quỹ à.”
“Chị ấy chưa nghe tin ư?”
“Chắc là chưa.”
Nhưng đa số thời gian, ba người chúng tôi ngồi trong im lặng. Vì lý do nào đó, tôi sợ phải rời khỏi nhà, và tôi sợ phải ở một mình trong phòng trên lầu. Vì thế tôi ngồi cùng bố mẹ trong phòng khách. Tôi tin tất cả chúng tôi đều hiểu ở chừng mực nào đó rằng chúng tôi đang đợi một điều gì đó xảy đến; tất cả chúng tôi đều có trực giác rằng một điều gì đó nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng tôi sắp xảy ra.
Bố và tôi nhìn thấy chiếc xe cảnh sát bang chậm rãi tiến đến đường lái xe vào nhà chúng tôi vào tối thứ sáu tầm hoàng hôn, và tôi tin rằng chúng tôi trông thấy nó cùng lúc. Bộ đèn trên nóc xe đã tắt, nhưng tôi nghĩ không ai nhìn thấy một chiếc xe cảnh sát màu xanh đỗ trước nhà mình mà không cảnh giác. Nhất là con gái của dân cựu hippie Rand và Sibyl Danforth.
Tôi đang phết thịt xay lên bánh hamburger, còn bố thì đứng cạnh tôi, với tay vào tủ bếp để lấy chiếc chảo rán. Mẹ vẫn ngồi trong phòng khách, bất động và im lặng, nhưng tỉnh táo.
“Để bố giải quyết,” bố nói khẽ với tôi, có lẽ ông hi vọng rằng có thể xua cảnh sát đi, như thể họ chỉ là những người bán máy hút bụi.
Tôi cho rằng mình phải ở lại bên quầy bếp cạnh bồn rửa chén, hi vọng nghe ngóng được ít nhất những chi tiết quan trọng, nhưng mẹ đã nghe thấy tiếng gõ cửa và trở nên cảnh giác hơn nữa: Bà đặt cốc trà xuống và ngồi thẳng dậy, rướn đầu về phía cửa. Khi bà nhận ra ai đã đến nhà chúng tôi, bà rời khỏi mớ đệm gối mà bà vừa chui vào trong, và bằng cách nào đó tìm thấy sức mạnh để thong thả bước vào lối đi trước. Thế là tôi cũng đánh liều đi ra đó.
“Tôi thực sự tin rằng việc này có thể đợi đến ngày mai,” bố đang nói.
“Tôi xin lỗi, không được,” một viên cảnh sát đáp, dù giọng nói cho thấy ông ta chắc chắn hiểu được mong muốn của bố tôi là cho mẹ tôi một đêm bình yên. “Nhưng tôi hứa,” ông nói tiếp, “việc này sẽ không kéo dài lâu.”
Hai người cảnh sát rất cao, cả hai đều ở tuổi trung niên. Một người có bộ ria mép màu trắng tỉa sát đến độ trông hơi có vẻ đáng sợ. Người kia có những nếp nhăn rõ, hằn sâu trên mặt khiến tôi luôn liên tưởng đến những bác nông dân - kiểu nếp nhăn hình thành do lái máy cày trong gió mùa thu ngày này qua ngày khác suốt một thời gian. Áo khoác của họ cài nút chỉn chu để chống lại cái lạnh tháng ba, cổ áo dựng lên quanh cổ. Khi người thực hiện phần lớn cuộc nói chuyện tối hôm đó - người có bộ ria mép - nhận thấy
mẹ tôi và tôi đang tiến đến lối đi sau lưng bố tôi, ông ta bỏ chiếc mũ cảnh sát rộng vành ra, và viên cảnh sát kia lập tức làm giống như vậy. Họ gật đầu chào mẹ tôi như đã quen biết bà, và tôi có ấn tượng họ có lẽ đã gặp bà ở nhà Bedford sáng hôm đó.
Lúc đó mới hơn sáu giờ ba mươi, đèn hiên nhà chúng tôi đã bật sáng: Thỉnh thoảng nó làm cho phù hiệu trên áo khoác của họ lấp lánh.
“Trong trường hợp đó, các ông có cần vào nhà không?”
“Chúng tôi cần đấy. Nhưng chỉ vài phút thôi.”
Bố ra dấu cho họ vào nhà, và họ cẩn thận chùi đôi giày đen bóng lên tấm thảm gần bậc tam cấp. Tôi cố nhắc bản thân rằng hai người đàn ông uy nghiêm này không phải là người xấu, tập trung suy nghĩ vào cách nói chuyện tử tế của người có ria mép dành cho bố tôi. Họ đều đeo nhẫn cưới, có nghĩa là họ đã có vợ, và nếu họ có vợ, có lẽ họ đã có con. Và nếu họ có con, thì chính họ cũng là những ông bố. Cũng giống bố tôi. Cởi mũ và bao súng, bỏ súng và áo khoác màu xanh ra, họ cũng chỉ là những người đàn ông trung niên bình thường mà thôi. Chẳng có lý do gì tôi phải sợ họ.
Nhưng dĩ nhiên tôi sợ họ.
“Tôi là Trung úy Leland Rhodes,” người có ria mép bắt đầu, “còn đây là Hạ sĩ Richard Tilley.”
“Rand Danforth,” bố tôi nói, chìa tay ra với Rhodes trước rồi sau đó với Tilley. Khi bố quay lại, ông thấy mẹ và tôi đang đứng ở lối đi sau lưng ông.
“Connie, sao con không đi lên lầu. Việc này không kéo dài lâu đâu,” ông ôn tồn nói. “Con có thể nấu xong bữa tối,” tôi đề nghị.
“Con có thể, nhưng con không cần nấu,” ông đáp, và tôi cảm thấy bàn tay mẹ đặt lên vai tôi, đẩy nhẹ tôi (nhưng không khó nhận ra) về hướng cầu thang.
Mẹ tôi pha cà phê cho họ. Đó là điều đầu tiên khiến tôi ngạc nhiên: tôi chưa lên đến bậc trên cùng của cầu thang, và tôi nghe bà hỏi hai người cảnh sát họ muốn uống cà phê hay trà thảo dược. Cả hai đều chọn cà phê, và trong lúc bố dẫn họ vào phòng khách, mẹ đi vào nhà bếp để pha một ấm cà phê.
Ngày hôm sau, tôi nhớ lại, Stephan Hastings đã nghĩ rằng đó là một trong những điều lạ lùng nhất mà ông từng nghe. “Cà phê,” bố nói ông luật sư đã lặp đi lặp lại. “Chị pha cà phê cho họ.”
Hai viên cảnh sát rất lịch sự, Trung úy Rhodes bắt đầu bằng cách giải thích rằng họ chỉ muốn thu thập thông tin về bi kịch mà mẹ tôi đã chứng kiến.
“Tôi chỉ muốn biết bà đã nhìn thấy gì,” Rhodes nói, như thể mẹ tôi chỉ là một người chứng kiến, một người tình cờ nhìn thấy hai chiếc xe đâm vào nhau tại một giao lộ. “Chúng tôi muốn bà kể cho chúng tôi điều gì đã xảy ra, khi trí nhớ vẫn còn tốt.”
“Tôi không nghĩ trí nhớ của mình về tối hôm qua sẽ biến mất,” mẹ tôi trả lời, và nhiều năm sau đó, bố đã nói với tôi rằng câu nói đó tạo ra một sự khác biệt lớn cho điều xảy ra tiếp theo. Rõ ràng mắt mẹ tôi bắt đầu ngấn lệ trong lúc bà nói, khiến bố sợ rằng bà sẽ cuối cùng - và đột ngột - suy sụp. Ông chăm chú nhìn bà, quá lo lắng về tình trạng cảm xúc của bà, đến nỗi không thể cắt ngắn cuộc thẩm vấn khi có dịp trong cuộc nói chuyện tiếp theo, hoặc thông báo với hai người cảnh sát và mẹ tôi rằng sẽ không có thêm cuộc nói chuyện nào cho đến khi luật sư có mặt. Ông nói với tôi ý nghĩ về việc chúng tôi sẽ cần một luật sư đã bắt đầu hình thành trong đầu ông, nhưng trong tâm trí ông đó chỉ là để bào chữa cho một vụ kiện dân sự, không phải một tội hình sự. Không phải trọng tội đến mức cảnh sát bang phải đến nhà chúng tôi vào tối thứ sáu.
“Điều đó có thể đúng, thưa bà Danforth, nhưng Bill Tanner và tôi đều đã nhận thấy qua nhiều năm rằng một vài chi tiết sẽ... sinh động hơn khi được kể lại ngay,” Rhodes nói.
“Bill Tanner?” mẹ tôi hỏi. “Tôi biết cái tên đó ở đâu nhỉ?”
“Ông ta là luật sư bang ở hạt Orleans. Bà đã gặp ông ta sáng nay,” viên trung úy trả lời.
Khi hai người cảnh sát đã đi, bố nói với mẹ ông không biết luật sư bang đã có mặt ở nhà Bedford sáng hôm đó. Hoặc mẹ tôi đã quên kể với ông chi tiết đó, hoặc bà không nhận ra William Tanner là ai - hay tại sao người này lại có mặt cùng chuyên gia pháp y tại nhà Bedford.
Và thế là khi Rand Danforth cắt ngang câu hỏi mà bất kì người chồng - người bảo vệ nào cũng có thể hỏi trong tình huống đó, ông đã nói một cách dè chừng, không chắc chắn: “Chúng tôi có nên mời luật sư đại diện không?” ông thắc mắc thành tiếng.
“Đương nhiên, nếu ông muốn. Nhưng những gì chúng tôi đang làm hiện giờ là lấp đầy khoảng trống trong câu chuyện,” Rhodes nói, giọng của ông ta bình thường và thản nhiên.
Liệu sự việc có kết thúc khác đi nếu mẹ tôi giữ im lặng vào lúc đó, hoặc nếu bố tôi bảo lưu quan điểm - có thể là khăng khăng quan điểm, rằng họ nên hoãn cuộc nói chuyện với cảnh sát bang cho đến khi họ có luật sư đại diện? Có thể lắm, nhưng không hẳn. Công bằng mà nói, ngay cả Stephen Hastings cũng khẳng định rằng biên bản lời khai lấy vào buổi tối đầu tiên đó rất ít có khả năng buộc tội. Cảnh sát không biết một ca đẻ tại nhà gồm những gì, vì thế họ không hỏi những kiểu câu hỏi có thể dẫn đến những câu trả lời dài, nhiều thông tin, và sơ hở chẳng hạn: Sau khi Mục sư Asa đem con dao đến, bà có kiểm tra Charlotte lần cuối để đảm bảo cô ấy đã chết không? Bà có kiểm tra nhịp tim thai nhi trước khi cắt không? Bà có xin phép Mục sư Asa để mổ vợ ông ấy không?
Hai viên cảnh sát chủ yếu chỉ để mẹ tôi kể câu chuyện về phía bà, trình bày những gì bà tin là đã xảy ra. Trước khi phiên tòa diễn ra, Stephen quả thực đã làm lớn chuyện mà ông gọi là “cuộc hỏi cung”, nhưng ông cũng nói với chúng tôi trước khi diễn ra phiên xử đơn thỉnh cầu loại bỏ bằng chứng thu thập bất hợp pháp rằng chính quyền bang có thể thắng thế - và ông đã đúng.
Vả lại, bố mẹ tôi thậm chí chẳng có một luật sư nào vào tối hôm đó. Họ chỉ mới dùng đến luật sư hai lần trước đó trong đời: một lần, gần một thập niên rưỡi trước, để lập di chúc cho họ vài ngày sau khi tôi chào đời, và lần thứ hai khi bố tôi mở công ty kiến trúc của riêng ông và muốn thành lập một doanh nghiệp hợp pháp. Họ đã dùng cùng một luật sư trong cả hai dịp đó, một người bạn lớn tuổi của bà ngoại tôi, sống ở St. Johnsbury và qua đời không lâu sau khi giúp bố tôi lập công ty.
Việc hai người cảnh sát không chủ động khuyến khích bố mẹ tôi có luật sư đại diện thực ra lại có lợi với Stephen ở một điểm nhỏ khi vụ án cuối cùng bị đưa ra xét xử: Ông dùng điều đó để củng cố mối liên hệ của mình rằng chính quyền bang có chủ trương tẩy chay sinh đẻ tại nhà, và quan tâm đến việc đẩy các bà mụ ra khỏi nghề hơn là bảo vệ quyền tự do công dân của mẹ tôi. Cảnh sát không cần phải đọc lời cảnh báo[10] vào lúc đó hoặc thông báo cho mẹ tôi những quyền lợi của bà, thẩm phán đã ra phán quyết như thế, vì cách lấy lời khai của họ không có gì là phạm luật cả; nhưng Stephen vẫn có thể chỉ ra rằng việc Rhodes thể hiện mình là “cảnh sát tốt” đêm hôm đó là nhập nhằng về mặt đạo đức.
Dù sao đi nữa, mẹ tôi đã nói với hai người cảnh sát lẫn bố tôi sau khi ông đề xuất ý tưởng luật sư, “Tôi không làm gì sai cả.” Giọng của bà đượm vẻ hoài nghi, không hề bào chữa, như thể bà không tin rằng cần phải có luật sư. “Tôi sẽ kể với các ông chính xác điều đã xảy ra. Các ông cần biết những gì?”
Sau khi mẹ tôi nói được một lúc, Hạ sĩ Richard Tilley bắt đầu ghi chép. Ông ta tốc ký để theo kịp mẹ tôi, và một số câu hỏi mà cộng sự của ông ta đưa ra thường bắt đầu bằng, “Bà có thể lặp lại không, thưa bà Danforth?”
Rốt cục Tilley đã ghi chép trên mười một tờ giấy kẻ hàng màu vàng, và câu chuyện của mẹ tôi kéo dài từ thời khắc đầu buổi chiều thứ năm khi Charlotte Bedford gọi điện cho bà báo tin cô ấy đang chuyển dạ đến
khoảng thời gian sáng thứ sáu khi mẹ tôi kiệt sức dựa vào buồng điện thoại công cộng ở bệnh viện North Country để gọi điện cho bố tôi. Hai người cảnh sát ở lại trong phòng khách nhà chúng tôi hơn một giờ, gật gù, ghi chép và uống cà phê của bố mẹ tôi.
