🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh Hùng Bắc Cương - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ full prc pdf epub azw3 [Kiếm Hiệp] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Chương 1: Mở đầu Chương 2: Phật tính, ma tính Chương 3: Thượng Giới Hồng-xà Chương 4: Trưởng-lão Hồng-thiết-giáo Chương 5: Võ lâm minh chủ Chương 6: Cầm Chính Đạo Để Tích Tà Cự Bí -(nguyễn-công-trứ) Chương 7: Tình Nghĩa Hồng-thiết Chương 8: Chính tà quyết đấu Chương 9: Lấy chết rửa tội Chương 10: Bể Khổ Vô Bờ, -hồi Đầu Thị Ngạn Chương 11: Kho Tàng Tần-hán Chương 12: Vạn dặm gian nan Chương 13: Trên Vịnh Hạ-long Chương 14: Chính khí kẻ sĩ Chương 15: Chân mệnh thiên tử Chương 16: Tống Khu-mật Viện Chương 17: Quân tử lập ngôn Chương 18: Kỳ nhân dị sĩ Chương 19: U cốc giai nhân Chương 20: Dư Âm Bạch-đằng Chương 21: Duyên việt, tình hoa Chương 22: Viên giác đốn giáo Chương 23: Chia hai thiên hạ Chương 24: Chính Sách Bắc-cương Chương 25: Trên Đỉnh Tản-viên Chương 26: Tình việt, duyên hoa Chương 27: Cây thuốc nở hoa Chương 28: Gian Nữ Ma-đăng-gia Chương 29: Chủ đạo tộc việt Chương 30: Đoạn trường tơ vương Chương 31: Tống cung bí sử Chương 32: Quốc sách đại việt Chương 33: Điểm huyệt mật pháp Chương 34: Bạch-đằng Giang Quyền Chương 35: Gánh Vàng Đi Đổ Sông Ngô, -đêm Đêm Tơ Tưởng Đi Mò Sông Thương -(Ca Dao) Chương 36: Dã Tràng Se Cát Bể Đông, -nhọc Mình Mà Chẳng Nên Công Cán Gì -(ca Dao) Chương 37: Tích Trù Động-đình Uy Trấn Hán, -danh Lưu Thanh Sử Lực Phù Trưng Chương 38: Anh linh phảng phất Chương 39: Lĩnh-nam Tam Tiên Chương 40: Trên cánh đồng tương Chương 41: Địa linh, nhân kiệt ANH HÙNG BẮC CƯƠNG Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 1: Mở đầu Trước khi vào truyện 1. Quý độc giả đã đọc Anh-hùng Tiêu-sơn giai đoạn một, mang tên Thầy tăng mở nước. Thấy tăng mở nước không phải là tên mới, vì đã xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ mười hai, để chỉ chư vị tăng ni hồi đó biến đổi Phật-giáo từ Ấn-độ, Trung-quốc qua, thành một Phật-giáo dân tộc. Nhân ở hoàn cảnh mất nước lâu dài trong gần nghìn năm, các ngài đã lồng đạo pháp đức Thế-tôn với chủ đạo tộc Việt thời vua Hùng, vua An-Dương vua Trưng làm một. Bởi vậy mới có câu: Đạo pháp bất dị quốc đạo". Vì nước mất đã lâu, nay các ngài dựng lại được, nên người đương thời dùng câu Thầy tăng mở nước để ghi nhớ công ơn. Đạo-pháp, dân tộc là một không có nghĩa toàn thể tộc Việt phải sống trong đạo Phật, mà có nghĩa: Đem đạo pháp của đức Thế-Tôn ra giúp dân tộc. Đem đức từ bi, hỷ xả làm căn bản trong việc trị dân. Giai đoạn hai, chỉ rõ một Phật-tử trong ngôi vị hoàng đế, đem đạo pháp ra trị nước, làm cho dân chúng ấm no, sung sướng như thời vua Hùng, vua Trưng. So sánh với Trung-nguyên bấy giờ hoàn toàn dùng Nho, khác hẳn. Thế nhưng không có ma sao có Phật? Bởi vậy trong triều Thuận-Thiên hoàng đế (Lý Thái-tổ) quên ăn, quên ngủ lo cho dân, thì ma qủi hiện ra dưới lớp Hồng-thiết giáo. Lại có những con ma, con quỷ đội lốt tăng ni như Nguyên Hạnh, Hoàng-Liên, Thạch-Phụng. 2. Đến giai đoạn ba thời đại Tiêu-sơn biến sang một nét mới, thuật công cuộc phòng ngự biên cương phía Bắc của 207 khê động, tức các bộ lạc dân tộc thiểu số. Suốt mấy nghìn năm, cho đến nay, các khê động như hàng rào, bảo vệ Bắc-cương Đại-Việt. Vào thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, lãnh thổ nước ta tới hồ Động-đình. Riêng lĩnh địa quận Giao-chỉ gồm lưu vực sông Hồng tức Bắc Việt ngày nay và vùng lưu vực sông Tả-giang, Hữu-giang tức vùng Nam Trung-quốc như : Lộc-xuân, Nguyên-dương, Khâu-bắc, Văn-sơn, Phú-định (thuộc Vân-Nam). Một phần phía Tây-Nam sông Tả-giang như Điền-lâm, Bách-sắc, Điền-dương, Điền-Đông, Sùng-tả, Bồ-Bắc, Nhạc-xuyên thuộc Quảng-Tây.(1) Những năm 1981-1982-1983 khi công tác cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaceutique, viết tắt là CEP), Ủy-ban trao đổi Y-học Pháp-Hoa (Comité Médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC) du hành sưu khảo trong các vùng trên, tôi đã được phỏng vấn trước sau gần năm mươi giòng họ trong vùng này. Có tới bốn mươi ba giòng cho biết gia phả chép rằng, tổ tiên họ vào thời Tống còn là người Việt. Tôi cũng mò mẫm vào bảo tàng viện địa phương, cơ quan bảo tồn di tích cấp xã để nghiên cứu về kết quả những cuộc khai quật trong các vùng nói trên. Một số mộ tìm thấy những viên gạch trên nắp quan tài ghi tên người quá cố với những niên hiệu của: _ Vua Lê-đại-Hành như Thiên-Phúc (980-988) Hưng-thống (989-993) Ứng-thiên (994-1005), _ Vua Lý Thái-Tổ như Thuận-Thiên (1010-1028), Lý Thái-Tông như Thiên-Thành (1028-1033) Thông-Thụy (1034-1037). _ Di tích gần nhất là ngôi mộ giòng họ Quách ở vùng Điền-Đông thuộc Quảng-Tây ghi: Quách công húy Tuần. Thụy Minh-Mẫn Chung ư thập tam nhật, thập nhị nguyệt, Tý thời Kim vương Đại-Định, bát niên, Ất-Mão Nghĩa là: Ông họ Quách tên là Tuần, tên thụy là Minh-Mẫn, từ trần giờ Tý ngày mười ba, tháng chạp. Nhằm niên hiệu đức vua Đại-Định năm thứ tám, tức năm Ất-Mão. Tra trong sử, Đại-Định là niên hiệu của vua Lý Anh-Tông. Năm thứ tám là năm 1147. Tại Khâu-bắc, Văn-sơn, Phúc-định thuộc Vân-Nam còn có đền, miếu thờ công chúa Bảo-Hòa, nhưng không biết công chúa Bảo-Hòa Lý hay Thân. Người ta đã khai quật nhiều mộ người Việt, ghi lại những di tích đời Trần với niên hiệu vua Trần Thái-Tông, Nhân-tông. Giữa hai vùng đồng bằng Tả-giang, Hữu-giang với Trung-châu Bắc-Việt chia cách nhau bằng khu rừng núi Bắc-biên ngày nay. Trong đám rừng núi này có 207 nhóm sắc tộc Mèo, Thái, Mán, Nùng, Tày, Mường. Sử gia Trung quốc gọi họ là Man-dân, hoặc Khê-động. Sự thực những khê-động là di tích của các Lạc-ấp thời vua Văn-lang, Âu-lạc, Lĩnh-Nam còn sót lại. Khi Mã Viện chiếm trọn Lĩnh-Nam. Y trồng một cột Đồng-trụ ở biên giới Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận. Nếu vậy, đồng trụ phải nằm ở khu tứ giác Nam-ninh, Liễu-châu, Bắc-sắc, Nam-đơn, chứ không thể nằm trong lãnh thổ Bắc-Việt. Thời vua Ngô đánh quân Nam-Hán, ngài chỉ đuổi chúng khỏi trung châu Bắc-Việt, tới vùng núi non Bắc-cương ngày nay, tức đuổi khỏi phần lưu vực sông Hồng, chứ không đuổi khỏi lĩnh địa Giao-chỉ cũ. Từ đấy biên cương Hoa-Việt ngăn cách nhau bằng khu núi non Bắc-cương với 207 Khê-động. Trong thời gian Bắc-thuộc, các khê-động và biên cương không đặt ra. Vì người Hoa coi toàn thể lãnh thổ ta thuộc Thiên-hạ tức đất của họ. Lúc vua Lê Đại-Hành đánh Nam-Hán, cũng không chiếm lại lãnh thổ Lĩnh-Nam cũ đã đành, mà không đòi lại toàn vẹn cố thổ Gia-chỉ. Thành ra các khê-động khi ta mạnh theo ta, khi Tầu mạnh theo Tầu. Đến đời Lý, Đại-Việt giầu mạnh, triều đình mới nghĩ đến việc chiếm lại 207 khê động, vì biết mình ở gần, Tống ở xa. Việc đầu tiên, vua Lý Thái-Tổ (Thuận-Thiên hoàng đế) phong cho Thân Thiệu-Anh thống lĩnh 207 khê-động. Ngài gả công chúa thứ nhì cho con Thiệu-Anh là Thừa-Qúy, với sắc phong Lĩnh-Nam bảo-quốc, hoà dân công chúa, gọi tắt là công chúa Bảo-Hòa. Hai người ra sức tranh dành thống nhất các khê động nhưng không thành. Con của công-chúa Bảo-Hòa cùng phò mã Thân Thừa-Quý là Thân Thiệu-Thái lại được vua Lý Thái-Tông gả công chúa Bình-Dương cho. Chính công chúa Bình-Dương, cùng phò mã Thân Thiệu-Thái đã thành công trong việc chiếm lại toàn vẹn 207 khê động, thống nhất thành nước Bắc-biên. Hai vị còn tiến lên phía Bắc vùng núi đi vào vùng lưu vực Tả, Hữu-giang. Bộ sách này thuật giai đoạn chiến tranh đó. Giai đoạn dành cố thổ trong thời đại Tiêu-sơn mang tên Bình-Dương ngoại sử, Bình-Dương ngoại truyện hoặc Anh-hùng Bắc-cương. Tiếc thay, vùng đất đồng bằng phía Bắc của 207 khê-động, vào thời Lê giặc Mạc Đăng-Dung hiến cho quân Minh, và vào thời Pháp thuộc người Pháp cắt phần nữa cho Trung-hoa dân quốc (2) Đau hơn, gần đây cuộc chiến tranh Hoa-Việt. Việt bị mất 56 xã thuộc vùng Cao-lạng (3) . Sau cuộc chiến, phía Việt quên, không nhắc nhở gì tới đòi lại. 3. Huyền sử kể rằng quốc tổ Kinh-Dương kết hôn với công chúa con vua Động-đình. Rồi quốc tổ Lạc-Long kết hôn với công chúa Âu-Cơ. Sau khi kết hôn cả hai vị quốc tổ đều đưa quốc mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Khi các vị lên núi Chín vạn hoa tầm xuân nở. Sau này, vào thời Lĩnh-Nam, anh hùng cũng đại hội trên núi Tam-sơn tuyên cáo khởi binh. Tiếp theo, có hai trận đánh kinh thiên động địa xẩy ra tại đây. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương chảy theo hướng Bắc về Nam, qua Hồ-Nam, Quảng-Tây. Bên hữu ngạn sông Tương có ngọn núi Thiên-đài là nơi vua Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc (nay là Trung-quốc) tức vua Nghi; con thứ làm vua phương Nam (nay là Việt-Nam) tức vua Kinh-Dương. Di tích đó nay vẫn còn. Huyền sử ghi rằng: Lạc-Long quân chia trăm con đi khắp nơi qui dân lập ấp, mỗi năm hội nhau tại cánh đồng Tương một lần. Vì những lý do đó, đầu năm 1981, tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, đổi máy bay từ Bắc-kinh đi Trường-sa. Từ Trường-sa tôi dùng xe đi lên Nhạc-dương trấn, rồi thuê xuồng thăm hồ Động-đình, núi Tam-sơn, Quân-sơn. Tôi quan sát chi tiết phong cảnh, hoa cỏ vào tiết Xuân để tường thuật cuộc khởi nghiã cùng hai trận đánh vào thời vua Trưng cho đúng. Sau đó tôi đi thăm Tương-đài, ba cánh đồng Tương: Tương-Nam, Tương trung, Tương-Âu và Thiên-đài. Trong bộ Anh-hùng Bắc-cương này, tôi sẽ thuật chi tiết những sự kiện đó. Xin kính mời quý độc giả đọc Anh-hùng Bắc-cương, để thấy tổ tiên ta anh hùng như thế nào. Viết tại Paris ngày giỗ tổ Hùng-vương năm Tân-Mùi (1991). Yên-tử cư-sĩ Trần-đại-Sỹ. Ghi chú (1) Độc giả có thể tìm hiểu rõ ràng hơn vấn đề này xin đọc những bài nghiên cứu về lịch-sử, địa lý, triết học , văn hóa Việt của các vị học giả đã đi tiên phong như: Nguyễn Đăng-Thục, Lương Kim-Định, Thái Văn-Kiểm. (2) Hoàng-xuân-Hãn, Lý-thường-Kiệt, nhà xuất bản Sông-Nhị Hà-nội 1949. Trang 88. (3) Việc này xẩy ra năm 1978. ANH HÙNG BẮC CƯƠNG Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 2: Phật tính, ma tính Phật tính, Ma tính - Nhật-Hồ lão nhân hướng Minh-Thiên chắp tay: - Đại sư! Năm nay lão phu đúng một trăm tuổi. Không biết đại sư niên kỷ đã bao nhiêu? Minh-Thiên đáp lễ: - So về tuổi tác, khi tiên sinh thành danh, cùng với Đông-Nhật lão nhân lập lên nhà Hán, lúc ấy tiểu tăng chưa ra đời. Năm nay tiểu tăng sáu mươi tuổi. Minh-Thiên lại vái liền hai vái: - Tiểu tăng nghĩ niên kỷ, đức độ đã kém, đâu dám so với tiên sinh? Nhưng vì có lệnh của Bình-Nam vương, tiểu tăng đành cam thất lễ. Nhật-Hồ lão nhân vui vẻ: - Lão phu vắng bóng trên giang hồ hơn hai chục năm nay, bây giờ mới xử dụng lại võ công, không biết có chịu nổi mười chiêu của cao tăng đắc đạo không. Nhưng vì thể diện đất nước, lão phu đâu dám sợ nguy hiểm. Hôm nay, lão phu là chủ, đại sư là khách, lão phu xin nhường đại sư ra chiêu trước. Tự-Mai nói nhỏ với Tôn Đản: - Lão này thực đáng sợ. Cứ nghe lời nói cùng hành xử của lão, rõ ra đại tôn sư võ nghệ, đạo cao đức trọng. Có ai dám ngờ lão là một đại ma đầu, giết người không gớm tay. Kể cả Trung-quốc, Đại-Việt, số người mà Hồng-thiết giáo của lão giết, thây chất ắt cao hơn mấy chục ngọn Hoàng-liên sơn. Trần Kiệt gật đầu: - Suốt cuộc đời lão, lúc nào lão cũng ngọt ngào, từ ái, khoan thai. Kể cả lúc lão xử tử người ta, lão cũng nhỏ nhẹ như vậy. Thành ra nhiều người lầm lẫn, chết vì cái ngọt của lão. Quảng trường im lặng đến không một tiếng động. Vì võ lâm đều muốn nghe, muốn kiến thức đại tôn sư của hai nước giao đấu. Minh-Thiên biết, với thân phận của Nhật-Hồ, lão không thể xuất chiêu trước. Ông chắp tay: - Xin thất lễ. Tay phải nắm thành quyền. Tay trái xòe thành chưởng. Ông quay tròn đẩy về trước một chưởng. Chưởng chưa phát ra hết, mà mọi người trên đài muốn nghẹt thở. Nhật-Hồ lão nhân khum tay như ưng vồ mồi, đẩy về trước một chưởng. Ầm một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại. Đại tôn sư của bang Hồng-hà Sử Canh. Bang Đông-hải Hùng Cơ. Phái Phật-thệ Chế Ma Thanh. Phái Vạn-tượng Phủ Văn. Phái Cửu-long Kim Sinh, vì công lực kém, phải nhảy xuống đài, để tránh áp lực làm bị thương. Nhật-Hồ cất tiếng khen: - Kim-cương ban nhược chưởng của phái Thiếu-lâm quả danh bất hư truyền. Qua một chiêu đầu Minh-Thiên cảm thấy công lực của Nhật-Hồ thực khủng khiếp. Trong nhu có cương, trong cương có nhu. Trong chính có tà. Trong tà có chính. Bảo rằng tinh diệu cũng thực tinh diệu. Bảo rằng dũng mãnh cũng thực dũng mãnh. Trong tâm ông kinh hãi: - Trước đây Đông-Nhật lão nhân Lưu Trí-Viễn, đơn chưởng qui tụ đệ tử lập ra nhà Hán, vang bóng một thời. Anh hùng Trung-Quốc không ai địch nổi. Thế mà lão già này lại là sư phụ của Trí-Viễn, quả thực lão không tầm thường. Minh-Thiên tấn công liền bảy chiêu. Mỗi chiêu biến thành bẩy nữa hoá ra bốn mươi chín chiêu. Đây là một tuyệt kỹ đệ nhất của phái Thiếu-lâm, Minh Thiên thắng khắp anh hùng thiên hạ nhờ chiêu này. Mỗi chiêu đánh ra, chưởng phong cực kỳ trầm trọng. Nhật-Hồ lão nhân từng giao đấu với đủ hạng người Hoa, Việt. Tuy chưa biết chiêu chưởng này. Nhưng lão chỉ đỡ chiêu đầu đã hiểu được nguyên lý. Lập tức lão không đỡ nữa, mà phát ra bẩy chiêu cực kỳ thô kệch. Cứ mỗi chiêu lão phát ra, chạm vào chưởng phong của Minh-Thiên, lại bật lên tiếng ầm. Minh-Thiên phải lui một bước. Khi hết bẩy chiêu, Nhật-Hồ quay tròn người, chưởng phong hai tay lão hóa ra thành đồng vách sắt. Minh-Thiên ngơ ngác, vì trên đời ông chưa từng thấy thứ võ công này bao giờ. Nhật-Hồ vừa quay tròn, vừa tiến lại, bất đắc dĩ ông phải đẩy một chiêu Kim-cương ban nhược chưởng vào người lão. Nhưng chưởng vừa ra, lập tức kình phong của ông, hợp với kình phong của lão hoá thành lớp chân khí mới đẩy ngược lại ông. Kinh hoàng ông vội thu chân khí lại, lão đã sát người ông. Ông phi thân lên cao, tránh thế tấn công kỳ quái. Ở trên cao, ông đá gió một cái, người rơi xuống giữa đài. Dưới dài, Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh: - Đỗ phu nhân, võ công này phải chăng nằm trong Hồng-thiết kinh? Đỗ Lệ-Thanh gật đầu: - Thưa cô nương đúng thế. Chiêu vừa rồi gọi là Cuồng phong đại tuyết. Nguyên bên xứ Tây-vực, hàng năm tuyết rơi đến năm tháng. Khi tuyết rơi, gặp gió, thường biến thành lốc tuyết. Nếu Minh-Thiên đánh thẳng vào đó, sẽ bị khí hàn lãnh nhập cơ thể, chân tay tê liệt mà mất mạng. Chiêu này gồm năm biến. Nhật-Hồ mới xử dụng có bốn biến. Trên đài Minh-Thiên đã phản công. Kim-cương ban nhược chưởng lấy yếu chỉ trong kinh