🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh Chồng Của Vợ Tôi - Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
ANH CHỒNG CỦA VỢ TÔI
Luigi Pirandello
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: ANH CHỒNG CỦA VỢ TÔI Tác giả: Luigi Pirandello
Dịch giả: Quỳnh Dung theo bản tiếng Nga Nhà xuất bản: Tác phẩm mới
Năm xuất bản: 1989
Số trang: 229
Khổ sách: 13 x 19 cm
Giá bìa: 1.600 VND
Đánh mày: Mỹ Linh, Văn Định, Thu Hoài, Vân Thu Soát lỗi: Đức Đặng
Chế bản ebook: Hồng Sơn
Ngày thực hiện: 22/10/2012
Making Ebook Project #284 - www.BookaholicClub.com
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
TẤM KHĂN CHOÀNG MÀU ĐEN I
II
III
IV
ĐIỀU KHÔNG NÓI TRẮNG RA
CHUYẾN VIỄN DU
CHIẾC KHUY ÁO KHOÁC
NỮ THẦN SỐNG KHỎA THÂN
HÃY SUY NGHĨ ĐI, GIACÔMÔ!
ĐÊM TÂN HÔN
THÔI CŨNG ĐƯỢC!
Chương 1 BẢN LÝ LỊCH
Chương 2 QUẢ THÔNG
Chương 3 GIÓ
ANH CHỒNG CỦA VỢ TÔI
NGƯỜI ĐANG SỐNG VÀ NGƯỜI ĐÃ CHẾT CON RÙA
HƠI THỔI
I
II
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Luigi Pirandello (1867 - 1936) là một trong những nhà văn đặc sắc nhất của phương Tây nửa đầu thế kỷ này. 15 cuốn sách tập hợp những truyện ngắn và truyện vừa đã nhấc ông lên vị trí cây bút số một của đất nước Italia hiện đại. Tiếp đó những vở kịch độc đáo đã đem vinh quang cho ông trên khắp châu Âu. Đến năm 1934 giải thưởng Nôben về văn học lại đưa tên tuổi ông ra toàn thế giới.
Mỗi khi bàn đến văn học Italia hiện đại, người ta không thể bỏ qua Pirandello. Ảnh hưởng của ông vô cùng to lớn. Có thể nói toàn bộ nền văn học Italia thế kỷ 20 đã phát triển dưới bóng của cây đại thụ này.
Tuy nhiên văn chương Pirandello không dễ mà hiểu được ngay như ở nhiều cây bút cùng thời với ông. Sự đánh giá của giới phê bình văn học, của công chúng rộng rãi đối với ông cũng lại hết sức khác nhau.
Xưa nay người ta thường xếp ông vào dòng hiện thực phê phán. Nhà sáng lập Đảng Cộng sản và lãnh tụ của giai cấp công nhân Italia Antôniô Gramsi (1891 - 1937) đã viết vào năm 1917 những dòng nhận xét như sau: “Những vở kịch của ông (của Pirandello - N.D) chính là những trái lựu đạn
tạo nên tiếng nổ trong trí óc người xem, phá hủy những ý nghĩ và tình cảm đê hèn”.
Muốn hiểu đúng nhà văn độc đáo này, chúng ta nên biết qua về tình hình văn học và các trào lưu của Tổ quốc ông thời cuối thế kỷ 19 đầu 20. Italia bước vào giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sớm hơn các nước, nhưng đến thời kỳ này lại bị một loạt nước châu Âu khác vượt lên trên, đẩy Italia xuống hàng những quốc gia lạc hậu và trì trệ, do những giáo lý của Tín ngưỡng cơ đốc còn quá mạnh ở bán đảo này. Nền văn hóa Italia nổi lên rực rỡ vào những thế kỷ 15 - 18 thì nay mờ nhạt. Cuối thế kỷ 19 văn học Italia bắt đầu khởi sắc. Xuất hiện trào lưu “duy thực”. Các nhà văn thuộc dòng văn học này hướng ngòi bút vào việc miêu tả cuộc sống tăm tối, đơn điệu, bất hạnh của dân nghèo nông thôn và thành thị theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa. Họ khai thác những sự kiện tủn mủn trong cuộc đời, thậm chí những tin vặt vãnh trên báo chí. Khi mới cầm bút, Pirandello chịu ảnh hưởng của dòng văn học này. Nhưng chỉ ít lâu sau, không thỏa mãn với cương lĩnh của nó, ông tách khỏi và đề ra hướng đi khác mà ông mệnh danh là chủ nghĩa “duy hài” và viết cả một cuốn sách để trình bày quan điểm của mình.
Ông cho rằng dòng “duy thực” mới thể hiện vẻ ngoài của cuộc sống, chưa khám phá được bản chất. Nhà văn cần sử dụng thủ pháp phóng đại hài hước và miêu tả cuộc sống dưới hình dạng một tấn hài kịch đáng buồn. Những truyện của Pirandello chế giễu sâu cay cả nhưng sự vô lý, bất công trong xã hội, đặc biệt những định kiến tôn giáo hạn chế quyền được hưởng hạnh phúc của mỗi con người.
Dưới ngòi bút hài hước của ông, các nhân vật hiện ra vừa đáng thương vừa đáng giận. Một cô gái hy sinh gần hết cuộc đời, tận tụy chăm lo cho đứa em trai, mãi đến khi em đã thành đạt, mới nhận một mối tình. Nhưng do những định kiến tôn giáo, cô đã tự dằn vặt mình và chịu một cái chết bi thảm. (Chiếc khăn choàng đen). Một ông chồng sắp chết rồi vẫn băn khoăn khi mình chết vợ sẽ lấy ai và đau khổ với ý nghĩ kẻ cướp quyền của mình sẽ là ông giáo dạy nhạc (Anh chồng của vợ tôi). Một giáo viên cần cù tận tụy suốt đời chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng mọi tai họa, không dám phản kháng bao giờ. (Thôi cũng được). Một thanh niên thông minh, tài giỏi, đẹp trai, trung thực chỉ vì sợ hãi dư luận độc miệng mà trở thành kẻ vô ơn đối với
thầy giáo đồng thời là ân nhân của mình. (Hãy suy nghĩ đi, Giacôminô!” v.v…
Pirandello bao giờ cũng đặt nhân vật của ông vào những tình huống oái ăm, hết sức khác thường, nhằm làm nổi bật hiệu quả tương phản và hài hước. Ông ít khi miêu tả một vài sự việc mà thường nêu cả một số phận, một cuộc đời. Chính vì vậy mà ông hay nói đến cái chết, thích miêu tả quãng đời cuối cùng của nhân vật, như để người đọc thấy rõ hơn đâu là ý nghĩa cuộc sống, sự khờ dại của những kẻ đặt thứ gì đó cao hơn hạnh phúc trần tục.
Có những cái chết do dại dột, do bị cầm tù bởi những định kiến tôn giáo, nhưng không phải không có những người, sắp rời khỏi cõi đời đã nhận ra được sự thật và đã được hưởng hạnh phúc trong thời gian cuối cùng. Đó là Ađriana, một phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu, theo đúng mọi quy tắc đạo đức nghiệt ngã nơi tỉnh nhỏ, đến lúc bị bệnh nặng, biết không thể qua khỏi, mới nhận ra được vẻ đẹp của thế giới, mới dám tự cho phép mình hưởng tình yêu, mà lại là một tình yêu tuyệt đẹp tràn đầy hạnh phúc và niềm cuồng nhiệt (Chuyến viễn du). Hoặc một cô gái xinh đẹp, mơ mộng, giàu có, sau khi chồng chưa cưới bị tai nạn chết, nhất quyết giữ “chung thủy” với người đã khuất, tự nguyện giam mình trong ngôi biệt thự tuyệt đẹp mà người yêu đã tậu dành cho cuộc sống của họ sau này. Cô thích thú “phóng đại” nỗi đau khổ của mình, cảm thấy trong hành động điên rồ ấy một vẻ “cao thượng”! May thay một họa sĩ khôn khéo và thực dụng đã thức tỉnh cô ra khỏi mơ tưởng hão huyền kia, trở về với cuộc đời vốn tươi đẹp (Nữ thần sống khỏa thân). Trong truyện vừa dẫn, tác giả chế giễu cả quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của anh bạn nhân vật chính, cũng là một họa sĩ điêu khắc. Đây là một thí dụ rõ ràng, chứng tỏ những ai bảo Pirandello bi quan là không đúng. Ông tin cuộc đời là đẹp, tin rằng ai tỉnh táo và sáng suốt sẽ được hưởng bao niềm vui của cuộc sống.
