🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh Em Thù Địch - Nayan Chanda full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo Nayan Chanda (Hoàng Long Hhải dịch) Anh em thù địch Brother Enemy (Chiến tranh tiếp diễn) 1 Giãi bày của người dịch Dù ít nhiều, trước 30 tháng 4 năm 1975, các quí vị phục vụ trong Quân Đội VNCH, công chức hoặc cán bộ, có dịp nghe phát thanh hay đọc báo chí, v.v... nên biết ít nhiều tình hình thời sự, chính trị trong cũng như ngoài nước. Dù chế độ chính trị miền Nam lúc đó có kiểm duyệt báo chí (được gọi một cách văn hoa bóng bảy là “Sở Phối hợp Nghệ thuật”) nhưng cũng không đến nỗi quá khắt khe để ai nấy cũng phải mang một cái dàm vào mắt như con ngựa kéo xe sau năm 1975. Sau năm 1975 thì vô phương. Ngoài các đài phát thanh và báo chí của nhà nước Cộng Sản hay làm cái đuôi đập ruồi cho con bò kéo xe như báo Tin Sáng của ông Ngô Công Đức thì ngoại dã cấm ngặt. Không thiếu gì người lén nghe đài BBC hay đài VOA nên phải trình diện công an, hoặc chỉ phải làm kiểm điểm hoặc không ít người lên đường vào trại “tù cải tạo” học năm bảy năm cho chín bài học cách mạng. Vào trại tù cải tạo rồi thì cũng vô phương, như ếch ngồi đáy giếng. Thỉnh thoảng, thân nhân có lên thăm báo cho vài tin tức thì tin đó cũng tam sao thất bản, thiên hạ xào đi nấu lại, thêm bớt quá nhiều tiêu, hành, tỏi, ớt thành ra chẳng rõ nguyên thủy nó là món ăn gì. Mùa hè năm 1981, một hôm, khoảng chạng vạng, tôi đi gánh nước đêm tưới rau cho trại cải tạo, ngang qua nhà thăm nuôi, chợt nghe thoáng đài BBC phát ra nho nhỏ - gia đình ai đó lên thăm được ở lại, thân nhân mở đài cho người cải tạo nghe vì lúc nầy cán bộ vào trại hết cả rồi. Khi tôi đứng ngoài nghe lén là lúc Phạm Duy đang giới thiệu “Nửa thế kỷ âm nhạc Việt Nam”. Một nữ ca sĩ, giọng quen lắm nhưng vì âm thanh vặn nhỏ nên tôi không nhận ra được là ai, đang hát: “Xuân về rồi, muôn đóa hoa đào tươi, cười trong nắng...” Trong đời tôi, mê nhạc cũng dữ lắm, đã từng nhiều lần đi nghe hát ở Queenbee hay Đêm Màu Hồng, v.v... nhưng chưa bao giờ tôi thấy xúc động đến nỗi muốn chảy nước mắt như hôm đó. Hai cái: Đài BBC và “nhạc vàng” thấm sâu vào tim máu tôi tư thuở nào tôi không chắc, nhưng nó là món 2 ăn tinh thần của tôi hằng ngày, cũng như cơm cháo vậy. Vậy mà từ tháng 5/1975 cho đến giờ tôi không được ăn. Thèm biết chừng nào! Tôi nghe đài BBC từ năm 1951. Hồi ấy chưa có máy thu thanh transitor nên khi thành phố Quảng Trị có điện trở lại thì bà mẹ anh Phan văn Cẩn, bạn tôi, mua một cái radio hiệu Phillips để gia đình nghe chơi. Thỉnh thoảng, tôi qua nhà người bạn nghe ké đài BBC. Từ năm 1954, tôi làm “gia sư” để kiếm cơm ăn học tại nhà một người bà con ở Huế. Người nầy làm ở Nha Thông Tin Trung Việt nên được cơ quan giao cho một cái radio để mỗi ngày lấy tin tức. Tôi được nghe và dần dần lấy tin giùm ông thành ra từ đó cho đến ngày 30 tháng 4/ 1975, nghe đài VOA mỗi ngày 2 lần, nghe đài BBC mỗi ngày 3 lần là thói quen không những cần mà còn thiết, cũng giống như ăn cơm vậy, buổi nào không nghe thì coi như buổi đó thiếu ăn. Món ăn thường ngày do Xuân Kỳ, Hữu Đại, hai người làm đài BBC chương trình tiếng Việt từ “thời thượng cổ”, sau nầy có thêm Ngọc Phách, Trần Minh, dọn ra cho tôi. Đỗ Văn, Xuân Hồng, Vĩnh Phúc, Lê Thảo, Lan Đài là “hậu duệ”. Thỉnh thoảng, nhân dịp tết ta, giáo sư Honey chúc tết, dọn thêm món ăn nửa Tây nửa ta, giống như mấy ông cha Tây giảng đạo trong nhà thờ. “Hôm nai la mua chai, cac con phai an cưc khô”. Judy Stow thỉnh thoảng cũng cho ăn vài món, nhưng vốn dĩ là đàn bà khéo tay nấu nướng nên món ăn tây mà có thêm mắm ruốc, dễ nuốt hơn. Không riêng gì tôi, vô trại cải tạo rồi, dù muốn dù không, ai ai cũng coi trời bằng vung. Thế mà trong trại cải tạo thì lạm phát nhiều nhà bình luận chính trị, “trăm hoa đua nở”, chẳng có hoa nào chịu thua hoa nào. Các nhà bình luận nầy, không bút chiến được nhưng vẫn khẩu chiến liên miên, có khi trực tiếp, khi gián tiếp, ông nào cũng coi như “30 tháng Tư của Cộng” tới bên lưng rồi, mỗi người sắp lên một “lon” tới nơi rồi. Người được thăm nuôi có gì gia đình bới xách cho, hứng chí mời các nhà bình luận đến dự, chẳng mấy chốc trận chiến bát dĩa sạch bách, y như Cọng Sản rút lui về Bắc, chẳng còn mống nào dám ở lại miền Nam. Có điều đáng buồn, tất cả ý kiến của các nhà bình luận nầy đưa ra, chẳng dựa vào nguồn thông tin nào để có cơ sở hết. 3 Ngày 2 tháng 7/ 1982, tôi được “tha ra khỏi trại cải tạo” như lệnh tha ghi, nhưng thật ra thì cũng tù trong ra tù ngoài như chính vài công an, trong “phút nói thật” xác nhận. Về, có nghĩa là tiếp tục một cuộc sống đọa đày khác, suốt ngày lo gạo, rau, y như cảnh nhà thơ Trần Tế Xương “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”. “Món ăn vật chất” còn chưa có đủ để đút vào mồm, nói chi tới “món ăn tinh thần”. Chế độ Cộng Sản là một chế độ gồm có cây súng của công an cọng với sợi giây thắt bao tử là cái hộ khẩu, người dân còn ngo ngoe đằng nào được mà nói là chống chế độ. 28 tháng 5/1989, tôi vượt biên và thoát tới Bidong. Tới trại tỵ nạn rồi, bấy giờ “vui chơi tắm giặt nghe đài” thoải mái. Tôi như con cóc bò lên được trên miệng giếng. Sao mà trời cao đất rộng thế! “Giòng lịch sử” đứt đoạn từ 30 tháng Tư nay được tiếp nối một cách phong phú, tràn đày, vui thú. Món ăn tinh thần bây giờ, tưởng như làm người ta bội thực. Nói chung như trên là tình cảnh những người ở lại sau Tháng tư đen. Còn ai kịp nhanh chân? Tới Hoa Kỳ năm 1993, gặp một người bạn qua đây từ 1975, hỏi anh ta theo dõi tình hình như thế nào? Anh ta cười trừ. Mặc dù anh tốt nghiệp Luật khoa thời chế độ cũ, từng làm hiệu trưởng một trường Trung học, từng tranh cử dân biểu hạ viện, qua tới Mỹ thì học lại, lấy bằng Master, nhưng chuyện nhà, chuyện nước, chuyện bốn bể năm châu, chủ yếu là nhờ cái TV. Anh ta nói đâu còn nghe được những bài bình luận, những ký sự của những phóng viên lừng danh như Alexender Thompson, Bernard Fall (đã chết), Nayan Chanda, v.v... Anh bạn thú thiệt: “Về mặt nầy, tôi chẳng may mắn gì hơn anh bao nhiêu!” Khi tôi nói tới cuốn sách Brother Enemy của Nayan Chanda và tỏ ý muốn dịch ra tiếng Việt, anh bạn khuyến khích: “Gắng lên, dịch đi. Tôi đọc được tiếng Anh nhưng tôi thích đọc tiếng Việt. Đọc tiếng mẹ đẻ như đọc từ trái tim chứ không phải từ bộ não”. Vẫn biết sách nầy cần cho bộ não hơn. 4 Đọc tức là tò mò muốn biết thêm: Biết Ieng Say là người Việt gốc Miên quê ở Trà Vinh; biết Pol Pot là anh sinh viên kỷ sư điện Saloth Sar thi hỏng bất đắc chí, đi làm cách mạng nhưng không khác chi đi làm việc ở nhà tể sanh gần cầu Thanh Long , Huế; biết ông cha chúng ta “độc ác cướp đất” của người Miên như thế nào để gây nên mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc Miên Việt; biết “Cáp Youn” mà Youn là loại ông kẹ nào mà các bà mẹ Miên thường đem ra dọa con nít ham chơi; biết Cộng Sản Việt Nam đã đẻ ra bao nhiêu anh Cộng Sản Miên, kẻ nào thì thủy chung như nhứt, kẻ nào thì đem con dân của thầy chặt làm nhiều khúc, moi ruột, lấy gan; biết tội nhiệp cho ông hoàng phong kiến Sihanouk khi trốn khỏi tay Khmer Đỏ được rồi, không một đồng xu dính túi, không có tiền trả tiền bệnh viện ở Nữu Ước, trong khi các ông tổng thống, chủ tịch các quốc gia tự do, dân chủ, cọng hòa, cọng sản thì tiền của các ông ấy trong nhà bank Thụy Sĩ chỉ có các ông ấy làm chủ, người dân đen không “chủ” được một đồng xu teng. Tiền của mấy ổng, mấy ổng tiêu một mình, không “hòa” cho dân đen chút xíu nào. Thời đại chúng ta là thời đại Tự Điển Tra Ngược, có nghĩa rằng, hễ nói: - Dân chủ thì ta phải hiểu rằng đó là độc tài, - Hạnh phúc là chén cơm ăn chan bằng máu và nước mắt. - Tự do có nghĩa là số phận người Mỹ da đen thời lập quốc - Bình đẳng có nghĩa là ngồi xe xích lô hạng hai nhưng vẫn phải trả tiền hạng nhứt Nói sao cho hết! Quí vị hãy bỏ chút thì giờ đọc cuốn sách nầy. Mua mà đọc hay mượn mà đọc cũng chẳng sao. Người dịch chỉ có một ao ước: Những người Việt như chúng ta, dù lưu vong hay còn ở trong nước nên đọc để hiểu thấm thía thân phận của mình, thân phận nhược tiểu dân tộc mình và làm thế nào để thoát ra khỏi những ràng buộc của chính mình, dân tộc mình và thế giới, tìm tới một tương lai chưa hẵn sẽ hoàn toàn tốt đẹp nhưng ít ra, mình tự quyết định số phận mình, không do ai áp đặt cả./ hoànglonghải/tuệchương 5 Lịch sử các nước Đông Dương sau khi Saigon sụp đổ Ngày 30 tháng Tư 1975, khi chiếc trực thăng cuối cùng bốc lên khỏi sân thượng tòa đại sứ Mỹ là lúc Saigon sụp đổ. Rồi một sự im lặng bao trùm cả Đông Dương. Quả thật người Tây phương đã quên lãng xứ nầy. Mãi đến năm 1979, lúc ấy, quân đội Việt Nam (CS) tiến vào Kampuchia, Trung Hoa xâm lăng Việt-Nam và mười ngàn người tỵ nạn Việt Nam và Kampuchia trốn chạy khỏi quê hương họ. Cả thế giới bất thần giật mình vì những nỗi kinh hoàng mới xảy ra ở Đông Dương. Trong những năm Tây phương hầu như lãng quên Đông Dương thì Nayan Chanda, phái viên Đông Dương của tạp chí Kinh Tế Viễn Đông (FarEast Economic Review) tiếp tục cung cấp những tin tức có giá trị nhất, những cảm nhận chưa rõ lắm về một cuộc chiến sắp xảy ra và xung đột trong vùng Cộng Sản kiểm soát ở Việt Nam, Lào và Kampuchia. Không có một nhà báo nào theo dõi những biến chuyển ở vùng này một cách sít sao đến thế. Với những kiến thức có sẵn, ông tiếp cận ở mức độ cao và sâu để tìm hiểu sự thực. Giờ đây, trong tác phẩm “Anh Em, Thù Địch” (Brother Enemy), Chanda, với đầy đủ tư cách, vẽ nên một bức tranh về Đông Dương, kể từ khi chiến tranh tái phát. Câu chuyện 6 lịch sử này bắt đầu khi quân đội Bắc Việt tràn vào dinh Độc Lập ở Saigon và qua nhiều thập niên đẫm máu tiếp sau. Tác phẩm của Chanda là một sự hiểu biết thực sự. Từ hàng trăm cuộc phỏng vấn với những nhân vật hàng đầu ở Hà Nội, Bắc Kinh, và Phnom Pênh, cũng như nhiều nhân vật khác ở Washington, Moscow, Paris, Tokyo, và Canberra, và từ những quan sát của chính ông qua hơn một thập niên. Chanda sắp xếp một cách hết sức khéo léo trong việc trình bày những bí mật, không những giữa các cựu đồng chí mà cả những mưu mô tranh giành quyền lực tại Washington. Ông ta đưa ra một nhãn quan hấp dẫn đầu tiên về những mối sợ hãi, tham vọng dẫn dắt Khmer Đỏ đi tới tai họa diệt chủng, cũng như lần đầu tiên thái tử Norodom Sihanouk bị giữ tại Kampuchia và cuộc đào thoát không thành của ông ở Hoa Kỳ. Chanda cho chúng ta biết những sự kiện bên trong kế hoạch bí mật của Việt Nam (CS) xâm lược Kampuchia. Ông ta kể lại, lần đầu tiên, hồi mùa thu 1978, Hoa Kỳ gần như sắp treo cờ Mỹ lên ở Hà Nội rồi làm thế nào mà cố vấn An Ninh Quốc Gia của Tồng Thống Jimmy Carter, Zbigniew Brzezinski cố gắng dùng lá bài Trung Hoa để Hoa Kỳ trở thành một thành viên bất như ý của Trung Hoa trong cuộc xung đột cay đắng có tính cách lịch sử với Việt Nam (CS). Chanda giải thích làm thế nào chính sách này đã mở cửa cho Liên Xô bành trướng quân sự ở Đông Nam Á. Đây là một tác phẩm lịch sử sáng chói nhất trong thập niên qua. “Anh Em, Thù địch” (Brother Enemy) được xem như là một tác phẩm hay nhất./ 7 Dẫn nhập: Con đường thoát Đêm đổ xuống, đen như số phận Sàigon ngày 29 tháng 4/1975. Chiều hôm đó, lúc 6g30, một quyền lực sụp đổ, thành phố u ám. Tuy nhiên, tuồng như vì chìm đắm trong niềm xấu hổ thua trận, mà Saigon lại được ơn trên phù hộ. Tôi đứng trên sân thượng khách sạn Caravelle dưới cơn mưa phùn nhẹ nhìn Saigon đêm cuối cùng. Các trực thăng khổng lồ của Mỹ, đèn đỏ nhấp nháy, đèn chiếu thỉnh thoảng rọi xuống, lượn qua lượn lại trước khi sà xuống các sân thượng để đón những người Mỹ còn lại và vài người Việt Nam đã làm việc cho Mỹ, đưa đến nơi an toàn trên Hạm Đội 7 đậu ngoài khơi hải phận Việt Nam. Một lúc sau, trực thăng bay lên, tiếng máy gầm thét, điếc cả tai, rồi biến mất trong bầu trời bao phủ gió mùa. Trong khung trời đó, đầy đặc những viên đạn đỏ đan chéo nhau. Những chiếc trực thăng giống như những con rồng lửa khổng lồ, hùng hổ nhảy múa ma quái trên bầu trời của một thành phố đang chết dần. Bên dưới, thành phố tối đen và yên lặng, một thành phố được mang cả hai cái tên: Hòn Ngọc Viễn Đông và Ăn Chơi Trác Táng đang chờ kẻ chiếm đóng. Những ngôi nhà cao tầng in hình lên bầu trời, rực chiếu những ngọn lửa hỏa tiễn ở phía xa và ánh lửa đỏ đậm của những viên đại pháo đang bắn xuống phi trường 8 Tân Sơn Nhứt. Đại lộ Lê Lợi và Tự Do bóng loáng dưới cơn mưa nhẹ, hoàn toàn vắng vẻ, thỉnh thoảng chợt sáng lên vì ánh đèn vài chiếc xe hơi vội vã đưa gia đình sĩ quan và những người giàu có tới các các xà lan đang chờ trên sông Saigon. Thoảng chốc, phía cầu tàu có tiếng súng nổ do bọn lính bắn chận đường những kẻ đang tuyệt vọng cố leo lên thuyền. Đó là những hành động cuối cùng, trong nỗi kinh hoàng, ghì chặt lấy người Miền Nam từ khi Huế và Đà Nẵng thất thủ hồi tháng Ba. Việc dân chúng trốn chạy ồ ạt vì quân Cọng Sản đang tiến tới một cách điên cuồng đã đến điểm tận cùng. Hồi đầu hôm, tôi quan sát hàng trăm người Việt Nam xô đẩy nhau trước cánh cổng sắt tòa đại sứ Mỹ. Họ hoa lên những mảnh giấy, - thẻ nhận dạng - báo thị, và ngay cả những nùi đôla để được vào sân bay trực thăng trong tòa đại sứ. Nhưng tất cả họ, rõ ràng chán nãn, mệt mõi sau một ngày bám víu và tơi tả trước cánh cổng đóng kín, do các Thủy Quân Lục Chiến Mỹ cầm súng canh giữ. Hàng trăm người vẫn còn chen nhau trong các cầu thang đẹp trong cao ốc được qui định là những con đường di tản bằng trực thăng, nhưng khi đêm đổ xuống, hy vọng tắt như ngọn đèn cầy. Dù lịch sử bất thần tiến nhanh hơn, thời gian vẫn còn và đây là hồi kết thúc đang tiến tới với một tốc độ nghẹt thở. Khi quân đội miền Bắc, do tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy, tấn công vào thành phố trung tâm cao nguyên Ban Mê Thuột ngày 10 tháng Ba, làm cho chế độ Nguyễn Văn Thiệu rùng mình. Chưa hẵn đây là một hành động đủ táo bạo của Cọng Sản tiếp sau khi họ chiếm tỉnh Phước Bình (thật ra là tỉnh Phước Long - Phước Bình là tỉnh lỵ - chú thích của người dịch - nd) hồi tháng Giêng. Nhưng chừng đó cũng đủ cho thấy những gì rồi sẽ xảy ra - Sự bắt đầu của một chương cuối. Đối đầu với những thách đố mới, Thiệu đổi ngược sách lược chiến đấu cũ giành từng tấc đất một. Ông ra lệnh rút lui chiến thuật khỏi Pleiku và Kontum ở trung tâm cao nguyên, chuyển một đơn vị tinh nhuệ nhất từ Huế về, tạo ra sự sụp đổ chiến lược mau lẹ. Việc tái phối trí lực lượng biến thành một cuộc trốn chạy hoàn toàn hỗn loạn. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang - và phần còn lại của phía Nam sụp đổ như một bàn cờ vào tay người Bắc Việt Nam chỉ trong vòng ba tuần. 9 Hồi đầu tháng Tư, Cọng Sản khóa chặt thòng lọng chung quanh Saigon. Người Mỹ gia tăng cả hai mặt, không vận võ khí và di tản người Việt Nam làm việc cho họ và bạn bè. Chiến tranh cuối cùng vào tới Saigon đúng ngay sau khi Thiệu chuồn khỏi đất nước bằng máy bay C-118 của Không Lực Hoa Kỳ. Sáng sớm ngày 27 tháng Tư, tôi chợt giật mình thức dậy vì một tiếng nổ. Trái hỏa tiễn đầu tiên của Cọng Sản bắn vào Saigon trúng vào khách sạn Majestic, cách chỗ tôi ở một lô. Một gián điệp Cộng Sản trong Không Lực Miền Nam, chính người bỏ bom dinh Độc Lập trước đó, ngày 28 tháng Tư quay trở lại cùng với máy bay Mỹ chế tạo tấn công phi trường Tân Sơn Nhứt. Sự tàn phá gia tăng với mưa đạn và hỏa tiễn, cuối cùng chấm dứt cầu không vận do Mỹ thiết lập. Chiến dịch “Vãng Lai Phong” (Frequent Wind) do hải quân Mỹ mở ra vào chiều ngày 29 tháng Tư để di tản người Mỹ và nguời Việt bằng trực thăng chấm dứt hồi sáng ngày 30 tháng Tư. Từ trên sân thượng khách sạn Caravelle, tôi thấy xe tăng Cọng Sản như một đàn kiến bò trên quốc lộ 1 từ Biên Hòa tiến xuống. Từ hướng mặt trận này, tôi quan sát một chiếc trực thăng đơn độc hiện ra trên bầu trời xám rồi đáp xuống sân thượng tòa đại sứ Mỹ có hình dáng như một cái hộp quẹt lớn. Chỉ trong vài phút, nó lại bốc lên, mang theo những người lính Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng. Một làn khói hồng bay lên từ một trái lựu đạn khói nhằm xua đuổi những người Việt Nam cố chen lên máy bay. Nghiêng sát ngọn tháp truyền thanh của Tổng Nha Bưu Điện, chiếc trực thăng vượt lên, bay ngang sông Saigon rồi biến mất ở cuối chân trời phía đông. Lúc đó là 7giờ 35 sáng. Hai mươi mốt năm sau ngày đại tá tình báo Mỹ Edward Lansdale tới Saigon để giám sát việc huấn luyện cho đội quân chống Cộng của Việt Nam Cọng Hòa. Cuối cùng bức màn buông xuống, kết thúc cuộc phiêu lưu của người Mỹ ở Đông Dương. Bốn giờ sau, tôi ngồi một mình trong văn phòng thông tấn hãng Reuters của Anh, đối diện với dinh Tổng Thống, đánh đi bản tin việc quân Cọng Sản đang tràn vào vùng ngoại ô Saigon thì nghe tiếng máy xe gầm gừ và tiếng loảng xoảng xích sắt xe tăng. Qua cửa sổ, tôi thấy chiến xa ngụy trang của Cọng Sản cắm cờ 10 xanh đỏ và vàng ầm ầm tiến vào dinh tổng thống. Tôi với ngay máy chụp hình và phóng vội khỏi văn phòng. Tôi băng qua công viên giữa văn phòng hãng thông tấn và dinh tổng thống. Chiếc xe tăng bắn một tràng đạn lên không và húc đổ cánh cổng sắt xuống đất. Những người lính đội mũ sắt, lùng bùng trong bộ quần áo màu xanh lá cây, và vài người còn mang nón sắt thiết giáp nhảy xuống khỏi xe tăng, phóng vội lên các bực cấp để treo cờ Việt Cộng. Họ đã đi đến điểm cuối cùng của đường mòn Hồ Chính Minh. Chiến tranh chấm dứt! Tôi ngạc nhiên vì những biến cố dồn dập, khó tin rằng chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến mà hầu như tôi lớn lên cùng với nó, đã chấm dứt. Năm trước, khi có phép thường trú ở Saigon, làm phái viên Đông Dương của tạp chí Kinh Tế Viễn Đông, tôi biết rằng hiệp định Paris do Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, ủy viên bộ chính trị đảng CS Việt Nam đẻ ra thực sự đã chết. Sự ngưng bắn không còn hiệu quả trong các khu vực quân sự địa phương. Chẳng ai, ngay cả những người vạch kế hoạch ở Hà Nội thấy rằng nó thất bại. Tuy nhiên, giữa tháng Tư, có triệu chứng cho thấy giờ phút quyết định đã gần kề. Do sự yêu cầu của giám đốc ở Hồng Kông, tôi thuyết phục vợ tôi rời Saigon, riêng tôi thì chống lại lời đề nghị của họ biểu tôi phải ra đi. Giám đốc nhắn tin cho tôi: “Không có gì quý bằng mạng sống của anh. Rời ngay nếu có nguy hiểm nào.” Trong thư gửi đi Hồng Kông hôm 25 tháng Tư, tôi trả lời rằng tôi sẽ không đi “Nếu không chứng kiến được những giờ phút cuối cùng của tấn thảm kịch”. Chỉ năm ngày sau đó, bức màn buông xuống. Tôi chứng kiến bao nhiêu người bạn Việt Nam của tôi ra đi mà lòng nặng trĩu vì gia đình ly tán. Cuộc di cư giành giựt xảy ra. Tôi thấy hàng ngàn người khốn khổ trốn chạy ngọn triều Cộng Sản từ bờ biển miền Trung tới nơi trú ẩn Saigon, rồi lại sa vào bẩy sập một lần nữa. Cũng chưa có gì đáng nói lắm nếu sự kết thúc không tắm máu như nhiều người đã sợ. Sự chia cắt lâu dài giữa hai miền Nam Bắc chấm dứt bằng một phương cách kỳ lạ vì người Saigon chen chúc quanh những chiếc xe tăng T-54 của Bắc Việt, chuyện trò với những chú lính thẹn thùng trong bộ quần áo màu xanh lá cây từ phương Bắc mới vào. Có nhiều lo lắng về những gì sẽ xảy ra trong tương lai; nhưng cũng có những mối xúc 11 cảm vì Việt Nam cuối cùng rồi cũng được hòa bình. Với thời gian, mọi việc sẽ qua đi. Có điều không được vững tin lắm ở bên nước Kampuchia láng giềng, nơi tấm màn buông xuống mười ba ngày trước. Trong chuyến đi của tôi tới Phnom Penh hồi tháng Giêng năm 1975, tôi thấy Khmer đỏ buộc sẵn thòng lọng chung quanh thủ đô xứ này. Dân số thành phố, căng phồng lên tới gần hai triệu người tỵ nạn. Họ chạy vào thành phố để tránh bom đạn, kinh hoàng vì những trận tấn công bằng hỏa tiễn. Khmer Đỏ cắt đứt mọi đường giao thông, và chẳng bao lâu, sẽ tới phiên con đường sống độc nhất nối với thế giới bên ngoài: Sông Mêkông (Cửu Long). Những cố gắng tuyệt vọng của Mỹ nhằm mở một đường không vận theo kiểu Bá Linh để vận chuyển lương thực và nhiên liệu đành bỏ dở vì phi trường Pochentong bị tấn công. Tổng thống Lon Nol, mặt đầy nước mắt, rời bỏ đất nước, chẳng bao lâu sau là những viên chức người Mỹ. Ngày 17 tháng Tư, Khmer Đỏ tiến vào thủ đô, dí súng đuổi dân ra khỏi thành phố. Hai tuần sau, những người ngoại quốc trước kia trốn vào tòa đại sứ Pháp, khăn gói lên đường đi Thái Lan bằng xe vận tải. Và Kampuchia, một âm thanh vang vọng đang chìm xuống chân trời - rồi bất thần biến mất. Cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai đã chấm dứt, và một cuộc chiến tranh mới giữa những đồng chí và anh em cũ đang hình thành. Cũng khó mà kẻ thù đế quốc từ bỏ tình huống này: Những tranh giành cũ và nghi ngờ trỗi dậy. Những đồng chí ngày hôm qua bắt đầu đòi hỏi quyền lợi cho quốc gia của mình và chống lại quyền lợi của quốc gia khác. Che dấu kín đáo dưới chiếc áo rộng, ngụy trang bằng những lời hoa mỹ đoàn kết cách mạng là mối thù truyền kiếp to lớn