Sau bảy giờ ba mươi, Trung úy Rhodes nhìn lướt qua tập giấy của cộng sự. “Và sau đó bà về nhà?” ông hỏi mẹ tôi.
“Không, tôi quay lại nhà Bedford. Tôi phải lấy xe về.”
“Ồ, đúng rồi. Nó vẫn còn nằm trong vách tuyết.”
“Đại khái thế. Tảng tuyết đã bắt đầu tan rồi.”
“Ai chở bà đến đó?”
“Đến nhà Bedford ư? Tôi không nhớ tên anh ta. Anh ta làm việc cho đội cứu hộ.” “Xe của bà không sao chứ?”
“Không sao. Phần khó nhất là lùi lại phía sau xe cảnh sát.”
“Lúc đó vẫn còn cảnh sát ở hiện trường à?”
“Tôi đoán thế. Một chiếc xe cảnh sát vẫn còn ở đó.”
“Bà có nói chuyện với một sĩ quan cảnh sát nào không?”
“Tôi chẳng gặp ai để nói cả.”
“Bà có bị cảnh báo không?”
“Bị cảnh báo? Tại sao tôi lại bị cảnh báo?”
Có vẻ Rhodes đã trả lời câu hỏi của mẹ tôi bằng một câu hỏi khác: “Vậy là bà không đi vào nhà?” “Không.”
“Bà đi thẳng về nhà.”
“Đúng. Tôi đi thẳng về nhà. Rồi đi thẳng lên giường.”
Một sự im lặng kéo dài. Cuối cùng Rhodes cầm tập giấy của viên hạ sĩ lên rồi đưa nó ngang qua bàn cà phê cho mẹ tôi.
“Mời bà đọc lại cái này, thưa bà Danforth, và đảm bảo chúng tôi đã ghi chép đúng mọi việc,” ông nói, trong lúc Tilley đưa bút của ông ta cho mẹ tôi.
Mẹ tôi đọc qua các trang, nhưng sau đó bà nói rằng bà không đọc cẩn thận. Bà có thể giải mã được hầu hết chữ viết của Tilley, nhưng bà đã mệt lử, vì thế khi gặp phải một từ hay một câu khó hiểu, bà chỉ việc phớt lờ và lướt qua nó. Tilley tóm tắt được đại ý những gì bà nói, và với mẹ tôi có vẻ như đó là điều quan trọng nhất vào lúc đó.
“Câu chuyện chính xác chứ?” Rhodes hỏi khi bà đọc xong. “Anh Richard đây ghi chép gần đúng chứ hả?” ông ta nói tiếp và mỉm cười.
“Đó không ít thì nhiều chính là những gì đã xảy ra,” mẹ tôi nói.
“Tốt, tốt,” Rhodes lẩm bẩm. Sau đó ông ta đưa ra một yêu cầu đối với mẹ tôi khiến cho cả bố mẹ tôi đều
nhận ra rằng họ cần một luật sư, cần ngay lập tức. Không cần biết lúc đó là bảy giờ rưỡi, tám giờ tối thứ sáu; không cần biết đó là khi cuối tuần mới bắt đầu. Họ cần một luật sư. Một luật sư hình sự. Và họ cần một luật sư ngay tức khắc.
Gật đầu như thể yêu cầu của ông ta rất nhỏ nhoi, một chút thủ tục thứ yếu và vụn vặt, Rhodes nhìn kệ sách phía trên vai mẹ tôi và hỏi, “Bà có thể thề rằng tất cả đều là sự thật không? Và sau đó kí tên vào?”
8
Hôm nay Charlotte dành nửa giờ để xem tất cả những tấm ảnh chụp em bé và mẹ chúng trên tường của tôi. Cô ấy đã thấy những tấm ảnh trong lần đầu đến khám, nhưng hôm nay là lần đầu tiên cô muốn xem hình.
“Nhìn này, Foogie,”cô nói với cậu con trai nhỏ, chỉ tay vào tấm ảnh đầu tiên trong đời của Louisa Walsh. “Có thể em gái của con sẽ giống cô bé này.”
“Hoặc có thể em trai con sẽ giống em bé kia,” Foogie nói, chỉ tay vào ảnh của một đứa bé khác mà nó nghĩ là một bé trai. Nhưng không phải. Thực ra nó đang xem ảnh của Betty Isham ba giờ sau khi chào đời, được bọc lại bằng tã màu xanh vì đó là những gì bố mẹ cô bé tình cờ có sẵn. Dĩ nhiên tôi không nói với Foogie điều đó.
Dù sao thì, Charlotte nói cô muốn sinh con gái, Foogie nói nó muốn có em trai, còn Asa thì chỉ muốn một đứa trẻ khỏe mạnh. Charlotte nói với tôi đó là tất cả những gì ông cầu nguyện cho ca đẻ này: một đứa trẻ khỏe mạnh nữa. Ông nói đó là điều quan trọng nhất. Một đứa trẻ khỏe mạnh.
Charlotte giữ sức khỏe rất tốt. Tôi tin chắc ông ta sẽ toại nguyện.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
MẸ TÔI ĐÃ KÍ TÊN VÀO BIÊN BẢN LỜI KHAI. Bố cố ngăn mẹ lại, nói với hai người cảnh sát, “Cô ấy sẽ sẵn sàng kí tên một khi luật sư của chúng tôi đã đọc lại nó,” nhưng mẹ tôi tin bà đã tuyệt đối không làm gì sai.
“Em sẽ kí,” bà nói với bố, rồi kí, viết tên mình bằng những chữ cái to và kiêu hãnh dọc phần dưới của trang thứ mười một.
Sáng thứ bảy, bố mẹ dậy sớm hơn tôi rất lâu. Tôi uể oải đi xuống cầu thang trong lúc vẫn mặc áo ngủ vào khoảng tám giờ, trong khi bố mẹ tôi đã ăn mặc chỉnh tề và kết thúc bữa ăn sáng. Không như hầu hết những thứ bảy khác, bố tôi mặc quần tây, thắt cà vạt, còn mẹ mặc váy và áo sơ mi kiểu. Bà đang ngồi duỗi thẳng chân phải, và ngay cả qua lớp quần bó bằng len dày, tôi vẫn thấy mắt cá chân bà sưng to thế nào.
“Con ngủ ngon không?” mẹ hỏi tôi, giọng bà cố làm ra vẻ vui vẻ.
“Cũng được ạ,” tôi lầm bầm, nhận thấy qua làn sương sớm của tôi rằng trông cả mẹ lẫn bố đều ngủ không đủ giấc. Tôi hình dung họ có chợp mắt, nhưng chỉ ngủ chập chờn.
“Hôm nay có định làm gì đặc biệt không?” bà hỏi tiếp.
Tôi lắc đầu, đột nhiên trở nên ngượng ngập khi đứng cạnh tủ lạnh trước mặt bố mẹ. Tôi vơ vội sữa và ngũ cốc rồi đến bàn ăn ngồi cùng họ.
Vào lúc đó tôi biết những điểm cơ bản trong kế hoạch của bố mẹ cho ngày hôm đó, nhưng không biết được chi tiết nào. Thêm chút nữa, tôi biết họ sẽ đi gặp luật sư. Khi họ nhâm nhi cà phê, tôi có thể thu thập phần còn lại.
Vào tối thứ sáu, bố tôi đã nói chuyện điện thoại với luật sư ở ba công ty, hai ở Montpelier và một ở Burlington. Hai luật sư ở Montpelier là bạn xã giao của gia đình chúng tôi, kiểu người mà bố mẹ tôi có thể gặp ở những buổi tiệc Giáng sinh lớn và những buổi dã ngoại mùa hè ở thị trấn, và bố mẹ tôi có thể thích sự có mặt của họ. Nhưng chúng tôi không đặc biệt thân với người nào cả, vì thế cuộc gọi của bố vào đêm hôm trước có thể khiến họ bất ngờ. Tuy nhiên, mỗi người đều rất sẵn lòng gặp bố mẹ tôi để cố gắng tìm hiểu xem họ có thể giúp được gì.
Luật sư thứ ba chính là Stephen Hastings, một người bạn của Warren Birch, một trong hai luật sư ở Montpelier mà bố mẹ tôi đến gặp sáng hôm đó. Hastings là một cộng sự trẻ trong một công ty ở Burlington, và Birch nghĩ ông ta là một luật sư hình sự xuất sắc - điều mà Birch thừa nhận là mình không bằng.
Vì thế kế hoạch của bố mẹ tôi là gặp hai luật sư ở Montpelier trước bữa trưa, sau đó gặp Hastings tại công ty của ông ta ở Burlington vào buổi chiều. Họ đi ngay sau khi tôi ăn xong bữa sáng, và suốt ngày hôm đó tôi như người trên cung trăng.
Tom Corts và tôi đã hẹn hò nhau được gần bốn tháng tính đến lúc đó, dù chúng tôi chưa chính thức hóa mối quan hệ bằng bất kì một vật biểu tượng nào như vòng tay khắc tên hoặc vòng đeo chân. Ở chỗ chúng tôi tại Vermont, vòng tay khắc tên đến năm 1981 đã quá lỗi thời, và những đứa con gái duy nhất đeo vòng kim loại quanh mắt cá chân là một nhóm ba đứa bạn thân do một đứa mới đến từ Kingdom ở Boston làm thủ lĩnh.
Tom và tôi dự định đi nhảy cùng nhau vào tối thứ sáu, một buổi liên hoan ở đồn Cựu chiến binh Mỹ tại Montpelier. Họ tổ chức các buổi khiêu vũ “không có cồn” vào tối thứ sáu cách tuần trong mùa đông năm đó cho lũ trẻ trung học, hi vọng giảm được số lượng những đứa choai choai uống say bí tỉ rồi lái xe tải nhỏ của bố xuống mương, hoặc đâm những chiếc Nova đã móp méo vào thân cây. Rõ ràng vào mùa xuân đó tôi còn nhiều năm nữa mới được lái xe, còn Tom thì còn năm tháng nữa mới được hưởng đặc quyền này. Và, đương nhiên, chúng tôi cũng chưa đủ tuổi để uống rượu ở Vermont.
Nhưng bạn bè của Tom ở lớp mười và mười một đã phát hiện ra rằng tuy các buổi khiêu vũ tại sàn nhảy Spartan bên trong đồn là không có cồn, vẫn luôn có ít nhất một công nhân mỏ đá thất nghiệp từ Barre hoặc thợ máy tiện bị sa thải từ công ty nội thất ở Morrisville lảng vảng gần cửa hàng tiện lợi, những người này sẵn sàng mua giúp lũ choai choai một lốc sáu chai bia nếu họ có thể giữ lại một hoặc hai chai cho mình. Vì thế chúng tôi thường đứng thành từng nhóm nhỏ trong bóng tối của Đồn Cựu chiến binh hoặc cửa hàng tiện lợi, giậm chân để giữ ấm và cầm những chai bia lạnh trong tiết trời đêm lạnh gấp bội.
Thông thường bố hoặc mẹ tôi hay là mẹ của Rollie sẽ chở chúng tôi đến những buổi khiêu vũ trong mùa đông đó, nhưng luôn có một người anh của Tom chở chúng tôi về. Chúng tôi sợ hơi thở hoặc lời nói lảm nhảm của mình sẽ tố cáo chuyện mình đã uống bia. Tôi uống rất kém, và ở lớp tám, chỉ cần một chai rưỡi là đủ để tôi cười hinh hích cả ngày.
Tuy nhiên, tôi đã không đi cùng Tom đến buổi khiêu vũ tối thứ sáu đó, vì khi còn ở trường tôi đã đoán rằng tốt nhất tôi nên ở nhà buổi tối. Đến lúc hầu hết chúng tôi bắt đầu leo lên xe đưa đón học sinh để về nhà lúc ba giờ, Tom đã nghe được tin một bà mẹ do Sibyl Danforth đỡ đẻ đã chết. Chúng tôi trao đổi nhanh về chuyện đó trước khi tiết học cuối cùng của mỗi đứa bắt đầu, và dự đoán của anh lập tức mang điềm xấu:
“Ông mục sư đó chắc là rất đau buồn, nhưng những tay bác sĩ mới là người sẽ gây khó dễ cho mẹ em. Bác sĩ nghĩ rằng họ biết mọi thứ.”
Sau khi im lặng một lúc lâu, anh nói tiếp, “Những tay bác sĩ này, bọn họ làm anh sợ. Bọn họ như một bầy thú. Bầy sói. Họ bao vây con mồi và nhằm thẳng vào cổ họng.”
Tối thứ sáu đó, Tom đã gọi điện cho tôi, lúc gần mười một giờ, từ điện thoại công cộng ở bãi đỗ xe của cửa hàng tiện lợi. Anh nói đường dây điện thoại nhà tôi đã bận gần như suốt đêm, và tôi giải thích với anh rằng bố tôi phải nói chuyện với luật sư. Tôi biết anh có uống bia, nhưng chưa say. Anh nói không thể đến
nhà tôi vào sáng thứ bảy vì đã nhận lời giúp một người anh họ chuyển nhà đến căn hộ mới ở St. Johnsbury, nhưng anh bảo sẽ ghé qua vào buổi chiều. Tôi nói thế cũng được.
Khi lên đường đi Montpelier vào sáng thứ bảy, bố mẹ nói sẽ về nhà muộn, và bảo tôi nên kiểm tra điện thoại: Làm nghề bà mụ, mẹ tôi có lẽ là một trong những người đầu tiên ở hạt mua máy trả lời tự động, vì thế gia đình chúng tôi đã dùng nó trong nhiều năm rồi. Tôi rất thành thạo trong việc kiểm tra điện thoại.
Bố mẹ lo rằng phóng viên báo chí sẽ gọi điện cho chúng tôi, và nỗi sợ của họ là có căn cứ. Tự do báo chí Burlington, nhật báo lớn nhất bang, là tờ báo đầu tiên gọi đến, nhưng người phóng viên đó chỉ nhanh hơn vài phút so với các đồng nghiệp ở Người bảo vệ Montpelier và Ghi chép Ê cốt. Một người từ hãng tin AP ở Montpelier đã để lại ba tin nhắn, và tôi tin rằng ông ta chính là người đã gọi cách mười phút một lần cho đến giờ ăn trưa, gác máy mỗi khi tín hiệu ghi âm của máy trả lời tự động bật lên.