Cách nhìn đời của Pirandello tràn đầy nhân đạo, và rất gần với cách nhìn đời của Sêkhốp, Lỗ Tấn, Brét. Cả bốn văn hào này cũng như nhiều nhà văn nhân đạo khác luôn dùng ngòi bút kêu gọi con người nâng cao hiểu biết, tự giải phóng bản thân mình ra khỏi xích xiềng của những định kiến tôn giáo tai hại, hoặc nói như Sêkhốp, hãy “nặn hết chất nô lệ còn sót lại
trong cơ thể mỗi chúng ta, nặn từng giọt, từng giọt”. Chất nô lệ này tích tụ trong đầu óc mỗi chúng ta, do quá lâu phải sống trong xiềng xích của những giáo điều hủ lậu, những huyền thoại bịp bợm và nguy hiểm về tình yêu mơ mộng, về nghệ thuật cao siêu vân vân và vân vân, những thứ cản trở con người phát huy hết năng lực của bản thân, đồng thời hưởng đầy đủ những niềm vui lành mạnh và hợp lý mà cuộc đời ban cho. Pirandello chế giễu cả thói sùng bái sự thật. Sự thật đáng quý nhưng phải được sử dụng hợp lý. Lời nói thật không đúng chỗ có thể dẫn đến những tai họa khôn lường. Ông già Phiorinanxi cả đời thờ phụng sự công bằng. Mỗi lần nhìn thấy hiện tượng gì không hợp lý, ông rất khổ tâm, nhưng với bản chất nhút nhát ông không dám nói ra. Một lần ông quyết định phải tố cáo một “sự thật” xấu xa. Ông chuẩn bị cực kỳ chu đáo, tỷ mỷ để có đủ sức thuyết phục với người sẽ nghe. Không ngờ, người nghe ông tố giác lại đã biết cái sự thật ấy rồi, thậm chí còn biết rõ ràng, và đầy đủ hơn ông nhiều! (Cái khuy áo khoác). Hoặc trong truyện ngắn khác, việc nói ra sự thật không phải do tôn thờ nó, mà là do ngây thơ. Bác Tarara chất phác kia đã phải trả giá cho điều bác nói toạc ra bằng 13 năm tù! (Điều nói trắng ra).
Văn hào Sếchxpia đã có lần viết, cuộc đời là một bi kịch với những ai sống bằng trái tim, là một hài kịch với những ai sống bằng khối óc! Pirandello là người có trí tuệ nên ông nhìn đời bằng cặp mắt hài hước. Nhưng ông cũng sống bằng cả trái tim, cho nên ông đau xót cho những con người do dại dột, u mê nên phải chịu đau khổ.
Pirandello là nghệ sĩ, không phải nhà lý luận. Do đấy đọc tác phẩm, chúng ta dễ hiểu ông hơn khi ta đọc lý luận của ông. Bởi một lẽ đơn giản là nhà văn, nghệ sĩ rất ít khi đánh giá được chính xác và thật khách quan những sáng tạo của bản thân họ.
Trong cuốn Chủ nghĩa duy hài ông có trình bày quan điểm và phương châm của mình. Ông tiếp nhận khái niệm về “mặt nạ” của dòng “duy thực” nhưng phát triển thêm khá nhiều. Sống trong xã hội, mỗi con người đều mang một mặt nạ. Công việc nhà văn là lật cái mặt nạ ấy ra để người đọc thấy được bản chất của nhân vật. Ngay cái gọi là bản chất ấy cũng không nhất quán, mỗi lúc mỗi khác, bởi vì con người là một hiện tượng phức tạp, chịu tác động cùng một lúc của nhiều nhân tố, trước hết là lý trí và tình
cảm, mà hai thứ này ở mỗi con người lại khác nhau và liên tiếp xung đột với nhau.
Pirandello xứng đáng được xếp vào loại nhà văn triết gia. Tác phẩm của ông bao giờ cũng gợi lên những suy nghĩ về cuộc đời và con người.
Tính triết lý đậm đà nhất, sâu sắc và cũng xót xa nhất nằm trong truyện ngắn Hơi thổi, có thể coi là viên ngọc sáng chói trong toàn bộ sáng tác của ông. Truyện được viết bằng giọng điệu đùa cợt, nhưng nâng lên đến mức truyền thuyết. Đến truyện này, chúng ta thấy Pirandello không còn rơi rớt chút vết tích nào của phương pháp “duy thực” mà ông chịu ảnh hưởng trong thời non trẻ. Nhân vật chính trong truyện có được một phép lạ: chỉ cần thổi phù nhẹ một cái cũng đủ khiến một con người phải chết. Anh ta cứ thổi, và người xung quanh cứ chết. Chẳng luật pháp nào kết án anh ta được. Và bản thân anh ta cũng chẳng áy náy gì, bởi vì “mình có làm gì đâu? Chỉ thổi phù một cái thôi mà! Bao nhiêu người vẫn thường thổi phù một cái nhẹ nhàng như thế!”. Phải chăng tác giả muốn nói rằng, trên đời có những người chỉ làm vài động tác rất đơn giản, nói một câu, giơ tay một cái, luật pháp không thể căn cứ vào đó mà trừng trị, bản thân họ cũng chẳng băn khoăn, chẳng thấy lương tâm cắn rứt gì hết, nhưng câu nói ấy, cái giơ tay ấy lại gây ra chết chóc cho bao nhiêu kẻ khác! Truyện này ông viết vào những năm 30 khi nạn phát xít đã xuất hiện và bắt đầu đe dọa nhân loại, như một lời nhắn nhủ trách nhiệm của mỗi chúng ta…
Rất đáng tiếc trong tập sách này chúng tôi chưa giới thiệu được một kịch bản nào của Pirandello. Trong sáng tác của ông, những vở kịch chiếm phần quan trọng, và được chú ý nhiều hơn. Những kiệt tác như Hăngri IV, Sáu nhân vật đi tìm tác giả… đã trở thành kinh điển trong kho tàng kịch bản thế giới. Vở Sáu nhân vật… trong những thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này đã được hầu hết những Đoàn sân khấu nổi tiếng nhất của phương Tây dàn dựng và biểu diễn. Những năm đó tên tuổi của Pirandello đặc biệt lừng lẫy. Cũng chính thành công lớn lao này đã quyết định việc ông được tặng giải Nôben về văn học ở giữa thập kỷ 30.
Cuối cùng xin được phép nói đôi chút về bản dịch. Pirandello chuyên viết bằng thổ ngữ miền Nam nước Italia. Ngay bản in bằng tiếng Italia cũng
chỉ là bản dịch. Bên cạnh đó, văn phong của ông rất dân dã và khó truyền đạt sang một thứ tiếng khác. Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để bản dịch giữ được phong vị độc đáo của ngòi bút tác giả. Nhưng khả năng có hạn, chúng tôi vẫn còn thấy bản dịch này còn xa mới đạt tới mục tiêu chúng tôi tự đề ra. Rất mong bạn đọc lượng thứ.
NGƯỜI DỊCH
TẤM KHĂN CHOÀNG MÀU ĐEN
I
- Khoan đã, - Bănđi nói với bạn anh là Anđrêa. - Để mình nói thêm lần nữa. Nếu chị ấy vẫn không chịu thì cậu cứ vào, không cần chị ấy đồng ý.