và vô hình. Tôi hiểu một chút rằng tôi đã trải qua một thời kỳ lý thú nhất trong một thập niên tiếp theo cuộc xung đột được che dấu rồi lại lộ ra khi hòa bình Đông Dương tan vỡ. Với tôi, giống như xem một tấm hình, qua nhiều năm, mọi sự lớn hơn, gay gắt hơn khi tôi đi từ Đông Dương qua Trung Hoa - từ những cánh đồng chết ở Kampuchia đến những trận địa rải rác trên các ngọn đồi vùng biên giới Việt-Hoa, và trò chuyện với không biết bao nhiêu người, ở cả hai bên chiến tuyến. Cố gắng ráp nối những phần mất mát lại cùng với nhau, như một bức tranh được 12 góp nhặt từ những miếng nhỏ để tìm hiểu sự xung đột mới. Do đó, tôi thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn các nhà soạn thảo sách lược và quan chức của các cường quốc, các lân bang của Đông Dương có liên quan đến tấn thảm kịch này. Cuốn sách này là kết quả của công việc điều tra khởi sự từ mười hai năm trước. Tiếp sau Saigon và Phnom Pênh sụp đổ là sự xung đột đẫm máu giữa những người Cộng Sản Việt Nam và Kampuchia chiến thắng vì tranh giành kiểm soát các hòn đảo trong vịnh Thái Lan. Pol Pot, người lãnh đạo Khmer Đỏ, chẳng bao lâu sau khi nắm quyền kiểm soát đất nước đã mở ra một chương trình cưỡng bách để tiến nhanh tới xã hội chủ nghĩa, với mục đích làm cho Kampuchia mau lớn mạnh để có thể đối đầu với Việt Nam, kẻ thù truyền kiếp. Chẳng bao lâu sau đó, có những cuộc thanh trừng đẫm máu để tiêu diệt những phần tử đối nghịch, những kẻ bị nghi ngờ thân Việt Nam, và mở ra những cuộc tấn công trực tiếp vào làng xã Việt Nam, tàn sát dân lành. Đối với Khmer Đỏ, họ cho rằng đó là cuộc chiến tranh phòng ngự để sống còn nhằm chống lại kẻ thù lịch sử đang dự định nuốt trọn Kampuchia. Với Việt Nam, sự thù địch của Kampuchia có Trung Hoa hỗ trợ phía sau là một cuộc tái đấu của lịch sử. Trung Hoa là kẻ thù ngàn năm của Việt Nam, được xem như đang cố gắng chinh phục Việt Nam bằng hai gọng kềm từ phía Bắc và Tây Nam. Như mấy lần trong ngàn năm chống lại Thiên triều, Việt Nam, một lần nữa, sẵn sàng đối đầu với mối đe dọa bị tấn công, và nó đã xảy ra vào cuối năm 1977. Sự xung đột dấu mặt ở Kampuchia bùng nổ công khai vào ngày đầu năm 1978, khi đài phát thanh Phnom Penh loan báo cho thế giới hay rằng họ là nạn nhân của “Việt Nam xâm lăng”. Trong vòng 5 tháng, ngọn lửa bùng lên phía Bắc: Sắc dân thiểu số Hoa kiều, như làn sóng, ồ ạt rời Việt Nam, Bắc Kinh vén bức màn bí mật lên và tố giác Hà Nội ngược đãi Hoa Kiều, Hà Nội nhắm tới con đường bá quyền (tiểu bá - người dịch) ở Đông Dương. Sự phát triển mối liên minh của Việt Nam (CS) với Liên Xô gợi lên cho Trung Hoa cơn ác mộng lịch sử - Một sự đe dọa cùng lúc từ những kẻ dã man ở phía Bắc cũng như ở phía Nam. Từ mùa hè năm 1978, họ đã có kế hoạch đưa ra một cú đấm trừng phạt Việt Nam “vong ân”, nước đã hưởng thụ sự viện trợ của Trung Hoa trong ba thập niên. Vì 13 vậy, ngay khi mối liên minh với Khmer Đỏ bị sụp đổ hoàn toàn vì cuộc xâm lược của quân đội Việt Nam (CS) thì Bắc kinh thực hiện sự trừng phạt này. Cuộc xung đột ở Đông Dương liên hệ mật thiết đến việc tranh chấp giữa Liên Xô và Mỹ, và làm liên minh Mỹ Hoa thêm phát triển. Trong khi đó, nước Kampuchia Dân Chủ dưới sự cai trị của Khmer Đỏ đóng cửa biên giới, kín mít như bưng và sống dựa vào Trung Hoa. Từ 1975, Hà Nội cố gắng phát triển một chính sách ngoại giao độc lập, đặt căn bản trên sự cân bằng giữa hai siêu cường. Mùa hè năm 1977, Hà Nội gần như đạt được quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, sau khi họ chịu từ bỏ lời khăng khăng đòi viện trợ tái thiết. Một năm sau, khi sự xung đột với Kampuchia và Trung Hoa gần như bùng nổ công khai, mối hy vọng lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ trở thành tuyệt vọng. Họ phải từ bỏ yêu cầu đòi viện trợ Mỹ. Từ đó, cơ may của họ không còn nữa. Không cần biết đến Việt Nam (CS), Bắc Kinh quyết định dạy cho Việt Nam (CS) “một bài học” và cố gắng thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Hoa Kỳ trước khi có hành động trừng phạt Hà Nội. Bắc Kinh hoạch định một kế hoạch ăn nhịp hoàn toàn với tổng thống Mỹ Jimmy Carter và cố vấn An Ninh Quốc Gia của tổng thống để tìm kiếm một sự hợp tác toàn cầu chống Liên Xô. Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam (CS) và bí mật thúc đẩy việc thiết lập quan hệ với Bắc Kinh. Qua ba thập niên tham gia cuộc chiến ở Việt Nam để chống lại sự “bành trướng của Trung Hoa”, Hoa Kỳ, cuối cùng, im lặng trở thành người cọng sự trong cuộc chiến Trung Hoa chống lại Việt Nam. Hồi tháng 2 năm 1979, hân hoan trước thắng lợi trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, Phó chủ tịch Trung Hoa Đặng Tiểu Bình liền mở ra cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam. Việc Việt Nam (CS) chiếm đóng Kampuchia và Trung Hoa tấn công Việt Nam chỉ là sự gia tăng mối xung đột đã nảy sinh một cách lặng lẽ từ năm 1975, mà cả mọi phía đều không có phương cách giải quyết. Tới đầu năm 1986, khoảng 180 ngàn bộ đội Việt Nam (CS) vẫn còn ở lại Kampuchia để đánh nhau với quân du kích Khmer Đỏ. Đại pháo Trung Hoa vẫn còn bắn phá tan tành vùng biên giới phía Bắc Việt Nam và bộ binh, từng lúc, vẫn còn tấn 14 công Bắc Việt. Mặc dù bị đánh đuổi ra khỏi Phnom Pênh, chính phủ liên minh Khmer Đỏ vẫn còn được công nhận là chính phủ của nước Kampuchia Dân Chủ. Trong khi cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đang tiếp diễn thì toàn bộ vấn đề có tính cách quốc tế này đã thay đổi một cách bi thảm. Nhờ chiến tranh Hoa Việt, Moscow được hưởng các tiện nghi quân sự ở Việt Nam để bành trướng sức mạnh của họ ở Thái Bình Dương. Mối hy vọng một liên minh chống Liên Xô do Washington đứng đầu để giúp đỡ Trung Hoa chống lại Việt Nam (CS) lại bị bỏ rơi khi Trung Hoa trở lại chính sách độc lập và bắt đầu bình thường hóa các cuộc thương thuyết với Liên Xô. Theo đúng một chu kỳ, nước Việt Nam (CS) mạnh về quân sự nhưng đơn độc và kinh tế rách nát lại bắt đầu theo đuổi mối quan hệ vô cùng phức tạp với Hoa Kỳ Câu chuyện đấu tranh lịch sử này ở Đông Dương và chính sách ngoại giao của các cường quốc đã bao trùm lấy nó. Những biến cố ở Đông Dương, từ khi chiếc trực thăng Mỹ rời khỏi sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Saigon chứng tỏ một cách rõ ràng rằng một tiền đề sai lầm khi người Mỹ can thiệp vào Việt Nam như thế nào. Thay vì chận đứng sự bành trướng của Trung Hoa ở châu Á như các nhà vạch kế hoạch Mỹ dự liệu, Việt Nam chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ là kẻ thù và đối thủ cay đắng nhất của Trung Hoa. Khmer Đỏ, từ lâu được xem như một con bài của Hà Nội thì họ lại tự bày tỏ cho thấy họ là kẻ thù sống chết của Việt Nam. Lịch sử thập niên vừa qua được xem như một bài học: Lịch sử và chủ nghĩa quốc gia - không phải bằng lý thuyết - đã đẻo gọt tương lai của vùng đất nhiều đổi thay này. Rồi bộ mặt nó có ra thế nào đi nữa, cũng khó mà tìm ra những chế độ bù nhìn thật sự ở Đông Dương. 15 Kẻ thù cũ, chiến tranh mới Sau một tháng náo động vì chiến cuộc, tháng 5/1975, Đông Dương trở lại yên tĩnh. Những chiếc trực thăng bay lượn trên trời để đưa người di tản đến chỗ an toàn nay đã hết. Cuộc giải cứu kinh hoàng của Hạm Đội 7 và hàng trăm thuyền tỵ nạn nối nhau ra biển cũng đã qua rồi. Ít ra, người ta cũng nghĩ vậy. Nhưng buổi sáng ngày 15 tháng 5, khi ánh bình minh lặng lẽ nhô lên ở cuối chân trời màu ngọc bích đảo Koh Tang trong vịnh Thái Lan thì những âm thanh lầm lạc của chiến tranh quay trở lại. Mười một chiếc trực thăng hiện ra ở cuối chân trời phía tây còn tối, hướng tới hòn đảo này của Kampuchia. Mục đích tấn công của lực lượng Mỹ (U.S. Air Force Jolly Green Giant and Knife Helicopters) là Mayaguez, một chiếc tàu chở hàng cũ và hư hỏng của Mỹ bỏ neo phía ngoài đảo Koh Tang. Ngày 12 tháng 5, một chiến thuyền của Kampuchia chở theo mấy chú lính Kampuchia quần áo đen, bắt giữ một chiếc thuyền ngoài khơi đảo Wai, xa hơn về phía Nam. Lời kêu gọi của chiếc tàu Mayday được đáp ứng. Tổng thống Gerald Ford ra lệnh một lực lượng Không quân Trực thăng thuộc đơn vị đóng ở Utapao, Thái Lan và Thủy quân Lục chiến thuộc Hạm đội 7 tới cứu chiếc tàu Mayaguez và thủy thủ đoàn gồm 39 người. Vào lúc hừng đông, khi các lực lượng Mỹ tấn công vào hòn đảo nói trên, họ không biết rằng các thủy thủ đã được chuyển đến cảng Kompong Som trên đất liền. Những người lập kế hoạch cũng 16 chẳng biết những người đi cấp cứu phải đối đầu với những dân quân trang bị rất yếu kém. Chỉ có một chiếc trực thăng Knife hạ xuống trên bờ biển cát và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bung ra tấn công. Hàng cây phía trên còn chìm trong bóng đêm bỗng bùng lên lửa súng máy và súng trường. “Trông giống như giây đèn trên cây Giáng Sinh” - Một phi công trực thăng kinh hoàng kể lại. Chỉ trong vòng một giờ, hai chiếc trực thăng Knife bị bắn hạ và rớt trên bờ biển. Dù chẳng có ai trong thủy thủ đoàn được cứu, các Thủy Quân Lục Chiến cũng bị cầm chân vì sự kháng cự mạnh mẽ từ phía Kampuchia. Mười bốn giờ sau, máy bay và tàu chiến của Hạm Đội 7 làm cho khu vực này tan nát, kinh hoàng. Choáng váng trước sức mạnh của Mỹ, Khmer Đỏ vội vàng trả lại thủy thủ đoàn. Nhưng cuộc tấn công của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên đảo Koh Tang vẫn chưa chấm dứt. Ford cho rằng cần chứng minh việc tấn công dữ dội đã nghiền nát sức phòng ngự trên bờ biển Kampuchia. Vào cuối ngày của cuộc chiến, 15 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tử trận, phía Khmer không kể xiết người bị chết. Chỉ có một nhà máy lọc dầu và một phi đội nhỏ của Kampuchia bị phá hủy. Đối với tổng thống Ford, sự kiện Mayaguez là một cơ hội để nâng cao tinh thần nước Mỹ bị chùng xuống sau khi họ nhục nhã rút khỏi Phnom Pênh và Saigon. Sự bày tỏ sức mạnh của Mỹ qua vụ tàu Mayaguez, theo tổng thống Ford “là tia sáng rực rỡ nâng cao toàn bộ tinh thần của niềm tự tín mới. Hoa Kỳ vượt qua được những thời điểm hết sức khó khăn và bây giờ là lúc quay hướng lại và thay đổi một tiến trình.” Như ông nói sau này. Bây giờ là lúc Mỹ chú tâm vào việc hàn gắn vết thương, có thể quay lại Đông Dương đang chìm trong bóng tối. Giai đoạn Mayaguez biến mất từ những trang trước, có vài điểm cần lưu ý: Biến cố ấy chỉ là một trò phụ diễn không được quảng cáo cho một cuộc xung đột dữ dội hơn, một cuộc đấu tranh được trì hoãn lâu dài để giành chỗ sinh tồn giữa hai nước láng giềng cũ. Cú đánh cuối cùng của nước Mỹ hùng cường ở Đông Dương giúp che dấu âm mưu thực hiện một cuộc chiến tranh mới giữa các đồng chí và anh em cũ, những người đã một thời tay trong tay chống lại Hoa Kỳ. Việc bắt giữ tàu Mayaguez thúc đẩy Kampuchia tấn công vào các hòn đảo do Việt Nam (CS) chiếm 17 đóng trong vịnh Thái Lan. Những người lính Khmer Đỏ non trẻ giận dữ khi bước lên tàu Mayaguez tay chỉ cầm những cây súng AK-47 rõ ràng muốn chứng tỏ quyền kiểm soát họ mới giành được ở vùng hải phận đất nước. Chiến trận giành hải đảo Trong vài ý nghĩa, điều đó là tự nhiên, hầu như không thể tránh được, là phần kết thúc của một cuộc chiến đấu thành công cho tổ quốc, chống lại ách thống trị ngoại bang. Kẻ chiến thắng cố gắng củng cố quyền kiểm soát toàn lãnh thổ được xem như di sản quốc gia do tổ tiên để lại. Tuy nhiên trong trường hợp Kampuchia và Việt Nam, công việc này có ý nghĩa là mở lại mối thù hận và xung đột từ lâu đã được che dấu sau bộ mặt đồng chí và đoàn kết. Khi sắp toàn thắng miền Nam, một trong những hành động đầu tiên của Hà Nội là “giải phóng” Trường Sa (Spratlys Inslands) trong biển Nam Hải (Đông Hải - nd) khỏi quyền kiểm soát của chế độ Thiệu và đòi quần đảo Hoàng Sa (Paracel Inslands) do Trung Hoa chiếm đóng. Chỉ mấy tuần sau khi chiếm Phnom Pênh, các đơn vị Khmer Đỏ đã mở rộng an ninh biên thùy, lãnh địa cũng như lãnh hải. Quân đội được phái tới vịnh Thái Lan để kiểm soát các hòn đảo do chế độ cũ chiếm đóng hay đòi hỏi. Mệnh lệnh không chỉ là lãnh thổ mà thôi. Thiết lập quyền hạn trên toàn cõi và giương cao chiêu bài độc lập, đối đầu với những người bảo hộ đáng kính của họ trong chiến tranh. Đã đến lúc cách mạng Việt Nam (CS) và Kampuchia đi theo những con đường chính trị dị biệt mà trong chiến tranh họ đã cùng chung một hướng, xem như để thống nhất và hợp tác. Chiến tranh qua rồi, Việt Nam (CS) không còn gì ngần ngại chống lại Trung Hoa để giành lãnh thổ, và Kampuchia cũng chẳng có gì ngại ngùng để bày tỏ sự chống đối Việt Nam. Cuộc đấu tranh lịch sử dài lâu giữa Trung Hoa và Việt Nam, giữa Việt Nam và Kampuchia đã ngưng lại dưới ách thống trị của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, nay bùng lên vì sống còn - ban đầu thì che dấu, nhưng rồi cường độ gia tăng. Khi họ sẵn sàng cắm bia đòi đất, không phải vì cách mạng, mà lại là muốn gia tăng mức độ xung 18 đột. Nhu cầu khẩn thiết của họ là củng cố quyền lực trong nước và giải quyết vô số vấn đề hậu chiến, kêu gọi biện pháp thích hợp. Với hai lãnh tụ hàng đầu, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đang trên giường bệnh, Trung Hoa - những nhân vật chủ chốt khác trong cuộc tranh giành mới - cũng quá bận rộn với cuộc đấu đá sinh tồn về lý thuyết để lôi kéo sự chú ý hoàn toàn đối với các vấn đề đang nổi lên ở biên giới phía Nam. Sự bận tâm về các công việc nội bộ của những nhân vật chính đã gây ra sự lưỡng lự, những nỗi sợ hãi đã hằn sâu, và tham vọng chống đối lẫn nhau, chính sách ngoại giao và nội bộ dị biệt sâu sắc chẳng bao lâu đã đưa Kampuchia và Trung Hoa vào con đường liên minh chống Việt Nam. Ngày 12 tháng Tư/ 1975, năm ngày trước khi quân Khmer Đỏ chiến thắng tiến vào thủ đô Phnom Penh, một trong những lãnh tụ Khmer Đỏ, Ieng Sary, đang ở Quảng Trị, Nam Việt Nam. To con, mắt nhỏ, khuôn mặt tròn trịa và láng, Sary sinh trưởng trong một gia đình “Khmer Krom”, thiểu số người Khmer trong vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (Người Việt gốc Miên, quê ở Trà Vinh -nd). Thập niên 1950, du học ở Pháp và theo chủ nghĩa Mác, cùng với những sinh viên Khmer khác như Pol Pot, thành lập một chi bộ Cọng Sản Kampuchia. Về sau, ông ta trở thành người có quyền lực đứng thứ hai sau Pol Pot, được gọi là “người anh thứ hai” đáng sợ. Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 1980, Sary kể lại với tôi rằng năm 1975, khi đang trên đường từ Bắc Kinh trở về vùng giải phóng Kampuchia, ngang qua các vùng mới chiếm được ở Nam Việt Nam thì ông ta nhận được một bức điện từ Hà Nội, khuyến cáo ông ta về việc người Mỹ rút ra khỏi Kampuchia. Chuyến đi của Sary dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trắc trở, xuyên qua những con suối chảy mạnh trong tỉnh Rattanakiri của Kampuchia. Ông ta đã sống ở Hà Nội một số năm trong thời kỳ chiến tranh và thực hiện nhiều chuyến đi đi về về Kampuchia rất nguy hiểm. Tin nói về Phnom Pênh sắp sửa rơi vào tay Khmer Đỏ là ánh lửa rực sáng, chấm dứt hoàn toàn cuộc sống gian khó nhưng hữu ích này cho cách mạng Kampuchia. Thay vì ngồi trên chiếc xe Jeep cà tàng mò mẫn dọc theo những dãy núi ở Trung phần Việt Nam để xuống Kampuchia, Sary quay ngược ra Hà Nội rồi đi Bắc Kinh. Ông ta đến Phnom Pênh vào ngày 24 19 tháng tư, trên chiếc Boeing 707 của Trung Hoa, chuyến bay đầu tiên từ ngoại quốc hạ cánh xuống Kampuchia, chấm dứt giai đoạn di chuyển theo đường mòn Hồ Chí Minh. Điều ông ta không nói với tôi trong cuộc phỏng vấn là trong thời gian ngắn khi ở lại Bắc Kinh, ông ta thảo luận những gì với các nhà lãnh đạo Trung Hoa về vấn đề xây dựng lực lượng quân đội Kampuchia. Ông ta yêu cầu nước chủ nhà đừng chuyển vận vũ khí và các trang bị khác xuyên qua con đường bình thường trước kia nữa - qua ngã Việt Nam. Vài tuần sau, tàu biển Trung Hoa chở theo gạo, nhiên liệu, và hàng hóa đổ xuống cảng Kompong Som. Tuy nhiên, trước khi tàu biển Trung Hoa cặp bến, như một biểu tượng chính sách biệt lập của cách mạng Kampuchia, Khmer Đỏ đã thách thức viêc Việt Nam kiểm soát những hòn đảo trong vịnh Thái Lan. Nhằm nhắc lại việc đòi đảo Phú Quốc (tiếng Khmer là Koh Tral), Khmer Đỏ đã tấn công hòn đảo này hôm 4 tháng 5. Sáu ngày sau, Khmer đỏ đưa quân đổ bộ lên đảo Thổ Chu (Poulo Panjang - tiếng Miên là Krachak Ses) và bắt đi năm trăm người dân Việt Nam cư ngụ trên đảo, những người này về sau không còn nghe tin tức gì cả. Nguyễn Văn Tốt, một quân nhân chế độ Nam Việt Nam cũ, đang ở Rạch Giá lúc cuộc chiến xảy ra, mất hết toàn bộ gia đình tất cả gồm 12 người. Bốn tháng sau, ông ta trở lại Thổ Chu thì căn nhà anh ta đã hư nát, còn trên đảo thì rải rác đầy sọ người. Hai tuần sau khi Khmer Đỏ tấn công, Việt Nam phản kích, giết nhiều lính Khmer Đỏ và bắt giữ khoảng 300 tù binh. Sary nói với một nhóm người Mỹ thân hữu rằng việc bắt giữ tàu Mayaguez hôm 12 tháng 5 là hành động của viên chỉ huy địa phương, không phải lệnh từ Phnom Pênh. Có thể là các viên chỉ huy địa phương quá căm tức, muốn mở ra thật xa việc bảo vệ lãnh thổ Kampuchia và tấn công các hòn đảo do Việt Nam chiếm đóng. Tuy nhiên, đúng hơn, là do chỉ đạo của cao cấp. Có lẽ những lãnh tụ Khmer Đỏ nghĩ rằng thực sự chiếm đóng đất đai là lời tranh luận mạnh mẽ nhất trong các cuộc thương thuyết lãnh thổ. Kampuchia chẳng bao giờ điều đình về việc họ bị mất các hòn đảo trên biển với chính quyền Nam Kỳ thuộc địa thời thực dân Pháp cũng như chính quyền Việt Nam Cọng Hòa kế tục. Năm 1960, lúc 20 còn là quốc trưởng Kampuchia, thái tử Norodom Sihanouk đã thất bại trong việc đòi lại đảo Phú Quốc bằng đường lối ngoại giao. Ông ta cảnh cáo “Việc chúng tôi bị mất các hòn đảo trên biển sẽ đưa tới việc làm ngưng trệ hoạt động của hải cảng Kompong Som, chẳng bao lâu chúng tôi cũng chẳng giữ được nền độc lập.” Giờ đây, lợi dụng lộn xộn lúc Saigon thất thủ, Khmer Đỏ cho rằng thời gian đã chín mùi để đem quân chiếm đóng các hòn đảo tranh chấp. Pol Pot, người sinh viên kỹ sư điện thi hỏng ở Paris, cuồng tín theo chủ nghĩa Mác, tổng bí thư đảng Cọng Sản Kampuchia (CPK) từ đầu thập niên 1960, là người đưa ra những hành động nhằm thực hiện tư tưởng cực đoan và thù hận sâu sắc đối với người Việt Nam, kẻ thù truyền kiếp. Sau khi chiếm Phnom Pênh, Pol Pot tức khắc đưa ra một đường lối chỉ đạo gồm 8 điểm, trong đó, có hai điểm chính là trục xuất thiểu số người Việt ra khỏi Kampuchia và phái quân đội tới biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam. Tuy nhiên sau khi thấy phản ứng quyết liệt của Việt Nam, ông ta phải xét lại sự khôn ngoan của ông trong khi quá vội vàng. Ngày 2 tháng 6, trong khi Nguyễn Văn Linh, ủy viên bộ chính trị của đảng Cọng Sản Việt Nam tới Phnom Pênh để thảo luận vấn đề này, Pol Pot được xem là có lỗi. Bày tỏ sự tiếc rẽ việc đã làm, Pol Pot thừa nhận rằng có hành động xâm lấn, tuy nhiên sự “Đụng chạm đẫm máu và đau lòng” là do binh lính không biết rõ tình hình địa lý địa phương. Lê Duẫn đi Phnom Pênh Rõ ràng Việt Nam (CS) không thể chấp thuận lời giải thích đó. Trong khi Pol Pot có Ieng Sary, phó bí thư đảng, Nuon Chea và một số viên chức khác tháp tùng tới Hà Nội vào ngày 12 tháng Sáu, trong một cuộc “viếng thăm anh em” thì Việt Nam (CS) đã chiếm đóng doanh trại quân đội Kampuchia trên đảo Wai và cắm cờ trên đảo này. Ngày 14 tháng 6, tờ New York Times trích dẫn một nguồn tin tình báo Mỹ cho hay rằng Việt Nam (CS) đã chiếm đảo này. Tuy nhiên việc phái đoàn Kampuchia tới Hà Nội vào thời điểm trớ trêu ấy vẫn còn che dấu mãi đến ba năm sau. 21 Vài năm sau, Ieng Sary nói với tôi rằng trong suốt cuộc viếng thăm, phía Kampuchia cố gắng một cách vô vọng đưa vấn đề biên giới ra thảo luận với Việt Nam (CS). Ông ta nói rằng người Kampuchia muốn đạt tới những điểm căn bản trong bản tuyên bố năm 1967 của nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa (DRV- Bắc Việt - ngd) công nhận biên giới hiện tại của Kampuchia. Nhưng Việt Nam (CS) từ chối thảo luận vấn đề này. Sau này, theo phía Việt Nam, dù Kampuchia muốn ký một thỏa hiệp thân hữu nhằm bảo vệ các vấn đề thương mại, tài phán, phân định ranh giới, họ cũng không yêu cầu thực hiện tức khắc việc thảo luận biên giới. Ý tưởng đưa ra một thỏa ước hữu nghị là từ phía Kampuchia nhằm dàn hòa với Việt Nam, trên hình thức chấp thuận biên giới Kampuchia hiện thời. Vấn đề này chẳng bao giờ được nêu ra nữa. Ngày 2 tháng Tám, Lê Duẫn, tổng bí thư đảng CS Việt Nam, ủy viên bộ chính trị Phạm Hùng, Xuân Thủy, nhân vật tham gia hòa đàm Paris đến Phnom Pênh trong một chuyến viếng thăm ngắn. Đã cho Kampuchia nếm mùi quân sự, bây giờ, các nhà lãnh đạo Việt Nam tỏ ra uyển chuyển hơn. Lê Duẫn, 67 tuổi, người cao lớn, trông có vẽ ảm đạm, thành viên nguyên thủy của đảng CS Đông Dương. Trước khi nắm chức bí thư đảng CS Việt Nam, ông ta đã bị tù khoảng 10 năm và một số năm lãnh đạo cách mạng Miền Nam VN. Tuy nhiên, không giống Phạm Hùng, một người miền Nam trông có vẽ oai vệ, có một thời gian