Tôi trải qua phần lớn ngày hôm đó trong tình trạng lơ mơ, lắng nghe những lời nhắn mà cánh phóng viên, bạn bè của gia đình và những bà mụ khác để lại trong máy trả lời tự động, và đợi Tom đến. Thông thường nếu tôi chờ Tom đến khi bố mẹ đi vắng, tôi sẽ mong mỏi giây phút chúng tôi nhanh chóng nằm trên ghế sofa ở phòng khách, âu yếm nhau cho đến khi Tom bắt đầu kéo áo len của tôi lên còn tôi thì phải làm cho việc đó chậm lại. Chúng tôi đều biết việc tôi cuối cùng sẽ cởi áo len và để anh vật lộn với áo ngực của tôi chỉ còn là vấn đề thời gian, nhưng thời điểm đó chưa đến.
Tuy nhiên, vào ngày thứ bảy khi bố mẹ tôi đi tìm luật sư, ý nghĩ Tom và tôi lao thẳng đến ghế sofa chưa bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Tôi biết mình rất vui khi Tom ghé qua, và tôi biết mình sợ - sợ như thể bố hoặc mẹ đang bị ốm thập tử nhất sinh. Nhưng tôi không biết hai cảm xúc đó sẽ chồng lấn nhau thế nào khi Tom cuối cùng cũng xuất hiện ở cửa nhà chúng tôi: Liệu anh nên ôm tôi hay đem cho tôi một chai bia? Liệu anh sẽ tra hỏi tôi đến từng chi tiết về những gì tôi biết hay sẽ cố tình nói về mọi thứ trừ chuyện đẻ tại nhà? Và nếu anh tình cờ ở nhà chúng tôi khi bố mẹ quay về, liệu một trong hai chúng tôi có nghĩ ra được ý gì để nói với họ - nhất là với mẹ tôi?
Ngay trước giờ ăn trưa, Rollie ghé qua, và trong khoảng một giờ, hai chúng tôi nghe những cuộc gọi đến trên máy trả lời tự động. Nếu bố mẹ hình dung ra cảnh hàng chục người sẽ dùng điện thoại để bố ráp tôi, họ hẳn sẽ đưa tôi đi cùng và cho tôi đi mua sắm ở Montpelier và Burlington trong lúc họ gặp luật sư. Nhưng không ai trong chúng tôi nghĩ đến sự tấn công dồn dập bắt đầu sau chín giờ sáng:
“Xin chào, tôi là Maggie Bressor, tôi là phóng viên của báo Tự do báo chí Burlington. Vui lòng cho tôi nói chuyện với bà Sibyl Danforth ngay sau khi bà ấy về nhà. Tôi xin lỗi đã làm phiền, nhưng tôi đang viết một bài về... ca đẻ ở Lawson, và tôi chỉ cần một ít thời gian của bà, thưa bà Danforth. Tôi sắp đến hạn nộp bài, vì vậy có thể tôi sẽ thử gọi bà lần nữa chiều nay. Số của tôi tại Burlington là 865-0940. Cảm ơn rất nhiều.”
“Chào Sibyl, chào Rand. Molly đây. Tớ đã nghe tin về, ừm, chuyện buồn đó, và tớ nghĩ đến các cậu. Cả tớ và Travis. Hãy gọi cho bọn tớ nếu muốn nhé. Và cho bọn tớ biết có giúp được gì không. Chào.”
“Xin chào, tôi muốn tìm Sibyl Danforth. Tôi là Joe Meehan ở Người bảo vệ. Chỉ muốn gặp bà nếu bà có ở nhà. Tôi sẽ gọi lại.”
Khi Rollie đến, tôi đã phải lắp cuộn băng cassette thứ hai để lưu tin nhắn. Và người ta vẫn tiếp tục gọi.
“Sibyl? Em có đấy không? Nếu em có ở đấy nhưng không nhấc máy, thì làm ơn nhấc lên đi! Là chị đây, Cheryl đây. Chị có cả một tập hồ sơ về pháp luật từ MANA mà chị muốn em xem. Khổng lồ luôn! Được rồi, em không có ở đấy, chị tin em. Nhưng gọi cho chị khi nào em về nhé. Hoặc có lẽ chị sẽ đem tập hồ sơ qua chỗ em. Trong đấy còn có cả tên của vài luật sư nữa - dĩ nhiên tất cả đều ở những nơi như Maryland và New Mexico - nhưng họ có thể giới thiệu tên một người ở Vermont. Một người giỏi. Nếu em cần. Nói với em sau nhé.”
Rollie nhấp một ngụm nước ngọt rồi hỏi tôi MANAlà gì.
“Đó là một hội các bà mụ của mẹ tớ. Họ ở đâu đó tại vùng trung tây,” tôi đáp. Tôi đã biết từ sớm rằng đó là từ viết tắt của Liên minh Bà mụ Bắc Mỹ, tổ chức tương tự như Hiệp hội thương mại quốc gia của các bà mụ không chuyên thời đó.
“Chào các cậu, Christine đây. Gọi cho tớ nhé. Tớ lo cho các cậu lắm.”
“Sibyl, xin chào. Tôi là Donelle đây. Tôi biết có một bà mụ mà chị sẽ muốn nói chuyện. Bà ấy đã chứng kiến một sản phụ chết lúc sinh con tại nhà, vì vậy bà ấy hiểu nỗi đau mà chị có thể đang trải qua. Bà ấy ở Texas, và tôi biết bà ấy sẵn lòng nói và nghe tất cả những gì chị muốn. Chào nhé.”
“Timothy Slayton từ hãng tin AP. Tôi nghĩ tôi sẽ gọi lại sau.”
Thật tình là không dứt. Cuối cùng ngay cả Rollie cũng thấy mệt khi phải nghe những cuộc gọi, và về nhà lúc một giờ ba mươi. Mãi gần ba giờ Tom mới đến, và trong một giờ rưỡi ở giữa, tôi tiếp tục dán mắt vào máy trả lời tự động, nhìn bóng đèn đỏ của nó nhấp nháy khi các cuộn băng ghi âm tin nhắn đến và đi không chạy. Duy nhất một lần tôi nhấc điện thoại lên để nói chuyện, đó là khi tôi nghe giọng bố nói từ điện thoại ở văn phòng luật sư tại Burlington.
“Con sao rồi?” ông hỏi.
“Ồ, ổn ạ.”
“Con đang làm gì đấy?”
“Đọc sách ạ,” tôi nói dối. Tôi sợ bố mẹ sẽ lo lắng nếu họ biết sự thật và mường tượng cảnh tôi ngồi bó gối, bất động bên máy trả lời.
“Bài tập về nhà à?”
“Vâng. Bài tập về nhà.”
“Chà, hôm nay thứ bảy đấy, đừng học nhiều quá. Đời còn dài mà. Con có canh điện thoại không?” “Một chút, con nghĩ thế.”
“Có ai gọi cho mẹ con không?”
“Vài người.”
“Bạn hay nhà báo?”
“Cả hai.”
“Được rồi. Khi làm việc xong với ông Hastings, bố mẹ còn ghé qua một nơi nữa. Vì dù sao bố mẹ cũng đang ở Burlington, nên bố mẹ sẽ đến bệnh viện để chụp X quang mắt cá chân mẹ con.” Ông đã cố gắng giảm nhẹ tầm quan trọng của chuyến đi bệnh viện, ngụ ý họ có thể cũng chẳng bận tâm chụp X quang nếu họ không ở Burlington, nhưng khó mà nói giảm nói tránh về một chuyến đi đến phòng cấp cứu.
“Chân mẹ vẫn đau lắm ạ?” tôi hỏi.
“Một chút,” ông nói.
Tôi nghĩ lần duy nhất tôi cử động giữa khoảng thời gian Rollie đi và Tom đến là khi tôi đứng dậy để xem những tiếng lục đục nhỏ phát ra từ nhà bếp là gì. Hóa ra đó là một vật báo hiệu độc đáo thường gặp của mùa xuân: Một chú chim cổ đỏ đã trở về nơi cho chim ăn bên ngoài cửa sổ nhà bếp sau một mùa đông trốn rét, và cu cậu đang chiến đấu với hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ. Tuy nhiên, chuyến về nhà của chú chim cổ đỏ ngày thứ bảy hôm ấy chỉ là một sự chọc tức, lại là một thí dụ sống động nữa
trong đầu tôi về sự ngu ngốc của thế giới tự nhiên: Chim đập đầu vào kính, các bà mẹ chết lúc sinh con.
Trông tôi có lẽ giống như một địa ngục lớp tám đối với Tom khi mở cửa cho anh. Tôi cũng ăn diện như bất kì đứa con gái gần mười bốn tuổi nào khác, nhưng thứ bảy hôm ấy tôi chưa kịp chải tóc, và tôi không nhớ là mình đã chải răng. Tôi chỉ thay quần áo ngay trước khi Rollie đến, nhưng chắc chắn tôi đã không mặc đẹp để đón Tom Corts. Tôi mặc một chiếc quần jeans vừa rộng vừa lùng thùng, và một chiếc áo len hippie cũ của mẹ do bà tự đan. Bà có lẽ đã dùng đến mười một cuộn len, và dù hiệu ứng màu sắc có mục đích tạo ảo giác, ngay cả mẹ cũng từng nói rằng trông nó quá rối mắt, giống như do một đứa bé mẫu giáo chọn màu vậy.
Nhưng nếu Tom có phát khiếp vì những gì anh thấy khi tôi mở cửa, anh cũng kiềm nén sự thất vọng đó. Anh vòng tay qua eo tôi và kéo tôi lại gần, rồi hôn lên môi tôi vừa nhẹ nhàng vừa giản dị như nụ hôn đầu chúng tôi trao nhau một năm trước trên lớp bùn của trại ngựa nhỏ nhà McKenna.
Rồi sau đó anh đung đưa tôi một lúc lâu, một sự đung đưa kì cục nhưng khiến tôi cảm thấy thật hợp lí vào lúc đó. Tôi áp trán vào lớp áo sơ mi vải bông lộ ra từ áo khoác bông trùm mũ kéo khóa một nửa của anh, cảm thấy bình yên, nếu không muốn nói hoàn toàn yên tâm. Tôi không nhớ anh đã tách cơ thể chúng tôi ra và đưa hai người vào trong nhà như thế nào, nhưng anh đã làm thế mà không khiến tôi khó chịu.
Tôi nhanh chóng nhận ra Tom, cũng như tôi, không biết nên nói nhiều hay ít về cái chết của cô Bedford hoặc sự dính líu của mẹ tôi. Anh hiểu một cái ôm sẽ có ích, còn thái độ khi thể hiện thành lời thì anh phải tùy cơ ứng biến khi đã yên vị.
“Anh họ anh sống trong một cái hố xí,” là những lời đầu tiên anh nói với tôi sau khi chúng tôi đi vào nhà bếp. “Cha ấy cứng đầu lắm, vì vậy chẳng có cách nào làm ông ấy đổi ý được. Nhưng mà, trời ơi, ông ấy đã chuyển đến sống trong một đống rác.”
“Chỗ đó có gì mà tệ vậy?”
“Ngoài hai cửa sổ, mỗi cái to bằng một bìa đĩa nhạc, thì chẳng còn gì sất. Ngoại trừ chỉ có hai phòng và một phòng tắm, mà sàn nhà tắm thì sắp mục hết cả ra. Và anh chỉ tìm thấy một cửa hiệu nhỏ ở toàn bộ cái khu chết giẫm đó.”
Khi chúng tôi băng qua nhà bếp đi vào phòng khách, anh dừng lại trước tủ lạnh. “Anh lấy một chai nước ngọt được không?”
“Được chứ.”
“Anh thật chẳng hiểu ông ấy nghĩ gì,” anh nói tiếp trong lúc thò tay vào chiếc tủ lạnh hiệu Kelvinator màu trắng để lấy một chai Coca.
“Căn hộ ở trong hay ngoài thị trấn?”
“Nó nằm trong một ngôi nhà gần công ty nấu đường. Cái công ty đóng lon mọi thứ từ Quebec ấy.” “Một căn nhà đẹp?”
“Ha! Đẹp như một tai nạn xe ô tô vậy. Nó vừa tối vừa cũ, và rất cần hoặc là một người thợ mộc giỏi hoặc là một cú sét đánh đúng chỗ.”
Anh ngồi xuống ở góc nhà cạnh máy nghe nhạc rồi bắt đầu đưa ngón tay cái lần theo chồng đĩa nhạc và băng cassette xếp thành hàng.
“Hôm nay mẹ em thế nào?” anh hỏi, cẩn thận nhìn chăm chú vào một bìa đĩa nhạc thay vì nhìn tôi. “Em nghĩ mắt cá chân của mẹ đau hơn bà tự nhận.”
“Mắt cá chân?”
Tôi kể cho anh nghe ngoài việc phải chịu đựng tất cả những gì đã xảy ra ở nhà Bedford, mẹ còn bị thương ở mắt cá chân như thế nào.
“Bà đã chọn được luật sư chưa?”
“Em không biết.”
“Bố mẹ em đi gặp bao nhiêu người?”
“Ba.”
Anh gật đầu xác nhận. “Anh họ của anh đoán rằng bố mẹ em kiếm được quá nhiều tiền nên không cần luật sư biện hộ công. Nhưng anh ấy nói trước đây anh ấy có một luật sư công rất giỏi.”
Vào thời đó tín hiệu truyền hình có thể không tốt lắm ở chỗ chúng tôi tại Vermont, nhưng dù sao tôi vẫn xem đủ chương trình ti vi để biết luật sư biện hộ công là gì.
“Vậy à?”
“Ừ, ở St. Johnsbury. Anh ấy bảo luật sư đó rất cừ.”
“Người đó đã làm gì?”
“Anh họ anh hay luật sư?”
Tôi nhún vai. “Em nghĩ là cả hai.”
“Anh họ anh say rượu và ăn cắp một chiếc xe để đi dạo rồi đâm vào một cột điện thoại. Chiếc xe nát bét.” “Xe của ai?”