Cả hai người đều cận thị, cho nên khi nói chuyện với nhau họ đứng sát, hai khuôn mặt gần như chạm vào nhau. Nhiều người tưởng họ là anh em ruột. Trạc tuổi như nhau, họ giống nhau về đủ mọi thứ. Cả hai đều cao, gầy gò và thẳng đuỗn. Bất cứ việc gì họ cũng làm tỷ mỷ chu đáo. Trong lúc nói chuyện, họ luôn tay sửa lại cho nhau khi thì cặp kính cận, khi thì chiếc cà vạt. Nếu như không còn gì phải sửa thì họ mân mê chiếc khuy áo đuôi tôm của nhau. Họ ít trò chuyện với nhau. Và cuộc sống đơn điệu nhàm chán được phản ảnh lên khuôn mặt tái xanh của họ.
Họ kết bạn với nhau từ thuở nhỏ, lớn lên cùng vào trường đại học, luôn giúp đỡ nhau. Chỉ có điều một người theo khoa luật, một theo khoa Y. Bây giờ vì mỗi người công tác một cơ quan nên họ chỉ có thể gặp nhau vào các buổi tối, và tối nào họ cũng dạo bước trên con đường chạy dài men theo sườn núi, ở ngoại ô thành phố.
Họ thân thiết nhau đến nỗi, chỉ một cử chỉ nghiêng đầu, một ánh mắt, một lời thốt ra là họ đã hiểu nhau đầy đủ. Trong những cuộc dạo chơi, lúc mới cất bước họ trao đổi với nhau vài lời ngắn ngủi, rồi sau đấy không nói gì nữa, lặng lẽ đi bên nhau, tưởng chừng như mấy lời ngắn ngủi kia đã đủ cung cấp cho họ chất liệu để họ suy ngẫm. Họ bước rất chậm, đầu hơi cúi, giống như hai con ngựa mệt mỏi. Cả hai không lúc nào muốn nghiêng đầu bên trên hàng lan can để ngó xuống phía dưới vực, nhìn những ngọn đồi thấp, cánh đồng và đưa mắt ra mặt biển đỏ rực dưới những tia nắng cuối cùng của buổi hoàng hôn. Diệu kỳ biết bao và cũng khó tưởng tượng biết bao, khi hai con người chân bước đều đặn, không hề dừng lại ngoái đầu nhìn bất cứ thứ gì xung quanh.
Mấy ngày trước đó Bănđi bảo bạn:
- Hình như chị Elêônor không được khỏe.
Anđrêa ngước mắt nhìn bạn và hiểu ngay rằng bệnh không có gì nặng. - Chị ấy có muốn mình xem cho không? - Anh hỏi.
- Không. Chị ấy bảo không cần.
Rồi đôi bạn lại đi tiếp, vẻ mặt cau có, như thể bực bội với người phụ nữ đã làm thay nhiệm vụ người mẹ đối với họ và họ chịu ơn của chị về mọi thứ.
Anđrêa mồ côi cả cha lẫn mẹ từ khi anh còn nhỏ và được ông bác đem về nuôi. Nhưng ông bác không cho anh ăn học được. Chị Êlêônor và cậu em Bănđi cũng mồ côi cha mẹ từ lúc chị mới mười tám tuổi. Hết sức dè sẻn trong chi tiêu, chị đã kéo dài đến mức tối đa thời gian sử dụng khoản thừa kế eo hẹp do cha mẹ để lại. Sau đấy chị đã phải kiếm ăn bằng cách mở lớp dạy âm nhạc và ca hát. Bằng cách ấy chị đã nuôi nấng đứa em và đã giúp cậu cùng với bạn được học hành chu đáo.
- Thế nhưng chị thì béo còn hai chú thì gầy còm, - chị thường vui vẻ nói như vậy với hai chàng trai. - Chị đã rút hết cả mỡ của hai chú.
Quả chị béo thật và ngày càng phát phì ra. Nhưng khuôn mặt chị vẫn xinh xắn, hiền dịu như mặt những pho tượng bằng đá cẩm thạch của các vị thiên thần trong nhà thờ. Cặp mắt đen huyền với hàng lông mi dài cùng giọng nói êm ái khiến những ai mới tiếp xúc với chị giảm đi ngay cảm giác ban đầu. Khi có người nhìn chị, chị rất đau khổ. Chị hơi mỉm cười buồn bã nghĩ đến hình dáng xấu xí của chị.
Chị chơi đàn pianô và hát, tuy không có kỹ thuật, nhưng rất xúc động. Nếu được học hành đầy đủ, nếu như không có những định kiến hẹp hòi tỉnh nhỏ, nếu như không vướng đứa em, chắc chị đã thành ca sĩ. Đã có thời chị
mơ trở thành nghệ sĩ sân khấu. Nhưng chị chỉ mơ ước thế thôi. Bây giờ chị đã gần bốn mươi tuổi. Dân trong thành phố rất quý trọng tài năng của chị. Dù sao đấy cũng là một niềm an ủi. Ngoài ra chị đã nuôi nấng nên người hai đứa trẻ cô đơn và bất hạnh. Đấy chính là phần thường cho những năm dài hy sinh tận tụy.
Bác sĩ Anđrêa đợi khá lâu mà vẫn chưa thấy bạn bước ra.
Phòng khách nơi anh đang ngồi sáng sủa tuy trần hơi thấp. Những bàn ghế kiểu cổ, cũ kỹ và bạc mầu khiến cho không khí ở đây gợi lại thời dĩ vãng xa xưa. Những bàn tủ ấy soi hình dạng vào hai tấm gương lớn, như thể luyến tiếc thời huy hoàng đã qua. Phòng khách này treo toàn chân dung những tổ tiên đã khuất. Các vị giương những cặp mắt giận dữ nhìn thứ đồ đạc duy nhất mới mẻ trong gian phòng này. Đó là chiếc đàn dương cầm của chị Elêônor.
Anh bác sĩ sốt ruột quá, đứng dậy, bước đến cạnh cửa lắng nghe. Thấy tiếng khóc tấm tức từ bên trong đưa ra, anh kẽ gõ vào cánh cửa.
- Cậu vào đi, - Bănđi mở cửa nói. - Mình không hiểu tại sao chị ấy lại khó tính đến thế.
- Bởi vì chị không ốm đau gì hết! - Chị Elêônor vừa khóc vừa hét lên.
Chị ngồi thu mình trong chiếc ghế bành to bọc da, phì nộn, mặt tái xanh, trong bộ quần áo màu đen như thường lệ. Có điều lạ là lúc này nét mặt chị giống như nét mặt trẻ thơ. Một vẻ thiếu trang nghiêm, đặc biệt thể hiện ra trong cặp mắt vừa ngơ ngác vừa bướng bỉnh mà chị như thể cố che giấu.
- Chị không ốm đau gì thật mà, - chị nhắc lại câu nói, lúc này đã bình tĩnh hơn. - Lạy Chúa, các chú để mặc chị. Đừng băn khoăn gì về chị.
- Thôi được! - Cậu em lạnh lùng đáp. - Anđrêa đã đến đây, cậu ấy sẽ khám cho chị, - nói xong anh bước ra ngoài, đóng sập cửa lại.
Chị Elêônor úp hai bàn tay che mặt rồi khóc thổn thức. - Anđrêa nhìn chị. Anh cảm thấy ngượng nghịu và lúng túng. Cuối cùng anh hỏi:
- Có chuyện gì vậy? Với em mà chị cũng không chịu nói ra ư?
Elêônor vẫn khóc. Anđrêa nhẹ nhàng nhưng kiên quyết kéo hai bàn tay của chị ra khỏi mặt.
- Chị đừng khóc nữa, - anh năn nỉ. - Chị nói đi… Đừng ngại…
Elêônor lắc đầu. Rồi đột nhiên chị nắm chặt bàn tay anh, mặt chị méo xệch đi và chị rên rỉ:
- Anđrêa! Chú Anđrêa!
Anđrêa cúi xuống (điều này trái với tính nết thận trọng quá đáng của anh).
- Chị hãy kể em nghe…
Elêônor áp bàn tay lên má, nói khẽ, giọng van vỉ đến thảm hại:
- Chị muốn chết. Em hãy giúp chị, Anđrêa. Hãy giúp chị. Chị không biết chết bằng cách nào và chị cũng không đủ can đảm.
