🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bà Chúa Hòn - Sơn Nam full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bà Chúa Hòn Sơn Nam
KỶ NGUYÊN xuất bản 1969 vietmessenger.com
HÀ TIÊN LÀ TỈNH XA XUÔI NHỨT của miền Nam thời xưa cũng như thời nay nếu ta lấy Huế hoặc Saigon làm tiêu chuẩn. Khác với vùng sình lầy mũi Cà Mau, Hà Tiên có khung cảnh khá ngoạn mục, trong đất liền là đồi núi trùng điệp, ngoài biển là năm bảy chu4c hải đảo lớn nhỏ, Hà Tiên còn là nơi ‘‘ba biên giới’’ :Việt Nam, Cao Miên và vượt qua eo biển là đến Thái Lan . Mỗi ngọn đồi, mỗi hải đảo đều có một ông Chúa hay bà Chúa thống trị, khi chết, các ông bà này được tôn thờ trong miếu nhỏ, giống như trường hợp mấy ông Thành Hoàng. Lẽ dĩ nhiên các ông bà đều là người phàm mắt thịt, nhờ mưu mô, nhờ tài kinh doanh mà gây được thế lực với đám dân chúng ở xung quanh. Vài ông bà Chúa nếu còn sống đến năm nay chỉ độ non trăm tuổi, bởi vậy thành tích của họ còn được nhắc nhở tỉ mỉ với bao nhiêu tánh tốt và thói xấu.
Chúng tôi xin thuật lại những giai đoạn gay cấn và thơ mộng nhứt của bà chúa hòn Me, một ngọn đồi nhỏ dính vào đất liền sát mé biển phía Bắc chợ Rạch Giá. Trước kia, bà là con gái một nông dân nghèo tên là Tư Thính, có lẽ họ Huỳnh ; Tư Thính cất căn nhà nhỏ ở chân đồi, giữa tư bề rừng rậm. Như đã nói, hòn Me xưa kia là hải đảo, đất phù sa lấn ra biển, nối hòn vào đất liền. Vùng chung quanh hòn quá ẩm thấp chịu ảnh hưởng nước mặn ngoài biển tràn vào nên cây cối mọc xơ rơ. Hằng năm, Tư Thính cày chừng một mẫu ruộng, kiếm chút ít lúa gạo đủ ăn trong gia đình.
Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng.
– Ngày mai, cho con ra ruộng nghe ba!
Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng, vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái dĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Chú từ chối khéo léo:
– Con ở nhà, ra ruộng nắng lắm.
Nhưng bé Huôi vịn vai chú, nói thật nhanh:
– Ngoài ruộng có cây thị, bóng mát.
Nghe qua, chú Tư Thính giựt mình. Đành rằng đến tám chín tuổi thì đứa bé có chút ít trí khôn, ghi nhớ những gì mà người lớn thường nói nhiều lần. Tại sao bé Huôi biết ở ngoài ruộng có một cây thị, cây ấy to lắm, ở xa nhà, bé Huôi chưa ra tới đó lần nào? Hồi năm ngoái trái thị sai quằn, chú với tay hái năm sáu trái đem về nhà cho bé Huôi, trái thị mầu vàng da láng tỏa ra mùi thơm kỳ diệu mà nhiều người cho rằng có thể quyến rủ ma quỉ hoặc thần thánh.
Chú Tư Thính hơi e ngại:
– Mùa nầy thị chưa có trái. Ra đó, làm sao con ngủ trưa? Bé Huôi nói rành rọt như người lớn.
– Con đội nón, ngồi dựa vô gốc cây.
Vì không muốn quở mắng vô lý đứa con thân yêu, Tư Thính tìm cách từ chối:
– Bữa nào rảnh, ba cho con ra ruộng. Ngoài đó muỗi mòng, đủ thứ kiến lửa, kiến vàng. Lâu lâu, vài con rắn bò ra…
Bé Huôi cười dòn:
– Con đâu sợ rắn. Ba hứa lâu rồi. Ngày mai, con ra ruộng mới được. Ba không bồng con thì con đi một mình.
Gương mặt bé Huôi lúc bấy giờ trông thật dễ thương, mà cũng dễ sợ. Mắt nó sáng lên, hai tròng mắt đen lánh, hàm răng đều đặn, chói màu trắng ngà.
Tư Thính ngỡ rằng người khuất mặt đã thúc giục bé Huôi nói những câu quá khôn ngoan, dành riêng cho mấy đứa bé ít lắm là mười bốn, mười lăm tuổi. Chú đốt đèn lên. Bé Huôi nghiêm nét mặt, đôi môi ửng đỏ như tô son. Chú Tư Thính nhìn kỹ đứa con gái rồi tự
trấn an: “Lớn lên, nó xinh đẹp nhứt làng nầy. Con nít khôn trước tuổi là sự thường”.
Bé Huôi ngáp dài:
– Con muốn đi ngủ, sáng mai con ra ngoài gốc cây thị để coi ba cày ruộng. Ngoài đó vui lắm.
Hôm sau, Tư Thính cố ý thức thật trể. Chú vác cày trên vai, cho đôi trâu đi trước, bé Huôi lững thững theo sau, đến gốc cây thị, nó ngồi xuống. Mặt trời lên cao, chưa chi, chú đã đổ mồ hôi lưng, bao nhiêu ý nghĩ đen tối hồi chiều hôm qua đều tan biến. Chú được yên tâm vì bé Huôi đã dựa lưng vào gốc cây thị. Nó nằm yên, như đã ngủ. Đôi trâu đi tới rồi đi lui, được ba rồi đến bốn, năm, sáu, bảy luống cày.
Trong khi đó, từ dưới hang sâu bên gốc cây thị, một con rắn hổ to tướng bò lên. Rắn quấn mình chung quanh bụng bé Huôi, quấn một vòng, hai vòng, ba vòng rồi đến bốn vòng. Sau rốt, rắn ngẫng cổ lên, cao khỏi đầu bé Huôi.
Rắn quơ đầu, hất mạnh cái nón lá trên đầu con bé rồi nghiêng cổ tới, im lìm.
Đột nhiên Tư Thính giựt mình. Đôi trâu đứng lại, không chịu bước tới. Chú quơ roi quất mạnh:
– Xe! Pháo!
Hai con trâu Xe và Pháo rống lên quậy chân sau xuống bùn. Cả hai day mặt về phía Tư Thính, mắt trợn tròn như giận dữ. Tư Thính hỏi:
– Điên rồi sao chớ? Cái gì?
Nhưng đôi trâu dường như nhìn xéo về gốc cây thị. Tư Thính chợt nhớ tới bé Huôi. Chú trố mắt:
– Trời ơi! Rắn quấn con tôi!
Rồi bỏ đôi trâu, chú cố gắng chạy đến gò đất. Chú lê lết như có sức mạnh nào níu đôi chân trở lại. Bé Huôi vẫn ngồi yên, con rắn hổ
quá to, nào kém gì con trăn. Kỳ dị nhứt là cái đầu rắn, cái đầu vươn lên nghiêng tới như cố ý che nắng cho bé Huôi. Vì sợ con rắn nọ siết chặt khiến bé Huôi nghẹt thở hoặc gãy xương ngực, chú đành liều bước đến gần với dụng ý xua đuổi con rắn, nếu cần, chú sẵn sàng chịu chết thay con.
Con rắn nọ day mỏ về phía Tư Thính. Dưới ánh nắng tỏ rõ buổi trưa, chú thấy nó trợn mắt, mớ vảy lấp lánh như hàng trăm miếng kiếng màu xanh đậm.
Nó hạ cái đầu xuống rồi từ từ tháo ra. Trong lúc ấy, Bé Huôi vẫn ngồi xếp bằng, xuôi tay. Khi rắn tháo mình đến vòng chót, Tư Thính chẳng còn kiên nhẫn được nữa. Chú la lớn:
– Con ơi, chạy cho mau!
Nhưng Tư Thính không đủ can đảm và không còn đường nào để chạy. Nhanh như cơn gió lốc, con rắn to tướng nó phóng ngang mặt chú, như để chận đường. Chú té quị xuống bùn rồi lồm cồm đứng dậy, vuốt mặt. Bé Huôi từ từ cựa quậy:
– Ba! Sao ba té?
Chú mừng quýnh vì đứa con thân yêu vẫn mạnh khỏe và tỉnh táo. Để vững bụng hơn, chú hỏi đôi ba lượt:
– Con! Biết ba đây là ai không?
Tay chú véo mạnh vào lưng bé Huôi, miệng nói lia lia: – Con có đau không? Con thức hay ngủ?
Bé từ từ đứng dậy, đôi môi đỏ thắm hé nụ cười:
– Ba nói, con tức cười quá…
Nhưng Tư Thính cứ tiếp tục mở nút áo đứa con gái, xem kỹ làn da. Bấy lâu chú nghe đồn đãi rằng rắn hổ có hơi độc từ trong miệng phun ra.
Bé Huôi nói:
– Đói bụng rồi, về nhà ba nấu cơm cho con ăn nghe ba.
Lập lức chú cõng đứa bé sau lưng, bước nhanh về căn chòi, hai con trâu rống lên, kéo mạnh cái cày vô chủ.
Mâm cơm dọn ra, chú ăn sơ sài vài miếng rồi tháo ách cho đôi trâu vào chuồng. Con rắn to tướng ấy là điềm lạ, chưa biết lành dữ thế nào. Chú muốn gặp ông đạo Đất ở trong cốc phía Đông hòn Me để nhờ giải đáp.
Bé Huôi lại đòi ngủ. Chú khuyên lơn:
– Con đi xóm với ba, nghe con?
– Con muốn ở nhà.
– Rủi con rắn tới đây thì ai cứu con? Ba cõng trên vai, con cứ ngủ. Phải con ở nhà thì nãy giờ ba cày xong công ruộng rồi. Từ rày về sau, con đừng đòi ra gốc cây thị nữa.
Bé Huôi trả lời:
– Hồi nãy đâu phải con rắn!
Cốc của ông đạo Đất hiện ra. Đó là cái chòi nhỏ bé lợp bằng tranh. Theo chữ nho, cốc là hang đá. Vùng Hòn Me thiếu những hang đá thiên nhiên. Đá xanh mọc nhô ra từng tảng lớn chỉ vừa cho đôi người ngồi núp mưa nắng mà thôi. Mùa mưa đến, nước chảy tuôn tràn, thỉnh thoảng mấy tảng đá sụp xuống, mang theo mấy giề đất sỏi. Mấy ông lên non tầm đạo vì không tìm được cái hang thiên tạo nên cất tạm căn chòi nhỏ bằng cây. Gọi cốc cho có vẻ huyền bí của một đạo sĩ tu tiên.
Ông đạo Đất gây được khá nhiều uy tín nhờ tài trị bịnh. Bất cứ bịnh nhân nào đến, ông cũng hốt cho một mớ đất để làm thuốc: bỏ cục đất trong một cái túi nhỏ, đeo dưới ngực để trị bịnh tà ma, đem cục đất nướng cho dòn rồi tán nhỏ, uống với nước nóng để trị bịnh ăn uống khó tiêu, đau bao tử. Gặp trường hợp trặc chân gãy tay, ông đạo vẫn dùng đất sét mà bó rịt vết thương.
Tư Thính giữ thái độ im lặng kính cẩn khi đến cốc. Ông đạo nằm dài trên nền đất, không trải chiếu đắp mền gì cả. Khi Tư Thính lên tiếng:
– Kinh chào thầy….
Ông đạo vẫn lim dim, hồi lâu mới chịu gật đầu. Bé Huôi nói khá to, phá rối sư yên tĩnh:
– Ở đây buồn quá, ba ơi! Con muốn về nhà.
Ông đạo Đất lồm cồm ngồi dậy, nhìn bé Huôi. Tư Thính bèn lên tiếng như để biện hộ cho đứa con:
– Nó còn nhỏ, thầy tha thứ cho. Mấy ngày rày nó nói bậy bạ, lại xảy ra vài điều lạ. Bởi vậy tôi tới đây nhờ thầy giúp giùm.
Sau khi sờ tay lên trán bé Huôi, ông Đạo nói:
– Cháu nó vui chơi nhưng mà cặp mắt hơi khác thường. Không đợi Tư Thính trả lời, ông Đạo nói giọng bí mật: – Chắc là vừa xẩy ra chuyện gì xúc phạm tới…đất!
‘‘ Xúc phạm tới đất’’ là lời nói mà ông Đạo thốt ra trước tiên, khi gặp bất cứ bệnh nhân nào. Vì quá tin tưởng nên ai nấy đều nhìn nhận rằng ông nói đúng: đau bụng, trúng thực đều do sự ăn uống, thức ăn vẫn là cơm gạo, thịt cá, những món từ đất mọc lên, hoặc đứng trên đất, cảm mạo là do hơi đất ẩm ướt gây ra…
Tư Thính nói:
– Thầy ở trong cốc mà nói chuyện ngoài đời quá đúng. Vậy thì điềm lúc nãy tốt hay xấu đối với gia đình tôi? Con gái tôi sau nầy ra sao?
– Điềm gì? Cứ nói đầu đuôi tự sự. Tôi thấy nó… ngồi trên đất, thiệt là lạ lùng, chú nói trước, tôi nói sau.
– Dạ, nó ngồi trên mô đất cao, ỏ gốc cây thị ngoài ruộng. Tôi lo cày nên không chú ý, dè đâu…
Thế là Tư Thính thuật lại tất cả chi tiết với sự tưởng tượng khá dồi dào của chú. Chú cho rằng con rắn nọ to bằng cây cột nhà, vảy lấp lánh ngũ sắc, khi biến mất thì gió thổi rung chuyển mấy gốc cây
cổ thụ. Lúc rắn quấn vào bé Huôi, gió như ngừng thổi, chim trên trời như ngừng bay và hai con trâu như chết đứng trên mặt đất.
Ông đạo Đất chắp tay xá bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc rồi nói:
– Mô Phật! Cháu bé ngồi trên đất gặp con rắn hổ đất. Tất cả đều là đất. Nhưng con rắn hổ đất to lớn ấy là thuộc vào loại phi thường, tên nó là gì chú biết không?
Tư Thính chắp tay thưa:
– Dạ… chắc là mãng xà vương!
Ông đạo lắc đầu:
– Đó là con rồng đất! Trên mặt đất nầy nó là vua. Vua của đất phù hộ, chầu chực cháu bé chẳng khác nào con rồng vàng chầu chực ông vua ở chốn đế đô. Rồng đất là vua của đất. Rồng đến tìm cháu bé, đó là điềm mai sau có ông vua ông chúa nào đó đến ra mắt. Rồng quấn chung quanh cháu bé để che chở phò hộ, đó là sau nầy cháu bé trở thành một bà hoàng, bà chúa. Chú nên vui mừng đi, ráng chịu cực chừng năm bảy năm nữa.
Tư Thính chắp tay lạy ông đạo Đất:
– Thiệt vậy hả ông? Trời Phật giúp tôi, làm sao tôi tạ ơn? Dè đâu con tôi tốt phước như vậy? Ông vua nào, ông chúa nào tới đây cưới con tôi?
– Ông chúa hòn hoặc ông chúa đảo, hoặc ông chúa tàu, tàu buôn Hải Nam. Tôi chưa biết rõ. Mai chiều, chú đưa cháu bé trở lại.
Nghĩ một lát, ông đạo hỏi:
– Cháu tên gì, năm nay mấy tuổi?
Bé Huôi cất tiếng sỗ sàng:
– Tên Huôi. Hỏi bao nhiêu tuổi để làm gì? Bộ tôi ngu dại phải không? Nãy giờ, tôi đâu làm điều gì sai quấy với thầy.
Ông đạo càng tin tưởng nơi tài đoán điềm giải mộng của mình. Lập tức ông khều Tư Thính ra sân mà nói khẽ:
– Thấy chưa? Nó là đứa khôn trước tuổi, ăn nói lanh lợi đâu thua gì người hai ba chục tuổi. Chú nên nuôi dưỡng tử tế. Nó có trí khôn, có nhan sắc. Tôi xem không lầm đâu. Năm bảy chục năm, con Rồng đất mới xuất hiện một lần. Rồng đất mà phò hộ che nắng che mưa cho con Huôi thì phải biết.
Tư Thính chắp tay xá ông đạo;
– Cám ơn ông, về sau nầy nếu may ra con tôi nên danh nên phận thì tôi chẳng bao giờ dám quên ơn lớn.
– Kìa!
Ngón tay ông đạo Đất chỉ ra ngoài sân. Lần nầy chú Tư Thính không khỏi kinh ngạc vì bé Huôi đứng xớ rớ bên bụi cây quỳnh hoa. Nó nâng niu từng lá dài rồi đột nhiên nói to:
– Cây gì mà trồng hoài không trổ bông?
Ông đạo giải thích:
– Cháu ơi! Nhiều khi đôi ba năm nó mới trổ một lần.
– Ông cho cháu vài lá, đem về trồng vài tháng thì nó trổ hàng chục cái bông cho ông coi.
Để chiều theo ý bé Huôi và để biết thêm về tương lai của đứa con gái kỳ lạ nọ, ông đạo Đất hái một lá dài trao cho Tư Thính.
Hai cha con lững thững về nhà theo con đường mòn sình lầy. Tư Thính nghe tim đập mạnh trong lồng ngực. Chú muốn kêu to:
– Con tôi trở thành bà chúa! Thiệt vậy sao? Trời đất xui khiến hay ma quỷ xúi giục? Nhiều đứa bé khôn ngoan nhưng chết yểu hoặc là trở thành điên khùng, lên đồng lên bóng.
Chú nắm tay con. Căn chòi hiện ra. Trong phút giây chú ngỡ là cung vàng điện ngọc. Chắc còn nhiều năm nữa bé Huôi mới trở thành bà chúa. Chừng đó chú già nua rồi. Chú chỉ muốn có căn nhà cao ráo để dưỡng già…
Hòn Chông là dẫy đồi thấp, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chài lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi to nhứt vẫn là nghề trồng tiêu (hồ tiêu). Với mười lăm hay hai chục dây chăm bón kỹ lưỡng là một gia đình sống dễ dàng. Bao nhiêu đất tốt để trồng tiêu đều thuộc về ông Thần Phước cai quản, vì là người Triều Châu lai Cao Miên rồi lai Việt Nam nên tên ông được đọc là Xìn Phóc.
Mấy người kỳ lão ở địa phương, nhứt là người tá điền, đều kiêng nể, gọi ông là ông Chúa Hòn, ông vua nho nhỏ giàu có và sang trọng nhứt của vùng Hòn Chông. Với số vốn tích trữ từ mấy đời trước, ông thuê nhân công để khai thác mấy ngọn đồi ở vùng kế cận: núi Còm, núi Mo So.
Khi bán hồ tiêu cho bọn thương gia Mã Lai, ông chỉ lấy vàng, không dùng hình thức tiền bạc nào khác. Bọn gia nhân đồn đãi ông dùng số vàng ấy để trấn ếm một vài “linh huyệt” trên Hòn Chông, nơi có phủ thờ của tiên nhân – một người từ Triều Châu qua lập nghiệp ở Hà Tiên, theo chân họ Mạc vào thế kỷ thứ XVIII.
Năm được 86 tuổi, ông Thần Phước giao cho đứa con trai đầu lòng là cậu Hai Minh cai quản tài sản. Cậu Hai chưa được bốn mươi tuổi nhưng đã có một vợ chánh và hàng chục tì thiếp. Ở vùng hẻo lánh, thú vui duy nhất của cậu Hai vẫn là uống rượu và tìm gái đẹp. Vợ chánh sanh đứa con trai duy nhất là cậu Hai Điền. Ăn ở với khá đông tì thiếp từ mười năm qua, cậu Hai Minh không hài lòng cho lắm, vì chẳng nàng nào sanh được con trai.
Một buổi chiều, cậu Hai Minh ra lịnh cho gia nhân:
– Đưa tao qua núi Mo So.
Bọn gia nhân dạ rân lên, đem chiếu bông trải xuống chiếc ghe mui vuông sơn son thếp vàng. Bấy giờ là mùa hạn, sông rạch đều cạn ráo. Bọn gia nhân buộc bốn sợi dây luộc trước mũi và sau lái ghe, mỗi sợi dây chắc chắn ấy nối liền vào một con trâu đực to tướng, gọi là trâu cổ.
Đáy sông quá cạn phơi lớp bùn sình. Ấy thế, mà chiếc ghe vẫn lướt nhanh. Bốn đứa bé mặc áo xanh cỡi trên lưng trâu, quất roi thật mạnh.
Cậu Hai Minh nằm dài, dựa tay vào cái gối thêu:
– Chừng nầy, ở núi Mo So…mình làm cái gì cho vui? Hai Ú trả lời:
– Dạ, chừng nầy con gái trong xóm tới bờ mới gánh nước và tắm…
– Hay quá!
Vừa cười, cậu Hai vừa vỗ tay lia lịa. Lát sau, cậu gật đầu nhòm Hai Ú:
– Mầy giỏi quá. Mầy chưa dở lần nào hết. Lát nữa tao tới đó bất ngờ. Mầy làm thế nào cho mấy cô gái cứ gánh nước tự nhiên, đừng chào đón.
– Thưa cậu, vậy thì tôi phải đi trước mới được.
– Họ biết trước thì mất vui. Phải tình cờ mới vui.