“Của một người ở Boston. Một người tên là Saab. Vấn đề là, đó là lần thứ hai anh ấy ăn cắp và làm hỏng xe người ta. Vì vậy anh ấy bị giam ba mươi ngày ở Windsor. Nhưng anh ấy bảo lẽ ra còn tệ hơn ba mươi ngày nếu luật sư bào chữa của anh ấy không nhanh mồm nhanh miệng như thế.”
“Ăn cắp xe lúc say xỉn chỉ bị phạt tù ba mươi ngày thôi á?”
“Anh họ anh chỉ bị thế.”
Điện thoại trong nhà bếp reo vang, và khi tôi không nhúc nhích, Tom ngước lên nhìn tôi, nói rằng anh sẽ nghe.
“Cứ để máy tự động trả lời,” tôi nói với anh, rồi giải thích rằng đến khoảng một giờ trước, điện thoại còn reo không ngừng. Không ngạc nhiên khi đó là một phóng viên gọi điện lần nữa.
“Sẽ có nhiều thứ trên báo ngày mai lắm, phải không?” Tom nói.
“Em đoán thế.”
“Mẹ em nói chuyện với tờ báo nào chưa?”
“Em nghĩ là chưa.”
Anh thở dài, nhìn xuống gói thuốc lá trong túi áo trước ngực. Tôi biết anh muốn hút một điếu, nhưng anh không được phép hút thuốc trong nhà chúng tôi.
“Anh nghĩ mẹ em có nên làm thế không?” tôi hỏi.
“Anh không biết. Có thể. Để kể câu chuyện về phía bà.”
“Về phía bà? Anh nói về phía bà nghĩa là sao?”
Anh nhét một đĩa nhạc vào dãy đĩa nằm giữa bức tường và loa, rồi xoa tay sau cổ.
“Nghe này, Connie, anh không biết nhiều về những chuyện như thế này. Anh thậm chí không thể dựng chuyện khi đề cập đến luật sư và mấy người làm báo. Vì vậy anh có thể hoàn toàn sai về tất cả những chuyện này. Nhưng vấn đề là: Một người phụ nữ đã chết. Và cô ấy chết lúc sinh con. Cô ấy không chết vì bị sét đánh, hay vì đâm xe vào tảng đá, hay vì nhà cô ấy bị cháy giữa đêm. Cô ấy không chết vì quá béo nên mắc bệnh tim, hoặc vì cô ấy gãy cổ trên một chiếc xe trượt tuyết. Cô ấy chết vì điều gì đó đã xảy ra trong lúc cô ấy sinh con.”
“Thì sao?”
“Thì, họ sẽ phải đổ lỗi cho một ai đó. Hãy nhìn tất cả những phóng viên đã gọi điện mà xem.”
Tôi nghe tiếng chú chim cổ đỏ ngoài cửa sổ nhà bếp, trở lại để đánh nhau với ảnh phản chiếu của mình. Tôi cố gắng tập trung một lúc vào những gì Tom đang nói, nhưng tôi cứ nghĩ đến anh họ của anh và thời gian anh ta bị giam trong nhà tù bang ở Windsor. Câu nói cứ hiện ra trong đầu tôi như một đề bài trong tiết toán học:
Nếu một người đàn ông ăn cắp một chiếc xe và bị phạt tù ba mươi ngày, thì thời gian một bà mụ ở tù là bao lâu nếu một sản phụ của bà ấy chết trong lúc sinh con tại nhà?
“Ai là luật sư biện hộ công của anh họ anh?” tôi hỏi.
“Anh không nhớ tên ông ta.”
“Nhưng vụ việc xảy ra ở St. Johnsbury?”
“Ừ.”
Nếu một người ăn cắp một chiếc xe và bị phạt tù ba mươi ngày, thì thời gian một bà mụ ở tù là bao lâu nếu một sản phụ của bà ấy chết trong lúc sinh con tại nhà? Người đàn ông say xỉn, còn bà mụ thì tỉnh táo.
“Không phải Newport?”
“Không phải Newport.”
“Anh nghĩ Newport có luật sư biện hộ công không?”
“Đó là một hạt khác. Có thể.”
Nếu một người ăn cắp một chiếc xe và bị phạt tù ba mươi ngày, thì thời gian một bà mụ ở tù là bao lâu nếu một sản phụ của bà ấy chết trong lúc sinh con tại nhà? Người đàn ông say xỉn, còn bà mụ thì tỉnh táo. Khi làm phép tính, không được quên rằng bà mụ đã mổ sản phụ sau khi cô ta đã chết.
“Cô Bedford chết ở Lawson. Tất cả những người đến nhà họ vào sáng hôm qua đều đến từ Newport.” “Nghe này, anh chắc chắn luật sư biện hộ công của Newport cũng giỏi.”
“Em hi vọng thế.”
“Vả lại, ngay cả nếu mẹ em cuối cùng phải cần đến một luật sư, thì bố mẹ em cũng biết chọn lọc mà. Họ có thể sẽ dùng một trong những người họ gặp hôm nay.”
“Và đấy là trường hợp nếu bà cần đến một luật sư,” tôi nói thêm đầy hi vọng, lặp lại những lời anh nói trước đó.
Anh gật đầu và lẩm bẩm, “Ừ, đúng thế: nếu. Nếu bà cần luật sư,” nhưng tôi biết sâu thẳm trong lòng anh tin rằng bà sẽ cần. Sau lưng chúng tôi điện thoại lại reo, và lần này Tom chẳng buồn ngước lên. Anh tiếp tục dán mắt vào đầu gối quần jeans xanh của mình, trong lúc lại một giọng nói xa lạ nữa yêu cầu mẹ tôi gọi lại cho ông ta sau khi bà về nhà.
9
Mười lăm năm trước, tôi luôn chờ đến một ngày mình sẽ bị bắt. Tôi đã biểu tình chống chiến tranh, tôi đã gọi cảnh sát là “lũ lợn”, tôi hút cần sa quá liều.
Nhưng tôi đoán mình chưa bao giờ đủ giận dữ hoặc rồ dại hoặc phê thuốc đến mức làm chuyện điên rồ. Có thể tôi sẽ như thế nếu tôi không được trời ban cho Connie. Tôi biết nhiều cô gái thời đó một tay chĩa ngón tay thối về phía cảnh sát còn tay kia thì bế con, nhưng đó không phải là tôi. Ðứa bé quý giá với tôi đến nỗi tôi không thể phí hoài cuộc sống như thế.
Tôi nhớ Rand từng bị tóm một lần và lùa lên một chiếc xe thồ. Anh là một trong hàng chục người bị bắt trong một cuộc biểu tình ở Washington D.C., và tôi có lẽ đã bị bắt cùng anh nếu không phải vì lúc đó đang có bầu năm tháng. Nhưng tôi đang mang thai Connie, và điều cuối cùng tôi muốn làm là mất cả ngày trời trong chiếc xe nhét kín người từ Vermont đến Washington, và rồi thêm một ngày nữa đứng dưới cái nóng của thủ đô, gào thét thủng cả phổi với hàng nghìn con người đang tức giận sục sôi.
Tôi nghĩ Rand chỉ bị giam một ngày, và anh không hề bị cáo buộc tội danh gì.
Và không như tôi, anh không bao giờ phải đeo còng tay.
Chiều hôm nay khi Stephen đảm bảo với tôi rằng tôi sẽ không vào tù, thẩm phán và luật sư bang - Tanner - lại khiến tôi có cảm giác như mình đã bắn vào ai đó trong lúc cướp một ngôi nhà. Stephen nói đó chỉ là thủ tục hình thức, nhưng tôi không nghĩ có ai bị cảnh sát đến nhà và bắt giam lại gọi một chiếc “còng tay” là thủ tục hình thức cả. Và dù tôi đã trông chờ cảnh sát đến, tôi chắc chắn đã không trông chờ chiếc còng.
“Thế này, tôi nghĩ việc này là không cần thiết, phải không nào?”
“Chúng tôi không có lựa chọn khác, Stephen ạ, anh biết mà,” người cảnh sát có ria mép nói, người mà tôi nghĩ tên là Leland.
Và thế là ở ngay hiên nhà tôi, họ đã buộc tôi đưa hai cánh tay ra để “còng tôi”.
Tôi không biết tội phạm nghĩ gì về chiếc còng tay. Nó không đến nỗi chặt lắm, nhưng tôi nghĩ đó là vì tôi không có nhiều thịt hoặc mỡ quanh cổ tay. Mỗi lần tôi ngọ nguậy ngón cái, xương cổ tay tôi lại cứa vào thép. Nếu tôi chà đủ lâu, tôi nghĩ nó sẽ làm bong da.
Ðiều kì lạ nhất về chiếc còng tay chính là miếng bọc cao su mà ai đó đã quấn quanh sợi xích nằm giữa hai cái còng. Nó giống như một ống nước làm vườn trong suốt, dài khoảng mười hai đến mười lăm centimet. Họ thiết kế ra hai cái khóa kim loại đáng sợ, xấu xí, và đau đớn để còng cổ tay người ta, rồi lại bọc một ống cao su quanh sợi xích.
Tôi cảm thấy đó là chi tiết kì lạ nhất trong toàn bộ trải nghiệm kì lạ này. Tôi đấy, ngồi ở băng sau trong xe cảnh sát, mặc bộ váy mùa xuân in hình hoa diên vĩ xanh, hai tay kín đáo khép lại giữa đùi vì tôi đang
đeo một chiếc còng tay bọc bằng ống nước làm vườn.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
STEPHEN HASTINGS không có nhiều bị cáo ở cái góc lạnh lẽo, heo hút này của bang chúng tôi. Ông ta thường làm việc ở Burlington, nơi những loại tội ác có thể dẫn đến kết cục cần một luật sư năng động - theo tiêu chuẩn Vermont - thường xảy ra. Stephen từng bào chữa cho một ông giám đốc công ty điện lực, bị cáo buộc dìm chết vợ ở hồ Champlain, và một thầy giáo Anh văn ở trường trung học, bị khởi tố vì quan hệ tình dục với hai nữ sinh mười lăm tuổi học trong lớp của ông ta. Với sự giúp đỡ của Stephen, họ đều được tuyên vô tội.
Và dù số vụ nắm chắc phần thua của Stephen cũng tương đương số vụ thắng, nhưng chỉ riêng việc ông từng cãi thắng cũng đủ giúp ông trở thành một luật sư ít nhiều có giá. Dù sao thì, không ai nghĩ ông có cơ hội thắng trong vụ người quản trị bệnh viện chặt đầu nhân viên kế toán sau khi có vẻ như bị người này phát hiện ông ta đã biển thủ hàng trăm nghìn đô la. (“Cách thực hiện và sự man rợ của cái chết cho thấy hành động có mưu tính từ trước,” Stephen kể cho chúng tôi nghe thẩm phán đã nói với ông như thế vào buổi tối khi phiên tòa đó kết thúc.) Mọi người trong bang đều biết một ông chủ nhà nghỉ ở Shelburne sẽ bị buộc tội buôn lậu ma túy, còn người đàn bà để hai đứa con sinh đôi sơ sinh của mình đóng băng trên đỉnh Camel’s Hump[11] sẽ bị tuyên phạm tội giết người cấp độ một.
Dù các vụ xử án giết người, cưỡng hiếp và buôn ma túy của Stephen làm hao tốn nhiều bút mực của báo chí nhất, nhưng ông ta cũng từng bào chữa cho một ông chủ tịch ngân hàng sửa báo cáo tài sản và các khoản nợ của ngân hàng, một nữ doanh nhân trộm tiền từ nhà đầu tư, và hai quan chức Vermont nhận tiền hối lộ của một công ty xây dựng trong vụ đấu thầu một khu phức hợp văn phòng của bang. Vermont hiếm khi xảy ra nhiều hơn mười vụ giết người mỗi năm, và đa số các vụ đó thuộc dạng giết người liên quan đến ma túy hoặc những cơn ác mộng gia đình kết cục với một luật sư biện hộ công. Vì thế, việc một công ty như công ty của Stephen - và bản thân Stephen - cũng nhận xử lý các kiểu phạm tội cổ trắng khó nhận biết hơn (và ít rùng rợn hơn) là chuyện hoàn toàn tự nhiên.
Dù Stephen có thể hiếm khi xuất hiện ở Tòa án Hạt Orleans tại Newport, nhưng ông ta vẫn biết khá rõ luật sư bang của hạt. Vermont là một bang nhỏ, và Stephen thường chạm mặt Bill Tanner tại những buổi họp trang trọng của hiệp hội luật sư ở Montpelier, hay những buổi chiêu đãi thân mật tại trường luật ở Royalton. Họ có bạn bè chung ở Burlington và Bennington, và từng dành một ngày thứ bảy trượt tuyết cùng nhau ở Stowe, khi tình cờ gặp nhau lúc xếp hàng chờ cáp treo sáng hôm đó.
Vì vậy, lẽ ra tôi không nên ngạc nhiên khi tình cờ chứng kiến cảnh tượng diễn ra vào một buổi sáng trong thời gian xét xử. Nhưng tôi vẫn ngạc nhiên. Tôi xem Bill Tanner như một người xấu có đầu óc hơi bị tâm thần, một lão già thích thú trước tình cảnh suy sụp của bố mẹ tôi vì những lý do mà tôi không thể hiểu nổi. Trong tâm trí tôi, lão đặc biệt đáng sợ vì lúc nào cũng vô cùng kiểu cách.
Nói tóm lại, vào một buổi sáng trước khi phiên tòa ngày hôm ấy diễn ra, tôi đang đứng bên ngoài hai cánh cửa gỗ bóng loáng dẫn từ tiền sảnh tòa án vào phòng xử án. Lúc đó hẵng còn rất sớm, nhưng qua cửa sổ kính hình tròn, tôi có thể thấy Stephen, Tanner và thẩm phán Dorset đã ở bên trong. Dorset chưa mặc áo choàng, cà vạt vắt hờ quanh cổ như một chiếc khăn choàng: Ông ta thậm chí còn chưa bắt đầu thắt cà vạt.
