🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh em Sư tử tâm - Astrid Lindgren full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi] Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách: Anh em sư tử tâm Tác giả: Astrid Lindgren Thể loại: Children Năm xuất bản: 2011 Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh Nguồn:hsvforum Ngày hoàn thành: 23-04-2012 Thư viện Tinh Tế Dự án ebook định dạng epub chuẩn cho mọi thiết bị di động http://tinhtebook.wordpress.com GIỚI THIỆU NỘI DUNG Tối tối, Jonathan kể cho em trai về xứ Nangiyala ở đâu đó bên kia các vì tinh tú, nơi con người sẽ đến sau khi chết. “Nếu đến đó, người ta sẽ được phiêu lưu từ sáng tới tối, thậm chí vào cả ban đêm... Đó là một điều gì khác xa với việc phải nằm lì trên giường, ho khù khụ, đau ốm và không được chơi với bạn bè.” Jonathan bảo Qui Ròn như thế. Lời kể của anh quyến rũ đến độ Qui Ròn không muốn tới Nangiyala mà không có Jonathan đi cùng. Rồi Qui Ròn cũng được toại nguyện, hai anh em cậu gặp nhau ở chốn Thiên đường bí ẩn, xứ xở của thần thoại và truyền thuyết cổ xưa. Nhưng lúc này, cuộc sống ở Nangiyala đang bị đe dọa bởi những kẻ Tengil tàn bạo. Và từ đây, chuyến phiêu lưu nghẹt thở của Anh em Tim Sư tử bắt đầu… Lung linh sắc màu huyền ảo và vô cùng cuốn hút, Anh em Tim Sư tử là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Astrid Lindgren, từng giành Giải thưởng Văn học Quốc tế Janusz-Korczak năm 1979 và được đề cử Giải thưởng văn học Đức dành cho Thanh thiếu niên… ASTRID LINGREN (1907-2002) là tác giả Mio, Con trai ta; Pippi Tất dài; Lại thằng nhóc Emil; Karlsson trên mái nhà và nhiều truyện khác dành cho thiếu nhi. Là một trong những tác giả nổi tiếng nhất và được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, bà được vinh dự nhận Huân chương Han Christian-Andersen, giải thưởng cao quý nhất của văn học dành cho thiếu nhi. Chương 1 Bây giờ tôi kể cho các bạn nghe chuyện về anh tôi. Anh trai tôi, Jonathan Tim Sư Tử, là người tôi muốn kể cho các bạn nghe. Chuyện về anh ấy gần như một truyền thuyết, lại na ná như chuyện ma, thế nhưng từng câu chữ trong đó lại đều có thực; cho dù có lẽ chỉ Jonathan và tôi là hai người duy nhất biết. Ban đầu, tên anh Jonathan không có chữ Tim Sư Tử. Tên đệm của anh là Sư Tử, cũng như tên đệm của mẹ và của tôi vậy. Tên anh là Joanathan Sư Tử. Tên tôi là Karl Sư Tử, còn tên mẹ là Sigrid Sư Tử. Người ta gọi bố là Axel Sư Tử, nhưng bố đi biển và rồi từ đó chúng tôi chẳng bao giờ nghe tin về bố nữa. Nhưng điều tôi sắp kể cho các bạn nghe đây là làm sao anh Jonathan của tôi đổi tên thành Jonathan Tim Sư Tử, và những điều lạ lùng sau đó đã xảy ra như thế nào. Jonathan biết rằng tôi sắp chết. Có lẽ tất cả mọi người đều biết như vậy, trừ tôi. Ngay ở trường, người ta cũng biết, vì hầu như lúc nào tôi cũng ho húng hắng và ốm đau. Suốt sáu tháng vừa rồi, tôi không đi học được buổi nào. Tất cả các bà các bác từng đến thuê mẹ may quần áo cũng đều biết chuyện, và trong lúc chính một bà nói về chuyện ấy với mẹ thì tôi vô tình nghe được, mặc dù tôi không chủ tâm nghe trộm. Hai người tưởng tôi đang ngủ. Còn tôi thì chỉ đang nằm yên, mắt đang nhắm lại thôi. Và tôi đành cứ nằm yên như vậy, vì tôi không muốn cho mọi người thấy rằng tôi đã nghe được điều kinh khủng ấy- tôi sắp chết. Tất nhiên là tôi buồn, và sợ hãi kinh khủng, nhưng tôi không muốn mẹ biết. Nhưng khi Jonathan về, tôi nói chuyện với anh ấy. - Anh có biết là em sắp chết không? - Tôi vừa hỏi vừa khóc. Jonathan nghĩ ngợi một lát. Chắc anh không muốn trả lời, nhưng cuối cùng anh nói: - Có, anh biết. Khi đó, tôi khóc dữ hơn. - Sao lại có những chuyện khủng khiếp đến như vậy- tôi hỏi. - Sao lại có chuyện khủng khiếp là có người phải chết khi chưa đến mười tuổi đầu? - Qui Ròn, em biết không, chuyện không khủng khiếp đến thế đâu.- Jonathan bảo tôi. - Anh cho là em sẽ được sống những ngày tuyệt vời. - Tuyệt vời. - tôi nhại lại. - Bị chôn dưới đất và chết mà tuyệt vời à? - Ôi, - Jonathan nói. - Chỉ có cái vỏ của em nằm dưới đó thôi, em biết không? Còn chính em thì bay đi một nơi hoàn toàn khác cơ mà. - Đi đâu? - Tôi hỏi, vì tôi khó mà tin được anh ấy. - Đi Nangiyala. - anh trả lời. Đi Nangiyala- anh ấy buông mấy chữ ấy ra cứ như thể nó là cái mà trên đời này ai ai cũng biết. Nhưng tôi chưa từng nghe nói tới từ ấy bao giờ. - Nangiyala? - Tôi hỏi lại - Đó là đâu? Jonathan trả lời rằng anh ấy cũng không biết chắc lắm, nhưng nó ở đâu đó phía bên kia những vì sao. Và anh bắt đầu kể cho tôi nghe về Nangiyala, đến nỗi tôi chỉ muốn bay ngay đến đó. - Trên đó, vẫn còn đang là thời người ta đốt lửa trại và vẫn diễn ra những truyền thuyết, rồi em sẽ thích cho mà xem- anh nói. Mọi truyền thuyết đều bắt nguồn từ Nagniyala, anh kể, vì đó chính là nơi những chuyện như vậy xảy ra, và nếu em lên đó, em có thể tham dự vào những câu chuyện phiêu lưu từ sáng đến tối, mà đến cả đêm nữa ấy chứ, Jonathan nói thế. - Em thấy không, Qui Ròn. - anh bảo tôi. - Thế là khác hẳn với việc phải nằm đây, ho húng hắng, ốm đau, chẳng được chơi gì, đúng không? Jonathan thường gọi tôi là Qui Ròn. Anh gọi tôi như vậy từ khi tôi còn bé, và khi tôi hỏi vì sao, thì anh bảo rằng anh rất thích bánh qui ròn, nhất là loại qui ròn như tôi. Mà thế thật, anh ấy yêu tôi, Jonathan ấy mà, kể cũng lạ, vì tôi xưa nay vẫn chỉ là một thằng bé tương đối xấu xí, ngớ ngẩn, và nhút nhát, với đôi chân cong queo, và chỉ thế thôi. Khi tôi hỏi Jonathan làm sao mà anh lại đi thích 1 thằng bé xấu xí, ngớ ngẩn, với đôi chân cong queo, và chỉ thế thôi, thì anh trả lời: - Nếu em không phải là một thằng bé mặt mũi xanh xao, xấu xí, nhỏ nhắn với đôi chân cong queo như vậy, thì em đâu còn là Qui Ròn của anh, là thằng bé mà anh yêu. Nhưng tối hôm đó khi tôi đang sợ chết, anh bảo rằng tôi đến được Nangiyala thì ngay lập tức tôi sẽ khỏe mạnh và khôi ngô tuấn tú. - Khôi ngô tuấn tú như anh chứ? - Tôi hỏi. - Khôi ngô tuấn tú hơn nhiều. - Jonathan đáp. Nhưng anh ấy không nên để tôi như vậy, vì xưa nay chưa có ai tuấn tú bằng Jonathan, và sẽ không bao giờ có. Một lần, một bà đến thuê mẹ may quần áo nói với mẹ: - Bà bạn Sư tử thân mến của tôi ơi, bà có cậu con trai trông cứ như hoàng tử trong truyền thuyết ấy. Các bạn hẳn biết ngay rằng không phải bà ấy nói về tôi! Anh Jonathan trông thật giống như một hoàng tử trong truyền thuyết. Mái tóc anh óng ánh như vàng, đôi mắt xanh sẫm thật đẹp của anh sáng rực, hàm răng của anh thật trắng., và đôi chân anh mới thẳng làm sao. Mà đâu chỉ có vậy. Anh còn tốt bụng, khỏe mạnh, anh biết mọi thứ, anh hiểu mọi thứ, anh nhất trường; anh đi đâu là tất cả bọn trẻ trong sân quây đến đó, muốn được cùng anh; anh nghĩ ra những thứ vui vẻ cho chúng nó, dẫn chúng nó chơi những trò phiêu lưu, mạo hiểm. Riêng tôi chẳng bao giờ được cùng đi với các bạn, vì tôi cứ phải nằm trên chiếc sofa làm giường, đặt trong bếp, hết ngày này sang ngày khác. Nhưng về đến nhà là Jonathan lại kể hết cho tôi nghe, tất cả những gì anh ấy làm, những gì anh ấy thấy, nghe và đọc. Anh ấy ngồi bên mép giường tôi, lâu ơi là lâu, để kể cho tôi nghe. Jonathan cũng ngủ trong bếp, trên một chiếc giường mà tối tối anh phải dỡ từ tủ quần áo ra. Và khi lên giường xong, anh lại kể tiếp cho tôi nghe chuyện và những truyền thuyết, tới tận khi mẹ từ buồng bên gọi sang: - Thôi, hai đứa có yên lặng đi không nào. Thằng Karl phải ngủ đi chứ. Nhưng thật là khó ngủ khi cứ bị ho. Đôi khi, Jonathan tỉnh dậy lúc nửa đêm, đun nước mật cho tôi uống đỡ ho. Anh thật là tốt, anh Jonathan. Tối hôm đó, khi tôi đang sợ chết, anh ngồi cùng tôi suốt mấy tiếng đồng hồ, và chúng tôi chuyện trò với nhau về Nangiyala, nói thật nhỏ để mẹ khỏi nghe thấy. Mẹ đang ngồi may như thường lệ, nhưng mẹ để máy khâu trong buồng ngủ của mẹ - các bạn thấy đấy, chúng tôi chỉ có một buồng và một gian bếp. Cửa vào buồng mẹ vẫn mở, và chúng tôi có thể nghe thấy mẹ đang hát, vẫn cái bài hát ngày xưa về một người đi biển tận nơi xa; mẹ đang nghĩ về bố đấy, tôi đoán. Tôi không thuộc cả bài hát. Tôi chỉ nhớ vài câu thế này: Nếu tôi chết ngoài biển khơi, em ơi Rồi một ngày Chú bồ câu trắng như tuyết Sẽ tới đây từ một nơi xa vời; Vội vàng đậu bên khung cửa, em ơi Đó chính là linh hồn tôi; Khát khao giây lát nghỉ ngơi Nơi vòng tay em ấm áp cuộc đời... Một bài hát hay, mà buồn, tôi nghĩ như vậy, nhưng Jonathan lại bật cười khi nghe thấy và nói: - Này Qui Ròn, có khi một tối nào đó em lại bay về với anh. Từ Nangiyala. Và chớ quên ngồi ở kia, giống con bồ câu trắng như tuyết đậu bên cửa sổ đấy nhé. Lúc ấy, tôi lên cơn ho. Anh dựng tôi lên, hai tay ôm chặt lấy tôi như vẫn thường làm khi tôi ho dữ nhất, rồi anh hát: Hỡi Qui Ròn bé bỏng yêu ơi Linh hồn em đang ở bên tôi Khát khao giây lát nghỉ ngơi Nơi vòng tay anh ấm áp cuộc đời... Ngay khi ấy tôi đã bắt đầu hình dung về cuộc sống ở Nangiyala mà không có Jonathan. Không có anh, tôi sẽ cô đơn biết chừng nào. Có vui thú gì đâu ở nơi đầy truyền thuyết và phiêu lưu, nếu không có Jonathan cùng ở đó. Tôi lại cũng đến sợ hãi và chẳng biết làm gì mất. - Em không muốn lên đó đâu., - Tôi vừa nói vừa mếu máo. - Em chỉ muốn ở đâu có anh thôi, Jonathan ạ. - Nhưng anh cũng sẽ lên Nangiyala, em không thấy thế sao? - Jonathan nói. - Chỉ sau em một ít thôi. - Vâng, thì sau em một ít, - tôi nói tiếp.- Nhưng biết đâu anh lại chả sống đến lúc anh chín mươi tuổi, còn trong lúc đó em bơ vơ trên đó một mình. Khi ấy, Jonathan bảo rằng ở Nangiyala không có thời gian như mình có ở dưới trần gian này. Ngay cho dù anh ấy có sống tới chín mươi tuổi, thì tôi cũng sẽ chỉ nghĩ nhiều nhất là hai ngày vừa trôi qua khi anh đến với tôi. Khi thật sự không có thời gian thì cảm giác đúng là như thế. - Em có thể tự lo được hai ngày chứ? - Anh hỏi. - Em có thể trèo cây này, đốt lửa trại trong rừng này, rồi ngồi bên dòng suối nhỏ câu cá này, em chả mơ những thứ đó mãi là gì. Và khi em đang còn ngồi đó, vớ được một chú cá sộp, thì anh đã bay tới, và em kêu lên: "Trời ơi, Jonathan, anh đã đến rồi đấy ư?" Tôi cố nín khóc, vì tôi nghĩ tôi có thể qua được hai ngày ấy. - Nhưng giá như anh đến đó trước thì tốt biết bao, - tôi nói. - Để rồi anh sẽ là người ngồi câu. Jonathan đồng ý về điều đó. Anh nhìn tôi một hồi lâu, âu yếm như anh vẫn từng xưa nay, và tôi nhận thấy anh đang buồn, vì anh thì thầm rất đau đớn: - Thế mà không được như vậy, và anh sẽ phải sống trên mặt đất này mà không có Qui Ròn của anh. Có khi phải đến chín mươi năm! Đó là những điều anh em chúng tôi suy ngh Nguồn: http://hsvforum.vn/f105/anh-em-tim-su-tu-full 594.html#ixzz1sq5LOONq Chương 2 Bây giờ, tôi kể đến đoạn khó kể; đoạn mà cứ nghĩ tới là tôi lại không chịu nổi; đoạn mà tôi không thể không nghĩ tới. Anh trai Jonathan của tôi; cứ như thể anh vẫn đang ngồi bên tôi, chuyện trò với tôi suốt những buổi tối, rồi đi đến trường, chơi đùa với bọn trẻ ngoài sân, rồi đun nước mật cho tôi, và mọi chuyện như vậy. Nhưng đâu có vậy...đâu có được vậy. Jonathan đang ở Nangiyala rồi. Thật khó quá, tôi không thể, lúc này, tôi không thể kể cho các bạn nghe tiếp được. Nhưng sau đó ít lâu, người ta viết trên báo thế này: "Đêm qua, một trận hỏa hoạn phủ khắp khu Fackelrosen trong thị trấn. Một trong những ngôi nhà cổ bằng gỗ đã bị thiêu trụi và đã mất đi một sinh mạng. Một cậu bé mười tuổi, Karl Sư tử, đang một mình nằm ốm trong căn hộ ở tầng hai của ngôi nhà khi lửa cháy. Sau khi lửa cháy một lát, anh cậu bé, Jonathan Sư Tử, mười ba tuổi, chạy về, và trước khi mọi người kịp can ngăn, cậu đã lao vào ngôi nhà đang bốc cháy để cứu em mình. Tuy nhiên, chỉ trong nháy mắt, cả cầu thang đã biến thành biển lửa, và hai cậu bé đang bị lửa vây kín chỉ còn cách duy nhất để tự cứu mình là nhảy qua cửa sổ. Cả đám đông kinh hoàng tụ tập bên ngoài buộc phải chứng kiến cảnh cậu bé mười ba tuổi không chần chừ cõng em lên vai, khi lửa đang bén tới nơi, lao mình qua cửa sổ. Khi rơi xuống đất, cậu bị thương nặng tới mức gần như chết ngay tức thì. Nhưng em trai cậu, được cậu đem thân mình ra đỡ rơi, không hề bị sây sát gì. Mẹ hai cậu bé khi đó đang đi gặp khách hàng - bà là thợ may- và bà bị choáng váng khi về nhà. Vẫn chưa biết nguyên nhân vụ hỏa hoạn. " Trên một trang khác của tờ báo đó còn đang bài của cô hiệu trưởng, viết nhiều hơn về Jonathan. Bài báo viết: "Jonathan Sư Tử thân yêu, lẽ ra tên con phải là Jonathan Trái tim Sư Tử mới phải chứ? Con có nhớ chúng mình đã học trong sách lịch sử về một ông vua trẻ tuổi dũng cảm người Anh tên là Richard Sư Tử Tâm; con có nhớ con đã nói thế nào không: "Cứ nghĩ xem, can đảm tới mức về sau được ghi tên trong sử sách. Chắc con chẳng bao giờ được như vậy đâu nhỉ." Jonathan yêu quý, cho dù tên con không được ghi vào trong sử sách, thì vào khoảnh khắc gay go, con cũng đã can đảm và là người anh hùng vĩ đại như bất cứ người anh hùng nào khác. Cô hiệu trưởng già nua này sẽ không bao giờ quên con. Bạn bè con sẽ còn nhớ con rất lâu. Lớp học sẽ trống vắng khi không có Jonathan vui vẻ và tuấn tú của chúng ta. Nhưng Chúa yêu thương những người chết trẻ. Chúc con yên nghỉ. Jonathan Trái tim Sư Tử. Greta Anderson Bà ấy thật lẩn thẩn, bà hiệu trưởng của Jonathan ấy, nhưng bà thật yêu quý Jonathan, cũng như mọi người khác vậy. Và có điều tốt là bà đã nghĩ ra chuyện về Trái tim Sư Tử. Thật là tốt. Có lẽ cả thị trấn không ai là không thương tiếc Jonathan, hoặc không ai không nghĩ rằng giá như tôi chết thay thì tốt hơn. Ít ra, đó là những gì tôi lượm được từ các bà đem vải đến để thuê mẹ cắt may quần áo. Họ thở dài và nhìn tôi khi đi qua bếp, rồi họ nói với mẹ: "Bà Sư Tử tội nghiệp! Và cả Jonathan nữa, mà cậu bé mới phi thường làm sao!" Mẹ con tôi dọn đến dãy nhà kế bên dãy nhà cũ, trong một căn hộ y như căn hộ cũ, chỉ khác là ở tầng trệt. Bà con trong cùng xứ cho chúng tôi một số đồ đạc đã dùng, và các bà khách hàng của mẹ cũng cho chúng tôi ít thứ. Tôi lại nằm trên chiếc sofa làm giường giống như trước đây. Mọi cái đều gần y như xưa. Và mọi cái, tuyệt đối mọi cái, đều không còn như xưa. Vì Jonathan có còn nữa đâu. Có còn ai ngồi bên tôi, tối tối kể chuyện cho tôi. Tôi cô đơn tới mức tôi thấy nhức nhối trong lòng. Tất cả những gì tôi có thể làm được là nằm đó và tự lẩm nhẩm với mình những câu chữ Jonathan nói ngay trước lúc chết; đúng khoảnh khắc chúng tôi đang nằm trên mặt đất sau khi chúng tôi nhảy xuống. Tất nhiên, anh ấy nằm sấp, nhưng có ai đó lật anh ấy lên, và tôi nhìn thấy mặt anh. Một dòng máu đang chảy ra từ khóe miệng anh, và anh khó mà nói được gì. Nhưng đồng thời anh như đang cố mỉm cười, và gắng nói đôi lời. "Đừng khóc, Qui Ròn. Chúng mình sẽ gặp nhau ở Nangiyala." Anh chỉ nói được có thế. Rồi anh nhắm mắt lại, mọi người tới và đưa anh đi, và tôi không bao giờ nhìn thấy anh nữa. Tôi không muốn nhớ lại quãng thời gian sau đó. Nhưng ai mà quên nổi những điều khủng khiếp và đau thương như vậy. Tôi cứ nằm đó, trên chiếc sofa giường của tôi, và nghĩ về Jonathan tới khi đầu tôi muốn nổ tung ra, mà không có ai chờ mong ai đó bằng tôi chờ mong anh ấy. Tôi còn sợ hãi nữa. Tôi cứ nghĩ mãi, chắc rằng những chuyện về Nangiyala đều không có thật, mà chỉ là một trong những trò vui mà Jonathan thường nghĩ ra? Tôi khóc hoài, khóc mãi, cứ khóc. Nhưng