Hai Ú chắp tay thưa:
– Dạ, đón rước long trọng là chuyện dễ, đón rước tự nhiên là chuyện khó, cần sắp đặt trước. Không khéo mấy cô gái e lệ rồi hoảng chạy thì sao? Cậu cứ tin lời tôi.
Lập tức, Hai Ú đến trước mũi ghe, nhảy lên bờ rất nhẹ nhàng. Anh ta giành lấy một con trâu cổ, cởi sợi dây ra rồi quất mạnh cho trâu chạy nhanh đến núi Mo So. Vì chỉ có ba con trâu kéo nên chiếc ghe tiến chậm. Cậu Hai khen ngợi:
– Thằng Ú giỏi quá, nó biết lo trước lo sau. À! Cái gì mà chộn rộn ở chân núi?
Bọn gia nhân phía sau reo lên:
– Cậu Hai ơi, họ đốt đuốc…
Xóm nhỏ ở chân núi Mo So hiện ra, náo nhiệt như buổi chợ phiên. Khi đến chân núi, cậu Hai Minh gặp ngay Hai Ú. Anh ta cầm bó đuốc đứng sẵn:
– Thưa cậu, mời cậu đến bờ suối…
– Ủa! Tại sao xóm giềng im lặng quá vậy?
– Dạ, tôi ra lịnh cho ai nấy đóng cửa lại ngủ sớm để một mình cậu tới bờ suối, mặc tình nói chuyện với các cô. Tôi đã khuyên các cô cứ gánh nước tự nhiên. Các cô cười giỡn kìa! Cậu nghe không?
Trong phút giây, cậu Hai ngỡ mình sống trong khung cảnh thần tiên nơi thượng giới. Ánh đuốc rọi chập chờn vào vách đá hai bên con đường dốc.
Đêm mười bốn, trăng khá sáng tỏ.
Lúc cao hứng, cậu Hai Minh ra lịnh:
– Hai Ú cứ đi trước, thật xa. Tao đi dưới bóng trăng vui hơn. Cần gì qua bên Tàu mới hưởng được vui thú.
Nhưng Hai Ú như còn ngập ngừng. Anh ta khoát tay đôi ba lần như làm dấu hiệu riêng với người phía sau. Cậu Hai Minh chẳng mảy may chú ý đến chi tiết đó, cứ hỏi đồn dập:
– Tới chưa? Chà! Mấy cô cười nghe dòn quá. Còn ở phía sau, ai mà đông dữ vậy?
Hai Ú đáp:
– Cậu coi thử! Đó là mấy người khiêng rượu cho cậu uống. – Thằng nầy giỏi thiệt.
Thật ra Hai Ú đã dàn cảnh khéo léo từ lúc nãy với Mười Hấu – người có khá nhiều quyền thế ở vùng núi Mo So. Mười Hấu rất tinh thông võ nghệ, con gái ông ta thuộc vào hàng đẹp nhứt trong vùng. Khi gặp Mười Hấu, Hai Ú đưa ra ý kiến:
– Ông Mười muốn làm giàu không? Đây là dịp may hiếm có. Cậu Hai Minh tới để tìm gái đẹp. Nếu ông Mười vui lòng, làm thế nào cho
cậu Hai được thỏa mãn thì…
Mười Hấu nhớ đến đứa con gái tên là Ngó:
– Con gái tôi chắc hạp nhãn với cậu Hai Minh.
Hai Ú đáp:
– Cậu Hai chỉ thích như vậy thôi! Ông Xìn Phóc già khú rồi. Bây giờ, cậu Hai Minh là ông Chúa Hòn chớ còn ai đâu xa lạ.
Ngọn suối ở núi Mo So quá nhỏ hẹp. So với vùng cao nguvên thì đó là nơi dơ bẩn kém thơ mộng, nhưng ở chốn sình lầy nước mặn đồng chua thì quả là mạch nước tiên ngọt ngào và tinh khiết. Hai Ú dừng lại báo tin trước:
– Mấy cô nên vui vẻ… bởi vì cậu Hai thương mấy cô, chịu khó lặn lội tới đây. Cậu tới kìa. Đừng làm cho cậu giận. Ngày mai các cô sẽ được ban thưởng, mỗi cô ít nhất được một lượng vàng. Đó là chưa nói sau nầy hễ túng thiếu tiền bạc thì các cô tới gặp tôi, tôi nói giùm một tiếng với cậu Hai là xong.
Câu Hai Minh cười dòn:
– A ha ha! Đêm nay là đêm vui sướng nhất của đời tôi! Mấy cô cứ tự nhién, đẹp quá. Hai Ú đâu rồi? Đốt thêm vài ngọn đuốc.
Mười Hấu và đứa gia nhân để cần xé đựng hàng chục hũ rượu trên tảng đá rồi nói nhanh:
– Thưa cậu, tôi có đuốc…
Cậu Hai vỗ vai Mười Hấu:
– Chú ở đâu? Tôi nhớ gặp mặt vài lần rồi. Đuốc ở đâu? Đốt lên.
Ba ngọn đuốc cháy chập chờn. Trong đám thôn nữ rõ ràng cô Ngó là hoa khôi.
Nàng mặc áo ngắn tay, đứng bỡ ngỡ trong dòng suối, nước ngập lên tận gối. Ánh sáng chói chang làm nàng giựt mình:
– Ai làm chi vậy? Chỗ này… của người ta gánh nước.
Mười Hấu hơi e ngại, nói khéo cho con nghe:
– Ngó ơi! Cậu Hai tới thăm là vinh hạnh cho con. Con cứ vui cười.
Cậu Hai Minh hơi xúc động. Mấy tháng qua, cậu chỉ lân la với mấy nàng hầu thiếp ở trong phòng kín đáo, toàn là những cô gái ăn mặc sạch sẽ và ốm yếu mảnh khảnh. Cô Ngó đúng là một pho tượng, căng đầy nhựa sống. Cậu Hai cầm ngọn đuốc, đến gần. Cô lính quýnh, bước ra giữa dòng. Cậu vói tới, nắm tay cô mà kéo lại:
– Lên bờ cho vui. Tôi đã nói là cứ tự nhiên. Tôi tới đây để tìm cái… tự nhiên mà.
Cô Ngó mỉm cười, để lộ hai hàm răng đều đặn:
– Dạ, mắc cỡ lắm, cậu Hai! Mình mẩy ướt mem như vầy khó coi quá, thành ra vô lễ với cậu.
Hai Ú nói:
– Cô Ngó cứ lên bờ, ngồi bên tảng đá để nghe cậu Hai dạy việc.
Cậu Hai dìu người đẹp lên bờ, Mười Hấu bèn đem bầu rượu trao tận tay:
– Xin mời cậu…
– Ngon lắm! Ngon Iắm. Tôi uống rượu một mình coi sao được? Xưa nay vua đâu uống ruợu một mình. Vua uống thì các quan đại thần và hoàng hậu đều uống. Đem rượu ra, uống không hết thì đổ bỏ xuống dòng suối tiên nầy.
Hai ba cô gái gánh nước đứng gần cô Ngó cũng hưởng được chút ân huệ, nhưng làm sao các cô nuốt được thứ rượu đế quá cay, quá nồng! Hai Ú nhắc nhở từng chập:
– Cứ uống. Uống không nổi thì cứ làm bộ đưa lên môi.
Bầu rượu được cậu Hai đưa sát môi cô Ngó. Cô nhăn mặt liếc qua Mười Hấu như để hỏi ý kiến. Mười Hấu nói:
– Uống đi con. Cậu Hai đoái tưởng tới con đó.
Cậu Hai lim dim đôi mắt, một tay vuốt mái tóc người đẹp, một tay nghiêng bầu rượu. Rượu đổ tràn xuống ngực người đẹp. Cậu đưa tay ra phía sau:
– Rượu nữa! Rượu nữa! Cô tên gì? Uống rượu không được thì chắc là tắm bằng rượu được…
Cô Ngó ôm ngực van nài:
– Lạnh lắm… Cho tôi về.
– Tôi cho cô về… chiếc ghe của tôi. Hai Ú đâu rồi? Sửa soạn về. Nãy giờ tao cũng hơi lạnh. Muỗi cắn quá. Xứ nầy nhiều muỗi. Bây giờ cô Ngó cầm đuốc dẫn đường cho tôi xuống bến.
Hai Ú đi sát bên cô Ngó mà nói khẽ:
– Nên hầu hạ khéo léo cho cậu Hai vui. Tài sản của ông Chúa Hòn để lại cho cậu Hai, nghĩa là để cho cô. Cậu Hai nhiều khi khờ dại, cô nên hy sinh để cho cha mẹ và chòm xóm được nhờ.
Dân chúng hai bên đường ngồi nép mình bên cánh cửa mà trông ra. Họ vừa mừng vừa sợ. Nếu cô Ngó được cậu Hai đem về Hòn Chông làm tì thiếp thì cha cô là Mười Hấu trở nên hách dịch, ai chịu cho nổi.
Cô Ngó vào nhà, thay quần áo mới, trong khi cậu Hai Minh nằm trên ghe, thúc hối từng chập:
– Trốn rồi sao chớ! Muỗi cắn chết. Tụi bây lo cho tao chớ.Tao hơi mệt rồi đó. Đắp mền cho tao. Con nhỏ đó sao chưa xuống đây quạt muỗi cho tao!
Lát sau, chiếc ghe hầu trở về Hòn Chông, bốn con trâu kéo hì hục. Tội nghiệp cho mấy thằng bé cỡi trâu. Chúng nó ngủ gục từng chập, bị Hai Ú chửi rủa không ngớt mồm.
Cô Ngó ngồi bên gối của cậu Hai, cầm cây quạt lông mà phe phẩy, cậu Hai khen ngợi từng chập:
– Giỏi quá, khỏe quá! Quạt mạnh tay cho muỗi bay bớt thì ta mới ngủ được. Về Hòn Chông ít muỗi mòng hơn. Mỗi ngày, cô em cứ ở
không mà quạt cho ta ngủ, khỏi gánh nước.
Cậu Hai Minh đến Hòn Chông vào lúc hừng sáng. Hai Ú cõng cậu lên nhà. Cô Ngó hơi sợ vì lần đầu tiên trong đời, cô bước vào căn nhà sang trọng, đúng ra là ba bốn căn nhà cất chung trong vòng rào kiên cố.
Năm sau cô Ngó hạ sanh một đứa con trai. Mấy nàng tì thiếp khác lấy làm bất mãn và ganh tị. Bà chánh thất lo ngại hơn ai cả, vì đứa bé nọ có thể tranh giành gia tài và ngôi vị với đứa con của bà. Bà đến gặp cậu Hai để cằn nhằn:
– Ông làm như vầy còn gì thể diện!
Cậu Hai đáp:
– Tôi là… ông Chúa Hòn. Ba tôi đã trao quyền hạn cho tôi. Hằng ngày, nếu không đùa giỡn thì tôi làm gì bây giờ? Tôi thích đi đó đi đây, lâu lâu uống rượu say một lần.
Bà chánh thất nói khẽ:
– Con Ngó là đứa mà tôi không ưa. Nó làm mất thể diện dòng họ.
– Trời ơi! Bà đừng vu cáo mà tội nghiệp nó. Nó là gái quê, là tì thiếp, hằng đêm cầm quạt đuổi muỗi cho tôi ngủ. Nhờ nó mà bà được rảnh rang, vả lại, hễ gặp bà là nó chắp tay xá…
– Nó sanh đứa con trai. Nó là con của thằng Mười Hấu quê mùa dốt nát ở núi Mo So. Mười Hấu trở thành… cha vợ của ông Chúa Hòn, thiên hạ đàm tiếu nhiều lắm rồi.
Cậu Hai bị chạm tự ái nên quát to:
– Bà đừng nói vậy. Muốn tôi đuổi con Ngó sao? Tôi chưa đuổi nó được trong năm nay, nhưng tôi hứa là vài năm nữa nó không còn ở nhà nầy.
– Nhưng thằng con của con Ngó! Nay mai nó tranh quyền hạn với con tôi thì sao? Ông nên suy nghĩ lại…
Câu nói ấy khiến cậu Hai Minh bâng khuâng. Lập tức, ông vào phòng riêng nằm dài, vỗ trán cho bớt nhức đầu. Nãy giờ, cô Ngó đã nghe ngóng được câu chuyện. Chờ khi cậu Hai ngồi dậy uống chén trà, cô mới than thở;
– Tội nghiệp em, nếu ở đây hoài, chắc có ngày em chết vì bà lớn. Tốt hơn, ông cho em bồng con về núi Mo So để rồi xin vô chùa, đi tu.
– Đâu được!
Đôi mắt đen huyền và làn da trắng mịn của cô Ngó khiến cậu Hai ngây ngất. Cậu vuốt ve cô nhưng cô ngồi lui ra, cầm cây quạt mà phe phẩy, cánh tay với tới. Những cảnh ghen tương giận hờn và tranh chấp quyền lợi đã xảy ra quá nhiều lần, nào riêng gì trong năm nay. Tin rằng thời gian trôi qua thì mọi việc đều tự dàn xếp êm thấm, cậu Hai uống thêm vài chén rượu rồi ngủ khò. Cô Ngó ngưng tay, không quạt nữa. Đến trưa, khi cậu mở mắt thức dậy thì cô lanh tay cầm cây quạt đứng thẳng người phía sau lưng. Đột nhiên cô buông tay. Cây quạt rơi xuống nền gạch, cán bằng ngà gây tiếng động vừa khô khan, vừa tức tối.
Cậu day lại.
Cô Ngó giả vờ như giựt mình, vội cúi mình lượm cây quạt đem lên, xem kỹ rồi run rẩy đến quì bên cạnh cậu Hai:
– Ông tha cho tôi. Cán quạt nứt bể rồi. Cây quạt nầy quý giá lắm.
Nói xong, nàng ngả người, quơ tay lên trời, kêu lên ú ớ mấy tiếng rồi nằm dài trên gạch. Cậu Hai đứng dậy quì bên cạnh đỡ nàng lên:
– Em! Sao vậy? Tôi ở đây thì em cứ ở đây. Tôi chưa nói điều gì mất lòng em mà. Làm vậy tôi buồn…
Cô mở mắt ra, nói khẽ:
– Em chưa đủ sức để hầu hạ ông, ông nên tìm người khác. Em đâu dám hờn giận ai. Chẳng qua là em thức quá nhiều. Nãy giờ, em
đứng mà quạt không nghỉ tay. Mấy ngón tay tê cóng, phần thì hồi sáng đến giờ em chưa rảnh để ăn món gì ráo…
Lần đầu tiên trong đời, cậu Hai để rơi hai giọt nước mắt. Suốt đêm rồi, Ngó ngồi ngoài mùng mà quạt cho cậu được mát mẻ, đến canh ba, khi giật mình thức dậy, cậu vẫn thấy cô ngồi lì một chỗ, bảo đi ngủ thì cô trả lời rằng còn đủ sức quạt hầu. Rồi đến trưa nay, cô Ngó lại đứng quạt. Đúng là một cực hình mà cô chịu đựng không một lời than thở.
Cậu Hai nói:
– Mệt thì em lên giường tôi.
Cô Ngó lắc đầu:
– Em đâu dám. Rủị bà chánh thất bắt gặp, chắc em bị giết…
– Tôi gọi đứa khác vô đây để em nghỉ tay. Từ rày về sau, em khỏi làm công việc cực nhọc nầy.
– Thôi, cho em về mà nuôi con. Nó là con trai, em thương nó lắm.
Hai tiếng ‘‘con trai’’ khiến cậu Hai thêm kiêu hãnh. Đây là đứa con trai thứ nhì của cậu, phải nuôi nó bằng được để dự phòng trường hợp đứa con trai của bà vợ lớn chết thình lình. Cậu đáp:
– Em ở đây. Người chánh thất giận vì em có con trai, tôi biết. Bây giờ, em tìm cách gởi đứa con đó đi xa, đặt tên xấu xí. Hễ mang tên xấu thì làm sao nó trở về đây chia gia tài được?
Thế là hôm sau, mọi sự thắc mắc trong gia đình cậu Hai Minh đều được giải quyết êm ái. Đứa con mới sanh phải mang tên là thằng Cẩu – nghĩa là con chó. Mười Hấu được mời đến Hòn Chông để lãnh đứa cháu ngoại đem về, nuôi tại núi Mo So. Cậu Hai ban cho Mười Hấu mười lượng vàng. Cô Ngó bị đày xuống nhà bếp, lo cơm nước cho cậu Hai.
Mười lăm năm trôi qua.
Ông Thân Phước từ trần. Cậu Hai Minh trở thành ông Chúa Hòn. Mấy năm liên tiếp, vườn tiêu ở Hòn Chông được mùa, cậu Hai ăn xài như nước. Bọn thương gia ở Xiêm, ở Mã Lai ra vào tấp nập. Dân chúng không gọi cậu là cậu Hai nữa. Cậu mặc áo gấm, chiếc áo truyền tử lưu tôn từ mấy đời.
Tất cả tiền bạc, sổ sách chi thu của cậu Hai đều do ông Bá Vạn nắm giữ. Ông nầy là người Triều Châu lai Việt Nam, tuổi hơn 60. Hằng ngày ông Bá Vạn tiếp xúc với bọn thương gia và bọn tá điền mướn đất trồng tiêu. Khi cần dùng tiền bạc, cậu Hai nói một tiếng là ông xuất ra.
Sự tín nhiệm to lớn ấy sở dĩ có là do lòng ngay thẳng của chính ông Bá Vạn. Lúc hấp hối, ông Thần Phước gọi cậu Hai đến mà căn dặn:
– Bá Vạn là người giúp đỡ dòng họ mình lừ lâu đời. Ba chết đi, con trở thành ông Chúa Hòn thì cứ xem ông Bá Vạn là tể tướng.
Ngày giỗ ông Thần Phước năm ấy, ông Bá Vạn quỳ bên bàn thờ. Ông Chúa Hòn – tức là cậu Hai Minh- mặc áo gấm ngồi uống rượu, bên cạnh là cậu Hai Điền, đứa con mà cậu với bà chánh thất sanh ra.
Hai Điền năm ấy được 30 tuổi, tánh tình kiêu hãnh, thích săn heo rừng và thích ra các hải đảo mà ăn uống, giữa cảnh trời nước mênh mông. Cậu ngồi im lặng, bực dọc vì nghi lễ phiền phức.
Người bày nghi lễ ấy, chính là ông Bá Vạn.
Cậu hỏi:
– Ông Bá Vạn ơi! Tới giờ chưa?
Ông Bá Vạn xem cậu Hai Điền là trẻ con nên ung dung ra trước sân xem bóng nắng. Lúc sau ông trở vô, đến trước mặt ông Chúa Hòn mà thưa:
– Đến giờ thắp nhang, thưa ông.
Ông Chúa Hòn day lại:
– Để đó cho ta…
Nhưng ông Bá Vạn đã lanh lẹn đến cạnh bàn thờ, lấy ba cây nhang thật to, loại nhang trầm hương do mấy người thương gia từ Quảng Nam đem vào dâng tặng hồi năm ngoái. Ông Bá Vạn đốt nhang, cúi đầu trao cho Chúa Hòn.
Từ lâu rồi, cậu Hai Điền không ưa ông Bá Vạn vì ông nầy quá nịnh bợ. Cậu muốn, buổi lễ nầy chấm dứt nhanh chóng để còn thời giờ lên chót hòn săn heo rừng. Bọn gia nhân cho biết rằng mấy ngày qua, dân chúng sợ hãi vì con heo rừng ‘‘độc giác’’ từ Dương Hòa chạy lạc tới, con độc giác nầy đã đánh chết hai người thợ săn. Cậu muốn giết nó để rửa hận cho những người quá cố, đồng thời cũng là để biểu dương ‘‘khí tượng’’ của một ‘‘thái tử’’ trẻ tuổi. Cậu chép miệng, quỳ xuống phía sau cha.
Ông Chúa Hòn là cậu Hai Minh cầm ba cây nhang. Mọi người đều im phăng phắc vì giờ phút hành lễ đã đến. Ông Bá Vạn bỗng nhiên lại chắp tay xá ông Chúa Hòn rồi nói:
– Thưa ông, ông là ông Chúa trong vùng rộng lớn nầy, hàng vạn người từ bao đời rồi có cơm ăn áo mặc là nhờ công đức bao la trời biển của tiên nhân để lại.
Nghe tới đó, cậu Hai Điền thêm bực tức, nhưng vì nể oai quyền của cha và muốn giữ trật tự nên đành im lặng mà chửi rủa lầm thầm.
– Tao còn nhỏ, ba tao hiền lành. Bằng không thì tao đuổi mầy từ lâu. Ai dạy mầy cái thói nịnh bợ quá mức? Già nua lụm cụm rồi mà nết na không đàng hoàng. Cái gì mà công lao trời biển? Chi cho lắm mà ruồi nó bu….
Cậu day lại phía sau, nơi hàng trăm người đang quỳ, dài ra tới ngoài sân cỏ. Đó là những bô lão đã làm tá điền cho ông Thần Phước. Cậu nhăn mặt; bịt mũi như để phản đối ngầm ông Bá Vạn.
Trước bàn thờ, ông Chúa Hòn cầm ba cây nhang đưa lên ngang trán, khấn vái rồi hỏi:
– Bá Vạn! Xong chưa? Bây giờ ta cắm nhang vào lư nhang. Ông Bá Vạn đáp:
– Gia đình tôi hưởng bổng lộc mấy đời của tiền nhân, vậy xin ông cho phép tôi ‘‘thỉnh’’ mấy cây nhang nầy, đem cắm vào lư nhang.