Tanner đang ăn chuối còn Stephen đang nhai ngũ cốc khô, cả bàn tay và một phần cánh tay ông ta biến mất định kì vào trong chiếc hộp giấy bồi lớn. Ba người đàn ông đang đứng quanh bàn bào chữa, riêng Tanner thực tình đang ngồi trên chiếc ghế thường thuộc về mẹ tôi. Bồi thẩm đoàn chưa được đưa vào, chấp hành viên tòa án và báo cáo viên tòa án cũng chưa đến. Các phóng viên báo chí chưa chen nhau vào, cũng như hầu hết những người đến xem thường lấp đầy phòng xử án suốt thời gian xét xử: bạn bè và người ủng hộ của mẹ tôi, những thành viên hiếu kì của Ủy ban nghề y, và gia đình Charlotte Bedford - một nhóm nhỏ những người vừa đau buồn khôn nguôi vừa giận dữ khôn xiết. Hai người duy nhất mà tôi thấy trong phòng lúc bấy giờ là hai thanh niên mà - dựa trên những quyển sách dày cộp về luật pháp bang họ đang đọc, và những nhãn dán màu vàng họ dùng để đánh dấu các đoạn trong mớ sổ ghi chép luật chi
chít của họ - tôi đoán là sinh viên luật.
Mẹ tôi đang ở trong phòng vệ sinh nữ ở một tầng khác của tòa nhà vào lúc đó, còn bố tôi thì ở đấy cùng bà - có lẽ đang đi đi lại lại trên hành lang ngoài nhà vệ sinh.
Nhìn thấy hai luật sư và thẩm phán ngồi cùng nhau gây ra một cảm giác gì đấy khiến tôi không xông vào phòng xử án như dự định. Độ vang trong phòng rất lớn, và qua khe hở mỏng giữa hai cánh cửa, tôi có thể nghe được cuộc trò chuyện của họ.
“Trời ạ, tôi suýt phì cười khi đọc báo sáng nay,” Tanner đang nói, cười khúc khích rất khẽ.
“Meehan có dự cùng một phiên tòa như chúng ta không nhỉ?” Stephen nói, và mất một lúc tôi mới nhớ ra tại sao tôi biết cái tên Meehan. Và rồi nó lóe lên: Đó chính là người phóng viên tóc vàng gầy nhẵng viết về vụ xử này cho tờ Người bảo vệ Montpelier, người lúc nào trông cũng rất mệt mỏi.
“Tôi không ngờ nó lại diễn ra tốt như vậy, Stephen ạ,” Tanner nói tiếp, nhét vỏ chuối màu vàng và đen vào một cốc cà phê bằng xốp rỗng.
“Meehan là một anh ngốc,” Dorset nói. “Hai anh đều biết thế mà.”
“Có thể. Nhưng nếu bồi thẩm đoàn đến giờ này cũng nhìn sự việc theo cách nhìn của anh ta thì tôi thật tình là toi đời ở đây rồi,” Stephen nói.
“Không ai nhìn sự việc giống cách của Meehan cả,” Dorset đáp.
“Hi vọng là thế. Nếu không, vài ngày sắp tới sẽ là những ngày rất dài đối với cô bạn Sibyl của tôi,” Stephen nói, lắc đầu vẻ đau khổ.
“Nhưng là một buổi nghị án rất ngắn,” Tanner nhanh chóng tiếp lời, rồi đấm nhẹ lên tay Stephen.
Tôi nghĩ điều khiến tôi bực dọc nhất vào lúc đó không phải là ý nghĩ rằng Stephen sợ phiên tòa sẽ diễn biến xấu đi, dù tôi biết chắc điều đó góp phần làm cho tôi cảm thấy khó chịu trong phần lớn buổi sáng hôm đó. Nó có lẽ cũng không phải là cách mà người luật sư lẽ ra phải biện hộ cho mẹ tôi và bảo vệ gia đình tôi kết thân với kẻ thù mà tôi không ưa tẹo nào.
Không, nghĩ lại, tôi tin điều khiến tôi bực dọc nhất cả ngày hôm đó chính là cách đùa cợt tầm thường, hời hợt của ba người đàn ông đó. Phiên tòa này đã trở thành tất cả đối với gia đình tôi, nó là cuộc sống của chúng tôi; nó nằm trong tâm trí chúng tôi mỗi giây phút chúng tôi thức giấc, và tôi không thể tưởng tượng mẹ tôi có thể thoát khỏi nó trong những giấc mơ của bà. Tôi biết tôi đã không thoát được. Hình phạt cho tội bất cẩn gây chết người là từ một đến mười lăm năm tù, và sự tấn công không ngừng của Tanner vào mẹ tôi đã khiến tất cả chúng tôi nhận ra rằng nếu bà bị tuyên có tội, chính quyền bang sẽ gây áp lực để áp dụng mức phạt tối đa. (Tôi đã làm phép tính ngay vào buổi sáng người ta đưa ra các cáo buộc chống lại mẹ: Nếu bà bị tuyên có tội và bị phạt tù mười lăm năm, thì đến lúc bà mãn hạn tù, tôi đã hai mươi chín tuổi còn mẹ đã gần năm mươi.)
Tuy nhiên, với Stephen Hastings và Bill Tanner, với thẩm phán Howard Dorset, vụ xét xử này chỉ thuần túy là công việc của họ. Nó thực ra chỉ là một trong nhiều công việc mà họ làm trong đời. Thêm một ngôi nhà cho thợ xây. Thêm một chuyến bay cho phi công. Thêm một đứa trẻ cho bác sĩ sản phụ khoa hoặc bà mụ. Vụ việc có thể quan trọng với gia đình tôi, nhưng với những người đang bàn bạc về tính cách và năng lực của mẹ tôi, nó chỉ là một buổi sáng nữa ngoài phòng làm việc, một buổi chiều nữa ở tòa mà thôi.
Tôi không phải lòng Stephen Hastings, nhưng nếu có thì cũng dễ hiểu. Tôi hình dung rất nhiều cô gái trong hoàn cảnh của tôi sẽ si mê ông ta, vì ông thân thiết với gia đình chúng tôi đến nỗi giống như một thám tử điều tra hoặc một kị binh cảnh sát bước vào cuộc đời chúng tôi và giải cứu chúng tôi. Và, đương nhiên, hormone của tôi là một mớ hóa chất hỗn loạn hệt như bất kì ai ở tuổi mười ba, mười bốn, một hỗn hợp chất nổ bao gồm những nguyên tố có nguy cơ bốc cháy - ít nhất là tại đây ở Vermont - ở những nơi
ẩm thấp. Một chiếc xe tải chở một đống quần áo, hoặc những chiếc chăn cũ ném tùy tiện lên giường. Những kẽ hở phủ đầy rêu khuất lấp rải rác trên những con sông uốn lượn qua cánh rừng. Những khu nghĩa trang.
Có lẽ vì quá nhiều đá granite được khai thác từ các mỏ đá ở Barre và Proctor mà rất nhiều chàng trai ở Vermont quả quyết (dù hết sức sai lầm) rằng các nghĩa trang và bia mộ tác động lên những cô gái vị thành niên như những loại thuốc kích dục.
Rollie thường trêu tôi rằng tôi có cảm tình với Stephen, nhưng tôi nghĩ đó là vì bản thân nó cũng bị người đàn ông này hấp dẫn. Điều đó không làm tôi ngạc nhiên lúc đó; điều đó cũng không khiến tôi ngạc nhiên lúc này.
Stephen bằng tuổi bố tôi vào mùa hè và mùa thu ông ta bào chữa cho mẹ, và lớn hơn mẹ tôi hai tuổi. Những người đàn ông ở quanh tôi năm đó ba mươi sáu tuổi, còn người phụ nữ là cả cuộc đời tôi thì ba mươi tư.
Tôi không đọc báo nhiều trước khi tên của mẹ xuất hiện trên đó thường xuyên, vì vậy tôi chưa bao giờ nghe nói đến Stephen trước khi ông ta bước vào cuộc đời chúng tôi, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra hầu hết những người lớn quanh tôi đều đã nghe nói đến Stephen. Nếu họ không biết tên ông, thì họ thường nhận ra khuôn mặt ông ngay khi gặp. Ông thường được chụp ảnh. Thời đó người ta không được phép đem máy ảnh vào phòng xử án khi phiên tòa đang diễn ra, vì thế những tấm ảnh điển hình của Stephen là những gì mà ông từng nhắc đến khi ở cạnh tôi là “ôm và cười” với một bị đơn trên bậc tam cấp tòa án sau khi cãi thắng, hoặc “những cái nhíu mày đơn độc của sự phẫn nộ chính đáng” khi tuyên bố việc kháng án không thể tránh khỏi sau một ca cãi thua.
Tóc ông chỉ mới bắt đầu bạc dọc thái dương và trên cặp boomerang duyên dáng có chức năng làm chân mày. Màu tóc đen nhiều hơn nâu, và ông chải chuốt, tỉa tót mái tóc của mình với một kỉ luật chỉ có ở một cựu binh không lực. Những nếp nhăn nhỏ đã bắt đầu cong cong ở hai bên khóe miệng, nhưng ngoài đặc điểm đó ra, khuôn mặt ông khá gầy và sắc sảo. Vì phần lớn thời gian tôi gặp ông là vào buổi chiều hoặc tối, nên ông luôn mang nét mặt lởm chởm râu, một kiểu trang điểm sậm màu tự nhiên để lại trong kí ức tôi ấn tượng về một người cực kì cần mẫn và thông thái.
Ông cao tương đương bố tôi, khoảng một mét tám, và nặng hơn bố một tẹo - không phải béo, thậm chí cũng không phải nhiều thịt hơn, nhưng ông chưa bao giờ mất những cơ bắp hình thành trong quá trình huấn luyện cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông vừa li dị vợ khi gặp bố mẹ tôi, nhưng cuộc hôn nhân đó diễn ra không lâu lắm và không đem lại cho họ đứa con nào. Mẹ nói khi Stephen đặc biệt chú tâm chuyện gì, ông ta thường xoay ngón cái và ngón trỏ của bàn tay phải quanh ngón tay mà trước đây ông từng đeo nhẫn cưới, nhưng tôi chưa từng nhìn thấy ông làm thế bao giờ.
Có lẽ vì tôi là một cô gái mới lớn có mối quan tâm thường thấy về quần áo, nên tôi nhận ra rằng Stephen dường như luôn mặc đẹp hơn một chút so với những người đàn ông xung quanh ông ta: Nếu xung quanh là những luật sư mặc áo khoác giả vest và quần tây ở một buổi lấy lời khai sáng thứ ba, thì Stephen sẽ mặc complet; nếu những người xung quanh mặc quần kaki ở buổi tiệc rượu tối thứ bảy, thì ông ta sẽ mặc quần tây màu xám; thậm chí vào một ngày Chủ nhật nọ, tại một buổi dã ngoại vào mùa hè năm đó, trước khi những người lớn đồng loạt quyết định tất cả sẽ mặc quần jeans xanh, thì chỉ mình ông chọn quần vải chino - dệt chéo, đúng, nhưng thẳng thớm, bảnh bao, và màu be.
“Nhỉnh hơn một bậc,” ông giải thích với bố và tôi ngày hôm đó, đảo tròng mắt và tự giễu mình, sau khi bố bình luận gì đấy về thói quen luôn ăn mặc đẹp hơn một chút so với những người xung quanh. “Để chiến thắng ở công việc mà tôi làm - và cũng phải thừa nhận là, để tính mức thù lao mà tôi đặt ra - yêu cầu phải ăn mặc chính xác nhỉnh hơn một bậc so với những người khác. Không phải hai bậc, vì nếu thế thì tôi trông như một thằng ngốc. Chỉ một. Một bậc giúp tôi trông đắt giá. Và, tôi hi vọng, đáng đồng tiền bát gạo.”
“Tôi cũng hi vọng thế,” bố tôi đồng tình, giọng nói che giấu sự căng thẳng không thể hiện thành lời.
Stephen chưa bao giờ đối xử với tôi như một đứa trẻ con, một việc có nhiều ý nghĩa với tôi vào độ tuổi ấy. Ông ta đã hai lần đem đĩa nhạc punk đến cho tôi từ một cửa hiệu bán đĩa ở Burlington mà thông thường phải mất nhiều tháng sau mới đến được Vương quốc Đông Bắc. Một lần sau khi nghe Tom Corts nói quan tâm đến miền Tây nước Mỹ, ông đã đem cho anh một quyển sách bìa mềm tuyển tập các bức ảnh của Ansel Adams[12]. Ông luôn tỏ vẻ cực kì quan tâm đến công việc của bố tôi, và tôi nghĩ đến khi phiên tòa bắt đầu, ông đã biết tường tận về chuyện đẻ tại nhà đến mức có thể ra tay đỡ đẻ ngay tại một phòng ngủ nào đấy.
Tôi biết đôi khi bố cảm thấy Stephen đã trở thành một phần quá thân thiết trong cuộc sống gia đình chúng tôi, nhưng với tôi đó dường như là một cái giá hợp lý để đảm bảo mẹ tôi được tuyên trắng án. Ngẫm lại, tôi nghĩ Stephen chỉ đơn giản là đã kết luận rằng - hoặc trong thực tế những việc này thường có khuynh hướng thành hiện thực - phát hiện ra rằng ông ta quan tâm đến mẹ tôi, và muốn ở gần chúng tôi càng nhiều càng tốt. Cái tài của ông ta, trong tâm trí tôi, chính là luôn chân thật, những cái ôm của ông luôn chân thành và thân ái như người một nhà.
Khoảng bốn mươi tám giờ đã trôi qua từ ngày thứ bảy khi bố mẹ tôi gặp Stephen Hastings ở Burlington đến buổi tối thứ hai khi ông xuất hiện tại nhà chúng tôi ở Reddington với một thợ chụp ảnh, và tôi được giới thiệu với ông. Rõ ràng bố mẹ đã lập tức có thiện cảm với Stephen vào ngày họ gặp nhau, và ông ta đã lập tức đồng ý đại diện cho mẹ tôi nếu - như ông nói với họ - việc đó là cần thiết. Và khi chính quyền bang tiến hành điều tra trong suốt tháng ba, dù tất cả chúng tôi đều hi vọng rằng Bill Tanner sẽ quyết định không khởi tố, Stephen vẫn kiên quyết bảo bố mẹ tôi nên chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất: một cáo buộc tội bất cẩn gây chết người xuất phát từ sự khinh suất hoặc cực kì bất cẩn của mẹ tôi.
“Bill thậm chí có thể làm ầm ĩ rằng việc đó là cố ý,” Stephen cảnh báo vào buổi chiều thứ bảy đó. “Thế có nghĩa là gì?” bố tôi hỏi.