rồi Jonathan về và dỗ dành tôi, thật mà, anh ấy về, ôi, thật kỳ diệu. Mọi việc lại gần như đâu vào đó. Có thể là ở mãi tận Nangiyala, anh ấy cũng hiểu rằng không có anh, tôi như thế nào, nên anh cần về dỗ dành tôi. Thế là anh về với tôi, và nay tôi không còn buồn chán nữa; nay tôi chỉ còn phải chờ đợi. Anh ấy về vào một buổi tối cách đây ít lâu. Tôi đang một mình trong nhà, đang nằm khóc thương anh, và tôi cảm thấy sợ hãi, đau khổ, ốm đau và bệnh hoạn tới mức không thể tả nổi. Cửa vào nhà bếp đang mở, vì thời tiết lúc này đang là mùa xuân ấm áp. Tôi nghe tiếng bồ câu gù gù bên ngoài. Ngoài sân ấy, có nhiều chim câu lắm, và chúng cứ gù gù suốt cả mùa xuân. Rồi chuyện ấy xảy ra. Đúng lúc tôi nằm úp mặt vào gối mà khóc, tôi chợt nghe tiếng gù gù rất gần, và khi tôi ngẩng lên, thì kìa, một con bồ câu đậu bên khung cửa sổ, đang nhìn tôi với ánh mắt âu yếm. Hãy nhớ nhé, một con bồ câu trắng như tuyết, không phải màu xám như tất cả những con khác trong sân. Một chú bồ câu trắng như tuyết; không ai tưởng tượng nổi tôi có cảm giác gì khi trông thấy nó, vì chuyện xảy ra y như trong bài hát - "Chú bồ câu trắng như tuyết sẽ tới." Và tôi như lại đang được nghe Jonathan hát đi hát lại, "Hỡi Qui Ròn bé bỏng yêu ơi, linh hồn em đang ở bên anh," nhưng giờ đây không phải tôi đến với anh, mà là anh đến với tôi. Tôi muốn nói một điều gì đó, mà không nói nổi. Tôi chỉ nằm đó lắng nghe chú bồ câu ấy gù gù, và đằng sau tiếng gù gù, hay là ngay giữa tiếng gù gù, hay phải tả như thế nào đây, tôi nghe thấy giọng nói của Jonathan, mặc dù không giống giọng thường ngày của anh. Nó chỉ giống như những tiếng thì thầm lan tỏa ra khắp căn bếp. Nghe có vẻ giống như chuyện ma và có thể có bạn sẽ sợ hãi, nhưng tôi thì không. Tôi chỉ cảm thấy sung sướng vô cùng, ước sao tôi có thể nhảy lên đến tận trần nhà, bởi lẽ những gì tôi nghe thấy thật là kì diệu. Đúng, chuyện này mà có thật, thì tất cả những chuyện về Nangiyala cũng sẽ đều có thật. Jonathan muốn tôi nhanh lên, vì anh ấy bảo, ở trên ấy cái gì cũng tốt. Cứ nghĩ mà xem, khi anh ấy lên tới nơi, đã có hẳn một ngôi nhà riêng của anh ấy ở Nangiyala. Anh ấy kể rằng đó là một trang trại cũ, gọi là Trang trại Các Hiệp Sĩ, nằm trong Thung lũng Anh Đào. Thế không tuyệt vời sao? Mà thử nghĩ xem, cái đầu tiên anh trông thấy khi anh tới Trang trại Các Hiệp Sĩ, là một tấm biển nhỏ màu xanh lá cây trên cổng, và tấm biển đó đề dòng chữ: Anh em Tim Sư Tử. - Tức là cả hai chúng mình sẽ cùng sống ở đó, - Jonathan nói. Cứ nghĩ xem, tôi, phải rồi, cả tôi nữa cũng sẽ được gọi là Tim Sư Tử, khi tôi tới Nangiyala. Tôi khoái chí về điều ấy lắm, vì tôi thích được gọi cùng tên như Jonathan, cho dù tôi chưa dũng cảm bằng anh ấy. - Đến càng sớm càng tốt nhé, - anh bảo. - Nếu em không thấy anh ở Trang trại Các Hiệp Sĩ, thì anh đang ngồi câu cá bên dòng suối đấy. Sau đó, mọi sự trở lại yên ắng, và chú bồ câu ấy bay đi, lên phía trên mái nhà, để về Nangiyala. Còn tôi đang nằm đây, trên chiếc sofa của mình, chỉ chờ để được bay theo nó. Tôi mong rằng việc tìm đường trên đó sẽ không quá khó khăn. Mà Jonathan đã bảo rằng không hề khó khăn gì. Tôi đã viết lại địa chỉ rồi, cho chắc chắn: Anh Em Tim Sư Tử Trang trại Các Hiệp Sĩ Thung lũng Hoa Anh Đào Nangiyala Đến nay, Jonathan đã sống một mình trên đó được hai tháng. Trong hai tháng dài, kinh khủng, tôi đã phải sống không có anh. Nhưng bây giờ, tôi sắp lên Nangiyala rồi. Sắp sửa rồi, chẳng mấy chốc nữa, tôi sẽ bay lên đó. Hình như tôi sắp bay ngay trong đêm nay. Tôi sẽ viết một mẩu giấy, để trên bàn ăn trong bếp, để sáng mai khi mẹ dậy là thấy ngay: Mẹ ơi, đừng khóc nhé! Hẹn gặp lại mẹ ở Nangiyala! ------------------------------- AA đả tự chương này riêng tặng cho những huynh, đệ, tỷ, muội nào đã từng mất đi người thân. Mong là có 1 Nangiyala cho những người thân yêu đã mất... Chương 3 Rồi chuyện ấy xảy ra. Và tôi chưa từng bao giờ thấy điều gì lạ lùng như thế. Đùng một cái, tôi đã đang đứng trước cổng, đọc tấm biển màu xanh lá cây: Anh Em Tim Sư Tử. Làm sao tôi tới được đó? Tôi bay từ lúc nào? Làm thế nào tôi tìm được đường mà không phải hỏi ai? Tôi không biết. Điều duy nhất tôi biết là đùng một cái tôi đã đang đứng đó, nhìn thấy tên viết trên tấm biển rồi. Tôi gọi Jonathan. Tôi gọi mấy lần, nhưng không có ai thưa, và tôi nhớ ra - anh ấy tất nhiên đang câu cá bên dòng suối. Tôi cắm đầu chạy theo con đường nhỏ dẫn ra suối. Tôi cứ chạy, chạy mãi - và kia rồi, Jonathan đang ngồi bên cạnh cầu. Và nếu tôi đang cố kể lại cho các bạn nghe chuyện này, thì tôi cũng vẫn không thể tả nổi cảm giác của tôi khi được gặp lại anh ấy. Anh không trông thấy tôi. Tôi cố gọi "Anh Jonathan ơi", nhưng chắc tôi khóc mếu, vì ngoài tiếng rên lí nhí buồn cười thì miệng tôi chẳng bật ra được cái gì. Thế mà Jonathan nghe thấy. Anh ngẩng lên và nhìn thấy tôi. Anh kêu to, quẳng cần câu đi, lao đến với tôi, ôm chầm lấy tôi, như thể anh muốn được cảm nhận hẳn hoi rằng tôi đã đến thật. Lúc ấy, tôi có khóc một chút. Tại sao lại khóc vì chuyện ấy, nhưng tôi đã mong ngóng được gặp lại anh biết chừng nào. Riêng Jonathan thì lại cười, và chúng tôi đứng đó, bên sườn dốc, ôm chặt lấy nhau, hạnh phúc không bút nào tả xiết, vì chúng tôi lại được sống cùng nhau. Rồi sau đó, Jonathan nói: - Ôi, thế là cuối cùng em cũng tới, đúng không nào, Qui Ròn Tim Sư Tử. Qui Ròn Tim Sư Tử - nghe thật quái, cho nên chúng tôi cùng khúc khích cười. Rồi chúng tôi lại cùng cười thêm chút nữa, cứ y như nó là cái hài hước nhất trần đời mà chúng tôi được nghe, mặc dù có lẽ chúng tôi thực ra chỉ muốn có một cái gì đó để cùng cười, vì chúng tôi đang sung sướng đến muốn nổ tung người lên. Và sau khi đã cười lâu ơi là lâu, chúng tôi vật nhau, mà vẫn không hết cười. Không hết thật mà. Chúng tôi cứ tiếp tục như vậy trên bãi cỏ, nằm đó, rồi lăn đi lăn lại, cười hơn nữa, cuối cùng cười nhiều đến mức chúng tôi lăn xuống suối, mà vẫn cười tiếp đến mức tôi tưởng chúng tôi bị chết đuối. Nhưng không, chúng tôi bắt đầu bơi. Tôi chưa hề biết bơi, cho dù lúc nào tôi cũng muốn học bơi. Thế mà bây giờ tôi bơi được, cứ tự nhiên biết bơi. Tôi bơi đi bơi lại thật dễ dàng. - Jonathan, em biết bơi này! - Tôi gọi ầm lên. - Ừ, tất nhiên là em biết bơi rồi, - Jonathan đáp. Và tôi đột nhiên nghĩ tới một chuyện khác. - Jonathan, anh có nhận ra chuyện gì không?. Tôi hỏi: - Em hết ho rồi đây này. - Ừ, tất nhiên là em hết ho rồi, - Jonathan trả lời. - Em đang ở Nangiyala mà. Tôi bơi thêm một lúc nữa rồi trèo lên cầu, đứng đó, người ướt sũng, nước chảy tong tỏng từ quần áo của tôi. Quần dính bết vào chân, làm cho tôi thấy rất rõ điều gì đã xảy ra. Các bạn có tin không, đôi chân tôi thật thẳng, cũng như chân Jonathan vậy. Khi ấy tôi nghĩ, biết đâu mình cũng lại trở nên khôi ngô tuấn tú? Tôi hỏi Jonathan xem anh có nghĩ như vậy không, xem anh có thấy tôi đã trở nên khôi ngô không. - Em soi gương xem, - anh đáp, ý anh bảo tôi soi xuống dòng nước, vì dòng nước thật sáng và phẳng lặng, có thể nhìn thấy hình mình được. Tôi nằm áp bụng vào thành cầu, vươn người ra và tôi thấy hình tôi dưới nước, nhưng tôi không thấy tôi có gì xinh xắn, tuấn tú hơn lắm. Jonathan đếnn, nằm xuống cạnh tôi, và hai đứa cứ nằm như thế một lúc lâu, vươn mình ra xem hình hai anh em Tim Sư Tử soi dưới nước, Jonathan thật đẹp, với mái tóc vàng óng, với đôi mắt và khuôn mặt thật đẹp của anh, rồi đến tôi với chiếc mũi tẹt dí, mái tóc thưa lởm chởm và chỉ có thế. - Không, em không tin rằng em đẹp hơn chút nào cả, - tôi nói. Nhưng Jonathan thì cho rằng tôi đã khác nhiều. - Mà trông em khỏe ra bao nhiêu nữa, - anh bảo thế. Thế là tôi thấy yên tâm. Khi tôi nằm đó, trên cầu, tôi cảm thấy rằng khắp cơ thể tôi đều khỏe khoắn, vậy cớ gì tôi cần phải khôi ngô tuấn tú kia chứ? Cả người tôi đều sung sướng tới mức mọi chỗ đều đang vang rộn tiếng cười. Chúng tôi nằm đó một lúc, sưởi ấm dưới ánh mặt trời, và ngắm nhìn đàn cá bơi lội dưới cầu. Rồi Jonathan muốn hai anh em cùng về nhà, mà tôi cũng muốn như vậy, vì tôi tò mò muốn xem Trang trại Các Hiệp Sĩ, nơi tôi sắp đến sống. Jonathan rảo bước trước tôi trên đường về trang trại, còn tôi tung tẩy theo sau bằng đôi chân nay đã thẳng của mình. Tôi vừa đi vừa nhìn xuống chân và thấy thật thích thú được đi trên đôi chân ấy. Nhưng khi chúng tôi lên dốc được một quãng tôi đột nhiên ngoái đầu nhìn lại. Và kia rồi, cuối cùng tôi đã thấy Thung lũng Hoa Anh Đào! Ôi, cái thung lũng ấy, màu trắng, với hoa anh đào nở rộ nơi nơi. Trắng và xanh, tất cả sắc màu ấy, hoa anh đào và cỏ cây xanh, thật là xanh. Và chạy giữa màu trắng màu xanh ấy, dòng sông uốn khúc như một dãy lụa bạc. Tại sao trước đây, tôi chưa bao giờ nhận ra cảnh này nhỉ? Phải chăng tôi không nhìn thấy gì khác ngoài Jonathan? Còn bây giờ, tôi đứng như trời trồng giữa đường để thấy nó đẹp nhường nào. Tôi nói với Jonathan: - Hẳn đây phải là thung lũng đẹp nhất trần đời. - Đúng, nhưng không phải là ở dưới trần đời đâu, - Jonathan đáp lại, làm tôi sực nhớ mình đang ở Nangiyala. Xung quang Thung lũng Hoa Anh Đào toàn là núi cao, và cũng rất đẹp. Bên sườn núi, những con suối và dòng thác đổ vào thung lũng như đang hát ca, bởi đang là mùa xuân. Mà ngay cả không khí cũng có gì rất đặc biệt. Tôi cảm thấy như mình muốn được uống không khí, vì nó thật trong lành và sạch sẽ. - Giá mà đem được mấy ki-lô không khí này về thị trấn nhà mình chắc cũng kiếm được ối đấy nhỉ. - Tôi nói trong lúc đang nhớ lại rằng mình đã từng thèm khát không khí như thế nào khi đang phải nằm trên chiếc sofa giường trong bếp, tưởng như chẳng hề có chút không khí nào. Còn ở đây, tôi được hít thở thỏa thích. Cứ như thể hít mãi vẫn chưa đủ. Jonathan nhìn tôi cười và bảo: - Em cũng phải để dành cho anh một chút chứ hả. Con đường chúng tôi đang đi trắng một màu hoa anh đào rụng, và những cánh hoa trắng mịn màng xoay tròn rơi rơi xuống chúng tôi, bám vào tóc, vào mọi chỗ, những tôi thích những con đường nhỏ xanh rờn phủ đầy những cánh hoa anh đào hơn, tôi thích thật đấy. Và cuối con đường chúng tôi đang đi, chính là Trang trại Các Hiệp Sĩ, với tấm biển màu xanh lá cây gắn trên cổng. - Anh em Tim Sư Tử, - tôi đọc to cho Jonathan nghe thấy. - Cứ nghĩ rằng đây là nơi chúng mình sắp được sống với nhau đã thấy thích rồi. - Đúng thế, nghĩ về chuyện đó, Qui Ròn à, - Jonathan trả lời. - Thích quá đi chứ, đúng không? Thích quá. Tôi hiểu vì sao Jonathan nghĩ vậy. Về phần mình, tôi không thể hình dung ra có nơi nào có thể sống tốt hơn chốn này. Một ngôi nhà màu trắng, đã cũ, không thật to, tường bằng gỗ màu xanh lá cây, cửa ra vào màu xanh lá cây, và mảnh vườn nhỏ xung quanh màu xanh lá cây, có mấy cây hồng dại, mấy cây hoa đá và hoa cúc mọc lẫn trong cỏ. Lại còn cả cây tử đinh hương và anh đào, hoa đang rộ nở. Bao quanh tất cả là một bức tường đá, một bức tường màu xam xám, trên phủ hoa tím. Các bạn có thể nhảy qua bức tường đó một cách dễ dàng, nhưng một khi đã qua cổng bên trong rồi, cũng vẫn thế thôi, nhưng mình cảm thấy mình đã về nhà, và mình làm chủ. Thực ra ở đây có hai nhà, chứ không phải một nhà, mặc dù ngôi nhà kia trông giống như một chuồng ngựa hơn, hay một cái gì đó từa tựa như vậy. Chúng liền góc với nhau, hai ngôi nhà ấy mà, và đúng ở chỗ chúng liền nhau, có một chiếc ghế dài, trông như làm từ Thời kì Đồ đá, gần như vậy. Nhưng đó là một chiếc ghế đẹp, đặt ở một góc đẹp, thật thế. Ai cũng thấy thinh thích được ngồi đó, suy nghĩ một lát, hoặc chuyện trò và ngắm nhìn đàn chim, và có khi nhấm nháp chút nước hoa quả hay thứ gì đó. - Em thích ở đây, - tôi nói với Jonathan. - Trong nhà có đẹp thế này không? - Thì cứ vào xem, - anh bảo. Anh đã đến đứng bên cửa và sắp sửa bước vào, thì đúng lúc ấy, có tiếng hí, đúng, rõ là tiếng ngựa hí, và Jonathan nói: - Anh cho là mình phải vào chuồng ngựa trước. Anh bước vào gian nhà ấy, còn tôi chạy theo sau; các bạn hãy thử đoán xem có đúng tôi phải chạy theo anh ấy không nào! Đó là chuồng ngựa thật, y như tôi đã đoán, trong đó có hai con ngựa, hai chàng tuấn mã màu nâu, đang ngoái đầu lại và hí vang với chúng tôi khi chúng tôi bước qua cửa chuồng. - Đây là Grim, còn đây là Fyalar, - Jonathan nói. - Hãy đoán xem con nào là của em. - Anh nói cái gì cơ, - tôi tiếp. - Anh vừa nói là có một con ngựa cho em, sao em không thể tin được. Nhưng Jonathan bảo rằng ở Nangiyala không ai làm được việc gì mà không cần đến ngựa. - Không có ngựa thì không đi đâu được, - anh nói. - Mà em biết không, Qui Ròn, có khi mình phải đi xa đấy. Đó là điều tuyệt nhất mà tôi được nghe từ bé đến giờ - rằng cần phải có ngựa ở Nangiyala, với lại tôi rất thích ngựa. Mũi chúng mới mềm mại làm sao. Tôi cho rằng trên đời này không gì mềm mại bằng. Thế mà hẳn một đôi ngựa, đẹp khác thường, cả đôi đang ở trong chuồng. Fyalar có một vết trắng ở giữa trán, còn thì hai con giống nhau như một. - Grim là của em phải không? - tôi hỏi, vì Jonathan muốn tôi đoán. - Hứ, em nhầm rồi, - Jonathan trả lời. - Fyalar mới là của em. Tôi để cho Fyalar dụi dụi mũi vào tôi, trong lúc tôi vỗ về nó mà không chút sợ hãi, mặc dù tôi đã được chạm tay vào ngựa bao giờ đâu. Tôi thích nó ngay từ đầu, và dường như nó cũng thích tôi, ít ra là tôi nghĩ vậy. - Chúng mình còn có thỏ nữa nhé, - Jonathan kể. - Trong cái chuồng phía sau chuồng ngựa ấy. Nhưng về sau em xem cũng được. Để rồi tôi phải đoán già đoán non ấy à! - Em phải xem bây giờ cơ, ngay bây giờ, - tôi nói, vì tôi lúc nào cũng muốn nuôi thỏ, mà ở nhà trong thị trấn thì không thể. Tôi đi nhanh vòng ra sau chuồng ngựa và thấy trong chuồng có ba con thỏ nhỏ xíu thật đáng yêu, miệng đang nhai mấy ngọn cỏ dại. - Vui thật đấy, - về sau tôi nói với Jonathan. - Cái gì em muốn, ở Nangiyala này cũng đều có. - Ừ, nhưng anh chả nói với em rồi là gì, - Jonathan đáp. Mà đúng như anh ấy đã nói với tôi rồi thật, từ khi anh ấy còn ngồi đó, bên cạnh tôi, trong gian bếp, hồi ở nhà. Nhưng đến bây giờ, tôi mới có thể thấy đó là thật, và tôi vui về điều đó. Có những chuyện không thể nào quên. Không bao giờ, không thể bao giờ tôi quên được cái buổi tối đầu tiên ấy ở Trang trại Các Hiệp Sĩ, thật tuyệt diệu, và lại được nằm nói chuyện với Jonathan y hệt ngày trước. Nay chúng tôi lại sống trong một gian bếp như chúng tôi đã từng sống, mặc dù gian bếp này không giống gian bếp của chúng tôi ở nhà trong thị trấn, chắc chắn là như vậy. Gian bếp ở Trang trại Các Hiệp Sĩ hẳn phải có từ lâu lắm rồi, tôi nghĩ, với những thanh xà to tướng phía trên trần và cái lò sưởi cũng rất là to. Thế mới ra dáng lò sưởi chứ. Nó cao đến nửa bức tường, và nếu mình muốn nấu nướng gì thì phải nấu trực tiếp luôn trên ngọn lửa, như ngày xửa ngày xưa người ta vẫn thường làm. Chính giữa sàn nhà lừng lững một chiếc bàn tôi chưa từng trông thấy trong đời, có ghế dài đặt hai bên, và tôi nhẩm tính ngay rằng ít nhất phải đủ chỗ cho cả chục người ngồi ăn mà chẳng hề vướng víu, chật chội. - Chúng mình cũng vẫn có thể sống trong gian bếp như chúng mình từng sống, - Jonathan nói. - Còn bao giờ mẹ đến, mẹ có thể ở trong phòng kia. Một căn phòng và một gian bếp, Trang trại Các Hiệp Sĩ như vậy đấy, mà chúng tôi không quen và cũng không cần gì hơn. Tất cả như trước, mà lại rộng gấp đôi ở nhà. Ở nhà! Tôi kể cho Jonathan về mẩu giấy tôi