Cắm xong mấy cây nhang, ông Bá Vạn đứng khoanh tay. Ông Chúa Hòn hỏi:
– Lễ thành chưa?
‘‘Lễ thành’’ hoặc ‘‘lễ tất’’ là danh từ xưa, nghĩa là xong buổi lễ. Ông Bá Vạn nói, giọng run run:
– Thưa ông, bâv giờ buổi lễ mới bắt đầu.
– Ủa! Sao vậy? Thức ăn dọn lên từ nãy giờ. Chẳng lẽ ta đứng mãi mãi trước bàn thờ. Mọi khi, ta nhớ rằng người trưởng tộc như ta chỉ thắp nhang rồị… ngồi chờ cho tuần nhang cháy dứt.
Cậu Hai Điền lắng tai nghe ông Bá Vạn trả lời:
– Dạ, ông ngồi mà chứng kiến. Hôm nay, tôi có rước bọn học trò lễ ở đình Dương Hòa tới. Bọn nầy giỏi lắm, biết cách cúng kiếng theo lễ nghi… ở ngoài triều đình Huế.
Vì tò mò, vì thích được nịnh bợ nên ông Chúa Hòn gật đầu:
– Cứ gọi bọn nó vào đây cho ta xem. Cúng theo nghi lễ ở triều đình, phải lắm. Ta là Chúa Hòn. Cha ta trước kia cũng là ông chúa. Vua với chúa nào có khác gì đâu.
Ông Bá Vạn mừng rỡ vô cùng:
– Ông nói chí lý. Vua trị vì một nước. Chúa thì trị vì một vùng… giang sơn gấm vóc, như ông vua nhỏ.
Vì quỳ gối quá lâu hơi mỏi nên cậu Hai Điền cứ cựa quậy đôi chân. Cậu toan đứng dậy, chửi vào mặt Bá Vạn một câu cho hả giận, đại khái như: ‘‘Tao chán cái trò nịnh bợ’’. Nhưng ông Bá Vạn cứ trầm tĩnh, khoát tay về phía sau. Hai tên học trò lễ bước vào,
mặc áo dài mầu vàng, đầu đội mão có sợi dây lòng thòng xuống nửa lưng. Hai tên gia nhân khiêng cái bàn nhỏ và cái chuông, để bên cạnh. Bá Vạn trình bày:
– Thưa ông, nếu ông cho phép thì tụi nó bắt đầu…
Tuy chưa hiểu những gì sắp xảy ra, ông Chúa Hòn vẫn gật đầu: – Ta cho phép.
Tiếng chuông thứ nhứt gõ lên.
– ‘‘ Boong…’’
Hai người học trò lên đến bàn, mỗi đứa bưng một chén cơm, nâng ngang trán rồi bước nhịp nhàng, nhún chân xuống, đá một chân rồi bước, rất chậm rãi. Hai cậu quỳ xuống, để hai chén cơm lên bàn thờ.
Ông Bá Vạn chắp tay:
– Xin ông chúa… hành lễ.
Ông Chúa Hòn trợn mắt:
– Hành… cái gì?
– Dạ, ông cầm đôi đũa nầy mà xẻ mở cơm trong chén rồi trộn lại..
Để khỏi mất thì giờ, ông Chúa Hòn làm theo lời dặn của ông Bá Vạn. Một tiếng chuông vang lên. Hai người học trò lễ nâng hai chén cơm, để trên bàn thờ bên cạnh lư nhang. Rồi lại một tiếng chuông khác, hai đứa đứng bưng hai dĩa thịt luộc quỳ xuống, ông Chúa Hòn cầm đũa trộn mấy miếng thịt…
Nghe tiếng chuông hơi nhàm ấy, cậu Hai Điền ngáp dài, lim dim đôi mắt. Chừng nghe hồi chuông liên tiếp, cậu đứng dậy trước hơn ai hết. Ông Chúa Hòn chắp tay xá bàn thờ rồi đi nhanh ra sân, mồ hôi ướt đẫm sau lưng. Ông Bá Vạn vuốt râu cười nói với hai đứa học trò lễ:
– Tụi bây làm coi được quá!
Cậu Hai bĩu môi khi chạm mặt ông Bá Vạn. Ông Bá Vạn chắp tay:
– Tôi mong sau nầy được theo chân cậu. Đời tôi thọ ơn gia đình cậu quá nhiều, như ơn trời biển.
Nhịn không được nữa, cậu Hai Điền quát to:
– Già rồi mà chưa nên nết. Tao ghét mấy thằng nịnh! Ông Bá Vạn vẫn bình tĩnh:
– Tội nghiệp tôi mà cậu Hai. Ở đây đông đảo, tôi phạm lỗi gì, xin cậu rầy la lúc về nhà. Ăn thua với người già như tôi để làm gì?
Nhanh như chớp, cậu Hai Điền bước tới chụp cái tô đựng nước mắm, ném mạnh vào mặt ông Bá Vạn. Ông nầy né tránh không kịp nên mặt mày râu ria dính nước mắm. Như chưa hả cơn giận, cậu Hai ném cái tô đựng thịt kho vào ngực ông Bá Vạn. Hai cái tô rơi xuống gạch, bể nát.
Cử tọa nhốn nháo lên. Mấy ông bô lão không muốn dính líu đến cuộc tranh chấp nầy, chạy nhanh ra sân, mỗi người đi tản mác một hướng để khỏi làm nhân chứng. Ông Chúa Hòn hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Ông Bá Vạn lấy tay vuốt mặt, trả lời:
– Thưa ông, không có gì hết.
Cậu Hai Điền hơi giựt mình, biết mình vừa làm một chuyện gây ra nhiều hậu quả tai hại. Trong khi đó, ông Bá Vạn ung dung đến bên hè, đứng lại gần lu nước, múc một gáo nhỏ rồi rửa mặt, rửa thật chậm.
Cậu Hai Điền ra khỏi cửa, đến nhà riêng ở gần phủ thờ. Đứa nữ tỳ lại gần ông Bá Vạn, nói khẽ:
– Để con về nhà, đem cái áo khác cho ông thay.
Ông Bá Vạn lắc đầu:
– Thây kệ tao!
Tên hộ vệ của ông Bá Vạn múc thêm gáo nước rồi yêu cầu: – Ông cúi đầu xuống, tôi rửa trên tóc cho…
Vài người tò mò đứng ở góc sân nhìn cảnh tượng ấy.Tên hộ vệ quát to:
– Có gì lạ mà coi! Hồi nãy, cậu Hai say rượu. Đi chỗ khác, mấy người điếc sao chớ?
Như đau đớn tột độ, ông Bá Vạn ngồi xuống bên thềm phủ thờ. Đôi mắt ông đổ sao, lỗ tai lùng bùng. Hơn mười năm qua, chưa bao giờ ông bị hạ nhục giữa đám đông như thế. Cậu Hai Minh được dân chúng tôn là ông Chúa Hòn thì mặc nhiên ông Bá Vạn là bực tể tướng. Ông lo gìn giữ sản nghiệp cho cậu Hai, tại sao con ruột cậu Hai lại đành cư xử tàn nhẫn như thế, còn hơn là đối với bọn tôi đòi trong nhà.
Tên hộ vệ nói:
– Xin ông về, ở đây ích lợi gì!
Ngoài đường, người qua kẻ lại rộn rịp, đa số là bọn dân phu làm công trong vườn trồng hồ tiêu. Dường như ai nấy đều biết chuyện ông Bá Vạn bị tạt thịt kho và nước mắm vào đầu, vì cái tội nịnh bợ ông Chúa Hòn.
Họ liếc vào phủ thờ. Lúc ban đầu, ông Bá Vạn cúi mặt. Nhưng lát sau, ông ngẫng đầu lên:
– Ích lợi chớ. Tao ở đây cho thiên hạ thấy bằng cớ.
Nói đến đó, ông tự kềm chế lại. Tư tưởng ông đã đến lúc dứt khoát, từ nay trở đi ông có thái độ sẽ dứt khoát. Ông Chúa Hòn phải chết. Cậu Hai Điền, người thừa kế của ông Chúa Hòn, người tạt tô thịt kho và tô nước mắm, cũng phải chết. Trong phút giây, ông Bá Vạn nắm chặt hai bàn tay để tập trung sinh lực, mắt sáng lên. Tuổi ông già rồi, ông không thể chờ đợi… thời gian trả lời. Những cuộc âm mưu truất phế, tranh giành ngôi thứ trong truyện Tàu đời Đường,
đời Tây Thái Hậu cứ hiện ra. Nhưng giết ông Chúa Hòn, giết cậu Hai Điền bằng cách nào cho khéo léo, cho dân chúng không phản đối? Bên cạnh ông Chúa và cậu Hai có hàng chục vệ sĩ tài ba và mạnh khỏe, ông Bá Vạn lẩm bẩm:
– Mình nên lấy độc trị độc…
Nghĩ vậy, ông đứng thẳng người, nói với tên hộ vệ:
– Đưa tao về. Mầy đi trước. Tao cứ ăn mặc dơ dáy như vầy cho thiên hạ thấy cái tội tày trời của cậu Hai Điền. Hôm nay tao xấu xí bao nhiêu thì ngày nào đó, tao sạch sẽ bấy nhiêu. Hôm nay tao khiếp nhược, ngày nào đó tao trở thành người anh hùng.
Tên hộ vệ can gián:
– Ra tới cổng rồi! Ông nên dè dặt lời nói.
Tên hộ vệ vừa sợ vừa mừng. Tài sản của ông Chúa Hòn đâu phải là ít, nào châu báu ngọc ngà, nào đất ruộng và vườn tiêu. Muốn đi tuần tra vùng đất bao la nầy, phải đi hai, ba ngày mới giáp vòng. Một khi ông Bá Vạn soán ngôi Chúa Hòn thì tên hộ vệ sẽ trở thành nhân vật quan trọng, một ông Bá Vạn thứ nhì.
Nhưng bao nhiêu nguy hiểm sẽ xẩy ra.
Ông Bá Vạn nói:
– Ai kia?
Tên hộ vệ giựt mình, nhòm qua bên kia đường. Bên quán nhỏ, cô Ngó đứng trang nghiêm, cầm trong tay năm bảy đóa hoa sen còn búp. Cô Ngó cúi đầu chào ông Bá Vạn. Đột nhiên mà ông Bá Vạn nảy ra một sáng kiến thần tình. Bấy lâu, cô Ngó được ông Chúa Hòn tưng tiu, nhưng cô buồn vì đứa con trai là thằng Ba Cẩu bị đuổi ra xa, nuôi tại nhà của ông ngoại nó là Mười Hấu ở núi Mo So. Nếu giết ông Chúa Hòn, ông Bá Vạn sẽ đưa Ba Cẩu lên thay thế, vì nó là con trai thứ nhì của ông Chúa.
Cậu trai thứ nhứt, kẻ thù của ông Bá Vạn sẽ bị giết dễ dàng. Cậu ta ưa đi săn heo rừng.
– Thời cơ đã tới!
Ông Bá Vạn mỉm cười, cúi đầu đáp lễ rồi đến bên kia đường. Cô Ngó lên tiếng trước:
– Ông Bá Vạn chưa về sao? Lễ giỗ đã tàn từ nãy giờ. Ủa! Sao lạ quá?
Rồi cô cau mày, nói khẽ với ông Bá Vạn:
– Thiên hạ tò mò.
Tên hộ vệ khoát tay. Mấy người trong quán hoảng sợ rút lui vào trong, đồng thời ông Bá Vạn và cô Ngó từ từ rảo bước. Cô Ngó giả vờ như chưa biết gì ráo nên hỏi dọ để thử phản ứng của ông Bá Vạn:
– Trên đầu ông, trên áo… còn dính cái gì?
Ông Bá Vạn muốn nhờ cô giúp một tay quan trọng trong kế hoạch truất phế sắp tới, nên trình bày vắn tắt:
– Tôi chưa dám hờn giận cậu Hai Điền. Cậu còn nhỏ mà bất chấp người có tuổi tác như tôi. Chắc cô nghe thiên hạ nói nhiều rồi.
– Tôi nghe nói nhưng chưa vội tin. Chừng gặp ông, tôi mới hiểu rằng cậu Hai cư xử quá đáng. Bởi vậy…
Ông Bá Vạn nín thinh, chờ nghe cô Ngó nói tiếp:
– Bởi vậy, tôi mừng vì thằng Cẩu, con tôi được nuôi nấng ở nơi quê mùa hẻo lánh. Nếu nó sống sung sướng như con trưởng nam thừa hưởng gia tài thì ai cấm cản nó làm chuyện phách lối.
– Cám ơn cô. Cô nghĩ tới tôi, tôi không quên ơn đó. Xin cô kín tiếng, nói chuyện lâu bất tiện.
Dứt lời, ông Bá Vạn bước chậm rãi về tư thất ở cách xa nhà ông Chúa Hòn gần mười công đất. Dọc đường, nhiều người đứng khép nép nhìn cái áo lem lấm với thái độ mỉa mai châm chọc. Mấy bệt nước mắm vẫn chưa khô. Vì bực dọc, bị hạ nhục lây nên tên hộ vệ
nhiều phen nổi giận, quát mắng những kẻ tò mò. Ông Bá Vạn chỉ khuyên nhủ hắn:
– Đừng rầy rà họ. Họ được quyền chứng kiến sự nhục nhã của tao hôm nay. Chắc là họ nói lén, chê tao là thằng già nịnh bợ, khiếp nhược, hèn hạ. Dư luận thế gian, hơi đâu mà nghe. Họ ghét tao, họ khinh khi tao nhưng rồi đây họ sẽ sợ tao.
Khi đến nhà, ông Bá Vạn vào phòng cởi cái áo lem lấm hôi tanh ra. Đứa nữ tỳ đến gần, đón chiếc áo.
– Ông đưa cho con giặt sạch sẽ.
Ông Bá Vạn trợn mắt:
– Để đấy! Lấy cái tráp đằng kia cho tao. Phải để nguyên mùi vị hôi hám để sau nầy làm bằng cớ.
Rồi ông xếp cái áo thật kỹ, để gọn trong cái tráp, khóa lại:
– Tao gối đầu trên cái tráp nầy. Bây giờ, mi múc thau nước rửa đầu, chải tóc cho tao.
Lúc ngồi uống trà, ông Bá Vạn chợt thấy tên hô vệ bước vào: – Thưa ông, ông Chúa Hòn nhắn gặp.
Ông Bá Vạn đáp:
– Tao đương buồn vì chuyện xẩy ra lúc nãy nên không tới được. Cứ trả lời như vậy. Ai tới đây nhắn tin, mời người đó vô đây.
Chừng gặp mặt đứa nữ tỳ, ông Bá Vạn nhận lời ngay, hứa đến gặp ông Chúa Hòn trong giây lát. Nữ tỳ nói khẽ:
– Thưa ông, ông Chúa Hòn đã biết cái tội vô lễ của cậu Hai. Ông hứa sẽ rầy la…
Khung cảnh vui vẻ trên giường của ông Chúa Hòn khiến ông Bá Vạn ngạc nhiên, ông Chúa cứ uống rượu, sau lưng có cô Ngó đứng quạt hầu. Cô Ngó liếc về ông Bá Vạn, gật đầu như khuyên nhủ ông đừng nóng nảy, ông Chúa Hòn reo lên:
– Bá Vạn tới rồi! Ngồi trên giường nầy cho thân mật hơn.
Giường là cái sạp đóng bằng cây cẩm lai, chân thấp, phía trên có đóng khung sơn son thếp vàng để giăng cái mùng bằng nhiễu đỏ.
Mùng đươc vén lên khéo léo. Ông Chúa Hòn vỗ vai Bá Vạn: – Cứ ngồi. Ta mới sắm cái giường nầy, ông thấy sao? – Dạ, đẹp lắm.
Ông Chứa Hòn ngồi ưỡn ngực, dựa hai tay trên hai cái gối vuông rồi nói chậm rãi:
– Tháng sau, ta tặng cho một cái giường như vầy. Đó là danh dự lớn của người thành công, thành danh.
– Dạ, tôi sắm một cái giường rồi.
– Nhưng chưa sơn son thếp vàng. Bấy lâu, ông giúp gia đình ta nhiều lắm mà ta chưa ban thưởng.
Câu nói ấy khiến ông Bá Vạn bớt giận phần nào. Chúa Hòn gọi ông bằng ông, đó là sự biệt đãi. Nhưng tại sao ông Chúa chưa đề cập tới chuyện cậu Hai Điền phải xin lỗi về cái tô thịt kho và cái tô nước mắm? Ông Chúa Hòn tiếp lời:
-Ta ngủ trên cái giường, viết chữ trên cái giường, uống trà trên cái giường. Nhiều người hút á phiện, đánh bài và khảy đàn trên cái giường, ngồi tại đó, nằm tại đó. Khi ta cỡi hạc qui tiên thì con cháu giành cái giường ấy mà thờ. Bởi vậy, về sau, gọi là cái giường thờ. Ta tặng cho một cái giường. Ta muốn ban thưởng bởi vì lúc nãy có điềm lạ quá.
– Dạ điềm gì?
– Hai con cò trắng từ đâu bay tới, chạy lững thững vô nhà. Theo ông thì đó là điềm lành hay điềm dữ?
Ônq Bá Vạn nghĩ kế hoạch giết hoặc truất phế ông Chúa Hòn rồi đem thằng Cẩu, con cô Ngó lên thay thế, đồng thời ông tìm cách giết luôn cậu Hai Điền để rửa hận! Dư luận sẽ tha thứ, vì chừng đó
ông vẫn tiếp tục đóng vai trò quản gia cho thằng Cẩu, đứa con rơi của ông Chúa Hòn. Con cò giống như con hạc, ở đồi núi Hà Tiên làm sao con hạc sống được? Hạc vào nhà, đến tận giường ông Chúa Hòn là điềm cỡi hạc qui tiên, tức là chết. Phải chăng Trời Phật muốn giúp ông? Ông cau mày, chờ khi ông Chúa Hòn hỏi đến lần thứ ba:
– Điềm gì? Bá Vạn cứ nói thiệt?
– Dạ, sau lễ giỗ, hai con hạc vào nhà tức là vong linh tiên nhân xuống cõi trần để thăm con cái. Theo tôi hiểu đó là điềm tốt. Tiên nhân cỡi hạc xuống đây.
Ông Chúa Hòn vẫn thắc mắc:
– Đành vậy, nhưng mà ta hơi buồn. Con trưởng nam của ta thì ngỗ nghịch, thích săn heo rừng. Nó đi vắng rồi. Ta gọi ông đến để cùng nhau lên núi Đất, gần Hòn Me, nhờ thần linh chỉ dạy.
Ông Bá Vạn gật đầu:
– Bên đó, có ông đạo Đất xem quẻ giỏi lắm.
– Nhưng ông đạo Đất chỉ là người phàm. Ta muốn bà Chúa Xứ xem giùm một quẻ.
– Ông dạy thì tôi vâng lời.
Sáng hôm sau, hai chiếc ghe chở ông Chúa Hòn và bọn hộ vệ đến Hòn Me. Chuyến đi, ông Chúa Hòn qua ngang nhà Tư Thính và cô Huôi. Ông Bá Vạn nào chú ý đến gia đình đó, cứ thúc hối bọn hộ vệ chèo ghe thật nhanh đến sườn núi phía bờ biển. Hai tên hộ vệ lên trước để dọn đường. Miễu bà Chúa Xứ ở bên sườn Hòn Me, khá cao. Ông Bá Vạn nài nỉ:
– Ông Chúa ngồi đây mà chờ. Tôi cho xác bà hay trước để khỏi mất thời giờ.
Con đường quanh co, đầy sỏi gai, đôi khi phải trèo lên mấy tảng đá gồ ghề. Phải mệt nhọc lắm, ông mới đến miễu bà Chúa Xứ được. Miễu hiện ra với mái ngói đen đúa. ‘‘Xác bà’’ là cô gái chừng hai
mươi tuổi, chưa chồng. Hay tin ông Chúa Hòn tới, ông lão giữ miễu hơi sợ sệt:
– Dạ, làm sao tôi đón rước được? Mọi năm cúng vía bà vào ngày mùng sáu tháng năm. Bây giờ, chỗ ngồi không sạch sẽ, trà rượu không có, tôi sợ ông Chúa Hòn phiền giận. Xin ông Bá dời lại ngày mai hoặc ngày mốt.
– Ông Chúa muốn thì đừng cãi. Dọn dẹp bàn thờ sạch sẽ, kéo ghế nào hơi lớn cho ông chúa ngồi là đủ rồi. Ông tới nhờ bà coi quẻ rồi về chớ đâu phải cúng kiếng.
Ông từ giữ miễu vẫn cau có:
– Cô Tư lên xác cuốc rẫy ở đằng kia, rủi cổ vắng nhà thì không ai thay thế được!
– Cứ gọi cô lên xác tới đây. Mua thêm nhang đèn, trà rượu. Tốn kém một, thời ông Chúa trả lại bằng mười. Già rồi mà ông còn khờ quá, đây là dịp kiếm thêm tiền để mua rượu đủ bốn, năm tháng.
Ngồi trên ghế chờ đợi hơi lâu, ông Chúa Hòn ra lịnh: – Tụi bay đưa tao lên miễu! Nóng ruột quá.