Kim-cương thuộc Vô-nhân tướng thiền công. Nguyên Thiền-công nhà Phật có ba lọai gồm Vô-nhân tướng, Vô-ngã tướng, Vô chúng sinh tướng. Cả ba hợp lại thành Vô-ngã tướng. Khi xưa đức Thích-ca Mâu-ni, khi ngồi dưới gốc cây Bồ-đề tìm lẽ giải thoát, có không biết muôn vàn ma vương, quỷ dữ mà ngài mắc nợ với chúng từ bao kiếp trước kéo đến đòi nợ. Ngài đã tìm ra phép Thiền, để giải những nghiệp dĩ đó, rồi đi tới vô thượng chính đẳng chính giác tức đắc đạo. Sau ngài truyền cho đệ tử là Ma-ha Ca-Diếp. Từ Ma-ha Ca-diếp, truyền đến đời thứ tám là ngài Tăng-Giả Nan-Đà. Ngài Tăng-giả Nan-Đà đến Lĩnh-Nam hoằng dương đạo pháp, truyền cho công chúa Trần Năng, Phật-Nguyệt và Trần Thị Phương-Chi trong khi bốn bà đang dự trận hồ Động-Đình. Từ sau trận đánh Hằng-sơn, Phật-Nguyệt với Trần Thị Phương-Chi bỏ đi tu rồi tuyệt tích. Còn Trần Năng, khi Bắc-bình vương Đào Kỳ với vương phi Phương-Dung tuẫn quốc, bà cùng Hùng Bảo bỏ vào Cửu-chân kháng chiến. Lúc thế nước tuyệt vọng. Bà đem khắc hết Vô ngã tướng thiền công vào trong động Xuân-đài, về sau Bố-cái Đại-vương học được. Nay Khai-Quốc vương với Tự-Mai vô tình tìm ra, luyện nhưng chưa thành tựu. Thiền-công Vô-ngã tướng còn chép trong bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, mà Mỹ Linh đã luyện thành. Hai loại thiền công này vẫn tồn tại. Trong khi tại Tây-trúc đã tuyệt tích. Kể từ Phật Thích-ca, đến đời thứ hai mươi tám bên Tây-trúc, ngài Bồ-đề Đạt ma cỡi thuyền đến Lĩnh-Nam truyền đạo. Ngài Bồ-đề Đạt-Ma lại chỉ học được loại thiền công Vô-nhân tướng. Sau khi ở Lĩnh-Nam ít lâu, ngài sang Trung-nguyên, lập ra phái Thiếu-lâm. Cho nên yếu chỉ thiền công mà Minh Thiên dùng tức Vô-nhân tướng công. Về sau tổ thứ ba của phái Thiếu-lâm tên Tăng-Sán, đã nhân luyện thiền, rút yếu chỉ trong kinh Kim-cương, chế ra ba mươi sáu chiêu Kim-cương ban nhược chưởng. Cứ bình tâm mà xét, bất cứ cao thủ của phái nào, dù cao đến đâu, cũng không thể đấu với Nhật-Hồ lão nhân. Bởi vì lão thành một thiên tài võ học. Hơn nữa lão đã có một trăm năm công lực. Võ công của lão vốn rút từ Hồng thiết kinh, một kinh của tà ma bên Tây-thiên. Với công lực đó, từ mấy chục năm nay, không ai đỡ nổi của lão mười chiêu. Trước đây, chỉ có Vạn-Hạnh thiền sư đấu ngang tay được với lão mà thôi. Nay thêm Minh-Thiên chịu được mấy chục chiêu, đã tạo một kỳ tích. Vì Thiền-công của ông thuộc Phật gia, có thừa tính chất hoá giải bất cứ ma nghiệp, ma công nào. Cho nên mỗi chiêu Nhật-Hồ đánh ra, đều bị Kim-cương chưởng hoá giải hết. Những cao thủ nhìn cuộc đấu, đều nhận thấy công lực, chiêu số của Nhật Hồ tinh diệu, hùng mạnh hơn Minh-Thiên nhiều. Mỗi chiêu lão đánh ra như núi lở, như thành nghiêng, nhưng chạm vào chưởng Minh-Thiên, lại biến mất. Đấu được hơn trăm hiệp, thình lình Nhật-Hồ lão nhân đánh ra một chiêu rất hung hiểm. Đám cao thủ phái Tản-viên la lớn: - Ác ngưu nan độ. Bình một tiếng. Minh-Thiên bật lui liền ba bước, mặt đỏ gay. Trong khi Nhật-Hồ lão nhân thản nhiên như không. Thấy thành công, lão tỉnh ngộ, phát chiêu nữa đến vù một cái. Minh-Thiên nghiến răng đỡ. Ầm một tiếng, ông bật lui liền ba bước, người lảo đảo. Đám đệ tử phái Mê-linh lại kêu lên: - Thiết kình phi chưởng. Nguyên Nhật-Hồ lão nhân có rất nhiều giáo chúng thuộc đủ mọi môn phái qui phục. Trong khi đàm luận, lão học được một số chiêu thức võ công Đại Việt. Bây giờ vô tình lão đem xử dụng lại thắng thế. Lão nghĩ thầm: - Chưởng của mình do hai vị thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh chế ra không thể thắng nổi Kim-cương ban-nhược chưởng của bọn tà ma Phật từ Tây-trúc truyền qua. Trong khi chưởng của Lĩnh-Nam, lại thắng dễ dàng là tại sao? À phải rồi, tất cả võ công cổ của Lĩnh-Nam đều do lòng tin vào thần quyền nhảm nhí tức một loại tà ma. Ta xử dụng mà đắc thế chẳng qua lấy tà chọi tà. Nhật-Hồ lão nhân theo Hồng-thiết giáo từ nhỏ. Lão tin tưởng tuyệt đối vào tôn giáo của mình. Mà quan niệm của Hồng-thiết giáo, tất cả tôn giáo khác đều thuộc tà ma ngoại đạo, phải giết hết. Ai càng giết nhiều giáo chúng ngoài Hồng-thiết giáo, khi chết về với thế giới Mã-Mặc, Lệ-Anh sẽ càng mau trở thành thần, thành thánh. Lão u mê như vậy, nên lão giết người lại coi như một nhiệm vụ. Hôm nay, lão thấy võ công Hồng-thiết của mình rõ ràng cực kỳ cao thâm. Cực kỳ tinh diệu, lại không thắng nổi Kim-cương ban-nhược chưởng. Trong khi lão chỉ dùng mấy chiêu tạp nhạp của Đại-Việt lại thắng Minh-Thiên dễ dàng. Lão quy vào Hồng-thiết là võ công Thánh không thể thắng võ công nhà Phật, một thứ võ công tà ma. Phải dùng võ công Lĩnh-Nam, cũng một thứ tà ma mới thành công. Tức dĩ độc, trị độc. Lão tiếp tục phát những chiêu thức lẻ tẻ của các phái, bằng công lực cực kỳ cao thâm. Đến chiêu thứ mười, Minh-Thiên bay tung xuống đài. Ông oẹ một tiếng, miệng phun ra máu. Ông nghiến răng, ngồi dậy, điều tức, mửa ra một búng máu nữa. Là cao tăng đắc đạo, thắng bại đối với ông không quan trọng. Ông khoan thai lên đài chắp tay: - Lão nhân! Bần tăng chịu thua lão nhân. Nói rồi ông định bước xuống đài. Bỗng thấp thoáng, một người từ dưới đài nhảy lên, chính là Thiếu-Mai. Nàng móc trong bọc một bình thuốc, đổ ra bốn viên, hai tay dâng lên cho Minh-Thiên: - Đại sư! Tiểu nữ xin cúng dàng bốn viên thuốc này. Đại sư dùng ngay đi, e không bị nội thương nặng. Minh-Thiên cầm lấy mấy viên thuốc bỏ vào miệng. Ông chắp tay tạ Thiếu-Mai: - Đa tạ tiểu cô nương. Ông xuống đài, tư thái nhẹ nhàng, tựa như không thiết tha đến sự thua được vừa rồi. Qua cuộc đấu, rõ ràng ông chiến đấu vì Tống, có hại cho Đại Việt. Nhưng tư thái đạo mạo, thanh thản của một cao tăng đắc đạo đã khuất phục quần hùng. Sư thái Tịnh-Tuệ hướng vào Triệu Thành: - Triệu thí chủ. Khi thí chủ nhận cho hai bên Tống, Việt đấu ba trận. Nếu bên Việt thắng hai, sứ đoàn phải quỳ gối làm lễ đủ tám lễ trước bàn thờ anh hùng đất Việt. Sau nữa không được bàn đến việc niên hiệu, quốc danh nữa. Nay Đại-Việt thắng, xin các vị giữ lời hứa cho. Mặt Triệu Thành xám như tro. Y vẫy tay gọi thủ hạ lên đài. Trần Tự-An, Đoàn Huy thắp hương trao cho sứ đoàn. Triệu Thành cùng cả bọn quỳ gối lễ đủ tám lễ. Lễ xong y nói: - Khi xưa ngài Đào Kỳ được vua Quang-Vũ nhà Hán phong tước Hán trung vương. Nay tại hạ được phong Bình-Nam vương, thuộc hàng con cháu. Hán-trung vương làm đại công thần nhà Hán. Tại hạ lễ trước bàn thờ ngài để tỏ lòng hiếu kính bậc tiền bối. Hy vọng sau này đất Giao-chỉ sẽ còn nhiều anh hùng vì Trung-quốc ra sức, để tiếp nối sự nghiệp của Hán-trung vương. Sư thái Tịnh-Huyền nói: - Bần ni nhân danh võ lâm Đại-Việt kính mời các vị ở lại thụ lộc, uống chén rượu nhạt. Không biết các vị có nhận cho không? Triệu Thành lắc đầu. Y nói với Nhật-Hồ: - Tiên sinh! Vãn bối xin phép tiên sinh được nói mấy câu với Nam-bình vương Lý Công-Uẩn. Nhật-Hồ lão nhân gật đầu: - Dĩ nhiên được. Triệu đại hiệp không thể nhân đanh Bình-Nam vương ra lệnh cho võ lâm Đại-Việt. Nhưng vẫn có thể nhân danh sứ thần triều Tống, nói với Đại-Việt hoàng đế. Triệu Thành vận khí vào đơn điền nói lớn: - Nam-Bình vương gia. Khi vua Thái-tông bản triều còn tại thế, người hằng băn khoăn về đất Giao-chỉ này, nơi rồng nằm hổ phục. Niên hiệu Thiên phúc thứ nhì (981), thiên triều nghe lời sàm tấu của bọn biên thần, sai Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện mang quân sang đánh Giao chỉ. Vì vậy mới xẩy ra trận Bạch-đằng, Chi-lăng. Sau người cho điều tra, biết rằng bị sàm tấu, đã ra lệnh chém bọn chúng, rồi sắc phong cho Lê Hoàn làm Giao-chỉ quận vương. Suốt bao năm, Lê Hoàn trấn phương Nam, làm cho dân chúng ấm no, giặc cướp không còn. Hàng năm sai sứ sang triều kiến, lễ số không thiếu. Vì vậy tiên hoàng không ngớt lời khen y, gia phong chức tước. Ngừng lại một lúc, y tiếp: - Công đức của Lê Hoàn khiến tiên hoàng dự định cải Giao-chỉ thành nước An-Nam. Đến đời Chân-tông niên hiệu Cảnh-đức thứ nhì (1005) giữa lúc triều đình định sai sứ sang sách phong, thì Lê-Hoàn chết. Sau đó các con tranh nhau. Cuối cùng Ngoạ-triều lên nối ngôi, tàn ác quá đáng, nên Thiên triều không thể phong cho làm vua một nước. Y hắng rặng một tiếng, rồi tiếp: - Long-Đĩnh chết. Bấy giờ vương gia đang làm Tả-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, tự lên kế ngôi thay Long-Đĩnh. Thiên-triều nhiều lần sai sứ sang dục vương gia tìm con cháu nhà Lê tái lập chính thống. Nhưng vương gia đều thượng biểu rằng con cháu nhà Lê không còn ai. Thiên triều cũng tin vậy, phong cho vương gia tước Nam-Bình vương, tạm quyền trị nước. Thế mà vương gia tiếm xưng đế hiệu Thuận-Thiên, quốc hiệu Đại-Việt. Như vậy thực quá lắm. Y chỉ vào Hồng-Sơn đại phu: - Năm trước đây, Thiên-Thánh hoàng-đế cử tiểu vương đi sứ, mục đích tìm con cháu nhà Lê. Hay đâu trời không phụ lòng người, tiểu vương tìm được Nam-Quốc vương Lê Long-Mang, chính là nhân vật kỳ vĩ, võ công vô địch thiên hạ, ơn đức trải khắp Hoa-Việt. Tiểu vương về tâu lại, ắt hẳn Thiên triều sẽ phong cho Nam-Quốc vương làm hoàng đế, quốc hiệu vẫn còn tên Đại-Việt. Niên hiệu tùy Nam-Quốc vương chọn. Y ngừng lại nghỉ để thở mấy hơi rồi tiếp: - Vậy tiểu vương nghĩ Nam-Bình vương nên trả ngôi chính thống cho họ Lê. Vạn nhất vương không trả, cái gì sẽ xẩy ra? Võ lâm Giao-chỉ sẽ nổi dậy chống vương. Phái Sài-sơn dĩ nhiên chống vương. Phái Đông-a đã hai đời thân Lê. Đương kim Thiên-trường ngũ kiệt vốn bạn cũ của Hồng-Sơn đại phu, ắt phái Đông-a thành đạo quân chính kéo về Thăng-long. Chiêm-thành, Chân-lap, Lão-qua sẽ đem quân vào. Đại quân Thiên-triều ở hai lộ Quảng hơn trăm vạn vượt biên tiến sang. Như vậy liệu vương gia có giữ nổi không? Việc đó tùy vương gia xử trí. Triệu Thành để ý, thấy Hồng-Sơn đại phu có vẻ rửng rưng với lời nói của y. Y chửi thầm: - Thằng Lê Long-Mang này kiến thức không tầm thường, lại thêm con vợ đẹp như tiên của nó luôn công kích Thiên-triều. Có khi y đổi ý kiến cũng nên. Đã vậy ta bốc lão già hiếu danh Nhật-Hồ lên cho bọn Nam-man đánh nhau chơi, có như thế ta mới tiến quân sang được. Nghĩ vậy y cúi đầu trước bàn thờ lễ tám lễ rồi tiếp: - Thưa các vị anh hùng con cháu Bắc-bình vương. Qua ba trận đấu vừa rồi, tiểu vương thấy võ công Giao-chỉ thịnh hơn bao giờ hết. Giao-chỉ xứng đáng thành Đại-Việt. Người cai trị Đại-Việt không phải quận vương, mà phải thành hoàng đế. Đại-Việt hoàng đế chỉ có thể là Nam-Quốc vương. Nếu vì lý do nào đó, các vị không tin tưởng vào Nam-Quốc vương, phải cử lấy một vị đại tôn sư võ lâm lên thay. Thiên-triều cũng sẽ phong làm Đại-Việt hoàng đế, và tránh khỏi chiến tranh. Thôi, tiểu vương xin lui. Sau hai ngày nữa, tiểu vương sẽ đến Cổ-loa xem duyệt binh, chờ kết quả quyết định của Nam-Bình vương cùng các vị tôn sư võ lâm. Nói rồi y định xuống đài, thấp thoáng bóng xanh, Thanh-Mai nhảy lên, đứng cạnh y. Y giật mình lùi lại, miệng lắp bắp: - Trần cô nương. Từ Thiên-trường cách biệt, cô nương vẫn mạnh chứ? Miệng nói, mà tim y đập rộn ràng. Dưới ánh nắng hè, da mặt Thanh-Mai hồng hào, tươi đẹp như một bông hoa lan mới nở, đang khoe sắc. Quần hùng thấy thế khinh thân của nàng vừa mau, vừa nhẹ, tỏ ra nội công thâm hậu vô cùng. Khi nhìn rõ thấy vẻ đẹp sắc sảo của nàng, giới trẻ bật lên những tiếng suýt xoa. Thanh-Mai chắp tay thi lễ: - Tiểu nữ Trần Thanh-Mai, đệ tử phái Sài-sơn, xin kính cẩn ra mắt Triệu vương gia. Triệu Thành kinh ngạc: - Trần cô nương! Rõ ràng cô nương thuộc phái Đông-a, hơn nữa là ái nữ của vị chưởng môn danh trấn thiên hạ, cớ sao lại xưng làm đệ tử phái Sài sơn? Thanh-Mai cười rất tươi: - Dĩ nhiên, gia nghiêm làm chưởng môn phái Đông-a. Nhưng tiểu nữ được Hồng-Sơn đại phu ưu ái thu làm đệ tử. Không những thu làm đệ tử, mà được coi như ái đồ của người. Vương gia có biết tại sao không? Trong mười đại đệ tử của người, tiểu nữ vốn nhỏ tuổi nhất, vì vậy cũng được sư phụ cưng chiều. Triệu Thành thấy Thanh-Mai lên đài, y biết thế nào cô gái xinh đẹp này cũng gây sự với mình chứ không sai. Y hỏi: - Không biết cô nương có điều chi dạy bảo? Kể từ ngày gặp gỡ cô nương lần đầu, tại hạ thấy không gian như thu hẹp lại, trăm hoa kém tươi. Tại hạ những tưởng về Trung-nguyên, cử mai mối, đem xe vàng đón cô nương làm vương phi. Thế nhưng... thế nhưng cô nương cứ theo làm khó dễ tại hạ hoài, đạo lý ở chỗ nào? Thanh-Mai dõng dạc nói: - Triệu vương gia ơi, tiểu nữ không hề làm khó dễ vương gia. Bình tâm mà xét, trong thiên hạ, vương gia chỉ ngồi dưới có Thiên-Thánh hoàng-đế, mà ngồi trên trăm triệu người, uy quyền biết mấy. Võ công kiến thức vương gia lại xuất chúng. Đương nhiên vương gia trở thành nguồn ước mơ của các thiếu nữ thiên hạ. Khi vương gia mới gặp tiểu nữ. Vương gia đã tỏ ý cầu thân. Tiểu nữ có phải gỗ đâu mà không cảm động? Nàng ngừng lại chỉ vào Hồng-Sơn đại phu: - Huống hồ cứ như lời vương gia nói, vương gia sang đây mục đích vì sư phụ của tiểu nữ, hưng diệt, kế tuyệt. Vương gia đã đến Vạn-thảo sơn trang cùng Thiên-trường tặng lễ vật lớn cho sư phụ cùng gia nghiêm tiểu nữ. Với bằng ấy lý do, đời nào tiểu nữ dám vô phép với vương gia, mà vương gia bảo rằng tiểu nữ làm khó dễ? Nàng đưa mắt nhìn Đoàn Huy, rồi tiếp: - Có điều tiểu nữ sinh làm gái Việt. Vương gia ơi, gái Trung-quốc lấy chồng, chỉ biết có chồng. Chồng là nhất. Nhưng gái Việt lại khác. Gái Việt yêu nước hơn yêu chồng. Chồng đứng thứ tư, sau nước, sau sư phụ, và sau song thân. Cả quảng trường vỗ tay vang dội, hết tràng này đến tràng khác. Người người tán tụng: - Đệ tử danh gia có khác. Nói năng đúng đạo lý. Hành xử đâu ra đấy. - Truyện! Một kiến thức của ông bố đã làm nghiêng thiên hạ rồi. Huống hồ thêm kiến thức của Hồng-Sơn đại phu! - Người ta đồn nàng là một trong Thuận-Thiên cửu hùng thì phải. Em kết nghĩa của Khai-Quốc vương. Nghe đâu Thuận-Thiên hoàng đế định phong làm Vương phi Khai-Quốc vương đấy. - Nếu hoàng-cung có một Vương-phi như vậy thực phúc đức quá. Nghe đâu phen này Hồng-Sơn đại phu được Thiên-trường đại hiệp hỗ trợ về đòi lại ngôi vua. Thế không biết nàng theo sư phụ với bố hay theo nghĩa huynh. - Chắc theo sư phụ. Nàng vừa nói: Gái Việt coi trọng nhất nước thứ đến sư phụ. Chồng đứng thứ tư kia mà. - Cứ chờ xem! Thanh-Mai đợi cho tiếng vỗ tay ngưng, nàng tiếp: - Suốt hơn năm qua, mỗi bước chân đi của vương gia, tiểu nữ hằng theo dõi. Vì vậy, hôm nay vương gia tới đây, ngỏ lời với anh hùng về ngôi chính thống của Đại-Việt, tiểu nữ bắt buộc phải lên tiếng. Triệu Thành kinh hoảng: - Con nhỏ này kiến thức thực bao la, trí mưu không