để lại trên bàn ăn trong bếp cho mẹ. - Em viết cho mẹ rằng cả nhà mình sẽ gặp nhau ở Nangiyala. Có điều ai biết đến bao giờ mẹ mới đến. - Có thể ít lâu nữa, - Jonathan nói. - Mà mẹ sẽ có một gian phòng rộng rãi, đủ chỗ cho mười chiếc máy khâu, nếu mẹ muốn. Thử đoán xem tôi thích gì nào! Tôi thích nằm trên chiếc giường cũ xưa lật từ trong tủ ly ra, đặt trong một gian bếp cũ xưa, chuyện trò với anh Jonathan trong lúc ánh lửa bập bùng soi bóng trên tường, và khi tôi nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một cành anh đào đang đung đưa theo làn gió chiều. Rồi ngọn lửa thu nhỏ dần, nhỏ dần, tới lúc chỉ còn những cục than hồng, và màn đêm buông xuống dày đặc trong góc nhà, còn tôi ngày càng buồn ngủ díu mắt lại, mà tôi vẫn nằm đó, không còn bị ho, nghe tiếng Jonathan kể chuyện. Anh cứ kể, kể cho tôi, kể cho tôi mãi, cuối cùng chỉ nghe tiếng anh ấy như lại thì thầm, rồi tôi thiếp đi. Đó chính là điều tôi thích, và đó cũng chính là điều đã xảy ra trong buổi tối đầu tiên tại Trang trại Các Hiệp Sĩ, và chính vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên. Chương 4 Rồi sáng hôm sau, chúng tôi lên ngựa. Ôi, thật mà, tôi phi ngựa được mà, ấy đấy cũng là lần đầu tiên tôi ngồi trên lưng ngựa - tôi chẳng thể hiểu nổi những chuyện như vậy ở Nangiyala, rằng người ta làm gì cũng được, thật đấy. Tôi phi nước đại cứ như thể tôi chưa từng làm việc gì khác. Nhưng phải nhìn Jonathan khi anh phi ngựa cơ! Người phụ nữ đã so sánh anh tôi với một chàng hoàng tử trong truyền thuyết, bà ấy phải có mặt ở đây, khi anh tôi rạp mình trên lưng ngựa bay qua những đồng cỏ ở Thung lũng Hoa Anh Đào, thì bà ấy mới thấy một hoàng tử trong truyền thuyết mà bà sẽ không bao giờ quên! Ôi, khi anh phóng nước đại, nhảy vút qua dòng suối, như đang bay, để rồi mái tóc anh uốn lượn theo anh, đúng vậy, thì các bạn phải thật sự tin rằng anh ấy là một hoàng tử trong truyền thuyết. Anh ấy gần như lúc nào cũng ăn mặc như vậy, hoặc có khi giống một hiệp sĩ hơn thì phải. Trong tủ quần áo ở Trang Trại Các Hiệp Sĩ, có rất nhiều quần áo, chẳng biết từ đâu tới, nhưng không giống như quần áo ta có hiện nay, mà toàn giống áo quần hiệp sĩ. Sau khi quẳng đi bộ đồ cũ rách của tôi mà tôi không bao giờ muốn thấy lại nữa, chúng tôi chọn trong tủ ra vài bộ cho tôi. Vì Jonathan nói chúng tôi phải ăn mặc cho hợp thời, kẻo mọi người ở thung lũng Hoa Anh Đào lại nghĩ rằng chúng tôi lập dị. Hợp với thời của lửa trại và truyền thuyết; có phải Jonathan nói vậy không nhỉ? Trong lúc cùng nhau phi ngựa trong thung lũng tươi đẹp của mình, tôi hỏi anh: - Phải chăng những ngày chúng mình đang sống ở Nangiyala này là những ngày xưa lắm hả anh? - Theo một nghĩa nào đó, thì em nói thế cũng được, - Jonathan trả lời. - Đối với chúng mình thì đó là những ngày xưa lắm. Nhưng người ta lại cũng có thể nói rằng đó là những ngày mới mẻ. Anh suy nghĩ một lát, rồi nói tiếp. - Đúng, đúng như vậy. Những ngày mới mẻ, lành mạnh và tốt lành, để sống một cách dễ dàng và giản dị. Nhưng sau đó, mắt anh tối sầm lại. Anh nói: - Ít nhất, ở đây, trong thung lũng Hoa Anh Đào. - Thế ở những nơi khác thì không phải thế à? - Tôi hỏi, và Jonathan đáp lại rằng ở nơi khác chắc chắn là khác. May mắn làm sao chúng tôi lại dừng chân đúng nơi này! Tại đây, trong thung lũng Hoa Anh Đào này, nơi cuộc sống dễ dàng và giản dị như Jonathan vừa nói. Không thể có cái gì dễ dàng hơn và giản dị hơn cuộc sống vào một buổi sáng như sáng nay. Trước hết, mình tỉnh giấc trong bếp vì được mặt trời dọi ánh sáng qua cửa sổ đánh thức, rồi tiếng chim hót líu lo, rộn rã trên cây ngoài vườn, rồi mình được thấy Jonathan đang lặng lẽ bày bánh mì và sữa ra bàn cho mình, và sau khi ăn xong, mình ra ngoài cho thỏ và ngựa ăn. Sau đó, mình phi ngựa đi, ôi, phi ngựa đi, khi sương còn đọng trên cỏ, long lanh rực sáng khắp nơi, khi ong chúa và ong thợ đang ngân nga giữa ngàn hoa anh đào, rồi ngựa của mình tung vó phi nước đại, và mình không gợn lo ngại rằng mọi cái đột ngột chấm dứt, như mọi chuyện vui vẫn thường kết thúc bất ngờ như vậy. Ở Nangiyala không như vậy! Ở đây, ít ra trong thung lũng Hoa Anh Đào này, không như vậy! Chúng tôi phi qua những đồng cỏ, vun vút qua bao cảnh vật, sau đó phi theo con đường chạy dọc bờ suối, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, rồi thốt nhiên chúng tôi nhìn thấy làn khói sớm bay lên từ một xóm dưới thung lũng, lúc đầu chỉ là làn khói, sau mới là cả xóm với những căn nhà và trang ấp xưa cũ. Chúng tôi nghe tiếng gà gáy, tiếng chó sủa, tiếng cừu dê be be; tất cả âm thanh của buổi sáng, tất cả. Xóm quê này hẳn vừa thức giấc. Một phụ nữ tay xách làn đang đi ngược về phía chúng tôi trên cùng con đường, một nông phụ, tôi đoán, không trẻ cũng không già, khoảng trung niên, nước da nâu của người quanh năm làm việc ngoài trời. Cô ăn mặc theo lối cũ, khá giống trong các truyền thuyết. - Kìa, Jonathan, cuối cùng thì em cháu đã tới rồi đấy hả? - Cô hỏi, miệng mỉm cườ thân thiện. - Vâng, em cháu mới tới, - Jonathan trả lời, và các bạn có thể thấy giọng vui vẻ của anh ấy. - Qui Ròn, đây là cô Sofia, - anh bảo tôi, và cô ấy gật đầu. - Đúng rồi, cô là Sofia - cô nói. - Cô rất mừng được gặp cháu. Còn bây giờ thì các cháu cầm lấy làn đi. Jonathan nhận chiếc làn như thể anh vẫn quen làm như vậy và cũng không hỏi xem trong làn có gì. - Tối nay cháu sẽ đưa em cháu xuống chỗ Gà Trống Vàng chứ, để mọi người gặp mặt cậu bé? - cô Sofia hỏi. Jonathan đáp lại rằng anh sẽ đưa tôi xuống đó, rồi chúng tôi tạm biệt cô và quay về. Tôi hỏi Jonathan xem Gà Trống Vàng là ai. - Quán Gà Trống Vàng, - Jonathan trả lời. - Đó là ngôi quán dưới xóm. Mọi người gặp nhau ở đó và bàn bạc những việc cần bàn. Tôi nghĩ chắc sẽ vui khi được cùng anh đến Gà Trống Vàng vào buổi tối để xem kiểu người sống ở thung lũng Hoa Anh Đào là như thế nào. Tôi muốn biết mọi thứ về thung lũng Hoa Anh Đào và Nangiyala. Rồi tôi sực nhớ đến điều gì đó và tôi nhắc anh về điều đó trong khi chúng tôi đang cùng phi ngựa về. - Jonathan ơi, anh nói rằng ở Nangiyala mình có thể có những cuộc phiêu lưu từ sáng đến tối, mà cả tới khuya nữa, anh có nhớ không? Thế mà ở đây yên tĩnh thế này và chẳng hề có phiêu lưu gì cả. Jonathan bật cười. - Em vừa đến đây hôm qua, chớ quên như vậy. Chú ngốc ơi, chú đã kịp dính mũi vào đâu. Anh nghĩ là sẽ còn chán thời gian cho các chuyện phiêu lưu. Khi tôi suy nghĩ nghiêm chỉnh lại về chuyện này, tôi nói rằng tôi cũng đủ chuyện phiêu lưu và kì thú về Trang trại Các Hiệp Sĩ, về mấy chú ngựa, rồi về đàn thỏ, và về mọi thứ rồi. Tôi chẳng cần phiêu lưu hơn thế nữa. Lúc ấy, Jonathan nhìn tôi một cách lạ lùng, gần như anh cảm thấy xót thương cho tôi và nói: - Này, Qui Ròn, em biết không, anh mong rằng đó chỉ là cái mà em muốn. Chỉ thế thôi. Vì anh phải nói với em điều này: có những cuộc phiêu lưu mà lẽ ra không nên có. Khi chúng tôi về đến nhà, Jonathan mở làn của cô Sofia và đặt các thứ lên bàn ăn. Có một ổ bánh mì, một chai sữa, một lọ nhỏ đựng mật, và bốn chiếc bánh đa. - Cô Sofia cấp thức ăn cho mình à? - Tôi ngạc nhiên hỏi. Tôi chưa để ý xem hai anh em kiếm thức ăn như thế nào. - Thỉnh thoảng thôi, - Jonathan trả lời. - Cho không à? - Tôi lại hỏi. - Cho không, đúng vậy, em nói thế cũng được, - Jonathan nói. - Mọi thứ ở thung lũng Hoa Anh Đào này đều không phải trả tiền. Mọi người cho nhau và giúp đỡ nhau khi có việc cần. - Thế anh cho cô Sofia cái gì? - Tôi vặn. Anh lại cười. - Có chứ, có chứ, - anh nói tiếp. - Phân ngựa để bón hoa hồng chẳng hạn. Anh chăm sóc các luống hoa hồng cho cô ấy, hoàn toàn không tính chuyện công xá gì. Rồi sau đó anh hạ giọng, tôi phải cố gắng lắm mới nghe thấy: - Anh còn làm ối việc khác cho cô ấy nữa. Ngay lúc đó, tôi thấy anh lấy từ trong chiếc làn ra một vật gì nữa; một mẩu giấy cuộn nhỏ tí xíu, đúng thế, không thể là cái gì khác. Anh mở ra, đọc những điều viết trong ấy, rồi chau mày ra chiều không thích những nội dung trong đó. Nhưng anh không nói gì với tôi, mà tôi cũng không muốn hỏi. Tôi nghĩ rằng anh sẽ nói cho tôi biết trên tờ giấy đó viết gì khi anh muốn cho tôi biết. Trong góc bếp nhà chúng tôi, có một chiếc tủ tường, và ngay đêm đầu tiên tôi tới Trang trại Các Hiệp sĩ, Jonathan đã kể cho tôi đôi điều về nó. Trong chiếc tủ đó có một ngăn kéo bí mật, anh bảo tôi, một ngăn kéo mà nếu không biết cách thì không trông thấy, cũng không thế mở được. Tất nhiên, tôi muốn được lập tức xem chiếc ngăn kéo đó, nhưng Jonathan nói: - Lúc khác. Bây giờ em phải đi ngủ đã. Rồi tôi thiếp đi và quên bẵng chuyện đó, nhưng nay tôi nhớ lại, vì Jonathan bước đến tủ tường và tôi nghe thấy vài tiếng lanh canh là lạ. Chẳng khó gì cũng đoán được anh đang làm gì; anh đang giấu mẩu giấy vào trong ngăn kéo bí mật. Sau đó, anh khóa tủ lại, nhét chìa khóa vào một chiếc cối cũ kĩ đặt trên một giá treo trong bếp. Rồi chúng tôi đi bơi một hồi, và tôi nhảy từ trên cầu xuống nước! Thử tưởng tượng xem, tôi dám nhảy đấy! Rồi thì Jonathan làm cho tôi một chiếc cần câu y hệt của anh ấy, và chúng tôi câu được vài con cá, chỉ đủ một bữa tối. Tôi vớ được một chú cá sộp, còn Jonathan vớ được những hai. Chúng tôi nấu cá ngay trên lò sưởi đồ sộ của chúng tôi, bằng một chiếc nồi treo trên thanh sắt trên lửa, và khi chúng tôi ăn xong, Jonathan nói: - Nào, Qui Ròn, chúng mình sẽ xem em có phải là một người giỏi cung tên không nhé. Sẽ có lúc em cần bắn tên giỏi đấy. Anh dẫn tôi ra chuồng ngựa, và trong buồng chứa yên cương, hai chiếc cung đang treo ở đó. Tôi nhận ra rằng Jonathan đã làm ra chúng, như anh vẫn hay làm cho bọn trẻ trong sân nhà hồi ở thị trấn. Nhưng những chiếc cung này to hơn, đẹp hơn, những chiếc cung khổng lồ, tất nhiên là thế. Chúng tôi vẽ mục tiêu lên trên cửa chuồng ngựa, và chứng tôi ngắm bắn suốt buổi chiều. Jonathan dạy tôi cách bắn. Tôi bắn khá tốt, dù không bằng Jonathan, hẳn là như vậy, vì gần như phát nào anh ấy cũng bắn trúng hồng tâm. Chơi với Jonathan thích lắm. Mặc dù anh làm cái gì cũng hơn tôi, anh vẫn cho rằng như vậy chẳng có gì đáng kể cả. Anh chẳng bao giờ khoác lác, mà cứ lẳng lặng làm như thể không để ý gì đến chuyện ấy cả. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ rằng anh ấy mong cho tôi làm tốt hơn anh. Một lần tôi bắn trúng hồng tâm, tôi ấy mà, thì trông anh rất hài lòng, y như anh ấy vừa cho tôi một món quà vậy. Khi hoàng hôn buông xuống, Jonathan nói đã tới lúc chúng tôi phải lên đường tới Gà Trống Vàng. Chúng tôi huýt sáo gọi Grim và Fyalar. Chúng đang tung tăng trên các đồng cỏ ngoài Trang trại Các Hiệp sĩ, nhưng khi chúng tôi huýt sáo, chúng lập tức phi nước đại về trước cổng. Chúng tôi thắng yên cương tại đó, lên ngựa và ung dung phi xuống xóm. Tự nhiên, tôi thấy ngại và ngượng. Tôi đâu có quen tiếp xúc với mọi người, ít nhất là những người như kiểu những người sống trên Nangiyala này, và tôi nói cho Jonathan biết ý nghĩ đó. - Em ngại gì cơ chứ? - Anh hỏi. - Em có nghĩ rằng có ai ở đây sẽ làm điều gì hại đến em không đấy? - Không, tất nhiên là không, nhưng biết đâu họ sẽ cười em. Nói ra câu đó, tôi cũng thấy là ngốc nghếch,vì tại sao họ lại cười tôi cơ chứ? Nhưng tôi cứ luôn tưởng tượng ra những chuyện như vậy. - Em ạ, anh cho rằng chúng mình phải bắt đầu từ giờ trở đi gọi em là Karl Tim Sư Tử thôi. - Jonathan đề nghị - chứ cứ gọi "Qui Ròn Tim Sư Tử" thì họ sẽ cười em mất. Chính em chả đã từng cười ngặt ngoẽo khi nghe gọi như vậy là gì, mà cả anh cũng thế nữa đấy thôi. Đúng thế, tôi rất muốn được gọi bằng tên Karl. Nghe nó hợp với tên đệm hơn nhiều. - Karl Tim Sư Tử, - tôi thử kêu lên xem nghe như thế nào. - Karl và Jonathan Tim Sư Tử đang cưỡi ngựa ở đây - ừ, nghe cũng được đấy chứ, tôi nghĩ. - Nhưng em vẫn là Qui Ròn ngày xưa của anh, - Jonathan nói. - Bé Karl, em có biết vậy không? Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã xuống tới xóm, tiếng vó ngựa của chúng tôi lộp cộp khua trên đường làng. Việc tìm đường chẳng khó khăn gì vì từ xa chúng tôi đã nghe tiếng nói cười. Và chúng tôi cũng còn trông thấy dấu hiệu một chú trống choai mạ vàng to tướng; đúng rồi, đó là quán Gà Trống Vàng, y như những ngôi quán thân thiện ngày xưa mà ta thường đọc thấy trong sách. Ánh sáng mờ ảo đầm ấm hắt ra qua những ô cửa sổ làm ta thật sự muốn thử đi vào trong quán xem ra làm sao. Bởi lẽ trước đây tôi chưa từng làm thế bao giờ. Nhưng chúng tôi phi ngựa vào sân và buộc Grim và Fyalar cùng chỗ với rất nhiều chú ngựa khác đang ở đó. Đúng thật, như Jonathan nói, ở Nangiyala phải có ngựa. Tôi nghĩ rằng mọi người ở Thung lũng Hoa Anh đào tối đó đều đi ngựa đến Gà Trống Vàng. Gian phòng để bán thức uống đã chật ních người khi chúng tôi bước vào. Đàn ông và đàn bà, người lớn và trẻ con, tất cả mọi người trong xóm đều có mặt ở đó, ngồi chuyện trò vui vẻ, mặc dù có mấy đứa bé đã ngủ gật ngủ gà trong lòng bố mẹ. Mọi người nhốn nháo cả lên khi chúng tôi bước vào. - Jonathan ơi! - Họ gọi ầm lên. - Jonathan đến rồi! Ông chủ quán - một người có gò má cao, đỏ phừng, khá điển trai - ông ta hét to, át mọi thứ tiếng gọi khác. - Jonathan đến rồi, mà không, hai anh em Tim Sư Tu đến rồi, trời đất ơi, cả hai anh em nhé! Bác ta bước ra, nhấc bổng tôi lên một chiếc bàn, để mọi người cùng thấy tôi, còn tôi đứng đó, cảm thấy mặt mũi đang đỏ bừng lên. Nhưng Jonathan nói: - Đây là cậu em trai yêu qúy Karl Tim Sư Tử của cháu, cuối cùng thì em cũng đã tới đây. Các bác phải đối xử tốt với em cháu cũng như các bác đã đối xử tốt với cháu đấy nhé. - Cháu cứ tin như vậy đi, - người chủ quán đáp lời, và lại nhấc bổng tôi xuống đất. Nhưng trước khi thả tôi ra, bác ta ôm choàng lấy tôi một lát và tôi thấy là bác ấy khỏe mạnh như thế nào. - Hai bác cháu mình, - bác ấy nói. - Chúng mình cũng sẽ là bạn tốt của nhau như Jonathan và bác. Tên bác là Jossi, mặc dù nói chung mọi người gọi bác là Gà Trống Vàng. Và cháu có thể tới Gà Trống Vàng bất kì lúc nào cháu muốn, nhớ nhé, Karl Tim Sư Tử. Sofia cũng ngồi ở đó, cô ngồi một mình bên chiếc bàn, nên Jonathan và tôi đến ngồi cùng. Cô ấy bằng lòng lắm, tôi nghĩ vậy. Cô cười hiền từ và hỏi tôi nghĩ thế nào về con ngựa của tôi và xem hôm nào dó liệu Jonathan có thể tới giúp cô làm vườn không. Nhưng rồi sau đó, cô ngồi yên lặng và tôi nhận thấy cô đang lo lắng điều gì. Tôi còn nhận thấy có điều gì đó khác nữa. Mọi người trong gian phòng bán thức uống này đều hầu hết nhìn cô Sofia với đôi chút kính cẩn, và khi có ai đó đứng dậy đi ra, thì người đó thường trước hết cúi đầu về phía bàn chúng tôi, như thể ở cô có điều gì đó rất đặc biệt, mặc dù tôi không hiểu vì sao. Cô ngồi đó, ăn mặc thật giản dị, trên đầu choàng một chiếc khăn, đôi tay nhám nâu vì công việc đặt trên lòng, như bất kì một ngưòi phụ nữ nông dân nào khác. Cô ấy có cái gì nổi bật thế nhỉ, tôi tự hỏi? Trong quán thật vui. Chúng tôi hát bao nhiêu bài hát, có những bài tôi đã biết từ trước, cũg có những bài tôi chưa từng nghe, nhưng ai ai cũng đều phấn khởi. Nhưng có thật vậy không? Đôi khi, tôi có cảm giác họ có chuyện lo lắng bí mật nào đó, y như cô Sofia. Cứ như là chốc chốc, họ lại chợt nghĩ về điều gì đó khác, điều làm cho họ sợ hãi. Nhưng Jonathan chẳng bảo cuộc sống ở Thung lũng Hoa Anh đào dễ dàng và giản dị là gì, vậy thì họ còn sợ hãi cái gì? Ôi, mà