Ồng Chúa Hòn đứng trước mũi ghe, hai tên hộ vệ bồng khéo léo đưa lên bờ. Bọn chúng muốn cõng ông lên sườn núi, ông nói to:
– Để tao đi một mình.
Một tên hộ vệ nói:
– Dạ trèo núi cực lắm, nào rắn rít, kiến vàng.
– Để tao đi một mình cho được phước.
Nhưng chưa được nửa đường, ông Chứa Hòn đành chịu thua:
– Cao quá, hễ leo tới cục đá trên kia thì tao đuối sức, rủi trợt té thì sanh bịnh. Nãy giờ, tao chứng minh lòng thành rồi. Tụi bay cõng tao lên. Cõng cho mau.
Đến trước sân miễu, ông Chúa Hòn mừng thầm vì ông Bá Vạn đứng sẵn để chào đón. Chúa Hòn hỏi:
– Xác bà tới chưa?
– Dạ, vì ông đến thình lình nên nãy giờ ông từ đi kiếm. Lát nữa về chứ gì. Mời ông ngồi nghỉ.
Ông Chúa Hòn tin rằng phen nầy xác bà sẽ đoán điềm hai con cò trắng vào nhà. Bấy lâu, ông Bá Vạn thích nịnh bợ nên căn dặn trước những gì mà xác bà phải nói cho ông hài lòng. Bá Vạn chưa tiếp xúc với xác bà. May quá.
Cô gái lên xác đã tới. Ông Chúa Hòn mừng rỡ và nói khéo với ông Bá Vạn:
– Lên xác cho mau. Hai con cò bay vô nhà tôi chắc là điều may mắn. Đừng nói cho người xác biết bất cứ chuyện gì.
Ông Bá Vạn vuốt râu cười:
– Gặp ông thì họ cứ nói dối để nịnh bợ. Bởi vậy hôm nay, ông đừng cho tiền trước. Nhang đèn, đã có ông từ giữ miễu lo rồi. Ông ngồi chờ.
Ông từ lấy miếng vải, lau chùi bàn thờ cho sạch sẽ. Trong khi đó ông Bá Vạn cố ý làm vừa lòng ông Chúa Hòn bằng cách gọi ba tên hộ vệ đến, khuyên chúng phải canh phòng bốn phía miễu, cấm ngặt không cho ai lại gần, nhứt là không cho tên hộ vệ nào khác đến tiếp xúc với cô gái lên xác, đề phòng trường hợp cô ta lên xác giả rồi nói những lời nịnh bợ.
Bọn nhạc công đã tới. Họ chắp tay chào ông Chúa Hòn rồi ngồi xuống, bắt đầu so giây đờn. Vùng nầy còn người Cao Miên nên chịu ít nhiều ảnh hưởng, tô điểm vài hương sắc kỳ lạ. Thay vì dùng kiểu trống cơm, trong ban nhạc cổ kiểu trống vỗ, hình tròn như cái gối. Thân trống làm bằng cây, mặt kia bịt miếng da dày.
Ông Chúa Hòn vẫn giữ thái độ kiêu hãnh:
– Chú kia! Trống còn tốt không?
Anh nhạc công trả lời:
– Thưa ông, kiểu trống Miên, bịt miệng da sấu. Xin ông cho phép tôi đốt lửa.
Ông Bá Vạn nói với ông từ:
– Làm gì thì làm. Đừng thúc hối cô gái lên xác. Cứ tự nhiên như vậy, chừng nào lên cũng được.
Bếp lửa cháy bừng bừng, trước bàn thờ bà Chúa Xứ. Anh nhạc công đến gần, lăn tròn cái trống rồi hơ cho miếng da sấu được nóng, ông Bá Vạn giải thích với ông Chúa Hòn:
– Da nóng thì tiếng trống mới dòn.
Ông từ ra trước sân, cắm ba cây nhang vào cái miễu nhỏ ở gốc cây dừa, lâm râm khấn vái rồi trở vô:
– Vỗ trống lên!
Anh nhạc công bèn cởi áo ra, trợn mắt, hai bàn tay vỗ mạnh vào miếng da sấu. Anh ta ngồi xếp bằng, thân trống nằm gọn trong lòng. Tiếng ‘‘tung tung’’ vang dội. Vài người trong xóm chạy tới, muốn đến gần miễu. Bọn hộ vệ xua đuổi:
– Muốn chết sao mà lại gần! Mấy người không thấy ông Chúa Hòn ngồi đó sao?
Thời khắc cứ trôi qua, ông từ giữ miễu đến gần ông Bá Vạn mà trình bày:
– Thưa ông, người lên xác còn tắm gội sạch sẽ để hôm nay… Ông Chúa Hòn hơi bồn chồn:
– Tắm rửa gì lâu dữ vậy? Tắm ở đâu?
Ông Bá Vạn cau mày, trong khi ông từ bối rối:
– Thưa.. ở gần bờ suối. Tắm gần đây thì sợ ô uế, bà không về nhập xác.
– Coi một lần nữa rồi cho ta biết còn bao lâu mới lên xác được! Lâu quá rồi.
Chính ông Bá Vạn cũng hơi ngạc nhiên vì sự trể nải ấy. Thật ra việc tắm gội ấy chỉ là hình thức mà thôi. Nhiều cô gái lên xác tuy gọi là ‘‘đồng trinh’’ nhưng còn gì là trinh tiết. Các cô có tình nhân trong xóm, như trong trường hợp miễu bà Chúa Xứ nầy thì chàng trai vỗ trống nọ có thể là tình nhân của cô ta. Để làm vừa lòng ông Chúa Hòn, ông từ giữ miễu bèn thắp hai ngọn đèn sáng trên bàn thờ, thắp nắm nhang cắm vào lư rồi ra phía sau miễu.
Ông Chúa Hòn vốn tin dị đoan nên vẫn cằn nhằn:
– Hai con vô nhà tôi là phụng hoàng hay là con hạc? Điềm lạ quá.
Nhớ đến hai tô thịt kho và nước mắm mà cậu Hai Điền đã tạt lên mình, ông Bá Vạn gật đầu, nói giọng trầm trầm.
– Có lẽ là chuyện lạ. ‘‘Lạ’’ nhiều khi là may mắn…
– Hộ vệ đâu? – Ông Chúa nói gắt
Hai tên võ sĩ chạy đến khoanh tay chờ lịnh. Chúa Hòn như ray rứt, khó chịu, cứ trợn mắt nhìn xung quanh rồi quát to:
– Cái gì mà vỗ trống hoài! Đừng vỗ nữa.
Đột nhiên, ông từ giữ miễu chạy tới, mặt mày tái mét: – Chết rồi! Ông ơi! Cứu cô xác!
Ông Bá Vạn đứng dậy, hỏi kỹ:
– Cô chết rồi à? Ai giết cô?
Ông Chúa Hòn nói:
– Chỗ nào? Hộ vệ đâu, theo tao. Bọn nào dám tới đây, tụi bây canh phòng như vậy đó hả?
Bọn nhạc công hoảng sợ, đứng dậy và trong lúc mất bình tĩnh, anh chàng vỗ trống quơ tay đụng nhằm ngọn đèn trên bàn thờ.
Ngọn đèn ngã xuống, lửa bắt qua mớ chân nhang. Ông Chúa Hòn chạy ra sau miễu, hơn mười tên hộ vệ bao bọc chung quanh. Việc gì đã xẩy ra? Ông Bá Vạn cố gắng chạy theo, nài nỉ ông Chúa Hòn:
– Xin ông đừng tới bờ suối. Nếu kẻ gian bắt cô gái lên xác thì tôi… xé xác bọn nó. Ra ngoài đó nguy hiểm lắm.
Nhưng ông Chúa Hòn như say máu, như sợ sệt, như bị chạm tự ái:
– Đứa nào giết cô gái lên xác là đứa đó muốn xúc phạm tới tao! Quá lộng rồi sao chớ! Điềm gì vậy?
Đến bờ suối, ông Bá Vạn đứng tần ngần, mấy tảng đá bên bờ đều ướt mem, chứng tỏ rằng cô gái lên xác đã tắm gội tại đó và đã cựa quậy chống cự. Điều ngạc nhiên là hai tên hộ vệ đã mất dạng. Ông gọi to:
– Tụi bây đâu rồi?
Từ phía bụi rậm ở ngọn suối, có tiếng trả lời:
– Cứu tôi, cứu cô gái. Mau lên đây! Con rắn to lớn lắm.
Cả bọn đến nơi, dẫn đầu là ông Bá Vạn. Ông Chúa Hòn trố mắt, mặt mày tái mét:
– Chết rồi à! Con rắn đâu?
Cô gái lên xác đã tắt thở. Rõ ràng là con rắn hoặc con trăn đến quấn cô. Cô nằm đây, thân hình co quắp, chắc là xương sống bị gãy làm đôi. Hai tên hộ vệ thở hổn hển, tay cầm ngọn dao đỏ lòm, máu nhễu giọt lóng lánh ở mũi dao:
– Dạ, tụi tôi chặt được khúc đuôi con rắn…
Ông Chúa Hòn hỏi:
– Con rắn mất đuôi thì còn sống. Tụi bây không đem cái đầu rắn về cho tao thì ngày mai tao giết cả bọn!
Ông Bá Vạn van nài:
– Xin ông về nghỉ. Đây là chuyện thường lệ, rừng núi thiếu gì rắn độc, tắm ở bờ suối mà bị rắn hoặc trăn quấn, đâu có gì quan trọng…
Nhưng lời thuyết phục ấy không làm cho ông Chúa Hòn được yên tâm. Bọn hộ vệ la hoảng, đứng bao vây chung quanh:
– Cháy! Miễu bà Chúa Xứ cháy rồi!
Ông Bá Vạn ngại rằng sắp có chuyện bất lợi xảy ra nên mời ông Chúa Hòn xuống núi, về nhà lập tức. Tuy là độc tài, giàu tự tin, nhưng lần nầy ông Chúa Hòn đành ngoan ngoãn vâng lời ông Bá Vạn, để cho bọn hộ vệ cõng lên vai. Dân chúng ngơ ngác, xem việc miễu cháy là điềm ông Chúa Hòn sắp chết trong ngày rất gần.
Nằm dài trên chiếc ghe hầu, ông Chúa Hòn bắt đầu tỉnh táo khi bọn hộ vệ vừa chèo chống vừa báo cáo:
– Thưa ông, ngọn lửa đã tắt.
– Bá Vạn đâu? Ngồi gần ta cho ta vui. Tại sao ta cứ phập phồng, xung quanh ta có tiếng dậm chân rầm rập trên đất, như toán quân nào đông đảo lắm đang kéo tới? Mắt ta hơi mờ..
Bọn hộ vệ đưa chiếc ghe ra đến khoảng đồng trống, gió thổi hiu hiu. Lần hồi ông Chúa Hòn cảm thấy khoẻ khoắn, ngồi dậy dựa tay lên chiếc gối vuông:
– Dường như sắp xảy ra chuyện gì xui xẻo cho ta. Hai con cò vô nhà, rồi tới việc nầy. Cô gái lên xác nào có tội tình gì mà bỏ mạng? Ông xem sách tử vi nhiều, hãy bàn bạc thử cho ta nghe.
Tâm trí ông Bá Vạn hơi bối rối vì tình thế biến chuyển quá nhanh. Ông Chúa Hòn nếu chết bất ngờ thì cậụ Hai Điền thay thế. Cậu Hai Điền sẽ đuổi ông hoặc bày ra nhiều điều sĩ nhục khác, còn nặng nề hơn là tạt thịt kho và nước mắm.
Theo kế hoạch dự định thì ông Bá Vạn sẽ đem thằng Cẩu lên ‘‘ngôi’’ ông Chúa Hòn tương lai. Muốn sắp đặt cho ăn khớp nhịp nhàng thì cần một khoảng thời gian khá dài, ông Bá Vạn cần tiếp xúc vói Mười Hấu và thằng Cẩu. Năm nay Cẩu được 17 tuổi, chưa
hiểu tánh tình ra sao. Lại còn bài toán gay go hơn. Đó là giết khéo léo cậu Hai Điền để có lý do chánh đáng mà đem thằng Cẩu lên thế.
Bọn hộ vệ của ông Chúa Hòn tuy đông đảo nhưng dễ mua chuộc. Ông sẽ cho chúng nó tiền bạc, nhà cửa, đa số đều do ông tiến cử, hễ ông nói đúng lý thì chúng nó nghe ngay.
Ông Chúa Hòn chết.
Vài ngày sau là cậu Hai Điền chết.
Lập tức, thằng Cẩu được tôn làm ông Chúa Hòn.
Ba giai đoạn ấy tuy rời nhưng dính liền nhau, trong vòng ba ngày. Nếu chuẩn bị non kém, ông Bá Vạn sẽ bị giết về tay cậu Hai Điền. Bởi vậy, ông Bá Vạn nói khẽ:
– Theo tôi thì trên đời nầy có nhiều điều xui xẻo, nhưng do sự tình cờ.
– Không đâu! Phải chăng bọn nhạc công vô lễ với bà Chúa Xứ? Ông Bá Vạn gật gù lấy lệ:
– Ông nói có lý. Bà Chúa Xứ không ưa cái trống bịt da sấu ở dưới nước. Nhưng theo ý tôi thì có lẽ cô gái lên xác đã bị ô uế, bà nổi giận. Cô ta lén lút tình tự với cậu trai nào đó nên bà Xứ phạt. Tháng sau, tôi biểu ông từ giữ miễu chọn cô gái khác trinh bạch hơn.
Đến chiều, đoàn ghe về tới Hòn Chông. Khi lên bờ, ông Bá Vạn ra lịnh cho bọn hộ vệ không được đồn đãi về chuyện bất trắc đã xảy ra. Khi ông Chúa Hòn vào phòng nằm nghỉ, ông Bá Vạn về nhà riêng. Cậu Hai Điền đi săn mới về. Dưới sông, bọn thủ hạ hò hét ỏm tỏi vì uống rượu say mèm. Ông Bá Vạn ngồi trước cửa, trong bóng tối, để ngắm nghía khung cảnh.
Chiếc ghe chở cậu Hai trông thật quái dị. Trước mũi, sau lái đều có hai tên hộ vệ đứng thẳng người, cầm đuốc. Cậu Hai ngồi chễm chệ trên chiếc ghế nhỏ. Chiếc ghe lúc lắc qua lại mà cậu vẫn ngồi vững, tay nâng bầu rượu, ngực để trần.
Ổng Bá Vạn trù rủa lầm thầm:
– Nó mà làm ông Chứa Hòn thì ai mà chịu nổi! Nó bắt chước bộ điệu ông vua con, nhưng lại giống hệt một tên cường sơn thảo khấu.
Tiếng cậu Hai Điền vang lên lồng lộng:
– Con heo độc giác chưa tới số. Bữa nay, tao hơi say nên chưa giết được nó. Tao thề giết tất cả mấy con thú dữ ở Hòn Chông nầy. Tao là thần thánh, chưa bao giờ chịu thua loài súc vật. Nếu nó còn sống, đó vì là tao còn lòng nhơn đạo, phải không tụi bay?
Ban hộ vệ reo lên:
– Da, cậu nói phải!
Cậu Hai ngửa mặt nốc cạn bầu rượu, rồi quăng mạnh cái bầu lên sân nhà ông Bá Vạn. Ông Bá Vạn cúi đầu chua xót, vì dường như cậu Hai Điền cố ý so sánh ông với một loài thú. Cái bầu rượu không bể, lăn tròn rồi nằm sát gốc cây xoài.
Chờ khi đoàn ghe qua khỏi, ông Bá Vạn đứng dậy đến gốc cây mà lượm cái bầu, đưa lên mũi hửi. Lát sau, ông vào nhà, để cái bầu bên cạnh cái tráp, trên đầu nằm. Trong tráp, cái áo dính thịt kho và nước mắm còn đó, chưa giặt rửa.
Một người tá điền đến chào ông Chúa Hòn để trả nợ. Ông hỏi. – Chú ở đâu tới? Nghe thiên hạ bàn tán gì về ta không? Người nọ đáp:
– Dạ, từ Hòn Me giữa khoảng Hòn Me, và Hòn Đất. Con không nghe chuyện gì hết.
Câu trả lời ấy khiến ông Chúa Hòn vui vẻ và tươi tỉnh thêm lên. Như vậy là uy tín của ông chưa bị giảm sút thì vận ông còn đỏ. Ông hỏi thêm.
– Tại xóm chú mày, có gì vui không?
– Dạ, dân chúng làm ăn bình thường, ruộng nương tươi tốt, ai nấy đều mang ơn ông.
– Ta muốn cái gì vui, cái gì đặc biệt kìa!
Người nọ suy nghĩ mãi, chưa đóan được sở thích của ông Chúa. Chắc là ông ta muốn tìm gái đẹp. Nếu nói ra sớm, e phạm tội vô lễ. Trong xóm, mấy ngày rày thiên hạ bàn tán xôn xao về một chuyện nhỏ. Quỳnh hoa là loại cây ít khi trổ bông, bông trổ là điều may mắn cho gia chủ. Ấy thế mà trước nhà Tư Thính, bụi quỳnh hoa trổ một lượt bảy nụ nhỏ, bụi hoa ấy do cô Huôi chăm sóc, tưới nước hằng ngày. Cô Huôi là hoa khôi trong vùng.
Người tá điền bèn trả lời:
– Thưa ông, có bụi quỳnh hoa trổ ra một lượt bảy cái nụÔ Ồng Chúa Hòn hơi giựt mình:
– Thiệt sao? Nụ nhỏ hay nụ to? Trổ chưa? Ta xem kịp không? – Nếu ông tới trong ngày nay thì kịp.
– Ta tới bây giờ. Đừng đón rước long trọng, ta phiền lắm. Hôm nay, ta muốn ngắm đồng quê với núi non. Nếu vui thì ta chờ xem hoa nở.
Khi người khách ra về, ông Chúa Hòn lâp tức đến nhà ông Bá Vạn. Thấy ông Chúa Hòn đến thình lình với quần áo xuề xòa, ông Bá Vạn không được yên tâm; hay là cậu Hai Điền mét thót với ông Chúa để thanh toán ông? Nhưng nụ cười hiền hòa của ông Chúa đã làm cho ông Bá Vạn vững bụng. Ông Chúa ngồi xuống rồi khoát tay về phía hai tên hộ vệ:
– Tụi bây cứ về, đừng lo cho tao. Tao ở đây chơi. Lo sửa soạn chiếc ghe, đem theo rượu. Chừng nào muốn đi thì ta ra lịnh.
Ông Bá Vạn rót nước dâng cho Chúa Hòn. Ông Chúa nói khẽ: – Lại có điềm mới lạ, khó hiểu. Bá Vạn giải thích giùm ta. – Ông nói thử, từ sáng đến giờ, tôi ở nhà một mình.
Giọng nói của ông Chúa Hòn trở nên rắn rỏi, lạc quan: – Đêm nay ta đi chơi, về phía Hòn Đất.
Hòn Đất và Hòn Me là hai vị trí gần nhau, khoảng giữa là cánh đồng khá phì nhiêu, dân chúng sống bằng nghề ruộng và nắn nồi đất. Ông Bá Vạn hơi e ngại:
– Hôm qua, ông tới miễu bà Chúa Xứ gặp chuyện rắc rối. Hôm nay, tốt hơn là đi nơi khác, xa miễu. Hay là ông được tin tức gì về cô gái xác?
Ông Chúa Hòn lắc đầu:
– Cô gái lên xác đã chết, miễu bà Chúa Xứ bị cháy, đó là chuyện cũ, xui xẻo. Nhưng bù đắp lại, ta gặp chuyện may mắn hơn, ở chỗ cách đó không xa, sát chân Hòn Đất. Nầy, Bá Vạn biết bông quỳnh hoa không?
Ngón tay ông Bá Vạn chỉ ra ngoài sân. Bụi quỳnh hoa mọc xanh um, từng lá to gắn liền xuống đất, xòe ra:
– Dạ, tôi trồng từ ba năm nay mà chưa thấy trổ bông lần nào cả. Năm ngoái, hòa thượng chùa Phước Vân mời tôi xem hoa nở, hoa đẹp lắm. Hòa thượng bảo rằng nhà ai có quỳnh hoa nở là điều may mắn. Hoa trắng mà to, thơm ngát, nở lúc ban đêm, đến hừng sáng tàn rụng. Ba năm, tôi chờ đợi mãi mà chưa thấy nụ nào.
– Bá Vạn nói sao? Quỳnh hoa nở là điềm may, hiếm có? – Dạ, ai cũng nói vậy.
– Bá Vạn thấy một bụi quỳnh hoa trổ một lượt mười nụ không? Mười nụ hoa trổ trong một đêm. Đó là điềm gì?
– Dạ, đó là đại phước cho cả vùng nầy. Có thật hay không?
– Ở Hòn Đất, mau đi với ta để xem hoa nở. Hòn Me là nơi ta gặp chuyện xui xẻo với cô gái mất xác vì rắn độc, thì Hòn Đất là nơi mà ta gặp may mắn. Đời có vậy mới vui chớ.
Lát sau, bọn hộ vệ chèo chiếc thuyền nhỏ đi trước. Ông Chúa Hòn và Bá Vạn ngồi trong chiếc thuyền to theo sau. Mặt trời vừa xế. Phía chân trời, hàng chục cụm khói bốc lên. Đó là mấy cái sân đốt nồi đất. Lúc cao hứng, ông Chúa Hòn lẫm bẩm:
– Hòn Me, Hòn Đất, Hòn Chông đều là giang san của ta, phải không Bá Vạn!