thua ai. Mình không cẩn thận e nguy với nó. Bất cứ nó nói gì, ta cứ chối biến là xong. Y làm ra vẻ đa tình: - Tại hạ xin rửa tai nghe lời vàng ngọc của cô nương. Thanh-Mai mỉm cười chỉ vào bọn Triệu Anh: - Ngày mười tư tháng hai năm trước, tiểu nữ theo bổn sư vào Thanh-hoá dự lễ Lệ-Hải bà vương. Trên đường đi tiểu nữ gặp Tung-sơn tan kiệt cùng Quách Quỳ. Các vị ỷ lớn hiếp nhỏ, toan giết một thiếu niên thôn dã. Rồi đêm đến vào đập phá đền thờ Tương-Liệt đại vương. Nàng vẫy tay, Tôn Đản từ dưới đài bước lên. Nó thuật tỷ mỉ cuộc đấu võ giữa nó với Quách Quỳ, sau đó bọn Triệu Thành đột nhập đền thờ Nguyễn Thành-Công phá tượng tìm di thư như thế nào một lựơt, không bỏ một chi tiết nhỏ. Triệu Thành biết không chối được. Y tự biện lý: - Việc đó do Tung-sơn tam kiệt tự tác. Bản nhân đã nộp vàng tại trấn Thanh-hóa theo luật Giao-chỉ để chuộc tội rồi. Quần hào đồng lên tiếng nguyền rủa. Thanh-Mai đợi cho tiếng nguyền rủa của dứt. Nàng tiếp: - Lần đầu tiên tiểu nữ gặp Vương-gia trên núi Chung-chinh, vào ngày hôm sau, tức rằm tháng hai năm trước. Vương gia cùng với tất cả các vị tùy tòng đây không ngớt xỉ mạ võ công Đại-Việt là thứ võ công học lóm của Trung-quốc. Vương gia không hề nói đến việc tìm con cháu nhà Lê. Vương gia dụ dỗ bọn thiếu niên để chúng chỉ động Xuân-đài tìm nơi cất võ công thời Lĩnh-Nam. Trong đêm đó, vương gia dùng độc chất của Hồng-thiết giáo Trung-quốc, mưu hại đại ca của tại hạ, nhưng không thành. Nàng vẫy tay, Tôn Trung-Luận lên đài: - Vị tiền bối này bấy giờ đang làm ông từ giữ đền Tương-Liệt đại vương làm chứng. Ngày mười bẩy tháng hai, Vương gia cùng sứ đoàn đến lục xét đền thờ Tương-Liệt đại vương lần nữa, bắt trói ông từ tra khảo nơi cất võ kinh. Tôn Trung-Luận tường thuật tỷ mỷ những việc xẩy ra hồi ấy. Nhưng ông cố ý lờ vụ anh em Đàm Toái-Trạng, Đàm An-Hoà phản quốc làm gian tế cho Tống, vì Khu-mật viện muốn việc bọn họ Đàm phản quốc chưa đến lúc công bố. Nàng hướng vào công chúa Lĩnh-Nam Bảo-quốc Hoà-dân, đang ngồi trên ghế của vua Bà Bắc-biên: - Ngày hai mươi mốt tháng hai, trong lúc chúng tôi tế Lệ-Hải Bà-vương, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Lý Tự xuất hiện, mưu giết công chúa Bình Dương, cùng phá đại hội. Giữa lúc đó vua Bà Bắc-biên xuất hiện, kể tội trạng nguyên Địch Thanh ăn trộm vàng của công khố Đại-Việt. Công-chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa đứng lên kể chi tiết vụ Lý Tự toan giết Mỹ-Linh cùng việc bọn Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh xâm nhập Bắc-biên dụ dỗ các khê động theo Tống, ăn cắp vàng của công khố Đại-Việt. Sau đó âm thầm đi Thiên-trường, rồi vào Thanh-hoá. Đợi công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa kể xong, Thanh-Mai thuật chi tiết bọn Tung-sơn tam kiệt cùng với Vệ-vương Đinh Toàn tìm hầm đá, chép bộ Linh Nam vũ kinh vào cuốn sử của Mỹ-Linh. Sau đó hủy những tấm bia kia đi. Thanh-Mai thuật đến đây, quảng trường ồn ào hẳn lên bàn tán. Quần hùng căm phẫn sứ đoàn đến cùng tận. Nguyên từ khi thành lập nước Việt cho đến thời Lý, chưa bao giờ võ học lại phồn thịnh như thời Lĩnh-Nam. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các phái phải qui ẩn, bí mật thu dụng đệ tử. Vì vậy trải hơn nghìn năm Bắc thuộc, võ công bị mai một đi rất nhiều. Cho đến khi vua Ngô lập lại tự chủ, các gia, các phái mới hoạt động trở lại. Nhưng võ học thời Lĩnh-Nam, mười phần, thất lạc đến tám chín. Các đại tôn sư chỉ biết than ngắn thở dài. Trong gần một trăm năm qua, võ lâm Trung-quốc, Đại-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Lão-qua thi nhau tìm di tích bộ Lĩnh-Nam võ kinh, nhưng tuyệt vô âm tín. Người ta cho rằng, ai tìm thấy bộ võ kinh đó, sẽ trở thành anh hùng vô địch, võ lâm đại đế. Bây giờ họ nghe Thanh-Mai nói bọn Triệu Thành được Vệ-vương Đinh Toàn chỉ cho chỗ cất dấu di thư. Sau khi chép xong, bọn y phá hủy bia đá đi. Quần hùng thấy rằng, muốn tìm lại võ thuật thời Lĩnh-Nam, phải tranh dành với sứ đoàn Triệu Thành. Nhưng phái nào cũng cảm thấy e dè, vì bọn Triệu Thành tuy ít người, nhưng gồm toàn những đại đao thủ. Vì vậy không ai muốn ra mặt gây hấn. Họ im lặng, tìm kế vạn toàn. Thanh-Mai thuật tiếp việc bọn Tung-sơn tam kiệt bắt nàng cùng Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đi Vạn-hoa sơn trang, Vạn-thảo sơn trang. Cùng những việc xẩy ra trong Vạn-thảo sơn trang. Nàng kết luận: - Cho đến lúc này, vương gia mới biết sư phụ của tôi là Nam-quốc vương. Vương gia không ngần ngại gì ném Vệ-vương Đinh Toàn vào hồ nước. Tại sao? Vì Vệ-vương thân cô, thế cô, võ công lại không cao. Trong khi sư phụ tôi võ công vô địch thiên hạ. Ơn đức trải khắp lê dân. Thế mà vương gia bảo Thiên-Thánh hoàng-đế cử vương gia sang Đại-Việt hưng diệt, kế tuyệt, tìm con cháu nhà Lê! Ai mà tin được. Tôi xin mời một nhân vật tối ư quan trọng lên làm chứng. Nhân chứng ấy chính là sư mẫu tôi. Từ chỗ phái Sài-sơn, một thiếu phụ, cực kỳ xinh đẹp trong lớp áo lụa đỏ, quần đen, dây lưng xanh, cổ choàng khăn xanh, khoan thai lên đài. Dưới ánh nắng chói chang, nước da trắng hồng, mái tóc đen nhánh óng ánh. Mỗi bước đi của nàng như muôn ngàn bông hoa trổ sắc. Người đó chính là Lâm Huệ Phương. Quảng trường có hàng mấy vạn người, mà không một tiếng động. Muôn con mắt đều đổ vào Huệ-Phương. Không ai có thể ngờ, tạo hoá lại nặn ra con người đẹp đến như vậy. Huệ-Phương lên đài, hướng vào bàn thờ Bắc-bình vương lễ tám lễ, rồi nàng tường thuật chi tiết việc Triệu Thành tới Vạn-thảo sơn trang thuyết phục Hồng-Sơn đại phu khởi binh cũng như thái độ trở mặt của Triệu Thành với Đinh Toàn. Huệ-Phương đã xinh đẹp, tiếng nói lại ngọt ngào, ai nghe cũng phải xiêu lòng. Trước đây Thuận-Thiên hoàng-đế cùng ba vị hoàng hậu, tốn không biết bao nhiêu công phu mới tuyển được Huệ-Phương cho Khai-Quốc vương, với hy vọng Vương vừa ý, sau đó phong nàng làm Vương-phi. Bẵng đi hơn năm, trong ngày hội yến ở điện Long-hoa, hoàng-đế cũng như hoàng-hậu không thấy Huệ-Phương đến chầu. Các ngài cật vấn Vương. Vương im lặng chịu tội. Hôm sau, các ngài tới vương phủ điều tra, mới biết vương đã đem nàng trả cho Hồng-Sơn đại phu. Long tâm nổi giận vô cùng. Vì ngài cho rằng sự hy sinh của Khai-Quốc vương vô ích. Theo các ngài nghĩ Huệ-Phương ắt hùa theo Hồng-Sơn đại phu, khi việc thành, nàng đương nhiên trở thành hoàng hậu. Chứ tội gì giúp họ Lý. Hôm nay, trong lúc nguy nan, trước áp lực của Tống, của quần hùng, ngai vàng rung rinh, Huệ-Phương xuất hiện. Nàng không những không hùa theo giúp Hồng-Sơn đại phu mà lại thẳng thắn tố cáo âm mưu của Tống. Bất giác ngài đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương. Trong khi Vương như ngây như dại, ngắm nhìn Huệ-Phương đắm đuối. Huệ-Phương kết luận: - Triệu vương gia. Tiểu nữ đa tạ vương gia đã chiếu cố tới phu quân của tiểu nữ. Xây đựng lại đại nghiệp của tổ tiên, ai mà chẳng muốn, chẳng cầu? Huống hồ phu quân của tiểu nữ. Tiểu nữ là gái Việt. Lấy chồng, chồng đứng hàng tư trên đời. Đạo lý Lĩnh-Nam định rằng, lấy chồng, phải gánh vác giang sơn nhà chồng. Đúng ra tiểu nữ phải nhất tâm, nhất dạ cùng đại phu lo lập lại chính thống Lê triều. Nhưng giữa chính thống Lê triều với việc an nguy xã tắc mấy ngàn năm của giòng Việt lại không thể cùng đứng trong trường hợp này. Tiếng vỗ tay khắp quãng trường vang dội. Pháo thăng thiên tung lên nổ khắp bầu trời. Ban nhạc Hồng-thiết giáo, Sài-sơn cử bài Xuân Việt-nữ chiến Trường-an của Nguyễn Giao-Chi thời Lĩnh-Nam. Đợi cho bản nhạc dứt, Triệu Thành chỉ vào Huệ-Phương hỏi Hồng-Sơn đại phu: - Nam-Quốc vương gia! Vương gia thuộc giòng dõi chính thống của triều Lê. Xin vương gia quyết cho một điều, rằng vương gia muốn lập lại Lê triều hay không? Không lẽ vương gia quên mất sự nghiệp của tiên vương đã tốn không biết bao nhiêu tâm huyết xây dựng? Còn vị nữ lưu này có phải quý phu nhân không? Dù nàng có phải quý phu nhân, những gì nàng nói, có phải ý vương gia không? Hồng-Sơn đại phu đứng dậy khoan thai nói: - Dĩ nhiên nàng là tiện nội. Những điều nàng nói, nàng nhân danh con dân Đại-Việt. Xin vương gia đối thoại với nàng. Huệ-Phương hướng về phía phái Sài-sơn, chỗ Hồng-Sơn đại phu ngồi: - Hồi nãy, Trần tiểu thư đã nói: Gái Việt yêu nước hơn yêu chồng. Tiện nữ đành lỗi đạo với phu quân, đặt sự an nguy trăm họ lên trên hạnh phúc vợ chồng. Đặt sự nghiệp của Lê triều, sau sự nghiệp mấy nghìn năm của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng. Hiện nay phía Bắc, Thiên-triều mắc vạ với Khất-đan. Phía Tây gặp Tây-hạ binh hùng tướng mạnh. Thiên-triều đành hướng xuống Nam mưu tính Đại-Việt, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua. Sau đó đến Đại-lý. Bấy giờ có đủ lương thực, quân lính, tiến chiếm Liêu, Tây-hạ. Muốn tính Đại-Việt nhưng Thiên triều thấy đống xương ở Chi-lăng cao hơn núi, xác lấp sông Bạch-đằng chưa thông. Vì vậy phải làm cho người Việt đánh nhau. Khi cuộc nội chiến chấm dứt, võ lâm chia rẽ, tinh lực kiệt quệ, bấy giờ mới khiến Chiêm-thành từ dưới đánh lên. Lão-qua từ Tây đánh vào. Quân thiên triều từ Lưỡng-Quảng theo đường bộ tràn sang. Thủy quân Mân- Việt đổ vào vùng Thiên-trường. Sau khi chiếm được Đại-Việt, ắt Chiêm thành, Chân-lạp, Lão-qua không đánh cũng phải qui hàng. Triệu Thành cười ha hả, rồi nói: - Nam-quốc vương phi. Những lời vương phi nói đó chẳng qua là lý luận. Chứ thực sự thiên triều chỉ muốn lập lại giòng giống trung thành mà thôi. Xin vương phi cho biết chứng cớ ở đâu? Huệ-Phương mỉm cười: - Chứng cớ ư? Ở đây có rất nhiều. Tôi để Trần tiểu thư nói ra. Vì Trần tiểu thư là một trong nạn nhân của vương gia. Thanh-Mai vận nội lực, nói lớn: - Triệu vương gia ơi! Triệu vương gia tài thì có tài. Nhưng phải cái vương gia khinh địch, coi Đại-Việt không người, nên việc làm của vương gia bị lộ hết rồi. Sau khi rời Vạn-thảo sơn trang, vương gia âm thầm đi Thanh-hóa, đến họp ở Hồng-hương mật cốc, phía sau chùa Sơn-tĩnh. Bọn tại hạ theo dõi biết hết. Triệu Thành cười hả hả đánh trống lảng: - Trần tiểu thư ái nữ của Côi-sơn đại hiệp, không lo học văn, luyện võ, mà theo dõi bọn tại hạ. Như vậy cô nương làm việc cho Khu-mật viện của họ Lý ư? Thanh-Mai lắc đầu: - Triệu vương gia lại quên rằng gái Việt yêu nước hơn yêu thầy, yêu cha mẹ, yêu chồng con. Khi tiểu nữ biết vương gia ẩn ẩn hiện hiện mưu hại Đại Việt, tiểu nữ cần theo dõi. Việc phòng vệ đất nước đâu phải của Khu-mật viện, mà của tất cả con dân Đại-Việt. Quảng trường vỗ tay vang dội. Thanh-Mai tiếp: - Trong đêm họp ở Hồng-hương mật cốc, có bằng này người: Vương gia với các vị tùy tùng. Phía Chiêm-quốc có chưởng môn phái Phật-thệ Chế Ma Thanh, phu nhân Mỵ-Thu, đại tướng quân Ngô Đà. Phía Lão-qua có hoàng thúc Phủ Văn cùng vương phi Nàng Chay. Phía phái Tiêu-sơn có Nguyên Hạnh đại sư cùng phu nhân tên Cao Thạch-Phụng. Cả quảng trường ồ lên đồng loạt, đưa mắt nhìn vào Minh-Không thiền sư. Phái Tiêu-sơn, nơi xuất thân của vua Lê Đại-Hành, của đương kim thiên tử, nơi tượng trưng cho tinh thần quốc gia. Nguyên-Hạnh là cao tăng đắc đạo, đệ tử của Bố-Đại hoà thượng. Suốt bao năm qua uy tín chùa Sơn-tĩnh muốn ngang với Tiêu-sơn. Bây giờ Thanh-Mai tố đích danh Nguyên-Hạnh họp với Tống, hơn nữa tố rõ Nguyên-Hạnh có vợ tên Cao Thạch-Phụng. Hỏi ai không kinh hoàng? Thanh-Mai chỉ vào Phủ Văn, với Chế Ma Thanh: - Triệu vương gia cho người dụ dỗ Phủ vương gia giết cháu, đoạt ngôi vua, sau đó đem quân đánh vào phía Tây Đại-Việt. Dụ dỗ hoàng-đệ Chế Ma Thanh chiếm ngôi vua của anh, rồi đem quân đánh vào phía Nam Đại-Việt. Vương gia lầm lẫn mất rồi. Vương gia quên rằng Quốc-tổ, Quốc-mẫu cho các hoàng tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi vào Nam. Hoàng tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi vượt núi, sang phía Tây qui dân lập ấp. Vì vậy người Chàm, người Lào, người Việt đều thuộc giòng giống Việt-thường. Hoàng thúc Phủ Văn, hoàng đệ Chế Ma Thanh một mặt giả chấp thuận đề nghị của thiên triều. Một mặt cho người báo cho Khu-mật viện Đại-Việt biết hết mọi tin tức của cuộc họp này. Quần hùng vỗ tay hoan hô vang dội. Thực sự ra không phải vậy. Phủ Văn, Chế Ma Thanh muốn mượn thế Tống, giết chúa lên làm vua. Chúng hối lộ vàng bạc cho Triệu Thành để được phong chức tước. Không ngờ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái biết rõ âm mưu này, báo về cho Khai-Quốc vương. Nhân khi bọn Tống đi từ Thiên-trường về Thăng long, bị Thanh-Mai cho người trộm hết vàng bạc, thư tín. Khai-Quốc vương nhân đó tương kế tựu kế. Khi hai phái Phật-thệ, Vạn tượng về Thăng-long họp anh hùng đại hội, mưu cùng với bọn Nguyên-Hạnh, cùng phái Sài-sơn, Đông-a ép Thuận-Thiên hoàng-đế thoái vị, để cho Hồng Sơn đại phu lên ngôi, hầu thực hiện kế hoạch của Tống. Đang đêm, Khai Quốc vương gửi Huệ-Sinh tới gặp Phủ Văn. Nùng-Sơn tử gặp Chế Ma Thanh, nói rõ cho chúng biết rằng kế hoạch đã bại lộ. Nếu hai người thuận làm theo Khu-mật viện ngôi vị vẫn được giữa nguyên. Bằng chống lại, bao nhiêu thư tín của chúng viết cho Tống đều được gửi cho vua Chiêm, vua Lào, hai người không có đường về. Gia quyến sẽ bị xử tử. Hai người líu ríu vâng lời. Lúc Thuận-Thiên hoàng-đế lên đài tặng quà cho hai người. Khai-Quốc vương lấy nguyên số lễ vật của hai người tặng Triệu Thành, mà tặng lại cho. Hai người nhận quà mà trong lòng phát ớn lạnh. Bây giờ nghe Thanh-Mai tố cáo, hai người cùng đứng dậy hướng vào quần hùng chắp tay hành lễ, nhận lời hoan hô, nhưng mặt đỏ lên vì ngượng ngùng. Phủ Văn móc trong túi ra trục giấy, đưa cho mọi người xem. Y chuyển vào tay Đoàn Huy, nhờ ông đọc dùm. Đoàn Huy cầm giấy xem, rồi nói: - Trong trục giấy này là chiếu chỉ của Thiên-Thánh hoàng-đế phong cho hoàng thúc Phủ Văn làm Thái-tử thái bảo, phó đô nguyên soái. Nam phương trung thành tĩnh lự công thần. Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong tam thiên hộ. Vương phi được phong An-tĩnh quận chúa. Không đừng được, Chế Ma Thanh cũng đưa ra trục giấy. Đoàn Huy đọc: - Trong trục giấy này, là chiếu chỉ của Thiên-Thánh hoàng-đế phong cho hoàng đệ Chế Ma Thanh làm Kiểm hiệu thái sư, tĩnh hải tiết độ sứ, đồng bình chương sự. Suy thành thuận hoá công thần. Chiêm-thành quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong ngũ thiên hộ. Vương phi Mỵ-Thu được phong Khâm linh quận chúa. Đại tướng Ngô Đà làm Nội điện chỉ huy sứ, tước Ma-linh hầu. Thực ấp nhị thiên hộ. Thực phong nhất thiên hộ. Thanh-Mai đỡ lấy hai cuốn trục, trao cho Triệu Thành: - Vương gia lầm lẫn quá nhiều. Các vị đây, người hoàng-thúc, kẻ hoàng đệ. Khi không ai dại gì mà giết chúa, để lĩnh lấy hai tờ giấy vô giá trị của vương gia? Thình lình Thanh-Mai từ trên đài vọt mình lên cao, nhấp nhô mấy cái, đã đến phía sau khán đài phái Tiêu-sơn. Nàng quát lớn: - Nguyên-Hạnh! Đứng lại, mi trốn đâu cho thoát! Nàng vừa đáp xuống, xung quanh Nguyên-Hạnh đã có bốn vị sư bao vây, đó là Sùng-Văn, Sùng-Đức, Sùng-Tín, Sùng-Không. Bốn vị cùng cung kính nói: - Sự thể thế nào xin phương trượng lên đài trả lời Trần tiểu thư, chứ có đâu bỏ chạy? Mặt Nguyên-Hạnh tái nhợt. Y đành lên đài, đứng đối diện với Thanh-Mai. Thanh-Mai tiếp: - Triệu vương gia. Vị này có tên Dương Bá, thực ra họ Hồ. Nguyên xuất thân đệ tử của bang trưởng bang Nhật-hồ Trung-quốc, tức Hồng-thiết giáo ẩn danh. Khi quân Tống bao vây, diệt tổng đàn Nhật-Hồ bắt được đệ tử của bang trưởng là Hồ Dương-Bá cùng con gái tên Đỗ Lệ-Thanh. Hai người lạy van xin dung tha. Khu-mật viện Tống triều bèn đem tất cả thân thuộc họ Đỗ về Biện-kinh an trí. Một mặt cho hai người sang Đại-Việt tìm cách ẩn thân, hầu sau này quân Tống sang, còn làm nội ứng. Thế rồi nàng thuật hết việc Hồ Dương-Bá, Đỗ Lệ-Thanh sang Đại-Việt, ẩn thân vào làm đệ tử chùa Tiêu-sơn, gây dựng cơ sở như thế nào. Nguyên Hạnh làm đệ tử Bố-Đại hoà thượng. Y giam Đỗ Lệ-Thanh cùng bồ tát Bố Đại, Sùng-Phạm trong Hồng-hương mật cốc ra sao. Nguyên-Hạnh tổ chức thiếu niên Hồng-hương, mưu làm nội ứng thế nào...Cùng bắt giam thiếu nữ để hành lạc trong Hồng-hương mật cốc. Cho đến khi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái khám phá ra... Mặt Nguyên-Hạnh vẫn trơ ra: - Trần cô nương! Người bịa ra nhiều truyện hoang đường quá, ai mà tin được? Cô nương bảo bần tăng có vợ, có con. Chứng cớ ở đâu? Y cãi gượng gạo. Lập tức Đỗ Lệ-Thanh từ dưới đài bước lên. Mụ chỉ tay vào mặt Hồ Dương-Bá: - Sư huynh! Người với ta là sư huynh, sư đệ. Thân phụ ta thương người, gả ta cho người. Thế rồi khi chúng ta hàng Tống, cùng mật ước rằng âm thầm dùng Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, dần dần không chế triều Tống, lập lại nhà Chu. Khu-mật viện triều Tống sai chúng ta sang Đại-Việt đái tội lập công. Người với ta cùng thề sẽ có ngày trốn về Trung-nguyên. Khi người trở thành phương trượng chùa Sơn-tĩnh, người giam sư phụ Bố-Đại, sư thúc Sùng Phạm, ép hai vị dạy cho thuật xuất hồn. Người đâu biết rằng người đi tu đắc đạo mới xuất được hồn, chứ nào có truyền cho nhau được? Quảng trường ồn lên những tiếng bàn tán. Vì Sùng-Phạm, một vị Bồ-tát đắc đạo. Ngài nổi tiếng cùng một lúc với Vạn-Hạnh thiền sư. Gần đây không ai biết ngài đi đâu. Nào ngờ ngài bị Nguyên-Hạnh bắt giam. Còn Bố-Đại hoà thượng, dân chúng tin rằng ngài là Phật Di-Lặc giáng sinh. Cho nên khi Đỗ Lệ-Thanh nhắc đến hai ngài, khiến người người đều chú ý lắng tai nghe. Bà nghiến răng vào nhau: - Sau khi ta khám phá ra mi gian dâm với Cao Thạch-Phụng. Mi giam tra khảo bắt ta khai ra Hồng-thiết tâm pháp cùng thuốc giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ta nhất định không khai. Vì ta biết, nếu ta khai ra người sẽ giết ta. Hơn mười năm, đêm đêm người hành lạc với con tiện nhân Cao Thạch Phụng. Mi trói ta, bắt ta phải nhìn trò bỉ ổi của mi. Bà chỉ vào Mỹ-Linh: - Cho đến khi công chúa Bình-Dương cùng thế tử Thân Thiệu-Thái khám phá ra Hồng-hương mật cốc. Mi giam hai người vào trong hang với ta. Tiếp theo bà thuật việc Bố-Đại cũng như Sùng-Phạm dư sức bẻ song sắt thát ra. Nhưng hai ngài muốn ở tù để giải hết nghiệp. Khi gặp Thiệu-Thái, Sùng-Phạm truyền cho chàng một trăm năm công lực, rồi viên tịch. Thiệu Thái, Mỹ-Linh bẻ song sắt cứu bà, đốt xác Hồng-hương thiếu niên trốn đi hầu đánh lừa Nguyên-Hạnh. Sau cùng với sự xuất hiện của Chu An-Bình, Chu An-Khôi, Chu An-Việt v.v. Bà hướng vào phía đệ tử của Sơn-tĩnh gọi: - Hạnh-Chân, Hạnh-Như. Hai con đâu? Hai nhà sư trẻ từ dưới đài bước lên, quỳ gối lạy Đỗ Lệ-Thanh: - Mẫu thân. Đỗ Lệ-Thanh ôm lấy hai con, mặt đầy nước mắt. Bà nói với Nguyên Hạnh: - Khi ta được công chúa Bình-Dương cùng thế tử Thân Thiệu-Thái cứu ra. Ta đã tìm thăm hai đứa con, cho chúng biết ta vẫn còn tại thế, dặn chúng phải có mặt hôm nay làm chứng. Mi còn chối nữa hay không? Thanh-Mai đưa ra cuốn trục: - Đây, sắc phong cho Hồ Dương-Bá làm Đô nguyên soái, Long-biên quốc công, Giao-chỉ kinh lược sứ. Còn đây sắc phong thứ nhì cho Hồ Dương-Bá làm Quốc sư thông huyền Bồ-tát Và phu nhân Cao-thạch-Phụng làm Túc không quan âm. Nàng hướng vào Minh-Không thiền sư: - A-di-đà Phật! Xin Quốc sư dạy cho một lời. Minh-Không đáp: - Nghiệp dĩ Nguyên-Hạnh nặng quá. Tội của người xin để cho luật lệ Đại Việt xử. Thanh-Mai hỏi Minh-Không: - Minh-Không đại sư! Xin đại sư cho biết gã Hồ Dương-Bá này có còn liên hệ với phải Tiêu-sơn nữa không? Minh-Không đáp: - Y dối sư phụ xin qui y, xin thọ giới. Như vậy cả qui y lẫn thọ giới đều không thực. Y hết còn tư cách đệ tử phái Tiêu-sơn. Đỗ Lệ-Thanh quỳ gối trước Tự-An: - Cách đây hơn năm, tiểu tỳ đến trang Thiên-trường, được đại hiệp hứa đứng ra chủ trì công đạo cho vụ này. Hôm nay kẻ thù trước mắt, xin đại hiệp ra tay cho. Tự-An phẩy tay cho bà đứng dậy: - Phu nhân bình tâm. Ta đã hứa tất làm. Ông bảo Thanh-Mai: - Nếu y là đại sư Nguyên-Hạnh, bố phải ra tay. Còn y trở lại thành Hồ Dương-Bá, con dạy dỗ y mấy chiêu được rồi. Thình lình Nguyên-Hạnh phóng chưởng tấn công Thanh-Mai. Trong ý nghĩ, y phải giết nàng, nên y vận đủ mười thành công lực. Chiêu chưởng đánh ra như vũ bão. Trong chưởng có mùi hôi tanh nồng nặc. Thanh-Mai phản ứng rất nhanh. Nàng lùi một bước, trả lại bằng một chiêu Đông-a chưởng. Binh một tiếng, Nguyên-Hạnh rùng mình lùi lại một bước. Trong khi Thanh-Mai thản nhiên như không. Tự-An quát lớn: - Khoan! Ông nói với Hồ Dương-Bá: - Hồ nguyên soái. Người lập công lớn với triều Tống, tước đã phong tới hầu, chức tới Đô nguyên-soái. Trong đẳng trật võ quan triều Tống, Đô nguyên-soái lớn cực phẩm. Đấy nói về quan chức. Còn nói về võ công, dường như người chỉ thua có quốc sư Minh-Không. Chúng ta khám phá ra người ẩn ở Đại-Việt, người có tội với Đại-Việt. Còn đối với Tống triều người thành đại công thần. Tại sao người không giám nhận cái danh dự của mình? Nghe Tự-An nói vậy, Triệu Thành nghĩ rất nhanh: - Tên Trần Tự-An quả xứng danh Côi-sơn đại hiệp. Ta những tưởng chối biến việc Khu-mật viên sai Nguyên-Hạnh sang Đại-Việt. Như vậy vẫn tiếp tục dùng bọn Lê Long-Mang được. Y dồn Nguyên-Hạnh đến chỗ chết, rồi lại khai ra con đường thoát thân bằng cách nhận tội. Nếu Nguyên-Hạnh nhận hết tội, đương nhiên ta cứu y thoát chết, nhưng mưu đồ e hỏng bét. Nghĩ vậy y nháy mắt cho Nguyên-Hạnh tỏ ý bảo, đừng nhận. Nhưng Nguyên-Hạnh lại nghĩ khác: - Ta nhận hết, như vậy chắc chắn thoát chết. Vương gia có giận cũng chẳng đi đến đâu. ANH HÙNG BẮC CƯƠNG Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 3: Thượng Giới Hồng-xà Thượng giới Hồng-xà - Y đến trước Triệu Thành quỳ gối: - Vương gia! Tiểu tướng làm không tròn nhiệm vụ, hỏng đại kế của triều đình. Tiểu tướng xin chịu tội với vương gia. Triệu Thành nguyền rủa thầm Nguyên-Hạnh, nhưng y vẫn hướng vào Thuận-Thiên hoàng-đế: - Nam-Bình vương. Hồ nguyên-soái là đại công thần của thiên triều. Vương gia không thể bắt tội được. Vương gia đừng quên rằng vương gia nhận chức tước phong của thiên triều. Vương gia thành đồng liêu với Hồ nguyên soái. Thanh-Mai biết Thuận-Thiên hoàng-đế khó có thể đối đáp trong vụ này. Nàng chỉ vào Nguyên-Hạnh: - Bình-Nam vương công nhận Hồ Dương-Bá, được phong Đô nguyên soái, đại công-thần thiên triều. Như vậy vương gia công nhận thiên triều chuẩn bị đánh Đại-Việt. Nàng chắp tay hướng vào quần hùng: - Thưa các vị anh hùng. Bình-Nam vương nhà Đại-Tống hiện giữ trọng trách việc binh bị đã công nhận rằng nhà Tống chuẩn bị đánh chiếm Đại-Việt. Vấn đề đã rõ ràng. Các vị nghĩ xem, chúng ta nên đánh hay hàng? Hàng mấy vạn người cùng rút kiếm ra hô lớn: - Đánh! Diệt bọn chó Ngô. Đợi cho tiếng nguyền rủa bớt, nàng tiếp: - Thuận-Thiên hoàng-đế dĩ nhiên không bắt tội Dương-Bá vì việc y giam công-chúa Bình-Dương, thế tử Thiệu-Thái. Bởi khi Dương-Bá làm việc đó vì bảo vệ cơ mật cuộc họp ở Hồng-hương cốc, vì Tống, vì thi hành nhiệm vụ. Vậy xin Triệu vương gia cho biết việc y giam Đỗ Lệ-Thanh thuộc truyện riêng của y hay cũng của triều Tống? Triệu Thành lắc đầu: - Dĩ nhiên đó thuộc truyện riêng của Hồ nguyên soái. Đại-sư Sùng-Đức, viện trưởng viện giới luật chùa Sơn-tĩnh bước lên đài, hướng vào Nguyên-Hạnh: - A-di-đà Phật. Phương trượng! Người làm nhục bản tự quá đáng. Chiếu giới luật, mong phương trượng thụ hình, để giải bớt nghiệp quả. Hồ Dương-Bá lộ mặt thực ra: - Hồ mỗ nguyên làm đại thần Tống triều. Mỗ chỉ mượn quý tự để ẩn thân. Mỗ không hề làm cao tăng. Đã không cao tăng, thì tam qui, ngũ giới hay thất bát, hay vạn giới đối với mỗ chẳng là cái đéo gì cả. Mỗ có quyền lấy vợ, có con. Mỗ nói cho đại sư biết, trong thời gian ở Sơn-tĩnh, mỗi tháng mỗ ăn thịt một con chó. Đêm nào mỗ cũng hành lạc với trinh nữ. Mỗi tháng mỗ hút kinh nguyệt của hai thiếu nữ để luyện Hồng-thiết công. Mỗi ngày mỗ uống nước tiểu của thiếu nữ để điều khí. Đại sư đừng đem giới luật ra dọa mỗ nữa. Sùng-Văn quát lên một tiếng. Ông phát chưởng tấn công Dương-Bá. Dương-Bá lùi một bước, trả lại một chưởng. So vai vế, Sùng-Văn ngang vai với sư phụ Nguyên-Hạnh, ông lớn tuổi hơn, nhập môn trước. Vì vậy công lực cao thâm hơn Nguyên-Hạnh nhiều. Chưởng phong của ông hùng hậu vô cùng. Bình, bình, bình, Hồ Dương-Bá bật lui liền ba bước. Y trả lại một chưởng rất thô kệch. Chưởng của y có mùi tanh hôi không thể tưởng tượng được. Đỗ Lệ-Thanh kêu lên: - Chu-sa nhật hồ độc chưởng. Sùng-Văn tránh, không giám đỡ vào chưởng của y. Ông lùi bước, rồi trả lại một chưởng. Bây giờ Nguyên-Hạnh mới phản công được mấy chiêu. Mỗi chưởng của y đánh ra, có mùi tanh hôi khủng khiếp. Quần hùng quan sát cuộc đấu đều nghĩ thầm: - Tên Hồ Dương-Bá này quả xứng thiên tài võ học. Y dâm đãng như vậy, mà công lực đến dường này, có thua gì Đại-Việt ngũ long? Chính Nhật-Hồ lão nhân đứng cạnh cũng phải kinh ngạc. Lão chửi thầm: - Tên Nguyên-Hạnh này học võ công của bang Nhật-hồ Trung-quốc. Y lại bái Bố-Đại hoà thượng làm thầy. Y khéo léo phối hợp được nội công hai phái, thành một thứ nội công mới. Vì vậy tuổi y còn nhỏ, mà đâu có thua gì bọn trưởng lão của mình. Nếu y thất bại, mình phải cứu y, thu dụng y làm đệ tử, lợi biết bao? Cuộc đấu vẫn bất phân thắng bại. Công lực Sùng-Văn cao thâm, nhưng không giám đối chưởng với Nguyên-Hạnh. Ngược lại Nguyên-Hạnh tìm đủ cách để hai chưởng chạm vào nhau, khiến Sùng-Văn bị trúng độc. Nguyên Hạnh đánh liền mười chưởng, Sùng-Văn đều tránh được. Đến chưởng thứ mười một hai chưởng giao nhau. Bộp một tiếng. Hai chưởng dính liền. Thế là trở thành cuộc đấu nội lực. Khoảng nhai dập miếng trầu, Nguyên-Hạnh cảm thấy nguy cơ gần kề. Vì Sùng-Văn dồn chân khí sang người hắn cuồn cuộn. Hắn nghiến răng chịu đựng được một lát, châm tay bủn rủn, mắt hoa đầu váng. Nhật-Hồ đứng cạnh, y nghĩ thầm: - Tên Nguyên-Hạnh quên mất rằng trong máu y đầy chất độc. Y chỉ cần phun một búng vào mặt Sùng-Văn, Sùng-Văn chịu sao thấu? Nghĩ vậy y nhắc: - Dùng máu cứu mạng, nguy cơ gì cũng qua. Nguyên-Hạnh tỉnh ngộ, hắn nghiến răng cắn môi, máu chảy ra đầy miệng. Thình lình hắn phun vào mặt Sùng-Văn. Hai người đứng quá gần nhau. Vả Sùng-Văn không bao giờ ngờ một người như Nguyên-Hạnh lại phun nước miếng vào mặt ông. Tẹt một tiếng, mặt Sùng-Văn đầy nước bọt, máu. Sùng-Văn cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, rồi bắp thịt co giật, chân khí muốn tuyệt. Ông vội thu tay, nhảy lùi lại. Nguyên-Hạnh được thoát chết. Y đứng thẳng, hít một hơi chân khí, điều hoà nội tức, rồi nói: - Sùng-Văn, người trúng Nhật-hồ độc thủ của ta rồi. Ta không đấu với người nữa. Hai bóng vàng thấp thoáng, Sùng-Đức, Sùng-Minh đại sư lên đài đỡ Sùng-Văn. Sùng-Đức chỉ mặt Nguyên-Hạnh: - Người... người thực mặt dầy. Người dùng... Nguyên-Hạnh thản nhiên: - Theo luật lệ Sơn-tĩnh, khi một người thắng viện trưởng giới luật viện coi như sạch tội. Ta đã thắng Sùng-Văn. Vậy bọn Sơn-tĩnh các người không thể gây rắc rối với ta nữa. Sùng-Văn run lẩy bẩy, tỏ vẻ đau đớn vô cùng. Nguyên-Hạnh hướng vào Minh-Không đại sư: - Đại sư! Nếu đại sư muốn tại hạ trao thuốc giải Chu-sa độc chưởng cứu đại sư Sùng-Văn, xin đại sư tha cho tại hạ rời khỏi nơi đây. Tại hạ xin nói trước thuốc giải Chu-sa độc chưởng Trung-quốc khác hẳn với Chu-sa Nhật hồ độc chưởng Đại-Việt. Vì vậy thuốc giải của Hồng-thiết giáo Đại-Việt vô dụng. Minh-Không đưa mắt nhìn Sùng-Văn đang đau đớn. Ngài chưa quyết định, Đỗ Lệ-Thanh lên đài cười nhạt: - Dương-Bá! Một đời mi sảo quyệt chưa đủ sao mà mi còn dối người. Nếu mi biết chế thuốc giải Chu-sa độc chưởng, mi đâu có giam ta mười năm? Mi không có thuốc giải, mà lại nói có. Mi định lừa Minh-Không đại sư, nhưng ta đã chết đâu? Dương-Bá bị vợ lột mặt nạ. Y giận quá, thình lình phát chiêu hướng Đỗ Lệ-Thanh. Binh một tiếng, bà bị bay tung lên cao, rơi xuống đài. Quần hùng la hoảng lên. Thanh-Mai lại bên bà bắt mạch. Bà lắc đầu, miệng phun máu có vòi, nói với Tự-An: - Đại hiệp! Tiểu tỳ muốn nhìn thấy y đền tội. Tự-An giận run lên. Trước đây ông đã hứa với Đỗ Lệ-Thanh rằng ông sẽ đứng chủ trì công đạo, trừng phạt Nguyên-Hạnh. Nay ông chưa ra tay, y lại giết vợ. Ông nói với Triệu Thành: - Triệu vương gia! Trần mỗ không phải vua quan Đại-Việt, nên dù Nguyên-Hạnh có làm tam công, thượng thư Tống triều, mỗ cũng phải giết y. Mà dù ngay y có phải Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-La, mỗ cũng không tha. Ông vận khí, định trong một hai chiêu đập chết y, thì Thanh-Mai đã tấn công Dương-Bá. Dương-Bá cười thầm: - Võ công con nhỏ này mình đã biết rồi. Y thị từng bị bọn Tung-sơn tam kiệt bắt sống, dẫn đi khắp trấn Thanh-hóa. Không biết y thị có điên không, mà giám ra tay tấn công mình? Y phát chiêu đánh trả. Bình một tiếng, y cảm thấy trời đất đảo lộn, lồng ngực muốn nổ tung ra. Tai kêu o o kéo đài vô tận. Y kinh hãi: - Rõ ràng chưởng của con nhỏ vừa rồi không có kình lực. Tại sao chạm vào chưởng mình lại mạnh như vậy? Y lùi lại đánh ra một chiêu Chu-sa độc chưởng. Thanh-Mai thấy mùi tanh hôi, nàng cười thầm: - Đối với ai mi dùng độc chưởng được, chứ đối với ta e vô dụng. Nàng nhàn tản trả lại một