giữa những lần lo lắng sợ hãi đó, họ thật vui vẻ, hò hát, cười đùa, và ai ai cũng đều là bạn tốt và yêu quí nhau, hình như thế. Nhưng tôi nghĩ họ yêu Jonathan nhất. Cũng y như hồi ở nhà trong thị trấn; ai cũng yêu anh ấy. Cả Sofia nữa, họ cũng yêu quý cô ấy, tôi nghĩ vậy. Rồi về sau, khi chúng tôi ra về, Jonathan và tôi, trên đường vào sân lấy ngựa, tôi hỏi: - Jonathan này, cô Sofia có gì đặc biệt thế? Ngay khi đó, chúng tôi nghe thấy một giọng nói gầm gừ phía sau: - Đúng như thế! Ta cũng vẫn thường băn khoăn tự hỏi rằng Sofia thì có gì mà đặc biệt thế cơ chứ. Trong sân tối quá, tôi không nhìn thấy người vừa nói là ai. Nhưng đột nhiên, người đó bước ra luồng ánh sáng từ cửa sổ hắt ra, va tôi nhận ra đó là người đàn ông ngồi gần chúng tôi trong quán, một người đàn ông có mái tóc đỏ, xoăn và một bộ râu cũng đỏ. Tôi nhận ra người đó vì bác ta cả buổi tối chỉ ngồi lầm lì và không hát hò gì. - Ai thế? - Tôi hỏi Jonathan khi chúng tôi lộp cộp phi qua cổng xóm. - Bác ta tên là Hubert, - Jonathan trả lời. - Và bác ta biết quá rõ Sofìa có gì đặc biệt. Rồi chúng tôi phi ngựa về. Đêm ấy trời lạnh giá, sao sáng. Chưa bao giờ tôi thấy trời nhiều sao và sao sáng đến thế. Tôi cố đoán xem Trái Đất là ngôi sao nào. Nhưng Jonathan bảo: - Gì cơ, Trái Đất ấy à, nó đang lang thang đâu đó ở nơi xa, xa lắm trong vũ trụ; đứng đây em không thấy được đâu. Thế thì thật là buồn, tôi nghĩ. Chương 5 Nhưng rồi cũng tới ngày mà tôi phát hiện ra điều đặc biệt về cô Sofia. Một buổi sáng, Jonathan nói: - Chúng mình cùng tới chỗ Bà chúa Bồ câu một lúc đi. - Hết ý, - tôi đáp. -Nhưng Bà chúa ấy là thế nào? - Cô Sofia, - Jonathan trả lời. - "Bà chúa Bồ câu", anh gọi đùa cô ấy như thế ấy mà. Chỉ lát sau, tôi hiểu vì sao anh tôi gọi như vậy. Đường tới Trang trại Hoa Tulip, nơi cô Sofia sống, khá xa. Nhà cô ở bên ngoài Thung lũng Hoa Anh đào, phía sau là những ngọn núi cao. Chúng tôi tới đó vào buổi sáng, và thấy cô Sofia đang đứng đó cho đàn bồ câu của cô ăn, tất cả đều là bồ câu trắng như tuyết. Khi tôi nhìn thấy chúng, tôi lại nhớ cô, chính là con bồ câu trắng đã đậu trên khung cửa sổ nhà tôi, cách đây ít nhất cũng đã một ngàn năm. - Anh có nhớ không, - tôi thầm thì với Jonathan. - Có phải một con bồ câu trong số này đã cho anh mượn bộ lông khi...khi anh đến với em? - Phải, - Jonathan đáp. - Nếu không thì làm sao anh tới được? Bồ câu của cô Sofia là những con bồ câu duy nhất có khả năng bay xa vô cùng tận. Đàn bồ câu như làn mây trắng bao quanh Sofia, còn cô đứng đó, lặng yên ở giữa, xung quanh là cánh bồ câu vỗ. Thế mới đúng là Bà chúa Bồ câu, tôi nghĩ. Rồi cô nhận ra sự có mặt của chúng tôi. Cô vồn vã chào chúng tôi, như thưòng lệ, nhưng cô không vui; cô đang rất buồn và lập tức nói nhỏ với Jonathan: - Cô thấy Violanta chết, một mũi tên bắn trúng ngực nó, đêm qua. Trên Gò Chó sói. Và bức thư đã biến mất. Mắt Jonathan tối sầm lại. Tôi chưa bao giờ thấy anh ấy như vậy, chưa bao giờ anh ấy tỏ ra đau đớn như vậy. Tôi không còn nhận ra anh và giọng nói của anh nữa. - Thế tức là đúng như cháu nghĩ mà, - anh nói. - Trong Thung lũng Hoa Anh Đào của chúng ta có kẻ phản bội. - Đúng, cô cho rằng trong chúng ta có kẻ như vậy. - cô Sofia đồng ý. - Cô đã không muốn tin như vậy. Nhưng bây giờ thì cô thấy đúng là như vậy rồi. Có thể thấy rất rõ là cô đang buồn như thế nào, nhưng cô vẫn quay sang nói với tôi: - Vào đi Karl, cháu phải vào và tham quan nhà cô đi chứ. Cô sống một mình trong Trang trại Hoa Tulip cùng đàn bồ câu, đàn ong và đàn dê của cô, giữa một khu vườn nhiều hoa đến mức khó mà đi nổi qua vườn. Khi cô Sofia dẫn tôi đi quanh nhà, Jonathan bắt đầu đào đất, nhổ cỏ như ta vẫn làm khi mùa xuân tới. Tôi xem xét đủ thứ, từ bao nhiêu tổ ong, những cây hoa Tulip, những đóa thủy tiên trắng xóa, tới đàn cừu lạ mắt của cô, nhưng đồng thời đầu tôi vẫn luôn nghĩ tới Violanta, không hiểu đó là ai, đã bị bắn chết trên những ngọn núi kia. Chỉ lát sau, hai cô cháu đã quay lại chỗ Jonathan. Anh đang quì xuống nhổ cỏ hăng đến mức các ngón tay anh đen trũi. Cô Sofia rầu rầu nhìn anh và nói: - Nghe cô nói đây, cậu bé thợ vườn của cô. Cô nghĩ cháu sẽ phải sớm bắt tay vào việc khác bây giờ đây. - Cháu hiểu, - Jonathan đáp lại. Cô Sofia đáng thương, chắc cô không muốn để chúng tôi thấy cô đang phải lo lắng đến thế, tôi đoán. Cô bước đi, đăm đăm nhìn về những ngọn núi, trông cô lo lắng tới mức tôi cũng đâm ra lo. Cô đang trông ngóng cái gì vậy? Cô đang chờ đợi ai vậy? Chúng tôi được biết ngay thôi, vì cô Sofia đột nhiên nói: - Kia rồi! Lạy Chúa, Paloma kia rồi! Đó là một con bồ câu trong đàn bồ câu của cô đang bay tới; lúc đầu chỉ là một chấm nhỏ xíu giữa bao ngọn núi, rồi rất nhanh, nó đã tới, đậu trên vai Sofia. - Vào đi, Jonathan. - cô Sofia vội vã nói. - Vâng, nhưng còn Qui Ròn, tức là Karl ấy mà, - Jonathan nói. - Phải nói cho em ấy biết hết mọi chuyện bây giờ chứ ạ? - Tất nhiên, - cô Sofia trả lời. - Mau lên, cả hai cháu, vào đi. Với con bồ câu vẫn đậu trên vai, cô Sofia chạy vào nhà trước chúng tôi. Cô dẫn chúng tôi vào một buồng nhỏ liền bếp, rồi khoá cửa, hạ rèm. Tôi đoán chắc cô không muốn để ai trông thấy hoặc nghe thấy chúng tôi làm gì. - Paloma, bồ câu của ta ơi, - cô Sofia gọi. - Hôm nay, bồ câu có tin tức gì tốt lành hơn hôm qua không? Cô luôn tay vào dưới cánh bồ câu và lấy ra một chiếc lọ nhỏ. Từ chiếc lọ ấy, cô rút ra một cuộn giấy tí xíu, đúng như cuộn giấy tôi đã thấy Jonathan lấy ra từ chiếc làn và giấu vào trong chiếc tủ tường ở nhà. - Cô đọc nhanh đi, - Jonathan giục. - Nhanh lên, nhanh nữa lên! Sofia đọc, rồi bật ra một tiếng kêu khẽ. - Chúng lại bắt cả Orvar nữa rồi, - cô nói. - Thế là giờ đây chẳng còn ai ở đó có thể thực sự làm gì nổi nữa rồi. Cô đứa mẩu giấy cho Jonathan, và anh càng đọc thì mắt anh càng tối sầm lại. - Một kẻ phản bội ở Thung lũng Hoa Anh đào, - anh nói. - Cô nghĩ ai có thể là kẻ khốn nạn đến như thế? - Cô không biết, - Sofia trả lòi. - Chúa biết. Nhưng Chúa cũng không giúp được cho nó, dù nó là ai, khi cô tìm ra nó. Tôi ngồi nghe mà chẳng hiểu gì cả. Cô Sofia thở dài, rồi bảo: - Cháu phải kể cho Karl nghe đi. Còn cô đi kiếm thức ăn sáng cho hai đứa đã. Cô biến vào trong bếp. Jonathan ngồi bệt xuống sàn nhà, tựa lưng vào tường. Anh ngồi yên lặng, mắt trân trân nhìn vào những ngón tay đầy bùn đất của anh, mãi sau mới nói: - Được, anh sẽ kể cho em nghe đây. Vì cô Sofia đã nói rằng anh có thể kể được. Anh đã từng kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện về Nangiyala, cả trước lẫn sau khi tôi tới đây, nhưng chưa hề có chuyện nào giống như những chuyện tôi được nghe kể khi ấy, trong buồng của cô Sofia. - Em còn nhớ chứ, anh đã nói với em, - anh bắt đầu kể, - rằng cuộc sống ở đây, trong Thung lũng Hoa Anh Đào này, thật dễ chịu và đơn giản. Đúng là đã từng như thế, và lẽ ra phải như thế, nhưng bây giờ thì không thế được như thế nữa rồi. Vì khi cuộc sống ở một thung lũng khác trở nên khổ sở và khó khăn, thì cuộc sống trong Thung lũng Hoa Anh Đào cũng trở nên khó khăn, em có đồng ý như vậy không? - Tức là ở đây không chỉ có một thung lũng này sao? - Tôi hỏi, và rồi Jonathan kể cho tôi nghe rằng Nangiyala có hai thung lũng xanh rờn tuyệt đẹp nằm giữa những dãy núi của Nangiyala, Thung lũng Hoa Anh Đào và Thung lũng Bông Hồng Dại. Đó là những thung lũng sâu, được bao bọc xung quanh bởi những ngọn núi cao vút, lởm chởm, khó lòng trèo qua nếu không biết những con đường nhỏ cheo leo ngoắt ngoéo rất nguy hiểm, Jonathan bảo vậy. Nhưng dân ở hai thung lũng đều biết đường này nên họ có thể đi lại thoải mái để thăm hỏi nhau. - Hay nói một cách chính xác hơn, họ vốn từng làm như vậy, - Jonathan nói tiếp. - Nhưng bây giờ không ai được phép ra khỏi Thung lũng Bông Hồng Dại nữa, mà cũng không ai vào được đó nữa. Ngoài những con bồ câu của cô Sofia. - Sao lại không? - Tôi hỏi. - Vì Thung lũng Bông Hồng Dại không còn là một xứ sở tự do nữa, - Jonathan trả lời. - Vì thung lũng đó hiện nay trong tay quân thù. Anh nhìn tôi như lấy làm tiếc vì đã làm tôi sợ. - Và ai biết được điều gì sẽ xảy ra trong Thung lũng Hoa Anh Đào, - anh nói. Khi ấy, tôi thấy sợ hãi. Tôi vẫn đi đây đi đó thật tự do thoải mái, cứ nghĩ rằng ở Nangiyala không có gì nguy hiểm, nhưng giờ đây tôi thật sự thấy sợ. - Quân thù ấy như thế nào? - Tôi hỏi. - Tên hắn là Tengil, - Jonathan đáp, và cách anh phát âm cái tên ấy nghe đã thấy kinh khủng và nguy hiểm. - Tengil ở đâu? - Tôi hỏi tiếp. Jonathan kể cho tôi nghe về Karmanyaka, một xứ sỏ mãi trên những ngọn núi thuộc Vùng núi Cổ kính, mãi phía ngoài dòng sông thuộc Vùng sông Cổ kính, là nơi Tengil trị vì, tàn ác như loài rắn độc. Tôi nghe càng thấy sợ hơn, nhưng tôi không muốn thể hiện ra ngoài. - Tại sao hắn không thể cứ ở yên trong Vùng núi Cổ kính của hắn, - tôi hỏi. - Tại sao hắn lại phải đến Nangiyala để tàn phá các thứ? - Em ạ, - Jonathan nói. - Ai mà trả lời đước câu hỏi đó sẽ trả lời được rất nhiều điều khác. Anh không biết vì sao hắn ta lại phải phá phách mọi thứ cơ chứ. Nhưng hắn ta đang làm như vậy. Hắn ta căm ghét cuộc sống của mọi người trong các thung lũng, và hắn ta cần có kẻ hầu người hạ. Rồi anh lại ngồi im, trân trân nhìn bàn tay mình, nhưng lẩm bẩm mấy chữ gì đó mà tôi nghe được. - Con quỉ ấy, nó còn có Katla nữa! Katla! Tôi không hiểu sao cái từ ấy nghe thật rùng rợn hơn tất cả những điều anh ấy nói nên tôi hỏi anh: - Katla là ai vậy? Nhưng Jonathan chỉ lắc đầu. - Thôi, Qui Ròn, anh biết là em đang hoảng hồn rồi. Anh không muốn nói về Katla nữa,vì rồi em sẽ mất ngủ đêm nay cho mà xem. Thay vào đó, anh kể cho tôi nghe điều đặc biệt về cô Sofia. - Cô ấy là lãnh tụ của cuộc đấu tranh bí mật của chúng ta chống Tengil, - anh nói. - Chúng ta chiến đấu với hắn, em thấy đấy, là để giúp Thung lũng Bông Hồng Dại. Nhưng chúng ta phải làm việc đó một cách bí mật. - Nhưng cô Sofia, sao lại chỉ mình cô ấy - tôi thắc mắc. - Vì cô ấy là người mạnh mẽ và hiểu biết về những chuyện như vậy, - Jonathan đáp. - Và vì cô ấy không một chút mảy may sợ hãi. - Sợ hãi ư? Nhưng anh cũng có sợ hãi đâu, đúng không, Jonathan? Anh suy nghĩ một lát rồi nói: - Không, anh cũng không sợ. Ôi, ước gì tôi cũng can đảm như cô Sofia và anh Jonathan. Nhưng thực ra tôi đang ngồi đó, kinh hoảng tới mức khó có thể nghĩ được gì. - Việc làm của cô Sofia và đàn chim bồ câu của cô chuyển những bức thư bí mật sang bên kia núi, việc ấy tất cả mọi người có biết không? - Chỉ những người nào hoàn toàn tin cậy được. - Jonathan trả lời. - Thế mà trong số đó hiện có một kẻ phản bội, và thế cũng quá đủ rồi. Lúc này, mắt anh lại tối sầm, và anh nói giọng rầu rĩ: - Violanta đang chuyển một bức thư mật của cô Sofia khi nó bị bắn rơi hôm qua. Và nếu bức thư đó lọt vào tay Tengil thì nhiều người ở Thung lũng Bông Hồng Dại sẽ bị chết. Tôi nghĩ rằng thật kinh khủng khi có kẻ có thể nỡ bắn một con chim hồ câu bay ngang qua, trong trắng và ngây thơ đến thế, ngay cho dù nó có mang theo một bức thư mật. Rồi tự nhiên tôi nhớ tới cái mà chúng tôi cất trong chiếc tủ tường ở nhà. Tôi hỏi Jonathan vì sao chúng tôi lại giấu những bức thư mật trong tủ ấy, vì như vậy chẳng quá nguy hiểm sao? - Đúng, có nguy hiểm đấy, - Jonathan nói. - Nhưng nếu để ở nhà cô Sofia lại còn nguy hiểm hơn nhiều. Bọn gián điệp của Tengil hẳn sẽ phải lục tìm nơi ấy trước hết, nếu chúng tới Thung lũng Hoa Anh Đào, chứ không phải là nhà của thằng bé làm vườn cho cô ấy. - Có điều rất tốt là, Jonathan nói, không ai ngoài cô Sofia biết anh thật sự là ai, rằng anh không chỉ là thằng bé làm vưòn cho cô, mà còn là người gần gũi nhất của cô trong cuộc đấu tranh chống Tengil. - Cô Sofia tự quyết định chuyện đó, - anh bào. - Cô ấy không muốn bất kì ai ở Thung lũng Hoa Anh Đào biết, vì thế bây giờ em cũng phải thề sẽ giữ kín chuyện này đến khi nào có Sofia công bố cho mọi người biết. Sau đó, tôi thề thà chết chứ không khai ra những gì tôi đã được nghe. Chúng tôi ăn sáng ở nhà cô Sofia rồi lên ngựa ra về. Có ai đó cùng phi ngựa ngoài trời sáng hôm đó, chính là người chúng tôi đã gặp trên đưòng từ Trang trại Hoa Tulip về. Người ấy có bộ râu đỏ - tên ông ta là gì nhỉ? Phải Hubert không nhỉ? - A, hai đứa vừa đến chỗ cô Sofia đấy à? - Hubert hỏi- Hai đứa làm gì ở đó thế? - Nhổ cỏ trong vườn, - Jonathan trả lòi, giơ cao những ngón tay đầy bùn đất. - Còn bác, bác đi săn đấy à? - Anh hỏi, vì Hubert có bộ cung tên đặt trên mấu yên ngựa. - Phải, bác đang đi kiếm vài con thỏ đây - Hubert đáp. Tôi liên tưởng tới mấy con thỏ con ở nhà, và tôi rất mừng là Hubert đã quất ngựa đi khỏi, nên tôi không còn phải trông thấy bác ta nữa. - Cái ông Hubert này. - tôi quay sang Jonathan. - Anh nghĩ ông ta là người thế nào? Jonathan suy nghĩ giây lát. - Bác ta là người bắn cung thiện xạ nhất trong cả vùng Thung lũng Hoa Anh Đào này. Anh không nói gì thêm, sau đó giục ngựa đi nhanh hơn và chúng tôi phi về. Jonathan đem theo bức thư của Paloma, nhét vào trong một chiếc túi da nhỏ dưới lần áo, và khi chúng tôi về tới nhà, anh cất mẩu giấy đó vào trong ngăn kéo bí mật trong tủ tường. Nhưng trước đó, tôi được phép đọc những điều viết trên đó, nội dung thế này: "Orvar bị bắt hôm qua, hiện bị giam trong Hang Katla. Chắc chắn có kẻ ở Thung lũng Hoa Anh Đào đã khai ra nơi ẩn náu của anh ấy. Chỗ các bạn có kẻ phản bội. Hãy tìm ra hắn. " - Hãy tìm ra hắn, - Jonathan nói. - Giá như mình tìm ra được. Trong bức thư còn viết nhiều điều khác nữa, nhưng viết bằng mật mã nên tôi không hiểu, và Jonathan nói rằng tôi cũng không cần phải biết, đó là điều chỉ có Sofia cần biết thôi. Rồi anh chỉ cho tôi cách mở ngăn kéo bí mật. Tôi được tập đóng mở vài lần. Sau đó, anh tự mình đóng lại, khoá tủ tường và nhét chìa khóa vào chiếc cối. Suốt ngày hôm đó, tôi toàn nghĩ về những chuyện tôi mới được biết, và đêm đó tôi ngủ không thật ngon. Tôi mơ thấy Tengil, thây những con bồ câu bị chết, rồi thấy người tù bị giam trong Hang Katla, và tôi kêu ầm lên trong mơ đến mức tôi tỉnh dậy. Ngay lúc đó - có ai tin tôi không - lúc đó, tôi trông thấy có người đang đứng trong góc tối cạnh chiếc tủ tường; người đó hoảng hốt khi tôi kêu lên và biến mất như một bóng đen qua cửa, trước khi tôi tỉnh ngủ hoàn toàn. Tất cả những chuyện đó diễn ra nhanh đến nỗi tôi gần như nghĩ rằng tôi đang mơ, nhưng Jonathan không tin như vậy khi tôi lay anh dậy và kể lại cho anh nghe. - Không phải đâu, Qui Ròn ạ, không phải là mơ đâu, - anh nói. - Chắc chắn đó không phải là mơ đâu, mà là tên phản bội đấy! Chương 6 - Sẽ tới lúc hết đời Tengil, - Jonathan nói. Chúng tôi đang nằm trên bãi cỏ xanh bên bờ suối, và vào một buổi sáng như thế này thì không ai tin được rằng có Tengil hoặc bất kì tên quỉ ác nào tồn tại trên đời này. Không gian tuyệt đối yên ắng và thanh bình, nưóc chảy xoáy nhẹ xung quanh những hòn đá dưới chân cầu tạo nên những bọt bong bóng, đó là âm thanh duy nhất ta có thể nghe thấy. Thật êm đềm biết bao khi được nằm ngửa mặt nhìn lên, cũng không thấy gì ngoài mấy cụm mây trắng mãi trên trời cao. Ta có thể cứ nằm như thế, lòng tràn đầy sung suớng, nhẩm hát một mình, không gợn bận tâm về bất cứ điều gì. Thế mà đúng lúc ấy Jonathan lại nói vềTengil! Tôi chẳng muốn nhớ tới hắn ta, nhưng đồng thời tôi hỏi: - Anh nói thế nghĩa