- Chị muốn chết ấy ư? - Anđrêa mỉm cười. - Sao lại thế? Tại sao chị muốn chết?
- Chị phải chết! - Elêônor xụt xịt nhắc lại. - Em hãy bảo chị phải làm gì để có thể chết được. Em là bác sĩ kia mà. Chị không thể chịu nổi nữa! Chị phải chết. Không còn cách nào khác. Chỉ có chết mà thôi.
Anđrêa sửng sốt nhìn người phụ nữ. Elêônor cũng nhìn anh, nhưng lập tức nhắm nghiền mắt lại, mặt nhăn nhúm, chân tay co quắp lại như sợ hãi điều gì đó.
- Đúng thế, - lát sau bình tĩnh trở lại, chị nói giọng quả quyết. - Chị coi như đã chết rồi, Anđrêa! Chết rồi.
Anđrêa bất giác rụt bàn tay lại.
- Chuyện gì nào? Chị vừa nói cái gì thế? - Anh lúng búng.
Đưa mắt đi chỗ khác, chị đặt một ngón tay lên môi rồi hất đầu về phía cửa ra phòng khách:
- Đừng để Bănđi biết! Chú đừng nói với nó, chị van chú. Đầu tiên hãy giúp cho chị chết đã. Cho chị một thứ thuốc độc nào đó. Chị sẽ uống trà và sẽ coi như đấy là thuốc chú cho để chữa bệnh. Nhưng chú phải cho chị ngay bây giờ! Chị nhát lắm, cho nên để lúc khác chị sẽ lại không dám nữa. Đã hai tháng nay rồi chị rất đau khổ mà vẫn chưa dám. Anđrêa, em giúp chị chứ?
- Em giúp chị thế nào được? - Anđrêa bối rối hỏi lại.
Elêônor lại nắm bàn tay của anh rồi vừa nhìn thẳng vào mắt anh vừa khẩn khoản:
- Thế nếu em không muốn cho chị chết… thì em có cách gì cứu chị không? Có cách gì không?
Anđrêa đứng thẳng người lên rồi chau mày:
- Anđrêa, chị van em! - Elêônor lại năn nỉ. - Chị không lo cho chị mà chị làm thế này vì… nhưng không được để thằng Bănđi biết. Nếu như em nghĩ đến những việc chị đã làm vì hai đứa các em, thì hãy giúp chị, hãy cứu chị, Anđrêa! Em định bắt chị phải chịu đựng nỗi nhục nhã, đau khổ này ư? Chị ngần này tuổi đầu rồi! Ôi, khủng khiếp quá! Khủng khiếp quá!...
- Chuyện đã xảy ra như thế nào? Chị Elêonor, anh ta là ai? - Kinh ngạc quá trước lời thú tội của người phụ nữ, Anđrêa chỉ thốt ra được có thế.
Elêônor lại đưa mắt ra phía cửa, rồi úp hai bàn tay lên mặt:
- Đừng bắt chị phải nói! Chị không thể nghĩ đến chuyện ấy lúc này! Em không thương thằng Bănđi hay sao! Chuyện này sẽ làm nó xấu hổ đến mức nào!...
- Nhưng làm sao không để cậu ấy biết được? - Anđrêa hỏi. - Đấy là một tội ác. Một tội ác gấp đôi. Thế nhưng cũng có thể giúp chị bằng cách khác chứ?
- Không! - Elêônor quả quyết nói, giọng đau đớn. - Thôi, đủ rồi. Chị hiểu rồi. Chú ra ngoài đi. Chị đang thấy khó chịu trong người…
Chị thả đầu xuống lưng ghế bành, người xỉu đi.
Anđrêa lúng túng nhìn người phụ nữ qua đôi mắt kính cận. Anh vẫn chưa hoàn hồn sau sự phát hiện đột ngột kia. Anh thấy thương xót và ngượng ngùng khi nghĩ rằng, người phụ nữ vị tha kia, một mẫu mực của sự trong trắng và quên mình, lại có thể sa ngã đến mức ấy. Chẳng lẽ chuyện có thật hay sao? Chị Elêônor mà lại thế ư? Hồi trẻ chị đã từng từ chối bao nhiêu đám tuyệt vời đến như vậy? Thế mà bây giờ, khi từ lâu chị đã không còn trẻ trung gì nữa… Hay chính vì thế, chính là vì như thế?
Anh đưa mắt nhìn chị, và bởi vì chị phục phịch quá đáng, anh bỗng thấy ý nghĩ vừa rồi là láo lếu và nhơ bẩn.
- Ra ngoài đi! - chị nhắc lại giận dữ. Tuy không nhìn thấy anh, chị như cảm thấy nỗi khủng khiếp hiện lên trên nét mặt nghi ngờ của cậu bạn đứa em. - Ra rồi kể cho thằng Bănđi biết. Nó muốn làm gì tôi thì làm. Ra đi!
Anđrêa bước chân như cái máy. Hơi ngẩng đầu, chị nhìn theo anh ta. Cửa vừa khép lại, chị bất tỉnh.
II
Sau cuộc viếng thăm của Anđrêa, Elêônor thấy nhẹ được nỗi lòng, lần đầu tiên sau hai tháng buồn bã đau đớn. Chị cảm thấy giây phút khủng khiếp nhất đã qua rồi.
Chị không còn sức mà tự dằn vặt nữa. Bây giờ thì chị sẵn sàng đón đợi bất cứ điều gì xảy ra miễn là càng sớm càng tốt.
Rất có thể cậu em sẽ vào và sẽ giết chị. Cũng được thôi. Chị không còn đáng để ai tôn trọng, thậm chí thương xót nữa. Đúng là chị đã tận tụy với em và với bạn của nó vượt cả bổn phận người chị. Nhưng bây giờ thì chính chị đã để mất đi mọi quyền được nhận sự biết ơn.
Chị lại thấy hoảng sợ và chị nhắm nghiền mắt lại.
Trong thâm tâm Elêônor tự kết án mình. Đúng, chính chị, chính chị đã có lỗi. Suốt ngần ấy năm trời chị nén đi những cơn đòi hỏi, cố ép bản thân bằng những tình cảm cao thượng. Chị coi hy sinh là bổn phận của mình. Thế rồi đột nhiên chị sa ngã! Thật khủng khiếp!
Cái lý do duy nhất đáng kể giảm nhẹ tội lỗi cho chị thì đứa em không thể hiểu nổi. Chị có thể bảo anh ta rằng: “Bănđi, lỗi một phần cũng do em!” Thật ra cũng đúng là như thế.
Chị đã thế chân người mẹ. Và đáp lại lòng hy sinh của chị, đáp lại bao nhiêu việc chị đã làm vì họ, cậu em chị cũng như thằng bạn của nó không hề mỉm một nụ cười đối với chị. Dường như tâm hồn của chúng đã bị nhiễm thói lặng lẽ và buồn tẻ. Sau khi tốt nghiệp Đại học cả hai đều lao đầu vào công việc. Chúng làm việc nhiều đến nỗi không còn biết đến ai, cần đến ai ngoài bản thân chúng. Bây giờ chúng nóng lòng muốn giẫy chị ra cho khỏi vướng chân, và đều ấy làm chị tủi thân vô cùng. Chị bỗng thấy cuộc sống của chị vô nghĩa. Chị còn việc gì nữa, khi không ai cần đến chị? Tuổi trẻ thì đã trôi qua, không bao giờ trở lại.
Ngay đến tháng lương đầu tiên nhận được cũng không làm mặt mày cậu em trai của chị tươi tỉnh lên. Phải chăng do chịu ơn to lớn của bà chị, cậu cảm thấy đau khổ. Bởi vì như thế là suốt đời cậu không bao giờ được thực sự tự do? Chị rất muốn nói với Bănđi một cách đơn giản:
- Đừng lo cho chị. Chị chỉ mong em được sung sướng… Em hãy hiểu như thế.