chiêu rất bình thường. Bình, Nguyên-Hạnh cảm thấy tay ê ê. Y phát chiêu khác. Nhật-Hồ đứng cạnh, thấy Thanh-Mai đối chưởng với Nguyên-Hạnh, ông kinh hãi nghĩ thầm: - Chu-sa độc chưởng khi phát ra, ai chạm vào, chỉ mấy khắc sau đau đớn vô cùng, rồi mất hết kình lực. Nay sao con nhỏ này trúng đến bốn chưởng mà vẫn vô sự. Ngược lại dường như Dương-Bá tỏ vẻ đau đớn thì phải. Nguyên cách đây ít lâu, trong dịp viếng Thiên-trường, Đỗ Lệ-Thanh đề nghị Tự-An nghiên cứu ra một thứ võ công khắc chế Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Đỗ đã giúp Tự-An một phần. Tự-An phối hợp thiền công, cùng nội công Đông-a, học thuyết kinh-ạc của y học, hoàn thành. Thiền-công vận ra ba kinh âm hoá giải độc chất cùng kình lực đối thủ. Còn nội công Đông-a phát ra ba kinh dương tấn công. Sau đó ông dạy cho các sư đệ cùng đệ tử, Bảo Hoà, Mỹ-Linh. Hôm nay Thanh-Mai đem ra áp dụng đấu với Nguyên-Hạnh, nên y tấn công, nàng đỡ, mà y cảm thấy đau đớn. Vì khi nàng đỡ, trong cái thủ có cái công. Thuận-Thiên hoàng-đế cùng Khai-Quốc vương ngồi trên đài, thấy mỗi chiêu Thanh-Mai đánh ra mạnh muốn nghiêng trời lệch đất, cả hai đều kinh ngạc đến ngẩn người ra: - Mới hôm nào, trong Long-hoa cung, công lực nàng tuy có cao, nhưng đâu có thể đến trình độ này? Cả hai người không hiểu là phải. Nguyên Thanh-Mai được phụ thân dạy, công lực đã tới trình độ hiếm có. Tuy vậy hồi gặp Tung-sơn tam kiệt, nàng vẫn không phải đối thủ của chúng. Trên đường đi, nàng được Huệ-Sinh dạy cho cách khai thông, hoà hợp thủy hỏa, nàng tiến tới chỗ không thua gì các sư thúc. Khi đến Vạn-thảo sơn trang, được Hồng-sơn đại phu dạy học thuyết kinh lạc, nàng tự đả thông kinh mạch, nên công lực tiến tới chỗ sâu vô cùng. Khi trở về Thiên-trường lại được thân phụ dạy cho cách đả thông hết kỳ kinh bát mạch. Đến đây nàng trở thành đại cao thủ. Tại Long-hoa đường, nàng trị bệnh cho Đoàn Huy, vô tình hút hết nội lực của một đại cao thủ bậc nhất Đại-lý. Đến đây công lực của nàng cao thâm khôn lường. Rồi Thiệu-Thái, Huệ-Sinh vận công trị bệnh, cũng truyền công lực cho nàng. Thành ra trong người nàng nội tức muốn nổ tung ra. Nguyên-Hạnh càng đấu càng kinh sợ, vì y cảm thấy võ công của Thanh Mai khắc chế với y. Y lùi lại đánh ra một chưởng hết sức vũ dũng. Thanh Mai hít một hơi nói lớn: - Đỗ phu nhân! Hãy nhìn cháu trả thù cho phu nhân đây. Nàng đánh ngay vào giữa chưởng Nguyên-Hạnh. Bình một tiếng, người y bay bổng lên cao, rồi rơi xuống đài. Y nghiến răng, cố gắng bò dậy, nhưng rồi lại ngã xuống. Y hộc lên một tiếng, miệng phun máu có vòi. Đỗ Lệ-Thanh cố gắng đến gần Thanh-Mai lạy bốn lạy: - Đa tạ vương phi chu toàn cho tiểu tỳ. Không ai hiểu tại sao Đỗ Lệ-Thanh lại gọi Thanh-Mai bằng vương phi. Chỉ duy bọn Thuận-Thiên cửu hùng biết rõ nguyên ủy. Thanh-Mai kinh ngạc, vì rõ ràng Đỗ Lệ-Thanh trúng chưởng của Nguyên-Hạnh đến không ngồi dậy được, mà sao nay bà có thể hành lễ dễ dàng. Chợt nàng hiểu ra: - Dù sao Đỗ phu nhân cũng từng là đệ tử Hồng-thiết giáo. Mà Hồng-thiết giáo toàn một bọn dối trá đã quen. Nhân thấy Nguyên-Hạnh tấn công. Bà có thể đỡ được, mà không đỡ, đành vận công chịu đòn, gây căm phẫn cho bố con mình, đễ mình ra tay trừ Nguyên-Hạnh. Hạnh-Chân, Hạnh-Như thấy Nguyên-Hạnh bị trúng đòn. Hai đứa chạy lại vực y lên, miệng gọi: - Gia gia! Gia gia có sao không? Thình lình Nguyên-Hạnh vọt dậy. Y chuyển động một cái, hai tay kẹp Hạnh-Chân, Hạnh-Như vào hai nách. Y nhảy lùi lại quát lớn: - Minh-Không! Nếu người không mở đường cho ra rời khỏi nơi đây. Ta kẹp nách một cái, hai đứa trẻ này chết liền. Nguyên Hồ Dương-Bá vốn đại xảo quyệt. Y nghĩ muốn thoát thân, thực muôn vàn khó khăn. Vì vậy y nghiến răng chịu một chưởng của Thanh-Mai rồi bắt hai con như tín vật, hầu làm mộc cứu mạng. Đỗ Lệ-Thanh thét lên: - Dương-Bá, mi nhẫn tâm hại hai con mi ư? Hồ Dương-Bá lạnh lùng, không lên tiếng. Minh-Không đại sư nói với Trần Tự-An: - Trần đại hiệp. Xin đại hiệp vì hai sinh mạng trẻ thơ, tha cho Hồ thí chủ rời khỏi nơi này. Hồ Dương-Bá thản nhiên cặp hai đứa con vào nách, nhảy xuống đài, chạy thẳng một mạch. Đỗ Lệ-Thanh đến trước Triệu Thành. Bà thủng thẳng nói: - Vương gia, tiểu tỳ cùng Hồ Dương-Bá vốn người của Khu-mật viện sai sang Đại-Việt hành sự. Nhưng bây giờ vì hoàn cảnh, tiểu tỳ không còn của Tống nữa. Khi tiểu tỳ bị giam, đã hứa rằng nếu ai cứu thoát tiểu tỳ khỏi vòng lao lý, nguyện trọn đời làm nô bộc để đền ơn. Tiểu tỳ được Thân thế tử cứu thoát khỏi nhà tù, vì vậy tiểu tỳ xin từ giã vương gia ở đây. Bà cúi lạy Triệu Thành bốn lạy, rồi xuống đài. Triệu Thành bị Thanh-Mai cùng quần hùng lôi bộ mặt gian xảo, giả trá ra. Tuy biết không còn hy vọng gì nữa, y vẫn nói cứng: - Nam-Bình vương gia. Tôi xin nhắc lại với vương gia rằng thiên triều đã nhất quyết hưng diệt, kế tuyệt. Một, lập lại nhà Lê. Hai, để một vị đại tôn sư võ lâm lên ngôi, mới có quốc danh Đại-Việt, mới có hoàng-đế với niên hiệu. Bằng không mảnh đất này vẫn mang tên Giao-chỉ, và người đứng đầu vẫn tước Giao-chỉ quận vương. Quân thiên triều sẽ tiến sang. Nói rồi y hô bộ hạ, cùng lên ngựa, rời quảng trường. Lập tức cả quảng trường ồn lên những tiếng bàn tán. Huệ-Phương hướng vào quần hùng: - Thưa các vị võ lâm anh hùng. Các vị thấy rõ ràng rằng bọn Triệu Thành sang đây không với mục đích tìm con cháu nhà Lê, mà với ý đồ chuẩn bị xâm lăng Đại-Việt. Đất nước chúng ta, phải do người Việt tự cai trị. Dù Đinh, dù Lê, dù Lý cũng vậy. Ai đem lại hạnh phúc cho dân, người đó chính thống, minh quân, anh hùng. Người nào gây cho dân đói khổ, người đó thành giặc nước, hôn quân, trộm cướp. Dương Ẩn hỏi Huệ-Phương: - Nam-Quốc vương-phi. Nhưng lời vương-phi nói đó dường như ám chỉ đến một số người. Số người tốt thuộc họ Lý. Số người xấu, thuộc họ Lê. Vương-phi từ cô gái bình thường, một thoáng trở thành vợ một đại võ lâm cao thủ, hơn nữa Nam-Quốc vương của triều Lê đã từng có chiến công đánh Tống, bình Chiêm. Đáng lẽ vương-phi phải hết tâm bênh vực danh dự cho nhà chồng, cùng chồng đòi lại ngôi báu, bị cường thần tiếm vị. Đây vương phi chống lại chí phục hưng của chồng đã là điều không tha thứ. Vương-phi còn bêu xấu tiên-vương bản triều. Đạo lý ở chỗ nào? Huệ-Phương vẫn cười tươi: - Lê tiền bối! Tiền bối dạy như vậy e sai. Dương Ẩn quát lớn: - Này Nam-Quốc vương-phi. Ta gọi người bằng vương-phi. Thì ít ra người cũng không thể quên rằng ta ngồi trên ghế tôn sư phái Sài-sơn, sư thúc của Nam-Quốc vương. Vương-phi không thể gọi ta bằng tiền bối, mà phải gọi bằng sư thúc. Huệ-Phương định đem việc Dương Ẩn bắt giam Vũ Thiếu-Nhung làm cây thuốc cho Nhật-Hồ ra, để lột mặt nạ y. Nhưng tiếng Hồng-Sơn đại phu dùng Lăng-không truyền ngữ nói như rót vào tai: - Huệ-Phương! Em đừng lột mặt nạ y vội. Cứ để cho y đóng kịch. Khi nào tối cần thiết, ta hãy đem ra. Huệ-Phương nghe chồng nói, nàng đánh trống lảng: - Lê tiền bối! Tôi biết chút ít về tướng mệnh. Tôi thấy tướng mệnh của tiền bối giống như con mèo ngủ, rình vồ chuột. Tôi tin rằng tiền bối đã làm điều gì không xứng đáng với vai sư thúc của phu quân tôi. Vì thế tôi mới không gọi tiền bối bằng sư thúc. Nghe Huệ-Phương nói, Dương Ẩn kinh hồn động phách: - Ta làm trưởng lão Hồng-thiết giáo, chỉ đệ tử thân tín cùng các vị trưởng lão biết. Con nhỏ này làm sao rõ được. Có lẽ nó đoán mò mà thôi. Nghĩ vậy y nói: - Nếu phu nhân cùng bất cứ đệ tử bản phái nào chứng minh được ta có hành vi trái với võ đạo phái Sài-sơn. Ta xin tự xử bằng cách rời môn phái. Huệ-Phương chửi thầm: - Mi tự trói mình, đừng trách ai nhé. Nàng chắp tay: - Nếu như vậy tiện nữ xin sư thúc đại xá cho. Còn việc sư thúc bảo tiểu nữ phải hết sức cùng chồng lo đòi lại ngôi báu. Điều này tiện nữ nào dám trễ nải. Có điều đòi lại ngôi vua bằng danh chính ngôn thuận nhất định chúng ta phải làm. Chứ đòi lại ngôi vua do bọn Tống áp lực, gây nội chiến, rồi đi đến mất nước, thà đừng đòi. Dương Ẩn đứng dậy, chỉ tay vào mặt Huệ-Phương: - Huệ-Phương! Người không phải chính thất của Hồng-Sơn đại phu. Người không có tư cách gì đại diện cho họ Lê. Người lại chẳng phải đệ tử bản phái, nên càng không có quyền nhân danh phái Sài-sơn. Lời người nói hoàn toàn vô giá trị. Ở đây chỉ mình ta mới có quyền đại diện bản phái. Mình Hồng-Sơn đại phu có quyền đại diện họ Lê. Huệ-Phương thấy Dương Ẩn nổi nóng, mất bình tĩnh, nàng càng trêu già: - Sư thúc ơi! Tiện nữ không hề nhân danh họ Lê, cũng không hề nhân danh phái Sài-sơn. Tiện nữ chỉ nhân danh một con dân Đại-Việt mà thôi. Sư thái Tịnh-Tuệ xá Dương Ẩn, Huệ-Phương: - Xin Dương đạo sư với Hồng-Sơn phu nhân tạm gác việc tranh luận lại. Chúng ta có nhiều điều phải làm ngay. Thứ nhất định rõ ngôi vua Đại-Việt, mà họ Lý tạm cầm bấy lâu nay. Hoàng Liên ngồi trên ghế tôn sư phái Mê-linh. Mụ nạt: - Tịnh-Tuệ, Bình-Nam vương Thiên-triều nói rằng người chờ kết quả quyết định của tôn sư võ lâm. Mi không phải tôn sư bản phái. Mi không có quyền bàn truyện này. Tịnh-Tuệ chỉ vào Hoàng Liên: - Thưa chư vị anh hùng. Vị sư thúc của bần ni đã nhận sắc phong của Tống triều, chuẩn bi cướp ngôi chưởng môn phái Mê-linh, hầu làm nội ứng cho giặc. Vì vậy phái Mê-linh không công nhận người ngồi trên ghế tôn sư nữa. Người mau rời ghế này. Hoàng Liên cười the thé: - Trước đây, Hoa-Minh thần ni định rằng, khi chỉ định người kế vị làm chưởng môn, sẽ dùng võ công định đoạt. Vậy Tịnh-Tuệ, người có dám cùng ta chiết chiêu không? Sư thái Tịnh-Tuệ mỉm cười: - Sư thúc. Ai làm chưởng môn là truyện nội bộ của bản phái. Võ đạo bản phái gốc lấy tinh thần vị quốc từ vua Trưng cùng các anh hùng thời Lĩnh Nam. Đúng ra sư thúc làm gian tế cho giặc, bản phái có bổn phận thanh lý môn hộ. Nhưng xét lại, sư thúc tuổi đã cao, miễn cho khoản đó. Hoàng Liên ngửa mặt lên trời cười lớn: - Tịnh-Tuệ. Mi chưa giao đấu mà đã cụp đuôi, còn dám xưng nào chưởng môn, nào Đại-Việt ngũ long nữa không? Mụ rút kiếm chĩa vào ngực sư thái Tịnh-Tuệ phóng một chiêu cực kỳ dũng mãnh. Sư thái Tịnh-Tuệ thản nhiên như không biết. Quần hùng thấy vậy kinh hoảng la lớn lên. Nhưng người ta chỉ thấy bóng vàng thấp thoáng, Tịnh-Tuệ đã đứng sau Hoàng Liên. Quần hùng vỗ tay vang dội hoan hô. Hoàng Liên xuất chiêu thình lình, mà không đạt được kết quả. Y thị thẹn quá, chuyển thân quay tròn kiếm đánh ra một chiêu thần tốc. Tịnh-Tuệ không những không tránh, bà lại lao đầu vào người y thị. Kiếm sượt qua hông bà. Tay phải bà ấn vào vai Hoàng Liên, rồi người bà bay ra sau y thị. Hoàng Liên lạ lùng suy nghĩ: - Trước đây bản lĩnh của sư phụ của mụ là Duyên-Tịnh còn thua ta xa. Thì ta có coi y thị ra gì? Hai chiêu vừa rồi tại sao ta lại không biết nhỉ? Hay nó đã âm thầm học được của cao nhân nào? Nhưng không phải, vì từ cách vận công đến phát chiêu đều nằm trong khuôn khổ võ công Mê-linh. Như vậy có thể ngày trước Hoa-Minh sư phụ ta thiên vị, dấu một số chiêu thức truyền cho Duyên-Tịnh, rồi Duyên-Tịnh truyền cho y thị. Sự thực không phải thế. Khi sư thái Duyên-Tịnh biết mình sắp viên tịch. Bà gọi Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền tới dặn rằng: - Trong tất cả các đệ tử của ta, chỉ có hai con xuất gia. Sau khi ta viên tịch, Tịnh-Tuệ thay ta làm chưởng môn. Suốt cuộc đời, ta dồn tâm huyết để cố tổng hợp võ công Cửu-chân, Long-biên, Hoa-lư làm một. Nhưng chưa hoàn tất, thân thể ta đã mục. Trong ba loại võ công, thì Long-biên, với Cửu-chân cùng một tổ Vạn-Tín hầu chế ra. Xưa kia Bắc-Bình vương Đào Kỳ nhân biết học thuyết âm dương mà hợp được võ công dương của Cửu-chân với âm nhu của Long-biên. Sau khi người tuẫn quốc thuật này bị thất truyền. Cho đến nay, ngay võ công Long-biên, hay Cửu-chân cũng không còn đầy đủ, còn mong gì tổng hợp. Bà ngừng lại, rồi tiếp: - Phái Mê-linh thành lập đã ba đời. Sau ba đời, căn bản võ đạo khá vững. Bây giờ cần phát triển võ công. Người xưa sáng chế ra được, chúng ta cũng sáng chế ra được. Suốt cuộc đời, ta đã tổng hợp được một phần nội công Cửu-chân với Long-biên. Sau đó sáng chế ra một thứ nội công mới. Chiêu thức, ta cũng lấy tinh hoa của hai thứ võ công hỗn hợp quyền, kiếm, chưởng. Hôm nay, ta truyền cho hai con. Bà giảng: - Về ngoại công, ta sáng chế ra những chiêu thức khắc chế với chiêu thức cổ. Sau đó trộn lẫn đi. Tỷ dụ một chiêu võ công Cửu-chân đánh thẳng ra, tiếp theo một chiêu gạt ngang. Như vậy một người chúng ta hoá làm hai. Thế rồi bà diễn từng chiêu một. Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền cố gắng ghi nhận. Khoảng hơn tuần thì làu thông. Sau khi Duyên-Tịnh viên tịch, Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền cố gắng cùng nhau tổng hợp, sáng chế những gì sư phụ bỏ dở. Chỉ cần năm năm, hai bà đã làm xong công việc đó. Nhờ vậy sư thái Tịnh-Tuệ trở thành một trong Đại-Việt ngũ-long. Còn Tịnh-Huyền, vân du nay đây, mai đó thuyết pháp. Hai chiêu mà Tịnh-Tuệ dùng để đối phó với Hoàng Liên chính là pho võ công mới tổng hợp sáng chế ấy. Nếu người khác, chỉ cần đánh ba chiêu không trúng đối thủ, nên tự trọng thôi đi. Mụ Hoàng Liên, một thứ mặt dầy nhất trong đám mặt dầy, mụ tiếp tục tấn công. Sư thái Tịnh-Tuệ tránh đến chiêu thứ mười, không còn chỗ nhảy tránh. Bất đắc dĩ bà phải rút kiếm phản công. Hai đệ nhất cao thủ, xử dụng cùng một thứ võ công đấu với nhau. Người ngoài nhìn vào, có cảm tưởng như họ luyện kiếm. Nhưng sự thực, họ đã ra những chiêu cực kỳ tinh diệu. Sư thái Tịnh-Huyền bảo Mỹ-Linh: - Con hãy theo dõi những chiêu thức kia, để học lấy tinh hoa võ công Mê linh. Chiêu thức của Hoàng Liên, con đều biết cả. Còn chiêu thức của sư thái Tịnh-Tuệ thì cứ một chiêu Long-biên, lại một chiêu khắc chế. Còn nội công, lại hoà lẫn âm nhu Long-biên với dương cương Cửu-chân. Mỹ-Linh đã làu thông kiếm pháp Long-biên, bây giờ nàng theo dõi những chiêu của Tịnh-Tuệ khắc chế với những chiêu ấy. Mỗi chiêu Tịnh-Tuệ phát ra đều hung hiểm lạ thường. Có điều những chiêu đó không không nối liền với nhau thành một dây, và cũng không biến hoá như nàng học bí quyết trong động đá. Nàng nghĩ: - Ta học hết những chiêu này, rồi dùng bẩy mươi hai thức trấn môn cùng bài quyết biến hoá ra áp dụng ắt kình lực mạnh vô cùng. Hai bên chiết với nhau đến trên trăm chiêu, thình lình sư thái Tịnh-Tuệ bước xéo sang trái ba bước. Tay phải bà đánh một chưởng. Bình một tiếng, kiếm của Hoàng Liên bay bổng lên trời, rơi xuống bục, cắm khá sâu. Chuôi kiếm còn rung rinh mãi. Tịnh-Tuệ dí kiếm vào cổ Hoàng Liên rồi nói với Nhật-Hồ lão nhân: - Tiên sinh! Bần ni nghe nói quy luật của quý giáo, khi một giáo chúng dù phạm tội gì chăng nữa, cũng do người trong giáo xử. Chứ người ngoài xử, quý giáo coi như là phạm vào thể diện. Không biết có dúng không? Nhật-Hồ gật đầu: - Đúng thế! Tịnh-Tuệ chỉ Hoàng Liên: - Vị sư thái này hiện không còn liên hệ gì với bản phái. Người làm trưởng lão thứ mười trong hội đồng giáo vụ trung ương Hồng-thiết giáo. Người phạm tội gian tế cho Tống, đúng ra ai cũng có quyền tru diệt. Song bần ni biết rằng quý giáo thường xử phạt rất nghiêm tội phản quốc. Bần ni xin chờ uy giáo chủ phán xét vụ này. - Đa tạ sư thái. Tịnh-Tuệ nhổ kiếm, cầm chuôi trao cho Hoàng Liên: - Tiền bối. Xin hoàn lại kiếm cho tiền bối. Hoàng Liên chắp hai tay lại, tiếp kiếm. Thình lình mụ tung ra hai chưởng vào ngực sư thái Tịnh-Tuệ. Hai người đứng gần nhau quá. Mụ lại ra tay cực kỳ thần tốc, sư thái Tịnh-Tuệ bị trúng hai chưởng đến binh một tiếng. Bà bật lui lại ba bước, người lảo đảo, miệng mửa ra búng máu. Trong khi đó Hoàng Liên phóng liền một chưởng nữa. Tịnh-Huyền từ dưới đài nhảy lên, định cứu sư tỷ. Nhưng Tịnh-Tuệ đã vòng tay tung ra một chưởng, kình lực mạnh kinh người. Mọi người kêu lên: - Hải triều lãng lãng. Hải triều lãng lãng là một chiêu chưởng độc lập của phái Cửu-chân. Xưa Thục An-Dương vương bị Triệu Đà đùng Trọng-Thủy đánh lừa mà mất nước. Lúc ngài chạy đến Thanh-hóa, khám phá ra vụ Mỹ-Châu. Sau khi giết con gái để tạ tội với quốc dân. Ngài nhớ lại năm giai đọan của cuộc đời, chế ra chiêu Hải-triều lãng lãng. Chiêu này có năm lớp. Lớp đầu mạnh hai lớp thứ nhì mạnh bốn. Lớp thứ ba mạnh tám. Lớp thứ tư mạnh mười sáu. Lớp cuối cùng mạnh ba mươi hai. Hoàng Liên cười nhạt: - Tưởng gì chứ chiêu này có chi lạ? Mụ cũng phát chiêu Hải-triều lãng lãng. Binh một tiếng, cả hai người đều bật lui. Miệng Tịnh-Tuệ lại phun ra một búng máu, người lảo đảo. Hoàng Liên phát lớp thứ nhì kình phong tỏa ra ào ào. Tịnh-Tuệ cũng phát lớp thứ nhì, nhưng dường như không có chút gió nào. Khi hai chưởng sắp giao nhau, Hoàng Liên mới khám phá ra Tịnh-Tuệ phát một chiêu khắc chế, nội công âm nhu. Xùy một tiếng, người mụ bay tung xuống đài. Tịnh-Tuệ lảo đảo muốn ngã. Sư thái Tịnh-Huyền lên đài đỡ sư tỷ. Tuy gặp nghịch cảnh, nhưng Tịnh-Huyền không hổ là công chúa, một vị ni sư đắc đạo. Bà nói với Nhật-Hồ lão nhân: - Xin trả tiền bối Hoàng Liên lại cho tiên sinh. Bà vực sư tỷ xuống đài. Nhật-Hồ lão nhân nhấp nhô một cái, người lão xuống đài, rồi vọt lên, tay túm cổ Hoàng Liên. Lão liệng mụ xuống giữa đài kêu lên tiếng ầm. Sự thực bản lĩnh Hoàng Liên đâu đến nỗi để Nhật-Hồ lão nhân bắt như bắt con gà! Chẳng qua mụ bị sư thái Tịnh-Tuệ đánh bay xuống đài, khí huyết đảo lộn, cơ thể gần như tê liệt. Vì vậy mụ bị lão bắt dễ dàng. Lão móc trong bọc ra một viên thuốc để trong lòng bàn tay phải, rồi vỗ lên đầu Hoàng Liên một cái. Mụ nghiêng đầu né sang bên cạnh. Nhưng không tránh nổi bàn tay Nhật Hồ, viên thuốc tan thành bột nhập sâu vào da đầu mụ. Mụ rùng mình liên tiếp, rồi run run, chân tay không cử động được nữa. Dưới đài phái Đông-a, Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh: - Đỗ phu nhân, lão Nhật-Hồ làm gì vậy? - Lão phóng thuốc nhuyễn cân vào người Hoàng-Liên. Loại thuốc này tiểu tỳ cũng biết chế. Hôm trước, tiểu tỳ trao cho công tử Tự-Mai, để khống chế lão Vũ Nhất-Trụ. Khi thuốc này nhập da thịt, chân tay tê liệt, không hoạt động được, vận công cũng bế tắc. Nhật-Hồ hỏi Hoàng Liên bằng giọng ngọt ngào: - Hoàng-Liên, người còn có điều gì nói nữa không? Trước đây sư phụ thương yêu người nhất. Người đã từng là cây thuốc của sư phụ bao năm qua. Bây giờ người phạm tội không thể tha thứ. Vậy người chết để mau về với hai vị thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh. Người sẽ được ngũ xa hồng xà chở về Thượng giới. Nghe đến tiếng cây thuốc, Tự-Mai đưa mắt nhìn mẹ. Cao Huyền-Nga thấy con nhìn, bà rùng mình, nghĩ lại suốt mấy năm bị giam, làm vật cho bọn Hồng-thiết giáo luyện công. Còn Hoàng Liên nghe đến ngũ xa hồng xà chân tay run lẩy bẩy, mặt mũi tái mét, mụ định mở miệng van xin, nhưng sợ quá, nói không ra lời. Nhật-Hồ lão nhân hướng vào quảng trường nói lớn: - Bản giáo do lão phu đem vào Đại-Việt, từ xưa đến giờ lấy việc bảo quốc làm võ đạo chính. Trải qua mấy chục năm, thiếu gì kẻ phản giáo, phạm giáo quy, nhưng chưa từng có người nào mãi quốc cầu vinh cả. Đây là lần đầu tiên xẩy ra. Tội này thuộc loại nặng nhất. Chiếu luật lệ bản giáo, phải xử tử hình. Nhưng Hoàng Liên giữ chức trưởng lão, đã từng vào sinh ra tử, công lao biết mấy để xây dựng bản giáo, nên cho được về thượng giới bằng ngũ xa hồng xà. Lão hướng vào giáo chúng: - Ngũ xa hồng xà đâu. Hành sự đi. Lão vẫy tay một cái. Từ phía giáo chúng Hồng-thiết đẩy ra năm cái xe lớn. Năm cái xe đến trước đài thì đậu lại. Bọn giáo chúng phụ trách nhanh nhẹn, tháo, mở thực nhanh. Phút chốc, năm cái xe ráp với nhau thành một tấm cót bằng gỗ, đường kính ước năm trượng, thành cao đến ngang lưng. Lúc giáo chúng Hồng-thiết giáo tới, họ đem theo mấy chục chục cái xe lớn, phía trước chĩa ra một ống đồng to bằng bắp chân, không ai hiểu trong đựng gì? Bây giờ thấy họ đẩy đến năm cái xe đó, kéo ống đồng chĩa vào trong cót. Bên khán đài phái Đông-a, Đỗ Lệ-Thanh nghe đến ngũ xa hồng xà, mặt mụ hiện ra vẻ kinh hoàng. Thanh-Mai muốn hỏi, nhưng nàng im lặng, theo dõi hiện trường. Một đội nhạc công, hơn mười người tới trước cái cót. Họ ngừng lại, lấy ống tiêu ra thổi. Tiếng tiêu nhu hoà, êm ái, nhưng người nghe cảm thấy ghê rợn như tiếng ma kêu quỷ khóc, như tiếng than van của âm hồn vọng về từ thế giới nào xa xôi. Trên đài Nhật-Hồ lão nhân mỉm cười rất tươi, tay lão vuốt râu, khoan thai hướng vào giáo chúng: - Giáo chúng nghe đây! - Dạ...ạ...ạ...ạ! Hàng mấy ngàn người đồng hô một tiếng dạ, vang vang kéo dài. Nhiều người yếu bóng vía giật bắn người lên. Nhật-Hồ lão nhân tiếp: - Lắng nghe chỉ dụ. Toàn thể đội nhạc công Hồng-thiết cùng cử bản nhạc. Giáo chúng mấy ngàn người như một, đứng thẳng, mặt hướng về trước, hai tay nắm lại vung vẩy, hai chân dậm xuống đất rầm rập, mắt trợn trừng nhìn lên đài, hàm răng nghiến lại, miệng cất tiếng ca. Âm điệu hùng tráng. Sau khi bản ca chấm dứt, Nhật-Hồ lão nhân nói: - Hơn hai mươi năm qua, bản nhân bế quan luyện công, tìm lấy phép trường sinh bất lão. Tuy phép này không thể làm cho người ta sống ngàn tuổi, nhưng từ một tới hai trăm tuổi, ta đã tìm ra. Ta hứa sẽ truyền cho những giáo chúng nào trung thành với bản giáo. Ta nhắc lại, thứ nhất trung thành với ta. Thứ nhì trung thành với giáo. Thứ ba trung thành với trăm họ... ... Khi ta vắng mặt, bản giáo phải tiềm ẩn. Các người không tránh khỏi bị các môn phái khác khinh khi, đàn áp. Ta biết thế, thương xót các người chẳng cùng. Ta mới xuất hiện có mấy ngày, mà các người đã tụ về đông đủ như thế này, chứng tỏ bản giáo vẫn còn hùng mạnh... ... Các người nên nhớ. Sở dĩ chúng ta được trăm họ theo đông đảo, vì chúng ta sống với người nghèo, trọng tình nghiã dân tộc. Thế nhưng khi ta vắng mặt, một số giáo chúng sa đọa, có nhiều hành vi làm ô danh bản giáo. Đối với những người vai vế thấp, còn có thể tha thứ. Chứ đối với những người địa vị cao, phải thẳng tay trừng trị. Lão chỉ vào Hoàng Liên: - Trưởng lão Hoàng Liên, địa vị chỉ thua có ta, quản lĩnh mấy nghìn đệ tử, nhưng lại phản ta, phản giáo, phản dân, làm gian tế cho Tống. Ta tuyên bố xử tử hình. Hình phạt được thi hành tại chỗ. Đó là tội. Nhưng công của trưởng lão cũng không nhỏ, nên được về thượng giới bằng ngũ xa hồng xà. - Nào, thi hành. Tuy kết án tử hình người, mà lão vẫn tươi cười như gặp một truyện vui mừng. Đám giáo chúng nhảy lên ca hát. Bốn giáo chúng mặc quần áo đen mang một mảnh ván lên đài. Chúng trịnh trọng đỡ Hoàng Liên cho ngồi trên tấm ván, rồi khiêng xuống đặt vào giữa cót. Mặt mụ Hoàng Liên tái như gà đắt tiết, nhưng chân tay mụ tê liệt, không cử động được. Mụ gào lớn: - Nhật-Hồ ! Người can tâm giết ta ư? Khi ta mới hai mươi tuổi thì gặp người. Người dụ dỗ ta làm cây thuốc cho người luyện công. Hàng tháng người uống kinh nguyệt của ta. Hàng ngày người uống nước tiểu của ta. Tình ý thâm trọng biết bao. Ta bỏ sư phụ, bỏ phái Mê-linh để theo người. Mà nay người tàn nhẫn với ta thế này à? Mặc mụ nguyền rủa, ban nhạc Hồng-thiết lại cầm ống tiêu thổi lên bản nhạc âm thanh ma quái. Từ trong các ống đồng, những con rắn lớn nhỏ mầu đỏ bò ra, rơi xuống cót. Vừa tới cót, chúng vọt tới cắn vào người mụ Hoàng Liên. Mụ vẫy vùng, miệng kêu thét lên be be, nhưng không thoát. Hết con này, đến con khác bu vào người mụ. Khoảng ăn xong bữa cơm, trong cót nhung nhúc những rắn, chúng đói quá, bám vào quanh mụ mà cắn, mà rỉa. Lát sau, mụ nằm im bất động, nhưng bầy rắn vẫn tiếp tục ăn thịt mụ. Cho đến khi chỉ còn bộ xương trắng ởn. Bấy giờ bọn giáo chúng mới hạ ống đồng xuống. Bầy rắn chui trở vào xe. Mấy tên giáo chúng nhặt bộ xương cho vào cái túi, rồi tháo cót, trở về vị trí. Nhật-Hồ hướng vào đám đệ tử Hồng-thiết giáo vẫy tay: - Ngô Bách-Vân đâu! Nhanh nhẹn một thiếu phụ tuổi trên năm mươi vọt mình một cái như pháo thăng thiên lên đài. Mụ cúi rạp người xuống trước Nhật-Hồ lão nhân: - Sư phụ! Đệ tử tham kiến sư phụ. Nhật-Hồ vuốt râu mỉm cười: - Cách đây hơn hai mươi năm, người từng là cây thuốc của sư phụ để luyện công. Trong thời gian sư phụ vắng mặt, người vẫn một lòng trung kiên. Vậy hôm nay sư phụ cử người làm trưởng lão thứ mười của bản giáo. Ngô Bách-Vân lạy phục xuống đất: - Đa tạ sư phụ tin cẩn, ban hồng ân. Cái tên Ngô Bách-Vân thực không xa với võ lâm Đại-Việt. Nguyên y thị xuất thân con một đại danh y dưới thời nhà Đinh. Nhân phụ thân làm quan võ trong triều Đinh. Lão âm thầm nhập Hồng-thiết giáo. Việc làm bại lộ. Vua Đinh truyền đem chặt đầu. Trên đường ra pháp trường, giáo chúng Hồng thiết cứu lão thoát chết. Lão trốn sang Trung-nguyên, theo nhà Tống, rồi chết ở đó. Con gái lão tên Ngô Bách-Vân, lấy một lái buôn thú vật. Hồng-thiết giáo biết thị giòng giống giáo hữu trung kiên, âm thầm giới thiệu thị cho Nhật-Hồ lão nhân. Lão nhận thị làm đệ tử, dùng thị làm cây thuốc luyện công. Thị ít xuất hiện. Nhưng tiếng tăm tàn ác của thị lại vang lừng thiên hạ. Mụ là một con quỷ khủng khiếp nhất. Mụ chế ra lối luyện công đăc biệt. Mỗi ngày phải bắt một đứa con nít hai, ba tuổi, mổ lấy tim, óc, chưng thuốc mà ăn để luyện công. Cho nên trong vùng nào thấy con nít bị mất tích, biết rằng mụ xuất hiện ở đó. Hôm nay, mọi người mới biết rõ mặt mụ. Nhật-Hồ lão nhân hướng vào cử toạ: - Thưa các vị anh hùng. Bất cứ ai, có thể chứng minh rằng một giáo chúng của mỗ bán nước cầu vinh, mỗ sẽ xử tử như xử trưởng lão Hoàng Liên này. Tự-Mai bước lên đài, chắp tay xá lão: - Lão tiên sinh! Hồi nãy tiểu bối dâng trình tiên sinh những văn kiện tố giác trưởng lão Đỗ Xích-Thập với Hoàng Liên định dâng nước cho Tống. Vì vậy lão tiên sinh đã xử tội trưởng lão Hoàng Liên. Vậy còn trưởng lão Đỗ Xích-Thập thì sao? Lão lắc đầu: - Tiểu công tử bàn lý thực đúng. Nhưng có điều cần xét lại. Vì Xích-Thập không biết chữ, làm sao y viết thư được? Những thư công tử cung cấp cho ta, trong đó lời lẽ rõ ra Xích-Thập. Nhưng không đủ kết tội y. Tự-Mai cười: - Tiên sinh ơi, tiểu bối biết rõ sắc phong của Tống triều cho Đỗ trưởng lão, hiện Đỗ trưởng lão dấu trong người. Xin tiên sinh cứ xét sẽ thấy. Đỗ Xích-Thập nghe Tự-Mai tố, y kinh hoàng, mặt tái mét lùi lại. Nhật-Hồ nói với Tự-Mai: - Trần công tử. Nếu ta khám trong người Đỗ Xích-Thập, không có sắc phong của Tống triều, thay vì ta xử tử y. Ta sẽ xử tử công tử đấy. Tự-Mai cầm kiếm đưa ra: - Giáo chủ! Tiểu bối là đệ tử phái Đông-a. Võ đạo phái Đông-a tuyệt đối cấm hại người vô tội. Giáo chủ khám trong người Đỗ trưởng lão mà không có bằng sắc của Tống, tiểu bối xin tự tử ngay tại đây. Chứ không phải đợi đại giá của giáo chủ ra tay. Nhật-Hồ vẫy tay gọi Xích-Thập: - Lại đây! Lại đây! Cây ngay không sợ chết đứng. Người lại đây cho Trần công tử khám. Xích-Thập run run, định phóng xuống đài bỏ chạy. Nhật-Hồ nhảy tới chụp Đỗ Xích-Thập. Xích-Thập vọt người lên khỏi ghế. Lão định nhảy theo bắt y, bỗng cảm thấy bên phải, bên trái bị hai kình vực như sóng biển ập vào người. Lão lùi lại một bước, hay tay đẩy ra hai chưởng đỡ. Bình, bình. Người lão rung động mãnh liệt, chân tay tê dại. Lão nhìn lại, thì ra Phạm Hổ với Lê Đức. Lão kinh ngạc hỏi: - Các ngươi định làm gì ta đây? Muốn phản chăng? Bên dưới đám đệ tử lão đều đã lên trên đài đứng vây xung quanh lão thành vòng tròn. Tay người nào cũng cầm vũ khí như sẵn sàng băm vằm lão ra từng mảnh. Lão kinh hoảng run run, nhưng vẫn làm bộ bình tĩnh điểm mặt: - A ha! Tên nào gan hãy nhảy vào trước chịu chết đi! Thấy thầy trò Nhật-Hồ sắp giết nhau, Tự-Mai bỏ xuống đài. Thanh-Mai hỏi em: - Tự này. Em đã thấy đủ mặt bọn đệ tử Nhật-Hồ. Chị nghe nói Nhật-Hồ có mười đệ tử. Hôm nay vắng mặt Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn bị Khu-mật viện giam. Mụ Hoàng Liên vừa bị giết. Tên Lê Ba chính là Dương Ẩn ngồi kia rồi. Tên Đỗ Xích-Thập vốn người phái Tản-Viên. Còn lại năm tên kia lý lịch ra sao? Tự-Mai chỉ lên đài: - Gã có bộ mặt xấu kinh khủng, hai môi như hai quả chuối đen kia tên Phạm Trạch. Y đã xuất hiện, giang hồ đều biết mặt. Tên mặt mũi coi được kia tên Lê Đức. Tên to lớn kia tên Nguyễn Chí. Còn tên bịt mặt kia tên Đặng Trường. Tên mặt mũi kinh tởm chắc là lão Trịnh Hồ chủ nhân tửu lầu Động đình hoá trang. Trong Hồng-thiết giáo, y có tên Phạm Hổ. Nó hỏi Đỗ Lệ-Thanh: - Đỗ phu nhân. Tôi nghe anh cả mói rằng tổ chức Hồng-thiết giáo các nơi đều theo một khuôn khổ. Trên cao nhất có giáo chủ. Kế đến tả, hữu hộ pháp, ngũ sứ, mười trưởng lão. Không biết bang Nhật-Hồ Trung-quốc có giống như vậy không? - Khai-Quốc vương thực tinh tế vô cùng. Chẳng việc gì người không biết. Có điều từ khi sang Đại-Việt, tiểu tỳ chỉ nghe nói đến mười trưởng lão, mà chưa từng thấy ai nói đến tả, hữu sứ hộ pháp cùng ngũ sứ cả. Tự-Mai quay sang hỏi Vũ Anh: - Sư thúc. Sư thúc nghe nhiều, biết rộng, sư thúc có biết tả, hữu hộ pháp cùng ngũ sứ Hồng-thiết giáo lý lịch ra sao không? Vũ Anh trả lời bằng cái lắc đầu: - Nguyên khi Nhật-Hồ lão nhân từ Trung-thổ về, lão đi thuyết phục anh hùng khắp nơi thuộc tộc Việt lập Hồng-thiết giáo. Lão cho rằng tộc Việt mình chia thành bẩy tám mảnh, mỗi mảnh nói một thứ tiếng. Đại-lý, Xiêm-la, Lão-qua nói tiếng Thái. Quế-lâm, Nam-Hải nay thuộc Đàm-châu, Quế-châu, Quảng-Đông