là thế nào? Rằng Tengil sẽ hết đời ấy? - Nghĩa là điều đó sẽ xảy ra với hắn ta, xảy ra với tất cả những kẻ chuyên chế bạo tàn, không sớm thì muộn, - Jonathan nói. - Nghĩa là hắn ta sẽ bị nghiến nát như đồ chấy rận, kết thúc vĩnh viễn. - Em mong sẽ sớm được như vậy, - tôi đáp. Có tiếng Jonathan lẩm bẩm. - Nhưng hắn ghê lắm, Tengil ấy. Và hắn còn có Katla nữa! Một lần nữa, anh nhắc tới cái tên kinh khủng ấy. Tôi muốn hỏi anh về hắn, nhưng tôi không nói gì. Cũng y như chẳng cần biết điều gì về Katla vào một buổi sáng đáng yêu đến như thế. Nhưng Jonathan tiếp tục nói, về một chuyện tồi tệ hơn bất cứ chuyện gì khác. - Qui Ròn, em sẽ phải ở lại Trang trại Các Hiệp sĩ này một mình một thời gian. Vì anh phải đi sang Thung lũng Bông hồng Dại. Làm sao mà anh ấy có thể nói ra điều khủng khiếp đến như vậy được cơ chứ? Làm sao mà anh ấy có thể nghĩ rằng tôi có thể ở Trang trại Các Hiệp sĩ này một phút mà không có anh cơ chứ? Nếu anh ấy đang tính chuyện quăng mình vào miệng Tengil, thì tôi cũng sẽ cùng làm với anh, và tôi nói cho anh như thế. Khi đó, anh nhìn tôi vẻ rất lạ và nói: - Qui Ròn, anh chỉ có một mình em, và anh muốn che chở cho em trước mọi điều dữ. Vì sao em có thể yêu cầu anh đem em theo trong lúc anh cần dành toàn bộ sức vào việc khác? Mà việc đó thực sự nguy hiểm. Giải thích như vậy không ăn thua. Tôi buồn bực và tức giận, thấy trong lòng cứ sôi sùng sục, rồi tôi khóc: - Còn anh nữa, làm sao anh có thể yêu cầu em ở lại một mình trong Trang Trại Các Hiệp sĩ, ngóng chờ anh, mà biết đâu anh sẽ chẳng bao giờ quay về nữa? Tôi chợt nhớ lại chuyện xưa khi Jonathan chết, chia lìa khỏi tôi, còn tôi nằm trên chiếc xô-pha giường, đâu biết được liệu còn có ngày gặp lại anh ấy; cứ như đang nhìn xuống một chiếc hang sâu đen ngòm, cứ thử tưỏng tượng như thế mà xem. Thế mà bây giờ anh lại muốn bỏ tôi lại, chỉ để biến vào trong những hiểm nguy mà tôi không hề được biết, và nếu anh không trở lại, thì lần này sẽ không còn gì cứu giúp được nữa, tôi sẽ bơ vơ mãi mãi, mãi mãi. Tôi cảm thấy mỗi lúc một bực tức hơn, và thứ kinh khủng mà tôi nghĩ ra được. Thật khó lòng anh làm cho tôi dịu lại, cho dù chỉ chút ít. Nhưng tất nhiên, sự việc vẫn kết cục như anh muốn. Tôi biết rằng anh hiểu biết mọi chuyện hơn tôi. - Ngốc ạ, tất nhiên là anh sẽ trở về chứ, - anh nói. Khi đó là buổi tối, chúng tôi đang ngồi sưởi bên lò lửa trong bếp, buổi tối trước hôm anh lên đường. Tôi không còn giận dữ nữa, mà chỉ buồn, và Jonathan biết vậy. Anh thật tốt với tôi. Anh đưa tôi bánh mì mới nướng, đã phết bơ và mật rồi kể cho tôi nghe các truyền thuyết và nhiều chuyện, nhưng tôi không thể chú ý nghe được. Tôi đang nghĩ tới truyền thuyết về Tengil mà tôi bắt đầu cho rằng tàn ác nhất trong tất cả truyền thuyết. Tỏi hỏi Jonathan vì sao anh lại đi làm cái chuyện nguy hiểm như vậy. Không lẽ anh không thể ở nhà bên bếp lửa hồng trong Trang Trại Các Hiệp sĩ mà vui thú? Nhưng Jonathan đáp rằng có những việc người ta vẫn phải làm cho dù biết là nguy hiểm. - Tại sao? - Nếu không, người ta không còn là con người nữa, mà chỉ là đồ rác rưởi. Anh kể cho tôi nghe điều anh sắp làm. Anh phải đi cứu Orvar thoát khỏi Hang Katla. Vì lẽ Orvar còn có ý nghĩa hơn cả Sofia, Jonathan nói vậy, và không có Orvar thì có lẽ các thung lũng xanh tươi của Nangiyala cũng bị kết liễu. Khuya quá rồi, lửa đã tàn, và đêm đã xuống. Rồi đến ban ngày, tôi đứng bên cổng, nhìn theo Jonathan phóng ngựa đi, biến mất trong sương mờ; đúng thế, buổi sáng hôm đó cả Thung lũng Hoa Anh đào ngập trong sương mờ. Và xin các bạn hãy tin tôi khi tôi nói rằng trái tim tôi như muốn vỡ khi bóng hình anh ấy mờ dần rồi khuất hẳn. Rồi tôi còn lại một mình. Thật không thể chịu nổi. Tôi phát điên vì buồn khổ, tôi chạy ra chuồng ngựa, lôi Fyalar ra, quăng mình lên yên và phóng theo Jonathan. Tôi phải được gặp anh ấy một lần nữa, trước khi mất anh mãi mãi. Anh đang tới Trang trại Hoa Tulip trước hết để nhận lệnh của cô Sofia, tôi biết vậy, nên tôi cũng phóng tới đó. Tôi phóng như rồ như dại, và tôi đuổi kịp anh ngay sát trang trại ấy. Lúc đó, tôi thấy ngượng quá, chỉ muốn trốn đi, nhưng anh đã nghe tiếng và đã nhìn thấy tôi. - Em muốn gì thế? - Anh hỏi. Chà, tôi muốn gì ư? - Có chắc anh sẽ quay về không? - Tôi lí nhí. Tất cả điều tôi nghĩ ra để nói chỉ có vậy. Rồi anh phi ngựa bên tôi, hai con ngựa bên nhau. Jonathan lấy ngón tay trỏ chùi cái gì đó trên gò má tôi, nước mắt hay cái gì đó, và nói: - Đừng khóc, Qui Ròn. Chúng mình sẽ gặp lại nhau, - anh hứa với em như vậy. Và nếu không gặp ở đây, thì sẽ gặp ở Nangilima. - Nangilima? - Tôi hỏi. - Đó là đâu vậy? - Lúc khác anh sẽ kể cho em, - Jonathan trả lời. Tôi cũng không biết tôi đã làm thế nào chịu được quãng thời gian tôi một mình ở Trang trại Các Hiệp sĩ, hoặc làm thế nào cho ngày ngày trôi qua. Tôi chăm sóc mấy con vật của tôi, tất nhiên rồi. Tôi ở trong chuồng ngựa với Fyalar hầu hết thời gian, rồi tôi dành nhiều lúc chuyện trò với thỏ. Đôi khi tôi cũng đi câu, rồi tập bắn cung tên, nhưng mọi việc dường như vô nghĩa khi không có Jonathan. Thỉnh thoảng, cô Sofia lại đem thức ăn cho tôi, rồi cùng tôi nói chuyện về Jonathan. Tôi cứ luôn hi vọng cô ấy sẽ nói ”anh cháu sắp về rồi", nhưng cô không nói gì. Tôi cũng muốn hỏi cô tại sao cô không tự mình đi cứu Orvar mà lại cử Jonathan đi. Nhưng việc gì tôi phải hỏi, khi tôi đã biết câu trả lời. Tengil căm thù cô Sofia, có lần Jonathan đã giải thich với tôi. - Sofia ở Thung lũng Hoa Anh đào và Orvar ở Thung lũng Bông hồng Dại, đó là những ngưòi mà hắn thù ghét nhất, và em có thể tin chắc rằng hắn hiểu như vậy. - Jonathan nói khi kể các chuyện cho tôi nghe. - Hắn đã giam Orvar trong Hang Katla và hắn đang muốn giam cả Sofia vào đó nữa, để mòn mỏi và chết. Thằng khốn kiếp ấy, hắn hứa sẽ thưởng mười lăm con ngựa bạch cho người nào giao cho hắn Sofia, còn sống hay chết rồi đều được. Jonathan kể cho tôi nghe như thế. Cho nên tôi hiểu tại sao cô Sofia phải lánh xa Thung lũng Bông hồng Dại, còn anh Jonathan phải đi thay. Tengil không biết gì về anh ấy, mọi người nghĩ vậy, hoặc ít nhất, mọi người hi vọng như vậy. Nhưng có kẻ đã biết Jonathan không chỉ là một thằng bé làm vườn: kẻ đó đã từng có đêm đến nhà tôi, tôi đã thấy kẻ đó đứng bên tủ tường. Cô Sofia không thể không lo ngại về kẻ đó. - Kẻ đó hẳn đã biết quá nhiều. - cô bảo. Cô bảo tôi báo tin cho cô nếu có kẻ nào tới dòm ngó gì quanh Trang trại Các Hiệp sĩ. Tôi cho cô biết là có kẻ nào tới lại tủ tường thì cũng vô ích, vì chúng tôi đã chuyển toàn bộ những giấy tờ bí mật đến nơi khác rồi. Hiện nay, chúng tôi giấu trong sọt kiều mạch ngoài phòng treo yên cương ngựa, trong một bao thuốc lá to vùi phía dưới kiều mạch. Cô Sofia cùng tôi ra phòng yên cương, bới lấy bao thuốc lá lên, rồi cho tiếp một bức thư khác vào đó. Thật là một chỗ giấu kín đáo, cô nghĩ vậy, và tôi cũng nghĩ vậy. - Hãy cố chịu đựng nhé, - cô Sofia dặn khi ra về. - Cô biết là khó đấy, nhưng cháu phải cố. Mà khó thật, nhất là về tối và đêm. Tôi ngủ mơ những giấc mơ khủng khiếp về Jonathan và mỗi lúc tỉnh giấc lại lo lắng về anh. Một tối, tôi phi ngựa xuống Gà Trống Vàng. Tôi không thể chịu đựng nổi phải ngồi nhà trong Trang trại Các Hiệp sĩ, vì vắng lặng quá và y như là có thể nghe thấy ý nghĩ của tôi rất rõ; mà lại không phải là những ý nghĩ làm cho mình vui lên được. Tất cả mọi người đều tròn mắt nhìn tôi; thật thế họ tròn mắt thật, khi thấy tôi buớc vào quán mà không có Jonathan đi cùng. - Có chuyện gì thế? - Jossi hỏi. - Chỉ có một nửa anh em Tim Sư tử thế này! Cháu đã gây sự gì với Jonathan vậy? Tôi khó nói quá. Tôi nhớ những lời khuyên bảo của cô Sofia và Jonathan với tôi. Cho dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng không được nói cho ai biết Jonathan đang làm gì và đang đi đâu. Không cho bất cứ người nào! Cho nên tôi vờ như không nghe thấy câu hỏi của Jossi. Nhưng Hubert đang ngồi tại bàn của bác ta, và bác ta cũng muốn biết. - Phải đấy, Jonathan đâu? - Bác ta hỏi. - Chắc Sofia chưa loại bỏ thằng bé làm vườn chứ? - Jonathan đi săn, - tôi đáp. - Anh ấy lên núi săn chó sói. Tôi phải nói một câu gì đó, và tôi cho rằng tôi đã bịa khá tốt, vì Jonathan từng nói rằng trên núi có tương đối nhiều chó sói. Tối đó cô Sofia không có mặt ở quán, nhưng cả xóm vẫn đến đó như thường lệ. Rồi họ hò hát vui nhộn như thường lệ. Nhưng tôi không cùng hát với họ vì đối với tôi, mọi sự đã khác rồi. Không có Jonathan, tôi chẳng thích thú gì nơi này nên tôi chẳng ở lại lâu. - Chớ buồn bã như vậy, Karl Tim Sư tử à. - Jossi nói khi tôi ra về. - Jonathan chẳng bao lâu sẽ săn xong và về thôi. Ôi, bác ấy nói thế làm tôi thích quá! Bác còn vỗ vỗ má tôi, rồi cho tôi mấy chiếc bánh ngon để tôi đem về. - Cháu có thể nhét mấy cái này vào bụng khi ngồi nhà chờ Jonathan về. - bác nói. Bác ấy thật tốt, bác Gà Trống Vàng ấy mà. Chỉ thế thôi, cũng cảm thấy đỡ cô đơn hơn một chút. Tôi đem theo bánh lên ngựa về nhà, rồi ngồi trước lửa nhai bánh. Thời tiết mùa xuân bây giờ về ban ngày ấm áp, gần như mùa hè, nhưng tôi vẫn phải đốt lửa trong chiếc lò sưởi to tướng, vì hơi ấm mặt trời không đủ sức xuyên qua những bức tường dày của nhà chúng tôi. Không khí còn trở nên lạnh hơn khi tôi bò lên chiẽc tủ li làm giường của tôi, nhưng chỉ một lát tôi đã ngủ thiếp đi. Và tôi mơ thấy Jonathan; một giấc mơ kinh khủng làm tôi tỉnh dậy. - Em đây Jonathan ơi! - Tôi kêu ầm lên. - Em tới ngay đây! - Tôi kêu, và lao ra khỏi giường. Trong tối đen xung quanh tôi, dường như vang vọng lại những tiếng kêu hoang dại, tiếng kêu của Jonathan! Trong giấc mơ của tôi, anh gọi tôi đến giúp. Tôi biết như vậy. Tôi vẫn có thể nghe tiếng anh, và tôi muốn lao ngay vào trong đêm đen để cứu anh, cho dù anh đang ở đâu. Nhưng rồi tôi nhận ra không thể được. Tôi làm được gì? Không ai bất lực như tôi! Tôi chỉ có thể lại bò vào giường, nằm đó, run rẩy, cảm thấy hoảng loạn, nhỏ bé, sợ hãi, và cô đơn, người cô đơn nhất trên đời, tôi nghĩ vậy. Ngay khi buổi sáng tới, ban ngày sáng rõ cũng chẳng giúp ích bao nhiêu. Tất nhiên, việc nhớ lại một cách chính xác giấc mơ khủng khiếp như thế nào trở nên khó khăn hơn, nhưng việc Jonathan kêu cứu, việc đó tôi không thể quên. Anh tôi gọi tôi, lẽ nào tôi không đi cố sức cứu anh? Tôi ngồi bên đàn thỏ mấy giờ liền để nghĩ xem tôi nên làm gì. Không có ai để mà nói chuyện, để mà hỏi han. Tôi phải tự mình quyết định. Tôi không thể tới Sofia vì cô ấy sẽ ngăn tôi lại. Cô ấy sẽ chẳng bao giờ cho tôi đi; cô ấy đâu có ngốc như vậy. Vì những điều tôi muốn làm, tôi biết chắc, là ngốc. Và còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm hơn tất cả mọi điều. Mà tôi thì có can đảm gì đâu. Tôi không biết mình đã ngồi đó bao lâu, lưng dựa vào tường chuồng ngựa, tay xé lá cỏ. Tôi đã xé vụn từng ngọn cỏ xung quanh tôi, nhưng phải mãi sau này tôi mới biết, còn khi đang ngồi đó, bị dằn vặt, thì tôi không biết gì. Nhiều giờ trôi qua; có lẽ tôi vẫn còn ngồi đó nữa, nếu tôi không chợt nhớ ra điều Jonathan đã nói - rằng nhiều khi mình phải làm điều gì đó nguy hiểm, nếu không, mình không phải là người, mà chỉ là đồ rác rưởi. Thế là tôi quyết định. Tôi đấm mạnh tay vào chuồng thỏ làm lũ thỏ nhảy loạn lên, rồi tôi nói thật to để tỏ ra chắc chắn. - Mình sẽ làm như vậv! Mình sẽ làm như vậy! Mình không phải là đồ rác rưởi! Ôi, mà quyết định rồi, tôi thấy dễ chịu làm sao. - Tao biết là tao đúng mà, - tôi nói với lũ thỏ, vì tôi chẳng còn biết nói với ai. A, bọn thỏ này, chúng phải trở thành thỏ dại từ nay. Tôi nhấc chúng ra khỏi chuồng, bế chúng ra cổng, trỏ cho chúng thấy Thung lũng Hoa Anh đào xanh rờn đáng yêu. - Khắp thung lũng đều đầy cỏ, - tôi nói, - và có rất nhiều thỏ khác để chúng mày kết bạn. Chắc chúng mày sẽ có nhiều trò vui hơn là bị nhốt trong chuồng, nhưng phải dè chừng tụi cáo và Hubert đấy nhé. Cả ba chú đều có vẻ ngạc nhiên và chạy loanh quanh một chút y như thể đang băn khoăn không biết đây là thật hay đùa. Nhưng rồi chúng co cẳng và trong nháy mắt đã biến mất giữa những bụi cây xanh lúp xúp. Sau đó tôi vội vàng thu dọn đồ đạc, gom lại những gì tôi phải đem theo. Một chiếc chăn để quấn khi ngủ này. Một hộp diêm tiêu để đốt lửa này. Một túi kiều mạch cho Fyalar này. Một bị thức ăn cho tôi này. Mà tôi cũng chẳng còn gì khác ngoài bánh mì, nhưng đó là thứ bánh mì ngon nhất, bánh mì làm thành từng ổ tròn của cô Sofia. Cô đem tới cả đống cho tôi, và nay tôi nhét đầy bị. Chuyến này đi sẽ lâu đây, tôi nghĩ vậy, và lúc nào hết thức ăn, mình sẽ phải ăn cỏ như thỏ vậy. Hôm sau, cô Sofia sẽ đem súp tới, cô đã hứa như vậy, nhưng lúc đó thi chắc tôi đã ở xa lắm rồi. Sofia đáng thương, cô lại phải ăn chỗ cháo ấy thôi, nhưng cháu không thể để cô phải đoán là cháu đi đâu. Cô sẽ biết, nhưng chỉ biết khi đã quá muộn rồi. Muộn tới mức không thể ngăn cháu lại được nữa. Tôi nhặt một mẩu than trong bếp rồi viết mấy chữ to tướng lên tường bếp. "Có người gọi tôi trong mơ, nên tôi đã đi tìm người đó ở chỗ xa, xa lắm, quá chỗ những ngọn núi." Tôi viết theo kiểu đùa đùa như vậy, vì tôi nghĩ nếu có ai đó ngoài cô Sofia tới Trang trại Các Hiệp sĩ, có kẻ lảng vảng tới, thì hắn ta không thể đoán được nghĩa là gì. Hắn ta có khi lại cho rằng tôi tập làm thơ hay cái gì đó. Nhưng cô Sofia sẽ lập tức hiểu tôi muốn nói gì; tôi đi tìm Jonathan. Tôi rất vui, và có một lúc đã cảm thấy mình thật khỏe mạnh và can đảm. Tôi tự nghĩ ra hài hát và hát. "Có người gọi ta trong mơ, và ta đi tìm anh, mãi ngoài những ngọn núi xa mờ, ờ ờ ờ" ừ mà nghe hay ra phết đấy chứ. Khi mình tìm thấy Jonathan, mình sẽ kể cho anh ấy nghe tất cả những chuyện này, tôi tự nhủ. Nếu mình tìm thấy anh ấy, tôi nghĩ. Nhưng nếu không thấy... Lập tức , lòng dũng cảm tan biến trong tôi. Tôi lại là đồ rác rưởi, đồ rác rưởi hèn nhát, như trước nay tôi vẫn từng. Và tôi lại mong có Fyalar như mọi khi. Tôi phải ra chỗ nó ngay. Đấy là cách duy nhất có tác dụng đôi chút, khi tôi buồn rầu, lo lắng. Đã có bao nhiêu lần tôi đứng cùng nó trong tàu ngựa, khi tôi không thể chịu đựng nổi sự cô độc? Đã có bao nhiêu lần tôi không thể yên lòng khi chỉ cần nhìn vào đôi mắt thông minh của nó và cảm thấy nó thật là ấm áp và mũi nó thật mềm? Không có Fyalar, chắc tôi đã không thể sống qua nổi những ngày Jonathan xa vắng. Tôi chạy ra chuồng ngựa. Trong chuồng không chỉ có một mình Fyalar. Hubert đang đứng đó. Đúng, Hubert đang đứng đó, vỗ về con ngựa của tôi, và cưòi toác miệng khi hắn ta nhìn thấy tôi. Tim tôi bắt đầu nện thình thịch. Hắn ta là kẻ phản bội, tôi nghĩ. Tôi đã cảm thấy điều này từ lâu, và bây giờ thì tôi chắc chắn rồi. Hubert là kẻ phản bội. Chứ không thì hắn ta lảng vảng đến Trang trại Các Hiệp sĩ làm gì? - Người này biết quá nhiều rồi, - cô Sofía từng bảo thế, và Hubert chính là người đó. Tôi thấy đúng quá rồi. Hắn ta biết đến mức nào? Hắn ta có biết tất cả mọi chuyện không? Hắn ta có biết chúng tôi giấu gì trong thùng kiều mạch không? Tôi cố làm ra vẻ không sợ hãi. - Bác làm gì ở đây? - Tôi nói, cố dõng dạc hết mức. - Bác muốn gì ở con Fyalar? - Chẳng gì cả, - Hubert trả lời. - Ta trên đường đến thăm cháu, nhưng ta nghe tiếng ngựa của cháu hí, mà ta vốn yêu ngựa. Con này đẹp đấy. Con Fyalar ấy mà. Mi không đánh lừa được ta đâu, tôi nghĩ thầm, và nói: - Thế bác muốn gì ở tôi? - Để cho cháu cái này, - Hubert nói, và đưa cho tôi cái gì đó gói trong một mảnh vải trắng. - Đêm qua, trông cháu buồn và đói, nên ta nghĩ cháu hết thức ăn ở Trang trại Các Hiệp sĩ, trong lúc Jonathan đi săn. Thế thì tôi còn biết làm gì hay nói gì nữa. Tôi lí nhí câu cám ơn. Nhưng tôi không thể nhận thức ăn của một kẻ phản bội được! Hay vẫn có thể? Tôi nắn nắn gói vải và nhận ra một miếng thịt cừu to, thứ thịt cừu khô, hun khói ngon ơi Ià ngon, người ta vẫn gọi là thịt dẻo, tôi nghĩ. Mùi thơm quá. Tôi cảm thấy muốn ngoạm một miếng ngập răng ngay lập tức, mặc dù tôi cần phải yêu cầu Hubert cất miếng thịt dẻo ấy đi và cả hắn ta cũng biến luôn đi. Tuy nhiên. tôi không nói nhu vậy. Thanh toán bọn phản bội là việc của cô Sofia. Tôi phải làm như không biết gì, không hiểu gì. Thực ra, tôi muốn có miếng thịt ấy quá, vì không còn gì tốt hơn thế cho chiếc bị thức ăn của tôi. Hubert vẫn đứng bên con Fyalar. - Cậu quả là có con ngựa đẹp thật, - hắn nói. Đẹp gần bằng con Blenda của tôi. - Blenda màu trắng, - tôi nói. - Bác có thích ngựa trắng không? - Có, tôi rất thích ngựa trắng. - Hubert trả lời. Và thế nên ngươi muốn có mười lăm con chứ gì? Tôi nghĩ trong đầu, nhưng không nói ra. Tự nhiên, Hubert nói đến một điều kinh khủng: - Tại sao chúng mình lại không cho Fyalar ăn chút kiều mạch nhỉ? Nó đáng được ăn chút gì ngon lành đãy chứ? Tôi không kịp ngăn hắn ta. Hắn đi thẳng vào buồng treo yên cương, còn tôi chạy theo. Tôi muốn gào lên "dừng lại", mà không bật ra nổi chữ nào. Hubert mỏ nắp thùng kiều mạch, vớ lấy chiếc xẻng con nằm trên cùng. Tôi nhắm mắt lại, vì tôi không muốn trông thấy hắn ta xúc chiếc bao thuốc lá lên. Nhưng rồi tôi nghe thấy hắn chửi thề, và khi tôi mở mắt ra, tôi thấy một con rắn con đang quăng mình qua miệng thùng. Hubert ra sức đá nó, nhưng nó thoát qua cửa chuồng ngựa và biến mất vào cái hang bí mật đâu đó. - Nó đớp vào ngón tay bác, đồ khốn kiếp. - Hubert nói. Hắn ta đứng đó xem xét ngón tay, và tôi chớp ngay lấy cơ hội. Thật nhanh, thật là nhanh, tôi xúc một xẻng đầy kiều mạch và đóng sầm nắp thùng ngay trước mũi Hubert. - Fyalar sẽ bằng lòng lắm đấy, - tôi nói. - Nó không thường được ăn kiều mạch vào giờ này trong ngày. Nhưng còn nhà ngươi thì không bằng lòng đâu, tôi nghĩ, khi Hubert nói cụt lủn câu tạm biệt và lùi lùi buớc qua cửa chuồng ngựa đi ra. Hắn ta không chọc móng được vào bất ki bức thư bí mật nào lúc này, nhưng cần phải tìm ra nơi giấu mới. Tôi nghĩ một lúc và cuối cùng vùi bao thuốc lá vào chỗ đựng khoai tây, bên trong cửa phía bên trái. Rồi tôi viết lên tường nhà bếp một mật hiệu mới cho cô Sofia: "Râu đỏ muốn có nhiều ngựa trắng và biết quá nhiều. Hãy cảnh giác! Tôi không thể làm gì hơn được cho cô Sofia. Khi mặt trời mọc sáng hôm sau, khi chưa có ai trong Thung lũng Hoa Anh đào thức giấc, tôi đã rời Trang trại Các Hiệp sĩ và phóng ngựa về phía các ngọn núi. Chương 7 Tôi cho Fyalar biết là tôi, chỉ tôi thôi, đang như thế nào khi trên con đường dài trên các dãy núi. - Mày có biết cuộc phiêu lưu như thế này đối với tao có ý nghĩa gì không? Phải nhớ rằng tao từ trước đến nay chưa làm gì khác ngoài việc nằm trên một chiếc xô-pha giường gần như cả đời! Mày không được nghĩ rằng có giây phút nào tao quên Jonathan. Nếu không, thì tao sẽ gào thật to, vang khắp các ngọn núi, vì thật tuyệt vời biết bao được như thế này. Đúng thế, thật tuyệt vời. Jonathan hẳn cũng hiểu như vậy. Núi ra núi; cứ hình dung ra mà xem, có những ngọn núi cao đến thế trên đồi, rồi có biết bao nhiêu hồ nước nhỏ trong vắt, rồi những dòng suối chảy xiết, lại những dòng thác, những đồng cỏ đầy hoa mùa xuân, ngay trên núi cao ấy. Và tôi, Qui Ròn, trên mình ngựa, được chứng kiến tất cả! Tôi đâu có biết rằng trên đời này lại có gì đẹp đến thế, nên thoạt đầu tôi thật choáng ngợp. Nhưng cảnh vật dần thay đổi. Tôi thấy một con đường nhỏ gồ ghề, có lẽ là con đường mà Jonathan đã kể cho tôi nghe. Đường luợn ngoằn ngoèo, rồi những chỗ rẽ ngoặt, đường tới Thung lũng Bông hồng Dại là như thế, anh bảo vậy. Đường lượn ngoằn ngoèo thật. Chẳng mấy chốc, tôi rẽ từ những đồng cỏ vào theo những con đường lượn ngoằn ngoèo, quanh co. Núi non trở nên hoang dã hơn, khủng khiếp hơn, đường càng đi càng nguy hiểm hơn. Đôi khi dốc lên dựng đứng, đôi khi dốc xuống sâu hút, đôi khi vòng vèo lượn quanh những vách đá cheo leo, và tôi đã nghĩ chắc mình không qua nổi. Nhưng chắc hẳn Fyalar đã quen đi những con đường núi nguy hiểm rồi thì phải giỏi, Fyalar giỏi thật. Đến tối, chúng tôi đều mỏi, cả tôi lẫn ngựa của tôi, nên tôi làm lán qua đêm trên một mảng cỏ xanh ngay bên bờ suối để chúng tôi có thể cùng uống nước. Rồi tôi đốt lửa trại. Suốt cuộc đời mình, tôi những ước mong được ngồi bên ngọn lửa trại, vì Jonathan đã kể cho tôi nghe chuyện ấy kì thú như thế nào; và cuối cùng thì bây giờ tôi đang ngồi đây. - Thế nào, Qui Ròn, cuối cùng thì nhà ngươi được huởng cảm giác ấy rồi đấy chứ, - tôi nói to với chính mình. Tôi nhặt mấy cành cây khô, gom lại được một đống to, rồi đốt thành một ngọn lửa lớn, cháy nổ tanh tách, bật ra những tia sáng, còn tôi ngồi bên đống lửa của mình và cảm thấy đúng như Jonathan đã nói. Tôi cảm thấy tuyệt vời khi ngồi đó, mắt nhìn ngọn lửa, miệng nhai bánh mì, nhâm nhi miếng thịt hun khói, ngon ơi là ngon, chỉ ước gì người cho miếng thịt ấy không phải là Hubert. Tôi cao hứng, mình hát cho mình nghe. "Bánh mì của ta ơi, ngọn lửa của ta ơi, và chú ngựa của ta ơi! Bánh mì của ta ơi, ngọn lửa của ta ơi và chú ngựa của ta ơi!" - Tôi đâu có nghĩ được gì hơn thế. Tôi cứ ngồi như thế lâu lắm và nghĩ tới tất cả những đống lửa trại từng cháy trong hoang dã khắp thế gian từ thuở xa xưa và từng tắt ngấm hết từ bao lâu nay. Riêng của tôi vẫn đang cháy đây, tại đây, vào lúc này! Trời trở tối quanh tôi. Núi non đã chuyển sang thành màu đen, lạ thế, thành màu thật tối như mực và nhanh làm sao! Tôi không thích quay lưng lại cái bóng tối như mực ấy. Cứ có cảm giác như có ai đó xô đến chỗ mình. Nhưng dù sao, cũng tới giờ đi ngủ rồi, nên tôi ủ đống lửa lại, chào Fyalar rồi chui vào chăn, lăn sát đống lửa. Rồi tôi thầm ước ngủ được ngay trước khi tự tôi làm cho tôi sợ hãi. Thật đấy, tôi có thể tự làm cho tôi sợ hãi, nhanh lắm cơ. Tôi không biết có ai làm được việc đó nhanh bằng tôi không. Những ý nghĩ đã bắt đầu nhảy nhót trong đầu tôi - Chắc chắn đang có kẻ nào đó rình rập trong bóng tối, và chắc chắn bọn lính và gián điệp của Tengil đang sùng sục khắp những núi đồi này, còn Jonathan chắc chắn đã chết từ lâu rồi; đó là những ý nghĩ nhảy nhót cùa tôi, và tôi không sao ngủ nổi. Đúng lúc ấy, mặt trăng nhô lên khỏi ngọn núi; ừ mà chưa chắc đã phải là mặt trăng bình thường, tôi đoán vậy, nhưng trông thì giống nhau, còn ánh trăng thì tôi chưa từng thấy bao giờ. Nhưng cũng có thể do tôi chưa bao giờ được thấy ánh trăng dọi trên các ngọn núi cao. Mọi vật trở nên là lạ; mình bị rơi vào một tbế giới trong đó không có gì khác ngoài những bóng hình bàng bạc và đen sì. Quả là đẹp, có đượm chút buồn theo một kiểu đáng yêu, là lạ mà lại thấy gai gai người, vì mặc dù chỗ nào có ánh trăng chiếu thì sáng, biết đâu trong những chỗ tối lại có biết bao hiểm họa đang ẩn náu. Tôi kéo chăn che kín đầu, vì tôi không muốn nhìn nữa. Nhưng tôi lại nghe, đúng, tôi nghe có tiếng gì kêu: một tiếng tru vang từ mãi xa trong núi tới, và rồi mấy tiếng tru gần hơn một chút. Fyalar cất tiếng hí; nó đang sợ, rồi tôi nhận ra đó là gì rồi. Chó sói tru. Nguời nhút nhát như tôi có thể dễ dàng chết vì sợ hãi. nhưng khi tôi thấy Fyalar đang lo như thế nào, thì tôi cố lên mặt can đảm. - Fyalar, chó sói sợ lửa, chú mày có biết thế không? - Tôi hỏi. Nhưng chính tôi cũng không thật tin, và bọn sói này cũng chưa bao giờ nghe thấy điều đó. Vì bây giờ đây tôi đã có thể trông thấy chúng; chúng đang đến gần hơn, những cái bóng hình màu xám đáng sợ lừng lững thành hàng duới ánh trăng, tru lên vì đói. Khi đó, tôi cũng tru. Tôi gào lên trời cao. Chưa bao giờ tôi bật ra tiếng gào như thế, và tiếng gào ấy làm cho bọn chúng có sợ một chút, tôi nghĩ. Nhưng chẳng được lâu. Chỉ một lát, chúng lại trở lại, còn tiến đến gần hơn. Tiếng tru của chúng làm cho Fyalar phát rồ dại lên. Cả tôi cũng vậy. Tôi biết rằng hai chúng tôi sắp chết đến nơi, cả hai. Tôi cần phải quen với chuyện đó, vì tôi đã từng chết một lần. Nhưng lần đó tôi muốn chết, lần đó tôi mong được chết, còn bây giờ thì không. Bây giờ tôi muốn đuợc sống và sống cùng Jonathan; ôi, Jonathan, giá như anh có thể tới đây cứu em. Bọn chúng đã tới gần rồi, bọn chó sói ấy. Một con to hơn những con khác, và hung dữ hơn, có lẽ là sói đầu đàn. Đó sẽ là con nhảy vào vồ tôi trước, tôi biết vậy. Nó vòng quanh tôi và cất tiếng tru, tru đến nỗi làm cho máu trong người tôi đông cứng lại. Tôi lao một cành củi đang cháy vào nó và ẳ hét to lên, nhưng nó chẳng bận tâm. Tôi thấy hàm nó bạnh ra, rồi những chiếc răng ghê người của nó đang thèm khát được ngoạm lấy cổ họng tôi. Kìa, anh Jonathan, cứu em với! Kìa, nó nhảy lên rồi kìa! Nhưng ngay lúc ấy! Có chuyện gì thế này? Gìữa lúc nó chồm lên, nó rú lên rồi gục xuống chân tôi. Chết, chết cứng, và một mũi tên xuyên giữa đầu nó. Mũi tên từ đâu bắn tới? Ai là người đã cứu mạng tôi? Có người nào đó từ bóng tối phía sau một tảng đá nhảy ra. Còn ai ngoài Hubert? Ông ta đấy, trông vẫn hơi khinh khỉnh như thường lệ - thế mà tôi lại muốn lao tới ôm chầm lấy ông ta, tôi quá mừng được thấy ông ta. Lúc đầu. Nhưng đó chỉ là lúc đầu thôi. - Hình như ta đến đúng lúc phải không? Ông ta hỏi. - Vâng, đúng là như thế, - tôi trả lời. - Tại sao cậu không ở nhà trong Trang trại Các Hiệp sĩ? - Ông ta hỏi tiếp. Thế còn ông? Tôi nghĩ, vì nay tôi nhớ ra ông ta là ai. Có âm mưu phản trắc cáo già gì sắp xảy ra trong vùng núi rừng này đêm nay? Trời ơi, tại sao lại là một kẻ phản bội cứu sống mình thế này? Tại sao mình lại phải chịu ơn Hubert, so với tất cả mọi ngưòi, không phải chỉ vì đã cho mình thịt, mà còn vì đã cứu cả cuộc sống thân thiết cho mình? - Thế bác đang một mình làm gì ở đây giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? - Tôi hỏi cụt lủn. - Bắn sói, như cậu thấy đấy, - Hubert đáp. - Nói thật, tôi trông thấy cậu phóng đi sáng nay, và tôi nghĩ tôi không muốn có gì nguy hiểm xảy ra với cậu. Nên tôi đi theo. Phải. cái đồ, cứ nói dối đi, tôi nghĩ bụng. Sớm muộn gì cô Sofia cũng sẽ thanh toán với nhà ngươi, và rồi tôi thấy lấy làm tiếc cho Hubert. - Jonathan đâu? - Hubert hỏi. - Chàng ta, nghe nói đi săn chó sói, đáng ra phải có mặt ở đây mà bắn cả đàn sói chứ? Tôi nhìn quanh. Lũ sói đã biến mất, biến sạch. Chắc chúng hoảng sợ khi sói đầu đàn gục chết, mà cũng có thể chúng đang đau khổ, vì tôi nghe những tiếng tru nhỏ thảm thiết xa xa trong núi. - Thế nào, Jonathan đâu? - Huberl gặng hỏi, và tôi cũng phải nói dối. - Anh ấy đến đây ngay bây giờ ấy mà, - tôi đáp. - Anh ấy đang đuổi theo một đàn sói về phía kia kìa - tôi nói, tay chỉ lên phía núi. Hubert cười vang. Ông ta không tin tôi, tôi thấy rõ như vậy. - Lẽ nào cậu lại không nên cùng tôi quay về nhà trong Thung lũng Hoa Anh đào, hả? - Ông ta hỏi. - Không, cháu phải đợi anh Jonathan, - tôi trả lời. - Anh ấy sẽ về đây ngay bây giờ ấy mà. - Thôi được, - Hubert nói. - Thôi được - ông ta nói, nhìn tôi một cách lạ lùng. Rồi, rồi ông ta rút từ thắt lưng ra con dao, và tôi thốt ra một tiếng kêu. Hắn ta định làm gì tôi? Khi hắn đứng đó, dưới ánh trăng, tay lăm lăm con dao, hắn làm tôi sợ hơn tất cả đàn sói trong vùng núi rừng này gộp lại. Hắn muốn giết mình, ý nghĩ ấy vụt qua trong đầu tôi. Hắn ta hiểu rằng tôi biết hắn là kẻ phản bội, cho nên hắn bám theo tôi, và bây giờ hắn muốn giết tôi. Tôi bắt đầu run, tôi can đảm đến mức ấy đấy, - Đừng làm thế, - tôi kêu lên. - Đừng làm thế! - Đừng làm cái gì? - Hubert hỏi. - Đừng giết cháu, - tôi kêu. Mặt Hubert trắng bệch vì tức giận, và hắn ta lao vào tôi, vào sát đến mức tôi gần như ngã ngửa ra sau, tôi kinh hoàng. - Thằng ôn con, mày nói cái gì thế? Hắn túm tóc tôi và lắc mạnh. - Đồ ngu như lợn, - hắn nói. - Nếu tao muốn thấy mày chết, thì tao đã để mặc mày cho lũ sói rồi. Hắn dứ con dao ngay dưới mũi tôi, dao này sắc lắm đây, tôi có thể thấy như vậy. - Tao dùng dao này để lột da chó sói, - hắn nói. - Chứ không phải để giết bọn nhóc ngu ngốc. Tòi bị ăn một cú đá vào đít đến nỗi ngã sấp xuống đất, và khi đó ông ta bắt tay lột da chó sói, vừa làm vừa luôn miệng chửi thề. Tôi chạy vội ra nhảy lên Fyalar, vì tôi muốn thoát khỏi nơi này; ôi, tôi muốn thoát khỏi biết chừng nào. - Mày chuồn đi đâu thế? - Hubert hét ầm lên. - Tôi đi gặp Jonathan, - tôi đáp, và tôi có thể nghe thấy minh nói một cách hoảng sợ và yếu ớt đến mức nào. - Đuợc, cứ việc đi đi, đồ ngu xuẩn, - Hubert gào theo. - Cứ việc đi và tự giết mày đi. Tao sẽ không ngăn mày lại nữa đâu. Nhưng tới lúc đó, tôi đã phóng đi như bay và có thể quên Hubert đi rồi. Trước mặt tôi, dưới ánh trăng, con đưòng lượn vòng lên dốc, ánh trăng dịu hiền, gần như giữa ban ngày, làm cho mình nhìn rõ mọi thứ. May làm sao! Nếu không, chắc tôi đã bị lạc. Cứ như phi ngựa trong mơ, những vách đá dựng đứng cheo leo, những vực sâu thăm thẳm đến chóng mặt: vừa kinh hoàng vừa đẹp làm sao! Đúng là như phi ngựa trong mơ: cảnh vật dưới ánh trăng này chỉ có thể tồn tại trong một giấc mơ man dại đáng yêu nào đó, tôi nghĩ, và tôi nói với Fyalar: - Mày nghĩ là ai đang mơ? Không phải là tao rồi. Phải có một ai đó có khả năng mơ ra được cái kinh hoàng và đẹp đến khác thường như thế này; phải chăng là Chúa? Nhưng tôi mệt mỏi và buồn ngủ quá, không thể ngồi tìếp trên yên ngựa được nữa. Tôi phải kiếm chỗ nghỉ qua đêm. - Tốt nhất là chỗ nào không có chó sói, - tôi nói với Fyalar, và nghĩ rằng nó cũng đồng ý với tôi. Vậy ai là người đã đặt chân trên những con đường núi giữa các thung lũng của Nangiyala từ thuở đầu tiên? Ai là người đã nghĩ ra rằng con đường này tới Thung lũng Bông hồng Dại phải đi như thế nào? Liệu có cần phải để cho nó chạy ngoằn ngoèo qua những mỏm đá chon von đáng thương như thế này hay không, đó là chưa kể những vách đá cheo leo kinh người? Tôi biết rằng nếu Fyalar chỉ cần sai một bước chân, thì hai chúng tôi sẽ lao xuống vực, cả hai, và rồi chẳng có ai trên cõi vĩnh hằng của những cõi vĩnh hằng biết được điều gì xẩy ra với Karl Tim Sư tử cùng chú ngựa của cậu ta. Tình hình càng ngày càng xấu hơn, về sau, tôi không dám mở mắt nhìn nữa, vì nếu chúng tôi bị lao xuống vực thẳm, thì tôi không muốn chứng kiến cảnh ấy. Nhung Fyalar không sai một bước chân nào. Nó rất khéo, và khi cuối cùng tôi dám mở mắt lại, thì chúng tôi đã tới một trảng cỏ không lớn; một trảng cỏ đẹp, xanh rờn có những trái núi cao, cao lắm ở một bên, còn bên kia là một bờ vực rắt dốc. - Chỗ ấy đây rồi, Fyalar ạ, - tôi nói. - Tại đây, chúng mình thoát bọn sói rồi. Đúng vậy. Chẳng có sói nào từ trên núi xuống được đây, vì núi quá cao, mà cũng chẳng có sói nào từ dưới vực lên được đây, vì thành vực quá dốc. Nếu nó có tới, con sói ấy mà, thì nó phải lần theo con đường kinh tởm dọc theo những bờ vực mà chúng tôi vừa đi qua. Nhưng chúng đâu có cáo già thế đuợc, tôi nghĩ chắc như vậy. Tôi thấy một thứ thật là tốt. Đó là một chiếc động ăn sâu vào bên sườn núi. Các bạn hẳn sẽ gọi đó ià một chiếc hang, vì nó có những tảng đá lớn che phía trên. Trong hang đó, chúng tôi có thể an toàn làm một giấc ngủ, mà trên đầu có mái che hẳn hoi. Có ai đó đã từng nghỉ ngơi trên trảng cỏ này trước tôi, vì vẫn còn tro của một đống lửa trại. Tôi suýt nữa đã muốn đốt một đống lửa như vậy. nhưng tôi thấy không còn sức. Lúc này, tôi chỉ thèm ngủ. Vì thế tôi cầm cương Fyalar, dắt nó vào trong hang. Hang thật sâu, và tôi bảo Fyalar: - Có mười lăm ngựa như mày vào đây cũng đủ chỗ. Nó hí nhè nhẹ. Chắc nó đang nhớ chuồng của nó. Tôi xin nó tha thứ cho tôi vì đã lôi nó vào cái trò gian truân này, tôi cho nó ít kiều mạch, và chúc nó ngủ ngon. Sau đó, tôi cuộn mình trong chăn ở góc hang xa nhất, tối nhất và lăn ra ngủ như chết, không kịp tự dọa dẫm mình một chút nào. Tôi không biết minh đã ngủ bao lâu, nhưng đột nhiên tôi ngồi dậy và tỉnh như sáo. Tôi nghe có tiếng nói, và tôi cũng nghe tiếng ngựa hí ngoài hang. Thế cũng quá đủ. Lại nỗi kinh hoàng hết sức điên dại lan khắp người tôi. Ai biết đâu được, có khi lũ người đang nói chuyện ngoài hang kia lại chẳng xấu xa hơn bất kì con chó sói nào? - Đưa ngựa vào hang đi, trong đó tụi mình sẽ tha hồ rộng rãi. - tôi nghe một giọng nói, rồi hai con ngựa lộp cộp đi vào. Chúng hí lên khi trông thấy Fyala, và Faylar hí đáp lại, nhưng sau đó chúng yên lặng, chắc chúng đã làm bạn với nhau trong bóng tối. Bọn người bên ngoài chắc chưa nhận ra tiếng ngựa lạ, vì họ vẫn điềm nhiên vừa đi vừa nói chuyện với nhau. Tại sao họ tới đây? Họ là ai? Đêm hôm thế này, họ làm gì trong núi? Tôi sẽ phải tìm hiểu xem sao. Tôi đang sợ hãi tới mức hai hàm răng va vào nhau lập cập, và tôi ước gì tôi đang ở cách đây vạn dặm. Nhưng tôi đang ở đây, còn rất gần tôi là mấy người, có thể là bạn bè, nhưng cũng có thể là kẻ thù, và tôi sẽ phải tìm hiểu xem họ là ai, cho dù tôi có sợ hãi đến thế nào đi nữa. Nghĩ vậy, tôi nằm rạp xuống đất, rồi bắt đầu trườn về phía có tiếng nói. Mặt trăng đang chiếu ngay cửa hang, và một tia sáng soi trúng nơi ẩn náu của tôi, nhưng tôi nép về phía có bóng tối, và từ từ nhoài mình đến gần chỗ có tiếng nói hơn. Họ đang ngồi dưới ánh trăng và đang nhóm lửa, hai người đàn ông với nét mặt thô, đầu đội mũ sắt đen sì. Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy bọn lính của Tengil, và tôi tin rằng tôi đang trông thấy cái gì, chắc chắn là như thế. Tôi biết rằng trước mặt tôi là hai trong số những kẻ độc ác, đã đi lính cho Tengil để tàn phá những thung lũng xanh của Nangiyala. Tôi không rnuốn rơi vào tay bọn chúng; chẳng thà bị chó sói thịt còn hơn. Chúng đang ngồi, lặng lẽ chuyện trò với nhau, nhưng trong bóng tối, tôi ở gần chúng tới nỗi tôi nghe được từng lời của chúng. Chúng hình như đang tức giận với ai đó, vì một tên nói: - Tao sẽ xẻo hai tai nó đi, nếu lần này nó lại không đến nữa. Rồi tên kia nói: - Phải, nó còn phải học nhiều. Tụi mình thì cứ phải ngồi đây, đêm này qua đêm khác, để chờ đợi vô ích. Thế mà nó là cái thá gì cơ chứ? Bắn mấy con chim đưa thư, cũng được đấy, nhưng Tengii muốn nó phải làm gì hơn thế cơ. Ông ấy muốn bắt được Sofia nhốt vào Hang Katla, và nếu thằng cha này không làm nổi, thì nó liệu hồn. Đến đây thì tôi đã nhận ra cái thằng cha mà hai tên lính đang nói tới là ai, rồi cái thằng cha mà chúng đợi là ai, chính là Hubert. Cứ bình tĩnh nào, tôi nghĩ. Chờ cho hắn ta lột da con sói xong, rồi hắn sẽ tới, cứ tin tao đi! Hắn sẽ xuất hiện ở chỗ đường kia kìa, cái thằng cha có thể bắt đuợc Sofia cho bọn mày đấy! Tôi thấy xấu hổ đến cháy người. Tôi thấy xấu hổ là chúng tôi có một kẻ phản bội ở Thung lũng Hoa Anh Đào. Nhưng tôi lại cũng muốn trông thấy hắn ta tới, vì cuối cùng thì tôi đã có bằng chứng. Đó là điều nghi cho ai đó, nhưng bây giờ thi tôi biết chắc chắn rồi, để tôi có thể nói với cô Sofia: - Lão Hubert đó, thanh toán lão ấy đi! Nếu không chẳng mấy chốc, cả cô lẫn toàn bộ Thung lũng Hoa Anh Đào sẽ bị kết liễu. Thật kinh khủng khi phải chờ đợi, mà lại chờ đợi điều kinh khủng. Tên phản bội là một điều kinh khủng; tôi cảm thấy như thế, nên cảm giác ấy lan khắp nguời tôi khi tôi nằm đó, vì cái điều ghê tởm ấy mà tôi hết cả sợ hai tên lính bên đống lửa - tôi sẽ sớm nhìn thấy tên phản bội đi ngựa tới, đúng theo con đưòng vòng bên mỏm đá kia. Nghĩ vậy mà tôi sợ, nhưng tôi vẫn căng mắt ra, hướng tới nơi tôi biết hắn sẽ xuất hiện. Hai tên lính ngoài kia bên đống lửa cũng đang chăm chăm nhìn về cùng hướng. Chúng cũng biết hắn sẽ tới theo đường nào. Nhưng cả ba chúng tôi đều không biết là khi nào. Chúng tôi cùng chờ. Chúng chờ bên đống lửa, còn tôi nằm úp mặt xuống đất trong hang của tôi. Mặt trăng đã chuyển khỏi cửa hang, nhưng thời gian thì vẫn dừng một chỗ. Không thấy gì; chúng tôi cứ đợi; đợi mãi đến khi tôi muốn nhảy tung lên và hét rằng kết thúc chuyện đó đi. Y như là cái gì cũng đang chờ, mặt trăng, núi non xung quanh, y như là toàn bộ ánh trăng kinh người cũng đang nín thở, chờ tên phản bội. Cuối cùng, hắn ta đã tới. Từ mãi xa, trên đường, ngay giữa ánh trăng, hắn đang phi ngựa tới; đúng, tôi đã biết chính xác là hắn sẽ đến từ phía nào, và tôi rùng mình khi tôi trông thấy hắn ta - Hubert, lẽ nào nhà ngươi lại như vậy? Tôi nghĩ. Mắt tôi nhìn căng quá nên tôi phải nhắm lại. Hay tôi phải nhắm lại để tôi khỏi phải nhìn. Tôi đã phải chờ đợi thằng khốn kiếp này quá lâu, rồi đến bây giờ khi hắn tới thật, thì tôi dường như không chịu đựng nổi việc phải trông thấy bộ mặt của hắn. Vì thế, tôi nhắm mắt lại và chỉ còn nghe thấy tiếng vó ngựa của hắn lộp cộp phi tới. Cuối cùng, hắn đã tới, gò dây cương, và rồi tôi mở mắt ra, vì tôi phải nhìn xem tên phản bội như thế nào khi hắn đã phản bội đồng loại của mình; phải, tôi muốn nhìn Hubert, khi hắn ta tới đây để phản lại Thung lũng Hoa Anh Đào cùng tất thảy mọi người đang sống ở đó. Nhưng đó lại không phải là Hubert. Đó la Jossi! Con Gà Trống vàng. Chương 8 Chính là Jossi chứ không ai khác! Tôi phải mất một lúc để tin là thật, Jossi, người đã từng tốt bụng đến thế, vui vẻ đến thế, người có gò má hồng hào, người từng cho tôi bánh, từng an ủi tôi khi tôi buồn - hoá ra là tên phản bội. Kìa, hắn kia kìa, đang ngồi bên đống lửa, cách tôi có một quãng, đang ngồi cùng hai tên lính của Tengil - Veder và Kader, hắn gọi bọn chúng như vậy - và đang giải thích vì sao trước đây hắn không đến được. - Hubert đang đi săn chó sói trong núi, mà tôi thì phải giấu mặt, các ông hiểu cho. Cả Veder lẫn Kader đều mặt mày sưng xỉa, và Jossi nói tiếp. - Chắc các ông chưa quên Hubert? Đáng lẽ các ông cũng phải bắt hắn nhốt vào Hang Katla, vì ông ta cũng căm thù Tengil. - Thế thì anh phải làm cái gì đi chứ, - Veder nói. - Vì anh là người của chúng ta trong Thung lũng Hoa Anh đào, không phải vậy sao? - Kader hỏi. - Tất nhiên, tất nhiên là thế rồi, - Jossi trả lời. Hắn ta khúm na khúm núm, nhưng Veder và Kader không ưa hắn ta, tôi có thể thấy như vậy. Tôi đoán không ai ưa đồ phản bội, cho dù hắn ta cũng được một số việc. Nhưng hắn ta vẫn được phép có tai; hai tên lính không xẻo tai hắn. Nhưng chúng có trò khác; chúng in hình Katla lên người hắn. - Tất cả người của Tengil đều mang theo hình của Katla, ngay cả một người phản bội như anh cũng vậy, - Veder nói. - Để anh còn cho họ biết anh là ai, nếu có gián điệp nào được phái tới Thung lũng Hoa Anh đào mà chưa biết anh. - Dạ, đúng thế ạ, tất nhiên là như thế ạ. - Jossi đáp. Chúng ra lệnh cho hắn ta cởi áo khoác, áo sơ-mi, và bằng một thỏi sắt làm con dấu chúng đã nung trong lửa, chúng in hình Katla lên ngực hắn ta. Jossi kêu khóc khi thỏi sắt nung đỏ dí vào người hắn. - Chịu khó chút nhé! - Kader nói. - Nay thì anh biết vĩnh viễn rằng anh là một người trong bọn ta, dù anh là người phản bội. Trong tất cả những đêm trong đời tôi, đây là đêm dài nhất và gian truân nhất, ít nhất là từ khi tôi tới Nangiyala, và điều gần như tồi tệ nhất là phải nằm đó, lắng nghe Jossi huyên thuyên về dự tính của hắn ta trong việc phá hoại Thung lũng Hoa Anh đào. Hắn sẽ sớm giăng bẫy bắt cho được Sofia và Hubert, hắn nói, bắt cả hai người đó. - Nhưng việc đó phải diễn ra sao cho không ai nhận thấy được ai đứng đằng sau việc đó. Nếu không làm sao tôi có thể tiếp tục làm tay chân bí mật của Tengil trong Thung lũng Hoa Anh đào được? Mày không còn bí mật như vậy được nữa rồi, tôi nghĩ, vì ở đây đang có một người sẽ vạch mặt ngươi, để rồi ngươi sẽ xanh xám mặt mày, đồ khốn kiếp gò má hồng ạ, chính ngươi đấy! Nhưng sau đó hắn nói sang chuyện khác, Jossi ấy mà, sang một chuyện làm cho tim tôi như ngừng đập. - Các ông bắt được Jonathan Tim Sư tử chưa? Hay nó vẫn được tự do trong Thung lũng Bông hồng Dại? Veder và Kader không thích câu hỏi ấy, tôi thấy rõ như vậy. - Bọn ta đang lần theo dấu vết của nó, - Veder nói. - Một trăm quân đang suốt ngày đêm lùng sục tìm nó. - Và bọn ta sẽ tìm ra nó cho dù có phải lục soát từng ngôi nhà trong Thung lũng Bông hồng Dại. - Kader nói tiếp. - Tengil đang chờ nó. - Tôi hiểu - Jossi nói - Thằng nhãi Tim Sư tử ấy nguy hiểm hơn bất kì ai khác, tôi đã nói với các ông rồi đãy. Nó thật sự là một con sư tử. Tôi nằm đó lòng thấy thật kiêu hãnh, rằng Jonathan là một con sư tử như thế, và thật nhẹ người biết bao khi bíết rằng anh vẫn còn sống. Nhưng tôi căm giận đến chảy nước mắt khi tôi biết những việc Jossi đã làm. Hắn đã phản bội Jonathan. Chỉ có Jossi mới lần ra được chuyến đi bí mật của Jonathan tớí Thung lũng Bông hồng Dại và báo tin đó cho Tengil. Chính Jossi có tội trong việc một trăm tên lính đang ngày đêm tìm kiếm anh tôi và sẽ trao anh ấy cho Tengil nếu chúng tìm thấy anh. Nhưng muốn gì thì muốn, anh ấy vẫn đang còn sống; cứ tưởng tượng mà xem, anh ấy vẫn đang còn sống! Và anh ấy còn đang được tự do nữa, nhưng như vậy vì sao anh ấy lại phải gọi tôi trong mơ? Tôi nằm đó, băn khoăn tự hỏi, không hiểu liệu mình có bao giờ biết được vì sao không. Dẫu sao, chỉ nằm đó nghe Jossi nói, tôi đã học được bao nhiêu điều. - Lão Hubert ấy mà, lão ta ghen tức với Sofia, vì chúng tôi đã chọn Sofia làm lãnh tụ của chúng tôi trong Thung lũng Hoa Anh đào, - Jossi nói. - Vì Hubert tưởng rằng lão ta chúa lắm. Ôi, thì ra thế! Tôi lại nhớ giọng nói bực tức của Hubert khi bác ta hỏi: "Thế Sofia có gì đặc biệt?” Ôi, thì té ra là bác ta ghen tức chứ không phải vì lí do gì khác. Người ta có thể ghen tức nhưng đồng thời vẫn là người tốt được chứ. Nhưng chỉ vì ngay từ ban đầu tôi đã nhét vào trong đầu tôi ý nghĩ rằng Hubert là kẻ phản bội Thung lũng Hoa Anh đào, nên mọi cái bác ấy làm và nói từ đó trở đi tôi đều tim cách lắp cho khớp với ý nghĩ đó. Thử nghĩ mà xem: tưởng tượng ra những điều không phải về ngưòi khác thật dễ biết chừng nào. Bác Hubert tội nghiệp, bác đã chú ý đến tôi, cứu mạng sống cho tôi, lại còn cho tôi thịt hun khói nữa, thế mà để tỏ lòng biết ơn, tôi chỉ gào lên: "Đừng giết tôi’' Trách gì mà bác ấy phát khùng lên. Bác Hubert ơi, tha thứ cho cháu nhé, tôi thầm nghĩ, bác hãy tha thứ cho cháu, nếu còn gặp lại bác ấy, tôi sẽ nói với bác như vậy. Lúc này, Jossi đã yên tâm hơn, tỏ ra rất mãn nguyện khi ngồi đó, nhưng tôi chắc con dấu có hình Katla thỉnh thoảng lại làm cho hắn nhói đau, vì hắn vẫn rên rỉ, và cứ mỗi lần như thế, Kader lại bảo: - Chịu khó đi, chịu khó chút nào! Ước gì tôi được thấy hình dấu Katla như thế nào, mặc dù tôi hình dung ra có thể ghê gớm lắm, nhưng như vậy có khi không thấy lại hoá ra hay. Jossí vẫn đang huyên thuyên về những việc hắn ta đã làm và những điều hắn ta sắp làm, và đột nhiên hắn nói: - Tim sư tử có một thằng em trai mà nó yêu nhất đời. Tôi khóc thầm và lại mong Jonathan. - Chúng ta có thể dùng thằng lỏi con làm mồi nhử Sofia vào bẫy, - Jossi nói. - Ông đúng là thằng đần, tại sao không nói với bọn ta từ trước? - Kader nạt - nếu bọn ta vớ được thằng em, thì bọn ta có thể dùng nó để buộc Tim Sư tử phải bò ra khỏi chỗ ẩn náu. Vì nó có trốn ở đâu, thì nó cũng có cách bí mật để biết rằng bọn ta đã bắt được em nó. - Và như thế, nó sẽ phải chui ra, - Veder tiếp lời. - Chắc chắn nó sẽ yêu cầu: "Thả em tôi ra, bắt tôi đây này" nếu nó thực sự quan tâm tới em nó và muốn bảo vệ em nó khỏi mọi tai ương. Tôi nghe vậy sợ quá hết cả khóc, nhưng Jossi đang huênh hoang khoác lác: - Khi về, tôi sẽ thu xếp việc đó, - hắn nói. - Tôi có thể lừa thằng oắt Karl Tim Sư tử đến chỗ phục kích. Khó gì đâu. Chỉ vài chiếc bánh là xong ngay. Rồi sau đó, chúng ta có thể đánh lừa làm cho Sofia tìm cách cứu nó. - Sofia không quá thông minh đối với ông đấy chứ? - Kader hỏi. - Ông nghĩ rằng ông có thể lừa được cô ta sao? - Đuợc, được chứ, - Jossi trả lời. - Và cô ta sẽ không biết ai làm chuyện này đâu. Cô ta tin tôi mà. Lúc này, hắn ta khoái chí đến mức hắn khúc khích cười: - Rồì các ông sẽ có cả cô ta lẫn thằng nhóc Tim Sư tử, Tengil sẽ thuởng cho tôi bao nhiêu vì công lao ấy, khi ngài đến Thung lũng Hoa Anh đào? Lại còn chuyện ấy nữa, tôi nghĩ. Này, Jossi, thế ngươi sẽ về nhà lừa Karl Tim Sư tử vào ổ phục kích chứ? Nhưng nó có còn ở Thung lũng Hoa Anh đào đâu, thế nhà ngươi sẽ làm gì? Giữa lúc xảy ra tất cả những chuyện bẩn thỉu này, ý nghĩ về việc Jossi sẽ sững sờ buồn thiu như thế nào khi phát hiện ra rằng tôi đã biến mất làm cho tôi vui hẳn lên. Nhưng Jossi nói: - Thằng oắt Karl Tim Sư tử hay sợ lắm, và chắc chắn nó không phải là sư tử đâu. Động một tí là thằng nhỏ sợ ngay. Lẽ ra phải đặt tên cho nó là Tim Thỏ mới phảì. Ừ, tôi vốn biết tôi chưa từng dũng cảm, tôi cũng biết mọi người không nên gọi tôi là Tim Sư tử như Jonnathan. Nhưng đồng thời, thật kinh khủng khi nghe thấy Jossi nói như vậy. Tôi nằm đó mà thấy xấu hổ và tôi nghĩ mình phải, phải cố dũng cảm hơn một chút, nhưng bây giờ thì chưa được, vì tôi còn đang sợ quá đỗi. Cuối cùng, Jossi cũng phải kết thúc. Hắn không còn chuyện đểu giả gì để huyên thuyên nữa, cho nên hắn đứng dậy. - Tôi phải trở về trước khi trời sáng, - hắn nói. Chúng tiếp tục động viên hắn cho đến tận phút chót. - Cố làm một cái gi đó với Sofia và thằng oắt nhé, - Veder nói. - Hãy tin ở tôi, - Jossi trả lời. - Nhưng các ông không được làm hại gì tới thằng bé đấy nhé. Vì tôi cũng hơi quan tâm đến nó. Cám ơn, tao thấy rồi, tôi thầm nói. - Và không được quên mật khẩu đấy, khi ông đem tin tới Thung lũng Bông hồng Dại, - Kader dặn. - Nếu ông muốn còn sống mà vào đó! -"Mọi quyền lực về tay Tengil, đấng cứu vớt chúng ta", - Jossi đáp. - Làm sao tôi quên được câu đó, ngày cũng như đêm. Còn Tengil, ngài sẽ không quên lời hứa với tôi đấy chứ? Hắn ta đã lên ngựa, sẵn sàng lên đường. - Jossi, ông trùm của Thung lũng Hoa Anh đào, - Jossi còn nói, - Tengil đã hứa cho tôi chức đó; ngài sẽ không quên chứ? - Tengil không quên gì bao giờ, - Kader đáp. Rồi Jossi phi đi, biến mất vẫn bằng con đường hắn ta đã tới, còn Veder và Kader ngồi đó dõi theo. - Thằng cha này, - Veder nói. - Rồi cũng đến chỗ Katla thôi, khi quân ta chiếm được Thung lũng Hoa Anh đào. Hắn ta nói thế đủ để mình hiểu rơi vào tay Katla nghĩa là gì. Tôi mới biết quá ít về Katla, nhưng tôi rùng mình và gần như thấy thương hại cho Jossi, mặc dù hắn ta là một kẻ khốn nạn như vậy. Ngọn lửa trên trảng cỏ đã tàn dần, và tôi bắt đầu hi vọng rằng Veder và Kader sẽ biến đi. Tôi mong mỏi tới mức thấy đau cả người, chỉ muốn thấy chúng biến đi. Như một con