Nhưng chị sẽ chỉ nghe được câu trả lời cau có:
- Sao chị lại nói thế? Em rất hiểu bổn phận của em. Đến một ngày nào đó em sẽ trả ơn cho chị đầy đủ.
“Trả ơn ư? Nhưng chị có đòi em trả ơn đâu?” - Chị muốn thốt lên như thế.
Bởi vì trong khi hy sinh tận tụy, có lúc nào chị suy tính, có lúc nào chị sa sút tinh thần đâu, bao giờ chị cũng tươi tắn.
Chị biết tính bướng của cậu em nên không nói thêm gì. Nhưng chị rất khổ tâm phải sống trong không khí tẻ lạnh và xa lạ này.
Lương Bănđi tăng dần. Anh tạo cho Elêônor một cuộc sống đầy đủ tiện nghi và anh năn nỉ chị thôi không dạy học nữa. Rồi đến một lần, vào giờ khắc bất hạnh, một trong những giờ khắc vô công rồi nghề do bị ép buộc và khiến chị tủi phận, chị đã thoáng một ý nghĩ, lúc đầu hơi ngộ nghĩnh: “Hay ta lấy chồng quách đi cho rồi!”
Khốn nỗi chị đã ba mươi chín tuổi rồi, lại béo phục phịch, kiếm đâu ra anh chồng thích hợp bây giờ. Nhưng chỉ cách đó chị mới giải thoát được cậu em khỏi gánh nặng của sự hàm ơn.
Từ đó Elêônor bất giác chăm sóc đến thân hình, dung nhan, đến cách ăn mặc, giống như một cô gái đến tuổi lấy chồng. Công việc này trước kia chị không bao giờ nghĩ đến.
Những người đàn ông trước kia đã từng ngỏ lời với chị, bây giờ đều đã có vợ có con. Ngày trước chị không hề quan tâm đến họ. Nhưng bây giờ chị lại hay nghĩ đến và luôn bực dọc. Chị đâm ghen với những bạn gái thuở trẻ, bây giờ họ đã có gia đình.
Riêng mình chị vẫn cô đơn…
Nhưng biết đâu, vẫn chưa phải là muộn? Chẳng lẽ cuộc sống hoạt động đã kết thúc rồi và số kiếp bắt chị phải chịu nỗi trống rỗng khủng khiếp này ư? Chẳng lẽ chị đành dập tắt ngọn lửa lòng, cam chịu cuộc sống âm thầm hay sao?
Một nỗi buồn vô hạn xâm chiếm tâm hồn chị. Bao thèm muốn xâu xé Elêônor. Chị mất đi vẻ vô tư lự. Tiếng cười, thậm chí giọng nói của chị cũng đổi khác. Câu nào chị thốt ra cũng chua chát. Chị biết tính tình mình thay đổi và chị căm ghét bản thân, giận hờn tấm thân phì nộn của chị, oán trách những đòi hỏi ngấm ngầm đột nhiên xuất hiện ngày càng làm chị đau khổ.
Thời gian đó, cậu em chị đã dành dụm được một khoản tiền đủ để tậu được một miếng đất và xây một tòa nhà trên đó. Bănđi thuyết phục được chị ra đấy ở trong một tháng. Nhưng chị cảm thấy có vẻ như Bănđi muốn tách chị ra, thế là Elêônor quyết định dọn ra ở hẳn ngoài cái trại ấy để cậu em được hoàn toàn tự do. Chị sẽ không làm vướng gì cậu em nữa. Và bản thân chị cũng thoát được cái ý nghĩ dớ dẩn đi lấy chồng, đã ám ảnh chị thời gian qua: lấy chồng gì vào cái tuổi gần bốn chục này.
Những ngày đầu chị thấy dễ chịu, có lẽ sống ở đây cũng không đến nỗi nào.
Ít hôm sau Elêônor đã quen với cái lệ dậy từ lúc mặt trời mọc rồi ra cánh đồng. Chốc chốc chị lại dừng bước, say sưa lắng nghe không khí tĩnh mịch diệu kỳ của đồng ruộng, nơi mỗi ngọn cỏ đều đang run rẩy trong không khí mát mẻ buổi sớm mai, lắng nghe tiếng gà gáy trong xóm, ngắm
nghía những nhánh cây mọc trong kẽ đá cũng như đám rêu mượt mà phủ trên thân những cây dương.
Nơi đây, cách xa thành thị, tâm hồn, ý nghĩ chị sẽ đổi thay và chị sẽ trở nên giống như người phụ nữ niềm nở vợ bác tá điền. Bác ta dịu dàng kể chị nghe bao nhiêu chuyện thú vị ở thôn quê… Trong những câu chuyện đơn sơ ấy, Elêônor cảm thấy mình bắt đầu khám phá ra một ý nghĩa mới mẻ, bất ngờ và sâu sắc của cuộc sống.
Bác tá điền thì ngược lại, tính nết cực kỳ khó chịu. Bác ta vênh váo tự xưng là tư tưởng tiên tiến. Mà bác ta cũng từng trải thật, đã từng sang Mỹ, tám năm liền ở Bênôxario. Và bây giờ bác rất không muốn cậu con trai bác sau này sẽ nối nghề tá điền. Khi cậu bé tròn mười ba tuổi, bác ta xin cho vào trường học để “kiếm chút văn hóa” rồi có thể sẽ sang Mỹ. Đấy là một bước rất lớn, thằng bé có thể làm nên.
Bây giờ cậu bé Giéclanđô đã mười chín tuổi. Sau bao nhiêu năm mài đũng quần ở trường trung cấp dạy nghề, cậu ta mới leo lên được năm thứ ba. Cậu ta vụng về, cục mịch và lúc nào cũng khổ vì sự chăm sóc quá kỹ của ông bố. Học ở trường, cậu nhiễm vài thói tật thành phố cho nên trông cậu lại càng lố bịch hơn.
Sáng nào cậu cũng dấp nước lên mớ tóc cứng và lởm chởm để rẽ đường ngôi, nhưng rồi tóc khô và dựng đứng khiến trông đầu cậu như có cái bướu. Lông mày cậu mọc thành chùm không đều nhau. Ria mép mới nhú và một chòm râu cằm nhỏ nhọn hoắt. Cái cậu Giéclanđô ấy sao mà thảm hại đến thế. Trông dáng người thô thiển của cậu gục đầu xuống cuốn sách thật tội nghiệp. Ông bố luôn phải đổ mồ hôi mới đánh thức được con trai, bởi vì cậu chàng đã đặt lưng ngủ thì say như chết. Con vẫn đang ngái ngủ bác ta đã kéo lên xe, chở ra ngoài thành phố để cậu ta chịu những sự hành hạ mới.
Khi bà chủ ấp mới dọn đến, Giéclanđô năn nỉ bà nói với mẹ cậu ta để bà mẹ nói với ông bố. Cái sự học chết tiệt ấy! Đến khổ với nó! Nghĩ đến học mà rã rời cả chân tay.
Elêônor thử giúp cậu ta. Nhưng bác tá điền nhất định không chịu! Tôi rất kính trọng bà chủ, nhưng xin bà chủ đừng can thiệp vào chuyện gia đình nhà tôi! Thế là, phần vì thương hại, phần vì cũng rỗi rãi, phần vì để giải trí, Elêônor bắt đầu giúp đỡ thằng bé mọi cách có thể được.
Hàng ngày, sau bữa ăn trưa, bà gọi thằng bé vào phòng riêng. Cậu ta bước vào ngượng nghịu, lúng túng, sách vở cặp chặt dưới nách. Cậu ta bối rối, nghĩ bụng bà chủ chắc muốn trêu chọc cậu, giễu cợt sự dốt nát của cậu. Nhưng cậu có lỗi gì đâu? Mọi chuyện đều do ông bố ra lệnh, bắt cậu phải học. Chứ cậu học hành gì được. Giá như cần trồng cái cây hay trị con bò thì cậu làm được ngay. Chỉ cần giơ hai cánh tay lực lưỡng, nhìn thẳng vào mắt nó, rồi nhe răng ra cười, hai hàm răng rắn chắc, trắng nhởn…
Nhưng không hiểu tạo sao, càng ngày Elêônor càng thấy sự có mặt của thằng bé Giéclanđô kia làm bà khó chịu. Năm học đã kết thúc. Bà nhắn vào thành phố để người ta chở đàn pianô về đây. Bây giờ suốt ngày bà ngồi nhà đọc sách và chơi đàn. Một buổi tối, bà nhìn thấy cậu bé kia đứng nép bên ngoài cửa sổ. Do đột nhiên không được bà chủ săn sóc giúp đỡ, không được ngồi với bà, thằng bé thấy nhớ và mò đến nghe trộm bà hát và chơi đàn. Bà định bắt quả tang nó. Với dụng ý độc ác, bà ngừng chơi đàn, chạy nhanh xuống thang gác.