“Trong thực tế nó sẽ chẳng có nghĩa gì cả. Nhưng vì là công tố viên cao nhất của chính quyền ở Orleans, Bill cần hành động như thể ông ta là một chàng cao bồi dữ dằn,” Stephen bắt đầu, trước khi xoay ghế lại để nói chuyện trực diện với mẹ tôi. “Nếu ông ta đề xuất chị hành động cố ý, thì có nghĩa ông ta tin rằng có thể thắng với một cáo buộc tội ngộ sát, chứ không chỉ đơn thuần là bất cẩn gây chết người. Thậm chí có thể là giết người cấp độ hai.”
Mẹ tôi chỉ im lặng gật đầu, bố tôi kể với tôi điều này một thời gian lâu sau đó, còn ông không thể nghĩ ra được gì để nói. Vì thế ông chỉ đưa tay ra ôm lấy bàn tay mẹ.
May là Stephen đã nhanh chóng nói tiếp, “Đương nhiên, sẽ không có chuyện đó xảy ra. Tôi không nghĩ Bill có thể tìm được một tiền lệ nào cho cáo buộc kiểu này. Tôi chỉ cảnh báo anh chị rằng ông ta có thể làm ầm ĩ đến mức đó ngay từ đầu.”
Stephen muốn bắt tay vào việc ngay để chuẩn bị bào chữa - chỉ để phòng hờ - và bố mẹ tôi đồng ý. Ông ta muốn những bức ảnh chụp các vết xây xát và bầm tím trên người mẹ tôi do băng đá vào sáng thứ sáu ở Lawson, và mắt cá chân bị bong gân khiến bà phải đi tập tễnh. Ông muốn kiểm tra hồ sơ khám thai của Charlotte Bedford với một bác sĩ, và ông nói có thể đưa một nhà điều tra đến ngay. Ông cho mẹ tôi một vài lời khuyên: “Đừng nói với bất kì ai về chuyện này, không một ai. Đừng nói với bất kì người nào về bất kì chuyện gì - và đừng nói gì với tôi cả. Tôi sẽ hỏi chị những gì tôi cần biết khi chúng ta bắt tay vào việc. Và cố gắng đừng lo lắng gì cả. Tôi biết chị sẽ lo, nhưng chị không cần lo. Theo ý tôi, chính quyền phải tặng thưởng huy chương cho chị vì đã cứu mạng đứa bé mới đúng, chứ không phải hăm dọa chị như một băng đảng du côn hợp pháp.”
Đương nhiên, ngay lúc đó đã có những tín hiệu cho bố mẹ tôi thấy rõ ràng và chính xác rằng bất kì hi vọng nào về việc chính quyền bang sẽ không khởi tố là vô căn cứ, bất kì sự lạc quan nào cũng đều không được đảm bảo. Trải qua ngày thứ sáu, thứ bảy và Chủ nhật sau cái chết của Charlotte, mẹ tôi cứ ngóng chờ Anne Austin gọi điện thoại. Mẹ tôi thực lòng lo rằng cô học việc trẻ của bà quá ám ảnh với những gì
đã nhìn thấy đến nỗi có thể sẽ từ bỏ ý định trở thành bà mụ trong tương lai. Vì thế, bà đã gọi điện cho cô ta vào sáng thứ bảy trước khi cùng bố đi tìm luật sư, và lần nữa sau khi họ về nhà vào cuối ngày hôm đó. Bà gọi vào sáng Chủ nhật, và lần nữa vào tối Chủ nhật.
Như chúng tôi, Anne cũng có máy trả lời tự động, và mẹ tôi lần nào cũng để lại lời nhắn. Khi Anne vẫn không gọi lại lúc chúng tôi ăn tối vào ngày Chủ nhật, mẹ tôi tự nhủ thành tiếng không biết có phải Anne đã đi Massachusetts để thăm bố mẹ cô hay không, để tạo ra một khoảng cách về nghĩa đen giữa cô với ngôi nhà nơi Charlotte Bedford đã qua đời.
“Và biết đâu cô ấy đã cố gắng liên lạc với em hơn hai mươi lần mà chỉ gặp toàn máy bận,” bố tôi nói thêm.
Các tờ báo ngày Chủ nhật cũng là một dấu hiệu khá rõ cho thấy chính quyền bang sẽ khởi tố. Vào sáng thứ bảy, chỉ có vài bản tin dài tám hoặc mười centimet trên Tự do báo chí Burlingtonvà Ghi chép Ê cốt nói rằng một phụ nữ tên là Charlotte Fugett Bedford đã tử vong trong một ca đẻ tại nhà, nhưng không hề đề cập đến tên Sibyl Danforth. Bất kì ai tình cờ đọc hai bản tin này đều sẽ suy đoán từ nội dung câu chuyện rằng dù thi thể người phụ nữ đã được đưa đi khám nghiệm pháp y, nhưng đó chỉ là một thủ tục và chẳng có lý do gì để nghi ngờ ngoài chuyện chết vì nguyên nhân tự nhiên.
Tuy nhiên, các bài báo ngày Chủ nhật lại khác hẳn. Chúng dài hơn, chi tiết hơn, và rùng rợn hơn. Chúng cũng thiếu phần ý kiến của mẹ tôi về cái đêm dài ấy trong phòng ngủ của nhà Bedford, vì bà đã chọn cách không gọi lại bất kì cuộc điện thoại nào từ phóng viên trong ngày thứ bảy. Và dù Stephen giải thích với bố mẹ tôi rằng họ nên chuyển các yêu cầu của báo chí đến ông ta, nhưng họ không biết điều đó khi mới đến văn phòng của ông, và vì thế trong các bài báo ngày Chủ nhật cũng không có lời bình luận nào từ Stephen Hastings.
Thế cho nên, những bài báo đăng ngày Chủ nhật không chỉ đẫm máu mà còn một chiều và sai bét. Chúng có đầy những trích dẫn từ các bác sĩ và bà mụ không có mặt trong phòng cùng mẹ tôi, những người sẵn sàng phỏng đoán về điều “hẳn đã xảy ra” hoặc điều “có thể đã xảy ra”. Ông bác sĩ sản phụ khoa từ Bệnh viện North Country, người đã chào đón Veil ngay sau khi nó ra đời, rất sẵn lòng nói về những việc ông ta biết (đứa bé vẫn ổn) lẫn những việc ông ta không biết (tại sao người mẹ thì không ổn).
“Chúng ta đã bị ru ngủ khi tin rằng việc sinh đẻ cũng an toàn như trám răng hoặc băng bó một cánh tay gãy,” Bác sĩ Andre Dumond nói với các phóng viên. “Rõ ràng, như sự cố này đã chứng minh, nó không an toàn. Danh sách những điều có thể diễn biến xấu trong sinh đẻ tại nhà là rất đáng sợ và bất tận. Đó là lý do tại sao bác sĩ thích lựa chọn sự hỗ trợ về mặt kĩ thuật và chuyên môn của bệnh viện hơn.”
Ngay cả khi chỉ mới mười ba tuổi, tôi có thể nhớ mình đã suy nghĩ trong lúc đọc lời nhận xét này rằng bản thân tôi sẽ không trám răng tại nhà hoặc băng bó cánh tay bị gãy trong phòng ngủ của mình, nhưng tôi vẫn hiểu ý ông ta. Và tôi biết những người khác cũng sẽ hiểu.
Dumond cũng được phóng viên của hãng AP hỏi rằng liệu Charlotte Bedford có chết không nếu sinh con trong bệnh viện, và câu trả lời của ông ta cho câu hỏi đó nên được các giám đốc quan hệ công chúng và sinh viên luật, những người hiểu vai trò của truyền thông trong một vụ xét xử, nghiên cứu:
“Lúc này tôi không biết liệu người phụ nữ tội nghiệp ấy có sẽ chết trong bệnh viện hay không. Tôi chưa biết tường tận về chuyện đã xảy ra. Liệu bụng cô ấy sẽ bị banh ra bằng một con dao làm bếp không? Dĩ nhiên là không. Liệu cô ấy có sẽ phải chịu đựng ca mổ đẻ mà không được gây mê không? Dĩ nhiên là không.”
Trong số năm, sáu bác sĩ có thể gặp mẹ tôi và Veil khi họ đến Bệnh viện North Country, Dumond là sự lựa chọn tồi tệ nhất theo quan điểm của gia đình tôi. Mẹ tôi và Dumond quen biết nhau, và họ không ưa nhau. Tôi không nghi ngờ gì việc Dumond là một bác sĩ sản phụ khoa giỏi, nhưng lúc đó ông ta đã hơn năm mươi tuổi, và ông ta là kiểu bác sĩ mà các bà mụ thường ví von là “nhà can thiệp”. Ông ta tin rằng sinh đẻ là một công việc nguy hiểm, cần phải có sự giám sát liên tục và rất nhiều thuốc men. Mẹ tôi và các bà mụ khác đôi khi gọi ông là “Bác sĩ kẹp Fooc-xép” và “Người đàn ông Electrolux” - liên tưởng đến chiếc máy hút hình chỏm sọ mà những bác sĩ như Dumond sẽ áp lên đầu thai nhi để kéo đứa bé ra khỏi âm đạo - vì
ông ta rất nhanh nhẹn trong việc biến những cái đầu em bé thành những thứ trông như củ cải với các đồ chơi trong phòng đỡ đẻ của ông ta.
Mẹ tôi nghĩ thật là lố bịch (nhưng hoàn toàn nằm trong dự đoán) khi Dumond thuyết phục một bác sĩ nhi khoa giữ Veil ở lại bệnh viện vào cuối tuần để theo dõi. Hai người bác sĩ còn quá đáng đến mức đưa đứa trẻ khỏe mạnh, khóc oe oe, nặng ba kí tám ấy vào căn phòng chẳng khác gì mấy so với phòng săn sóc đặc biệt trẻ sơ sinh: một căn phòng đặc biệt, đóng kín, được họ dựng lên cạnh phòng trẻ sơ sinh, có sẵn khí oxy, máy theo dõi, một chiếc lồng nuôi trẻ đẻ non, và đèn chiếu trị vàng da. Hôm Chủ nhật, đứa bé thậm chí còn ngủ trên một tấm nệm gắn máy báo động, có thể báo động nếu đứa bé ngừng thở.
Trong vài bài báo, một quan chức giấu tên ở văn phòng luật sư bang, chắc chắn là Bill Tanner, giải thích rằng Vermont đang điều tra cái chết. “Chúng tôi chưa biết liệu có cơ sở cho các cáo buộc hình sự hay không, hay đó chỉ là một vụ việc dân sự,” nguồn tin nói, cho thấy ngay cả khi chính quyền bang không tiến hành khởi tố thì mẹ tôi cũng nên chuẩn bị tinh thần bị kiện sạch túi.
Chỉ có phóng viên của tờ Biên niên kí Newport truy ra Mục sư Asa Bedford để lấy một phát biểu ngắn. Ông không hẳn là lẩn tránh, nhưng ông đã đưa Foogie đi vào đêm thứ sáu và trải qua vài ngày sau đó tại nhà một giáo dân. Vào sáng hoặc chiều thứ bảy, ông nói với phóng viên đó rằng ông vẫn còn bị sốc, và ông không có gì để nói về mẹ tôi hoặc ca đẻ của vợ ông:
“Tôi rất, rất mang ơn khi tôi được ban cho một đứa con nữa. Nhưng tôi thậm chí không biết phải bắt đầu thể hiện nỗi buồn đau của mình thế nào về cái chết của Charlotte. Tôi không biết phải nói gì. Tôi xin lỗi. Tôi không nên nói thêm gì nữa.”
Ông không giảng đạo vào sáng Chủ nhật. Ông thậm chí không đến nhà thờ. Thật ra, ông đã không bao giờ đến giảng đạo ở nhà thờ đó nữa. Ông đã dự lễ ở đó thêm hai lần nữa, nhưng đến đầu tháng năm, ông đã rời khỏi Vermont, trở về Alabama, nơi gia đình ông sinh sống.
Vài tuần sau, câu phát biểu của ông “Tôi không nên nói thêm gì nữa” bắt đầu có ý nghĩa riêng với bố tôi. Trong một thời gian, ông đã tin rằng Bill Tanner hoặc một luật sư chỉ biết xúi giục người khác kiện tụng để lấy tiền đã bảo Mục sư Asa nói như thế, để đảm bảo ông không nói gì có thể ảnh hưởng đến nhà Bedford khi họ kiện nhà Danforth ra tòa. Và ngay cả nếu những lời nói đó không phải do một luật sư bày vẽ cho Mục sư Asa, thì vào sáng Chủ nhật chúng tôi đọc được chúng, chúng tôi cũng nhận ra rằng chúng - cùng với bình luận của bác sĩ Dumond và nguồn tin từ văn phòng luật sư bang - có nghĩa là mẹ tôi sẽ phải ra hầu tòa.
Mẹ và tôi hầu như không bao giờ cùng nhau nấu bữa ăn tối, vậy mà, trớ trêu thay, đó chính là điều chúng tôi đang làm vào cuối ngày thứ hai khi Stephen Hastings và thợ chụp ảnh của ông ta nhấn chuông cửa. Mẹ tôi đang ngồi trên bàn ăn, cố hết sức để không đứng trên chân. Dù ba ngón chân bị dán băng keo cá nhân, bà vẫn cố lột vỏ những quả ớt đỏ chúng tôi vừa nướng, trong lúc tôi đang xắt rau trên tấm thớt cạnh bồn rửa chén.
Lúc đó chỉ mới bốn giờ ba mươi, vì vậy còn ít nhất một giờ nữa bố tôi mới về nhà.
Mẹ biết luật sư của mình sẽ đến vào bất cứ lúc nào để nói chuyện thêm với bà và thu thập những tài liệu mà ông ta cho là quan trọng. Có thể vì cảnh sát bang đã cử hai người đến nhà chúng tôi vào tối thứ sáu, một người hỏi còn một người ghi chép, mà tôi đã ra mở cửa với kì vọng đứng trước cửa là một người cỡ tuổi bố mẹ tôi, mặc bộ complet sang trọng, và một người trẻ hơn rất nhiều - có thể ăn mặc bình dân hơn - với trách nhiệm duy nhất là ghi lại cuộc nói chuyện trên giấy.