Ông Tư Thính phập phồng khi hay tin Chúa Hòn sắp đến viếng nhà. Ông gọi đứa con gái thân yêu:
– Huôi ơi! Mau quét dọn nhà cửa.
Mười mấy năm trôi qua khiến Huôi trở nên mạnh khỏe, thêm tươi đẹp. Hôm nào, cô còn là đứa bé ranh mãnh nghèo nàn, suốt ngày quanh quẩn trước sân. Giờ đây, cô nổi danh là hoa khôi trong vùng, dáng điệu khoan thai. Bọn trai làng không thích cô lắm. Họ bảo rằng cô quá kiêu căng.
Ông Tư Thính đội nón lên, nói với lại:
– Lát nữa ba về. Con ở nhà, đừng đi vắng!
Đóan chừng có chuyện quan trọng sắp xảy ra, cô Huôi hỏi: – Thưa ba, hôm nay khách nào tới nhà?
Ông Tư Thính giựt mình, kiêu hãnh vô cùng vì rõ ràng con gái ông có thiên tư, biết đóan xa, gần đúng sự việc. Phải chăng tương lai nó sẽ rạng rỡ, sau cuộc viếng thăm nầy? Ông trả lời nhanh:
– Một ông khách quan trọng.
– Nếu khách tới, con trả lời sao?
– Con chớ lo xa. Ba về bây giờ.
Lập tức, ông Tư Thính đến gặp ông đạo Đất trong thảo am. Ông đạo ung dung uống rươu. Cái tật uống rượu nầy bị dân chúng chê trách nhưng ông đạo trả lời bình thản rằng rượu do nếp sinh ra, nếp do đất sanh ra. Uống rượu thì thích hợp với ý nghĩa ” Đất” do ông đề xướng.
Uống quá nhiều rượu, ông đạo Đất ngả lăn trên giường. Khi thấy Tư Thính đến, ông đạo lồm cồm ngồi dậy rót thêm rượu nữa.
– Ủa! Sao trở lại đây? Lo dọn dẹp nhà cửa cho mau. Tôi nói ông Chúa Hòn sắp tới: Đừng để trễ.
Ông Tư Thính hỏi:
– Nếu ông Chúa Hòn tới, tôi ăn nói chuyện gì cho hợp tình hợp cảnh? Chắng lẽ tôi khoe đứa con gái đẹp rồi năn nỉ ông Chúa để dâng cho ông?
Ông đạo Đất cười dòn:
– Con Huôi đã tới lúc trở thành bà Chúa rồi. Rốt cuộc tất cả mọi người đều theo cái đạo lớn, do Đất sắp đặt trước. Đất sanh ra bụi quỳnh hoa. Đất nuôi dưỡng con mãng xà vương hồi năm xưa. Ông Tư thấy tôi là thánh sống không! Mười mấy năm trước, rắn quấn con Huôi, tôi nói là điềm tốt. Bây giờ là sự việc bày ra nhãn tiền.
Ông Tư Thính vẫn thắc mắc:
– Hồi sáng, không hiểu ông già Chót nói gì với ông Chúa?
– Tôi gặp ông già Chót rồi, ổng nói chuyện bụi bông quỳnh hoa, nhờ vậy mà lát nữa ông Chúa tới. Nay mai, nếu cô Huôi trở thành bà Chúa thì nên nhớ khen thưởng ông già Chót. Ổng lên núi rồi. Ông Tư cứ trả lời bình tĩnh, rồi có quới nhơn giúp đỡ. Hàng chục người đang sẵn sàng nịnh bợ ông.
– Phải chi ông tới nhà tôi để trả lời khi ông Chúa Hòn hỏi những câu ngặt nghèo, thí dụ như tại sao bông nở mười nụ một lần.
Ông đạo Đất cau mày:.
– Tôi lại đó là hư chuyện, vì ông Chúa Hòn nghi ngờ rằng đây là viêc giả tạo, sắp đặt từ trước. Khi nào cần thì ông Chúa Hòn phải tới cái cốc nầy hoặc mời tôi. Ông cứ về. Đừng lo gì hết.
Khi về tới nhà, ông Tư Thính gặp hai người lực lưỡng đứng trước sân. Ông biết ngay đó là bọn hộ vệ, nên hỏi giả vờ:
– Chào mấy cậu! Chắc là ông Chúa Hòn…
– Phải vậy đó. Nhưng mà ông đừng lo xa.
– Ông Chúa tới, tôi phải lo rượu thịt, trà tươi để đón rước. Rủi bề gì ổng giận, năm sau cha con tôi không có đất cày cấy. Nhà nghèo, mấy cậu hiểu, châm chế giùm.
Ông Tư Thính đến sân, nhòm lại kỹ bụi quỳnh hoa. Đôi ba chục lá dài, xanh tươi như lưỡi kiếm vươn lên. Ồng đếm kỹ tất cả đúng mười nụ còn búp, nhứt định là đêm nay hoa nở rộ một lượt. Ông gọi:
– Huôi ơi! Lát nữa ông Chúa Hòn đến, con nên chào hỏi lễ phép. Ông dạy điều gì, con nên vâng lời, cúi đầu vui vẻ. Thời vận đã tới. Nhờ Trời Phật, năm nay gia đình mình gặp may mắn, ba được khỏe thân mà con thì hiển vinh.
Cô Huôi nói giọng kiêu hãnh:
– Con ăn mặc như vầy được không? Chưng diện quá mức, mặc quần áo mới thì không ích lợi gì, người ta cho rằng gia đình mình cầu cạnh.
“Đúng là, câu nói của một… bà lớn’’. Ông Tư Thính tin tưởng rằng nhan sắc đứa con gái thân yêu sẽ làm hài lòng, nếu không làm chóa mắt ông Chúa Hòn.
Ông căn dặn thêm:
– Lát nữa, con nên nói thật ít cho thiên hạ nể nang.
Cô Huôi liếc ra sân, nói khẽ với cha:
– Họ tới rồi kìa. Cha đừng lo. Con không nói bất cứ tiếng nào hết, như vậy họ mới kính trọng.
Ông Chúa Hòn lên bờ nhanh nhẹn, trong khi ông Bá Vạn chậm chạp hơn, đưa tay cho tên hộ vệ níu mạnh. Ông Chúa Hòn hỏi:
– Đây hả? Bụi quỳnh hoa ở đâu? Chủ nhà là ai? Tối nay bông quỳnh hoa nở thì còn gì may mắn cho bằng.
Đứng trước thềm nhà, ông Tư Thính chắp tay, nghe rõ lời ông Chúa Hòn nhưng Tư Thính dành quyền trả lời cho bọn hộ vệ. Bá Vạn đến gần Tư Thính, nói khẽ:
– Tôi giúp ông phen nầy. Nên chiều chuộng ông Chúa Hòn bằng mọi cách. Ra sân mà nói chuyện. Hôm nay, ông Chúa vui lắm.
Tư Thính cúi đầu thật sâu:
– Mấy thuở ông tới, nhà nghèo không tiếp đãi trọng thể, xin ông tha thứ cho. Bụi bông nầy do con gái tôi trồng nở được mười nụ. Thật may mắn cho tôi, ông Chúa đến đúng lúc.
Ông Chúa Hòn liếc sơ bụi quỳnh hoa, thấy hàng chục nụ đeo lủng lẳng, từ nách lá nẩy ra: Nhưng ông muốn tò mò để hiểu việc khác:
– Hoa nở rộ như vầy, mười năm chưa ắt có một lần. Hoa do con gái chú trồng. Cô đó đâu rồi?
– Dạ, con nhà nghèo nên nãy giờ chưa dám trình diện với ông. Xin mời ông vô nhà.
Bá Vạn kéo cái ghế, phủi bụi đôi ba lần rồi kính cẩn. – Mời ông Chúa.
Trong khi đó,Tư Thính chạy vào nhà trong. Cô Huôi vẫn bình thản lụm củi vào bếp, lo bữa cơm chiều. Tư Thính nói:
– Huôi! Ra chào ông Chúa.
Cô Huôi đáp:
– Ba ra trước, con ra sau.
Ông Chúa Hòn hơi nóng nảy nhưng còn giữ chút thể diện, ông ra lịnh cho bọn hộ vệ:
– Đem rượu với đồ ăn lên đây! Uống rượu mà xem hoa nở thì còn gì cho bằng.
Cô Huôi bước chậm rãi, ông Bá Vạn thấy trước, lấy làm đắc ý vì gương mặt cô gái trẻ nầy vừa đẹp, vừa kiêu hãnh. Nếu cô Huôi được về với ông Chúa Hòn thì Bá Vạn sẽ thêm vây cánh, ăn thua với cậu Hai Điền và bà chánh thất. Bá Vạn lên tiếng:
– Thưa ông, con gái Tư Thính đây.
Ông Chúa Hòn sửng sốt, há miệng. Dè đâu ở chốn quê mùa hẻo lánh nầy lại có người đẹp tuyệt trần vóc đáng cao ráo, nước da trắng mịn, trán cao, môi đỏ như thoa son, hai tay thật dài, gần chấm đầu gối. Ông nói:
– Tuyệt đẹp. Tên gì?
Cô Huôi liếc về phía Tư Thính:
– Thưa ba…
Tư Thính đáp:
– Thưa ông, nó tên Huôi, mười bảy tuổi, mẹ nó mất sớm. Nó trồng bụi quỳnh hoa nầy mười năm rồi, hồi nó mới được bảy tuổi. Đây là lần đầu tiên mà bụi quỳnh hoa nở.
– Lại gần đây!
Cô Huôi đến gần ông Chúa Hòn. Ông ngây ngất, dường như mùi thơm của da thịt cô gái bay ra thoang thoảng. Nếu vắng người thì ông ta đã ôm ghì miếng mồi ngon ấy vào lòng. Nhưng đây là nơi đông người, ông muốn kiên nhẫn chờ đợi. Ông muốn tìm nơi người đẹp một nguồn sinh lực mới để bù trừ vào những điều xui xẻo đã xảy ra liên tiếp.
– Đẹp lắm!
Cô Huôi hiểu ngầm rằng ông Chúa Hòn đã bị chinh phục. Cô nhìn thẳng vào ông Chúa Hòn không chớp mắt. Và ông Chúa đã cúi mặt xuống như e thẹn.
Tất cả chi tiết đều được Tư Thính và Bá Vạn thấy rõ, hiểu rõ. Như thế là họ thành công được chín phần mười.
Ông Chúa Hòn muốn thay đổi không khí nên đứng dậy: – Ta ra xem hoa trước khi nó nở.
Rồi ông nói tiếp như yêu cầu cô Huôi:
– Ra đây cho vui. Tánh ta dễ dãi lắm.
Bá Vạn ra sân, đến gần bụi bông. Nhưng ông ta lại chạy trở vô nhà, đem cái ghế ra, để xuống:
– Xin mời ông Chúa ngồi!
Ông Chúa Hòn nào thiết gì đến bụi hoa nữa. Hình ảnh người đẹp cứ chập chờn, ông day qua day lại như sợ cô Huôi đi mất. Cô Huôi đứng yên, oai vệ vô cùng, ông Chúa nói :
– Cô gái ngồi ghế. Gái đẹp ngồi gần hoa đẹp, còn gì hơn!
Bá Vạn lại lính quýnh, chạy vô nhà đem cái ghế thứ nhì ra cho ông Chúa Hòn ngồi. Để tăng thêm phần long trọng cho buổi chiều nhiều ý nghĩa nầy, Tư Thính đi vòng ra sau hè, múc một thùng nước lạnh. Ông đem ra, để gần đứa con gái rồi nói với ông Chúa Hòn:
– Xin phép ông cho tôi tưới bụi quỳnh hoa để đêm nay nó nở đều, để nó thơm tho hơn.
Ông Chúa cười hề hề:
– Cô gái tên gì? Ta nghe tên cô là Huôi, Huôi là hoa, nói theo tiếng Triều Châu. Người đẹp tên Hoa tưới đóa hoa đẹp thì mới thích ý ta.
Lần nầy, cô Huôi vẫn im lặng, trên môi nở nụ cười kín đáo. Dụng ý của cô là dò xét cho biết ông Chúa si mê đến mức nào.
Đúng như dự đóan của cô, ông Chúa Hòn đứng dậy, đến gần thùng nước:
– Vậy thì ta tưới trước. Chắc cô gái muốn giữ lễ phép.
Hai tên hộ vệ khúm núm nâng cái thùng bằng cây và trao cho ông Chúa cái gáo dừa. Ông múc một gáo đầy, tưới ngay gốc bụi quỳnh hoa, tưới thật chậm với nụ cười tươi rói.
Nãy giờ, Tư Thính phập phồng vô cùng, lỡ con gái ông nói ra điều gì quá đáng thì tình cảm ông Chúa sẽ bị sứt mẻ. Bá Vạn tin rằng cô Huôi đã làm đẹp lòng ông Chúa, nếu cô được chọn làm vợ thứ thì rồi đây kế hoạch sẽ thành công, Bá Vạn lần lượt giết ông Chúa Hòn rồi giết cậu Hai Điện. Cô Huôi mặc nhiên là nhân vật quan
trọng nhất. Bà chánh thất, mẹ ruột cậu Hai Điền là chướng ngại không đáng kể. Con chết rồi thì mẹ đâu còn thế lực. Vả lại, bọn hộ vệ chưa ắt còn trung thành với bà ta.
Bá Vạn gây cảm tình và lập công với Tư Thính:
– Chú Tư thấy chưa? Ông Chúa tưới bụi hoa, tưới chậm rãi. Lần đầu tiên trong đời, ông chịu làm công việc tầm thường đó. Tôi cầu mong cho cô Huôi gặp nhiều may mắn. Sau nầy, nếu cô Huôi trở thành người quyền thế, chú Tư đừng quên lão già Bá Vạn nầy.
Tư Thính đáp với lòng thành thật:
– Làm cha, ai không muốn cho con cái nên danh phận. Dám mong ông giúp giùm. Cháu gái còn khờ khạo lắm. Ơn ông tôi nào dám quên. Tôi chỉ muốn có ngôi nhà nhỏ, sống rảnh rang dưỡng già, khỏi vất vả cày bừa.
Như vậy là Tư Thính chẳng muốn theo đứa con gái để rút rỉa tiền bạc hoặc gia tài ông Chúa Hòn để lại, Bá Vạn thầm mừng :
– Dịp may đã đến…
Nhớ đến ông đạo Đất, người dàn cảnh tài tình của cuộc gặp gỡ nầy, Tư Thính gợi ý:
– Ông đạo Đất giúp gia đình tôi. Hồi mười năm trước ông đóan được vận mệnh con Huôi…
Bá Vạn sáng mắt lên. Đã từng phục vụ ông Chúa Hòn nhiều năm, Bá Vạn hiểu tâm lý đám bần dân. Đa số đều ham tiền bạc, ruộng đất, danh vọng trong làng xóm. Ông đạo Đất phải là kẻ ham danh vọng, ham hơn ai hết.
– Ông đạo Đất ở gần đây không? Tôi muốn tới thăm với ông Chúa Hòn.
Tư Thính chưa trả lời kịp thì giựt mình, vì ông Chúa Hòn cười lên sặc sụa:
– Mỹ nhân cứ tưới bụi hoa nầy cho nó mau nở. Tưới bằng rượu được không? Đem ra đây vài bầu ruợu quý. Ta uống cho say sưa.
Cô Huôi nâng bầu rượu, tưới xuống theo lời thỉnh cầu của ông Chúa Hòn. Ông Chúa khen ngợi:
– Bàn tay yểu điệu quá. Lát nữa, cô ăn cơm với ta. Cô chưa ăn cơm mà!
Bá Vạn đánh trúng vào tâm lý của ông Chúa Hòn:
– Nhà chật chội, xung quanh còn nhiều kẻ tò mò, nên tìm chỗ nào yên ấm hơn, theo ý tôi thì nên bày tiệc ở dưới ghe hầu!
Ông Chúa Hòn quên tất cả những xui xẻo trong mấy ngày qua, ông muốn làm lại cuộc đời mới, sống những phút tươi trẻ, cuồng bạo:
– Phải rồi. Lát nữa, cô gái xuống ghe với ta..
Cô Huôi e thẹn, từ chối nhiều lần:
– Dạ, không dám.
Tư Thính nói khẽ:
– Con nên làm vừa lòng ông Chúa. Hàng ngàn cô gái ao ước được may mắn như con, vậy mà Trời Phật không giúp họ. Nãy giờ, con nói ít là phải. Đã đến lúc con nô đùa… cho tự nhiên để trở thành bà Chúa Hòn. Không khó đâu. Ông Bá Vạn hứa giúp đỡ gia đình ta.
Ông Chúa Hòn xuống chiếc ghe hầu. Cô Huôi bước chậm rãi theo sau, trong lúc trời sụp tối. Cô đến mũi ghe, nũng nịu:
– Chờ hoa nở rồi hãy uống rượu.
– Khuya nay, hoa mới nở. Trước khi hoa nở thì cô xuống đây cho vui. Cô là đóa hoa hiếm có, một đóa trị giá bằng mười đóa.
Bọn hộ vệ đốt hai ngọn đèn sáp, bày rượu thịt ra rồi từ từ rút lui lên bờ. Chúng hiểu ngầm rằng ông Chúa Hòn muốn đùa giỡn với cô gái nõn nà. Uống rượu vào thật say, ông sẽ hóa ra con thú dữ. Nếu thấy ai thấp thoáng đứng gần, ổng trừng phạt gắt gao. Chưa chi ông đã đổ rượu vào ngực người đẹp. Cô Huôi cứ van nài:
– Lạnh lắm. Em chưa quen uống rượu.
Lập tức, ông Chúa Hòn mở cái tráp nhỏ, đem ra gói giấy đỏ. Cô Huôi trố mắt nhìn:
– Thưa ông…
– Nàng đừng ngại, đây là loại thuốc quý dành riêng cho ta với nàng. Nhân sâm, nàng xem kỹ. Nàng ngậm trong miệng, thủng thẳng hãy nhai nhỏ. Thuốc trường sinh mà. Nhờ đó mà nàng luôn luôn trẻ đẹp, thức suốt đêm không mệt, uống rượu nhiều không biết say. Đói thì ăn. Mệt thì nằm xuống…
Để cho cô Huôi được yên tâm, ông Chúa Hòn đẩy cánh cửa nhỏ bên hông chiếc ghe, gọi to.
– Bá Vạn đâu?
Bá Vạn chạy đến gần, chắp tay thưa:
– Ông Chúa dạy điều gì?
– Chừng nào hoa quỳnh gần nở hãy gọi ta. Ta đang vui dưới nầy. Bảo bọn hộ vệ đứng xa. Người đẹp còn e thẹn…
Bá Vạn và Tư Thính đứng trên sân nhìn về chiếc ghe hầu. Ông Chúa Hòn cười dòn từng chập. Tư Thính hỏi:
– Rồi con gái tôi sẽ về ở với ông Chúa? Tôi sợ nửa chừng, ông đuổi con tôi về, uổng đời con gái.
– Tôi hứa là có. Chú Tư biết không! Xưa nay ông Chúa gặp nhiều cô gái đẹp nhưng chưa bao giờ si mê như vậy. Dầu gì đi nữa ông ta cũng giữ thể diện, không muốn cho người đời hiểu rằng ông ta háo sắc. Hôm nay quả thật ông ta bị nhan sắc lôi cuốn.
Tư Thính vẫn chưa yên tâm:
– Ông Chúa tin thời vận, tin điềm may rủi hay không? Bá Vạn hỏi:
– Ông đạo Đất mà chú nói lúc nãy ở gần hay xa?
– Gần lắm! Để tôi mời lại đây. Nhưng làm thế nào cho ông Chúa tin ông đạo Đất?
Bá Vạn cười dòn:
– Thế gian nầy, chưa ai mê tín dị đoan bằng ông Chúa Hòn. Tôi tìm cách nói khéo để ông Chúa đích thân tới gặp ông đạo Đất. Ông đạo tới đây là hư mọi việc. Chú sao khờ khạo quá!
Tư Thính chạy nhanh đến cốc, đánh thức ông đạo Đất.
– Ông ơi! Rảnh chưa? Nên thức tới khuya để chờ ông Chúa Hòn. Ông Bá Vạn đồng ý rồi. Nếu ổng chưa tới, ông ráng coi giùm một quẻ. Hôm qua, ông Chúa gặp chuyện xui xẻo như thiên hạ đồn đãi, ông nghe chớ?
– Miễu bà Chúa Xứ bị cháy. Cô gái lên xác bị trăn quấn mất xác. Tư Thính nói khẽ:
– Lúc coi quẻ, ông cứ nói rằng… nếu ông Chúa Hòn chọn con Huôi làm thứ thất, thì tương lai ông được bảo đảm, bao nhiêu điều xui xẻo đều tan mất.
Ông đạo Đất vẫn nằm dài, nói giọng nhừa nhựa:
– Đừng lo. Tôi sẽ nói nhiều chuyện lạ lùng hơn nữa. Miễn là chú Tư làm cách nào khuyên nhủ con Huôi. Nó là gái tơ, nhiều khi bực bội khi sống với chồng già. Rồi đây, khi ông Chúa Hòn mãn phần, nó tha hồ tìm người chồng khác đẹp đẽ, trẻ trung hơn. Đẹp như nó, có thêm tiền bạc trong tay thì mặc sức lựa chọn. Miễn là nó đừng quên tôi.