- Mày làm gì ở đây?
- Cháu nghe bà đánh đàn…
- Mày có thích không?
- Cháu rất thích, thưa bà chủ! Y như cháu đang trên thiên đường ấy!
Elêônor cười vang. Tiếng cười như tát vào mặt thằng bé, thế là nó chồm tới, đè bà xuống ngay cạnh nhà, trong bóng tối, phía bên kia luồng ánh sáng rọi từ trên bao lơn xuống.
Sự việc đã xảy ra như thế.
Bị bất ngờ, Elêônor không kịp đẩy thằng bé ra, mà cảm thấy như ngạt thở dưới thân thể nó đè chặt xuống. Và bà đã chịu! Mặc dù không hề muốn.
Ngày hôm sau Elêônor đáp xe về thành phố.
Bây giờ thì sao? Tại sao không thấy Bănđi vào? Hay Anđrêa không kể cho nó biết? Mà cũng có thể là em bà đang tính cách giúp chị thế nào đây?
Elêônor úp hai bàn tay lên che mặt, dường như sợ phải nhìn thấy vực thẳm đang hiện ra trước mắt.
Không còn đường nào khác. Đành phải chết thôi. Nhưng chết bằng cách nào? Và bao giờ thì thực hiện? Cửa mở, Bănđi bước vào, nhợt nhạt, lúng túng mà mắt đỏ hoe. Anđrêa đỡ bạn.
- Em chỉ muốn biết một điều, - Bănđi rít lên, dằn từng tiếng một. - Em muốn biết, người đó là ai?
Elêônor không ngẩng lên, chỉ lắc đầu và khóc nức nở.
- Chị phải nói! - Bănđi hét. - Dù người đó là ai, chị cũng phải lấy anh ta.
- Không! - Elêônor rên rỉ, đầu càng cúi thấp hơn và hai bàn tay nắm chặt, run rẩy. - Không thể được! Không thể nào như thế được.
- Anh ta có vợ à?
- Không! - Bà vội vã đáp. - Nhưng chị không thể lấy người đó được. Em phải hiểu cho chị!
- Nhưng ai vậy? - Bănđi khăng khăng. - Ai? Chị nói đi!
Elêônor co rúm người lại trước cặp mắt điên cuồng của đứa em. Bà vất vả lắm mới ngẩng đầu lên được và rên rỉ:
- Chị không thể nói ra được…
- Chị không nói em sẽ giết chị! - Bănđi gào lên, đưa nắm tay lên trên đầu người chị.
Anđrêa can bạn rồi nói nghiêm nghị:
- Cậu ra ngoài đã. Chị ấy sẽ nói cho mình biết. Cậu ra đi. Rồi đẩy Bănđi ra ngoài.
III
Cậu em đã nhất quyết.
Trước ngày cưới Bănđi tìm mọi cách thổi phồng vụ tai tiếng này lên. Do sợ bị dư luận chê cười, anh chủ động đem kể với tất cả mọi người câu chuyện nhục nhã của mình bằng những lời lẽ thô bỉ nhất. Anh gần như phát điên. Và mọi người ai cũng thông cảm với anh.
Thì ra việc điều đình với ông bố của Giéclanđô không đơn giản chút nào.
Mặc dù tự xưng là tư tưởng tiên tiến, bác tá điền cũng vẫn choáng váng. Thoạt đầu bác không sao tin được là chuyện xảy ra thật. Nhưng sau đó bác tuyên bố:
- Các ông tin lời tôi nói. Tôi sẽ bóp chết nó. Các ông có thấy người ta giẫm đạp lên nho để làm rượu không? Hay tốt hơn hết là thế này: tôi trói tay trói chân nó lại rồi giao cho các ông, các ông muốn làm gì nó thì làm. Còn về chuyện thương tích thì các ông yên tâm, tôi sẽ đắp thuốc cho nó trong ba ngày liền, vì vậy các ông cứ quất cho thật mạnh vào.
Khi bác ta hiểu ra rằng ông chủ hoàn toàn không muốn trừng phạt, trái lại còn đề ra việc cưới, thì bác ta lại sửng sốt thêm lần nữa:
- Các ông nói gì vậy? Tôi chẳng hiểu gì hết… Một bà chủ quý phái như vậy mà chịu lấy thằng bé con của một tá điền bình thường được ư?
Rồi bác ta từ chối thẳng thừng:
- Các ông tha thứ cho. Bà chủ đâu còn thơ dại gì. Bà thừa hiểu thế nào là hay thế nào là dở. Không việc gì phải đối xử với cái thằng con ngu ngốc của tôi như thế. Tôi định không nói, nhưng cũng đành phải nói thật. Ngày nào bà cũng lôi thằng bé vào phòng riêng. Các ông cũng thừa hiểu rồi… Nó
còn khờ dại lắm… Bà lớn tuổi như thế chúng tôi đâu dám ngăn cản? Vậy mà bây giờ tôi đâm thành mất con. Bao nhiêu tiền bỏ ra chăm sóc nó. Nói các ông đừng giận, chứ bà ấy đáng tuổi mẹ nó…
Bănđi đành hứa của hồi môn sẽ là cái ấp, kèm thêm một khoản tiền khá lớn nữa.
Việc tiến hành hôn lễ thế là thỏa thuận xong. Dân thành phố nơi bà Elêônor đã từng sống coi đây là một sự kiện trọng đại.
Hình như ai cũng cảm thấy thực sự thích thú được công khai chế giễu người phụ nữ mà họ đã từng kính trọng trong suốt bao nhiêu năm trời. Như thể giữa thái độ kính nể trước kia và thái độ chê bai ngày hôm nay không có chỗ cho sự thông cảm bình thường nhất.
Mọi người đều thương ông em trai. Và như mọi người đều dự đoán, Bănđi không tham dự lễ cưới. Anđrêa cũng không đến, viện cớ không thể bỏ mặc bạn trong cái ngày đáng buồn này.
Ông bác sĩ già xưa đã từng chữa bệnh cho cha mẹ của Elêônor (nhân tiện cũng nói thêm rằng ông đã mất khá nhiều khách hàng vào tay Anđrêa do anh chàng này sau khi tốt nghiệp đại học đã áp dụng những phương pháp điều trị mới mẻ) tự nguyện làm nhân chứng. Ông dẫn đến một ông bạn già nữa, làm nhân chứng thứ hai cho cuộc kết hôn.
Cùng hai ông già, ngồi trong xe ngựa che kín, Elêônor đến Tòa thị chính, rồi từ đó đến ngôi nhà thờ Thiên chúa ở ngoại ô thành phố.
Chú rể mặt mũi cau có, ngồi chiếc xe ngựa khác, cùng với cha mẹ cậu.
Họ ăn mặc diêm dúa vì lễ cưới, nhưng mặt mũi lại nặng như chì. Muốn nói gì đi nữa, con trai họ cũng kết hôn với một bà mệnh phụ thực sự, chị của vị luật sư, và của hồi môn là khá nhiều ruộng đất, một tòa nhà khang trang và tiền bạc nữa. Bây giờ cần phải nghĩ đến chuyện phát triển sau này. Đất đi thì bác ta tự lo lấy việc canh tác, bác khá đủ hiểu biết công việc này. Hơi tiếc là bác gái hơi già. Nhưng không chừng như thế lại càng hay. Cậu
con trai đang gặp vận… mà theo đúng những quy luật bất di bất dịch của tạo hóa thì bà Elêônor sẽ chết trước, khi ấy thằng Giéclanđô không bị ràng buộc gì nữa mà vẫn lắm tiền.