dài lãnh đạo CS Miền Nam VN và vẫn còn giữ mối quan hệ với các lãnh tụ Khmer Đỏ. Đây là lần đầu tiên Duẫn đến Kampuchia. Mục đích của chuyến đi này rõ ràng không phải là để du lịch. Khách Việt Nam không được mời ra khỏi Phnom Pênh đã trở thành một thành phố ma sau việc tàn bạo xua đuổi dân chúng hồi tháng Tư. Theo lời yêu cầu của Khmer Đỏ, các bản tường trình về cuộc viếng thăm bị cắt giảm đến mức tối thiểu. Mặc dù sự tiếp đón không được nồng ấm, Duẫn vẫn là người muốn hòa giải. Ông ta thừa nhận rằng đảo Wai quả thật là lãnh thổ của Kampuchia và hứa trả lại sớm. Một bản thông cáo chung được ký kết, cam kết giải quyết những dị biệt trong hòa bình, không dùng sự trừng phạt. Không có tiệc tùng hay diễn văn. Chỉ có một bản tường trình ngắn gọn được phổ biến trên cả hai đài phát thanh Hà Nội và Phnom Pênh vào ngày 3 tháng 22 Tám cho hay rằng “Những cuộc thương thảo chân thật đã thực hiện giữa hai phái đoàn Việt Nam và Kampuchia trong bầu không khí thân hữu vì quyền lợi chung, có quan điểm thống nhất về mọi vấn đề đưa ra.” Dù thành thực hay giả vờ, không khí cũng có cải thiện dễ dàng khi đảo Wai được trả lại cho Kampuchia. Ngày 10 tháng Tám, Nguyễn Văn Linh gặp Nuon Chia, một trong những người lãnh đạo hàng đầu của Khmer Đỏ, báo cho ông nầy biết rằng quân đội Việt Nam (CS) đã rút lui khỏi đảo. Nuon Chia cám ơn về quyết định đó và nói rằng tất cả đều do “ngộ nhận về ranh giới giữa hai nước”. Thực ra, họ quá biết vấn đề biên giới và sự căng thẳng giữa hai phía đã tạo ra những cuộc xung đột đẫm máu sau khi họ chiến thắng phe tư bản. Chẳng bên nào muốn có chiến tranh. Đặc biệt, phía Việt Nam thì lo lắng không muốn dân chúng biết cuộc xung đột. Trong khi cố gắng giải quyết vấn đề bằng võ lực cũng như bằng ngoại giao, Hà Nội quyết định duy trì một bộ mặt đoàn kết chiến đấu với Kampuchia. Hồi tháng Bảy, sau khi tôi ở thành phố “Saigon giải phóng” được hai tháng, bay ra Hà Nội trên đường rời Việt Nam, trong cuộc phỏng vấn Hoàng Tùng, biên tập tờ nhật báo “Nhân Dân” của đảng CSVN, tôi có hỏi ông về tình hình quan hệ với Kampuchia, ông ta trả lời một cách nhanh nhãu là “bình thường”. Ngưng một chút, ông ta nói thêm “Nhìn chung là bình thường”. Ông ta phủ nhận tin tức báo chí Tây phương cho rằng có xung đột ở những hòn đảo trong vịnh Thái Lan. Vào lúc tôi nói chuyện với Tùng trong văn phòng ánh điện mờ mờ, trông xuống hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội thì hàng ngàn người Việt Nam, đàn ông, đàn bà, trẻ con bị đuổi ra khỏi lãnh thổ Kampuchia, đưa xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long của Miền Nam Việt Nam. Sau khi qua biên giới, họ được quân đội Việt Nam (CS) đưa vào các trại tỵ nạn dựng tạm. Hàng trăm người Kampuchia gốc Việt Nam và Trung Hoa vào trú tại một ngôi chùa ở Chợ Lớn. Phái viên hãng AP của Pháp tại Saigon, Charles Antoine De Nerciat nghĩ rằng ông ta đã vớ được một tin giựt gân nhỏ khi ông nhận ra những người tỵ nạn nầy là từ nước Kampuchia cách mạng anh em đến trú ẩn tại thành phố Saigon đã “giải phóng”. Tuy nhiên, nhờ vào sự nghiêm nhặt của các tay kiểm duyệt Việt Nam (CS), bản tin ngày 12 tháng Sáu 23 của ông chẳng bao giờ được chuyển đi. Trong một sự trùng hợp khá buồn cười, ông ta viết câu chuyện này vào ngày Pol Pot tới Hà Nội thực hiện chuyến viếng thăm không được công bố. Dù rằng các tay kiểm duyệt có biết chuyến viếng thăm ấy hay không, người Việt Nam (CS) cũng chẳng được lợi ích gì khi cho một nhà báo tư sản nhắc lại câu chuyện thê thảm của những người tỵ nạn và như thế, làm cho mối quan hệ với Kampuchia thêm phức tạp. Mãi đến năm 1978, câu chuyện đó mới được rõ ra. Trong chuyến viếng thăm các tỉnh biên giới Việt Nam hồi tháng 3 năm 1978, tôi được biết làm thế nào, trong suốt 5 tháng đầu sau khi “giải phóng” Phnom Pênh, hơn 150 ngàn người Việt Nam khốn khổ lũ lượt chạy về Đồng Tháp, An Giang và Tây Ninh. Người Việt Nam thì được phép định cư tại chỗ, những người Hoa, người gốc Khmer thì buộc phải trở lại Kampuchia. Việt Nam (CS) muốn Kampuchia biết rằng họ có một người bạn có đủ sức mạnh. Sau Hà Nội, nơi Pol Pot dừng chân kế tiếp trong chuyến viếng thăm bí mật của ông ta là Bắc Kinh. Ngày 21 tháng Tám, Pol Pot được vị anh hùng, người thầy lý tưởng của Pol Pot tiếp kiến: Mao - “Anh đã thực hiện được một cú đánh tuyệt hay còn chúng tôi thì đông như thế này mà đành thua.” Mao nói với người đệ tử sáng láng của ông. Khi Mao nói câu này thì hàng trăm ngàn người dân Kampuchia bị đuổi ra khỏi các thành phố về các miền hoang dã ở thôn quê sống cuộc đời nông nô. Mao hoàn toàn chấp thuận chương trình cách mạng của Pol Pot ở Kampuchia và sách lược của Pol Pot độc lập với Việt Nam. Cuộc họp này cũng được dấu kín cho tới hai năm sau, khi Pol Pot lột bỏ cái áo ngụy trang vô danh, công khai trở thành tổng bí thư đảng Cọng Sản Kampuchia. Dĩ nhiên, phía Việt Nam họ hiểu một cách sâu sắc những lời ca ngợi của Mao đối với Kampuchia. Năm 1975, Mao đã khuyên các nhà lãnh đạo (CS) Việt Nam “phải học tập ở Kampuchia cách làm thế nào để thực thi cách mạng.” Tình hữu nghị giữa Trung Hoa của Mao và Kampuchia đặt căn bản trên lý thuyết và, quan trọng hơn, đồng nhất về quyền lợi. Nhóm Pol Pot không những chỉ vô cùng ngưỡng mộ tư tưởng Mao về đấu tranh giai cấp và cách mạng không ngừng, họ còn chia xẻ với Trung Hoa về mối sợ hãi và ghê tởm Liên Xô. Chống lại Việt 24 Nam âm mưu cai trị toàn cõi Đông Dương là mối quan tâm hàng đầu của nhóm Pol Pot, vì vậy, một cách tự nhiên, họ quay về phía Trung Hoa, một liên minh chính yếu trong truyền thống chiến lược, nhằm ngăn ngừa một sức mạnh trỗi dậy ở biên giới phía Nam. Chẳng có gì ngạc nhiên, tháng Tám năm 1975, Chu Ân Lai, lúc ấy tình hình sức khỏe rất suy yếu, không còn sống bao lâu, giải thích với Lê Thanh Nghị, người đứng đầu ban Kế Hoạch của Hà Nội, là Bắc Kinh không có khả năng giúp đỡ Việt Nam. Trong khi đó, Bắc Kinh lại nồng nhiệt hoan hô phó thủ tướng Kampuchia Khiêu Samphan và Ieng Sary, hứa viện trợ một tỉ đồng cho một chương trình 5 năm. Khoảng 20 triệu trong số tiền này đã được tháo khoán. Trong khi chuyến viếng thăm của Khiêu Samphan và Ieng Sary thành công vẽ vang, được viện trợ kinh tế, được bày tỏ một cách công khai Trung Hoa hoàn toàn ủng hộ Kampuchia thì những cuộc thảo luận bí mật về viện trợ vũ khí đã bắt đầu từ hồi tháng Sáu, khi Pol Pot lặng lẽ đến Trung Hoa. Trong tháng Tám và tháng Mười, các nhóm chuyên viên từ bộ quốc phòng Trung Hoa thực hiện một cuộc thanh sát ở Kampuchia để tìm hiểu nhu cầu quân sự, và, ngày 12 tháng Mười, họ trình một bản soạn thảo kế hoạch quân sự cho Phnom Penh để xin chấp thuận. Ngày 6 tháng Hai năm 1976, ngày tòa đại sứ Trung Hoa ở Hà Nội đưa ra lời than phiền chính thức đầu tiên việc bắt buộc nhóm thiểu số người Hoa ở Nam Việt Nam nhập quốc tịch, một quan chức quân sự hàng đầu của Trung Hoa thăm Phnom Pênh để kết thúc thỏa ước viện trợ quân sự. Wang Shangrong, phó Tổng tham mưu quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA), nói với bộ trưởng quốc phòng Kampuchia Son Sen, quyết định của Trung Hoa về việc cung cấp bộ phận rời cho pháo binh, thuyền tuần phòng, và trang bị phòng không, trên căn bản ưu tiên. Tổng cọng có 500 cố vấn Trung Hoa huấn luyện cho quân đội Kampuchia xử dụng các loại trang bị này. Wang cũng đưa ra một danh sách về các loại vũ khí sẽ được cung cấp cho Kampuchia trong các năm 1977, 1978. Ngày 2 tháng Mười, một thỏa ước viện trợ quân sự 25 cho Kampuchia không phải bồi hoàn được ký kết giữa Wang và Son Sen. Trong khi việc hợp tác quân sự được giữ hoàn toàn bí mật để khỏi làm cho Thái Lan và Việt Nam lo ngại, hoạt động chính của Trung Hoa tuồng như nhằm giúp đỡ ước muốn chính đáng của Kampuchia là chuyển hóa quân đội của họ từ lực lượng du kích thành một đội quân thường trực, trang bị võ khí mới đủ sức phòng vệ đất nước. Mặc dù Bắc Kinh không nghi ngờ gì về sự mong muốn lấy lại cán cân mất thăng bằng nghiêm trọng giữa lực lượng Kampuchia thiếu thốn và lực lượng quân sự Việt Nam to lớn, bộ máy quân sự trang bị hoàn hảo, lại thừa hưởng một số lượng võ khí trị giá 5 tỉ đôla từ quân đội Miền Nam VN trước đây, họ cũng chẳng có ý hay mong muốn đẩy quân Khmer Đỏ tiến lên đối đầu với quân đội Việt Nam (CS). Trung Hoa của Mao chỉ muốn Kampuchia đủ mạnh để không bị Việt Nam bắt nạt mà thôi. Viện trợ vũ khí của Trung Hoa cho Kampuchia được dấu kín, tuy nhiên tin tức về các viện trợ khác của Trung Hoa cho Kampuchia thì quảng bá ồn ào. Ngày 17 tháng Tư/ 1976, Bắc Kinh tổ chức một cách rầm rộ lễ kỷ niệm một năm “giải phóng” Kampuchia. Trong điện văn gởi Pol Pot nhân dịp này, Mao, Chu Đức (Zhu De) và Hoa Quốc Phong ca ngợi Pol Pot đã bảo vệ hoàn toàn nền độc lập, quyền cai trị tối thượng, toàn vẹn lãnh thổ của Kampuchia, tạo nên “sự thay đổi cách mạng sâu sắc nhất”. Tuy không nói rõ ra nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa, lời cảnh cáo đó cũng không bỏ quên vai trò Hà Nội. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa trấn an Pol Pot rằng nhân dân Trung Hoa sẽ cùng “vai kề vai tiến lên phía trước” với nhân dân Kampuchia. Hồi mùa Xuân năm 1976, Kampuchia trở thành yếu tố chính trong sự căng thẳng giữa Trung Hoa và Việt Nam, tuy nhiên mối quan hệ đang suy thoái dần bắt đầu từ những năm trước. Từ khi Hà Nội chiến thắng ở Miền Nam, sự mâu thuẫn đặc biệt từ hai phía đã gia tăng vì khác biệt về chính trị và chiến lược. 26 Dồn quân tới Trường Sa Ba tuần lễ trước khi Cọng sản BV cắm cờ trên thành phố Saigon, sau này được đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh, hải quân Việt Nam (CS) tiến chiếm quần đảo Trường Sa, trước kia do quân đội Saigon trú đóng. Hà Nội thấy trước thời kỳ rối loạn và chuyển tiếp khi chiếm miền Nam và không muốn dành cho Trung Hoa cơ hội chiếm các hòn đảo này, nơi cả hai phía đang tranh chấp. Ngày 5 tháng Năm, đài phát thanh Hà Nội đưa tin rằng khoảng thời gian sau ngày 11 tháng Tư “quân giải phóng và hải quân” đã “giải phóng” hoàn toàn sáu hòn đảo trong quần đảo Trường Sa. Ngày 7 tháng Năm, nhật báo “Saigon giải phóng” cho phát hành một bản đồ màu cho thấy rằng lãnh thổ Việt Nam không những bao gồm quần đảo Trường Sa mà cả quần đảo Hoàng Sa hiện do Trung Hoa chiếm đóng. Bắc Kinh vẫn “câm như đá” về các biến cố này. Mấy năm sau, tôi biết Trung Hoa nghĩ gì. “Khi chúng tôi sắp rời Hà Nội để thăm viếng miền Nam vừa mới “giải phóng” chúng tôi nghe tin việc chiếm đóng Trường Sa (Nansha). Tôi như ngậm phải tro.” Ling Dequan một phái viên của Tân Hoa xã (Xinhua) nói với tôi. Ling đã làm việc vài năm tại văn phòng Tân Hoa xã ở Hà Nội và tham gia nhóm phóng viên đầu tiên có văn phòng ở đây đi thăm miền Nam VN hồi tháng 5/1975. Ông ta nói rằng việc Việt Nam chiếm quần đảo này là tạo ra một phản ứng có từ trước, khi Việt Nam công nhận quyền cai trị của Trung Hoa ở quần đảo Hoàng Sa. Ling, dù sao thì cũng đã cường điệu hóa sự kinh ngạc này. Dù cho tới lúc đó, Việt Nam (CS) chưa nhận được phản kháng nào của Trung Hoa đối với việc chiếm đóng các hòn đảo này, Hà Nội cũng đưa ra đầy đủ chứng cớ về chủ quyền. Hồi tháng Sáu năm 1974, Hoàng Tùng nói với một phái viên báo chí Thái Lan “Đông Nam Á thuộc về các dân tộc Đông Nam Á... Trung Hoa không phải là một quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á, vì vậy Trung Hoa không có những vùng lãnh hải rộng lớn như họ đòi hỏi.” Khi Tùng nói tới vấn đề này, Hà Nội chưa tiên liệu việc chiến thắng một cách mau lẹ ở miền Nam. Bởi khi quân đội của Thiệu bắt đầu tan tác, Hà Nội cũng khó đứng ỳ một chỗ mà xem 27 Trung Hoa chiếm đóng Trường Sa trong cùng một cung cách như họ đã chiếm Hoàng Sa năm trước. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở trong biển Nam Hải bao gồm 150 chõm đất, san hô và cát, từ mấy thế kỷ trước, đã được ngư dân Việt Nam, Trung Hoa và Philippines biết đến để lấy phân bón hải điểu, thực phẩm cho người Trung Hoa sành điệu ăn uống - tổ chim yến (yến sào- nd). Hồi đầu thập niên 1970, những đảo nhỏ này lại có một giá trị mới khi việc tìm kiếm dầu hỏa bắt đầu nhộn nhịp trong vùng Đông Nam Á. Vấn đề chủ quyền càng thêm phức tạp khi Trung Hoa cho rằng tất cả những hòn đảo này là thuộc quyền của họ, lấy chứng cớ căn bản trên việc họ có lui tới những nơi này. Tuy nhiên, chẳng có ai, Trung Hoa, Việt Nam hay Philippines chiếm đóng lâu dài trên những hòn đảo đó. Mãi đến cuối thập niên 1950, chính quyền Nam Việt Nam không chống lại Trung Hoa đòi chủ quyền trên các quần đảo. Bắc Việt Nam, đồng minh lý thuyết và là người nhận viện trợ Trung Hoa, nghĩ rằng khôn ngoan thì nên mặc cho Trung Hoa tranh giành chủ quyền trên các đảo đó. Nhưng sau năm 1959, khi Saigon và Bắc Kinh lại tranh nhau chủ quyền các hòn đảo này thì Hà Nội tiếp tục tránh ủng hộ Trung Hoa bằng cách im lặng. Hành động chiến tranh đầu tiên Năm 1972, khi chính phủ Thiệu bắt đầu thỏa thuận cho các công ty ngoại quốc tìm dầu trên thềm lục địa Việt Nam, vấn đề các quần đảo trở thành mối quan tâm lớn của Trung Hoa. Họ âm thầm thiết lập những cái nhằm chứng tỏ sự hiện diện của họ trên chuỗi đảo Amphitrite thuộc quần đảo Hoàng Sa (Paracel) trong khi Miền Nam VN vẫn duy trì những đồn binh nhỏ trên chuỗi đảo Lưỡi Liềm. Tháng Tư/ 1972, trong hành động nhằm tái xuất hiện - được Mỹ chấp thuận trong chuyến viếng thăm lịch sử của tổng thống Nixon hai tháng trước đó -, Bắc kinh phản kháng các chiến hạm Mỹ xâm nhập chung quanh đảo Hoàng Sa. Trong hồi ký, bộ trưởng ngoại giao Henry Kissinger không đặt thành vấn đề chủ quyền của Trung Hoa trên quần đảo này, mặc dầu nó chống lại đòi hỏi của Nam Việt Nam, lúc đó thực sự đang chiếm một phần quần đảo này, 28 Kissinger thông báo cho Trung Hoa biết rằng “Không có gì thiệt thòi cho vị thế hợp pháp của chúng tôi trên vùng biển, hải quân chúng tôi sẽ không xâm nhập và giữ khoảng cách 12 dặm kể từ các hòn đảo ấy.” Hà Nội, và hầu như Saigon cũng vậy, không biết đến cam kết của Kissinger không cho hạm đội Mỹ đến gần quần đảo. Ngày 26 tháng Mười Hai/ 1973, Hà Nội thông báo cho chính phủ Trung Hoa biết kế hoạch của họ bắt đầu thương thảo với công ty dầu khí Ý Đại Lợi tìm kiếm dầu trong vịnh Bắc Việt. Ngày 11 tháng Giêng, Bắc Kinh đưa ra lời tuyên bố đòi chủ quyền ở tất cả các hòn đảo trong biển Nam Hải (Đông Hải - ngd). Bốn ngày sau, quân đội Trung Hoa tập trung gần đảo Lưỡi Liềm. Nam VN yêu cầu Bắc Kinh hãy có trách nhiệm, cẩn thận từ bỏ kế hoạch của họ. Ngày 18 tháng Giêng bằng không và hải quân, Trung Hoa tấn công lực lượng tăng cường Nam VN, đánh bật họ ra khỏi khu vực, và thiết lập quyền kiểm soát của Trung Hoa trên toàn bộ quần đảo. Chính phủ Thiệu yêu cầu Mỹ can thiệp nhưng bị từ chối một cách lịch sự. Ngũ Giác Đài nói rằng họ không biết gì về lời kêu gọi giúp đỡ đó và Hạm Đội Bảy vẫn ở ngoài khu vực xung đột. Một sĩ quan Mỹ cố vấn cho đơn vị hải quân Nam VN bị bắt, mấy tuần sau được hồi hương qua ngã Hồngkông. Một ngày trước khi Trung Hoa tấn công, Bắc Kinh thông báo cho Hà Nội biết có thể có thương thảo với Việt Nam (CS) về vấn đề hải phận, nhưng rồi ra chẳng thực hiện cố gắng nào. Vài năm sau, (tháng Giêng/1974), đại sứ Việt Nam tại Paris, Mai Văn Bộ, nói với tôi cuộc tấn công của Trung Hoa ở Hoàng Sa là “hành động đầu tiên tấn công VN”. Tuy nhiên, lúc ấy Hà Nội chỉ đơn giản nói rằng những cuộc thương thuyết về lãnh thổ giữa các nước láng giềng cần phải xem xét hết sức nghiêm chỉnh. “Các nước liên hệ phải nói chuyện với nhau, bằng thương thuyết và trong tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và láng giềng tốt.” Đối với việc Trung Hoa chiếm Hoàng Sa, lời phát biểu này bao hàm một sự chỉ trích. Tuy nhiên vì cần có viện trợ kinh tế và quân sư của Trung Hoa cho chiến trường miền Nam, Hà Nội chẳng có thể làm gì được hơn. Một năm sau, khi cuộc toàn thắng ở phía 29 Nam đã rõ ràng, là thời điểm cuối cùng để Cọng Sản VN công khai chống lại Trung Hoa bằng cách tuyên bố “giải phóng” sáu hòn đảo trong quần đảo Trường Sa (Spratly). Từ giữa thập niên 1950, đã có nhiều bất đồng về lãnh thổ trên biên giới Hoa-Việt, nhưng chẳng đặt thành vấn đề gì. Sau chuyến đi của Nixon đến Trung Hoa năm 1972, và với việc Mỹ chấm dứt ném bom ở miền Bắc, ký hiệp định Paris, Hà Nội bắt đầu nêu lên vấn đề lãnh thổ. Vài vụ đụng chạm xảy ra trên biên giới Hoa Việt nhưng không được thế giới biết đến. Theo tiết lộ của Trung Hoa sau đó, hàng trăm cuộc đụng độ đã xảy ra năm 1974 và sau khi Hà Nội chiến thắng miền Nam, số lượng ấy cứ tăng dần lên. Nỗi sợ hãi có căn cứ Lịch sử có một điều hết sức mai mỉa, còn hơn cả Hoa Kỳ thua trận: Trung Hoa cũng bị đánh bại ở Việt Nam. Việc Hoa Kỳ rút ra khỏi Việt Nam năm 1975 tuồng như đem lại cho các nhà chiến lược Trung Hoa một cơn ác mộng về Việt Nam. Một nước Việt Nam mạnh và thống nhất là một sự thách thức ở phía Nam Trung Hoa, đồng bọn với kẻ thù cay đắng ở phía Bắc. Sự sụp đổ quyền lực bi thảm của Mỹ ở Việt Nam - biểu tượng bằng hình ảnh đại sứ Mỹ ở Phnom Pênh, John Gunther Dean dấu lá cờ Mỹ trong bọc nylon và những chiếc trực thăng bị xô xuống biển để rộng bãi đáp trên các chiến hạm Mỹ sau khi triệt thoái khỏi Saigon, nay là lúc Bắc Kinh phải đối đầu với Liên Xô “đế quốc xã hội chủ nghĩa” đang mở rộng ảnh hưởng ở châu Á. Từ sau chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Nixon, sự hiện diện của Mỹ trông có vẽ ôn hòa. Tuy nhiên, Đài Loan là một ngoại lệ. Bây giờ Trung Hoa lo lắng vì sự rút lui hốt hoảng của Mỹ khỏi vùng Đông Nam Á chỉ có lợi cho Moscow, - kẻ viện trợ quân sự chính yếu cho Việt Nam -, sẽ lấp vào khoảng trống sau khi Mỹ rút đi. Sau ngày 29 tháng Tư, sau chiến dịch “Vãng lai phong” nhằm đưa hết những người Mỹ ra khỏi Việt Nam, đề mục chính của tin tức ngoại giao trong bản tin thế giới của Tân Hoa Xã là sự thao dượt của hải quân Liên Xô. Sau khi nói rằng hải quân Liên Xô hiện diện nhiều nơi khác nhau trên khắp thế giới, bao gồm cả việc “hăng hái thâm nhập 30 vào eo biển Malacca” ở phía nam Việt Nam. Hãng thông tấn này bày tỏ việc “tập trận sau cùng của hải quân Liên Xô đạt tới mức độ nghiêm trọng nhất” chống lại hiểm nguy do sự xâm lược và bành trướng của “đế quốc xã hội chủ nghĩa.” Chủ tịch Mao, Chu Đức và Chu Ân Lai dĩ nhiên gởi lời chúc mừng Hà Nội về “ngọn triều vui sướng” này nhưng họ cũng chỉ rõ rằng chiến thắng của nhân dân Việt Nam cũng là một biểu lộ khác của cuộc chiến tranh nhân dân đang ngấm ngầm, một khái niệm về sự khởi thủy và thực hiện ở Trung Hoa trước kia. Bài bình luận trên tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày 1 tháng Năm cho thấy rõ cố gắng bác bỏ bất cứ vai trò nào của Liên Xô trong chiến thắng của Việt Nam. Tờ báo viết: “Chiến thắng của nhân dân Việt Nam thêm một lần nữa được chứng tỏ rằng yếu tố quyết định cho sự thắng bại là nhân dân và sự ủng hộ của họ, không phải do vũ khí”. Nói cách khác, không phải nhờ xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô được đưa vào Việt Nam mà thành công. Đó là sự ủng hộ của nhân dân. Những lời cảnh cáo công khai như thế rất cần thiết vì Bắc Kinh nghi ngờ những phần tử xét lại Việt Nam có thể đang bị cám dỗ bởi những viện trợ rất có hiệu quả của Liên Xô và ngược lại Việt Nam sẽ dành cho Liên Xô các căn cứ quân sự. Trung Hoa ghi nhận và theo dõi đại biểu quân sự Liên Xô đến Hà Nội chỉ một tuần sau khi Saigon sụp đổ và hàng loạt tàu Liên Xô đến các hải cảng Việt Nam. Chỉ 3 tuần sau khi Cọng Sản VN chiếm miền Nam, Trung Hoa, lần đàu tiên cảnh cáo bằng cách nói với đoàn đại biểu Nhật Bản là Liên Xô đã yêu cầu Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam VN để cho họ xử dụng các căn cứ cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng Bảy năm 1975, tôi hỏi Ngô Điền, một nhà ngoại giao hòa nhã giữ nhiệm vụ báo chí trong Bộ Ngoại Giao (Sau này là đại sứ ở Kampuchia) quả thật Liên Xô có đòi xử dụng những căn cứ này hay không. Tuồng như ông ta hết sức bất bình. “Ông có nghĩ rằng Liên Xô có thể đòi những điều như thế ở đất nước chúng tôi hay không?” Rồi ông ta không cần câu trả lời, nói tiếp: “Trước khi ông hỏi bạn ông một câu gì, ông phải hiểu là bạn ông sẽ nghĩ như thế nào về câu hỏi đó. Làm sao Liên Xô có thể đòi những “căn cứ” như thế được? - sặc mùi đế quốc.” Tuy nhiên, ông ta nói thêm 31 rằng, quả thật tàu bè Liên Xô có xử dụng những tiện nghi ở vịnh Cam Ranh, giống như tàu bè của tất cả các nước anh em khác. Mấy năm sau tôi khám phá rằng, phát biểu của Điền chỉ là cãi bướng, một trò chơi chữ. Sáu năm sau 1975, các nhà ngoại giao Việt Nam có nói với tôi rằng quả thật thời kỳ đó Liên Xô có gây sức ép để xử dụng các căn cứ quân sự cũ nhưng thất bại - thêm bốn năm nữa họ mới được những gì yêu cầu khi Việt Nam đã lún sâu vào cuộc chiến tranh với Trung Hoa. Ngay cả việc nếu như không có căn cứ quân sự Liên Xô ở nam Việt