Nam-lộ, Quảng-Tây Nam-lộ nói pha nửa tiếng Việt, nửa tiếng Hán. Đại-Việt nói tiếng Việt, Chiêm-thành nói tiếng Chiêm, Chân-lạp nói tiếng Chân. Phong tục có nhiều khác biệt, mà muốn thống nhất, thực còn khó hơn bắc thang lên trời. Trong hoàn cảnh như vậy không ai đủ uy tín tập hợp lại được? Muốn tập hợp lại phải có một tôn giáo mạnh. Đạo Phật, đạo Lão chủ xuất thế. Khổng lại là đạo của Tầu, hơn nữa chưa có ảnh hưởng ở Đại Việt làm bao. Còn tại Chiêm, Chân, Xiêm, Lão, Lý gần như chưa ai biết đến. Cuối cùng lão đem Hồng-thiết giáo ra thuyết. Bấy giờ anh hùng tộc Việt có hơn trăm người theo. Lão tổ chức đại hội ở hồ Động-đình tuyên bố thành lập Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Tôn Đản cau mặt: - Lão thực xảo quyệt. Một mặt chủ xóa bỏ tổ tiên, tôn giáo. Một mặt lại tổ chức đại hội ở hồ Động-đình ra cái điều ta đây nối tiếp truyền thồng Kinh Dương vương, Trưng-vương. Thế sau trên trăm hào kiệt đó đâu cả? - Trong đại hội, lão phong cho Chu Bội-Sơn làm Tả hộ-pháp phụ trách vùng Quế-lâm, Động-đình hồ, Trường-sa. Đào Tường-Phúc làm Hữu hộ pháp, phụ trách vùng Nam-hải. Tự-Mai đã đọc qua phần tài liệu này ở Khu-mật viện. Nó góp ý: - Dường như Đào Tường-Phúc thuộc phái Cửu-chân, Chu Bội-Sơn thuộc phái Khúc-giang thì phải. Nhưng thực sự trong thế gian làm gì có hai tên đó. Chẳng qua hai gã ấy dùng tên giả mà thôi. - Đúng thế! Cho đến nay, người ta cũng không biết tên thực hai gã Đào, Chu là gì. Giang hồ đồn võ công, kiến thức, văn học hai người ấy hiếm ai bì kịp. Nhật-Hồ phong cho năm cao thủ khác làm ngũ sứ. Trung ương sứ Nguyễn San phụ trách giáo chúng Chiêm-Thành. Tây-phương sứ Bun Thành phụ trách giáo chúng vùng Xiêm-la. Bắc-phương sứ Nguyễn Thúy-Minh phụ trách giáo chúng Đại-lý. Đông-phương sứ Sử-vạn Na-vượng phụ trách giáo chúng vùng Lão-qua. Nam-phương sứ Khiếu Tam Bản phụ trách giáo chúng vùng Chân-lạp. Bẩy người này được lão truyền thần công Hồng-thiết, nên họ quay ra anh hùng một cõi, không chịu quyền thống thuộc lão. Tôn Đản hỏi: - Thế sao cho đến nay không thấy nói đến những người này. Phải chăng họ chết hết hồi? Tự Mai nói: - Giang hồ mới chỉ bết danh tính bẩy hào kiệt mà thôi. Hơn trăm hào kiệt, lão chia cho bẩy người. Nhưng sau khi thấy tính chất xảo quyệt, điên khùng của Hồng-thiết giáo, anh hùng quay lại phản lão. Lão không cấp thuốc giải cho, họ chết trong đau đớn. Duy Nguyễn San, lão sai Vũ Nhất-Trụ vào Chiêm giết chết. Nói đến đó, nó liếc nhìn Cao Huyền-Nga rồi nghĩ: - Số kiếp mẹ mình thực long dong. Mẹ mình có cái may làm vợ một nhân vật lỗi lạc. Bọn Nhật-Hồ muốn khống chế anh hùng thiên hạ. Cho nên bọn chúng mới dùng Nhật-Hồ độc chưởng bắt mẹ mình tuân theo lệnh chúng. Lệnh của chúng chắc chắn để hại bố mình. Nếu mẹ mình không chịu nổi đau đớn, tuân theo lệnh chúng, sau chúng cũng bắt làm cây thuốc. Mẹ mình không chịu, đành gánh đau đớn trong bốn mươi chín ngày, rồi bị đem giam để biến thành cây thuốc. Không hiểu hôm nay bố mình mang mẹ mình theo để làm gì? Còn tên Phạm Hổ kia, thế nào Thuận-thiên cửu hùng cũng phải giết chết y trả hận cho mẹ mình, cho vương mẫu chị Mỹ-Linh. Nhật-Hồ chỉ Đặng Trường: - Trước đây, mi từng bỏ nhà theo ta. Mi tuyên thệ trung thành với ta suốt đời. Để tỏ lòng trung, mi giết cha, giết mẹ. Suốt bao năm mi cùng ta phát triển giáo. Tại sao hôm nay mi phản ta? Đặng Trường cười nhạt: - Sư phụ! Căn bản Hồng-thiết kinh phá bỏ tình cha con, gia đình, thầy trò. Thế vì lý do gì lão gia bắt tôi phải trung thành với lão gia? Trước đây tuân chỉ dụ của Hội-đồng giáo vụ trung ương tôi giết cha, giết mẹ, giết cả chú, bác vì những người này chống bản giáo. Thì nay, giáo chủ không thể cấm chúng tôi, giết giáo chủ để bảo tồn Hồng-thiết giáo. Quần hùng nghe đối đáp giữa Nhật-Hồ với Đặng Trường, họ vẫn không biết y tên gì mà lại nhẫn tâm giết cả cha, mẹ, chú, bác? Nhật-Hồ chỉ vào Dương Ẩn: - Lê Ba. Mi là đệ tử thứ ba của ta. Mi đánh lừa ta xuống hầm, giam ta hai mươi năm, rồi còn định xả nước cho ta chết ngộp. Ta thoát ra được, nhưng vẫn tha tội cho mi. Nay mi lại phản ta nữa, thực mi không còn chút lương tâm nào. Trừ Khu-mật viện, cùng bọn Nhật-Hồ, không ai biết mặt Lê Ba cả. Võ lâm giang hồ chỉ biết y giết người không gớm tay. Ai nghe đến tên Lê Ba cũng kinh hồn động phách. Không ngờ bây giờ nảy ra Lê Ba chính thị đạo sư Dương Ẩn, sư thúc Hồng-Sơn đại phu. Một người đạo cao đức trọng. Cả quảng trường rung động lên bàn tán xôn xao. Trước đây Hồng-Sơn đại phu cực kỳ tôn kính Dương Ẩn, vì y có công giúp ông đoạt ngôi chưởng môn. Y lại tu hành, suốt ngày ngồi tĩnh toạ luyện công, hoặc chăm chú dạy dỗ con em trong phái. Cho nên đệ tử Sài-sơn kính trọng y như một vị tiên. Mọi bất hoà trong môn phái, đều do y hoà giải. Chính ngay khi Vũ Thiếu-Nhung bị y đánh lén Chu-sa độc chưởng. Bà đau đớn điên loạn, y luôn ở cạnh bà, khi dùng châm cứu, khi dùng dược, cho bà giảm đau. Hồng-Sơn đại phu, với bà đều không ngờ tới. Cho đến khi bà đau quá thiếp đi, bị khâm niệm, rồi một người bí mật cậy quan tài đem bà ra cho uống thuốc phục hồi sức khoẻ. Bà mơ mơ màng màng tưởng rằng mình đang ở âm phủ. Sau đó người ta bắt bà phải phục thị Nhật-Hồ lão nhân. Lúc Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cứu bà thoát lao tù, Nhật-Hồ lão nhân cho bà biết Lê Ba chính là Dương Ẩn. Bà không tin. Đến lúc Lê Ba giật sập hầm, tháo nước mong giết Nhật-Hồ, Nguyễn Chí. Qua cuộc đối thoại, bà nhận ra giọng nói Lê Ba giống hệt Dương Ẩn. Tuy vậy hình ảnh đạo đức của Dương Ẩn vẫn khiến cho bà không tin. Khi Khai-Quốc vương đưa bà về gặp lại Hồng-Sơn đại phu. Thiện ý của vương dấu hết những điều nhục nhã của bà trong thời gian làm cây thuốc. Theo vương, nói dối tuy xấu, song nói thực làm thương tâm cho chồng. Những sự thực tàn nhẫn nên dấu đi. Làm vợ Hồng-Sơn, bà biết chồng cực kỳ thông minh. Nghĩ rằng dấu diếm, trước sau, ông cũng biết. Chi bằng nói cho ông nghe, để ông định liệu kế hoạch đối phó với Hồng-thiết giáo. Cho nên bà tường thuật tỷ mỉ mọi biến cố từ khi bị dùng làm cây thuốc cho đến khi được cứu ra. Nghe vợ kể Lê Ba chính là Dương Ẩn. Hồng-Sơn đại phu lắc đầu, nhất định không tin. Ông cho rằng Khu-mật viện dàn ra vở kịch đó, để chia rẽ ông với Dương Ẩn. Vì vậy ông quyết định cho vợ mặc quần áo như đệ tử Sài-sơn theo dự đại hội. Theo ông nghĩ trong đại hội thiếu gì đệ tử Hồng-thiết giáo đi dự, ông cần cho Dương Ẩn xuất hiện. Nếu y làm trưởng lão, ắt có người nhận diện, trắng đen sẽ rõ. Cho nên ông đề cử Dương Ẩn làm đại tôn sư phái Sài sơn để cho mọi người cùng thấy. Suốt từ đầu đại hội, Dương Ẩn đóng vai đạo sĩ nhu nhã. Cho đến bây giờ nghe Nhật-Hồ lão nhân gọi Dương Ẩn là Lê Ba. Ông vẫn cho rằng Nhật-Hồ chia rẽ, bôi nhọ, vu hãm Dương-Ẩn. ANH HÙNG BẮC CƯƠNG Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 4: Trưởng-lão Hồng-thiết-giáo Trưởng-lão Hồng-thiết-giáo - Ông chờ Dương Ẩn phản đối. Nào ngờ y đứng dậy dậy nói: - Bần đạo nguyên đệ tử phái Sài-sơn. Tuy đạo hạnh không làm bao, nhưng cũng có đôi chút tiếng tăm về đạo đức. Bần đạo thấy Nhật-Hồ lão nhân hành sự tự tôn, ác độc không chừng, nên bần đạo phải nhập Hồng-thiết giáo để cải hoá lão. Cải hóa không được bần đạo giam lão dưới hầm suốt hai mươi năm qua. Mới đây lão thoát ra được. Lão định dùng anh em Hồng-thiết giáo tranh dành ngôi vua. Bần đạo có bổn phận cùng các trưởng lão truất phế lão. Nghe Dương Ẩn nhận tên Lê Ba, cả phái Sài-sơn đều kinh hãi. Chân tay Hồng-Sơn đại phu run lẩy bẩy. Tai ông ù đi, tưởng như không còn nghe thấy gì. Thì ra Khai-Quốc vương nói đúng, Vũ Thiếu-Nhung không sai. Ông cắn răng ngồi nghe cho hết đoạn bi thảm này xem sao. Dương Ẩn cười nhạt: - Giáo chủ. Con người ta dù tiên, dù thánh cũng không qua được thời gian. Giáo chủ sống một trăm năm quá đủ rồi. Từ ngày lập ra bản giáo. Giáo chủ lấy việc giết người làm thú vui, coi đó như một hành vi giết kẻ ác, cứu người thiện. Bây giờ giáo chủ nên lui đi, để cho anh em chúng tôi cải tổ bản giáo. Nhật-Hồ thấy Dương Ẩn trở mặt trắng trợn, lão phóng vào người y một quyền mạnh không thể tưởng được. Lập tức cả bọn đồng xuất chiêu hướng lão. Lão kinh hãi, phải thu chiêu lại. Lão nhìn Nguyễn Chí, Đỗ Xích-Thập, Phạm Trạch, Lê Đức, Phạm Hổ: - Còn các người. Vì sao các người phản ta? Nguyễn Chí nói: - Sư phụ. Chúng tôi nhất tâm, nhất trí theo sư phụ đã sáu mươi năm có dư. Trước đây hơn trăm anh em. Sư phụ xử tử dần mòn, nay chỉ còn mười người. Đại sư ca, tứ sư ca tự nhiên mất tích mấy hôm nay. Nhị sư ca cho biết sư phụ bí mật xử tử hình rồi. Hôm nay chỉ vì muốn tỏ ra là người yêu nước, sư phụ đem Hoàng sư muội ra xử tử, để thu phục nhân tâm. Chúng tôi theo sư phụ mong cầu giúp cho nước giầu dân mạnh. Không ngờ sư phụ coi mạng sống chúng tôi rẻ quá. Sự thực Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn bị Khu-mật-viện giam một nơi bí Khi dàn cảnh cho Nhật-Hồ vào cứu Đặng Trường, Nguyễn Chí ra, Khai-Quốc vương đã cho bọn ngục tốt bàn tán với nhau rằng Nhật-Hồ vào nhà tù xử tử Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn. Vì vậy bọn này tin rằng đúng. Nhật-Hồ lão nhân lắc đầu: - Ta không xử tử hai người đó. Nguyễn Chí cười: - Tôi không tin sư phụ. Nhưng thôi, coi như hai người đó trúng gió chết đi. Bây giờ có một vấn đề, chúng tôi đặt ra với sư phụ. Nếu sư phụ đồng ý, chúng tôi cùng sư phụ phất cờ đoạt giang sơn, rồi sư phụ lên làm vua. Còn như sư phụ không thuận, chúng ta cùng chết. Nhật-Hồ lão nhân hỏi: - Vấn đề gì, điều kiện gì, người nói ta nghe thử? - Giản dị thôi. Hồng-thiết kinh nói rằng khi một người tuyên thệ nhập giáo, bị phóng vào người một Chu-sa độc chưởng. Khi trúng chưởng, nếu trong bốn mươi chín ngày, không có thuốc giải sẽ chết. Còn có thuốc giải, khỏi chết. Kể từ đấy, giáo chúng đó phải tuyệt đối trung thành với giáo, để hàng năm, vào ngày tiết Đông-chí sẽ nhận được một viên thuốc giải. - Đúng thế. Ta cũng áp dụng như vậy đối với Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Nguyễn Chí lắc đầu: - Khác xa! Bên Tây-dương, nếu giáo chúng nào lên tới địa vị quản một quận trở lên, sẽ được giáo chủ hoặc các trưởng lão trong hội đồng giáo vụ trung ương dùng Hồng-thiết tâm pháp giải chất độc cho. Từ đấy, nếu có trúng chưởng độc nữa, cũng vô sự. Nhưng, sư phụ giữ kín Hồng-thiết tâm pháp. Chúng tôi làm trưởng lão, mà năn nỉ biết bao năm, sư phụ cũng không dạy. Dương Ẩn nói: - Đã vậy, sư phụ còn sửa đổi độc chưởng thành Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Người bị trúng tuy uống thuốc giải, nhưng mỗi tháng lên cơn một lần, đau đến chết đi sống lại trong một giờ. Lê Đức tiếp: - Anh em chúng tôi quyết định lên đây yêu cầu sư phụ hai việc. Việc thứ nhất trao Hồng-thiết tâm pháp cho chúng tôi luyện. Thứ nhì, chính người phải sửa đổi Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng sao để không còn bị đau hằng tháng nữa. Trong khi ở tù, Nhật-Hồ lão nhân đã nguyện, nếu lão thoát ra khỏi, sẽ xẻo từng miếng thịt bọn Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn cho hả giận. Nhưng khi ra tù, lão nghĩ: - Giết chúng thì thỏa hận đấy, nhưng thiếu người trợ giúp. Chi bằng tha cho chúng, để chúng trợ giúp chiếm ngôi vua. Bấy giờ giết chúng cũng chưa muộn. Bây giờ thấy chúng đặt điều kiện. Nếu thỏa mãn chúng. Chúng giúp cho tranh ngôi vua. Lão quyết định nhanh chóng: - Có thế mà các người phải làm rộn. Nhược bằng các người xin, ta cho ngay từ lâu rồi. Được. Ta thuận hết. Tối hôm nay, chúng ta bắt đầu luyện Hồng-thiết tâm pháp. Giáo chúng dưới đài nghe vậy, cùng vỗ tay hoa hô rung động quảng trường. Suốt từ ngày nhập giáo, giáo chúng phải chịu biết bao thống khổ do cơn đau hàng tháng hành hạ. Bây giờ nghe lão hứa sẽ cho uống thuốc giải cái khổ đó, còn gì bằng? Thầy trò Hồng-thiết vừa cắn cấu nhau, tưởng giết nhau. Bây giờ lại thoả thuận với nhau chuẩn bị tranh thiên hạ. Ai nghe đến cũng rùng mình. Huệ-Phương từ khán đài phái Sài-sơn bước lên lễ đài. Nàng chắp tay hướng Dương Ẩn: - Lê trưởng lão. Tiểu bối xem tướng trưởng lão, đã biết rằng trưởng lão vốn người ác độc, giết người không gớm tay, sao có thể thành một đạo sư tiêu dao vũ ngoại trần ai được. Cho nên tiểu bối mới không gọi người bằng sư thúc, mà gọi người bằng tiền bối. Tiền bối còn mồm năm miệng mười tự cho mình đạo đức hơn người. Thì ra tiền bối tiềm ẩn ở phái Sài-sơn, mong khống chế phái này, hầu giúp Hồng-thiết giáo. Nàng ngừng lại, mỉm cười, rồi hỏi: - Bây giờ tiền bối có nên ngồi ghế tôn sư phái Sài-sơn nữa không? Dương Ẩn quát lên: - Ta làm tôn sư phái Sài-sơn hay không, cũng không đến cái thứ như mi có quyền đặt câu hỏi. Bỗng trên khán đài phái Mê-linh có tiếng la hoảng. Mọi người nhìn lại, thì ra sư thái Tịnh-Tuệ, mặt đỏ như gấc đang ngồi kiết già trấn nhiếp cơn đau, mồ hôi phát ra như tắm. Mỹ-Linh đứng cạnh, nàng thấy rõ bà bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Vì hồi trước vương mẫu của nàng đã từng bị, nàng thấy qua rồi. Mỹ-Linh nói với Tịnh-Huyền: - Thái cô. Thái sư phụ bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Phải rồi. Hai chưởng của Hoàng Liên ban nãy là độc chưởng. Tịnh-Huyền lên đài, hướng vào Nhật-Hồ lão nhân: - Giáo chủ! Sư tỷ của vãn bối bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng do Hoàng Liên truyền vào người. Mong giáo chủ ban thuốc giải. Đỗ Xích-Thập cười nhạt: - Sư phụ ta mới ở trong tù ra, làm gì có thuốc giải mà xin? Trong anh em chúng ta đây, ai cũng biết chế thuốc giải hết. Muốn được thuốc giải, Tịnh Tuệ phải tuyên thệ nhập bản giáo, mỗi năm sẽ được phát một viên thuốc giải vào ngày Đông-chí. Tuy vậy, hàng tháng cũng bị lên cơn đau đớn hai giờ. Y đến trước mặt sư thái Tịnh-Tuệ hỏi: - Sư thái! Nếu sư thái tuyên thệ nhập bản giáo, ắt được trao cho chức trưởng lão. Sư thái mau đến trước sư phụ xin lão nhân gia thu làm đệ tử, lập tức bọn ta cấp thuốc giải cho sư thái liền. Tịnh-Tuệ lắc đầu: - Đa tạ hảo ý của Đỗ trưởng lão. Chợt Mỹ-Linh nhớ ra Đỗ Lệ-Thanh có thuốc giải này. Nàng chạy lại khán đài phái Đông-a hỏi Đỗ Lệ-Thanh: - Đỗ phu nhân. Xin Đỗ phu nhân cứu Thái sư-phụ với. Đỗ Lệ-Thanh đến khán đài phái Mê-linh bắt mạch sư thái Tịnh-Tuệ, rồi lắc đầu: - Trước kia Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng của Trung-quốc với Đại-Việt giống nhau. Trải mấy chục năm, các tôn sư Trung-quốc cải biến đi nhiều. Vì vậy người trúng Chu-sa Nhật-hồ Trung-quốc, dùng thuốc giải Hồng-thiết giáo Đại-Việt trị không