Nhưng nhân chứng của họ nhà trai ngồi cỗ xe thứ ba cũng đang suy nghĩ những điều tương tự: đấy là mấy ông bà già nông dân, bạn thân của bác tá điền và của vợ bác. Những họ hàng khác cùng bè bạn của chú rể thì đợi sẵn ở ấp. Hôm nay họ đều diện quần áo đẹp. Đàn ông thì xúng xính trong những chiếc áo xa tanh màu xanh lam. Đàn bà thì khoác những tấm áo choàng màu sặc sỡ mới may. Chẳng là bố chú rể vốn tư tưởng tiên tiến, rất biết cách tổ chức đám cưới cho long trọng.
Lúc đám cưới kéo vào Tòa thị chính, Elêônor òa khóc. Họ hàng đẩy chú rể đến bên cạnh bà, nhưng ông bác sĩ già bảo, tốt hơn nên để cô dâu yên.
Vẫn còn sụt sịt, Elêônor bước vào gian phòng lớn dành cho việc tiến hành nghi lễ kết hôn dân sự. Bà nhìn thấy cậu bé kia bên cạnh. Do xấu hổ và bối rối, cậu Giéclanđô càng có vẻ ngốc nghếch và thô kệch. Trong lòng bà nổi lên một làn sóng phẫn nộ. Suýt nữa bà thét lên: “Không!”, rồi bà liếc nhìn thằng bé, hy vọng nó từ chối không chịu lấy bà. Nhưng cả hai đều nói “Vâng!” như thể cùng chứng nhận một lần nữa vào bản án ác nghiệt. Lễ cưới trong nhà thờ được tiến hành vội vã và mọi người quay trở về ấp. Elêônor không muốn rời xa bạn bè của bà, nhưng bà vẫn buộc phải sang ngồi cùng xe với chú rể và bố mẹ chồng.
Suốt dọc đường không ai nói một lời.
Bác tá điền và vợ vẫn lúng túng. Thỉnh thoảng họ liếc trộm nàng dâu, rồi đưa mắt nhìn nhau và lại cúi đầu xuống. Giéclanđô nhìn ra ngoài cửa sổ và nghĩ gì đó không biết, mặt mũi cau có.
Đến ấp, đám rước dâu được đón tiếp tưng bừng. Tiếng súng bắn, tiếng gào thét và tiếng vỗ tay vang lên. Nhưng vừa nhìn thấy cô dâu mọi người đều ngừng bặt, mặc dù bà cố tươi cười với những khách khứa tốt bụng này. Họ đang nói những lời chúc mừng theo cách của họ.
Lát sau Elêônor xin đi nghỉ. Bà cầu được ngồi một mình. Nhưng khi bước vào căn phòng ngày trước, nay được kê chiếc giường cưới bà đứng sững trên bậc cửa. Chung chạ với thằng bé ấy ư? Không! Không và không! Nỗi ghê tởm làm bà run rẩy và bà vội chạy sang một phòng khác khóa trái cửa lại. Rồi bà gieo mình xuống ghế bành, ôm mặt.
Bà nghe thấy tiếng la hét cười đùa ở bên ngoài. Khách khứa đang trêu chọc Giéclanđô, khen cậu ta cưới được cô vợ sang và nhất là khen cậu ta đã trở nên giàu có.
Giéclanđô không đáp, quay mặt ra phía cửa sổ, thỉnh thoảng nhún hai bả vai lực lưỡng.
Đúng thế, cậu ta xấu hổ. Cậu xấu hổ vì phải lấy một bà sang trọng như vậy. Nhưng lỗi tại bố cậu. Bác ta đã bắt cậu phải học những thứ văn hóa chết tiệt ấy, khiến bà kia đem cậu ra chế giễu làm cậu uất ức. Chà chỉ do đùa giỡn mà bà ta đâm thành thế này. Bố cậu thì sướng rồi, được bao nhiêu ruộng đất. Nhưng cậu thì được cái gì? Cậu làm sao chung sống với cái bà mệnh phụ kia được? Cậu vẫn thấy sờ sợ bà ta. Cậu phải cưới bà ta chỉ do sợ xấu hổ, sợ mang tiếng. Bây giờ cậu làm sao dám nhìn thẳng vào mặt bà? Thêm nữa, bố cậu vẫn bắt cậu phải theo học tiếp cái trường khốn kiếp kia! Bọn học sinh ở đó sẽ cười cậu đến thối mũi! Bà kia hơn cậu hai chục tuổi, vợ lại già hơn chồng nhiều đến thế. Bà to béo nữa chứ, trông đồ sộ như quả núi vậy.
Trong lúc Giéclanđô mải suy ngẫm những điều ấy, hai bố mẹ cậu nóng lòng đợi bữa tiệc. Rốt cuộc họ kéo vào gian phòng lớn, nơi đã bày sẵn tiệc. Thức ăn họ không phải nấu mà họ mời một tay chủ quán ở ngoài thành phố về. Ông ta đem theo một đầu bếp và hai người giúp việc.
Bác tá điền bước ra bao lơn, ra lệnh cho con trai:
- Anh vào gọi vợ anh ra dự tiệc.
- Con không vào đấy đây! - Giéclanđô giậm chân càu nhàu. - Bố vào mà gọi.
- Đồ ngu! Bà ấy đang chờ mày vào chứ không phải chờ tao! - Ông bố quát con. - Mày mới là chồng của bà ấy. Nào, nhanh lên. Bà ấy có bổn phận phải có mặt trong bữa tiệc cưới.
- Con không vào đâu, bố muốn làm gì tùy bố - Giéclanđô bướng bỉnh nhắc lại.
Không nhịn được, bác tá điền túm cổ áo thằng con trai, đá vào mông cậu ta một phát.
- Mày xấu hổ à? Chính mày gây nên kia mà, thằng ngu! Bây giờ lại còn xấu hổ! Vào đấy đi! Bà ấy là vợ mày, hiểu chưa?
Khách khứa kéo vào, can hai bố con và giục Giéclanđô vào mời cô dâu ra.
- Cháu cứ vào, mời bà ấy ra uống một ly rượu thì đã sao nào? - Nhưng cháu không biết gọi bà ấy là gì? - Giéclanđô hét lên đau khổ.
Mọi người cười rộ lên. Vài người giữ chặt lấy bác tá điền vì bác ta sắp sửa tát thằng con trai về tội làm hỏng cả bữa tiệc cưới.
- Gọi bằng tên bà ấy chứ gì nữa, - bà mẹ chú rể nói chen vào. - Tên bà ấy là gì nhỉ? Elêônor à? Con cứ gọi Elêônor. Bà ấy là vợ của con kia mà. Vào đi, con! Vào đi…
Giéclanđô gõ vào cánh cửa. Lúc đầu cậu gõ rất khẽ, lắng nghe. Không thấy gì. Xưng hô với bà ấy là gì bây giờ? Chẳng lẽ gọi ngay bằng “em” ? Không được, ngượng lắm. Mà sao bà ấy không trả lời gì cả? Chắc không nghe thấy. Cậu gõ lần nữa to hơn. Rồi đợi. Vẫn không thấy gì.
Lúng túng, cậu khẽ gọi, theo cách bà mẹ bảo. Nghe thật buồn cười “Elêônor”. Rồi như để sửa chữa sai lầm, cậu hét lên giọng như ra lệnh:
- Elêônor!
Và cậu nghe thấy tiếng bà đáp nhưng ở phòng bên cạnh.
- Ai đấy!
Cậu sang cánh cửa bên cạnh.
- Tôi đây… - Cậu nói. - Tôi là… Giéc… Giéclanđô. Ngoài này tiệc đã sẵn sàng rồi.
- Tôi không ra được, - Bà đáp. - Anh ngồi tiếp khách hộ cả tôi nữa. Giéclanđô quay ra phòng tiệc, nhẹ cả người.