nam, Trung Hoa lo lắng cái gì sẽ xảy ra khi cán cân quyền lực ở Đông Nam Á không còn cân bằng vì với số lượng to lớn chiến lợi phẩm lấy được ở Miền Nam, Hà Nội có sức mạnh vượt trội lên, theo đúng ngôn ngữ của nó, sẵn sàng nắm lấy vai trò cách mạng tiên phong ở khu vực này. Hầu như muốn chọc quê những lời cảnh cáo của Trung Hoa vì mối nguy hiểm do Liên Xô thay thế khoảng trống Mỹ ở Đông Nam Á, báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng Năm hân hoan với sự sụp đổ tuyến phòng ngự của Mỹ ở Đông Nam Á. Bài báo viết: “Một thời kỳ làm nên thắng lợi của nhân dân Việt Nam, đã góp phần đem lại sự thay đổi quan trọng trong cán cân quyền lực thế giới... Nhân dân trong vùng này có điều kiện dễ dàng để loại bỏ phụ thuộc của họ vào đế quốc tư bản...” Nhìn từ hướng Bắc Kinh, điều đó cũng giống như Hà Nội đòi giành lấy vai trò lãnh đạo cách mạng Đông Nam Á. Tôi đã ngửi thấy cung cách thỏa mãn của Hà Nội trong chuyến viếng thăm ở đây vào mùa hè năm 1975. Nó là một thành phố không phải lỡm chỡm đầy những họng súng hay các bích chương kêu gọi cách mạng toàn thế giới. Hà Nội vui mừng một cách thầm lặng. So với sự căng thẳng, ồn ào, và hỗn độn của Saigon mà tôi đã bỏ lại đằng sau, thủ đô phía Bắc là một sự tìm tòi mâu thuẫn. Hà Nội thay đổi chút ít từ khi Pháp rời Đông Dương 21 năm trước. Thành phố có cái già cỗi đáng yêu: Những đại lộ có những hàng cây bóng rợp, và những mặt hồ yên ã. Những con đường lặng im chỉ bị khuấy động một chút bởi những âm thanh nhẹ nhàng của xe đạp đang chạy. Hà Nội có vẽ tin tưởng trong không khí lặng im. Nói chuyện với tôi trong ngôi nhà của bộ ngoại giao xây theo kiểu Pháp, Ngô Điền 32 đọc cho tôi nghe một bài thơ làm hồi thế kỷ 15 sau khi quân nhà Minh bị đánh đuổi ra khỏi Việt Nam: Đánh một trận sạch không kình ngạc, Đánh hai trận tan tác chim muông ... ... ... ... ... ... ... , Giangsơn từ đây mở mặt, Xã tắc từ đây vững bền (Bình Ngô đại cáo - người dịch) Người Việt Nam vẫn còn sửng sốt với chiến công của họ. Trong suốt những ngày chiến tranh đen tối, khi B-52 rải thảm ở phía Bắc, hàng ngàn thanh niên rời bỏ quê hương đi Nam chiến đấu không bao giờ trở lại, chỉ có một ít hy vọng sống sót để thấy chiến thắng ở thành phố Hồ Chí Minh như họ tiên đoán. Sau khi vượt qua được những thử thách ghê gớm và đánh bại kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, với họ, mọi việc tuồng như có thể làm được. Giờ đây, Việt Nam sẵn sàng góp mặt với thế giới, đứng thẳng lên cùng bè bạn và kẻ thù, bày tỏ ý kiến của mình. Một Trung Hoa lo lắng, nắm lấy cơ hội kỷ niệm ba mươi năm của Bắc Việt để bày tỏ quan tâm về vai trò lãnh đạo của Việt Nam. Họ gởi một thành viên Bộ Chính trị, tướng Chen Xilian tham dự buổi lễ tổ chức tại Hà Nội. Chen, người to lớn, đang giữ chức Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, năm 1969, chỉ huy lực lượng quân sự Trung Hoa trong chiến tranh với Liên Xô dọc theo biên giới Nga Hoa và hiện ở trong cương vị có thể cảnh cáo Hà Nội về những nguy hiểm do Liên Xô tạo ra ở châu Á. Phát biểu trong một buổi lễ tại nhà máy thép Thái Nguyên do Trung Hoa xây dựng, bị đánh bom trong chiến tranh, nay cũng do Trung Hoa giúp tái tạo, ông ta ca ngợi cuộc đấu tranh “chống bá quyền” (một danh từ Trung Hoa thường dùng để ám chỉ chống Liên Xô). Ông ta cảnh cáo “âm mưu của siêu cường nhằm mục tiêu bá quyền” - có nghĩa là Liên Xô cố lấp chỗ trống của Mỹ, đang tạo ra nhiều điều ghê gớm và đe dọa gia tăng chiến tranh. Khi Chen đến Hà Nội vào ngày 31 tháng Tám, thủ tướng Phạm Văn Đồng bước lên cầu thang máy bay ôm hôm thắm thiết - theo truyền thống những ngày đoàn kết chiến đấu. 33 Nhưng giới báo chí Hà Nội đón tiếp không lịch sự nhằm bày tỏ tính cách độc lập của họ. Họ loại bỏ những điều Chen nói tới bá quyền trong các bài phóng sự. Không bỏ lỡ cơ hội phê bình quan điểm của Trung Hoa, đài phát thanh Moscow phê bình Chen là “khiếm nhã và khiêu khích chính trị”. Bản tin đó nói rằng “Nhân dân Việt Nam biết phân biệt bạn và thù”, và họ ý thức được “sự giúp đỡ vô giá và vô vị lợi từ Moscow.” Sự đấu đá công khai giữa Moscow và Bắc Kinh về lòng trung thành của Hà Nội chẳng đem lại điều tốt lành nào cho chính sách của Việt Nam để lèo lái cuộc tranh chấp của các bậc đàn anh trong khi Hà Nội đang mong họ giúp đỡ. Ngày 22 tháng Chín, Lê Duẫn và Lê Thanh Nghị đi Bắc kinh để cám ơn và cầu viện. Rõ ràng đây là một thử thách về tài khéo léo của Việt Nam. Hôm trước lúc lên đường, một bản tường trình từ Bắc Kinh báo cho biết trước những gì các nhà lãnh đạo Bắc Kinh muốn nghe Lê Duẫn trình bày. Sau khi họp với Mao và Đặng, cựu thủ tướng Anh Edward Heath nói với báo chí rằng Moscow đã “quá lậm” trong việc đòi hỏi xử dụng các căn cứ quân sự ở Việt Nam. Nhưng ông ta cũng nói rằng Trung Hoa không nghĩ rằng Liên Xô sẽ thành công trong việc vận dụng ảnh hưởng dài lâu với Việt Nam, cũng không thể tiến tới việc thiết lập căn cứ quân sự ở đây. Qua ông Heath, Trung Hoa đưa ra những dấu hiệu rõ với Hà Nội, không phải cho tới bây giờ, khi Duẫn trấn an Trung Hoa thì sự lạc quan mới thấy rõ. Chẳng có thì giờ để tiệc tùng Dù việc đón tiếp Lê Duẫn không hào nhoáng như lần đón Khiêu Samphan và Ieng Sary đến Bắc Kinh một tháng trước đó, nhưng cũng nồng ấm. Sau khi Đặng Tiểu Bình và một số lãnh tụ cao cấp ra đón tại cầu thang máy bay, Duẫn duyệt qua hàng quân danh dự quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa, các em bé nhảy múa và tặng hoa. Đặng, 71 tuổi, người một thời bị Hồng Vệ Binh chưởi là “tên đầu sỏ” đi theo chủ nghĩa tư bản và phải chịu bốn năm làm công việc chùi quét các hội trường, năm 1973 được Chu Ân Lai phục hồi. Đón Lê Duẫn lần này là lần xuất hiện công khai 34 cuối cùng của Đặng trước khi sự nghiệp chính trị của ông ta lại chìm xuống một lần nữa. Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh treo đầy đèn vàng đỏ, cờ và biểu ngữ hoan hô tình hữu nghị. Tuy nhiên, bầu không khí đó chùng xuống khi Đặng, trong buổi tiệc chào đón, đọc một bài diễn văn “thuyết giảng” về sự xấu xa của “chủ nghĩa bá quyền.” Nói tới tình hữu nghị của Việt Nam và Liên Xô, Đặng tránh không nói trực tiếp Liên Xô, nhưng gọi chung là siêu cường. “Các siêu cường là những tên đàn áp bóc lột quốc tế lớn nhất hiện nay.” Đặng nhắc nhở phái đoàn Duẫn như thế. Rồi, hơi kín đáo một chút, Đặng kêu gọi Việt Nam (CS) cùng Trung Hoa chống lại Liên Xô. Đặng nói: “Càng lúc càng rõ, bây giờ nhân dân thấy rằng trận chiến chống siêu cường bá quyền là con đường sinh tử mà nhân dân mọi nước đang phải đối đầu.” Đặng chỉ ra rằng thời gian đã thay đổi, và khi nói tới Trung Hoa và Việt Nam, Đặng không dùng thành ngữ cũ - “như môi với răng” - nhưng lại theo cung cách dịch vụ là “tình láng giềng xã hội chủ nghĩa anh em”, Đặng lưu ý Duẫn rằng bảo tồn và phát triễn tình hữu nghị là quyền lợi căn bản. Duẫn đã từng tham dự nhiều bữa tiệc có trang hoàng lộng lẫy ở Đại Sãnh Đường Nhân Dân Trung Hoa. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên Duẫn đến Bắc Kinh không chỉ đơn giản để xin viện trợ mà còn xác quyết vị trí đoàn kết và độc lập của Việt Nam. Duẫn không hết lời ca ngợi sự thành công của Trung Hoa trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, “tình cảm nồng nàn và lòng biết ơn sâu sắc” đối với sự giúp đỡ của Trung Hoa, nhưng bằng phương cách lịch sự, Duẫn gạt bỏ quan điểm của Trung Hoa đối với thế giới. Dẫn ra rằng chiến thắng của Việt Nam (CS) chẳng thể có được nếu không có “nhiệt tình và sự giúp đỡ to lớn và giá trị” của các nước xã hội chủ nghĩa anh em - có nghĩa khối Liên Xô - Duẫn nói tiếp: “Với lý do đó, thắng lợi này là thắng lợi chung của những lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình trong cuộc chiến đấu chung chống lại chủ nghĩa đế quốc, chống lại đế quốc Mỹ cũng như bọn đầu sỏ”. Duẫn nói Việt Nam sẽ không bắt tay với Trung Hoa trong phong trào chống Liên Xô. Tuy nhiên, mặc dù có sự dị biệt về chính trị này, Duẫn cũng yêu cầu Trung Hoa viện trợ. Duẫn nhắc lại cho chủ nhà hay rằng “Nhân dân Việt 35 Nam minh xác, trong giai đoạn mới, cũng như trong quá khứ, họ vui mừng đón nhận sự giúp đỡ nồng nàn và to lớn cũng như viện trợ của Trung Hoa.” Tại Hà Nội, bản tin của cơ quan thông tấn xã Việt Nam cắt bỏ phần nói tới siêu cường bá quyền trong bài diễn văn của Đặng. Việc Duẫn từ chối, không quan tâm đến đề nghị của Trung Hoa có nghĩa là tạo khó khăn cho việc viện trợ từ phía Bắc Kinh. Năm tuần lễ trước khi Lê Duẫn lên đường đi Trung Hoa, Lê Thanh Nghị, người được Trung Hoa gán cho biệt danh là “tên ăn mày” vì Nghị thường đến Bắc Kinh để xin viện trợ, cũng đã đến Bắc Kinh để xin giúp đỡ. Hồi tháng Sáu năm 1973, Chu Ân Lai đề nghị Duẫn ngưng chiến ở miền Nam trong vòng 2 năm và hứa viện trợ cho Việt Nam (Bắc Việt) thêm năm năm nữa. Nhưng ngày 13 tháng Tám năm 1975, khi Nghị đến thăm Chu Ân Lai lúc đó đã gần chết, Nghị nghe giọng nói của Chu đã khác đi. Theo tờ “Peking Review” số phát hành sau đó, Chu nói với khách Việt Nam rằng “Trong chiến tranh, khi bạn hết sức cần viện trợ, chúng tôi phải lấy nhiều thứ trong quân đội chúng tôi để giúp bạn. Chúng tôi phải hết sức cố gắng để giúp bạn. Số lượng chúng tôi giúp Việt Nam đứng vào hàng đầu trong số chúng tôi viện trợ cho các nước khác. Bạn hãy để cho chúng tôi nghĩ ngơi và lấy lại sức.” Bây giờ, Duẫn thấy nhà lãnh đạo Trung Hoa cương quyết chấm dứt mọi viện trợ dù đã được chuẩn nhận, cả viện trợ lương thực như đã hứa trước kia. Họ (TH) nói, bây giờ chiến tranh đã qua rồi, Việt Nam phải tự nuôi mình. Trong suốt cuộc họp với Mao, Nghị cố gắng nhún nhường nói với Mao “Không có Trung Hoa là hậu phương lớn của chúng tôi, không có sự giúp đỡ của các “đồng chí”, không có sự giúp đỡ của Chủ tịch, chúng tôi không thể thành công... Chúng tôi luôn luôn nói rằng chính là Trung Hoa, không phải Liên Xô, có thể viện trợ cho chúng tôi những món hàng trực tiếp nhất và hữu ích nhất, ở những giờ phút khó khăn nhất khi số mạng chúng tôi treo bằng sợi tóc...” Những lời nịnh hót như thế cũng chẳng đem lại lợi ích gì ngoài vài món nợ không lời tài trợ cho Việt Nam nhập cảng dầu và hàng tiêu dùng. Có điều rõ là Bắc Kinh chưa gạch sổ Việt Nam, đóng sầm cửa lại vì vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi nói chuyện với Lê Duẫn ngày 24 tháng 36 Chín, Đặng không dùng lối tuyên truyền như “những hòn đảo này là vùng đất thánh của Trung Hoa” và vì vậy, không thể thương thuyết. Đặng chỉ nói rằng việc giải quyết các hòn đảo này phải qua thương nghị. Tuy nhiên, sự khác biệt về chính trị của hai bên vẫn còn quá lớn và việc từ khước của Duẫn đã tạo khó khăn cho ông ta khi ký bản thông cáo chung. Không những Duẫn từ khước ký thông cáo chung - như trong chuyến viếng thăm chính thức năm 1973 - Duẫn còn hủy bỏ buổi tiếp tân, theo nghi lễ, mời lại nước chủ nhà. Đó là điều sau này một viên chức Trung Hoa cho là “Một hành động khác thường của người lãnh đạo đảng anh em.” Ngày 25 tháng Chín Duẫn ghé Thiên Tân bằng tàu lửa rồi lên đường về Việt Nam. Sau chiến tranh họ đã có hành động sĩ nhục Bắc Kinh. Một tháng sau lại có một hành động sĩ nhục khác khi Duẫn đi Moscow để nhận viện trợ theo như hứa hẹn là viện trợ lâu dài và ký một thông cáo chung thừa nhận vị trí chính trị của Liên Xô ở ngoại quốc. Sau đó, một quan chức Trung Hoa nói với tôi là thông cáo chung Xô Việt ngày 30 tháng Mười là “Việt Nam đầu hàng chủ nghĩa bá quyền.” Sự phát triển bên trong Việt Nam tuồng như củng cố mối sợ hãi của Trung Hoa. Mặc dầu Trung Hoa có hứa miệng mục tiêu tái thống nhất Việt Nam, nhưng nghi ngại về một viễn tượng thống nhất chính trị và cai trị của hai miền Việt Nam, thay đổi một cách có hiệu quả sự cân bằng ở Đông Dương. Trong điện văn chúc mừng Việt Nam chiến thắng, Bắc Kinh chua chát ám chỉ mối quan tâm này: “Chúng tôi chân thành mong muốn nhân dân Miền Nam VN sẽ không ngừng gặt hái thắng lọi to lớn và mới mẻ hơn nữa trong công cuộc tiếp tục đấu tranh thực hiện cách mạng dân tộc và dân chủ”. Theo cách thường nói thì chiến thắng của Miền Nam VN chính là do nhân dân Miền Nam chứ không do xe tăng và binh lính Bắc Việt. Trung Hoa nói rõ điều này là có ý ly cách Miền Nam ra khỏi Bắc Việt. Trong vài tháng đầu sau khi chiếm miền Nam. Các nhà lãnh đạo CS gây ra một ấn tượng cho rằng ít ra cũng phải 5 năm, miền Nam sẽ giữ một hệ thống kinh tế và xã hội khác biệt trước khi thống nhất với miền Bắc. Trong bài diễn văn mừng thắng lợi 37 ngày 19 tháng Năm, Lê Duẫn tuyên bố miền Nam sẽ xây dựng một “Chế độ nhà nước dân chủ” - theo ngôn ngữ Mácxít, thân xã hội chủ nghĩa - Chính phủ Cách Mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam cũng xin gia nhập - như một thành viên riêng rẻ - vào Liên Hợp Quốc. Nhưng sau sáu tháng điều hành công việc ở Miền Nam, những người lãnh đạo đảng CS Việt Nam thấy rằng sự trì hoãn thống nhất là một điều bất lợi. Trong khi hủy bỏ một cách mau lẹ hệ thống tư bản ở Miền Nam, có thể tạo ra những bất ổn và đối kháng. Duy trì hệ thống kinh tế tự do trong khi không có đủ cán bộ có khả năng có thể tạo ra tình trạng xáo trộn, và nghiêm trọng hơn, tăng cường khuynh hướng tách rời miền Nam. Các nhà lãnh đạo CS Việt Nam (Hà Nội) cũng lo sợ Bắc Kinh trực tiếp với Cọng Sản Miền Nam xuyên qua thiểu số Hoa Kiều ở Chợ Lớn và mối quan hệ chặt chẽ của Trung Hoa đối Kampuchia. Thật ra, Trung Hoa cũng rất nhạy bén trong việc miền Nam tồn tại riêng rẻ với Bắc VN, tạo ra tranh luận trong việc thống nhất Việt Nam mau chóng. Điều đó chỉ làm nổi bật mưu mẹo của Trung Hoa. Bằng một hành động đáng kinh ngạc, đài phát thanh Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hôm 9 tháng Mười Một, cùng lúc thông báo trì hoãn “Hội nghị Hiệp thương” Nam Bắc chuẩn bị tái thống nhất, trong khi đã có quyết định sẽ họp trong vài tuần tới. Trung Hoa rõ ràng đã vắng mặt thì nay lại đưa ra lời chúc mừng Hà Nội. Sự tức giận của Trung Hoa gia tăng khi Việt Nam (CS) tuyên bố ngày 24 tháng Mười Một sau khi “Hội nghị Hiệp thương” họp ba ngày ở thành phố Hồ Chí Minh, kết thúc hội nghị này của họ. Trung Hoa lên tiếng về vấn đề quần đảo Trường Sa, do Hà Nội dùng lực lượng “giải phóng” hồi tháng Tư. Một bài bình luận dài trên tờ Quang Minh nhật báo (Guangming daily) của Trung Hoa xác nhận quyền sở hữu từ xưa của Trung Hoa. Khác với thái độ của Đặng hồi tháng Chín, nói rằng vấn đề các quần đảo có thể thương thuyết, tờ báo này bây giờ lại tuyên bố đó là vùng “đất thánh của Trung Hoa”. Tờ báo tuyên bố một cách đáng ngại rằng: “Tất cả những hòn đảo thuộc về Trung Hoa phải được nằm trong vòng tay của đất mẹ.” 38 Không nãn lòng trước đe dọa gay gắt của Trung Hoa, Hà Nội tiến hành việc củng cố kiểm soát toàn miền Nam, bao gồm cả một triệu rưởi Hoa Kiều. Tháng Hai năm 1976, trong khi chuẩn bị tổng tuyển cử, việc kiểm tra dân số được thực hiện, qua đó, người dân phải khai rõ quốc tịch của mình. Việc khai lý lịch có thể bị tước mất quyền công dân, bao gồm cả khẩu phần lương thực, một số rất đông người Trung Hoa ở miền Nam phải nhập Việt tịch. Đối với Bắc Kinh, đây là sự vi phạm không chỉ thỏa ước miệng năm 1955 giữa Trung Hoa và Bắc Việt Nam cho phép trú dân Trung Hoa được “tình nguyện” nhập Việt tịch, đó cũng là một chính sách tương tự của Mặt trận Giải phóng Miền Nam VN. Trung Hoa phản kháng cái gọi là “cưỡng bức quốc tịch” đối với Hoa Kiều ở Việt Nam. Có ba cuộc họp để thảo luận về việc này hồi tháng Hai và tháng Tư/ 1976 nhưng không có kết quả. Ba năm sau, Nguyễn Trọng Vinh, đại sứ Việt Nam (CS) ở Bắc Kinh giải thích cho tôi: “Không có cái gọi là “tình nguyện” trong thỏa hiệp 1955”. Hai năm sau, sự kiện Hà Nội đối xử với Hoa Kiều như trên châm ngòi cho cuộc đụng độ Hoa Việt. Cùng thời gian Việt Nam (CS) kiểm tra dân số và chuẩn bị bầu cử thống nhất đất nước, Hà Nội cũng cố gắng tăng cường vị thế của họ ở Đông Dương bằng cách lôi kéo Lào vào một liên minh chặt chẽ hơn để thảo luận với Kampuchia về vấn đề lãnh thổ. Những người lãnh đạo ở Hà Nội quyết định thống nhất chính quyền, thực hiện các kế hoạch nội bộ, thắt chặt hơn nữa mối giây liên kết với các nước láng giềng. Đó là những điều kiện chính yếu để bắt tay vào một nhiệm vụ to lớn là xây dựng đất nước bị tàn phá vì chiến tranh và đem lại những cải cách xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, mỉa mai thay, chính sách này đã làm cho Việt Nam cùng một lúc đối đầu với hai kẻ thù là Trung Hoa và Kampuchia trong mục tiêu chung. Trong khi cả Trung Hoa và Kampuchia đều có lý lẽ riêng của chính họ để tranh cải với Việt Nam, họ thống nhất sức chống đối để chống Việt Nam mới nổi lên thành một sức mạnh có thể cai trị toàn Đông Dương. Dù chủ ý hay tình cờ, hai ngày sau khi thỏa ước quân sự Trung Hoa và Kampuchia ký ở Phnom Pênh, Việt Nam bước đầu thúc đẩy thành lập một Liên minh Đông Dương. Thủ tướng Cọng 39 hòa Dân chủ Nhân dân Lào và cũng là tổng bí thư đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào (LPRP) Kaysone Phomvihane, một liên minh lâu năm với Việt Nam tới Hà Nội thực hiện cuộc viếng thăm chính thức. Một bản thông cáo chung được ký giữa Kaysone và Duẫn hôm 12 tháng Hai/ 1976, tuyên bố mối “quan hệ đặc biệt” tồn tại giữa hai nước nhằm hợp tác lâu dài và viện trợ hỗ tương, cũng như phối hợp hành động chống lại “chủ nghĩa đế quốc và bọn phản cách mạng.” Bản thông cáo chung cũng hứa hẹn “gia tăng đoàn kết giữa Lào, Kampuchia và Việt Nam.” Ý định của Việt Nam “nhằm bảo đảm rằng Lào trước hết, sẽ đi theo hướng Việt Nam.” Một quan sát viên sau này nói với tôi như vậy. “Việc xử dụng thành ngữ “quan hệ đặc biệt” nhằm cảnh cáo Trung Hoa và Kampuchia là Hà Nội sẽ không tha thứ Kampuchia liên minh với Trung Hoa để chống Việt Nam.” Về phía Bắc Kinh, chẳng có phản ứng tức khắc nào đối với việc đưa ra câu “quan hệ đặc biệt”. Vài tuần sau, khi Việt Nam tưng bừng tổ chức kỷ niệm một năm “giải phóng” miền Nam, Bắc Kinh đón tiếp dịp này với một vẻ yên lặng khó chịu. Chẳng có bài bình luận nào trên tờ Nhân Dân Nhựt Báo, chẳng có điện văn chúc mừng gởi tới cho các nhà lãnh đạo ở Hà Nội. Phnom Pênh cũng vậy, họ tránh những lời bình luận công khai trong dịp này. Tuy nhiên, người ta có thể ước lượng được sức chống đối của Khmer Đỏ về “quan hệ đặc biệt” từ giai thoại được quốc trưởng Kampuchia cũng nhà lãnh đạo Mặt Trận Đoàn Kết Quốc gia Kanpuchia, thái tử Norodon Sihanouk kể lại trong hồi ký của ông “La calice jusqu'à la vie”, rằng suốt tháng Chín/ 1975 khi thăm viếng Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm 30 Bắc Việt Nam. Sihanouk và Khiêu Samphan gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đồng mời “ăn cơm gia đình” với người Việt Nam, thành viên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN, (PRG) và các nhà lãnh đạo Lào lúc ấy cũng có mặt ở Hà Nội. Trước sự kinh ngạc và hoảng hồn của Sihanouk, Samphan lạnh lùng từ chối, nói rằng Kampuchia thích bữa ăn tối tổ chức giữa hai đảng. Sau này, Samphan giải thích với thái tử: “Chúng ta sẽ không bao giờ rơi vào cái bẫy sập của Việt Nam, những người muốn cai trị Kampuchia của chúng ta và nuốt 40 trọn toàn bộ Liên Bang Đông Dương. Cái ý một buổi ăn tối như thế quả thật là rất nguy hiểm.” Ông ngáo ộp về một Liên Bang Đông Dương mà đảng Cọng Sản Đông Đương muốn dựng lên từ thập niên 1930 đã ám ảnh người Khmer. Ngày 17 tháng Tư, kỷ niệm một năm “giải phóng” Kampuchia, Ieng Sary, cũng bị ám ảnh mối “quan hệ đặc biệt” như thế, nói rằng “Nhân dân chúng ta kiên quyết không cho nước ngoài chôn vùi nền độc lập, quyền cai trị và toàn vẹn lãnh thổ của Kampuchia.” Ám chỉ quân đội Việt Nam (CS) hiện diện ở Lào qua mối “quan hệ đặc biệt,” Sary nói: “Việc phòng vệ một quốc gia là bổn phận của chính nhân dân nước đó, và cách mạng chỉ hoàn thành do chính nhân dân và nền độc lập của đất nước.” Mặc dù có những lời chỉ trích như vậy, đại sứ Việt Nam tại Phnom Pênh, Phạm Văn Ba, vận động Kampuchia chấp thuận đề nghị của Việt Nam mở một cuộc họp thượng đỉnh vào tháng Sáu. Trong khi đứng vững trên mặt chính trị, nước Kampuchia Dân Chủ vẫn tìm cách giải quyết vấn đề biên giới. Thực ra, về phía Phnom Pênh, thái độ của Việt Nam về cuộc thương thảo chủ quyền lãnh thổ là một thử nghiệm về lòng tốt của Hà Nội và vì vậy, phải có điều kiện tiên quyết chính yếu cho hội nghị thượng đỉnh. Thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Phan Hiền, đến Phnom Pênh ngày 4 tháng Năm, thương thuyết trong hai tuần về vấn đề biên giới. Cuộc thương thảo tức thời gặp khó khăn khi Việt Nam đòi xử dụng bản đồ trước 1954 do Pháp ấn hành để vạch ranh giới, trong khi Kampuchia, dù chấp thuận dùng bản đồ này làm căn bản cho việc thảo luận, nhưng đòi quyền sửa đổi đường biên giới. Về sau, Ieng Sary giải thích: “Bản đồ của Pháp có lợi cho Việt Nam vì khi bản đồ ấy được vẽ ra, Nam Kỳ là thuộc địa