Để chứng tỏ rằng mình sành tâm lý, Tư Thính chống tay nói nghiêm nghị:.
– Công việc được trôi chảy tới ngày giờ nầy là nhờ ông sắp xếp khéo léo. Con Huôi sẽ cúng cho ông một kiễng chùa tốt đẹp, sơn son thiếp vàng…
Như không màng đến lợi danh, ông đạo Đất nói qua chuyện khác:
– Con Huôi… xuống ghe ông Chúa Hòn chưa?
– Nó xuống từ nãy giờ. Chắc là ông Chúa Hòn thích ý.
– Vậy là điều may mắn. Ông Chúa ít khi nào nóng nảy như vậy. Thôi, chú Tư cứ về nhà, để mặc tôi. Lát nữa, tôi ngủ một giấc, giả vờ như bất chấp thế sự. Làm như vậy, ông Chúa mới thán phục và tin lời lôi.
Khi Tư Thính trở lại nhà thì ông Bá Vạn ngồi sẵn trước sân, nhìn kỹ bụi quỳnh hoa. Bá Vạn giựt mình day lại:
– Xong chưa? Nãy giờ tôi chờ ông. Ông coi kỹ, dường như nó gần nở rồi. Làm gì mà lâu vậy?
Sau khi nghe rõ những gì đã bàn bạc tại cốc ông đạo Đất, Bá Vạn gật gù:
– Ông đạo nầy tài tình thiệt. Chú Tư coi kỹ. So với lúc ban chiều thì mấy nụ quỳnh hoa to lớn gấp đôi. Cuống bông như kéo dài ra, mọc từ nách lá, mỗi lá dày và dài ăn rễ vào đất, giống như lá thơm, lá xương rồng. Búp hoa căng đầy, lớn bằng ngón chân cái, bốn cái lá dài màu xanh bao học chung quanh, mấy cánh hoa trắng còn gom lại, he hé.
Mấy tên hộ vệ xúm lại gần, có đứa thử đưa tay ra để rờ mó nụ hoa. Ông Bá Vạn nói gắt:
– Tụi bây muốn chết sao chớ! Quỳnh hoa nầy dành riêng cho ông Chúa thưởng thức.
Tư Thính bèn giải thích để xoa dịu lòng tự ái của bọn hộ vệ. Dầu sao đi nữa, giờ phút nầy chú là bần dân, không quyền hạn gì, trong khi bọn hộ vệ được ông Chúa Hòn tin cậy hơn:
– Quỳnh Hoa khó trồng lắm, mấy chú à.. Hễ rờ mó thì nó chai, nở không lớn, không tròn. Hôm nay ông Chúa muốn gặp chuyện hên. Rủi trong mười bông mà có một bông lép thì ổng giận.
Bá Vạn thúc giục:
– Gần nở rồi
Chú Tư Thính đáp:
– Chưa đâu, mấy lá dài màu xanh chưa hé ra thì mấy cánh trắng ở trong còn cuốn tròn. Để cho ông vui say.
Bá Vạn lầm bầm, khoát tay để ra lịnh cho bọn hộ vệ ra xa, đừng nghe lóm được cơ mưu:
– Chú Tư ơi! Bọn đàn ông mau chán bất cứ món ngon nào. Nên mời ông Chúa lên đây xem hoa nở. Rủi hoa nở quá thì sao? Ông Chúa sẽ bực tức, nhưng cô Huôi còn đó. Vì bực tức nên ổng sẽ mời cô Huôi về nhà, càng gần gũi, ổng càng thấy nhiều nét đẹp kín đáo khác.
– Vậy thì ông Bá Vạn cứ ra lịnh. Tôi nào có quyền hạn gì mà sai khiến bọn hộ vệ.
Bá Vạn nhìn xuống con rạch. Chiếc ghe hầu còn đó, ánh đèn bên trong chiếu leo lét, nước chảy hơi mạnh, chiếc ghe nghiêng qua nghiêng lại chòng chành. Cửa mui sau lái vụt mở. Ông Chúa Hòn chun ra, hát nghêu ngao không đúng bài bản nào cả:
– Anh hùng tử …ư ư…khí hùng nào tử…ử!
Bá Vạn mừng thầm vì rõ ràng ông Chúa Hòn gần đến ngày chết bất đắc kỳ tử, “cô hồn” xúi giục ông ta nhắc nhở mấy tiếng “tử” chớ gì! Bá Vạn ra lịnh cho bọn hộ vệ:
– Tụi bây mời ông Chúa lên bờ, bông quỳnh hoa gần nở rồi! – Ổng say rượu, tôi không dám mời, ông tới mời dễ hơn.
Lập tức, Bá Vạn đến bờ rạch, đứng cách xa ông Chúa Hòn chừng năm bảy bước, ấy thế mà ông Chúa như không trông thấy gì cả. Miệng ông Chúa phun phèo phèo như say rượu, buồn nôn. Ông Chúa đến lái ghe, nhổ cây sào. Lần thứ nhứt, nhổ không xong, ông hơi giận:
– Mầy là cây sào! Cây sào là…cao sầy.
Rồi ông hè hụi, khom lưng nhổ lần thứ nhì. Cây sào tuột lên. Vì dùng quá nhiều sức lực nên ông Chúa tự kềm chế không kịp, suýt té
xuống rạch. Chiếc ghe lại chòng chành, suýt chìm. Từ trong mui, cô Huôi kêu la:
– Cho tôi lên bờ, dưới nầy nực lắm.
Ông Chúa Hòn đáp:
– Nực hả! Đó là vì say ruợu, say tình. Bởi vậy, ta nhổ sào, cho chiếc ghe nầy trôi tới chốn….bồng lai tiên cảnh. Bồng lai tiên cảnh giống như …tiên cảnh bồng lai, nói tới nói lui cũng vậy thôi. Phải không ái khanh! Nãy giờ ta mới đi một chặng đường, còn nhiều chặng nữa, thơm tho kỳ lạ hơn. Chưa tới tiên cảnh mà! Ừ, tiên cảnh như cảnh tiên…
Bọn hộ vệ lắc đầu vì nếu can gián thì sẽ bị ông Chúa quở mắng. Bá Vạn nhìn cô Huôi rồi làm dấu hiệu, chỉ tay về phía bụi quỳnh hoa. Trong lúc chiếc thuyền trôi nhanh về phía vàm rạch, cô Huôi nói to:
– Ông ơi! Em muốn điều nầy.
Ông Chúa Hòn hỏi:
– Điều gì? Miễn là tới chốn bồng lai tiên cảnh, hôm nay ta uống rượu nhiều mà cớ sao ta không say.
Cô Huôi đáp:
– Em đưa ông tới chốn bồng lai tiên cảnh, hoa nở thơm tho, ngàn năm mới có một lần. Bụi quỳnh hoa gần nở rộ rồi.
– Em là nụ quỳnh hoa muôn màu muôn sắc…
– Nhưng bụi bông đó quý lắm, do em chăm sóc từ mấy năm nay. Ông lên bờ với em, xem hoa rồi hãy trở xuống ghe nầy. À, làm sao lên bây giờ?
Bá Vạn lên tiếng kịp thời:
– Hộ vệ đâu? Tụi bây lội xuống rạch, kéo chiếc ghe vô bờ rồi câu tay lại làm cái kiệu rước ông Chúa xem hoa.
Cô Huôi nói chêm vào:
– Ông lên trước, em lên theo ông.
Lúc ban đầu, ông Chúa Hòn ra lịnh đốt đuốc để xem hoa. Nhưng ông Bá Vạn đã nịnh bợ khéo léo khuyên bọn hộ vệ nên đốt một ngọn đuốc mà thôi. Ánh đuốc và hơi lửa có thể làm cho hoa quỳnh nở quá nhanh, mất đẹp. Ông Chúa Hòn gật gù.
– Nở nhanh thì không đẹp, phải không cô em? Sao cô em chưa trả lời! Cô em là đóa hoa nở, càng nở càng đẹp.
Hai cái ghế nhỏ được nhắc tới, sát bụi bông. Gió thổi rì rào, mấy nhánh hoa đong đưa, mỗi nụ trắng chiếu ngời như một viên bạch ngọc. Như còn quyến luyến hương vị tình yêu, ông Chúa nói:
– Đem rượu cho ta. Ta uống rượu, ngồi trên chiếc chiếu dưới đất là sung sướng rồi. Thưởng hoa mà ngồi trên cao thì không thích. Cô em rót rượu cho ta uống thêm, ngồi bên cạnh ta.
Uống xong bầu rượu, ông Chúa Hòn bèn nằm lăn. Cô Huôi cau mày, ngồi bên cạnh. Ông Chúa lẩm bẩm:
– Cô em không nằm thì ta nằm “dựa đất” một mình vậy. Chà, hoa nở đẹp quá. Mấy người thấy chưa?
Cả bọn hộ vệ đến bao vây bụi hoa. Lá quỳnh hoa nghiêng xuống từ từ, dường như trong phút giây thần diệu ấy, tất cả tinh hoa của trời đất, bao nhiêu gió trăng, bao nhiêu sương tuyết đều gom lại làm cho nụ hoa nặng thêm. Ai nấy há miệng, ngạc nhiên. Năm cánh hoa từ từ nở tung ra, mùi thơm bay ngào ngạt, cánh hoa màu trắng tuyết. Khi nở được hơn phân nửa, mấy cánh như ngừng cử động trong giây phút, để hé mấy cọng nhụy vàng. Sau phút giây ấy, mấy cánh hoa chuyển mình, nở toé ra thật nhanh, như bàn tay xoè ra.
Tất cả đều buột miệng:
– Ồ! Trời đất có nhiều chuyện lạ…
Một tên hộ vệ nói:
– Hồi nhỏ tới từng tuổi nầy, tôi mới thấy quỳnh hoa nở lần đầu tiên trong đời. Thơm quá, để tôi hửi thử!
Trong khi ấy, ông Chúa ghì mạnh cho cô Huôi nghiêng mình xuống:
– Nàng là một đóa quỳnh hoa, là mười đóa quỳnh hoa.
Bá Vạn và Tư Thính nhìn nhau. Khi hoa nở là hết chuyện mầu nhiệm rồi. Nếu không thực hiện kế hoạch thì lát nữa ông ta sẽ xuống chiếc ghe hầu để bày trò ân ái. Bởi vậy Bá Vạn nói to:
– Thằng hộ vệ kia! Đừng hỗn láo. Ai dạy mầy lại gần? Đây là điềm may mắn của riêng ông Chúa. Muốn ăn đòn sao chớ? Ai dạy mầy phạm thượng…
Ông Chúa Hòn trợn mắt:
– Cái gì vậy Bá Vạn? Đứa nào phạm thượng?
Bá Vạn day qua tên hộ vệ, nói khẽ:
– Mầy ráng chịu nhục, sau nầy tao khen thưởng.
Rồi Bá Vạn quơ tay, tát mạnh vào mặt tên hộ vệ:
– Đi chỗ khác! Mầy ở đây làm xui xẻo.
Ông Chúa Hòn vẫn còn bị ám ảnh về chuyện hai con cò trắng vào nhà và chuyện cô gái lên xác, nên quát to:
– Bá Vạn! Tha tội cho nó đi. Mười nụ hoa nở một lượt là điềm may mắn của ta!
Dịp may để Bá Vạn bắt đầu dàn một cảnh khác:
– Thưa ông, bụi hoa quý báu nầy do chú Tư Thính làm chủ. Nên hỏi chú Tư là người có may may mắn hơn thiên hạ trong xóm nầy…
– Chú Tư! Theo ý chú là ta gặp dịp hoa nở hôm nay là điềm may mắn chớ? Cơ nghiệp ta sẽ vững bền chừng mấy ngàn năm?
Tư Thính đáp:
– Thưa ông, tôi là kẻ quê mùa tới đây lập nghiệp. Hễ gặp điềm lạ thì tôi nhờ ông đạo Đất bàn giải giùm. Ông đạo là người kỳ tài.
– Đạo Đất! Cái tên nghe ngộ quá.
Rồi ông Chúa hỏi cô Huôi:
– Đạo Đất là ông đạo như thế nào vậy em?
Cô Huôi đáp:
– Dạ, ông đạo đó chẳng màng tiền bạc danh vọng gì hết, cứ nằm trên đất mà ngủ, bất chấp giường chiếu. Xưa kia mấy nhánh quỳnh hoa nầy do ổng cho, em đem về trồng.
– Vậy thì ta đến gặp ông đạo Đất. Gần hay xa? Trong vùng nầy thiếu gì nhân tài, vậy mà ta không biết. Bá Vạn tệ quá! Đưa ta tới đó. Đi bộ hay đi ghe?
Mười cây đuốc cháy sáng rực dẫn đường. Qua vài đoạn sình lầy, Tư Thính lên tiếng trước, bọn hộ vệ ngỏ ý cõng ông Chúa lên vai. Nhưng vì quá say nên ông phản đối:
– Để ta đi cực nhọc. Có cực nhọc mới được trời chứng giám, phải không Bá Vạn! Gần tới chưa cô em?
Giọng cô Huôi ngọt ngào hơn bao giờ hết. Cô hiểu dụng ý của cha và của Bá Vạn. Ông đạo Đất là người quen thân, nhứt định phen nầy sẽ giúp cô lên địa vị bà Chúa, mặc dầu cô là kẻ đến sau.
– Dạ, gần tới rồi. Dưới bóng cây. Chỗ thắp đèn lù mù đó. Lúc cao hứng, ông Chúa Hòn đáp:
– Đất thì sáng lai rai. Đó là ánh sáng ngôi sao của ta và của cô em, chớ đâu phải ánh đèn.
Nãy giờ ông đạo Đất uống trà mà chờ đợi với giấc mơ tốt đẹp. Nếu cô Huôi trở thành bà Chuá thì nhứt định ông sẽ được ngôi chùa sơn son thếp vàng. Chờ quá lâu, ông ngồi dựa lưng vào vách. Khi nghe tiếng rầm rộ và thấy ánh đuốc chập chờn từ xa, ông bèn rửa mặt, thắp bốn cây nhang ở giữa nền cốc.
Bá Vạn nói, cố ý báo tin cho ông đạo biết trước:
– Thưa ông, tới rồi!
Ông Chúa Hòn hỏi:
– Sao ta chẳng thấy sư sãi nào đón tiếp?
– Dạ, ông đạo Đất chẳng bao giờ thâu nạp đệ tử, bởi vậy ổng nghèo, ai cũng khen là có đức. Chắc là ổng ngủ.
Để tăng phần huyền bí, ông đạo nằm dài trên nền đất, hai tay buông xuôi, thở đều đều. Hai cây đuốc do bọn hộ vệ mang theo được đem vào cốc. Ông đạo vẫn giả vờ ngủ, ngáy pho pho.
Ông Chúa Hòn im lặng, ngắm nhìn ông đạo Đất. Đúng là kẻ bất chấp thế sự, ngạo mạn và có nếp sống kỳ lạ. Bởi vậy khi thấy Bá Vạn nghiêng mình đánh thức thì ông Chúa ra lịnh:
– Để ổng ngủ. Thế nào ổng cũng thức.
Ông đạo Đất đã nghe và đã thấy mọi việc. Chờ khi ai nấy yên lặng, ông bèn nói khá to, như trong mơ:
– Vui rồi! Hết cơn bĩ cực đến hồi thới lai.
Ông Chúa Hòn nghiêng tai như để nghe tiếng. Ông đạo Đất bèn nói vu vơ, mắt nửa mở nửa nhắm:
– Trời sáng rồi. Mặt trời mọc.
Rồi ông mở to đôi mắt, lồm cồm ngồi dậy:
– Xin chào vị quý nhơn! Xin chào ông Chúa! Nãy giờ ông đến mà tôi không thức kịp để tiếp rước.
Bá Vạn lên tiếng:
– Ông Chúa muốn xem một quẻ. Đừng để ông Chúa chờ đợi lâu. Hôm nay, ở nhà Tư Thính, bụi quỳnh hoa nở mười bông một lượt, ấy là điềm gì?
Ông đạo Đất chắp tay xá về bốn cây nhang mà nói:
– Tôi ăn ngay nói thẳng, rủi sơ sót điều gì, ông Chúa sẵn sàng hỉ xả không?
Ông Chúa Hòn hơi nóng ruột:
– Cứ nói, hôm nay ta vui vẻ vô cùng, muốn ban bao nhiêu tiền, ta vẫn sẵn sàng. Ta còn sống bao nhiêu năm nữa? Phong thủy vùng Hòn Chông nơi ta cư ngụ có gì thay đổi không?
Để chứng tỏ rằng mình là người làm việc cẩn thận, không nịnh bợ và có lương tâm, ông đạo Đất nói khẽ:
– Thưa ông, nên mời cô Huôi ra ngoài…
– À! Vậy mới đúng điệu. Nãy giờ tôi quên. Nơi trang nghiêm như vầy mà có đàn bà con gái tới thì mất tinh khiết. Nàng ơi! Nàng ra mà đợi ta.
Vì không hiểu rõ thủ đoạn của ông đạo Đất nên cô Huôi hơi phật ý. Bá Vạn và Tư Thính bèn khoát tay, ngầm khuyên cô đừng phản đối. Bấy giờ ông đạo Đất mở cái hộp nhỏ, đem ra một cây đèn sáp, đốt lên.
Tay ông đạo nâng cây đèn, đưa sát vào mặt ông Chúa Hòn rồi lẩm bẩm:
– Xin lỗi ông, nhiều điềm xui xẻo xảy ra…
Ông Chúa Hòn nói nhanh:
– Đúng lắm.
Ông đạo Đất nói:
– Nhưng hãy còn vài chuyện sắp tới. Điềm xui từ trên cao xảy ra, phải không?
Câu nói mơ hồ và bí hiểm ấy khiến ông Chúa Hòn day lại phía Bá Vạn. Bá Vạn phải tinh ý lắm mới giải thích được cho ăn khớp với dụng ý của ông đạo Đất:
– Thưa ông, ông đạo nói đúng.
– Cái gì mà đúng? Từ trên cao là như thế nào?
Bá Vạn đáp:
– Nên hỏi ông đạo kỹ hơn.
Ông đạo Đất lại từ chối:
– Tôi nằm một chỗ, chưa bao giờ rời khỏi cốc. Chuyện đời mơ màng quá, thấy đâu tôi nói đó, biểu tôi nói rõ thì không được. Tôi biết cái may cái rủi từ đâu. Tài tôi chỉ vậy thôi..
Ông Chúa Hòn cau mày, nhớ đến hai con cò bay đáp xuống sân rồi chạy vào nhà nên hỏi:
-Bá Vạn! Chắc là đúng. Chuyện con cò vô nhà.
Bá Vạn lấy tay che miệng:
– Ông đừng nói lớn. Ông đạo nầy giỏi thật. Cô gái lên xác miễu bà Chúa Xứ và con rắn …đều ở trên núi cao. Đúng là tai hoạ từ trên cao giáng xuống.
Ông Chúa Hòn gật đầu trong khi ông đạo Đất lim dim đôi mắt, thỉnh thoảng đưa ngọn đèn sáp lên cao quơ qua quơ lại như tìm vật gì phía bên kia nóc nhà, tận trăng sao mờ mịt. Hơi nóng của ngọn đèn khiến ông Chúa đổ mồ hôi, từng giọt chảy dài trên trán. Ấy thế mà ông vẫn không than phiền. Hồi lâu, ông hỏi:
– Tai họa từ trên cao, vậy thì làm cách nào để ngừa được? Còn bao nhiêu tai họa nữa?
Ông đạo Đất hạ ngọn đèn, lẩm bẩm:
– Còn vài chuyện vụn vặt không đáng kể. Nhưng mà xem quẻ là để tìm cách thay đổi thời thế. Thí dụ như gặp nước ngược thì ta nên chạy buồm, nếu gió thổi xuôi. Tai họa từ trên cao giáng xuống thì ta dùng cái may mắn, cái phước đức từ dưới đất nẩy lên mà sửa trị.
– Hay lắm!
Đột nhiên, ông Chúa Hòn vỗ tay bôm bốp rồi phát biểu thao thao bất tuyệt như để bộc lộ sự thông minh của mình:
– Cô Huôi, tên chữ là Hoa, một đóa hoa từ dưới đất nẩy lên. Bụi quỳnh hoa mà ta ngắm lúc nãy cũng là của đất. Dùng cái may mắn của đất để sửa cái rủi ro từ trên trời. Phải không Bá Vạn?
Ông đạo Đất hỏi:
– Cô Huôi đâu rồi?
Ông Chúa Hòn đáp:
– Ở ngoài sân, cho phép cô Huôi vô đây để xem một quẻ chớ?
– Đuổi cô Huôi ra xa đừng cho cổ rình nghe. Nầy chú Tư Thính, nếu tôi không quên thì năm xưa, hồi nhỏ cô Huôi ngồi ngoài ruộng, trên đất…
Ông Chúa Hòn hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Tư Thính mới kể lể đầu đuôi chuyện cô Huôi bị rắn quấn, lúc ngồi bên gốc cây thị, ngoài ruộng. Bao nhiêu chi tiết khiến ông Chúa Hòn hài lòng, tin tưởng vào tương lai:
– Vậy thì ta đem cô Huôi về Hòn Chông, phong cho một chức vụ đặc biệt. Ta không may mắn, cô là người may mắn, hai người mà sống gần nhau thì vạn sự như ý, lấy điều may mắn mà ngăn ngừa điều rủi. Nhưng có điều gì khác không?