Thay vào đó tôi gặp một người đàn ông mặc quần tây và áo khoác giả vest, không thắt cà vạt, và một người hơi lớn tuổi hơn mặc quần jeans xanh, áo sơ mi vải flanen, và một áo phao cộc tay. Như một con vật thồ hàng, người đàn ông mặc quần jeans đeo hai túi đựng máy ảnh ở hai vai, trong tay ông là những cuộn dây nối và hai chiếc đèn kim loại lớn.
Báo chí, tôi sợ hãi nghĩ, đã quyết định đổ bộ đến nhà chúng tôi vì mẹ tôi không chịu gọi lại cho họ.
“Tôi không nghĩ mẹ tôi muốn nói chuyện với các người,” tôi nói, đứng thẳng lưng ở cửa.
Người thợ chụp ảnh quay sang người kia, và dù hàm râu của ông ta dày như bông thép, tôi vẫn có thể nhìn thấy ông ta nhăn mặt. Ông ta cong vai lên khiến hai sợi dây đeo túi máy ảnh nghiêng về phía cổ mình, và thở dài ngao ngán.
Người mặc áo giả vest chìa tay ra với tôi và mỉm cười. “Cháu là Connie, phải không?”
Tôi phớt lờ cái bắt tay, nhưng gật đầu. Tôi thích giọng nói và ngữ điệu của ông ta - tự tin và chân thành, không giả tạo - nhưng điều cuối cùng tôi muốn làm là dính vào một cuộc trò chuyện dài dòng với nhà báo trong khi luật sư của mẹ tôi có thể đến vào bất cứ lúc nào.
“Tôi là Stephen Hastings,” ông nói tiếp. “Tôi đã gặp bố mẹ cháu hồi chiều thứ bảy. Đây là Marc Truchon. Ông ấy đi với tôi để chụp vài tấm ảnh.”
Truchon gật đầu, và tôi theo phản xạ bắt tay Stephen.
“Cháu nghĩ hai chú là nhà báo,” tôi nói, cố gắng cười, nhưng âm thanh phát ra nghe như tiếng càu nhàu. Đến tận bây giờ tôi vẫn không khéo ở khoản chữa thẹn mỗi khi bị bé cái nhầm, và khi còn là một cô gái mới lớn - cũng hậu đậu và ghét bản thân như hầu hết những bạn cùng trang lứa - tôi có thể đôi khi đỏ lựng hai má đến nỗi trông như đang mắc nghẹn. Khi tôi dẫn hai người đàn ông vào nhà bếp, cảm giác bẽ mặt có lẽ đã nướng chín da tôi, trông như tôi mới phơi nắng suốt một tuần.
Mẹ tôi đứng dậy khi chúng tôi bước vào phòng, vịn lưng một chiếc ghế khác để làm điểm tựa.
“Chúa ơi, Sibyl, đừng đứng dậy!” Stephen nói, dùng tay ra dấu cho mẹ ngồi lại ghế như đang điều khiển giao thông. Khi bà đã ngồi xuống, ông nhoẻn miệng cười và nói thêm, “Mà nghĩ lại, sao chị không đứng dậy và nhảy lò cò một chút nhỉ? Hãy làm cho cái mắt cá ấy sưng to như quả bưởi nào.”
Marc Truchon chụp ảnh mẹ tôi trong phòng khách suốt gần ba mươi phút, ghi lại hình ảnh các bộ phận trên người bà trên tấm phông nền màu trắng nhỏ mà ông đem theo trong túi xách. Ông chụp lại những vết rách dọc lòng bàn tay trái của mẹ tôi như những cú nhào thẳng, trong đó có một vết đứt dài và sâu chạy từ cạnh nhẫn cưới đến ngón cái. Ông chụp ảnh một loạt những chỗ trầy xước và vết bầm của mẹ, nhiều chỗ có hàng chục chấm nhỏ như đầu bút bi do vết sẹo mới hình thành.
Thoạt đầu tôi rất ngạc nhiên khi Marc lại bắt đầu ở cánh tay và bàn tay mẹ, vì hai chân bà mới là bộ phận bị thương và bầm dập nhiều nhất. Nhưng rồi khi ông ta nói, “Được rồi, bà Danforth, chúng ta chụp tới hai chân nhé?” và Stephen quay lại nhà bếp lẩm bẩm gì đấy về một cốc nước, tôi đã hiểu ra: Chiều hôm đó mẹ tôi mặc một chiếc váy bohemian dài có họa tiết hình cánh hoa, một chiếc váy giản dị gần chạm sàn khi bà đứng lên, và giờ đây bà phải kéo váy lên đến tận hông. Ngoài mắt cá chân bị bong gân, bà còn có nhiều vết bầm rải rác trên hai chân, trong đó có một vết to bằng quả dâu tây ở đùi, đau đến mức bà không thể mặc quần jeans, một vết bầm sâu đến độ có màu đen hơn là màu tím.
Tôi nhanh chóng theo Stephen vào nhà bếp để cho mẹ và thợ chụp ảnh được riêng tư. Vả lại, tôi không muốn nhìn thấy những chỗ bầm dập tồi tệ nhất của mẹ.
“Cốc để ở đâu Connie nhỉ? Tôi rất muốn uống nước,” Stephen nói trong lúc dùng một chiếc khăn mùi xoa trắng lau cặp kính.
Tôi mở cửa tủ và lấy ra hai chiếc cốc. Rồi, sực nhớ mẹ luôn mời khách cà phê và trà thảo dược, tôi lôi xuống một chiếc hộp kim loại bà dùng để đựng túi trà. “Chú có muốn uống cà phê không? Hay là trà thảo dược?”
“Gia đình cháu có cổ phần trong công ty trà hay cà phê à?”
“Cháu không biết,” tôi đáp, mở miệng rồi mới nhận ra đó là một lời nói đùa.
“Không,” ông nói tiếp, “lúc này nước là được rồi.”
Tôi vặn vòi nước ở bồn rửa bát đầy mỗi cốc.
“Lớp tám, đúng không?” ông ta hỏi.
Tôi gật đầu.
“Ở trường trung học công đoàn à?”
“Vâng ạ.”
“Trường cho xe đến đón, hay là bố mẹ cháu phải đưa rước cháu?”
“Ồ, không ạ, trường có xe đưa đón học sinh.”
Ông lắc đầu. “Trong mùa bùn thì như thế là nhất nhỉ.”
“Khó có gì làm cho xe đưa đón học sinh phải dừng lại.”
“Cháu có biết Darren Royce không?”
“Thầy Royce, giáo viên sinh học ạ?”
“Chính là người đó.”
“Vâng, cháu có biết.”
“Thầy ấy có dạy lớp cháu không, hay cháu chỉ biết thầy ấy là ai thôi?”
“Thầy dạy cháu môn sinh học. Mỗi tiết năm mươi phút, chưa kể giờ thực hành ở phòng thí nghiệm.” “Thầy ấy dạy giỏi không?”
Tôi nhận ra trong lúc nói chuyện, tôi đã đứng thẳng lưng, một phản xạ để đáp lại dáng đứng hoàn hảo của Stephen. Tôi tiến đến từ quầy bếp nơi tôi mới dựa lưng và thẳng vai.
“Hai người là bạn à?”
“A, trả lời câu hỏi bằng một câu hỏi. Điêu luyện lắm.”
“A, trả lời câu hỏi bằng một lời khen. Điêu luyện lắm.”
“Ừ, chúng tôi là bạn.”
“Vâng, thầy ấy dạy hay lắm.”
“Thích thầy ấy không?”
“Có ạ. Hai người biết nhau thế nào ạ?”
“Không lực. Muốn trêu thầy ấy một tí không?”
“Có thể.”
“Lần sau khi gặp thầy ấy, nói với thầy ấy rằng L-T gửi lời chào từ Trại Latrine.”
“L-T?”
“Thầy ấy sẽ hiểu.”
“Còn Trại Latrine: Đó là tên gọi trại của chú ở quân đội à?”
“Không lực. Ừ. Nó là một trong những trại đó.”
“Nó ở Việt Nam ạ?”
“Đúng thế.”
Chúng tôi thỉnh thoảng nghe thấy từ phòng khách lúc thì giọng của mẹ, lúc thì giọng của Marc, và rồi tiếng bấm máy mỗi khi ông ta chụp ảnh. Cánh cửa khép chưa đến một nửa, nên mỗi lần ánh đèn lóe lên, nhà bếp lại sáng lòa như thể ánh nắng mùa hè đã chiếu sáng bầu trời bên ngoài.
“Bố cháu có ở nhà không?” ông ta hỏi.
“Chưa về ạ. Bố thường về nhà khoảng năm rưỡi sáu giờ.”
Ông ta liếc nhìn những quả ớt đã lột vỏ trên bàn làm bếp và rau củ, một số đã được thái, trên quầy bếp. “Bữa tối trông ngon lành nhỉ. Cháu đang nấu món gì đấy?”
“Thực ra cháu chẳng làm gì nhiều. Cháu không phải là đầu bếp gì đâu. Cháu chỉ cắt những gì mẹ bảo cắt. Cháu nghĩ kết quả sẽ là món thịt bê nấu nước xốt kem chua.”
“Ừm, hi vọng chúng tôi sẽ không làm mất quá nhiều thời gian của mẹ cháu.”
“Chú định làm gì tiếp theo?”
Ông ta lấy từ túi trước của áo khoác ra một chiếc máy thu âm dài bằng tấm bưu thiếp, nhưng rộng chỉ bằng một nửa. “Tôi sẽ hỏi bà ấy vài câu. Tối nay sẽ không hỏi gì quá khó.”
“Chú sẽ không ghi chép ạ?”
“Ôi, Chúa ơi, không.”
“Cảnh sát đã làm thế mà. Bố mẹ cháu nói cảnh sát đã ghi chép.”
Ông ta mở máy thu âm ra và cho tôi xem cuộn băng cassette nhỏ nhất mà tôi từng thấy, một cuộn băng chỉ to hơn con tem bưu điện một chút. “Chà, cảnh sát có phương pháp của cảnh sát, tôi có phương pháp của tôi. Và cháu biết gì không?”
“Gì ạ?”
“Phương pháp của tôi tốt hơn rất nhiều.”
Có thể vì cách nói chuyện tự tin của ông, và có thể vì dáng đứng thẳng của ông. Có thể vì cách ăn mặc của ông, chiếc áo khoác nhỉnh hơn một bậc. Có thể vì tất cả những điều đó gộp lại. Nhưng tối hôm đó tôi đã đi ngủ với niềm tin rằng nếu mẹ tôi quả thực cần đến một luật sư - và, trong suy nghĩ của tất cả chúng tôi, điều đó vẫn còn chưa chắn chắn - thì bà đã có người tốt nhất ở Vermont.
10
Hôm qua Connie uống một tách cà phê trong bữa sáng. Lần đầu tiên, nhưng tôi nghĩ việc này sẽ trở nên thường xuyên. Tôi không hỏi con bé có thích hay không vì như thế thì giống giọng điệu áp đặt của bố mẹ quá. Và tôi cũng không ngăn con bé, dù ý nghĩ ấy đã nảy ra trong đầu tôi. Nó còn chưa tròn mười bốn
tuổi.
Tôi nhớ mình đã làm gì khi mười bốn tuổi. Ðiều đó tệ hơn cà phê nhiều, vậy mà tôi vẫn sống sót đến năm mười lăm tuổi. Vì thế tôi tự nhủ chuyện cà phê này là bình thường, con bé biết nó muốn gì, và tôi cố giữ vẻ bình thản.
Con bé hẳn đã cho đến hai gói đường Sweet’n Low. Và tôi cá là vị cà phê vẫn không ngọt ngào bằng cô con gái bé bỏng của tôi. Nó vẫn đang mặc áo ngủ, chân đi dép dạng tất: loại tất len to có đế bằng da. Rand đã thức và đi ra ngoài - đến lúc toàn bộ sự việc khủng khiếp này kết thúc, tôi nghĩ anh chỉ có thể tập trung làm việc cho ra hồn khi mọi người xung quanh đều say giấc - còn con bé thì mới uể oải bước vào nhà bếp, uể oải băng qua căn phòng, uể oải đi đến những tách cà phê treo trên móc cạnh máy nướng bánh mì, và bắt đầu rót cho mình một tách.
Tôi nghĩ hẳn là mình đã nhìn chăm chú ghê lắm vì con bé dừng lại giữa chừng trong lúc rót cà phê rồi nhìn sang tôi.
“Con uống một tách được chứ ạ?” nó hỏi.
Và đó là khi câu hỏi thật sự kì lạ này hình thành trong đầu tôi, loại câu hỏi mà tôi có thể nghe mẹ tôi nói với mình: Con không nghĩ là con còn bé quá sao?
Vì vậy tôi chỉ gật đầu như thể, bạn biết đấy, không có gì nghiêm trọng. Và dù một mặt nó chẳng có gì nghiêm trọng - đó là cà phê, và con bé nhìn thấy bố mẹ nó nốc thứ ấy liền tù tì - nhưng mặt khác, việc này rất nghiêm trọng. Ðó là một bước tiến nữa cho cô con gái của chúng tôi.
Tôi muốn viết “cô con gái bé bỏng”. Nhưng nó đã không còn là một cô con gái bé bỏng trong nhiều năm rồi. Thậm chí có lẽ tôi không nên nghĩ đến nó như một cô bé nữa. Người đang mặc áo ngủ và dép tất này là một thiếu nữ. (Chúa ơi, chẳng phải hôm qua con bé gọi đó là “dép tất” sao? Có lẽ là không. Có lẽ từ nửa thập niên trước rồi.) Và tôi không chỉ muốn nói nó là thiếu nữ về mặt cơ thể, dù khi con bé mặc áo ngủ đứng đó, rõ ràng cơ thể nó đã thay đổi. Chiều cao. Hông. Ngực.