Pháp. Nếu chúng tôi chấp thuận theo bản đồ ấy để vẽ biên giới thì Việt Nam sẽ chấp thuận đường phân ranh hải phận.” Vấn đề không phải là hải phận do Pháp vẽ trong bản đồ. Năm 1939, đường ranh Brévié - được gọi theo tên Jules Brévié, toàn quyên Pháp ở Đông Dương - bao gồm luôn cả những hòn đảo nằm giữa Nam Kỳ và Kampuchia. Con đường này nhắm một góc 140 độ kể từ bờ biển giữa hai nước ra tới vịnh Xiêm La, nhưng xác định đảo Phú Quốc 1 dặm rưởi nằm trong khu vực cai trị của Nam 41 Kỳ là mục đích của chính quyền thực dân. Tuy nhiên, chính Brévié có nói thêm; “vấn đề chủ quyền những đảo này vẫn còn phải chờ.” Trong cuộc thương thuyết giữa Kampuchia và Mặt Trận Giải Phóng năm 1966, lúc ấy Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN cần sự ủng hộ của thái tử Sihanouk, vì ông không phải là người đối lập, Việt Nam chấp thuận đường ranh Brévié. Trong cuộc phỏng vấn ở Paris hồi tháng Sáu năm 1977, (Khi cuộc họp của Phan Hiền hồi tháng năm trước đó còn giữ bí mật), tôi hỏi Hiền tại sao Hà Nội chấp thuận đường ranh Brévié thì ông ta trả lời: “Vâng, bởi vì khi chúng tôi chấp thuận đường ranh Brévié, chúng tôi không rõ lằn ranh hải phận, lục địa, v.v... những điều quái dị mới”. Rõ ràng là có sự ngụ ý từ khi có việc khai thác dầu lửa ngoài thềm lục địa vào thập niên 1970, Hà Nội phải nhìn lại hải phận của họ. Thời gian khó khăn cho một toán quay phim Trong thời gian thương thảo ở Phnom Pênh, Phan Hiền đồng ý đặt vấn đề chủ quyền các hòn đảo căn bản theo đường ranh Brévié. Những đảo ở phía Bắc đường ranh này thì thuộc Kampuchia và đảo nào ở phía Nam thì thuộc Việt Nam, nhưng Hiền lại đề nghị vẽ lại đường ranh nầy. Về sau, Phnom Pênh tố cáo đề nghị của Việt Nam là nhằm giành một số lớn phần biển của Kanpuchia. “Đối với người Khmer, rõ ràng bọn bành trướng Việt Nam muốn giành đất Kampuchia”. Cuộc thảo luận bị hoãn, rồi coi như chết từ đó, không họp lại. Cùng chiều hướng đó, hội nghị thượng đỉnh cũng chết luôn. Tuy nhiên, dù thất bại trên mặt thương thuyết, chưa bên nào đóng sầm cửa lại. Phan Hiền quay về Hà Nội, đem theo lời mời của Ieng Sary mời báo chí Việt Nam đến thăm nước Kampuchia Dân Chủ kín mít như bưng. Tháng Bảy năm 1976, một đoàn đại biểu báo chí và truyền hình Việt Nam do Trần Thanh Xuân, phó giám đốc Việt Nam Thông Tấn xã dẫn đầu là đoàn báo chí ngoại quốc đầu tiên đến thăm Kampuchia. Xuân, 50 tuổi, lực lưỡng, đeo kiếng, được chọn vì Xuân có du học ở Pháp, biết rõ Pol Pot và Ieng Sary và nhiều người khác sau khi ở Pháp về, trở thành các nhà lãnh đạo Cọng Sản Kampuchia. Pol Pot, con người bí mật, lý lịch thật vẫn còn là 42 một vấn đề người ngoài đang tra cứu, xuất hiện từ bóng tối để cho Xuân phỏng vấn và chụp hình. Bốn năm sau, khi hồi tưởng cuộc gặp gỡ này, Xuân nói rằng Pol Pot vẫn còn duyên dáng, không chỉ là một người chủ nhà khả ái, mà còn là người Xuân phỏng vấn đầu tiên từ trước tới giờ. Pol Pot tỏ lòng cám ơn của Kampuchia đối với bạn hữu và anh em Việt Nam về sự giúp đỡ trong quá khứ và nói rằng tình hữu nghị và đoàn kết giữa hai phía là “về vấn đề chiến lược và tình cảm thiêng liêng.” Mục tiêu của Kampuchia mời báo chí Việt Nam - như Xuân giải thích trong cuộc phỏng vấn hồi tháng Giêng năm 1981 tại thành phố Hồ Chí Minh - chính vì sự phá hoại do các bản tường trình sai lạc tạo ra, sự chỉ trích của các đại sứ Tây phương đầu tiên đến thăm Kampuchia hồi tháng Ba. Pol Pot nghĩ rằng Việt Nam đúng là những nhà làm báo làm công việc này. Pol Pot cũng không sai lầm. Dù những người Việt Nam này hoàn toàn xúc động trước bối cảnh của đất nước Kampuchia, Hoàng Tùng, người có cặp mắt diều hâu đoan chắc rằng không một ấn tượng nào mà không được chắt lọc trong bản tường trình của họ. “Đoàn quay phim của chúng tôi gặp phải nhiều khó khăn trong việc tìm cho ra những nụ cười của nông dân đang xây dựng đất nước. Trông họ hết sức cau có và buồn bã.” Xuân nhớ lại như thế. Chính Tùng cũng nhắc lại một câu trên tờ Nhân Dân và nói: “Trong khi các thành phố thì trống không, dân chúng đều làm việc ngoài đồng.” Tốt hơn là nên tập trung vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh do Lon Nol và Mỹ gây nên. Cuộc viếng thăm đầy những biểu tượng thảm khốc. Một năm sau, Tùng tiết lộ rằng Pol Pot có thái độ hiểm độc với ông ta bằng cách gởi biếu Tùng một món quà: Một con vật ăn thịt người, con cá sấu con. Thật ra, Pol Pot có nhiều biểu tượng trong trí khi chọn quà. Sau này, trong việc tuyên truyền của Khmer Đỏ, họ thường gọi Việt Nam là “những con cá sấu vong ơn.” Vì sự quan hệ giữa Việt Nam với Trung Hoa và Kampuchia càng lúc càng căng thẳng, Hà Nội gia tăng thân hữu với thế giới không Cọng Sản. Trong những tháng ngay sau toàn thắng, Việt Nam (CS) huênh hoang thóa mạ những nước chống Cọng trong Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) vì trong quá khứ, họ đã tán trợ đế quốc Mỹ, và yêu cầu tháo bỏ các căn cứ quân sự Mỹ ở Thái Lan và 43 Philippines. Cuối năm 1975, Việt Nam thấy Trung Hoa ve vản các nước ASEAN để chống lại Liên Xô và Việt Nam, đặc biệt là cố gắng của Bắc Kinh làm mối lái cho Thái Lan và Kampuchia. Chỉ một tháng sau khi Saigon sụp đổ, Trung Hoa bình thường hóa ngoại giao với Thái Lan. Tháng Mười/ 1975, trong khi Việt Nam (CS) chưa thiết lập ngoại giao với Thái Lan, thì Ieng Sary, nhờ Trung Hoa, thực hiện chuyến đi Bangkok bằng máy bay của Trung Hoa, để phá vở quan hệ băng giá giữa hai nước. Trong khi Việt Nam tự thấy mình là “tiền đồn xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và ấp ủ một viễn tượng trở thành trung tâm cách mạng cho phong trào Cọng Sản ở khu vực này, các nhà lãnh đạo Cọng Sản Hà Nội có đủ tự hào để thấy rằng ưu tiên tối thượng của họ là xây dựng lại một nền kinh tế rách nát. Các phong trào đấu tranh cũng còn trong thời kỳ ấu trĩ, vì vậy, Hà Nội phải đương đầu với những chế độ mạnh. Bình thường hóa quan hệ với các nước láng giềng là cần thiết về cả hai mặt chính trị và kinh tế. Việt Nam không còn cơ hội để nhận viện trợ Tây phương nếu Hà Nội bị coi như kẻ quấy rối trong vùng. Sự im lặng khó chịu ở Bắc Kinh Ngày Bảy tháng Năm, ba ngày sau khi thống nhất chính quyền Nam Bắc Việt Nam, trở thành nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Hà Nội thông báo chương trình 4 điểm để thiết lập và phát triển “quan hệ hữu nghị và hợp tác trên nhiều lãnh vực” với các nước Đông Nam Á, đặt căn bản trên sự tôn trọng nền độc lập của nhau, không nước nào cho nước ngoài lập căn cứ để trực tiếp hay gián tiếp chống nhau, họ theo đuổi chính sách láng giềng tốt, phát triển hợp tác, “nhằm giữ cho mỗi quốc gia những điều kiện đặc biệt và vì nền độc lập, hòa bình và trung lập thật sự của Đông Nam Á.” Một tuần sau, Phan Hiền đi thăm Philippines, Malaysia, Singapore, Indonesia và Miến Điện. Trong chuyến đi này, Hiền giải thích rằng trong quá khứ báo chí Hà Nội đã tấn công các nước Đông Nam Á bằng một luận điệu khéo léo. Hiền nói “Báo chí viết 44 về cái gì họ cảm nhận, nhưng đó không phải là quan điểm của chính phủ.” Dù chẳng có nước nào nghĩ rằng Việt Nam (CS) tự phê phán mình, phản ứng của họ cũng chỉ là gật đầu lịch sự. Mặc dù Singapore vẫn còn bi quan về ý muốn của Hà Nội trở thành một nước láng giềng tốt, Hiền cũng đã gây được ấn tượng với các nước khác rằng Việt Nam (CS) thành thật mong tìm thân hữu mặc dù có sự khác biệt về chủ nghĩa. Có nghĩa là Hà Nội bây giờ mĩm cười hơn là nạt nộ các nước ASEAN và bày tỏ sự khuây khỏa. Một nhân vật hàng đầu của bộ ngoại giao Mã Lai, sau chuyến đi của Hiền tới Kuala Lumpur nói với tôi: “Chúng tôi có ấn tượng Việt Nam (CS) muốn giữ khoảng cách cân bằng giữa Moscow và Bắc Kinh.” Hiền nói với các viên chức Mã Lai là “Việt Nam (CS) chống lại bá quyền của các nước lớn. Và không ai được phép dùng căn cứ hải quân Cam Ranh.” Một viên chức Mã Lai nói: “Rõ ràng đó là lời bóng gió nói tới Liên Xô. Và cũng chẳng hay ho gì mà nói việc ấy với các nước không Cọng Sản.” Mã lai cũng tìm được một điều hay, chính là Liên Xô và các nhà ngoại giao Đông Âu hết sức mong muốn tìm ra những gì mà Hiền nói về họ. Có điều khôi hài là khi bay ngang vùng trời Trường Sa trên đường bay từ Manila tới Kuala Lumpur, Hiền chẳng nói bóng gió bất cứ vấn đề gì về Trung Hoa cả. Tuy nhiên, Trung Hoa quan sát cố gắng của Việt Nam gặt hái tình bạn ở các nước Đông Nam Á trong sự im lặng khó chịu. Tân Hoa xã thường đưa tin những vấn đề quan trọng trong nội bộ và ngoại giao của Việt Nam, hoàn toàn không nói gì tới chuyến đi của Hiền. Vài ngày sau khi Hiền trở về Hà Nội, đài phát thanh Bắc Kinh phát đi một bài bình luận, lưu ý các nước ASEAN chống Liên Xô xâm nhập và bành trướng. Bài bình luận viết “Bao lâu nhân dân các nước Đông Nam Á đoàn kết như một, kiên trì chiến đấu, họ không chỉ đánh đuổi con cọp mà còn có thể thành công trong việc bảo vệ nền độc lập và cai trị của họ.” Buổi phát thanh cho thấy không còn nghi ngờ gì về điều nói tới sự xâm nhập của Liên Xô. Dù Bắc Kinh lặp đi lặp lại việc lên án Việt Nam (CS), vài người Việt Nam trực tính không che dấu việc họ đứng về phía Liên Xô chống Trung Hoa. Trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Thụy Điển Eric Pierre, hồi tháng Bảy, 45 Hoàng Tùng nói: “Hiển nhiên là có lợi cho Liên Xô và Việt Nam trong việc giảm bớt ảnh hưởng của Trung Hoa tại vùng này.” Đây là một dấu ấn mà sau này các nhà lãnh đạo Trung Hoa nhắc Hà Nội nhớ rằng Việt Nam (CS) đã “làm đau nhức nhân dân Trung Hoa” như thế nào. Mùa hè năm 1976, Trung Hoa cũng quá ưu tư về việc tranh giành quyền lực quốc tế chống lại chính sách ngoại giao của Việt Nam (CS) bằng đường lối tuyên truyền. Từ cuối 1973, bộ chính trị đảng Cọng Sản Trung Hoa chia rẽ sâu sắc: Một số đứng về phe thực tiễn của Chu Ân Lai, tìm cách loại bỏ sự đe dọa của Liên Xô bằng liên minh với Hoa Kỳ. Chống lại là nhóm cực đoan do Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn lãnh đạo. Họ chống lại cả hai siêu cường và kêu gọi một cuộc chiến đấu vũ trang toàn diện chống chủ nghĩa đế quốc. Cả hai nhóm đều tích cực ủng hộ Khmer Đỏ. Nhóm cực đoan dần dần giành ưu thế như nắm được tay Mao và sức chống cự của nhóm Chu suy yếu dần. Năm 1974-75, nhóm cực đoan thực hiện một cuộc tấn công thô bạo vào mối liên lạc với Mỹ và đã kích sự hòa dịu Liên Xô - Hoa Kỳ là nhờ vào chính sách của Chu Ân Lai. Tháng Giêng 1976, Chu Ân Lai qua đời. Đặng Tiểu Bình, cánh tay mặt của Chu bị thanh trừng vào tháng Tư năm đó. Cán cân bây giờ đạt ưu thế cho nhóm cực đoan. Hoa Quốc Phong, một người Hồ Nam lực lưỡng, là thành viên của nhóm cực đoan củng cố được ngôi vị lãnh đạo. Tuy nhiên đây không phải là chiến thắng quyết định. Rồi vào những giờ đầu tiên của ngày 9 tháng Chín, nhà trọng tài vĩ đại, Mao, biến mất khỏi chính trường. Bất thần số phận Trung Hoa cân bằng, cũng như cảnh ngộ của Trung Hoa với toàn thế giới. Cùng với 900 triệu người Trung Hoa, các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới, và đặc biệt ở Moscow, Washington, Hà Nội, và Phnom Pênh, người ta hướng mắt về Bắc Kinh và chờ đợi. 46 Thái tử Norodom Sihanouk: Kẻ chiến thắng Tại ngôi nhà sang trọng trên đường Anti-Imperalism ở Bắc Kinh, thái tử Norodom Sihanouk được tin Phnom Pênh thất thủ. Một bản tin điện do một viên chức Bắc Kinh mang đến cho ông vào sáng hôm 17 tháng Tư/1975. Đồng minh của ông năm năm nay đang tiến vào thủ đô Kampuchia. Tướng Lon Nol, bệnh bại liệt, người cầm đầu cuộc đảo chánh năm 1970 lật đổ Sihanouk đã lưu vong sang Hoa Kỳ. Những tên “phản bội” hợp tác với Lon Nol, hoặc trốn chạy, hoặc đầu hàng Khmer Đỏ. Chiến tranh chấm dứt. Canh bạc thái tử chơi hồi tháng Tư/1970 với kẻ thù lâu năm Cọng sản cũng trả xong rồi. Danh dự của ông được bảo tồn. Những tướng tá và chính trị gia phản động và tham lam tiền bạc đã đổ tên ông xuống bùn nhơ sau cuộc đảo chánh, nay bị quăng vào thùng rác lịch sử. Người cha đẻ của nền độc lập Kampuchia không muốn chấm dứt sự nghiệp chính trị của mình bằng cuộc đời lưu vong của đấng quân vương. Ông ta cũng nhận biết đủ rằng chiến thắng của Khmer Đỏ cũng có nghĩa là chấm dứt vai trò của ông: Biểu tượng cho sự thống nhất và chính 47 thống cuộc kháng chiến của nhân dân Khmer. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1973, khi Khmer Đỏ không còn dùng ông ta nữa, thái tử Sihanouk nói: “Họ có thể nhổ phẹt tôi như nhổ phẹt hột anh đào. Đó là sự biểu lộ nỗi sợ hãi chính đáng để nhắm trước những điều sau này sẽ phát triễn thêm”. Khi lễ mừng chiến thắng ở Bắc Kinh đã qua và nhiều tuần lễ qua đi, chẳng có tin tức nào gọi Sihanouk trở về vùng giải phóng, Sihanouk bắt đầu lo lắng tự hỏi khi nào thì giờ phút kinh hoàng của đời ông sẽ đến. Ông ta thúc dục đại diện Khmer Đỏ ở Bắc Kinh: “Cho tôi trở về Phnom Pênh. Nếu ông không muốn Sihanouk làm quốc trưởng thì đó là quyền ông. Tôi không muốn làm quốc trưởng nhưng tôi muốn sống ở Kampuchia, không muốn làm người lưu vong.” Người đại diện cho Khmer Đỏ nói: “Vâng, ông có thể về, nhưng không phải lúc này, lúc chúng tôi đang đối đầu với nhiều khó khăn”. Họ nói với ông ta: “Ngài không liên hệ gì đến những khó khăn này”. Rõ ràng Khmer Đỏ không muốn liều lĩnh đưa ông hoàng lém lĩnh này về lại Kampuchia để ông xử dụng mánh lới của ông trước nhân dân. Trong khi ông hoàng lo lắng chờ đợi thì Khmer Đỏ tiếp tục xua đuổi và phân tán dân ra khỏi hết mọi thành phố, những người dân mà họ cho là bị “tiêm nhiễm đế quốc và phản động”. Cuộc “cách mạng huy hoàng” bắt đầu. Từ năm 1970, khi ông hoàng bị truất phế này liên minh với Khmer Đỏ, càng lúc ông càng thất vọng về vai trò của ông chỉ là một biểu tượng lãnh đạo lưu vong. Nhiều lần ông ta đòi về thăm khu du kích nhưng bị từ khước vì lý do an ninh. Ủiều làm ông hoàng 53 tuổi, nguyên là vua phật lòng nhất là sự giám sát liên tục của một người mà ông phải miễn cưỡng tiếp xúc. Đó là Ieng Sary, “người anh số 2 của Khmer Đỏ”, đại diện ở Bắc Kinh. Điều đó làm cho ông nhớ lại những “cố vấn” người Pháp, những người theo dõi từng bước chân của ông trong những năm ông làm vua bù nhìn cho thực dân Pháp ở Kampuchia. Trong chuyến viếng thăm Hà Nội năm 1973, Sihanouk suýt gây ra một sự cố ngoại giao khi ông ta tố giác Ieng Sary. Đại sứ Thụy Điển ở Hà Nội, Jean-Christophe Oberg, đến thăm ông tại nhà khách. Ông hoàng than phiền bằng giọng nói the thé: “Thưa ông đại sứ. Thằng Ieng Sary khả ố luôn luôn theo dõi tôi. Khi đi ra khỏi phòng nầy, nếu nhìn xuống chân 48 màn, ông sẽ thấy cặp chân của nó. Hắn luôn luôn đứng đó để nghe lén.” Ông đại sứ luống cuống bước ra khỏi phòng, không dám nhìn xuống chân màn. Tháng Ba/1973, Khmer Đỏ đã kiểm soát một vùng rộng lớn ở Kampuchia. Sau khi hiệp định Paris đã ký xong, ngăn cấm Mỹ ném bom ở Nam Việt Nam, đường mòn Hồ Chí Minh trở nên an toàn. Lần đầu tiên, Sihanouk được phép về thăm vùng giải phóng, trong nội địa Kampuchia. Chuyến đi ấy, dù có sự nâng đỡ tinh thần, ông ta thấy ông không còn thích hợp với Khmer Đỏ đang càng ngày càng mở rộng vùng kiểm soát của họ. Suốt trong chuyến đi, ông và vợ, bà hoàng Monique, bị các lãnh tụ Khmer Đỏ ngăn chận. Họ kiểm soát một cách chặt chẽ, không cho ông và bà hoàng tiếp xúc trực tiếp với dân chúng. Tất cả những gì ông ta thấy chỉ là những khuôn mặt dữ dằn của người dân, đang nắm tay đưa cao tỏ rõ quyết tâm, và hô vang khẩu hiệu. Chẳng có cơ hội nào như ông thường làm trước kia, nhảy xổ vào đám đông, nắm vai, cầm tay người dân đang hô to “Samdec” (cha già dân tộc) Chu Ân Lai là người bạn và cũng là người bảo vệ Sihanouk, chia xẻ với ông những mối lo lắng đối với bọn Khmer Đỏ cực đoan. Hồi đầu tháng Hai/1973, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Có khả năng Kampuchia bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Nếu điều ấy xảy ra, sẽ tạo ra nhiều khó khăn lớn hơn. (10) Với Chu, giải pháp hay nhứt là đưa Sihanouk về nắm quyền ở Kampuchia. Tuy nhiên, những cố gắng của Chu thuyết phục Hoa Kỳ để Hoa Kỳ nói với ông hoàng nên trở về bị thất bại. Cuối cùng, hai năm sau, khi Hoa Kỳ truất phế Lon Nol và yêu cầu thái tử trở về nước thì Khmer Đỏ hầu như đã hoàn toàn chiến thắng. Trưởng nhiệm sở liên lạc của Hoa Kỳ ở Bắc Kinh, George Bush, qua đại sứ Pháp, yêu cầu Sihanouk trở về lãnh đạo chính phủ trung lập ở Kampuchia. Ngày 11 tháng Tư, Hoa Kỳ đưa ra lời đề nghị chính thức, để Sihanouk trở về Phnom Pênh trên một chuyến bay của Trung Hoa và nắm quyền lãnh đạo đất nước. An ninh cho cá nhân Sihanouk được bảo đảm. Nhưng khi đó thì Khmer Đỏ đã ở ngoại ô thành phố Phnom Pênh. Ngay cả Chu Ân Lai cũng không đồng ý kế hoạch nầy. Sáng ngày 12 tháng Tư, đề nghị của Hoa Kỳ bị bác bỏ. Trong mấy tiếng đồng hồ, cuộc hành quân Phượng hoàng với 49 chừng hai chục trực thăng của Hải quân Hoa Kỳ di tản các viên chức Mỹ với những người hợp tác với họ ở Phnom Pênh. Canh bạc đã qua. Nhớ lại việc nầy, Sihanouk nói với tôi: “Đúng là quá trễ.” Không giống năm 1953, khi ông ta giành độc lập cho Kampuchia từ tay người Pháp, Sihanouk không còn ở vị thế quyết định thời gian và phương cách hoạt động nữa. Tất cả sự khôn khéo mà ông ta học được trong ba mươi bốn năm trên ngai vàng tuồng như vô dụng. Năm 1941, Pháp chọn Sihanouk, 19 tuổi, hậu duệ dòng Norodom của hoàng gia, mà không chọn người bên dòng Sisowath đối lập vì Pháp tin rằng ông ta khéo léo hơn. Bà Decoux, vợ toàn quyền Pháp ở Đông Dương giải thích khi nhìn cậu học trò nhỏ: “Vì anh ta dễ thương, cậu nhỏ ấy”. Sihanouk được ông bà Toàn quyền mời dùng cơm trưa tại dinh Norodom ở Saigon. Chẳng bao lâu ông hoàng tay chơi này ưa thích chính trị và bắt đầu vui hưởng ngôi báu. Ông ta khéo léo lèo lái các đảng phái chính trị đòi Pháp trả quyền tự do và ông tự tạo cho mình vị thế người quốc gia. Từ một ông vua bù nhìn, ông trở thành người đứng đầu đòi độc lập cho Kampuchia. Trước mặt tổng thống Pháp Vincent Auriol và ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles, ông ta nói rằng độc lập là vũ khí để chống Cọng sản, những người đang giương cao ngọn cờ chống thực dân. Ông ta xử dụng báo chí quốc tế và làm điệu bộ rất kịch như là tự nguyện lưu vong khỏi Kampuchia, gây khó khăn cho Pháp, giành được sự ủng hộ của Pháp cho ngôi vị mình. Cuối cùng, tháng 11 năm 1953, Pháp nhượng quyền độc lập để tăng cường sức mạnh chống Hồ Chí Minh, lãnh tụ Việt Minh. Trong suốt 17 năm lèo lái Kampuchia, ông hoàng đã cai trị đất nước ông với đầy đủ lưong tri nhất. Nhằm mục đích thực hiện toàn bộ quyền hạn của một người đứng đầu đất nước hơn là một vị quốc vương theo định chế, Sihanouk nhường ngôi cho vua cha năm 1960. Từ những bài viết trên báo cho tới những chương trình thủy lợi hay thiết lập những trung tâm y tế hương thôn, chẳng có việc nào nằm ngoài sự chăm chú của ông. Ông tự xưng là hữu phái hoặc cộng hòa, đối nghịch với Khmer Xanh hay tả phái Khmer Đỏ, cả hai đều bị lên án là những phần tử trung thành với những phần 50 đất cũ của Kampuchia. Ông nhẫn tâm đánh đuổi Khmer Đỏ nhưng cũng cố gắng để họ hợp tác trong chính quyền của ông. Hồi đầu thập niên 1960, những lãnh tụ Khmer Đỏ như Khiêu Samphan, Hou-Youn và Hu-Nim là các bộ trưởng trong chính phủ ông. Bên trong, ông cố hướng ngọn gió tả phái qua phía “Chủ nghĩa Xã Hội Phật giáo” nhãn hiệu từ bên ngoài gán cho, có tiếng là độc đoán và quá đồi bại vì thiếu những phần tử tốt và nhiều bọn theo đuôi. Bên ngoài, cố gắng của ông là nhằm duy trì nền độc lập và toàn vẹn của Kampuchia bằng hành động yếu ớt giữ cân bằng giữa các thế lực quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh Việt Nam gia tăng cường độ và những khó khăn nội bộ Kampuchia cũng gia tăng thì những viên chức cao cấp của Sihanouk bị giựt giây lật đổ ông. Nhằm mục đích giúp đỡ Bắc Việt Nam, những người theo Sihanouk thấy trước rằng cuối cùng Hà Nội sẽ thắng và sẽ là một quốc gia hùng mạnh ở Đông Dương, ông đổi hướng trung lập, dành cho Hà Nội một vùng đất thánh dọc theo biên giới, và vận chuyển vũ khí qua những hải cảng ở Kampuchia. Những biến động do thối nát, điều hành sai lạc, và thiếu viện trợ Mỹ tạo nên nhiều bất mãn chính trị. Giận dữ vì sự hiện diện của người Việt làm bùng thêm ngọn lửa đang cháy, với sự ủng hộ ngấm ngầm của Mỹ, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk khi ông này trên đường từ Moscow về nước sau khi chữa bệnh ở Pháp. Do Việt Nam (BV) và Trung Hoa thúc đẩy, ông để danh nghĩa ông cho kháng chiến quân Kampuchia và cư trú tại Bắc Kinh. Mùa hè năm 1975, ông ngạc nhiên tự hỏi không biết bao lâu nữa thì Bắc Kinh sẽ trở thành nơi cư trú thường trực của ông. Không có tiền chuyển lậu ra ngoại quốc, không giống như những nhà cai trị bị lật đổ khác, Sihanouk không có cách nào khác là đành phải nhờ vào sự giúp đỡ của hai nước Trung Hoa và Bắc Triều Tiên bạn hữu. Mao và Chu nói với ông muốn ở đây bao lâu cũng được. Chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Nhật Thành ra lệnh xây một lâu đài vĩ đại nhìn xuống hồ Chhang Sou On ở Bình Nhưỡng cho ông cư ngụ. Tháng 9/1975, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng thì phó Thủ tướng Chính phủ Liên hiệp Quốc gia Kampuchia (chính phủ lưu vong do Sihanouk thành lập có sự hợp tác của Khmer Đỏ, viết tắt theo thiếng Pháp là GRUNK -Royal Government National 51 Union of Kampuchia-) Khiêu Samphan và Bộ trưởng thông tin Ieng Thirith (vợ của Ieng Sary) đến mời. Sihanouk nhớ lại Khiêu Samphan nói với ông: “Nay chúng tôi hết sức sẵn sàng đón chào Ngài. Bây giờ chúng tôi tạo đủ điều kiện trăm phần trăm Cọng sản. Chúng tôi đã vượt qua Trung Hoa anh em. Với một bước nhảy vọt vĩ đại, chúng tôi có thể đạt tới mục đích của chủ nghĩa Cọng sản mà không cần kinh qua giai đoạn xã hội chủ nghĩa”. Điều ấy làm ông hết sức bối rối nhưng ông vẫn hồi hộp về việc trở về nước. Họ cùng về Bắc Kinh bằng tàu lửa. Ở đây, một chiếc Boeing 707 của Trung Hoa đưa họ về Phnom Pênh. Trước khi rời Bắc Kinh, Sihanouk và Monique có Khiêu Samphan đi kèm, đến cáo biệt chủ tịch Mao và thủ tướng Chu. Run rẩy vì bịnh Parkinson, Mao, 82 tuổi, không nói được nhiều. Tuy nhiên, một trong những lời chỉ dẫn của ông sau đây là rõ ràng. Ông ta nói với Khiêu Samphan và Ieng Thirith “Xin vui lòng đừng đưa thái tử Sihanouk và vợ ông vào hợp tác xã.” Với Sihanouk, lời nói nầy chính là lời cứu mạng. Bị bịnh ung thư tới thời kỳ chót, Chu chỉ còn là cái bóng của mình. Với giọng nói yếu ớt chỉ đủ nghe, ông năn nỉ Khiêu Samphan “Vui lòng tiến lên Cọng sản chủ nghĩa chầm chậm, từng bước một. Bạn không thể tiến ngay lên Cọng sản Chủ nghĩa, phải từng bước một. Xin vui lòng đi từng bước nhỏ, chậm và chắc.” Xúc động hơn là lời khuyến cáo tiên liệu của ông: “Đừng đi theo con đường “Bước Nhảy Vọt vĩ đại” đã thất bại của chúng tôi.” Ông ta nhắc lại những chiến dịch ão tưởng của Trung Hoa nhằm khẩn trương xây dựng Cọng sản chủ nghĩa hồi cuối thập niên 1950 đã để lại một nền kinh tế như trong lò sát sinh. Samphan và Thirith cười một cách thông cảm. Nghe nhiều khoa trương việc đang xây dựng một chế độ Cọng Sản thuần túy cho Kampuchia, Sihanouk hiểu ngay những nụ cười ấy nói lên được gì. Ngày 9 tháng Chín lại một lần lễ lớn. Thiên An Môn được trang hoàng cờ, đèn, hoa, chúc mừng Sihanouk điều mà Đặng Tiểu Bình nói về Sihanouk trước kia “Trở về trong vinh quang.” Khi chiếc máy bay Boeing của Trung Hoa nhắm hướng hạ cánh xuống phi trường Pochentong của Phnom Pênh, Sihanouk nhìn xuống những mái ngói đỏ và cột tháp vàng của thành phố nằm dài bên 52 đưới. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng giêng 1970 ông lại đưa mắt nhìn xuống thủ đô đã quay lưng lại với ông. Phnom Pênh trong lạ hẵn và không có sự sống dưới hơi nóng mặt trời giữa buổi sáng mai. So với mười ngàn người đứng chật đường phố Bắc Kinh để chào từ biệt ông hoàng, ở đây chỉ có một đám đông hỗn tạp ở phi đạo Pochentong. Một nhúm các ông sãi áo vàng nghệ cũng đứng trong đám đông cầu nguyện cho ông trước khi ông lên xe đi vào thành phố vắng tanh. Đó là sự nhượng bộ cuối cùng mà ông đã chứng kiến dưới chế độ Khmer Đỏ ở Kampuchia. Sihanouk muốn khóc khi nhìn thành phố ma quái mà một thời được coi là thành phố đẹp nhất của Đông Dương thuộc Pháp. Những đại lộ với hai hàng cây xanh, công quán, những biệt thự theo kiểu nhiệt đới Nam Mỹ, tháp vàng, lâu đài hoàng gia và chùa chiền vẫn còn đây, trong màu tang tóc. Khmer Đỏ giải thích với ông hoàng việc xua dân ra khỏi thành phố là cần thiết vì không có đủ lương thực nuôi dân và cũng vì vấn đề an ninh. Họ không nói với ông hoàng đó là bước đại nhảy vọt tiến lên Cọng sản Chủ nghĩa. Trong việc xua đuổi hàng loạt dân chúng hồi tháng Tư, có ông chú già của Sihanouk, ông hoàng Monireth và một trong những bà cô của ông cũng bị đuổi về vùng quê. Lời yêu cầu của ông được đi thăm những người ấy bị từ khước. Họ trả lời với ông “Họ được chăm sóc cẩn thận. Ngài sẽ được thăm họ khi Ngài từ Nữu Ước trở lại.” Tuy nhiên, không bao giờ ông gặp lại họ. Kế hoạch của Khmer Đỏ trong chuyến đi ba tuần lễ ở Phnom Pênh là tạo niềm tin đối với sự lãnh đạo của ông trước khi họ gởi ông đi Nữu Ước để đòi chiếc ghế cho Kampuchia tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc. Sihanouk và tùy tùng được đưa đi thuyền trên sông Mékông, tiệc tùng sang trọng, các buổi hội tối có tính cách mạng nhưng không bao giờ ông gặp những người dân đã biến mất khỏi Phnom Pênh. Chẳng bao lâu Sihanouk biết những gì Khmer đỏ nghĩ về những lời khuyến cáo của Chu Ân Lai là từng bước chầm chậm tiến lên Xã hội Chủ nghĩa. Son Sen, tư lệnh Quân đội, và Khiêu Samphan nói với ông Kampuchia sẽ chứng tỏ cho thế giới biết rằng chỉ trong một nhát chỗi lớn họ đã tiến lên Cọng sản Chủ nghĩa hoàn toàn. “Vì vậy tên tuổi đất nước chúng ta sẽ được viết bằng 53 chữ vàng trong lịch sử thế giới như là một quốc gia đầu tiên thành công trong việc cọng sản hóa mà không có bước chân nào là vô ích.” Sau khi trở về Bắc Kinh hồi đầu tháng Mười, ông ta để cho những người trong gia đình và những người theo ông tùy ý lựa chọn. Ông ta, vì là người yêu nước và người đứng đầu quốc gia, sẽ về lại Kampuchia sau khi đại diện cho nước ông ở Liên Hợp Quốc, còn họ muốn ở đâu thì tùy. Một số phụ tá của ông vì xúc động trước cảnh Phnom Pênh nên không dám trở về. Họ đi Pháp. Trên đường đi, Sihanouk ghé qua Pháp. Một số đông người Kampuchia đến chào mừng ông tại phi trường Charles De Gaulle. Sau đó, một số trong bọn họ tới tư dinh của đại sứ Kampuchia ở Paris để nghe ông hoàng lần đầu tiên nói chuyện về sự sinh sống của người dân dưới chế độ Khmer Đỏ. Họ ngạc nhiên vì ông hoàng vốn thường sôi nỗi thì bây giờ lại thận trọng. Một người hỏi ông về những binh lính của Lon Nol bây giờ ra sao! Ông ta trả lời là Angkar (tổ chức Cọng sản rất quyền lực) cho mỗi người một chiếc chiếu, một cái mùng và đưa họ đi trồng lúa. Ông ta nói thêm họ có được những gì họ cần. Ngồi sát cạnh ông, Ieng Sary chỉ cười và những lãnh tụ Khmer Đỏ khác gật đầu tán thưởng. Không có một người bạn cũ nào của Sihanouk có thể vượt qua được mạng lưới an ninh để gặp riêng ông. Sihanouk có thể thấy trước điều gì đang đến. Nhưng vì lòng tự cao, những tình cảm bắt buộc, có thể kêu gọi ông bỏ đi rất nhiều. Tháng 12/1975, ông cùng vợ, bà Monique, mẹ vợ, 22 đứa con và cháu, lên đường trở về Kampuchia. 54 Tơ tằm và chuột Vào một thời điểm thích hợp nhất, Hà Nội là thành phố trông có vẽ trầm tư. Với cái lạnh thấu xương, những người dân thiếu mặc thường ở trong nhà. Qua những hàng cây dài, thành phố già nua này trông vắng vẻ và buồn. Người đi bộ chầm chậm, cong lưng trên xe đạp, choàng khăn quanh cổ chống gió lạnh, áo choàng ngoài bằng vải sợi trơn hay áo có nút kéo che lấy thân thể. Tôi lúng túng khi tiếp cận với sư giao thông run rẩy và lặng lẽ ấy của người Hà Nội khi tôi mặc một cái áo ngoài nhồi bông tốt và mang găng tay, cởi chiếc xe đạp Raleigh bóng loáng mượn của một nhà ngoại giao. Nếu tôi ngồi trong xe hơi, người ta không thể thấy lối ăn mặc nổi bật như vậy. Tôi không cần đến một chiếc Volga màu xám thuê ở một văn phòng du lịch Hà Nội, cần cho những cuộc thăm viếng chính thức. Tôi gởi trả cho bộ Ngoại giao (VN) bản hướng dẫn, nói rằng tôi chẳng có hẹn với ai chiều hôm đó. Cuộc hẹn kín đáo của tôi là vào hôm 23 tháng Mười một/1977 với một người mà bộ Ngoại giao chẳng mấy ưa. Chiều hôm ấy có gió, trời không sáng lắm, tôi lẽn ra cổng sau khách sạn Thống Nhất rồi nhắm tới tòa đại sứ Kampuchia. Việt 55 Nam và Kampuchia vẫn còn lịch sự chúc mừng nhau vào các dịp lễ lạc, nhưng quan hệ thì đã suy thoái nhiều. Chuyến đi Bắc Kinh của Pol Pốt hồi tháng Mười và những cuộc tấn công chống Việt Nam (CS) được bật mí chút ít là những xác nhận công khai đầu tiên về cuộc khủng hoảng. Trong chuyến đi có ghé thủ đô Vạn Tượng của Lào trên đường đi Hà Nội, lần đầu tiên tôi nghe một nhà ngoại giao Việt Nam nói về những cuộc tấn công tàn bạo vào Việt Nam của Khmer Đỏ trong mấy tháng vừa qua. Do đó, tôi cũng nghe loáng thoáng phía Khmer Đỏ nói ngược lại về cuộc xung đột này. Một nhà ngoại giao người Mễ Tây Cơ thân với Khmer Đỏ xếp đặt cho tôi được gặp In Sivouth, cố vấn chính trị của tòa đại sứ Kampuchia. Từ xa, người ta có thể nhìn thấy ngọn cờ đỏ như máu của tòa đại sứ bay lượn trong gió, phản chiếu trên màu đá đen của nhà công quán xây theo kiểu thuộc địa. Tất cả các cửa sổ đóng kín mít. Chẳng có dấu hiệu nào chứng tỏ có sự sống trong đó ngoại trừ một người cảnh sát Việt Nam áo quần màu rơm, mũ xám đứng gác ở cổng ra vào. Anh ta thấy tôi khi tôi xuống xe đạp đi thẳng vào cổng. Công việc anh ta, giống như ở bất cứ ở tòa đại sứ nào khác ở đây, là đuổi người Việt Nam xa ra. Dù đi xe đạp, rõ ràng tôi là người ngoại quốc, vì vậy, chẳng bỏ công để anh ta chú ý tới. Sau khi tôi bấm chuông một lúc, cánh cửa gỗ tòa đại sứ cẩn thận hé ra một chút. Qua khoảng cửa, một cặp mắt ló ra. Có tiếng nói gần như thầm thì: “Ông Chanda?” Cánh cửa hé ra cho tôi lọt vào rồi đóng lại ngay sau lưng. Vừa đủ quen mắt với hành lang tối, tôi thấy In Sivouth. Bên trong tòa đại sứ trời đã tối rồi, ngọn đèn treo trên trần nhà vẽ ra một khoảng ánh sáng trong văn phòng ông ta, tất cả các cửa sổ đều đóng và buông màn. Sivouth, nhỏ người, hơi còm với cái tuổi trên bốn mươi một chút, cười nhút nhát. Bằng một thứ tiếng Pháp trơn tru, ông ta nói: “Đây là tất cả cái cần thiết để ngăn Việt Nam khỏi nghe lén được.” Sivouth có vẽ hơi không giống Khmer Đỏ. Ông ta chưa bao giờ ở trong mật khu. Khi còn là sinh viên ở Paris, ông theo Cọng sản và gia nhập tổ chức Khmer Đỏ. Trong những năm dài ở Paris, ông học hỏi khá nhiều về CIA và khả năng của họ. Từ xa, họ có thể nghe lén được câu chuyện bằng những dụng cụ gắn vào cửa sổ. Ông ta chắc chắn rằng người Việt Nam độc ác có khả năng như thế để “thuỗng” những dụng cụ 56 điện tử ấy vào trong tòa đại sứ Kampuchia. Mặc bộ đồ đen theo kiểu Mao, Sivouth ngồi ưỡn trên cái đivăng rộng thì thào với tôi câu chuyện Việt Nam “phản bội” Kampuchia. Sivouth kể lại, với nụ cười chua chát: “Hồi năm 1973, khi Việt Nam (CS) ký hiệp định Paris với Mỹ, họ cố gắng ép chúng tôi thương thuyết với Lon Nol. Thái tử đã chống lại lời khuyến cáo ấy... Việt Nam thỏa thuận với Mỹ, trong thời gian 5 tháng rưởi, những B-52 trước kia bỏ bom ở Việt Nam nay được gởi tới nghiền nát Kampuchia.” Trước khi được chỉ định tới Hà Nội, Sivouth đã hoạt động vài năm ở Bắc Kinh trong tòa đại sứ của chính phủ Liên hiệp Quốc gia Kampuchia. Sau khi Khmer đỏ chiến thắng, ông ta không có cơ may trở về Phnom Pênh với vợ con. Ông ta cũng nhìn nhận rằng đã một năm rưởi nay, không được tin tức của vợ. Điều ông ta biết những gì đang xảy ra ở Kampuchia làm cho ông ta nói với tôi với vẽ lo lắng, đặc biệt là tin nghe từ đài phát thanh Phnom Pênh. Tuy nhiên, dù thiếu dữ kiện ông ta vẫn tin vì ông có lòng tin vô bờ đối với công lý cách mạng Kampuchia. Bằng việc đuổi dân ra khỏi thành phố, bắt mọi người phải làm việc ngoài ruộng, Angkar gặp nhiều khó khăn nhưng đó là con đường thuần túy mình tự tin vào mình. Ông ta nói với giọng cười miệt thị: “Việt Nam không còn khống chế chúng tôi được nữa. Kampuchia không phải là Lào.” Ông ta cho rằng thỏa ước thân hữu Lào-Việt Nam ký hồi tháng Bảy là bước đầu tiến tới thực dân hóa Lào. Ông ta hỏi tôi: “Ông muốn thấy chuyện gì xảy ra không?” Rồi ông ta vói lấy tờ nhật báo Lào khổ nhỏ ở góc bàn. Bằng cớ là hình ảnh những nông dân Lào trồng lại giống lúa. “Người Việt Nam đã lấy hết ruộng lúa của Lào.” Sivouth vừa nói, vừa chỉ vào một người trong bức hình đang đội cái nón lá kiểu nông dân Việt Nam hay đội. Sự thực cái nón lá đáng lưu ý nhưng đó không hẵn là lối trang phục đặc biệt của nông dân Việt Nam đáng cho ông ta quan tâm. Còn hơn điều ông quan tâm nữa kia: dự tính của Việt Nam với Đông Dương là một thực tế tự nó đã rõ ràng. Chỉ một cái nón lá giữa những nông dân Lào do ông ta thấy trong bức hình chỉ là một chứng cớ cần thiết dành cho những người ngoại quốc bi quan mà thôi. Sau một lúc thảo luận toàn bộ và đưa ra chứng cớ về Việt Nam “tham lam” và “xảo trá” pha trộn vào lòng tin chắc chắc tính 57 “độc ác” của Việt Nam và những xung đột không tránh khỏi trong cuộc đấu tranh sinh tồn, bức tranh Sivouth vẽ ra chiều hôm ấy khi ông ta ngồi trong căn phòng tối là điều nhắc nhở chắc chắn về những sự kiện nhỏ nhặt đã thay đổi. Bên trong cái võ lịch sự và những bài thuyết giảng hay ho về chủ nghĩa Mác, hiện nguyên hình tâm hồn một người Khmer chìm đắm tromg hồi ức đắng cay của lịch sử và những định kiến về chủng tộc. Từ bảo vệ đất nước tới Liên bang Nguồn gốc của sự kình địch giữa người Khmer và người Việt Nam nằm trong khoảng thời gian một ngàn năm hai bên tiếp xúc với nhau. Ba trăm năm cuối của sự tiếp xúc đó là những cuộc chiến khi nước Việt Nam bành trướng thêm còn phía Kampuchia thì thu nhỏ lại. Nam tiến - là con đường người Việt tiến về phương Nam -là hướng phát triển chính của lịch sử Việt Nam sau khi họ thoát khỏi ách đô hộ của người Tàu vào thế kỷ thứ 10. Một học giả Pháp lưu ý rằng “Lịch sử Việt Nam phát triển ra toàn cõi Đông Dương như một ngọn triều, xua đuổi các dân tộc khác khi họ chiếm ruộng nương ở vùng đất thấp hay nơi họ có thể trồng lúa được”.(1) Tại châu thổ sông Hồng Hà, vùng đất trung tâm của Việt Nam -vì áp lực dân số cao, ở sát Trung Hoa, và sự bất ổn về chính trị, đưa tới các cuộc di dân tìm vùng đất mới. (2) Con đường Nam tiến này quyết định do yếu tố quyền lực và địa lý: phía Bắc là Trung Hoa khổng lồ, phía Tây là rặng Trường Sơn cao ngất, và phía Đông là Nam Hải (Đông Hải -nd). Con đường Nam tiến của người Việt Nam kéo dài hàng mấy thế kỷ, bao gồm cả việc chinh phục không những chỉ vùng đất xa mà cả những dân tộc khác. Trước hết, Chiêm Thành rơi vào tay Việt Nam. Dân tộc này trước theo Ấn giáo (sau đó theo Hồi giáo), là một dân tộc nhỏ, giống như các dân tộc khác ở Đông Dương. Vương quốc của họ, một thời là thù địch Việt Nam. Qua nhiều trận 58 chiến, Việt Nam toàn thắng và thu nhận đất Chiêm vào Việt Nam. Bằng những đợt di dân chậm và chắc, Việt Nam quét sạch vương quốc này trên bản đồ vào hồi cuối thế kỷ 17. Đa số người Chàm bị giết, bị xua đuổi hoặc bị đồng hóa, đến nổi, ở thế kỷ 11 có khoảng 30 ngàn gia đình (khoảng 240 đến 300 ngàn dân) chỉ còn lại khoảng 65 ngàn dân ở trong vùng đất Việt Nam hiện nay.(3) Hàng ngàn người chạy trốn qua Kampuchia và cuối cùng bị Pol Pot tàn sát vì tôn giáo. Ngay trước khi đế quốc Việt Nam tiêu diệt toàn bộ Chiêm Thành, di dân người Việt đã bắt đầu dựng làng trong vùng đồi cao của Kampuchia, bây giờ thuộc vùng Biên Hòa, Bà Rịa. Sự kiệt quệ của nhân dân Khmer vì cai trị sai lầm và suy thoái lâu dài của đế chế Khmer, -một thời mở rộng từ bán đảo Mã Lai tới miền trung nước Lào-, cùng với sự bành trướng của Việt Nam đang đà vươn lên; sự chống đối bè phái thường xuyên trong nội bộ triều đình Khmer, cùng với những cố gắng của Xiêm La (Thái Lan, lân bang hùng mạnh và bành trướng của Kampuchia), thành lập một chư hầu ở Kampuchia, tạo những cơ hội lý tưởng cho Việt Nam can thiệp vào nước nầy. Những can thiệp như thế, hoặc để bảo vệ một người cầm quyền yếu thế, hoặc đưa một người lên ngôi vua, là tạo ra cơ hội nhượng thêm đất đai cho Việt Nam. Vào thế kỷ thứ 18, chiến thuật được mô tả một cách tổng quát về việc dần dần chiếm đất của Kampuchia dưới danh nghĩa bảo vệ ngai vàng là “tằm ăn dâu.” Việt Nam có tham vọng to lớn với kế hoạch tằm ăn dâu, và trong tiến trình một trăm năm (1650-1750) toàn bộ lưu vực sông Vàm Cỏ và đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm cả ngôi làng đánh cá của người Khmer Prey Nokor (sau này là Saigon) trở thành lãnh thổ Việt Nam. Việc chiếm hết vùng đất màu mỡ phía Nam, giữ gìn phần đất này chống lại Thái Lan, trở thành mối quan tâm chính của các hoàng đế Việt Nam ở Huế. Khi Kampuchia trở thành con đường cho quân Thái Lan tiến tới Saigon, người Việt Nam khéo léo biến vùng này thành một nước bảo hộ. Hoàng đế Minh Mạng viết năm 1831: “Chân Lạp (Kampuchia) là phiên ly của chúng ta, không thể để nó sụp đổ được.(5) 59 Năm 1833-34, tiếp sau những cố gắng không thành của Thái lan để đưa Kampuchia trở lại dưới quyền kiểm soát của họ, Việt Nam khởi đầu một cuộc tiến công vô hạn, có thể dẫn tới việc làm biến mất hoàn toàn nước Kampuchia. Các đồn binh được xây dựng khắp nước và một doanh trại đóng ngay Phnom Pênh. Nền độc lập của Kampuchia là ở trong “Trấn Tây Thành” của Việt Nam. Vua Minh Mạng đưa ra nhiều chương trình mạnh mẽ để đưa người Khmer còn “mọi rợ” về với thế giới văn minh. Các thầy giáo được gởi tới Kampuchia để giáo dục về cách sống theo “đường lối Khổng Mạnh” cho quan chức Kampuchia. Hoàng đế Việt Nam còn áp đặt lối ăn mặc, tóc tai, quần áo theo kiểu Việt Nam cho người Khmer, một hệ thống thuế khóa theo Việt Nam và ngay cả việc bắt nông dân trồng lúa như ở Việt Nam. Ai không tuân sẽ bị trừng phạt nặng. Vì uất hận, một số cuộc nổi dậy xảy ra. Sự cai trị hà khắc và lao động khổ sai gây nên một cuộc nổi loạn hồi đầu năm 1820 do một nhà sư tên Kai lãnh đạo. Họ tàn sát những người Việt sinh sống ở biên giới phía đông Kampuchia trước khi họ bị đè bẹp bằng một lực lượng mạnh hơn do Tổng trấn phía Nam (Gia Định Thành -nd) phái tới.(6) Cuộc khởi loạn nghiêm trọng nhất xảy ra năm 1840 vì việc bắt giữ các quan chức hàng đầu Kampuchia và dẫn độ bà hoàng đang cai trị qua Việt Nam. Người Khmer sợ nền độc lập của họ không còn nữa. Năm 1840, một viên quan lớn của Kampuchia tên là Prom viết: “Chúng tôi thấy sung sướng khi giết người Việt, chúng tôi không còn sợ họ nữa tuy họ mạnh hơn.” Ông ta nói với đồ đệ hễ tìm được người Việt Nam thì giết “từ vùng phía bắc cho tới biên giới phía nam”. Trong một bức thư gởi cho quan chức Thái, ông ta thông báo: “Tôi đề nghị tiếp tục giết người Việt Nam.” (7) Đó là bản tuyên ngôn được truyền đời từ Prom cho đến người cai trị sau này ở Kampuchia: Pol Pot. Ký ức về những cuộc khởi nghĩa của người Khmer hồi đầu thế kỷ 19 và vô số cuộc đàn áp tàn bạo vẫn còn ghi lại trong niên sử và tập tục của người Kampuchia. Những bà mẹ Kampuchia thường dọa trẻ em bằng cách: “Mày đi chơi xa trong bụi, Yuon nó bắt mày.” (Yuon, tiếng Khmer với ác ý có nghĩa là dã man, tức là Việt Nam-nd). Kinh Vĩnh Tế, con kinh dài 25 dặm nối liền vịnh Thái Lan với sông Vĩnh Tế được đào năm 1820, do Việt Nam xử 60 dụng lao công Khmer, vẫn còn là một vết thương sống động trong ký ức người Kampuchia. Tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần trước và sau thời Pol Pot nói về việc ba người Khmer bị trừng phạt vì không làm đủ chỉ tiêu đào kinh. Người Việt Nam chôn những người Khmer xấu số tới cổ mà thôi, còn đầu thì dùng để làm ông táo nấu nước sôi. Khi nạn nhân giãy giụa vì đau đớn và lắc đổ nước trong ấm thì người Việt Nam cảnh cáo: “Không được làm đổ nước trà của quan lớn.” Câu chuyện này về sau trở thành một phần trong chính sách tuyên truyền của Khmer Đỏ mà người kể cố làm gia tăng sự “thù hận cách mạng” đối với kẻ thù Việt Nam.(8) Những tình cảm thù địch chủng tộc và những định kiến của người Khmer đối với người Việt không có sự tương phản. Một ngàn năm Bắc thuộc đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong tư duy người Việt Nam. Người Việt tự thấy mình giống như một Trung Hoa nhỏ mà những dân tộc còn bán khai bao quanh. Về mặt chính thức tuy không còn xử dụng nữa, người Việt Nam vẫn thường gọi theo cách Trung Hoa là Cao Miên, - hay dân mọi rợ vùng cao nguyên. Nó cũng có nghĩa là người Kampuchia. Có lẽ ngày nay nhiều người không rõ nguồn gốc Trung Hoa của danh từ này, cho rằng đó là cách gọi người Khmer theo cách phát âm tiếng Việt. Dưới triều đại nhà Nguyễn, các vị hoàng đế Việt Nam thống nhất và hùng cường, cho rằng do mệnh Trời, họ phải đem ánh sáng văn minh đến vương quốc nhỏ yếu chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Coi thường người Khmer không đủ khả năng đồng hóa văn hóa Hoa Việt, một hoàng đế Việt Nam mô tả người Khmer là “khỉ trong rào và chim trong lồng”. Năm 1840, vua Minh Mạng lo lắng vì những cuộc nổi dậy của người Khmer chống lại các phái bộ văn hóa Việt Nam. Xúc động vì hành vi của người Khmer, xem như kẻ phản phúc, nhà vua ra lệnh cho người chỉ huy của ông ở Kampuchia “Chúng ta giúp họ khi họ khốn khổ, kéo họ ra khỏi bùn nhơ... Nay họ khởi loạn. Trẫm giận đến dựng tóc... Hãy dùng gươm giáo mà trừng trị chúng, chặt đầu chúng nó đi, tán phát chúng nó đi.” Có người Việt Nam khác cho rằng cuộc nổi loạn năm 1840 biểu thị sự thất bại chiến thuật đánh và rút của du kích Khmer, những kẻ chạy trốn như “chuột và mèo” khi phải đối đầu với những lực lượng Việt Nam ưu thế hơn.