– Lúc nầy ở Hòn Chông không tốt vì…Hòn Chông là nơi cao, gần trời. Nếu rảnh rang, xin ông đi du lịch đó đây, nơi đồng bằng sình lầy hoặc ra biển, nơi thấp. Tóm lại nên tránh những gì ở trên cao!
Nói dứt lời, ông đạo thổi mạnh cho đèn tắt. Ông Chúa vỗ trán, đòi uống rượu, đòi xuống chiếc ghe hầu để an ủi cô Huôi. Cô giả vờ khóc lóc:
– Nãy giờ, ai cũng được ở trong cốc, tôi có tội gì mà đuổi ra ngoài sân…
– Ta ban thưởng vàng bạc, châu báu. Nàng đừng lo. Nàng theo ta về Hòn Chông rồi vài ngày nữa thì ngao du đây đó…tránh chuyện ở…trên cao, phải không Bá Vạn?
Sau khi ông Chúa Hòn ra khỏi cốc, Bá Vạn hơi bực dọc nên tìm lý do cho ông đạo Đất đi theo đến nhà Tư Thính. Bá Vạn nói to để ông Chúa đừng nghi ngờ:
– Nên tiễn đưa tới bến, lâu lâu ông Chúa viếng thăm cốc một lần.
Ông đạo Đất chống gậy, lững thững theo sau, Bá Vạn hơi phàn nàn:
– Ông Chúa tin dị đoan. Bày cái chuyện ngao du làm chi vậy?
Ông đạo Đất dừng chân, chờ khi bọn hộ vệ và Tư Thính đi thật xa rồi mới nói:
– Ông Bá tính việc lớn, việc ấy nên xảy ra ở xa. Làm việc lớn trước mắt thiên hạ thì khó.
“Việc lớn” được Bá Vạn hiểu ngầm là ám sát ông Chúa Hòn để đưa cô Huôi và thằng Cẩu lên địa vị thay thế. Bá Vạn vẫn chưa có kế hoạch nào cụ thể cả, nên hỏi dò:
– Tôi định cho ổng…ăn uống.
Ông đạo Đất nói:
– Bày cho ổng đi săn heo rừng rồi xảy ra tai nạn gì đó, giữa rừng tràm sình lầy. Cậu Hai Điền thích đi săn bắn nên khi ông Chúa đòi đi săn thì cậu sẵn sàng. Hai cha con đi săn một lượt, ở nơi nào hẻo lánh. Ông có thể ra tay, miễn là mua chuộc được bọn hộ vệ.
Bà chánh thất và cậu Hai Điền đều bực dọc khi nghe ông Chúa Hòn tuyên bố long trọng:
– Cô Huôi là nữ thần hộ mạng của ta. Từ nay về sau, cô Huôi thay mặt ta để bàn những chuyện quan trọng với Bá Vạn!
Nói xong, ông rót rượu vào hai chén nhỏ trên bàn thờ rồi đích thân đốt ba cây nhang, xá ba lần.
Khói nhang bay thơm ngào ngạt, ai nấy đều nín thinh, bực tức. Năm sáu cô tì thiếp cúi mặt, đứng ngoài thềm trông vào. Tại sao cô Huôi là kẻ đến sau mà lại được lên chức mau đến thế? Phải chăng cô dùng bùa ngải để mê hoặc ông Chúa.
Khấn vái xong, ông Chúa cắm nhang rồi day lại. Ông đã biết rằng có nhiều người bất bình nhưng chưa dám nói ra. Người phản đối đầu tiên chính là cậu Hai Điền. Bấy lâu, cậu ví mình là “đông cung thái tử”, mẹ cậu trở thành mẫu hậu. Buổi lễ hôm nay là ngày mà mẹ cậu bị truất phế, kẻ thay thế là cô gái bần hàng ở Hòn Me mới rước về.
Ông Chúa nói:
– Hôm nay ta vui, tại sao con không uống rượu?
Quả thật, chén ruợu cậu Hai Điền còn đầy. Cậu có dụng ý rõ rệt là chẳng uống một giọt nào để phản đối cha. Bà mẹ nói:
– Con nói đi. Có mẹ đây.
Cậu Hai tuy ngang ngược nhưng là đối với người khác. Hôm nay, trước mặt cha, cậu cân nhắc từng tiếng:
– Cô Huôi là người mới tới. Hơn nữa…
Chưa chi mà ông Chúa đã chận lời con:
– Mẹ con mầy làm điều xui xẻo cho ta. Hôm rày xảy ra mấy chuyện bực bội quá. Vì mẹ con mầy xui xẻo nên ta đem một cô gái còn trinh bạch, tốt phước về đây để bù lại. Hiểu chưa? Ta mà chết
sớm thì chưa ắt gia tài nầy còn mãi mãi để mẹ con chúng mầy hưởng! Nghe đâu quân Lang Sa kéo binh tới Gia Định, Định Tường.
Bà chánh thất bèn cằn nhằn:
– Quân Lang Sa là chuyện ở xa. Cô Huôi là chuyện gần. Hổm rày, cô Huôi chưa ra mắt bất cứ ai trong gia đình nầy. Hôm nay cô vắng mặt, đó là điều vô phép. Ai bày chuyện đem cô Huôi về đây, tôi biết hết.
Cậu Hai Điền nói thêm:
– Bá Vạn chớ ai! Tôi biết lão già nịnh bợ ấy. Hôm nọ tôi trừng phạt một lần rồi…
Ông Chúa Hòn vẫn giữ thái độ cứng rắn:
– Mầy câm miệng! Tao chết, mầy thay thế tao, chừng đó muốn làm gì thì làm. Nhưng tao còn sống đây, mầy nên kính nể Bá Vạn. Bá Vạn xây cất ngôi nhà nầy, từ hồi ông nội mầy còn sống. Tao đâu ngu dại gì mà nghe lời một lão già.
Nãy giờ, Bá Vạn và cô Huôi ở trong phòng bên cạnh, nghe tỏ rõ những lời qua tiếng lại bên nầy. Bá Vạn mừng thầm vì ông Chúa Hòn là người oai vệ, đủ sức trấn áp vợ con. Đột nhiên, cánh cửa hé mở. Ông Chúa Hòn bước vào nói nhanh:
– Trước là cô Huôi, kế đến là Bá Vạn qua đây.
Bá Vạn và cô Huôi đã bàn bạc từ trước là nên giữ thái độ yên lặng, nếu mẹ con cậu Hai Điền nói điều gì vô lễ thì cả hai xin từ chức, về vườn làm ăn.
Cô Huôi vào phòng lễ, cúi đầu chào bà chánh thất rồi cúi đầu ba lần trước bàn thờ. Dáng điệu khoan thai của cô, nhứt là gương mặt trầm tĩnh đã khiến bà chánh thất nể nang.
– Nữ thần hộ mạng của tôi là đây…
Ông Chúa Hòn nói gằn từng tiếng như thách đố bà chánh thất. Bà hơi lúng túng:
– Chờ xem…Còn trẻ quá vậy.
Cô Huôi nhìn thẳng vào mặt bà chánh thất:
– Tôi vào nhà nầy nào phải để giành chức vụ. Vui thì tôi ở. Buồn là tôi về. Xin ai nấy hiểu cho tôi.
Ngỡ rằng người đẹp nổi giận, ông Chúa can gián:
– Cô là người đem phước đức, giúp tôi khỏi tai nạn. Cô ở đây mãi mãi. Bá Vạn đâu?
Bá Vạn chắp tay, cúi đầu:
– Xin vâng lời ông…
Cậu Hai Điền bĩu môi. Bá Vạn nhủ thầm: ‘‘Tao cho mầy sống thêm vài ngày nữa. Rồi tới lúc mầy lạy tao, nhờ tao tha tội’’.
Ông Chúa Hòn nói:
– Bá Vạn giúp ta từ lâu, nhờ Bá Vạn mà ta gặp ông đạo Đất! Ta thưởng cho Bá Vạn một cái giường, kiểu giường mà ta nói hôm trước đó, ngồi, nằm, ăn uống trên giường. Gọn gàng, sang trọng biết bao nhiêu! Uống rượu để mừng ngày hôm nay.
Ông Chúa Hòn làm một chuyện thách đố khác là bưng hai chén rượu cúng trên bàn thờ trao cho cô Huôi và Bá Vạn. Theo lịnh ông Chúa, tất cả nâng chén dứt buổi lễ. Lẽ dĩ nhiên, bà chánh thất từ chối, cứ khoanh hai tay trước ngực. Cậu Hai Điền nói khẽ:
– Mẹ nên uống rồi lo chuyện khác, chẳng lẽ ngồi ở đây mãi! – Chuyện gì?
– Mẹ nên uống. Con biết đầu đuôi rồi, ông đạo Đất mới là người chủ mưu. Uống cho mau, đừng để cha con nghi ngờ.
Buổi lễ chấm dứt. Bá Vạn được mời ở lại để nghe ông Chúa bàn bạc:
– Theo lời ông đạo Đất, ta nên dạo chơi nơi nào thấp, để xua đuổi những cái rủi từ trên cao. Lát nữa, ta với cô Huôi đi săn heo
rừng ở Lung Tràm. Bá Vạn thấy ssao?
Lung Tràm là khu rừng trầm thủy, cách xa Hòn Chông chừng một ngày đường, nơi có nhiều heo rừng. Nên bố trí khéo léo để giết ông Chúa, nhơn dịp đi săn nầy. Bá Vạn nhớ lời ông đạo Đất. Lúc nãy, ông Chúa tiết lộ danh tánh cho cậu Hai Điền nghe được. Nếu chậm thì trở tay không kịp. Cậu Hai dám cho người tới Hòn Me để hạ sát hoặc làm áp lực cho ông đạo Đất xua đuổi cô Huôi.
– Ông đi săn là tốt lắm. Theo ý tôi, ông nên đi vắng chừng mười ngày để cậu Hai và bà chánh thất bớt giận. Ông đem cô Huôi theo chớ?
– Để ở nhà sao được! Ta ở đâu thì nàng đó. Ta muốn vui say với nàng suốt ba tháng trường. Lần đầu tiên ta gặp một giai nhân tuyệt thế. Nầy Bá Vạn!
– Dạ, ông dạy gì?
– Lúc nầy, cô Huôi xứng đáng là …con chim phụng, quanh nàng, tất cả tì thiếp đều xấu xí như bầy gà. Bá Vạn theo ta không?
Vì muốn có thời giờ để gặp ông đạo Đất và bố trí cuộc mưu sát nên Bá Vạn từ chối khéo léo:
– Năm bảy ngày nữa, tôi tới Lung Tràm để gặp ông. Bây giờ, nếu tôi đi theo thì cậu Hai và bà nổi giận, cho rằng tôi theo phe cô Huôi. Ông Chúa thương giùm tôi. Hôm nọ, tôi bị cậu Hai hạ nhục một lần rồi.
– Nó là con nít, hơi đâu mà giận. Bá Vạn nói cũng phải. Ở nhà, tránh gây gổ với cậu Hai, rảnh thì dạo đó dạo đây, đốc thúc bọn tá điền. Năm nay chắc ruộng nương đều tốt. Năm ngày nữa, ta chờ ở Lung Tràm.
Bá Vạn từ giã ông Chúa Hòn, về nhà. Sáng hôm sau, bọn hộ vệ lên đường. Hai chiếc ghe đi trước, cách khoảng xa rồi mới tới ghe hầu chở ông Chúa và cô Huôi. Cậu Hai Điền có mặt tại bến, nhắn nhủ với cha:
– Ba làm cách nào đâm được con heo rừng độc giác, lấy cái nanh làm bùa đeo thì chẳng ai ám hại được. Hôm qua con săn hụt.
Ông Chúa Hòn vui mừng vì cậu con đã hết thắc mắc về vấn đề ngôi thứ:
– Con ở nhà, lo lắng công việc giùm ba.
Cậu Hai Điền cau mày:
– Con ghét công việc lặt vặt.
– Thì con tập tành cho quen. Ai tới mượn tiền, con cứ từ chối, nói rằng chờ ba về. Ai đem tiền bạc tới thì con cứ thâu. Ba biết con không ưa Bá Vạn. Con lo lắng công việc một mình, đừng gọi lão tới.
Nhưng cái nanh heo ‘‘độc giác’’ vẫn ám ảnh cậu Hai Điền. Nếu không có buổi tiệc ra mắt hồi hôm qua thì cậu đã theo dõi con heo độc giác ấy để lấy cho bằng được cái nanh quý giá, một nanh có “thần lực” bằng hai nanh. Theo sự tin tưởng của người Cao Miên ở địa phương thì con heo mài nanh có tật là luôn luôn hung hăng, sức mạnh tập trung vào chót nanh. Nanh ấy trong nhà thì kỵ lửa, chống được hoả hoạn; tiện hình ông Phật, làm phép rồi đeo vào cổ thì chủ nhân tránh được dao búa, tên đạn.
Ông Chúa Hòn mỉm cười, nói thêm:
– Chắc là ba chưa săn được con heo đó. Phải là người có tài như con thì họa chăng. Ba muốn ngao du đó đây với người đẹp.
– Năm ngày nữa, nếu ba chưa về thì con tới Lung Tràm với bọn hộ vệ. Săn không được thì dân chúng khinh thường.
Cậu Hai Điền vào nhà, đóng cửa lại mà uống rượu. Lát sau, Bá Vạn giả vờ đi ngang qua, hỏi tên hộ vệ canh phòng trước cửa:
– Cậu Hai đâu rồi?
– Dạ cậu biểu đóng cửa, chắc là đang ngủ
Như vậy có nghĩa là cậu chưa tìm ông đạo Đất để hành hung hoặc bắt buộc ông đạo xem một quẻ thứ nhì, trái hẳn quẻ thứ nhứt
để truất phế cô Huôi. Như vậy, kế hoạch sẽ đổ vỡ. Ông xuống chiếc tam bản bốn chèo, không quên căn dặn tay em.
– Đem theo hai cây sào! Bữa nay, tụi bây làm việc tận tình, rồi đây có phần thưởng xứng đáng. Thừa, Thiếu! Ra khỏi chỗ nầy cho mau, kẻo cậu Hai thấy.
Thừa và Thiếu là hai anh em sanh đôi, giống nhau như khuôn đúc. Hai đứa đã theo Bá Vạn từ năm rồi, luôn luôn trung thành. Hôm nay, vì sợ bọn dọ thám của cậu Hai Điền trà trộn vào nên Bá Vạn chỉ đem hai đứa nầy mà thôi.
Đến giữa cánh đồng hoang, con rạch trở nên chật hẹp. Nước cạn dần, hai mái chèo đụng vào bờ. Thừa, Thiếu bèn rút sào, gác chèo lên mũi ghe. Bá Vạn thúc hối:
– Chống cho lẹ, tới Hòn Me để gặp ông đạo Đất!
Thừa nói nhanh:
– Chiếc tam bản lướt nghe re re…còn hơn là trâu kéo. Bá Vạn nói:
– Tụi bay hễ rảnh là do tập dượt võ nghệ, tới lúc tụi bay ra nghề rồi đó. Tao nói cho tụi bay đề phòng. Bây giờ chỉ còn có hai đường, một là sống, hai là chết.
Thiếu nói nhanh:
– Mình theo phe cô Huôi, phải không ông?
– Chớ theo phe nào bây giờ! Vài ngày nữa, mình đi Lung Tràm thăm ông Chúa Hòn, sẵn dịp mình…ra tay. Tao nói, tụi bây dư hiểu.
Thừa là đứa khôn lanh nên đưa ra sáng kiến:
– Ông cho tôi nghỉ một ngay.
– Chi vậy?
– Để làm cây giáo đặc biệt. Lưỡi giáo là một khúc nanh heo rừng, tôi lựa cái chót nanh thiệt bén.
Bá Vạn phục thầm. Thằng Thừa tinh ranh quá. Nếu dùng cây giáo đó mà đâm ông Chúa Hòn thì làm sao phân biệt được chuyện ám sát với tai nạn lúc đi săn. Bởi vậy Bá Vạn hứa long trọng:
– Về già, anh em tụi bay trở thành sang trọng như tao. Tao với cô Huôi đâu bao giờ quên ơn kẻ giúp việc. Bữa nay, tụi bây biết tao làm chuyện gì không?
Thừa và Thiếu đều im lặng. Bá Vạn nói:
– Tao đem vàng bạc đền ơn cho ông đạo Đất. Ổng sẽ làm chủ một ngôi chùa lớn nhứt.
Đến xế trưa, chiếc tam bản đến Hòn Me. Công việc đầu tiên của Bá Vạn là gặp Tư Thính để trình bày sự việc. Đại khái, cô Huôi được giới thiệu long trọng là “nữ thần hộ mạng” trước mặt cậu Hai Điền và bà chánh thất. Họ phản đối dữ dội, nhưng nhờ sự dàn xếp khéo léo của Bá Vạn nên họ đành chịu thua. Hiện giờ, ông Chúa và cô Huôi ở trên đường về Lung Tràm để săn heo rừng.
Tư Thính chắp tay xá Bá Vạn:
– Ơn ông, tôi không bao giờ quên. Nhưng tôi thấy khó khăn quá, rủi họa hổ bất thành thì cha con tôi đều bị giết.
Bá Vạn cười dòn:
– Đây là ông Chúa Hòn ở chốn quê mùa chớ nào phải “ông vua chánh hiệu” mà chú Tư sợ bản án tru di tam tộc? Có tôi mà.
– Nhưng trước khi làm điều gì, nên hỏi ý ông đạo Đất. – Ông đạo Đất có ở trong cốc không?
– Dạ có, để tôi đi với ông tới đó.
Bá Vạn nói khẽ rỉ vào tai Tư Thính:
– Để tôi đi một mình. Như vậy thiên hạ ít đồn đãi. Biết đâu ở chốn nầy có vài đứa do thám. Chú nên ẩn mặt vài ngày, giả vờ như
lên rừng đốn củi hoặc đi thăm bà con ở Rạch Giá. Cậu Hai Điền dám cho bọn tay em đến đây gây rắc rối hoặc ám sát.
Tư Thính hơi sợ sệt cúi đầu ngỏ lời cám ơn Bá Vạn. Bá Vạn ra khỏi nhà, đi xăm xăm đến cốc.
Ông đạo Đất ngồi uống trà, chợt reo lên khi thấy Bá Vạn:
– Kính mời ông. Sự việc tới đâu rồi? Suốt đêm tôi không ngủ được. Ông tới đây thình lình, chắc là có chuyện gấp.
– Gấp lắm. Ông Chúa vô ý nhắc tên ông. Bởi vậy mẹ con cậu Hai Điền tức giận. Ông nên ẩn lánh năm, mười ngày. Bọn hộ vệ của cậu Hai dữ lắm.
Ông đạo Đất nghiêm mặt, yêu cầu Bá Vạn trình bày tình hình nội bộ gia đình của Chúa Hòn. Khi nghe nói tới tên thằng Cẩu, đứa con rơi mà ông Chúa sanh với cô Ngó, ông đạo Đất reo mừng:
– Thằng Cẩu đâu rồi? Ông tới gặp nó, dạy nó tới Lung Tràm chờ khi ông Chúa gặp nạn thì…thằng Cẩu có mặt tại chỗ. Như vậy mới lấn quyền cậu Hai Điền được!
Bá Vạn chắp tay xá ông đạo Đất:
– Quả thật ông giỏi hơn tôi. Vậy thì tôi đi gặp Mười Hấu, ông ngoại thằng Cẩu. Nó ở núi So Mo.
Ông đạo Đất trả lời:
– Đừng để trễ. Đừng khinh thường cậu Hai Điền. Bọn hộ vệ thân tín của ông đáng tin cậy không? Võ nghệ tới đâu?
Bá Vạn khoe khoang bọn thằng Thừa, thằng Thiếu và cây giáo có lưỡi nhọn làm bằng nanh heo rừng. Tuy nhiên ông đạo Đất vẫn chưa yên tâm. Xung quanh ông Chúa Hòn tại Lung Tràm, hẳn còn nhiều tên hộ vệ khác trung thành với ông Chúa và sẵn sàng theo phe cậu Hai Điền. Dưới mắt ông, kế họach chưa được khéo léo. Bá Vạn khuyên nhủ:
– Ông đạo nên tin tôi. Thằng Thừa thằng Thiếu hiểu rành về cách săn heo rừng ở vùng sình lầy. Hơn nữa, bọn hộ vệ theo phe
cậu Hai sẽ bị giết một lượt. Tôi tìm cách chọc tức cậu Hai Điền, mời cậu tới để lãnh trách nhiệm mới: kế vị cho cha. Rồi thì tôi cho cậu theo cha, về chầu Diêm Chúa.
Ông đạo Đất vỗ vai Bá Vạn:
– Ông nên khéo léo, ra tay nhanh chóng, mua chuộc bọn hộ vệ. Rồi đây khi thành công, ông đừng quên tôi. Nhớ đi gặp Mười Hấu và thằng Cẩu. Lúc ông Chúa nhắm mắt, thằng Cẩu phải có mặt bên cạnh. Ông đi gặp may mắn!
Bá Vạn nhắc nhở lần chót:
– Ông đạo nên rời khỏi cái cốc nầy chừng năm bảy ngày. Cậu Hai Điền dám mướn người tới giết ông đó.
– Tôi lên núi, còn thiếu gì nơi ngao du. Dễ gì bọn nó đụng tới tôi.