Tôi muốn nói con bé đã trở thành thiếu nữ về mặt tình cảm. Nó đã luôn chững chạc hơn so với tuổi, nhưng gần đây có những khoảnh khắc tôi cảm thấy nó đã hoàn toàn trưởng thành. Nó vẫn mang giọng điệu trẻ con mỗi khi nói chuyện điện thoại với Tom Corts, và nhìn từ xa nó vẫn trông khá trẻ con khi chải lông con ngựa nhà McKenna với Rollie. Nhưng cách con bé giải quyết những việc lớn hơn vào lúc này khiến tôi kinh ngạc. Ðó là khi trông nó có vẻ như một người trưởng thành nhỏ bé. Như khi nó đọc những bài báo đáng sợ vào sáng Chủ nhật. Nó quả thực đang phân tích chúng như những nhà bình luận tin tức sáng Chủ nhật trên truyền hình vậy.
Hoặc khi nó gặp luật sư của tôi tối hôm qua. Ðó là một ví dụ điển hình. Khi nó gặp Stephen. Nó đã rất ư khôn khéo, đảm bảo anh ấy có tất cả những gì anh cần, hỏi anh những câu hỏi rất hay, và kể những câu chuyện rất buồn cười.
Nó thậm chí còn hỏi anh ấy có muốn ở lại dùng bữa tối. Hệt như một nhà ngoại giao nhí. Hệt như một nhà ngoại giao trẻ tuổi. Không phải nhí. Trẻ tuổi. Và dù anh ấy không thể ở lại dùng bữa tối vào hôm qua, tôi có cảm tưởng anh sẽ ăn tối với chúng tôi vào những lần khác trong mùa xuân này. Connie sẽ phải gặp anh ấy nhiều lần nữa, và điều đó thật không hay chỉ vì việc anh ấy làm, không phải vì con người anh như thế nào.
Tôi biết Connie sợ. Tôi biết tôi sợ. Tôi không biết phải làm gì trong cả hai trường hợp của chúng tôi.
Ðây là điều tôi nghĩ tôi sẽ làm về chuyện cà phê. Con bé có thể uống cà phê vào buổi sáng trước khi đi học, nhưng không được uống sau bữa tối. Nếu nó muốn bắt đầu ngày mới với một tách cà phê, được thôi. Nhưng không một giọt trước giờ đi ngủ vì nó vẫn còn đang lớn, và nó thực sự cần phải ngủ. Chúng tôi sẽ giải quyết vụ cà phê như thế.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
KHI CHARLOTTE FUGETT BEDFORD CHẾT, các bà mụ khác rất lo sợ. Những bà mụ không chuyên, tức là những người không được đào tạo y khoa, những người đỡ đẻ tại nhà. Không phải những nữ hộ sinh: Họ làm việc với bác sĩ và đỡ đẻ trong bệnh viện, và không có lý do gì để hoảng sợ.
Nhưng những bà mụ không chuyên thì lo sợ - và thực tế chứng minh nỗi sợ của họ là đúng đắn - rằng cộng đồng y khoa sẽ dùng cái chết của người phụ nữ nọ như một bản cáo trạng lên án việc đẻ tại nhà nói chung. Tuy nhiên, khi mùa đông chậm rãi nhường chỗ cho mùa xuân, và mẹ tôi bị khởi tố bị can và bị đối xử như một tội phạm, khi các bà mụ biết điều kiện đặt ra để mẹ tôi được tại ngoại, thì nỗi sợ hãi của họ nhanh chóng biến thành giận dữ. Nói cho chính xác là phẫn nộ. Và dù những bà mụ mà tôi đã gặp trong đời có rất, rất nhiều thế mạnh, nhưng họ lại không có khả năng trò chuyện vô tư về việc so sánh đẻ ở nhà với đẻ trong bệnh viện, hoặc không sẵn lòng thảo luận việc thực hiện một ca đỡ đẻ của chính họ một cách hoàn toàn khách quan. Hơn nữa, nếu - như Tom Corts đã ví von - bác sĩ là bầy thú săn mồi như sói, thì bà mụ giống loài động vật bầy đàn như voi: Tấn công một con, những con còn lại sẽ lao vào con bị thương và làm mọi thứ có thể để bảo vệ nó.
Trong những tháng sau khi Charlotte Fugett Bedford chết, nhà chúng tôi thường xuyên có bà mụ đến thăm. Đôi khi họ đem theo thức ăn cứ như một người trong nhà chúng tôi mới qua đời, đôi khi họ đem theo hoa: Khi tháng năm đến, ngôi nhà thơm lừng mùi tử đinh hương; vào tháng sáu, phòng ăn và nhà bếp ngạt ngào hương hoa kim ngân và hoa thủy tiên ngọt lịm. Thỉnh thoảng họ đem theo tên các bà mụ trên khắp cả nước, những người từng trải qua - theo cách nói trại của các bà mụ để chỉ bất kì trường hợp tử vong, dị tật, hoặc dị dạng đáng sợ nào - “kết quả xấu”. Đôi lúc họ xuất hiện với tên luật sư của các bà mụ đó, một cử chỉ mà thoạt đầu tôi cho rằng sẽ khiến Stephen Hastings cảm thấy bị đe dọa. Tôi đã nhầm. Ông ta tỉnh như không.
Ngay từ đầu ông đã bảo mẹ tôi cho ông biết tên những bà mụ này và luật sư của họ để ông có thể thảo luận với họ về các vụ xét xử của họ và chiến thuật bào chữa của họ. Từ một luật sư ở Virginia, ông lấy được tên của một chuyên gia pháp y và người này cuối cùng đã cung khai đại diện cho mẹ tôi; từ một bà mụ ở Seattle, ông nghe được chuyện về một bà mụ ở California, bị xét xử vì hành nghề không giấy phép sau khi bà ấy bơm Pitocin và Ergotrate vào một thai phụ đang lâm bồn.
Những bà mụ ghé thăm chúng tôi đến từ khắp New England và Bắc New York, vài người đã đi một quãng đường rất xa khiến tôi phải ngạc nhiên, chỉ để có cơ hội gặp và động viên mẹ tôi. Khi một số bài báo về bà được gửi đi bằng đường điện tín, các bà mụ ở những nơi xa tít mù như Arkansas và New Mexico đã đọc về tình cảnh của bà, và mỗi bang có một người lặn lội đến Reddington để bày tỏ tình đoàn kết.
Những người phụ nữ này, dù đến từ một góc heo hút ở bắc New Hampshire hay khu thành thị ở Boston, dù biết mẹ tôi nhiều hay ít, đều là những người có cái ôm trìu mến. Họ không bao giờ bắt tay khi gặp bà, họ luôn ôm bà. Việc này cũng diễn ra với bố tôi nữa, nếu ông tình cờ có ở nhà, và với Stephen Hastings nếu ông tình cờ ghé qua. Họ cũng được ôm đáp trả. Hơn nữa, đó không phải là kiểu ôm ấp xã giao mà các mệnh phụ hoặc những cô gái trẻ mới vào đời hay làm ở những nhà hàng cao cấp hoặc những buổi khiêu vũ ở Manhattan, đó là những cái ôm vòng hai tay siết mạnh trong một thời gian rất dài. Đó là những kiểu chào không khách sáo bắt đầu bằng hai tay dang ra như đôi cánh, sau đó khép lại quanh người được ôm như một chiếc áo bó. Tôi ghét phải nghĩ đến những hư hỏng họ có thể gây ra cho quần áo của nhau nếu những bà mụ này hoặc mẹ tôi thuộc kiểu người thích trang điểm.
Các bà mụ ở Vermont, tất cả đều biết mẹ tôi, thì tập trung quanh bà như những mật vụ vây quanh một tổng thống mới bị bắn. Họ đem đến cho bà món thịt hầm và món kho; họ để lại trong nhà bếp chúng tôi những liễn khổng lồ nào xúp lạnh Tây Ban Nha, nào món sốt Địa Trung Hải, nào đậu Hà Lan và xúp cải bó xôi. Họ nướng những ổ bánh mì ngũ cốc và bánh xốp việt quất, bánh quy gừng và bánh xốp chocolate mềm tơi. Họ làm thơ tặng mẹ tôi. Họ viết những bài xã luận cho mục bình luận của các báo ở Vermont; họ viết thư cho các nhà lập pháp và luật sư bang. Họ tiến hành các buổi “tập huấn” để giải thích về sinh đẻ tại nhà ở các thư viện công cộng tại St. Johnsbury và Montpelier. Cheryl Visco và Donelle Dolino tổ chức một buổi bán chăn thủ công để gây quỹ trả lệ phí bào chữa cho mẹ tôi, còn Molly Thompson và Megan
Blubaugh thì viết hàng trăm lá thư gây quỹ trên danh nghĩa của bà. Em gái và em rể của bà mụ Tracy Fitzpatrick có một nhà hàng chay ở Burlington, và cô ấy đã thuyết phục họ nấu một bữa tối gây quỹ đặc biệt, toàn bộ tiền thu được dành cho việc bào chữa cho mẹ tôi.
Vài bà mụ dành tặng những ca đẻ cho mẹ tôi, và tôi không tin có một đứa trẻ nào chào đời tại nhà ở Vermont trong sáu, bảy tháng sau đó lại không được chụp ảnh rồi đưa cho Sibyl xem như một cách động viên tinh thần: Đây, những bức ảnh chụp chân dung các bé trai và bé gái sinh ra trong phòng ngủ và phòng khách nói, chính là những gì mà cô đang bảo vệ. Đây là lý do cô phải chiến đấu. Tôi biết ít nhất ba cô gái sống ở Vermont ngày nay được đặt tên Sibyl, mỗi người là một đứa trẻ được sinh ra tại nhà vào mùa hè hoặc mùa thu năm 1981, tên của họ là một sự tôn kính có ý nghĩa không nhỏ dành cho mẹ tôi.
Và, đương nhiên, các bà mụ cũng giúp mẹ tôi bằng cách nhận những thai phụ của bà làm bệnh nhân, khi chính quyền bang yêu cầu bà dừng hành nghề, ít nhất là tạm thời, như một điều kiện để tại ngoại. Các bà mụ thường đến thăm khám thai tận nhà cho các thai phụ để giúp họ tiết kiệm gánh nặng di chuyển phát sinh sau cú sốc mất bà mụ của họ.
Tôi nghĩ phần lớn thời gian, bố tôi rất vui khi chứng kiến mẹ nhận được những sự ủng hộ này từ các bà mụ. Nó giúp giảm bớt áp lực lên ông. Đôi khi nó cũng động viên tinh thần ông. Và cả nhà chúng tôi quả thực đã ăn uống rất tử tế trong mùa xuân và mùa hè năm đó. Nhưng có những lúc bố tôi phát cáu, mệt mỏi khi ngôi nhà của ông đã trở thành quán cà phê cho một đám đàn bà tân thời mang dép xăng đan, cho những phụ nữ mặc váy hoa chéo nhiệt tình sung sức. Tôi nghĩ ông cảm thấy Cheryl Visco đặc biệt phiền phức.
Một ngày sau khi Charlotte chết, chính xác là không lâu sau khi bố mẹ tôi về nhà sau khi dành cả ngày thứ bảy với các luật sư và bác sĩ cấp cứu, bà ấy xuất hiện ở nhà chúng tôi với một chiếc phong bì hồ sơ dày nhàu nát chứa đầy thông tin pháp luật mà bà đã thu thập trong nhiều năm từ Liên minh Bà mụ Bắc Mỹ: tên của những bà mụ từng bị xét xử vì một lý do nào đó, kết quả các vụ xử. Những bản sao chất lượng kém của các bài báo cũ rích. Danh sách các công ty bảo hiểm. Các công ty luật.
Và trong những tuần ngay sau cái chết của Charlotte, khi ngày càng rõ rằng chính quyền bang đang thu thập chứng cứ để khởi tố một cách từ từ và bài bản, Cheryl ghé qua gần như mỗi ngày với lý do duy nhất là để ủng hộ tinh thần. Đôi khi bà đem theo một nhánh hoa, đôi khi đem theo một tấm thiệp mà bà nghĩ là hài hước. Đôi khi bà nói tên của quyển sách mà mẹ tôi nên đọc, đôi khi bà tự đem theo sách.
Khi đến muộn vào một buổi chiều trong tuần, bà thường ở lại để dùng bữa tối. Khi đến vào sáng cuối tuần, bà sẽ ở lại ăn trưa. Ngày thực sự đang trở nên dài hơn khi tháng ba chuyển thành tháng tư, nhưng - như bố tôi nói - khi Cheryl ở đấy, ngày dường như dài vô tận.
Cheryl có lẽ đã hơn năm mươi tuổi vào lúc đó, nhưng bà vẫn là một phụ nữ đẹp. Tóc bà đã bạc, và không như hầu hết những mái tóc bạc khác, trông nó vẫn dài lắm. Nó trông như tấm màn phủ xuống lưng bà, thường che lên một chiếc áo len màu đen ôm sát hoặc phần trên của một chiếc áo đầm đen tay dài nhưng vừa khít. Cheryl cao gần một mét tám, mảnh mai hơn hầu hết những cô gái bằng nửa tuổi bà, và là chủ đề của đủ mọi thể loại tin đồn và buôn chuyện: Bà có ba đứa con với ba người đàn ông khác nhau, và kết hôn với chỉ một người trong số đó. Trong khi một số người cho rằng các mối quan hệ của bà đổ vỡ vì những lý do làm cho các cuộc hôn nhân của nhiều bà mụ xấu đi - giờ giấc làm việc dài đến phát bực và một thời khóa biểu hoàn toàn ngoài dự đoán - những người khác lại quả quyết rằng sở dĩ Cheryl ba lần thất bại trong tình yêu là vì tính nết gàn dở và chân giá trị lỏng lẻo của bà. Người ta xì xầm rằng nếu bà đã có một ông chồng và hai bạn tình chính trong nhiều năm, thì ắt hẳn bà phải có những ba mươi tình nhân. Có thể là ba trăm cũng nên.
Bản thân tôi nghĩ điều khiến các cuộc hôn nhân của Cheryl tan vỡ chính là khả năng thần kì của bà khi nói chuyện nhiều giờ liền mà không cần nghỉ lấy hơi. Bà có thể kể cả một câu chuyện mà không cần hít vào, nhắc lại những câu chuyện phiếm dài dằng dặc chẳng dừng một chút. Điều đó làm bố tôi phát điên, cũng như nó có thể đã tống hầu hết những người đàn ông trong đời Cheryl đi. Theo kinh nghiệm của tôi, đàn ông không đặc biệt giỏi trong việc lắng nghe, và muốn ở cạnh Cheryl bất kể lâu mau đều đòi hỏi một sự