(9) 61 Trong khi người Kampuchia tiếp tục nuôi dưỡng tư tưởng truyền thống coi người Việt là kẻ xảo quyệt, những kẻ “nuốt mất đất đai của Khmer” thì người Việt Nam ngày nay chẳng có ý tưởng mạnh mẽ nào chống lại người Khmer cả. Điều ấy chẳng có gì ngạc nhiên bởi vì chính Khmer là quốc gia đã gánh chịu nhiều gian khổ nhất trong suốt thời gian dài tiếp xúc với Việt Nam. Cũng có lúc người Việt cư ngụ ở Kampuchia gánh chịu nhiều đau khổ, nhưng tuồng như không ảnh hưởng trên toàn bộ quan điểm của người Việt Nam. Tuy nhiên, trong nhiều cuộc nói chuyện với những viên chức và dân thường Việt Nam, ý thức ưu thế của họ với người Khmer trong giáo dục chính trị, tổ chức và khả năng lãnh đạo là một nhận thức rõ ràng. Vì nhân đạo, người Việt có khuynh hướng nhìn người Khmer như trẻ con cần có người dẫn dắt. Tuy nhiên, người Việt Nam vẫn thường thất bại trong việc che dấu sự nóng giận của họ với những người Khmer bất trị và giả dối và những rắc rối do họ tạo ra cho người Việt Nam. Tính chất lý thuyết và trừu tượng của ký ức quần chúng và những “ác cảm truyền thống” chẳng có ích gì về mặt chứng liệu khoa học trong việc phân tích xã hội và lịch sử. Tuy nhiên, những cảm nhận này thì lại rất rõ ràng cho bất cứ ai trãi qua một thời gian nào đó ở Kampuchia, lại không biết tới nó để hiểu rõ những biến cố mới xảy ra. Trong suốt thời gian cai trị, thái tử Sihanouk nuôi duỡng ký ức quần chúng nầy mãi tồn tại bằng cách nhắc đi nhắc lại không ngừng rằng trong lịch sử, Việt Nam lấn áp Kampuchia. Một phần thì lên án Việt Nam không thay đổi tính chất bành trướng, một phần thì vì tính chất thời trang chính trị, những nhà lãnh đạo nước Kampuchia Dân chủ chọn phương cách giải thích sự xung đột giữa hai nước không vì tính giai cấp mà lại vì chủng tộc. Trong cuốn “Sách Đen” (Black Book) do chế độ Pol Pot xuất bản hồi tháng 9/1978 -vài tháng sau khi tôi nghe lời kể lễ than phiền của In Sivouth- đường đột nói rằng: “Hành động xâm lấn và bành trướng lãnh thổ mà Việt Nam vi phạm trong quá khứ cũng như hiện nay chứng tỏ rõ tính chất thật sự của Việt Nam, và Việt Nam có nghĩa là kẻ xâm lược, bành trướng chủ nghĩa và nuốt trọn đất đai của người khác”. Cuốn sách khẳng định rằng dù dưới chế độ phong kiến, thực dân hay Cọng sản, sự cai trị cũng chỉ vậy thôi. Về sau, 62 nhóm Pol Pot còn nói thẳng rằng đảng Cọng sản Kampuchia được thành lập năm 1960 “là nhằm để chống lại Việt Nam” -Một mục tiêu khác với mục tiêu của những cha đẻ Chủ nghĩa Cọng sản. Sự thành lập chế độ bảo hộ Pháp năm 1863 đã cứu Kampuchia khỏi bị Việt Nam và Thái Lan tiêu diệt. Tuy nhiên, đối với xứ láng giềng Nam Kỳ thuộc địa (Cochin-China) -Miền Nam Việt Nam-, thực dân Pháp hoàn toàn thiếu kinh nghiệm trong việc cai trị đã đem lại cho Kampuchia nhiều bất lợi khi chính Pháp vẽ ra đường biên giới hai nước. Đường ranh này đặt căn bản trên địa lý và sự tiện lợi cho việc cai trị của người Pháp ở Nam Kỳ hơn là bối cảnh lịch sử, ngôn ngữ hoặc chủng tộc. Hậu quả việc vẽ đường ranh này khiến vùng Paksé (hiện thuộc Nam Lào), tỉnh Darlac, khu vực Sông Bé, Tây Ninh, Gò Dầu Hạ và Hà Tiên -tất cả hiện nay đều thuộc Việt Nam- là lấy từ phần đất của Kampuchia. Trong luận án tiến sĩ ấn hành năm 1966, Sarin Chhak, sau này là Bộ trưởng bộ Ngoại giao của chính phủ Liên hiệp Quốc gia Khmer năm 1970 đã nhấn mạnh tới những vùng đất bị mất này và yêu cầu Việt Nam thương thuyết để vẽ lại cho đúng biên giới. (11) Những nhà cai trị Kampuchia từ vua Ang Duong (1848-60) cho tới Pol Pot không bao giờ ngưng than phiền về việc họ bị mất đất vì Việt Nam. Trong một bức thư gởi cho hoàng đế Napoleon Đệ Tam năm 1856, vua Ang Duong thúc đẩy vua Pháp đừng chấp thuận các vùng đất đai của Kampuchia do Việt Nam chiếm cứ lúc ấy nếu như “Việt Nam không dâng đất ấy cho Hoàng đế”. Năm 1949, khi thực dân Pháp đồng ý sát nhập Nam Kỳ để thống nhất Việt Nam, Phnom Pênh đã chính thức phản đối. Ngay sau khi được độc lập trong Liên bang Đông Dương hồi năm 1954, trong mấy năm liền, Kampuchia liên tiếp đòi chính phủ Quốc Gia Việt Nam trả lại phần đất Kampuchia Krom (vùng đồng bằng sông Cử Long, một thời là Kampuchia hạ - Thủy Chận Lạp -nd) và các hòn đảo dọc theo bờ biển như Koh Tral (Phú Quốc). Tình trạng những người Khmer Krom sống ở Việt Nam vẫn còn là mối quan tâm và thỉnh thoảng chính phủ Sihanouk lại phản kháng. Việc người Việt Nam di dân đến Kampuchia phát triển nhanh dưới thời thực dân. Người Pháp cho rằng người Việt Nam là những công nhân giỏi hơn và năng động hơn người Khmer, do đó 63 trở thành phương tiện tốt cho họ khai thác kinh tế Kampuchia. Năm 1921, người Việt chiếm khoảng 7 phần trăn dân số Kampuchia. Trong khi đó, một số đông người nghèo khổ Bắc Việt Nam đến làm phu cho các đồn điền cao su Pháp ở Kampuchia (chỉ một số ít người Khmer làm công việc này mà thôi). Nhiều nông dân và ngư dân Việt Nam cũng rời Nam Việt Nam để cạnh tranh với người Kampuchia trong các vùng đất tốt và các khu vực đánh cá ở Kampuchia. Đặc biệt người Việt Nam theo đạo Thiên chúa La Mã, được các sứ bộ Pháp che chở, tước đoạt các vùng đất tốt của Kampuchia.(13) Điều này tạo nên những bất ổn đáng kể. Tuy nhiên, việc đụng chạm đến tình cảm người Khmer, đặc biệt nhất chính là phần đông các viên chức cấp thấp trong chính quyền thuộc địa Pháp lại là người Việt Nam. Trong cuộc nổi loạn chống Pháp ở Kampuchia vào các năm 1885-86, những người nổi loạn nhắc lại những cố gắng của người Việt trước kia nhằm quét sạch người Kampuchia và lên án người Pháp dùng người Việt Nam để phá vở văn hóa và xã hội Kampuchia. Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa là hai cộng đồng dân tộc nói trên bao giờ cũng đần độn. Nhiều người Việt Nam tham gia những cuộc lật đổ Pháp của người Kampuchia. Mặc dù có sự căng thẳng và không ưa nhau, hai cộng đồng nầy cùng tồn tại an lạc trong nhiều khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, những cuộc biến động hoặc các yếu tố bên ngoài bất di bất dịch đã làm cho những định kiến tiềm tàng bỗng nảy sinh thêm. Ngay cả những sự phát triển như phong trào cọng sản Quốc tế ở Kampuchia cũng không miễn trừ định kiến chủng tộc. Thực ra, con đường phong trào Cọng sản được hình thành và phát triển ở Kampuchia đã giúp đỡ nuôi dưỡng chủ nghĩa Chauvin chống Việt Nam. (Danh từ này trích từ tên một người lính Pháp, Nicolas Chauvin, y thường ngợi ca sự thành công của Napoleon đệ nhất, ngay cả sau khi Napoléon bị thua trận Waterloo hồi năm 1815. Điều anh ta thường tán dương làm cho anh ta trở thành một hiện tượng kệch cỡm. Chủ nghĩa Chauvin (Chauvinism) được coi là một quái thai của thời đại xã hội ngày nay, thường đồng minh với chủ nghĩa đế quốc họặc chủ nghĩa quân phiệt cực đoan -người dịch chú thích). 64 Ở cả Lào và Kampuchia, di dân Việt Nam cung cấp nhiều tiểu tổ cơ bản cho đảng Cọng sản Đông Dương (ICP). Ngay chính người Khmer cũng dần dần bị lôi cuốn vào nền độc lập chính trị và tới năm 1950, phong trào Khmer Issarak, (Khmer độc lập) là phong trào do đảng Cọng sản Đông Đương đẻ ra. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh biết rất rõ tình cảm chống Việt Nam của người Khmer và Lào. Đây là lý do khiến Hồ, năm 1951, quyết định chia đảng Cọng sản Đông Dương ra làm ba đảng của ba nước. Một tài liệu nội bộ của đảng Lao Động Việt Nam (VWP) giải thích việc này, nói rằng các người kế nghiệp đảng Cọng Sản Đông Dương nhận xét: “Các phần tử quốc gia Lào và Kampuchia nghi ngờ Việt Nam muốn kiểm soát cả hai nước này. Đế quốc và bù nhìn có thể đưa ra những phương cách tuyên truyền nhằm tách rời Việt Nam khỏi Lào và Kampuchia, tạo rối loạn trong dân chúng Kampuchia và Lào.”(14) Sự phân chia đảng Cọng sản Đông Dương thành ba coi như dâng một món đồ cúng cho các phần tử quốc gia đang ra sức chống lại chính sách chia để trị của thực dân Pháp. Việc lãnh đạo chính trị của phong trào Cọng sản Đông Dương vẫn nằm trong tay Hà Nội. Một bản hướng dẫn mật của đảng Cọng sản Việt Nam đưa ra hồi tháng Sáu/1952 ra lệnh cho người Việt Nam và người Trung Hoa cư trú ở Kampuchia tham gia đảng Lao động Việt Nam hơn là đảng Cách mạng Nhân dân Khmer (KPRP), vì nó “không phải là đội tiên phong của nhân dân lao động, nhưng là đảng tiên phong của quốc gia tập trung mọi phần tử yêu nước và tiến bộ của nhân dân Khmer”(15). Dù vậy, Ủy ban chấp hành lâm thời của đảng Nhân dân Cách mạng Khmer được thành lập hồi tháng Chín năm 1951 phần chính cũng là người Việt Nam -1.800 người Việt sinh ở địa phương so với 150 Khmer chính gốc. Giữa đế quốc và ông hoàng Hồi tháng Giêng/1953, Saloth Sar trở về Phnom Pênh sau ba năm ở Paris. Nhà cách mạng 25 tuổi, sau này trở thành một người nổi tiếng tàn ác dưới cái “Tên gây chiến tranh” (nom de 65 guerre): Pol Pot. Đơn của ông ta xin gia nhập đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia lúc ấy còn phôi thai được một cán bộ Việt Nam xem xét và chấp thuận. Con người lùn và mập xét đơn ấy là Phạm Văn Ba. Một cán bộ lâu năm của đảng Cọng sản Đông Dương sống ở Phnom Pênh dưới nhiều võ bọc khác nhau, ngay cả ngụy danh một nhà báo. Cuối thập niên 1950, ông ta biến mất khỏi Phnom Pênh rồi lại xuất hiện dưới danh nghĩa một nhà ngoại giao của Việt Cọng. Sau khi giữ vai trò Trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời (Miền Nam VN) ở Paris tới năm 1975, Ba trở thành đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Kampuchia thời Pol Pot. Bảy năm sau khi tôi gặp Ba tại văn phòng Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Paris, lại thấy ông ta tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng Giêng/1981. Ông ta nói một cách khoái trá trước sự ngạc nhiên của tôi, tiết lộ những điều trước khi có sự gảy đổ với Khmer đỏ: “Hồi ấy tôi là bí thư (bí mật) của văn phòng đảng Cọng sản Đông Dương ở Phnom Pênh. Pol Pot tiếp xúc với tôi, xin gia nhập đảng. Ông ta có cái thẻ đảng viên đảng Cọng sản Pháp (PCF), có tham gia chi bộ Kampuchia của đảng này trong khi theo học École de Radio-Électricité ở Paris. Tôi gởi điện cho ban tham mưu đảng ở Bắc Bộ, yêu cầu họ kiểm chứng với đảng Cọng sản Pháp. Thời gian sau tôi nhận được một bức điện mật do Hoàng Văn Hoan gởi từ Bangkok, -nơi ông Hoan đang điều hành phân bộ Việt Nam hải ngoại của đảng,- xác nhận rằng quả thật Pol Pot là đảng viên Cọng sản. Vì vậy tôi cho ông ta gia nhập đảng.” Tuy nhiên, sự giám sát trực tiếp của Việt Nam (CS) đối với đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia ngưng lại một năm sau khi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chấm dứt. Do áp lực của đại biểu Nga và Trung Hoa trong hội nghị Genève năm 1954, Cọng sản Việt Nam buộc phải chấp thuận chia cắt tạm thời Việt Nam và thỏa thuận nhường phần đất của Khmer Issrak giải phóng cho chính phủ hoàng gia Kampuchia. Không giống như kháng chiến Lào, họ được hội nghị Genève chập nhận và cho phép tập trung tại hai tỉnh phía bắc giáp giới Việt Nam và Trung Hoa (Vùng an toàn hậu phương). Phong trào Khmer Issarak bi buộc phải giải tán. Ông vua trẻ Sihanouk, người đưa ra áp lực cá nhân của ông để ngừa trước phong trào Issarak do Việt Nam (CS) hỗ trợ, đã giành phần 66 thắng tại Hội nghị Genève. Cùng với Hiệp định này, lực lượng Việt minh cùng khoảng 2 ngàn người kháng chiến Khmer, núp trong quân đội Việt Minh phải rút về Bắc Việt Nam để chờ một ngày tốt đẹp hơn. Ba giải thích: “Chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng Pháp sẽ thi hành đầy đủ Hiệp đinh Genève, vì vậy chúng tôi phải chuẩn bị.” Quả thật đó là điều thấy xa. Dù năm 1972-75 nhóm Pol Pot đã loại trừ phần lớn những người Kampuchia do Hà Nội huấn luyện, một số người sống sót mấy năm sau đã tham gia chính quyền thân Hà Nội ở Kampuchia. Trong khi một số lãnh tụ Khmer Issarak bị buộc phải rút lui, những người trẻ, được huấn luyện du kích ở ngoại quốc thì cay đắng hơn. Những phần tử Cọng sản quốc gia quá khích như Pol Pot, Ieng Sary và Son Sen, những người từ Paris về đã tố cáo Việt Nam hy sinh những thành quả do người Khmer đạt được trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, những người kháng chiến và những khuôn mặt lãnh đạo rút khỏi những phần đất rộng lớn ở Kampuchia, những người hoạt động gần gủi với Việt Minh, những người đào thoát và cả những người đã bị giết, để lại cho nhóm Pol Pot những vùng đất rộng lớn để họ phát triển khu vực chính trị của chính họ. Khi Sơn Ngọc Minh, một nhà lãnh đạo Cọng sản của phong trào Khmer Issarak chọn ở lại Hà Nội sau Hiệp định Genève, quyền lãnh đạo đảng Cọng sản Kampuchia nằm trong tay Sieu Heng. Người này phản bội. Sau vài năm hợp tác bí mật với cảnh sát, -đưa tới việc sát hại hầu hết các chi bộ Cọng sản- năm 1959, Heng đào thoát theo chính quyền Sihanouk. Tại hội nghị bí mật của đảng Cọng sản Kampuchia ở nhà ga xe lửa Phnom Pênh từ 28 đến 30 tháng 8/1960, một nhà sư theo cọng sản Tou Samouth (người này có liên hệ gần gủi với Việt Nam) được bầu làm bí thư đảng. (16) Hồi ấy Pol Pot là giáo viên ở Phnom Pênh, năm 1961 được chọn làm phó bí thư. Tháng Sáu/1962, Samouth bí mật mất dạng, Pol Pot nắm quyền bí thư đảng. Chẳng bao lâu sau, Pol Pot, em bạn rễ là Ieng Sary và Son Sen cùng những người khác trốn vào rừng bí mật tổ chức đảng. Từ đó cho đến năm 1970 mới nghe lại tin tức họ. 67 Trong suốt thời gian ấy, những dị biệt về chủng tộc, chủ nghĩa quốc gia cực đoan càng lúc càng phát triển sâu sắc giữa nhóm Pol Pot và nhómn ôn hòa muốn hợp tác với chính phủ Sihanouk để chống Mỹ và chống Việt Nam. Trong chuyến đi Hà Nội hồi tháng 3/1978, bất thần tôi được mời tới ăn một bữa cơm tối giản dị tại nhà một viên chức cao cấp. Sau nhiều năm phủ nhận không có gì nghiêm trọng xảy ra với Kampuchia, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Võ Đông Giang nói với tôi buổi tối hôm đó về sự xung đột có từ hai thập niên trước, sự chia rẽ sâu sắc giữa đảng Cọng sản Việt Nam và nhóm Pol Pot trong đảng Cọng sản Kampuchia. Theo ông ta ngay từ khi bắt đầu, Việt Nam (CS) đã đứng về phía nhóm người “điều chỉnh” trong đảng Cọng sản Kampuchia để chống lại nhóm Pol Pot. Ông ta nói tới họ bằng cách châm biếm như là bọn “Dân quân, những người chẳng có công trạng gì trong việc tham gia kháng chiến chống Pháp.” Giang nói chính sách của họ đem lại một thứ cách mạng, thứ cọng sản chính thống trẻ con bởi vì “ngọn cờ chống Mỹ vẫn do Sihanouk giương cao, tiếng tăm của ông ta trong dân chúng không ai bằng được. Do đó, người Cọng sản biết làm cách nào để dùng uy tín của ông mà chống lại đế quốc Mỹ, giành sự ủng hộ của dân chúng. Tiếng tăm trong dân chúng Kampuchia thuộc về Sihanouk, sau mới đến những người hoạt động chính trị (bên trong đảng Cọng sản Kampuchia) để đoàn kết dân chúng chống lại kẻ thù, chứ không phải Pol Pot. Chính sách thống nhất mọi lực lượng chống kẻ thù chung và kêu gọi đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương là đường lối cách mạng của chúng tôi từ trước cho tới bây giờ. Tuy nhiên, vì Pol Pot lãnh đạo đảng Cọng sản Kampuchia theo đường lối phân biệt chủng tộc, nên cách mạng gặp phải những khó khăn hồi năm 1967-69”. Giang nói khéo đến việc Sihanouk đàn áp Cọng sản. Giang nói đúng khi ông ta nhấn mạnh đến việc Sihanouk được quần chúng ủng hộ khi ông nầy lãnh đạo nhân dân Kampuchia giành độc lập. Nhưng Giang nói sai khi nhắc lại khoảng thời gian trước 1954, khi đó Việt minh và Khmer Issarak xem Sihanouk như là tên đầy tớ của Pháp. Nhắm vào chính sách chống Mỹ của Sihanouk trong thập niên 1960, Giang cũng tránh 68 không nêu lên vấn đề thái tử Sihanouk đàn áp phái hữu. Trong thập niên nầy, Việt Nam (CS) cũng khuyến cáo đảng cọng sản Kampuchia gia tăng kêu gọi từ bỏ đấu tranh giai cấp ở Kampuchia để khỏi gây rắc rối cho thái tử và có hại cho mối giao hảo giữa Sihanouk và Hà Nội. Điều Giang không muốn nói ra là Hà Nội gia tăng phương cách gìn giữ quan hệ của họ với Sihanouk đang ngọt ngào. Việc gia tăng cường độ chiến tranh sau năm 1965, quân Việt Cọng và Bắc Việt xâm nhập cần hơn bao giờ hết những vùng đất thánh ở Kampuchia và con đường tiếp tế an toàn. - một nhu cầu mà thái tử Sihanouk đang muốn chứng tỏ một cách công khai dưới chiêu bài trung lập. Mặc dù Sihanouk đối xử với Khmer Đỏ bằng bàn tay sắt, ông ta cũng tỏ lộ cảm tình với Cọng sản Việt nam. Trong khi ông ta loại trừ những tên Cọng sản địa phương, xem họ như là kẻ làm tình báo cho Hà Nội và Bắc Kinh, thì ông ta coi chiến tranh Việt Nam đúng là cuộc chiến đấu của những người quốc gia chống lại sự bất công do chính sách can thiệp của ngoại bang. Như sau này ông ta viết trong hồi ký, ông ta nhắm mắt cho Việt Nam (CS) thiết lập các căn cứ dưỡng quân, bệnh viện và trung tâm tiếp liệu trong nội địa Kampuchia. Ông ta cũng chấp thuận cho tàu bè Trung Hoa, Liên xô, Tiệp Khắc, và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác được cập bến Sihanoukville, đổ hàng xuống và từ nơi nầy được công khai vận chuyển tới biên giới Việt Nam sau khi giữ lại cho quân đội Kampuchia một phần. (17) Điều Sihanouk giúp Cọng sản Việt Nam đặt căn bản trên tính toán sáng suốt là nắm trước những thời điểm tốt đẹp với những kẻ chắc chắn sẽ chiến thắng. Sau này Sihanouk nói: “Lý do tôi quyết định hợp tác với Việt Nam (CS) là làm cho Cọng sản Việt Nam mắc Kampuchia một món nợ, để sau này họ chẳng bao giờ dám đưa tay, mở mồm chống lại đất nước và dân tộc chúng tôi là ân nhân của họ.” (18) Có lẽ Sihanouk cũng sợ Cọng sản Bắc Việt chống ông ta nếu ông ta chống lại cuộc chiến đấu của họ. Sihanouk biết trước rằng Trung Hoa và Việt Nam là những nước sẽ chế ngự Châu Á sau khi Mỹ rút quân về. Tháng 8 năm 1963, Sihanouk cẩn trọng đặt mối quan hệ ngoại giao với Nam Việt Nam và một năm sau 69 ông ta từ chối viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ cho Kampuchia. Tháng năm 1965, Sihnouk cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Thịnh Đốn -một hành động được Hà Nội và Bắc Kinh ca ngợi. Cũng năm này, tháng Sáu, Sihanouk hỗ trợ cho Mặt trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam bằng viện trợ y tế. Trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng Mười một năm 1965, ông ta tâm tình với người phỏng vấn ông rằng “Người Mỹ có thể giết 10 hay 20 triệu người Việt Nam, nhưng không chóng thì chầy họ buộc phải trả lại Việt Nam cho những người còn sống... Hoa Kỳ tự họ dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mà hậu quả thất bại sẽ không tránh được.”(19) Việt Nam (CS) biết ơn sự giúp đỡ của Sihanouk, và cũng chẳng ai lạ gì hồi mùa hè 1965, Pol Pot bí mật thăm Hà Nội trên đường đi Bắc Kinh. Hà Nội khuyên Pol Pot ủng hộ chính sách chống đế quốc của Sihanouk. Nếu đảng Cọng sản Kampuchia phát động cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền Sihanouk thì sẽ có hại cho chiến lược của Việt Nam (CS). Hà Nội không cho rằng điều này là phụ thuộc, mà coi cuộc chiến đấu của nhân dân Kampuchia có tinh cách ích kỷ, hơn là nhu cầu của Việt Nam (CS) vì họ tin rằng tình hình Kampuchia chưa đủ chín mùi để phát động đấu tranh giai cấp vũ trang. Hơn thế nữa, Hà Nội cho rằng chiến thắng ở Miền Nam Việt Nam cuối cùng sẽ tạo ra những điều kiện thành công lý tưởng cho cuộc chiến đấu chống lại chính quyền Sihanouk. Cuộc chiến đấu vũ trang bắt đầu Tuy nhiên, nhóm Pol Pot không tin những gì Việt Nam chủ trương. Thời gian 5 tháng khi Pol Pot ở lại Bắc Kinh hồi cuối năm 1965 và đầu năm 1966 -thời gian có cuộc cách mạng văn hóa chống đế quốc- chống bọn xét lại cực đoan đang diễn ra cao độ, hướng dẫn Pol Pot đi vào con đường đấu tranh vũ trang chống lại chế độ phong kiến, kẻ y đã liên minh. Ngay cả khi không có viện trợ công khai của Trung Hoa để chống Sihanouk -khi Trung Hoa càng lúc càng quan tâm tới liên minh Việt-Xô- cũng có thể ủng hộ Pol Pot theo một phương cách khác với Việt Nam (CS).