chuột rơi vào bẫy, tôi mong được tự do. Chỉ cần làm sao cho ngựa của chúng đi ra khỏi hang trước khi có người vào dắt ngựa ra, thì có lẽ sẽ được việc, tôi cho là như thế, và khi đó Veder và Kader sẽ phóng đi mà không biết rằng lẽ ra chúng đã có thể tóm được thằng em của Jonathan Tim Sư tử một cách dễ dàng đến như thế nào. Nhưng khi ấy tôi nghe thấy Kader nói: - Tụi mình vào trong hang ngủ một lát đi. Ôi, thế là hết, tôi nghĩ. Mà thế thì cũng như tôi không thể đi tiếp được nữa. Hãy bắt ta đi; dù sao thì cũng cứ kết thúc mọi sự đi. Nhưng Veder nói: - Sao lại ngủ? Sáng đến nơi rồi, và tao chán núi non này lắm rồi. Tao muốn về Thung lũng Bông hồng Dại ngay bây giờ đây. Kader nghe theo. - Thôi được, - hắn nói. - Thế thì lấy ngựa ra. Đôi khi có chuyện thật sự nguy hiểm, mình thấy dường như mình có thể tự cứu mình mà không suy nghĩ gì. Tôi co mình lại, bò trở về góc tối nhất trong hang, như một con vật nhỏ bé. Tôi thấy Veder qua cửa hang bước vào, nhưng chỉ tích tắc sau hắn ta đã lẫn vào trong bóng tối đen kịt của hang nên tôi không còn thấy hắn đâu nữa, mà chỉ nghe thấy hắn, và như thế thật quá dở. Hắn cũng không trông thấy tôi, nhưng hẳn hắn nghe thấy tim tôi đập. Tôi nằm đó, chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra khi Veder phát hiện thấy ba con ngựa chứ không phải hai, mà tim đập thật dữ. Mấy con ngựa khẽ hí lên khi Veder vào. Cả ba con, cả Fyalar cùng hí. Giá Fyalar có đứng giữa cả ngàn con ngựa mà hí thì tôi cũng nhận ra tiếng hí của nó ngay. Nhưng Veder, cái thằng ngu ấy, thì chẳng nghe thấy gì khác; cứ tưởng tượng ra xem, hắn thậm chí không nhận ra rằng trong hang có ba con ngựa. Hắn lôi hai con gần cửa hang nhất ra - đúng hai con của chúng - rồi theo hai con ngựa ấy đi ra. Ngay khi chỉ còn lại mình tôi với Fyalar, tôi chạy tới, áp tay lên mũi nó. Fyalar thân yêu, yên lặng nhé, tôi thầm cầu nguyện, vì tôi biết nếu nó hí bây giờ, bọn chúng ở ngoài kia sẽ nghe thấy và biết có chuyện không ổn. Còn Fyalar, nó thật thông minh, và hiểu hết. Hai con ngựa kia hí ở bên ngoài, như muốn nói lời tạm biệt với nó. Nhưng Fyalar vẫn đứng yên và không trả lời. Tôi đã thấy Veder và Kader lên ngựa, và tôi không thể tả xiết được cảm giác kì diệu ấy như thế nào. Cuối cùng thì tôi cũng đã được tự do và thoát khỏi cái bẫy chuột. Tôi nghĩ vậy. Nhưng đúng lúc ấy, Veder nói: - Tao quên bao diêm. Rồi hắn nhảy từ trên ngựa xuống và bắt đầu tìm kiếm quanh đống lửa. Sau đó, hắn nói: - Không thấy ở đây. Chắc tao làm rơi trong hang. Chiếc bẫy chuột đã sập lại với tôi rụp một cái như vậy, và tôi bị bắt. Veder vào hang tìm cái bao diêm chết tiệt đó, và hắn ta bước thẳng đến chỗ Fyalar. Tôi biết rằng mình không nên nói dối, nhưng nếu đó là chuyện sinh tử, thì cũng đành vậy. Tay Veder rắn chắc thật; từ trước tới nay, chưa có ai giữ tôi chặt đến thế. Tay thì đau, mà tôi thì cáu, gần như cáu hơn sợ, thật là lạ. Có lẽ vì thế mà tôi nói dối được như cuội. - Mày nằm đây nghe trộm bao lâu rồi? - Veder quát hỏi trong lúc lôi tôi ra khỏi hang. - Từ đêm qua, - tôi đáp. - Nhưng cháu chỉ ngủ thôi - tôi nói, mắt chớp chớp trong ánh nắng sớm mai như thể vừa ngủ dậy. - Ngủ à, - Veder hỏi. - Mày có định nói với tao rằng mày không hề nghe thấy chúng tao reo hò hát hỏng bên đống lửa này không thế hả? Cấm nói dối đấy. Hắn ta tưởng rằng đã khôn ngoan lắm, vì chúng có hát bao giờ đâu. Nhưng tôi còn khôn ngoan hơn. - Dạ, hình như cháu có nghe thấy các ông hát hỏng mấy câu - tôi làu bàu, như thể tôi đang nói dối cho hắn vừa lòng. Khi đó, Veder và Kađer nhìn nhau: giờ thì chúng biết chắc rằng tôi đã ngủ say sưa và chẳng nghe thấy gì. Nhưng như vậy vẫn chưa ăn thua. - Mày có biết mày đi như thế này là đáng tội chết không - Veder hỏi. Tôi cố làm ra vẻ chẳng biết mô tê gì: chẳng biết gì về tội chết, cũng chẳng biết gì khác nữa. - Đêm qua cháu chỉ định đi xem trăng thôi, - tôi nói lí nhí. - Và mày muốn liều mạng để xem trăng hả thằng cáo con? - Veder nói. - Nhà mày ở đâu trong Thung lũng Hoa Anh đào hay Thung lũng Bông hồng Dại? - Trong Thung lũng Bông hồng Dại, - tôi đáp. Vì các Tim Sư tử sống ở Thung lũng Hoa Anh đào, nên chẳng thà tôi chết còn hơn là khai cho chúng biết tôi là ai. - Bố mẹ mày là ai? - Veder hỏi. - Cháu sống với...với ông - tôi trả lời. - Thế ông mày tên là gì? - Veder hỏi tiếp. - Cháu chỉ biết gọi ông là Ông thôi - tôi đáp, càng chứng tỏ mình là thằng ngớ ngẩn hơn. - Ông mày sống ở đâu trong Thung lũng Bông hồng Dại? - Veder lại hỏi. - Trong một ...ngôi nhà nhỏ màu trắng, - tôi nói, vì tôi nghĩ nhà cửa ở Thung lũng Bông hồng Dại chắc đều màu trắng, cũng như ở Thung lũng Hoa Anh đào. - Được rồi, mày sẽ chỉ cho chúng tao cái người là ông mày và cái nhà màu trắng ấy chứ, - Veder nói. - Lên ngựa kia đi. Thế là cả đám lên đường, cũng vừa lúc mặt trời nhô lên từ phía sau những ngọn núi của Nangiyala. Bầu trời như rực lửa, các ngọn núi bừng sáng. Trong suốt đời mình, tôi chưa bao giờ được thấy bất kì cái gì đẹp đẽ hơn thế, hùng vĩ hơn thế, và giá như không có Kader và cái đuôi đen sì của con ngựa của hắn ở trước mặt, thì hẳn tôi đã sung sướng vô cùng. Nhưng tôi không vui, không, thật sự không vui. Con đường tiếp tục khúc khuỷu, ngoằn ngoèo như trước, nhưng chỉ một lúc sau, nó chạy thoai thoải xuống sườn đồi và tôi nhận ra mình đang đến Thung lũng Bông hồng Dại. Thế nhưng tôi vẫn thấy thật khó tin vào điều ấy khi tôi đột ngột thấy nó hiện ra ngay phía dưới mình; ôi, nó cũng đẹp như Thung Iũng Hoa Anh đào, khi nằm dưới ánh nắng sớm mai, với những ngôi nhà nhỏ, những trang trại, những sườn dốc xanh rờn, rồi những bụi hồng dại đang nở hoa; cả những mảng hồng dại. Nhìn từ trên cao xuống thật lạ mắt, gần như cả một đại dương sủi bọt tim tím trên những làn sóng xanh màu lá cây; đúng, gọi thung lũng thế này là Thung lũng Bông hồng Dại thì thật là đúng. Nhưng nếu không có Veder và Kader thì chẳng bao giờ tôi lọt vào được thung lũng đó, vì bao quanh nó là một bức tường cao do Tengil bắt nhân dân xây, vì hắn ta muốn dân phải làm nô lệ cho hắn, và bị giam cầm vĩnh viễn. Jonathan đã kể cho tôi như vậy, nên tôi mới biết. Veder và Kader hẳn đã quên không hỏi tôi bằng cách nào mà ra được khỏi cái thung lũng bị khóa chặt này, và tôi cầu trời cho chúng đừng bao giờ nhớ ra. Vì tôi sẽ trả lời thế nào? Làm sao có nguời vượt qua được bức tường đó, lại cùng một con ngựa nữa chứ? Lính Tengil đầu đội mũ sắt đen, tay cầm gươm, cầm giáo, đứng gác trên đỉnh tường thành, nhìn đến hết tầm mắt vẫn thấy, và cổng thành cũng được canh gác rất chặt; đúng vậy, có một cái cổng thành, đúng chỗ kết thúc con đường chạy từ Thung lũng Hoa Anh đào sang. Nơi đây, mọi người đã từng tự do đi lại giữa hai thung lũng trong bao nhiêu thế kỉ, nhưng nay không còn gì ngoài một chiếc cổng đóng chặt và chỉ có lính Tengil mới được qua cổng thành. Veder dùng gươm nện ầm ầm vào cổng thành. Một ô cửa mở ra, và một người to như người khổng lồ thò đầu ra. - Mật khẩu! - hắn ta kêu to. Veder và Kader thì thào mật khẩu vào tai hắn, rõ ràng để tôi khỏi nghe thấy. Nhưng đâu có cần thế, vi tôi đã biết rồi - Mọi quyền lực về tay Tengil, đấng cứu vớt chúng ta. Tên lính đứng phía sau ô cửa nhìn tôi và hỏi: - Còn thằng này là ai? - Một thằng ngốc chúng tớ nhặt được ngoài núi, - Kader đáp. - Mà nó cũng chẳng ngốc lắm đâu, vì dù sao thì đêm qua nó cũng lẻn được qua cổng của cậu ra ngoài, cậu nói thế nào về việc đó, hả Đội trưởng vệ binh? Tớ nghĩ là cậu cần phải hỏi lính của cậu xem chúng nó gác sách đêm hôm thế nào. Tên lính phía sau ô cửa rất tức giận. Hắn mở cửa, nhưng hắn càu nhàu, chửi bới và không muốn cho tôi vào, mà chỉ cho Veder và Kader. - Nhốt nó vào hang Katla ấy. - hắn nói. - Chỗ của nó là ở đó. Nhưng Veder và Katler ngang ngạnh - phải cho tôi vào, chúng nói, vì tôi phải chứng minh rằng tôi không nói dối chúng. Chúng bảo rằng chúng có trách nhiệm trước Tengil là phải tìm ra điều đó. Thế là có Veder và Kader hộ tống, tôi cưỡi ngựa qua cổng. Lúc đó tôi nghĩ rằng nếu tôi còn gặp lại Jonathan, thế nào tôi cũng kể cho anh nghe Veder và Kader đã giúp tôi vào được Thung lũng Bông hồng Dại như thế nào. Anh hẳn sẽ phải cười ra trò. Còn tôi thì không cười, vì tôi biết những điều tồi tệ như thế nào đang chờ đợi tôi. Tôi phải tìm ra một ngôi nhà trắng, trong đó có một người ông; nếu không, tôi kết cục sẽ phải vào Hang Katla. - Phi lên trước để chỉ đường cho chúng tao mau, - Veder ra Iệnh - Rồi chúng tao sẽ phải nói chuyện nghiêm chỉnh với ông mày. Có rất nhiều nhà trắng, y như ở Thung lũng Hoa Anh đào vậy, nhưng tôi không thấy nhà nào mà tôi có thể chỉ cho chúng được, vì tôi có biết có ai sống ở trong đó đâu. Tôi không dám nói " Ông sống trong đó", vì biết đâu Veder và Kader sẽ vào, còn trong đó thậm chí không có một ông già nào, chứ đừng nói là có ông già nhưng ông ấy không muốn làm ông của tôi. Bây giờ, tôi quả đang vô cùng kinh sợ, vừa đi mồ hôi vừa đổ ròng ròng. Bịa ra một người ông? thật là dễ. nhưng bây giờ tôi cho rằng đấy thật là tối kiến chứ không phải sáng kiến. Tôi thấy mọi người làm việc ngoài nhà, nhưng chẳng ở đâu có người giông giống ông, và tôi càng ngày càng trở nên thảm hại. Cũng thật kinh hoàng khi thấy những gì xảy ra với mọi người ở Thung lũng Bông hồng Dại, thấy họ xanh xao, đói khát và buồn khổ như thế nào, ít nhất là những người tôi trông thấy trên đường đi, khác hẳn với người dân ở Thung lũng Hoa Anh đào. Do chúng tôi không có Tengil ở thung lũng của chúng tôi, nô dịch chúng tôi, tước đoạt tất cả những gì chúng tôi cần có để sống. Tôi cứ đi, đi mãi, còn Veder và Kader bắt đầu hết kiên nhẫn, mà tôi cứ đi tiếp dường như đang trên đường đến nơi tận cùng thế giới. - Còn xa lắm nữa không? - Veder hỏi. - Không ạ, không xa nữa đâu ạ, - tôi trả lời, mà không hề biết mình đang nói gì hoặc đang làm gì. Tôi đang kinh hoảng, chỉ còn nước chờ bị quẳng vào Hang Katla. Nhưng khi ấy, một điều kì diệu xảy ra. Các bạn có tin không chứ, bên ngoài một ngôi nhà trắng nhỏ, một ông già đang ngồi trên một chiếc ghế dài kê sát tường, đang cho chim bồ câu ăn. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ dám làm cái chuyện ấy nếu trong tất cả đàn chim bồ câu xám ấy không có một con bồ câu trắng như tuyết. Có đúng một con! Nước mắt tôi giàn dụa; tôi chỉ trông thấy bồ câu như vậy ở nhà cô Sofia và có một lần trên bậu cửa nhà tôi từ ngày xưa, nơi thế giới khác. Khi đó, tôi làm một chuyện chưa từng ai nghe thấy. Tôi nhảy từ trên mình Fyalar xuống, và chỉ hai sải chân, tôi đã đến bên cụ già. Tôi lao vào lòng cụ, hai tay ôm choàng lấy cụ, miệng nói thì thào một cách tuyệt vọng: - Giúp cháu với! Cứu cháu với! Hãy nói rằng ông là ông của cháu! Tôi sợ quá, và chắc rằng cụ sẽ đẩy tôi ra khi cụ trông thấy Veder và Kader đầu đội mũ sắt đen sì phía sau tôi. Tại sao cụ lại phải nói dối vì tôi cơ chứ để rồi cuối cùng sẽ bị tống vào Hang Katla? Nhưng cụ không đẩy tôi ra. Cụ ôm chặt lấy tôi và tôi cảm thấy cánh tay nhân hậu, tốt lành của cụ bao bọc lấy tôi, che chở cho tôi khỏi mọi điều dữ. - Cậu bé của ta, - ông nói to cho Veder và Kader nghe thấy - Cháu biến đi đâu suốt thế hả? Mà cháu đã làm gì, thằng cháu bất hạnh, khi về nhà cùng với mấy ông lính thế này? Ông tội nghiệp của cháu, khổ thân ông đã phải nghe những lời mắng mỏ nặng lời biết bao của Veder và Kader! Chúng cứ mắng đi mắng lại, rồi nói rằng nếu ông không trông lũ cháu cẩn thận, cứ để chúng lang thang vào trong vùng núi non của Nangiyala, thì rồi ông sẽ không còn đứa cháu nào nữa, cho ông biết tay, để rồi ông không bao giờ quên. Nhưng lần này thì chúng tha cho, cuối cùng chúng nói, rồi phóng ngựa đi. Hai chiếc mũ sắt ẳ của chúng chẳng mấy chốc chỉ còn là những dấu chấm đen nhỏ xíu trên sườn đồi phía dưới chúng tôi. Sau đấy, tôi bắt đầu khóc. Tôi vẫn trong vòng tay ông tôi, và tôi khóc, chỉ khóc thôi, vì đêm ấy dài đến thế, gian khổ đến thế, và bây giờ thì xong rồi. Còn ông tôi, ông cứ để cho tôi khóc, đung đưa người tôi một chút, và tôi ước ao, ôi, ước sao ông là ông thật của tôi. Tôi cố gắng nói với ông điều đó cho dù tôi còn đang khóc. - Chà, biết đâu ta có thể là ông của cháu thì sao, - ông nói. - Thôi, dù sao, tên ông là Mathias. Còn tên cháu? - Karl Sư t... - tôi mở miệng. Nhưng tôi ngừng lại. Tại sao tôi lại ngớ ngẩn đi nói cái tên ấy ở Thung lũng Bông hồng Dại này? - Ông ơi, tên cháu phải giữ bí mật, - tôi đáp. - Ông cứ gọi cháu là Qui Ròn. - Gì cơ? Qui Ròn à? - Ông Mathias hỏi, hơi cười cười - Cháu vào bếp đi, Qui Ròn, và chờ ông ở đó. - Ông nói tiếp. - Để ông nhốt con ngựa của cháu vào trong chuồng đã. Tôi bước vào, trong gian bếp nhỏ nghèo nàn chẳng có gì ngoài một chiếc bàn, một chiếc xô-pha gỗ, vài cái ghế và một cái bếp lò. Cũng còn có một cái tủ tường lớn kê dọc theo một bên tường. Chỉ một lát, ông Mathias quay lại, và tôi nói: - Bọn cháu cũng có một chiếc tủ tường to như thế này trong bếp nhà bọn cháu, ở bên Hoa An... Tôi ngừng lại. - Bên Thung lũng Hoa Anh đào chứ gì, - ông Mathias nói tiếp, và tôi lo lắng nhìn ông, lại một lần nữa tôi nói ra điều không được nói. Nhưng ông Mathias không nói gì thêm. Ông tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, đứng đó một lúc lâu, cứ nhìn ra dường như để biết chắc không có ai xung quanh. Rồi ông quay về chỗ tôi và nói nhỏ: - Cái tủ tường đó có chuyện đặc biệt đấy. Chờ một phút, rồi cháu sẽ thấy. Ông tì vai vào bên tủ tường, hích nó sang một bên. Phía sau tủ, có một ô cửa trên tường. Ông mở ra, và trong đó là một gian buồng, một gian buồng rất nhỏ. Có ai đó đang nằm ngủ dưới sàn nhà. Đó là Jonathan. Nguồn: http://hsvforum.vn/f105/anh-em-tim-su-tu-full-594- 2.html#ixzz1sq75fDJc Chương 9 Tôi có thể nhớ được vài lần khi tôi sung sướng quá, tôi gần như chẳng biết phải làm gì nữa; một lần, khi tôi còn nhỏ, đến Nô-en, Jonathan tặng tôi một chiếc thùng trượt tuyết mà anh ấy phải dành dụm bao lâu mới đủ tiền mua. Rồi đến lần tôi tới Nangiyala và thấy Jonathan bên bờ suối, rồi cả cái buổi tối kì diệu ở Trang trại Các Hiệp sĩ, khi tôi sung sướng đến mức khó kìm nổi lòng mình. Nhưng không gì, không có gì bằng trông thấy Jonathan đang nằm ngủ trên sàn nhà ông Mathias; thử nghĩ xem, người ta có thể sung sướng đến thế cơ chứ! Cứ như ngay trong hồn tôi cũng đang cười vang. Tôi không đụng tới Jonathan. Tôi không đánh thức anh. Tôi không hét lên vì sung sướng hoặc phát điên lên. Tôi chỉ lẳng lặng nằm xuống cạnh anh và ngủ. Tôi đã ngủ bao lâu? Tôi không biết. Cả ngày chắc, tôi nghĩ. Nhưng khi tôi thức dậy - phải, khi tôi thức dậy, Jonathan đang ngồi dưới sàn nhà, bên cạnh tôi. Anh chỉ ngồi đó mỉm cười; không ai trông nhân hậu bằng Jonathan khi anh cười. Tôi đã từng nghĩ rằng anh ấy sẽ không vui đến thế khi tôi tới, rằng anh ấy quên béng mất rằng chính anh đã gọi tôi đến cứu. Nhưng lúc này tôi thấy rõ là anh ấy cũng đang mừng như tôi. Thế là tôi phải cười. tôi cũng phải cười, và hai anh em cứ ngồi như thế, chỉ nhìn nhau, không nói gì một lúc lâu. - Anh gọi em đến cứu, - cuối cùng tôi nói. Jonathan ngưng cười. - Vì sao anh gọi em? - Tôi hỏi. Đó chính là điều anh không thể nghĩ tới mà không thấy thất vọng. Anh lặng lẽ trả lời như thể anh khó mà chịu nổi việc trả lời tôi. - Anh trông thấy Katla rồi, - anh đáp. - Anh thấy những gì Katla làm rồi.