khỏi. Hôm bọn Tống bị trúng Chu-sa độc phấn của bang Nhật-hồ Trung-quốc trên sông Hồng. Đỗ Xích-Thập, Hoàng Văn, Hoàng Liên từng dùng thuốc giải Đại-Việt, mà trị có được đâu? Còn Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng Đại-Việt cũng sửa đi nhiều, thuốc giải Trung-quốc e khó trị được. Tuy vậy Lệ-Thanh cũng móc một viên thuốc bỏ vào miệng sư thái Tịnh Huyền. Bà vận công nuốt vào. Một lát, cơn đau giảm, nhưng người vẫn còn lạnh run. Nhật-Hồ nhìn thấy vậy, y cười: - Sư thái! Khi lão phu từ Trung-quốc về Đại-Việt, đã sửa đổi cách phát, cách luyện Chu-sa chưởng khác đi nhiều. Thuốc giải đương nhiên càng khác. Thuốc của mụ họ Đỗ kia trị không khỏi đâu. Không tin sư thái thử vận công mà xem. Tịnh-Tuệ độ chừng Nhật-Hồ lão nhân không nói dối. Bà thử vận công, quả nhiên kinh mạch bế tắc. Các âm kinh không lưu thông được. Bà thản nhiên: - Bần ni bị nghiệp báo từ kiếp trước. Khi nghiệp chướng bầy ra, tốt hơn hết nên chấp nhận chịu đựng mới giải trừ. Chứ còn chống trả biết bao giờ cho hết đi được? Đa tạ giáo chủ quan hoài. Đỗ Lệ-Thanh nói với Mỹ-Linh: - Khải tấu điện hạ. Nếu sư thái muốn giải trừ hết nọc Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng mà dùng thuốc giải, mỗi tháng vẫn bị lên cơn đau một giờ. Chỉ có phương pháp duy nhất là luyện Hồng-thiết tâm pháp, mới khu trừ toàn diện độc tố. Tịnh-Tuệ nở nụ cười, bà nắm tay Đỗ Lệ-Thanh: - Đa tạ Đỗ phu-nhân. Bần ni tu theo Phật từ thủa còn thơ, ăn chay niệm Phật đã lâu. Bây giờ luyện Hồng-thiết công e vô ích. Phu nhân đã biết rồi đó, Hồng-thiết giáo gốc do hai vị giáo chủ Mã-Mặc, Lệ-Anh lấy trùng độc luyện công, rồi dần dần viết Hồng-thiết kinh. Khi luyện, phải ý thủ vào máu, vào sắt, vào cảnh chém giết. Bần ni không dám luyện, có luyện cũng vô ích. Đỗ Lệ-Thanh ngơ ngác không hiểu: - Thưa sư thái, hơn năm trước đây đệ tử đem tâm pháp này truyền cho chủ nhân của tiểu tỳ là Thân thế-tử. Trong người Thân thế tử chứa một trăm năm công lực của Bồ-tát Sùng-Phạm, thế mà người cũng luyện thành. Tịnh-Huyền giảng giải: - Phu nhân không hiểu cũng phải. Khi Thân thế-tử được Bồ-tát Sùng Phạm truyền thiền công cho, trong cơ thể thế tử chỉ có chút ít công lực phái Tây-vu. Thiền công hoá giải đi, rồi nhập vào. Phu nhân biết đó, Thân thế-tử tuy nhận một trăm năm thiền công, mà người chưa từng quy y. Phật pháp chỉ biết câu Nam-mô A-di-đà Phật. Cho nên người có công lực vô cùng mạnh, mà xử dụng không được. Bấy giờ phu nhân đem Hồng-thiết tâm kinh truyền cho Thân thế-tử. Thân thế-tử luyện chắc dễ dàng, mau chóng lắm thì phải? Đỗ Lệ-Thanh như người đi trong đêm, được người soi sáng ngọn đèn cho, bà nghĩ thầm: - Vị sư thái này kiến thức thực quảng bác. Bà không hổ danh một trong Đại-Việt ngũ long. Trước kia mình cứ tưởng Đại-Việt ngũ long gồm năm người có võ công cao nhất. Thì ra họ toàn những nhân vật trí tuệ, kiến thức bao la đã đành. Họ lại quảng đại, vượt ra khỏi ranh giới bo bo giữ môn hộ mình. Nhật-Hồ lão nhân, cùng đám đệ tử võ công đến thế, nhưng lòng dạ hẹp hòi, kiến thức hủ lậu, so với họ thế nào được. Bà kiểm điểm lại: - Lần đầu tiên ta gặp đại hiệp Trần Tự-An. Ông khó cũng thực khó, dễ lại thực dễ. Ông không cần biết đến những hào quang công chúa Bình-Dương, thế tử Thân Thiệu-Thái, quận chúa Bảo-Hòa. Trước mặt ông toàn một đám trẻ, bạn của Thanh tiểu thư. Ông thân mật, thương yêu, sẵn sàng dạy bất cứ điều gì ông có. Ông thấy ta là nữ tỳ của thế-tử, mà vẫn gọi ta bằng phu-nhân, ăn cùng mâm, truyện trò với ta như người ngang hàng. Mỗi hành xử của ông đều hào sảng, lỗi lạc. Hồng-Sơn đại-phu tính khí hẹp hòi hơn, nhưng ông thành bậc thần y đời nay. Ơn đức trải khắp thiên hạ. Minh-Không thiền sư, ta không biết nhiều, nhưng thành Bồ-tát đắc đạo, ắt kiến thức, đạo đức không tầm thường. Bây giờ ta biết thêm vị sư thái này nữa. Nghĩ vậy bà tiếp: - Bạch sư thái đúng thế. Thân thế-tử luyện trong vòng bốn giờ thì xong. Trong khi tiên phụ luyện trên hai mươi năm mới thành. Chính đệ tử luyện gần bốn mươi năm, mà vẫn chưa đạt được ba thành. Đệ tử cho rằng Thân thế tử có công lực cao, luyện mau chóng. Vì vậy sư thái luyện ắt cũng mau. - Không được. Thân thế-tử nhận thiền công, mà chưa biết vận thiền công, mới luyện thành. Còn bần ni luyện nội công Mê-linh, bao gồm nội công dương cương của Cửu-chân và nội công âm nhu của Long-biên, nếu nay luyện Hồng-thiết công, phải đi vào ma nghiệp, làm cho âm dương ly tán, cơ thể nguy tai. Bây giờ Đỗ Lệ-Thanh mới hiểu rõ. Bà nghĩ thầm: - Không biết bây giờ ta có thể nhờ Thân thế-tử dùng Hồng-thiết tâm pháp hoá giải độc chất cho vị sư thái này. Ngặt vì Thân thế-tử đang ẩn thân trong đám đệ tử Hồng-thiết, làm sao có thể xuất hiện? Ta đành chờ sau buổi lễ hôm nay vậy. Sư thái Tịnh-Tuệ đã bớt đau. Bà vẫy tay gọi Mỹ-Linh: - Con lại đây ta bảo. Mỹ-Linh tiến lại trước bà, chắp tay đứng hầu. Sư thái Tịnh-Tuệ nhắn mắt nhập thiền. Một lúc lâu bà mới mở mắt ra: - Từ khi Hoa-Minh thần ni qui tụ anh hùng lập ra bản phái. Sau truyền đến đời thứ ba, sư phụ ta pháp danh Duyên-Tịnh làm chưởng môn. Người còn hai sư muội. Một, Duyên-Hoà võ công cực kỳ cao thâm, Phật học càng uyên bác. Không biết vân du đâu, mất tin tức đã hơn hai mươi năm. Người thứ ba, Hoàng Liên. Sư phụ ta có hai đệ tử. Một là ta. Hai là Thái-cô của con. Ta thu ba đệ tử. Một, vương mẫu của con. Hai, Ngô Thuần-Trúc, ba, Hàn Diệu-Chi. Những người này con đều biết cả rồi. Bà nhắm mắt vận công, một lát sau tiếp: - Nay ta mắc nghiệp quả rất nặng, e khó gánh vác trọng trách bản phái. Con hãy quỳ xuống nghe ta dạy. Mỹ-Linh quỳ gối, bà kéo đầu Mỹ-Linh sát vào miệng, trao cho nàng cái túi gấm, nói nhỏ: - Trong túi này có hai tập sách mỏng. Một vẽ sơ đồ cất kho tàng lớn nhất thiên hạ, lưu truyền từ đời vua Trưng. Con truy theo đó đào lên, đem về giúp cho nước giầu dân mạnh. Cái túi thứ nhì chép phần võ công ta với Tịnh Huyền đã tổng hợp nội ngoại công âm nhu Cửu-chân, Long-biên làm một. Con theo đó nghiên cứu cho thành pho võ công toàn bích. Tuy nhiên muốn tìm được kho tàng, con phải nhớ bài mật quyết sau đây. Bà ghé tai Mỹ-Linh đọc một lượt, rồi bảo nàng đọc lại. Mỹ-Linh nhẩm một lúc nàng thuộc lầu. Tịnh-Tuệ đứng dậy nói lớn: - Đệ tử Mê-linh nghe đây. Tất cả các đệ tử phái Mê-linh im lặng lắng nghe. Tịnh-Tuệ cầm thanh kiếm đeo ngang lưng trao cho Mỹ-Linh: - Mỹ-Linh! Hôm nay ta, Tịnh-Tuệ, chưởng môn đời thứ năm, truyền chức cho người làm chưởng môn đời thứ sáu. Thanh kiếm này là thanh kiếm vua Trưng mang thủa xưa, được coi như kiếm lệnh bản môn. Bất cứ đệ tử nào thấy kiếm cũng như thấy vua Trưng, đều phải nhất nhất tuân lệnh. Mỹ-Linh kinh hoàng đến đờ người ra. Nàng chưa kịp trả lời, Tịnh-Tuệ đã đọc một lúc mười điều giáo luật của phái Mê-linh, bắt nàng học thuộc. Bà nói: - Mỹ-Linh! Con hãy tuyên thệ tuyệt đối trung thành với mười điều giáo huấn của tổ sư đi. Mỹ-Linh như cái máy, quỳ gối tuyên thệ. Tịnh-Huyền tiếp: - Bây giờ con là chưởng môn phái Mê-linh. Tịnh-Tuệ hô lớn: - Toàn thể đệ tử quỳ gối làm lễ ra mắt tân chưởng môn. Mấy nghìn đệ tử, trong đó có cả Tịnh-Huyền đều cúi đầu hành lễ. Tuy bất thần, ngạc nhiên. Nhưng Mỹ-Linh là công chúa, từng bị lễ giáo ràng buộc quen. Nên nàng không bỡ ngỡ. Tay cầm kiếm lệnh, nàng nói: Mời các vị bình thân. Tôi tuổi trẻ, tài thô, đức mỏng. Nhưng Thái sư phụ đã dạy, không thể từ chối. Từ hôm nay, tôi nhận quyền chưởng môn, tất cả những nếp cũ các vị tổ sư đặt ra, nhất nhất đều không đổi. Nàng bước lên đài hướng vào quần hùng: - Tuân chỉ dụ của Thái sư phụ, tôi đảm nhiệm chức vụ chưởng môn kể từ ngày hôm nay. Rất mong được chư vị cao nhân tiền bối chỉ dạy. Nhân danh chưởng môn, tôi chỉ định Thái sư thúc Tịnh-Huyền làm tôn sư bản phái. Tịnh-Huyền khoan thai lên đài ngồi. Chưởng môn nhân các phái đồng đến trước Mỹ-Linh chúc mừng. Từ lúc bọn Triệu Thành đi đến giờ, diễn biến dồn dập xẩy ra, khiến quần hùng quên lời đe doạ mang quân sang của y. Bây giờ chưởng môn phái Tản viên Đặng Đại-Khê hỏi Nhật-Hồ: - Giáo chủ! Vụ Đỗ trưởng lão làm gian tế cho Tống, giáo chủ định bỏ qua sao? Như vậy luật Hồng-thiết có còn giá trị không? Nhật-Hồ lão nhân đứng trước, phía sau bẩy trưởng lão xếp thành hàng. Lão trả lời cho qua: - Đặng chưởng môn cứ chờ đi. Đỗ Xích-Thập chỉ vào mặt Đặng Đại-Khê: - Tên khốn kiếp kia! Ta đã không lý đến cái chức chưởng môn của mi, mi cũng phải biết điều chứ? Mi nên nhớ rằng, từ khi bản phái tái lập đến nay, trải gần hai trăm năm. Lúc mới tái lập, ngũ tổ đã họp nhau định rằng, cho đến khi tìm được di thư của ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng, người nào võ công cao nhất, đương nhiên làm chưởng môn. Mi đã tìm được chưa? Nếu chưa tìm được vậy mi có phải người võ công cao nhất chăng? Dương Ẩn cũng nói: - Hai vị cãi nhau chi cho mệt. Theo bần đạo nghĩ, hai vị nên dùng võ công cao thấp mà định ngôi chưởng môn vẫn hơn. Chúng ta là con nhà võ, dùng võ công giải quyết cho mau chóng. Đỗ Xích-Thập cười ha hả: - Dương đạo huynh! Đạo huynh dạy thực phải. Hôm nay ta dùng võ công Tản-viên dạy dỗ cho bọn hậu bối này mấy chiêu. Đại-Khê, mi phải lùi ngay, trả chức chưởng môn về cho ta. Còn bằng không mi lên đây nộp mạng. Đặng Đại-Khê suy nghĩ: - Nguyên bản lĩnh Xích-Thập, ta không thể nào địch nổi y rồi. Huống hồ y đã học Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, làm sao ta có thể thắng nổi y? Nhưng trước hoàn cảnh này, ta đành mượn cái chết để đền ơn liệt tổ bản phái vậy. Đặng Đại-Khê hướng vào quần hùng, ông xá ba xá, rồi vận khí vào đơn điền nói lớn: - Thưa các anh hùng thiên hạ. Vị tiền bối này trước đây là người của phái Tản-viên. Sau vì hiếp dâm con gái lương gia, bị đuổi ra khỏi môn hộ. Người gia nhập Hồng-thiết giáo, làm không biết bao nhiêu điều ác độc mà kể. Song điều đó còn có thể dung thứ được. Gần đây vì ham bả công danh, người nhẫn tâm đem giang sơn Đại-Việt dâng cho Tống. Tội này, võ lâm anh hùng không thể tha thứ. Bây giờ người ra mặt tranh chức chưởng môn với tại hạ, hầu đem phái Tản-viên làm nội ứng cho Tống. Ngừng lại một chút ông tiếp: - Phái Tản-viên từ bao đời, dù thăng, dù trầm cũng đều lấy việc bảo vệ xã tắc làm lẽ chính. Không ngờ, đến nay lại bị vết nhơ này. Ông nói với Xích-Thập: - Tiền bối. Người muốn tranh chức chưởng môn, phải dùng võ công bản môn, chứ không thể dùng võ công Hồng-thiết giáo. Đỗ Xích-Thập cười: - Đồ hèn hạ. Chưa đấu mà đã van xin. Nói rồi y phát chưởng tấn công. Chưởng của y vừa phát ra, kình lực đã bao trùm khắp đài, làm bàn thờ rung rinh. Trần Tự-An đưa mắt cho các sư đệ. Trần Kiệt, Phạm Hào nhảy lên đài, đứng thủ trước bàn thờ. Hai ông vận khí chống lại kình phong. Nhờ vậy bàn thờ không bị rung động nữa. Kể từ lúc đến đại hội, anh em Bảo-Hòa, Thiệu-Thái được lệnh Khai-Quốc vương phải ẩn thân trong lớp giáo chúng Hồng-thiết, để tùy cơ ứng phó, vì vậy hai anh em chỉ biết nghe, nhìn. Khi thấy sư thái Tịnh-Tuệ, đại sư Sùng Văn bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, Thiệu-Thái muốn ra tay cứu hai người, nhưng chưa được lệnh, nên đành im lặng. Chàng tự an ủi: - Dù sao hai vị đó cũng chưa đến nỗi nguy nan gì. Đau đớn mấy giờ, rồi sẽ qua. Sau đó mình trị, cũng không sao. Bây giờ Bảo-Hòa thấy Đỗ Xích-Thập tranh quyền chưởng môn với Đặng Đại-Khê, chân tay nàng run lên, không chịu được. Hình ảnh thời thơ ấu lại trở về. Bấy giờ nàng theo ông nội tới tổng đàn phái Tản-viên thăm Đặng Đại Khê. Vừa thấy nàng, ông đã ôm lấy như ôm đứa con gái nhỏ. Ông xem tướng, rồi quả quyết sau này sự nghiệp của nàng không nhỏ. Ông lại dốc túi truyền cho nàng tất cả mười hai chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Cuối cùng ông đem bài mật quyết về biến hoá cùng những thuật ngữ bí mật để luyện Phục-ngưu thần chưởng dạy nàng. Ông nói: - Ta xem tướng, thấy sự nghiệp cháu sau này không nhỏ, cơ duyên phúc đức không cùng. Vì vậy ta truyền cho cháu bản thuật ngữ, hầu sau này cháu tìm ra mật phổ võ công bản môn, cháu đối chiếu mà luyện. Hôm đó nàng hỏi: - Xưa công chúa Phùng Vĩnh-Hoa chép bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, không chép thuật ngữ vào ư? - Không. Bà chỉ chép phép luyện, cách vận khí, cùng biến hoá. Nhưng các danh tự trong đó đổi đi. Hầu người ngoài, hoặc kẻ thù có bắt được cũng vô ích. Chính vì vậy bà Triệu tuy tìm được bộ sách này, mà chỉ biết thuật ngữ của Long-biên kiếm pháp, nên bà không luyện được thứ võ công nào ngoài thứ võ công này. Vua Đinh cũng tìm được, nhưng ngài chỉ có thuật ngữ của phái Hoa-lư, nên không luyện được gì hơn là võ công của Cao-Cảnh hầu. Chính vì vậy, hôm thấy bia đá chép Phục-ngưu thần chưởng, lúc đầu nàng luyện không thành. Sau nhớ lại lời dặn của Đại-Khê, nàng đem những mật ngữ ra đối chiếu, luyện thành. Như trong bia đá chép về biến hoá từ chiêu Tứ ngưu phân thi sang chiêu Thanh ngưu ư hà chép rằng: Dẫn khí về đất tổ, chuyên sang gió Đông. Nàng không hiểu gì cả. Đối chiếu trong bản mật ngữ từ đất tổ tức đơn điền. Gió đông tức hạ tiêu. Nàng luyện thành công. Bây giờ thấy Đặng Đại-Khê có thể gặp nguy cơ, nàng không chịu được nữa. Nàng muốn ra hiệu cho Thanh-Mai để xin phép lên đài diệt tên Xích Thập, mà Thanh-Mai lại đang chú tâm theo dõi diễn biến trên đài. Nàng nói với anh: - Anh ở đây nghe. Em chịu không được nữa rồi. Thiệu-Thái định cản em, nhưng không kịp. Bảo-Hòa đã chạy đi mất. Nàng đến cạnh lễ đài, để tìm cách giúp Đặng Đại-Khê. Trên đài Đỗ Xích-Thập với Đặng Đại-Khê đã dở hết sở trường ra đấu với nhau. Võ công Tản-viên thuộc loại võ công thuần túy dương cương. Cho nên cứ mỗi lần hai chưởng chạm nhau, lại bật lên tiếng bùng lớn. Hai người bật lui lại gờm gờm nhìn nhau. Từ lâu anh hùng thiên hạ, nghe danh Đại-Việt ngũ long, có người khâm phục, có người không. Người không phục, cho rằng chẳng qua năm người làm chưởng môn năm đại môn phái, rồi được người đời thổi phồng lên. Chứ thực sự bản lĩnh cũng chẳng hơn đời làm bao. Hôm nay, từ lúc diễn ra cuộc long tranh, hổ đấu, họ đã thấy Trần Tự-An, Đặng Đại-Khê xuất chiêu vài lần. Chỉ một vài chiêu đó, chưa đủ cho chúng nhân biết bản lĩnh chân thực. Tiếp theo họ thấy sư thái Tịnh-Tuệ đấu với Hoàng Liên. Kiếm thuật của bà huyền ảo, linh diệu, họ tin được phần nào. Cho đến bây giờ xem cuộc đấu của Đặng Đại-Khê với Đỗ Xích-Thập kinh hoảng về bản lĩnh của hai người. Trong mười lăm đại tôn sư ngồi trên lễ đài, phân nửa là những người có bản lĩnh cao thâm tuyệt vời, còn chịu nổi sức ép chưởng phong hai người.