(20) 70 Sau này, một cuốn “Sách Đen” nói rằng hồi năm 1966 cho thấy rõ là “có sự mâu thuẫn căn bản giữa cách mạng Kampuchia và cách mạng Việt Nam. Việt Nam muốn đặt cách mạng Kampuchia dưới sự chỉ huy của họ.” Có lẽ ý muốn nói là cách mạng Kampuchia đặt ở mức độ ưu tiên thấp hơn mức độ Việt Nam tìm kiếm trong phong trào của người Khmer. Tuy nhiên, thực ra Hà Nội không muốn hoàn toàn làm mất lòng Khmer Đỏ và cũng có lẽ muốn đưa tay ngăn cản họ. Cuối cùng, Hà Nội thỏa thuận viện trợ huấn luyện và quân sự cho nhóm Pol Pot. Một viên chức cao cấp Cọng sản Việt Nam đào thoát năm 1973 nói với các điều tra viên của Mỹ rằng hồi năm 1966 Việt Nam (CS) đã tổ chức một đơn vị gọi là P-36 để giúp đỡ Cọng sản Kampuchia. Ngay trước khi Sihanouk bị lật đổ năm 1970, P-36 báo cáo đã huấn luyện cho người Khmer và nhóm thiểu số người Việt sinh sống ở Kampuchia. (21) Cũng không rõ là đúng hay sai, bộ phận P-36 bí mật này giữ vai trò gì trong thời gian đầu của cuộc nổi dậy ở Kampuchia. Tiếp sau cuộc nổi dậy của nông dân chống lại việc chiếm đất -cuộc nổi dậy nầy được đoàn thanh niên chính thức ủng hộ- hồi tháng Ba và tháng Tư năm 1967 ở Samlaut, Pol Pot quyết định thành lập Quân đội Cách mạng để bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang chống lại chế độ Sihanouk. Ngày 17 tháng Giêng/1968, du kích Khmer Đỏ tổ chức các cuộc phục kích, bắt cóc, ám sát rời rạc lực lượng và viên chức chính phủ. Mặc dù đảng Cọng sản Việt Nam hết sức bối rối và mệt mỏi vì sự phát triển này, Sihanouk, chẳng biết gì về những rạn nứt có tính cách chiến thuật giữa hai đảng Cọng sản, liền đổ lỗi cho Hà Nội và Bắc Kinh khuyến khích cuộc xung đột. Một sử gia hàng đầu của Phong trào Cọng sản Kampuchia viết “Đảng Cọng sản Kampuchia càng thắng lợi thì càng bất lợi cho con đường tiếp vận và vùng đất thánh của Việt Nam (CS) ở trong lãnh thổ Kampuchia. Dù thế nào đi nữa, Việt Nam (CS) cũng đã cố gắng làm suy giảm cuộc đấu tranh của đảng Cọng sản Kampuchia và chắc chắn đã làm gia tăng căng thẳng và ngờ vực giữa hai đảng này.” (22) Sihanouk đáp ứng cuộc nổi dậy của nông dân bằng cách tăng cường đàn áp phái Tả, kết quả là làm cho tình hình chính trị 71 trở nên phổ quát hơn. Những nhà kinh tế tốt nghiệp ở đại học Sorbonne, Khieu Samphan và Hou Youn và những trí thức Cọng sản khác như Hu Nim, -ông này đã hoạt động lâu năm trong hệ thống chính quyền của Sihanouk-, trốn vào rừng. Mặt khác, những nhà chính trị hữu phái, các tướng lãnh, những người chống lại chính sách chống Mỹ của Sihanouk, và trong trường hợp riêng lẽ, chống lại việc khước từ viện trợ Mỹ của Sihanouk năm 1963, buộc ông ta chịu trách nhiệm về sự hiện diện các vùng đất thánh của Việt Cọng ở Kampuchia và mối đe dọa đang gia tăng của đảng Cọng sản Kampuchia. Tới năm 1968, Sihanouk thêm nghi ngờ có sự giúp đỡ của Trung Hoa. Sự quá độ của cách mạng Văn hoá Trung Hoa tạo ra xáo trộn có mức độ ở Kampuchia, làm Sihanouk giao động. Nếu Trung Hoa không còn tôn trọng người giữ ngôi vị lãnh đạo quốc gia của họ, Lưu Thiếu Kỳ, vì lý do lý thuyết, thì Sihanouk lo lắng hiểu rằng làm thế nào ông có thể bảo đảm được số phận của chính ông. (23) Sihanouk cũng lo lắng việc Việt Cọng gia tăng xử dụng lãnh thổ của Kampuchia. Quân số Mỹ gia tăng ở Việt Nam dưới thời kỳ tổng thống Lyndon Johnson khiến ông phải xét lại quan điểm của ông trước kia cho rằng sự chiến thắng của Cọng sản là không thể nào tránh được. Sihanouk không những thiết lập lại quan hệ ngoại giao với Hoa Thịnh Đốn năm 1969 mà còn vội vàng báo cho Hoa kỳ biết rằng ông ta “sẽ nhắm mắt lại” nếu Mỹ đánh bom các vùng đất thánh của Cọng sản tại nơi không có đông dân cư ở Kampuchia.(24) Việc Sihanouk bày tỏ sự nễ trọng trước sức mạnh của Mỹ chỉ nhằm giúp củng cố vị thế tướng Lon Nol và ông hoàng Sirik Matak, lãnh tụ khối đối lập Không-Cọng sản, thấy rằng điều họ chỉ trích Sihanouk là đúng hoàn toàn. Kinh tế suy sụp nghiêm trọng làm cho mọi việc thêm phức tạp. Trong tình hình căng thẳng hồi mùa xuân năm 1970, những người thuộc cánh hữu tìm được cơ hội lý tưởng để chống lại Sihanouk và sách lược của ông nầy tìm bảo đảm từ phía Việt Cọng và Bắc Việt Nam. Sự lo lắng của những người thuộc cánh hữu trùng hợp khít khao với mối quan tâm của Mỹ về việc quét sạch các vùng đất thánh trong lãnh thổ Kampuchia để đạt thắng lợi ở Nam Việt Nam. Mặc dù không có chứng cớ chắc chắn cho thấy các viên chức cao cấp Mỹ có liên hệ trực tiếp âm 72 mưu chống lại Sihanouk, Hoa Thịnh Đốn cũng biết trước âm mưu lật đổ Sihanouk và họ chẳng làm gì để ngăn chận. Trong khi Hoa Kỳ hoan hô việc Sihanouk kín đáo giúp chống lại Cọng sản Việt Nam, sự xung khắc với ông quá sức mãnh liệt khiến Hoa Kỳ phải can thiệp vào Kampuchia. Cuối cùng, một cách trung thành, nhóm chống Việt Nam (CS) và thân Mỹ chống Sihanouk ra tay. Một cựu nhân viên phân tích CIA, Frank Snepp viết rằng: “Chúng tôi xoa tay và nắm lấy cơ hội.” (25). Tại Phnom Pênh, giữa các cuộc biểu tình hỗn loạn của sinh viên chống Việt Nam (CS) và lục phá tòa đại sứ Bắc Việt, quốc hội do cánh hữu chiếm đa số đã truất phế Sihanouk (18 tháng Ba/1970), trao quyền cho thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng Lon Nol. Lúc này, Sihanouk đang trên đường Moscow về Bắc Kinh. Nơi này trở thành ngôi nhà thứ hai của ông. Cuộc đảo chánh chống Sihanouk đe dọa phe Tả ở Kampuchia cũng như vùng đất thánh và đường tiếp tế của Việt Cọng. Bằng một hành động, nhóm đảo chánh đẩy Khmer Đỏ và Cọng sản Viêt Nam trở thành một thứ liên minh khập khểnh chống lại kẻ thù chung: Chính quyền Lon Nol do Mỹ hỗ trợ. Điểm then chốt quan trọng của liên minh này là việc truất phế thái tử Sihanouk. Trong khi Khmer Đỏ cần đến tên tuổi ông ta để khoác cái áo chính danh với quốc tế và lôi kéo sự ủng hộ của nông dân trong nước thì phía Việt Nam (CS) thấy ông ta không những chỉ là cái cột trụ để chống lại Hoa Kỳ và Lon Nol mà còn là một sự bảo đảm chống lại việc cai trị của nhóm Pol Pot. Ngược lại, thái độ Trung Hoa mơ hồ hơn. Sihanouk phủ nhận lý lẽ -do Hà Nội đưa ra một cách mạnh mẽ, có thêm phân tích Tây Phương- ban đầu Trung Hoa lưỡng lự ủng hộ ông ta. Sihanouk nói: “Từ lần gặp gỡ đầu tiên (ngày 19 tháng Ba) tại nơi tôi cư trú, Chu Ân Lai và tôi đã thỏa thuận sự việc do bọn phản loạn tạo ra không bao giờ được chấp thuận và tính chất “hợp pháp” của chế độ Khmer mới này sẽ bị chống tới cùng”. Tuy nhiên, Chu đã không có cố gắng nào để thúc đẩy Sihanouk bắt tay với Khmer Đỏ. Theo Sihanouk, ông ta có mang một bức thư của chủ tịch Mao, thư nói rõ rằng: 73 “Bắc Kinh cẩn thận xem xét bất cứ quyết định nào của thái tử. Nếu ông ta muốn kết thúc sự nghiệp chính trị của ông do cuộc đảo chánh ngày hôm qua, Trung Hoa sẽ tôn trọng quyết định đó, nhưng nếu Sihanouk quyết định lãnh đạo phong trào giải phóng quốc gia kháng chiến chống Mỹ để giành lại Kampuchia, Trung Hoa sẽ ủng hộ thái tử Sihanouk và sẽ dành cho ông ta tất cả những gì có thể giúp được.” (26) Sihanouk giải thích có vẽ thiên lệch như là tại sao Bắc Kinh vẫn còn một thời gian duy trì liên hệ với chế độ Lon Nol. Rõ ràng Trung Hoa không muốn cắt đứt quan hệ với Phnom Pênh mà không chắc rằng việc chống đối bằng vũ lực sẽ được thực hiện. Đặc biệt, cuộc đảo chánh đã xảy ra vào lúc, -do hậu quả xung đột vũ trang với Liên Xô-, Bắc Kinh đang tìm cách cải thiện bang giao với Hoa Thịnh Đốn. Trung Hoa thấy rằng dính dáng đến cuộc chiến tranh chống Lon Nol chỉ làm cho mối quan hệ với Mỹ thêm u ám. Về sau, Việt Nam (CS) tuyên truyền rằng Bắc Kinh đã thông đồng với Lon Nol để ngăn không cho Việt Cọng thắng lợi ở Miền Nam. Tuy nhiên, phát ngôn viên chính thức của đảng CS Việt Nam, Hoàng Tùng, vào hồi tháng Ba/1970 nói với tôi, rằng Trung Hoa không ưa gì Sihanouk vì Sihanouk phê bình Mao trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Tùng nói: “Và mấy ông bạn Cọng sản của chúng tôi ở Kampuchia nuôi dưỡng lòng thù địch Sihanouk vì hành động tàn sát Cọng sản của ông này. Trong khoảng 1955 đến 1965, Sihanouk đã giết rất nhiều cán bộ Cọng sản... (27) Khi Sihanouk đang ở Bắc Kinh (3/1970), Chu Ân Lai cũng như Pol Pot chẳng có ai đề nghị Sihanouk đứng về phe kháng chiến. Chính là chúng tôi, chúng tôi có sáng kiến ấy”. Phạm Văn Đồng (người lãnh đạo một phái đoàn Việt Nam (CS) bí mật thăm Bắc Kinh ba ngày sau khi có cuộc đảo chánh) thuyết phục Chu Ân Lai, trong khi Phạm Hùng, (một thành viên bộ chính trị đi theo Đồng, ông này trước 1970 vẫn giữ quan hệ mật thiết với Khmer Đỏ) thì thuyết phục Pol Pot. Sihanouk xác nhận rằng ông ta được Đồng nồng nhiệt ủng hộ. Ngày 23 tháng Ba, -một ngày sau khi Sihanouk họp rất lâu với Đồng-, Sihanouk kêu gọi kháng chiến vũ trang. Trong một bức thư 74 viết tay gởi cho thái tử vào ngày hôm sau, khi rời Bắc Kinh, Đồng nói rằng “nhân dân Việt Nam có tình hữu nghị sâu xa với nhân dân Kampuchia, ngưỡng mộ và kính trọng Ngài, chính sách của Ngài và công cuộc đấu tranh do Ngài lãnh đạo trong vai trò người đứng đầu nhân dân Kampuchia anh hùng” (28). Năm năm sau những cuộc họp đó, các nhà lãnh đạo Hà Nội và Sihanouk có quan hệ mật thiết với nhau trong nồng ấm và nhiệt tình. Trong những ngày Đồng đề nghị giúp đỡ Kampuchia, các đơn vị quân Việt Cọng tiến về các làng mạc phía đông Kampuchia, phân phát truyền đơn và phát thanh lời kêu gọi của Sihanouk. Cảm tình với Sihanouk của nông dân đã làm cho hàng trăm người tham gia các đơn vị do Việt Nam (CS) trang bị và huấn luyện, biến họ thành một lực lượng quân sự Sihanouk, gọi là Khmer Rumdo (Khmer giải phóng). Các huấn luyện viên Bắc Việt Nam cũng thiết lập các trường quân sự tại tỉnh Kratié ở phía đông bắc để huấn luyện cho những tân binh này. Dưới cái Sihanouk gọi là “hậu quả hiển nhiên và mộc chắn anh dũng” do Bắc Việt Nam tạo ra, lực lượng kháng chiến Khmer phát triễn từ 4 ngàn người hồi tháng Ba/1970 lên tới 30 ngàn năm 1975. Pháo binh Việt Nam (CS), xe tăng và các sư đoàn bộ binh tấn công tiêu hao các chiến dịch quân sự của Lon Nol nhắm mục đích giảm thiểu các thành phố đang bị Khmer Đỏ bao vây. Tới cuối năm 1972, khi các đơn vị Khmer Đỏ và Khmer Rumdo bắt đầu tự hoạt động lấy, thì quân đội thường trực Bắc Việt Nam đánh vở hậu tuyến quân đội Lon Nol và một khu vực rộng lớn ở Kampuchia đã nằm dưới quyền kiểm soát của quân kháng chiến. Liên minh thuốc độc Chính sự thành công của cuộc kháng chiến nói lên được mối liên minh giữa Hà Nội và đảng Cọng sản Kampuchia vào thời kỳ đầu. Mặc dầu có sự cải thiện bề ngoài, sau tháng Ba/1970, nhóm Pol Pot vẫn dè dặt đối với Việt Nam. Trong hồi ký của Sihanouk, ông mô tả thời kỳ 1970, 71 khi các bộ trưởng Chính phủ Kháng chiến Khmer viếng thăm Hà Nội, nói với nhau về “Youn đạo đức giả” (Youn= bọn dã man # Việt Nam - chú thích của nd) 75 và “nhân dân Khmer cần phải coi chừng tham vọng bá chủ của Bắc Việt Nam sau khi họ chiến thắng xâm lược Mỹ và Lon Nol phản bội”. Bởi tai vách mạch rừng, Sihanouk bị châm biếm chua cay, khi những lời này được báo cáo cho tướng Võ Nguyên Giáp. Vào ngày hôm sau, khi nói chuyện với Sihanouk, Giáp nổi giận. Giáp nói với Sihanouk rằng những người lãnh đạo có “dấu hiệu chống Việt Nam (CS), ngay tại Hà Nội này, đã xúc phạm chúng tôi vô cùng, bởi vì mỗi ngày chiến sĩ của chúng tôi, rời xa quê hương thân yêu, từ bỏ gia đình thân yêu, chiến đấu và hy trên mãnh đất Kampuchia anh chị em, sát cánh chống kẻ thù chung, để cứu giúp và giải phóng Kampuchia, đất nước của Ngài.” Những lời nói chi li của Giáp bùng nổ như vậy là nhắm vào những lời nói và hành động xảy ra trong nhà khách ở Hà Nội, và cũng do từ thất vọng mà Việt Nam (CS) quá kinh nghiệm với Khmer Đỏ. Trong những cuộc thương thảo với Lê Duẫn ở Hà Nội hồi tháng Tư/1970, Pol Pot bác bỏ đề nghị của Việt Nam thành lập một bộ chỉ huy quân sự hỗn hợp. Trong hai năm 1970-71, mặt trận Khmer mới hình thành đã giành chính quyền từ tay Việt Cọng tại các làng mạc mới giải phóng. Năm 1971, mối quan hệ giữa binh lính Khmer Đỏ và Việt Nam (CS) trở nên căng thẳng. Hồi năm 1978, Khmer Đỏ tố cáo - nhưng không trưng bằng chứng- rằng Việt Nam (CS) âm mưu đầu độc Pol Pot trong một cuộc họp ở Hà Nội hồi tháng Mười một/1970. Tuy nhiên, lời tố cáo mơ hồ ấy rõ ràng phản ảnh sự căng thẳng hiện đang tồn tại. Theo một bản báo cáo của CIA hồi tháng Chín/1970, quân Khmer Đỏ nổ súng vào quân Cọng sản Việt Nam từ phía sau trong khi lực lượng này đang tấn công quân đội Lon Nol tại Kompong Thom.(29) Nguyễn thị Cư, một người Việt Nam sống sót sau khi Khmer Đỏ tấn công vào Tây Ninh là một trong hàng ngàn người Việt Nam sống ở Kampuchia chạy trốn khỏi vùng Khmer Đỏ năm 1972. Gia đình bà ta từ Bắc Việt vào làm phu đồn điền cao su Pháp ở Chup (Kampuchia). Chồng và hai người em trai theo Việt Cọng hồi cuối thập niên 60 và sau khi Sihanouk bị lật đổ thì họ tiếp xúc với Khmer Đỏ. Từ cuối năm 1971, -như bà ta kể với tôi hồi năm 1978- Khmer Đỏ bắt đầu quấy rối người Việt Nam ở trong đồn điền và không bán gạo cho họ nữa. “Quân giải phóng Việt Nam cố 76 gắng bảo vệ chúng tôi, nhưng càng lúc càng khó khăn. Vì vậy năm 1972, người em ở bộ đội của gia đình tôi giúp chúng tôi trốn khỏi Kampuchia”. Sự căng thẳng âm ỉ giữa Việt Nam (CS) và Khmer Đỏ tạo ra cuộc khủng hoảng hồi cuối năm 1972 khi -ở giai đoạn cuối của cuộc thương thuyết hòa bình giữa Mỹ và Việt Nam (CS) tại Paris, - có cố gắng nhằm đưa Khmer Đỏ nói chuyện với Lon Nol. Henry Kissinger nói rằng yêu cầu này phải được gởi tới cho lãnh tụ Khmer Đỏ trong các cuộc họp bí mật hồi cuối 1972, và lần cuối cùng, từ ngày 24 đến 26 tháng Giêng/1973 trong lần gặp giữa Phạm Hùng, ủy viên bộ Chính trị và Pol Pot. Đề nghị này bị từ chối một cách khinh miệt. Pol Pot thấy rằng tình hình quân sự có thể đưa tới chiến thắng mau lẹ từ khi chế độ Lon Nol bị cô lập và bị mất tín nhiệm, đang thở hơi cuối cùng. Việt Nam (CS) cảnh cáo Khmer Đỏ cho rằng việc từ khước của họ sẽ bị Hoa Kỳ trừng phạt nặng nề như đã từng thấy. Sau đó, trong cuốn “Sách Đen” nói rằng Việt Nam đã tới đường cùng và muốn tạm ngưng chiến, nhưng họ không muốn cuộc kháng chiến của người Kampuchia đạt tới thắng lợi bởi vì rồi ra Kampuchia không thể nào trở thành một vệ tinh của Việt Nam được.(30) Nhưng việc trừng phạt thì Việt Nam nói đúng. Không ràng buộc vào nhiệm vụ trong phần còn lại của chiến trường Đông Dương, các pháo đài bay Mỹ đã thả 257 ngàn tấn bom xuống Kampuchia trong khoảng thời gian từ tháng Hai đến tháng Tám/1973, hơn một nửa số bom Mỹ đã thả xuống Nhật bản trong Thế chiến thứ II. Một số lớn dân chúng thương vong. Bốn năm sau, ngồi trong ngôi nhà hình dạng như cái pháo đài, tòa đại sứ Kampuchia Dân chủ ở Hà Nội, In-Sivouth cay đắng nhắc lại “Việt Nam phản bội” khi họ ký hiệp định hòa bình riêng rẽ với kẻ thù, để Hoa Kỳ trực tiếp đổ cơn thịnh nộ xuống Kampuchia. Lời tố cáo này là một ví dụ cổ điển về định kiến chủng tộc và tình cảm thù địch có tính lịch sử do nhóm Pol Pot dẫn đầu, nhằm đổ tội cho Việt Nam về tất cả những điều bất hạnh của họ. Rõ ràng các nhà lãnh đạo Hà Nội chẳng quan tâm gì nhiều tới cuộc chiến đấu của nhân dân Kampuchia khi cuộc chiến đấu nầy không nằm trong mục đích 77 của họ. Bên cạnh đó, những nhà lãnh đạo Khmer Đỏ cũng chẳng có nhiệt tình giúp đỡ Việt Nam thống nhất đất nước. Cũng khá mai mĩa nếu như thỏa hiệp hòa bình với Việt Nam (CS) làm cho Mỹ rảnh tay ở Kampuchia, mặc nhiên mở cuộc ném bom. Theo Kissinger, Chu nói là ai “cần hành động quân sự của chúng tôi ở Kampuchia vì hậu quả chính sách của họ thì hầu như chúng tôi đã làm rồi.” Việc Mỹ bỏ bom, theo ông ta là một chút tranh cải để có được liên minh Trung Hoa - Khmer Đỏ chấp thuận ngồi lại thảo luận với Sihanouk xem ông nầy là người lãnh đạo.”(32) Bảy tháng sau, khi Khmer Đỏ từ chối nói chuyện với Lon Nol và đạt được nhiều tiến bộ quân sự đáng kể, Chu vẫn còn chú tâm đến việc thương thảo với Lon Nol. Thất bại trong việc thuyết phục Khmer Đỏ tới bàn hội nghị, tháng 2/1973, Việt Nam (CS) đề nghị Kissinger nói chuyện với Sihanouk. Tám năm sau, khi viết về việc này, Kissinger cho hay đã loại bỏ đề nghị của Việt Nam (CS) như là một sự “đột ngột” nếu so với quan tâm của Chu là đưa Sihanouk trở lại cầm quyền. (33) Tuy nhiên, có chứng cớ đầy đủ là Việt Nam (CS) đã nghiêm nghị xem xét lá bài Sihanouk, và trong bất cứ trường hợp nào họ cũng rảnh tay hơn Chu để đối phó với Khmer Đỏ. Tuy nhiên, vài nhà quan sát nghi ngờ việc Chu thật sự muốn thái tử trở lại cầm quyền hoặc Chu chỉ muốn xử dụng uy tín của Sihanouk trong dân chúng Kampuchia và trên trường quốc tế để bảo đảm chiến thắng cho Khmer Đỏ, đồng minh lý tưởng của Trung Hoa. Cũng có thể có khả năng vị thủ tướng bệnh hoạn gần qua đời này, người đã từng đối đầu sự chống đối mạnh mẽ của nhóm cực đoan do Giang Thanh, vợ của Mao - lãnh đạo. Năm 1973 sự căng thẳng càng khích lệ Sihanouk chống lại Khmer Đỏ. Vào cuối năm 1974, khi Pháp thực hiện một nhiệm vụ ngoại giao bí mật hợp tác với Hoa Thịnh Đốn nhằm giành lại quyền hành cho Sihanouk giữ vai trò lãnh đạo một liên minh rộng lớn, Trung Hoa quyết định bằng một thái độ nước đôi. (34) Dù thái tử vẫn tỏ lòng cám ơn tình bạn của Chu và bảo vệ thái tử chống lại Khmer Đỏ, trong những lúc nghi ngờ như một lần ông ta nói với tôi với vẽ buồn bả: “Tôi nghĩ Trung Hoa biết rõ ngay từ đầu Khmer Đỏ muốn loại trừ tôi.” Trong suốt cuộc nói 78 chuyện trong ngôi nhà sang trọng của ông ở Bắc Kinh hồi tháng Tư/1980, ông ta hồi tưởng những năm sau khi bị lật đổ. Đầu năm 1971, Sihanouk tiếp tục yêu cầu Chu buộc Khmer Đỏ đưa ông ta về thăm vùng giải phóng ở Kampuchia. Trong cuộc sống lưu vong ở Bắc Kinh, ông ta lý luận là ông ta ít được quốc tế tin ông là người đứng đầu chính phủ kháng chiến. Nhưng lời yêu cầu của ông ta vô ích. Sihanouk nói: “Điều xúc phạm tôi chút ít là ngay từ đầu, Trung Hoa chẳng ủng hộ chút nào cả (trong cố gắng đi thăm Kampuchia).” Chu từ chối việc Sihanouk muốn thực hiện chuyến đi, nói rằng nguy hiểm. Con đường độc nhất đi vào vùng giải phóng Kampuchia là phải qua đường mòn Hồ Chí Minh -mục tiêu bị đánh bom thường xuyên- Sau khi hiệp nghị Paris ký kết, Sihanouk hỏi Ieng Sary (Ông này sống ở Bắc Kinh từ tháng Tám/1971 đến tháng Tư/75, giữ nhiệm vụ liên lạc với đảng Cọng sản Trung Hoa và cũng là một tên chó săn theo dõi ông hoàng bất thường này) là bây giờ ông ta có thể về thăm quê hương được không?! Câu trả lời cụt ngủn là “Không”. Sihanouk cố gắng tìm cơ may thêm một lần nữa với Hà Nội. Từ khi ông ta cư ngụ ở Bắc Kinh, mỗi năm, nhằm dịp Tết âm lịch, ông ta thường đi Hà Nội. Đây cũng là cách ông hoàng muốn tỏ tình đoàn kết với Việt Nam. Trong dịp Tết hồi tháng Hai/ 1973, Sihanouk yêu cầu Phạm Văn Đồng can thiệp với Khmer Đỏ. Ông ta nói: “Ông có cách gây áp lực với Khmer Đỏ. Họ không thể tiếp tục chiến đấu nếu ông không vận chuyển tiếp liệu của Trung Hoa cho họ.” Đồng nói với Khmer Đỏ rằng “Sihanouk phải trở về Kampuchia, bằng không ông ta không thể đại diện đất nước ông, có đủ danh dự và tư cách tại cuộc họp ở Alger”. Sau đó, Đồng họp rất lâu với Ieng Sary, thảo luận với ông nầy về khả năng để cho ông hoàng về thăm vùng giải phóng nhưng Ieng Sary vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng, Đồng nói với Trung Hoa. Và thàng công. Sihanouk kể lại: “Sau khi tôi trở về Trung Hoa, Ieng Sary nói với tôi rằng tôi được phép về nội địa (đi thăm Kampuchia). Đó là sự thành công của Đồng.” (35) Chuyến trở về lịch sử của Sihanouk xảy ra ba năm sau khi ông ta bị lật đổ. Do áp lực của Hà Nội, có thể chuyến đi ấy tốt đẹp. Tuy nhiên, chuyến đi đó cũng cho Sihanouk thấy sự căng thẳng đang gia tăng giữa Khmer Đỏ và cái gọi là đồng chí Việt Nam. 79 Tháng Ba/1973, trên chuyến bay Antonov 26 của không quân Việt Nam (CS), ông hoàng bay từ Hà Nội tới Đồng Hới ở cuối Bắc Việt Nam. Nguyễn Thương, đại sứ đặc nhiệm tháp tùng Sihanouk tới Kampuchia, và dĩ nhiên cả “cái bóng” của ông ta: Ieng Sary, và bà hoàng Monique, đi dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh bằng xe “command car”. Trong một tháng ròng ở vùng Khmer Đỏ kiểm soát phía bắc và đông bắc Kampuchia, ông ta nghe những lời tố cáo Việt Nam (CS) cố gắng diệt trừ Khmer Đỏ từ trong trứng nước. Son Sen nói với ông ta: “Lính Việt Nam ăn cắp, hãm hiếp phụ nữ, thiết lập căn cứ bên trong nội địa Kampuchia mà không được phép, bắt người Khmer phục vụ như là thành phần trừ bị trong quân đội Việt Nam và cướp hàng tiếp liệu của Trung Hoa viện trợ cho Kampuchia”. Khiêu Samphan thì nói với ông ta Việt Nam đang chuẩn bị đưa một chính phủ lên cầm quyền ngụy danh chính phủ Kampuchia nhưng thực sự là nô lệ Việt Nam. Trong khi Sihanouk nghe những tiết lộ bí mật về các đồng chí Việt Nam, Pol Pot, người theo dõi ông hoàng trong bóng tối, và các bạn của ông ta có thể thấy sự nhẫn nhịn của nhà cai trị đã bị truất phế nầy. Mặc dù có sẵn một bức tường an ninh bao quanh Sihanouk, trong những cuộc họp với dân chúng, chẳng có sai lầm nào về lòng trung thành và tình cảm mà ông hoàng đã tạo nên trong dân chúng. Vừa khi ông hoàng kết thúc chuyến thăm viếng, nhóm Pol Pot đưa ra một chiến dịch phỉ báng Sihanouk, tăng cường loại trừ ảnh hưởng Việt Nam (CS). Những phần tử cán bộ Khmer Đỏ theo Sihanouk, hoạt động lâu năm trong dân chúng, bắt đầu bày tỏ mặt thực của họ bằng cách thóa mạ ông hoàng trong các cuộc họp công cộng: “Trước kia, tất cả chúng tôi (Khmer Đỏ) nói rằng “Chúng trôi muốn Sihanouk”, bây giờ thì không còn nữa.” Năm 1973, một người tỵ nạn nói: “Trước kia, ông có thể nói bất cứ gì về Sihanouk, nhưng bây giờ ông không thể đưa ra một bức hình của Sihanouk.” Không ai dám thắc mắc chính sách này, người tị nạn ấy giải thích: “Bởi thắc mắc có nghĩa là chết.”(36) “Họ chuẩn bị một ngày cho đảng, không phải là ngày cho Sihanouk lên cầm quyền. Giữa năm 1973, để mở rộng phần lãnh thổ và kinh tế do đảng kiểm soát, đất tư hữu và việc dùng tiền bị bải bỏ, thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Các thương gia, ngư dân Việt Nam bị đuổi 80