Chiếc tam bản tiếp tục hành trình. Thừa và Thiếu vì quá hăng hái, muốn lập công nhanh chóng với Bá Vạn nên thúc giục:
– Bây giờ đi Lung Tràm! Sẵn nước lớn, tụi tôi chèo tới đỏ đèn là xong. Ghé dọc đường làm gì? Tụi tôi đủ sức chịu đói. Hễ thành công, thưởng tụi tôi món gì?
Bá Vạn cười:
– Cưới cho tụi bây mỗi đứa hai con vợ. Đừng nóng nảy, chuyện đó sẽ tới. Coi chừng bọn hộ vệ của ông Chúa.
Thừa bèn nói:
– Phần đông tụi nó đều ghét cậu Hai Điền. Đáng ngại nhứt là thằng A Mách, nó biết gồng Xiêm, gồng Chà. Nhưng cái thứ gồng đó dở lắm. Muốn giết thằng Mách, tôi bồng nó cho hai chân hỏng mặt đất rồi dùng nanh heo rừng hoặc khúc cây đâm ngược vô hậu môn. Bấy lâu nay thằng Mách phách lối, khoe rằng dao chém không đứt. Nó tưởng rằng tôi không biết chỗ nhược của nó.
Mui tam bản hóa ra chật chội, Bá Vạn nằm ngồi chẳng yên. Khí trời oi bức là một lẽ nhưng nguyên do chánh vẫn là những việc quan trọng sắp xảy ra: Giết hai cha con ông Chúa Hòn! Trong phút giây
ông hơi ngao ngán, nhớ đến tuổi già chẳng còn hưởng được bao nhiêu năm nữa, làm cho dữ thì cũng nằm dưới ba tấc đất. Nhưng Bá Vạn lại tự biện hộ:
– Mấy ông Chúa Hòn trước đây có kẻ thiện kẻ ác, đời không nhắc nhở bất cứ một ai. Tai sao mình không chịu khó trong vài ngày để hưởng sung sướng trong những năm còn lại? Nếu mình rút lui, chưa ắt được yên ổn. Mối thù còn đó!
Ông Bá Vạn đưa tay lên vuốt mái tóc đã từng bị ô uế vì tô thịt và dĩa nước mắm. Ông nhớ đến cái áo dơ dáy còn xếp lại, cất kỹ trong tráp.
– Ai ở đằng sau kia? Mấy đứa hộ vệ chớ ai! Ai trong cái ghe hầu vậy ông?
Bá Vạn ra phía sau lái mà nhìn. Phản ứng đầu tiên của ông là câu hỏi nhẹ nhàng:
– Ông Chúa đi Lung Tràm theo con rạch Mù U, bọn hộ vệ đông lắm. Chiếc ghe hầu ở đằng sau dường như không có sơn son thếp vàng trên mui. Tụi bây tỏ con mắt thì coi giùm tao.
Thừa nói nhanh:
– Ghe hầu thứ thường.
Bá Vạn vẫn trầm tĩnh:
– Chẳng lẽ cậu Hai Điền theo dõi tao để rồi giết tao ở dọc đường? Nó ưa ngồi trên ghế, bắc ở giữa chiếc ghe không mui. Nếu đi săn thì nó đem theo bầy chó…
Thừa day lại, nói to:
– Lạ quá. Không có chó săn. Chẳng lẽ cậu Hai Điền?
Bá Vạn tỏ ra dè dặt. Nếu đụng độ với ghe cậu Hai trong tình thế nầy, thì ông ta chịu thất thế. Thằng Thiếu nóng nảy hơn, nói nhanh:
– Thưa ông, làm cách nào bây giờ? Tụi nó như chèo lẹ lắm rượt theo chiếc tam bản của mình!
Bá Vạn đáp:
– Đậu tam bản lại, cho tao lên bờ. Tụi bây cứ bình tĩnh. Cái gì kìa? Tụi nó múa tay múa chân, phải không?
Thằng Thừa trố mắt:
– Trước mũi ghe, cô Ngó đứng ngoắt kìa!
Nghe tên cô Ngó, Bá Vạn thờ phào khoẻ khoắn, vì cô không phải là kẻ thù. Nhưng còn mối lo khác: tại sao cô rời Hòn Chông quá hấp tấp? Hay là cậu Hai muốn ra tay trước, nắm tất cả quyền hạn tại Hòn Chông rồi tìm cách giết Bá Vạn?
Bá Vạn nói:
– Tụi bây cứ đậu tại đây.
Tam bản vừa cập sát bờ là Bá Vạn nhảy lên đứng thẳng người. Đằng kia cô Ngó cũng ra lịnh đậu ghe rồi lên bờ. Nụ cười nở trên môi cô Ngó. Thừa và Thiếu ngồi xuống, khoát nước rửa mặt.
Cô Ngó mặc bộ quần áo lụa trắng, dáng đi yểu điệu. Bá Vạn hỏi trước:
– Cô kiếm tôi? Chuyện gì quan trọng đó? Nãy giờ tôi giựt mình. Cô Ngó đến gần Bá Vạn:
– Dạ, cậu Hai lo tập dượt mấy con chó săn. Cậu chưởi rủa vu vơ làm tôi nóng ruột quá. Chắc ông đi núi Mo So thăm ba tôi với con tôi.
Bá Vạn hơi xúc động trước vẻ đẹp tươi trẻ của cô Ngó: – Vậy chớ đi đâu bây giờ? Tôi lo cho cô từ hồi nào tới giờ! Cô Ngó cười tình:
– Biết lấy gì đền đáp cho xứng đáng?
Rồi liếc về phía thằng Thừa thằng Thiếu, cô hỏi khẽ: – Hai thằng nầy tốt chớ?
– Người của tôi. Cô xuống tam bản nói chuyện cho vui, ở phía sau cứ chèo theo. Sợ gì!
– Tôi sợ lắm, sợ ông quên tôi. Từ khi cô Huôi được ông Chúa xem là “nữ thần hộ mạng”, tôi biết rằng mình hết thời rồi, chỉ còn trông cậy vào ông, miễn là thằng Cẩu được nở mày nở mặt.
Hai người xuống chiếc tam bản, ngồi gần nhau. Bá Vạn gật đầu:
– Đêm nay tại nhà cô, tôi nói nhiều chuyện hơn. Tôi quên cô hồi nào? Chẳng qua vì phận sư, vì việc lớn chưa làm xong.
Mặt trời đã lặn khi chiếc tam bản đến chân núi Mo So. Ông Mười Hấu đứng sẵn dưới bến. Chừng thấy Bá Vạn và cô Ngó trong mui, ông hơi ngạc nhiên:
– Ông Chúa đâu rồi?
Bá Vạn đáp:
– Ông Chúa lúc nầy lo ngao du.
Sự có mặt của cô Ngó trong mui tam bản khiến Mười Hấu lo nghĩ, đoán mãi không ra. Nhứt định là ở Hòn sắp thay đổi lớn. Nếu ông Chúa còn oai quyền như thuở nào thì làm sao Bá Vạn dám ngồi gần người vợ của ổng? Phải chăng Bá Vạn đang say mê nhan sắc cô Ngó, bày ra âm mưu thâm độc để chiếm riêng một cõi núi Mo So nầy? Đứng về luân lý, chuyện lân la giữa hai người không thể nào dung thứ được. Nếu ông Chúa biết thì bao nhiêu quyền hạn, lợi lộc của gia đình Mười Hấu sẽ mất. Nghĩ vậy, Mười Hấu hỏi kỹ lần thứ nhì:
– Ngó ơi! Sao con dại dột như vầy! Trước khi đi, con có xin phép ông Chúa không?
Bá Vạn lên bờ, trả lời thay cho cô Ngó:
– Chú Mười yên tâm. Tôi và cô Ngó đâu ngu dại gì làm chuyện trái với luân thường đạo lý. Vô nhà, tôi nói chuyện riêng. Đừng cho người nào lạ tới lui trước sân. Thằng Cẩu đâu rồi?
Mười Hấu đáp:
– Ông Bá nhắc tới tên thằng đó làm gì, không ai chịu nổi. – Tôi muốn gặp thằng Cẩu.
Mười Hấu lắc đầu:
– Dạ, nó đi chơi rồi. Lát nữa, tôi kêu nó về. Chắc ông Bá chưa ăn cơm. Đêm nay ông ở đây chớ?
Bá Vạn vẫn chưa hết thắc mắc. Ông muốn gặp mặt thằng Cẩu, trước tiên là để xem tướng mạo cho biết nó có “khí tượng đế vương” hay không? Điều thứ nhì, không kém phần quan trọng hơn là dạy dỗ thằng Cẩu những lời ăn tiếng nói cho hợp với hoàn cảnh mới, khi ông Chúa Hòn vừa nhắm mắt.
Cô Ngó hỏi Bá Vạn:
– Ông tính chuyện gì thì nên làm gấp. Tôi sợ bọn cậu Hai Điền theo dõi, hạ sát mẹ con tôi. Hồi tôi ra đi, cậu Hai nằm ngủ nhưng bọn hộ vệ thì nói chuyện riêng như bí mật lắm. Mỗi đứa đều cầm mác, cầm dao mà mài cho bén.
Bá Vạn day lại:
– Chú Mười đuổi những người lạ mặt cho xa nhà nầy. Cô Ngó trả lời thay cha:
– Má tôi mất lâu rồi, đâu còn ai trong nhà nầy. Ông Bá cứ bàn bạc.
– Tôi muốn nhờ chú Mười kiếm thằng Cẩu thiệt gấp.
Từ lâu, thỉnh thoảng về thăm nhà, cô Ngó hiểu phần nào tánh tình thằng Cẩu. Lớn lên, nó chỉ lo ăn chơi xài phí tiền bạc. Lại còn cái tật hỗn láo, cãi với ông ngoại. Cô biết thằng Cẩu đang dạo xóm để chọc gái và đá cá lia thia. Nói ra quá sớm, ông Bá Vạn sẽ thất vọng vì nếu thằng Cẩu mà lên ngôi Chúa Hòn thì sự nghiệp sẽ tan tành: hoặc là dân chúng sẽ nổi loạn, không thèm đóng một hột lúa nào cả.
Cô Ngó nói:
– Để tôi xuống nhà bếp nhờ ba tôi đi kiếm thằng Cẩu, gọi nó về đây gặp ông. Bây giờ hơi khuya, không nên là xáo động xóm giềng. Chắc ông mệt? Miễn là ăn cơm xong “mình” gặp thằng Cẩu. Nó khờ dại lắm, nhờ ông dạy dỗ.
Tiếng “mình” từ miệng cô Ngó nói ra thật là ngọt ngào và gợi tình. Làm sao Bá Vạn làm ngơ trước đóa hoa tươi trẻ ấy được? Bá Vạn lẩm bẩm một mình:
– Nếu cô Ngó và Mười Hấu đột nhiên theo phe cậu Hai Điền thì nguy cho mình. Mình nên chiều theo ý họ.
Ông xuống bến nói với thằng Thiếu:
– Mầy buồn ngủ chưa? Mầy đói bụng không?
Thiếu đáp ngay:
– Ông dạy thì tôi vâng lời. Hơi đói nhưng chịu nổi.
Bá Vạn nói khẽ:
– Mầy qua Lung Tràm rồi trở về đây cho tao biết ông Chúa với cô Huôi tới đó chưa?
Thằng Thiếu gật đầu rồi hỏi:
– Thưa ông, thì tôi mượn chiếc xuồng độc mộc của ông Mười Hấu, dùng sào mà chống tắt qua đồng cỏ. Hừng sáng, tôi về tới đây. Ông còn nhắn thêm điều gì không? Chẳng lẽ tới Lung Tràm rồi trở về thì uổng công trình của tôi quá.
Bá Vạn vỗ vai thằng Thiếu:
– Mầy coi vậy mà khôn. Tao thấy chống xuồng mệt hơn là cỡi trâu. Lát nữa tao mượn một con trâu cổ cho mày cưỡi. Nếu gặp cô Huôi, mày lại gần nhắn giùm tao. Mà thôi, chưa chi đã lộ bí mất.
Thằng Thiếu trố mắt:
– Theo tôi thì chẳng có điều gì bí mật nữa. Một là tôi sống, hai là tôi chết. Chẳng lẽ cô Huôi tìm cách hại tôi? Còn ông Chúa Hòn thì…
Bá Vạn lấy tay bụm miệng thằng Thiếu:
– Mầy đừng lớn tiếng. Ông Chúa đến Lung Tràm để chết vì ngọn giáo của mầy, tao hiểu rồi. Nếu gặp cô Huôi, mày nhắn rằng nên chờ ngày mai hoặc ngày mốt, nói vậy là cổ hiểu.
Từ nhà trên, cô Ngó bước ra sân, Bá Vạn đưa tay ngoắt rồi nói:
– Thằng Thiếu đi Lung Tràm, thằng Thừa lên sân kiếm cơm ăn rồi canh phòng rủi có kẻ lạ mặt tới đây gây chuyện. Tao ở dưới nầy tìm cách thuyết phục cô Ngó. Cô Ngó coi vậy mà không tỉnh táo.
Thằng Thừa sẵn sàng lên bờ để kiếm cơm ăn cho no lòng rồi ngủ cho khoẻ. Nó muốn cho Bá Vạn và cô Ngó bày chuyện yêu đương. Rồi đây nếu âm mưu được thành công, Bá Vạn và cô Ngó ắt nhớ công lao của nó.
Cô Ngó xuống tam bản, vào trong rồi đốt ngọn đèn sáng. Cha cô đã khuyên cô tìm cách quyến rũ Bá Vạn vì tình thế đã thay đổi. Nếu cậu Hai Điền thắng thế thì chưa ắt cô và thằng Cẩu còn sống được.
Bá Vạn vào trong mui, cười hề hề:
– Đêm nay ở dưới nầy mát mẻ nhưng …muỗi cắn.
Cô Ngó cười tủm tỉm:
– Trên nhà, có nhiều chuyện bất lợi. Ở dưới nầy, thảnh thơi hơn. Tôi giăng mùng cho ông ngủ. Hễ nực hay là muỗi vô mùng quá nhiều, tôi quạt. Tôi biết… ông Bá thương tôi nhiều nên lo cho mẹ con tôi…
Bá Vạn hiểu rằng cô Ngó đã sẵn sàng trao thân cho ông. Muốn cho đêm dài được trọn vẹn ý nghĩa, ông hỏi:
– Ăn cơm uống rượu xong, tôi nói cho cô nghe nhiều điều. Cô Ngó hỏi:
– Điều gì? Ông nói đi rồi…em đem cơm xuống đây ăn một lượt, em còn đói hơn ông nữa đó.
Bá Vạn ôm cô Ngó vào lòng. Cô Ngó giả vờ e thẹn:
– Để em lên nhà đem cơm xuống…
Đêm sáng, trời trong, Bá Vạn mở cánh cửa nhỏ bên hông mui ghe để thưởng thức trọn vẹn cảnh đẹp bên ngoài. Cô Ngó bước thong thả lên sân, dáng đi yểu điệu lạ thường, thỉnh thoảng day lại hé miệng cười. Cá đớp bọt sát bờ, vài con hạc ăn sương bay lướt qua như xé không gian với tiếng kêu oang oác hiền lành…
Chừng nầy thằng Thiếu đang cưỡi trâu đến Lung Tràm. Trễ lắm là hừng sáng nó trở về báo tin. Bá Vạn thầm nghĩ:
– Sống lênh đênh trên chiếc ghe, giữa cảnh đồng quê mộc mạc vẫn vui thú hơn ở trong nhà. Ông Chúa Hòn là người quá khôn, biết hưởng thụ. Hồi xưa, ông đến đây để gặp cô Ngó lần đầu tiên. Ngày ấy, còn nhớ cô Ngó là gái tơ múc nước bên suối. Vật đổi sao dời, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Thằng Cẩu lớn lên, ai biết rằng nó sắp trở thành ông vua nho nhỏ trong vài ngày sắp tới.
Thấy cô Ngó trở lên, Mười Hấu khuyên răn:
– Con nên cẩn thận. Liệu Bá Vạn lật đổ ông Chúa nổi không? Cô Ngó đáp:
– Bá Vạn là tay đầy mưu mẹo, dư sức làm. Ông Chúa đang đi săn ở Lung Tràm, bọn hộ vệ đã bị mua chuộc, chờ lịnh Bá Vạn là chúng nó giết khéo léo.
Mười Hấu đáp:
– Nhưng còn cậu Hai Điền! Làm sao thằng Cẩu tranh giành địa vị được. Cậu Hai lớn tuổi hơn, lại là con giòng chánh.
– Ông Bá Vạn nói sẽ cho cậu Hai “đi đời” dễ dàng. Thằng Cẩu đâu rồi? Phải cho nó gặp ông Bá Vạn để được chỉ dạy về lời ăn tiếng nói. Nó ham chơi quá.
Mười Hấu cau mày:
– Tánh tình thằng Cẩu, con dư biết vì con là mẹ của nó. Nó ăn chơi không ai bằng. Đã vậy mà nó còn cứng đầu cứng cổ, muốn làm
gì thì làm. Hôm trước nó xách cây gài cửa để rượt ba. Mấy ông thầy ở trên núi nói rằng nó bị bùa ngải hành xác.
Cô Ngó nói khẽ:
– Ba đừng cho ông Bá Vạn biết căn bệnh của nó. Liệu ngày mai nó về đây không?
– Ba cho người đi kiếm nó rồi. Nó đang xổ cá thia thia để tuyển thứ cá nòi, cá rặc. Sáng mai, ba đi gặp nó, năn nỉ nó về đây. Con xuống ghe, kẻo ông Bá Vạn chờ. Ba hồi hộp quá…
Mâm cơm đã bưng xuống tam bản. Bá Vạn uống rượu, ăn ngon lành. Cô Ngó cầm đũa, lựa mấy miếng thịt ngon gắp để trong chén sẵn cho ông Bá Vạn. Hồi lâu, cô mới dám ngỏ lời tâm sự:
– Ông à! Em sợ điều nầy…
Bá Vạn đáp:
– Được làm vua, thua làm giặc, đó là thế gian thường tình. Nếu không xong, xứ nầy còn nhiều nơi để ta ẩn náu. Giặc Tây nghe đâu đã đánh tới Vĩnh Long, Tân An. Mình tới mấy chỗ đó là yên thân. Ông Chúa đâu có đủ binh mã mà rượt theo. Với năm ba chục lượng vàng, mình đủ sống năm mười năm.
Cô Ngó đáp:
– Em muốn nói chuyện khác. Em sợ nửa chừng ông bỏ em bơ vơ.
Bá Vạn hỏi:
– Sao vậy? Em làm cho tôi giựt mình. Tôi làm điều gì mà em nghi ngờ?
– Còn cô Huôi?
Bá Vạn cười sặc sụa:
– Cô Huôi trở thành “mẫu hậu”. Tôi ngu dại gì mà yêu cô Huôi cho nhọc thân, cho thiên hạ nghi ngờ rằng tôi tham lam.
Tôi sống với cô em như vầy là quá vui rồi. Cô em sẽ thấy đời cô Huôi là khổ, tiền bạc oai quyền rất nhiều nhưng phòng the khép kín.
Cô Ngó như chợt hiểu:
– Như vậy, ai dám nói xấu mình được! Em đâu ngờ ông tài giỏi, thấy xa hiểu rộng tới mức đó. Cô Huôi và thằng Cẩu đều là người dưng nhưng…nắm quyền vùng nầy, bởi vì ông Chúa với cậu Hai Điền đều ngộ nạn thình lình. Bà chánh thất như con rắn mất đầu…
Bá Vạn ưỡn ngực, vuốt râu:
– Bởi vì bà ta không biết dạy con. Thằng Hai Điền vô phép quá, nó hạ nhục tôi, bây giờ …trời hại nó. Cô còn nhớ không? Tôi không thèm rửa mặt, không thèm thay áo, cứ mang cái áo dính thịt kho với nước mắm mà đi ngoài đường cho thiên hạ thấy. Từ lâu rồi, thiên hạ biết thằng Hai Điền là đứa gian ác. Thằng Cẩu của em chắc hiền lành hơn.
Nghe hỏi tới đó, cô Ngó suy nghĩ, chưa dám trả lời. Cô nói lảng qua chuyện khác:
– Hồi đó, thấy ông mặc cái áo dơ, em tức giận cậu Hai nhưng biết nói sao bây giờ. Em đón ông, bữa đó em cầm bó bông sen.
– Nhớ rồi! Mấy cái bông sen… Rót rượu thêm. Đêm nay vui quá. Ở Lung Tràm, ông Chúa Hòn với cô Huôi hưởng lạc thú nào thì ở đây mình hưởng lạc thú đó. Em đem cơm ra ngoài. Buồn ngủ quá..
…Hai người nằm kề nhau, đến hừng sáng, cô Ngó thức trước. Ánh nắng chói chang bên ngoài tạt qua khe cửa mui tam bản. Bỗng dưng mà cô sợ sệt. Nếu bọn dọ thám của cậu Hai theo dõi thì chúng bắt gặp quả tang cuộc yêu đương vụng trộm nầy. Cô muốn lên nhà, để Bá Vạn ngủ dưới nầy một mình nhưng làm vậy Bá Vạn buồn, tưởng cô chỉ yêu ông ta vì quyền lợi tạm thời, vì tương lai của thằng Cẩu.
Trên bờ, có tiếng gọi:
– Ông ơi!