- Bà ấy không ra! Bà ấy bảo không ra được. Không đi được.
- Thằng ngu! - Bác tá điền gắt (bác ta chỉ có một từ đó để gọi thằng con trai). - Mày phải bảo bà ấy rằng đây là tiệc cưới. Cô dâu phải có mặt. Nếu bà ấy không ra thì cũng phải lôi bà ấy ra.
Bác tá điền gái góp ý là tạm thời cứ để cô dâu yên đã. Khách khứa cũng tán thành ý kiến ấy.
- Phải rồi. Bà ấy bị xúc động quá… Xấu hổ mà…
Bố chú rể rất muốn được khoe với Elêônor là khi cần, bác ta rất biết cách tổ chức các thứ nghi lễ, cho nên bây giờ bác ta nổi cáu, bực bội ra lệnh nhà bếp bưng thức ăn lên.
Mọi người đều thèm thưởng thức những món ăn thành phố, nhưng cách bày biện bàn tiệc làm họ ngỡ ngàng. Để làm gì những bốn thứ ly cốc khác nhau, rồi đã nĩa lớn lại nĩa nhỏ, dao lớn lại dao nhỏ, và những cái lông chim bọc trong giấy cuốn thuốc lá?
Khách khứa ngồi cách xa bàn tiệc, người nào người nấy mồ hôi đầm đìa do phải mặc những bộ lễ phục nặng như cùm. Họ đưa mắt cho nhau, nhìn những khuôn mặt thô thiển, rám nắng bị méo mó do cách rửa mặt quái quỷ. Nhưng bàn tay nông dân sần sùi lúng túng trước những cái nĩa bằng bạc (dùng cái nĩa nào nhỉ) và những con dao ăn cũng bằng bạc. Nhưng điều khiến họ ngượng ngùng hơn cả là những người phục vụ lại ăn mặc quá sang trọng, tay đeo găng màu trắng.
Bác tá điền nhìn chú rể, gãi gáy, vừa nhau vừa nói, miệng bác nhăn lại vẻ vừa giễu cợt và đau xót:
- Kìa, mày ngồi thế kia à? Ngu như lừa ấy! Bà ấy làm sao dám nhìn vào mặt mày! Bà ấy xấu hổ là phải. Tao mà vào địa vị của mày ấy ư, tao sẽ cư xử không ai chê được hết.
Bữa tiệc diễn ra quá tẻ nhạt. Khách khứa viện cớ này cớ khác cáo lui dần. Trời bên ngoài đã tối.
- Giờ thì mày định làm gì? - Ông bố chú rể hỏi, sau khi những người hầu bàn thu dọn bát đĩa ra khỏi phòng và không khí yên tĩnh trở lại. - Mày định làm gì? Bây giờ thì mày phải tự lo liệu lấy!
Bác bảo vợ theo bác về nhà của họ, cũng không xa ngôi biệt thự này là mấy.
Khi bố mẹ đi rồi, Giéclanđô hoảng hốt nhìn quanh. Làm gì bây giờ đây?
Cậu cảm thấy sự có mặt vô hình câm lặng của người phụ nữ lúc này đang ở trong căn phòng khóa kín từ phía trong. Liệu lát nữa bà ta có ra đây không? Bởi vì mọi người về hết cả rồi. Cậu phải làm gì bây giờ?
Ôi, giá như được theo chân mẹ về nhà, hay ít nhất cũng được nằm lăn ra dưới gốc cây trong vườn.
Mà cũng có thể bà ấy đang chờ mình gọi? Biết đâu bà ấy đã chịu nhịn nhục và bây giờ đang chờ mình gọi một tiếng… Đúng rồi, bà ấy chờ mình
vào để…
Giéclanđô lắng tai nghe, nhưng không thấy động tĩnh gì hết. Hay bà ấy ngủ rồi. Đêm đã khuya. Ánh trăng rọi vào phòng qua ô cửa ra bao lơn.
Không châm đèn, Giéclanđô bắc một chiếc ghế tựa ra ngoài bao lơn. Ngồi đó có thể nhìn thấy quang cảnh khắp làng, cả sườn đồi thoai thoải và thậm chí thấy cả bờ biển ngoài xa nữa.
Trời trong vắt. Những vì sao to sáng rực trên bầu trời. Ánh trăng bạc lấp loáng trên mặt biển. Tiếng dế trên lớp ra ngoài đồng đua nhau kêu inh ỏi.
Đột nhiên một tiếng cú kêu nghe chói tai và buồn bã ở ngay gần. Một con cú khác đậu ở rất xa kêu đáp lại, giống như tiếng vọng. Rồi chúng vừa bay vừa kêu tìm đến với nhau trong không trung tịch mịch của đêm khuya.
Tựa người trên thành bao lơn, cậu lắng nghe tiếng cú kêu và cậu cảm thấy nỗi lúng túng khốn khổ kia cứ tăng dần trong lòng. Rồi cậu ngắm khá lâu bức tường bao quanh dinh cơ, thầm nghĩ rằng cả cái cơ ngơi này đã thuộc quyền sở hữu của cậu: tất cả những cây ăn quả kia, những thửa ruộng trồng nho nữa.
Thì ra bố cậu hớn hở là có lý. Từ nay bác không phải phụ thuộc vào chủ ấp nữa.
Ngay việc bố cậu bắt cậu không được bỏ học cũng có cái hay. Cậu sẽ không phải suốt ngày loanh quanh bên cạnh vợ. Còn nếu như ở trường có đứa nào chế giễu cậu, cậu sẽ cho nó một trận biết tay. Bây giờ cậu đã là ông chủ và không sợ ai đuổi không cho học nữa. Với lại họ cũng không đuổi đâu. Cậu sẽ học hành chăm chỉ để không thua kém gì những vị chức sắc trong cái làng này. Chẳng bao lâu cậu sẽ ngang hàng với họ. Sau bốn năm học tập cậu sẽ thành nhân viên nông học hoặc nhân viên đo đạc. Ông em vợ của cậu, cái ông luật sư ấy, tưởng gả chị gái cho cậu là hạ thấp phẩm giá của bà ấy hẳn? Không đâu, rồi sẽ đến lúc ông ta phải cúi đầu kính nể mình ấy chứ. Và đến lúc nào đó cậu sẽ bảo ông ta rằng: “Ông gán cho ta một mụ già ư? Cái mụ già khú đế này ấy à? Không được đâu. Ta là người có văn hóa
cao, ta cần một cô vợ trẻ, đẹp, giàu có và con nhà danh giá kia!...” Cậu ngủ thiếp đi từ lúc nào, đầu đặt lên cánh tay để dọc theo bao lơn.
Hai con cú vẫn kêu, một ở ngay gần, một ở xa như than vãn với nhau. Ánh trăng vẫn loang lổ trên mặt đất. Tiếng dế kêu vẫn râm ran. Và thỉnh thoảng tiếng sóng biển từ xa vọng lại.
Đêm đã khuya lắm. Elêônor mới lặng lẽ như cái bóng bước ra đứng trên bậu cửa.
Bà không ngờ Giéclanđô lại đang ngủ. Bà thấy thương hại cậu ta, đồng thời cũng sờ sợ. Bà đứng lại, không biết có nên đánh thức cậu để nói về quyết định của bà và dẫn cậu vào trong nhà không. Nhưng bà không đủ can đảm đụng vào người cậu cũng như gọi cậu bằng tên. Thế là bà lại lặng lẽ quay trở vào phòng mình.
IV
Mọi sự được dàn xếp khá dễ dàng.
Sáng hôm sau Elêônor nói chuyện với Giéclanđô, hiền từ như mẹ nói với con. Bà bảo rằng, cậu là chủ nhân toàn quyền của ngôi nhà này và muốn làm gì tùy thích, coi như hai người không có liên quan gì với nhau. Bà chỉ đề nghị có một điều: cậu để cho bà sống tách riêng trong một căn phòng nhỏ, cùng với chị hầu phòng đã già, mà bà quen thuộc từ hồi còn nhỏ.
Mãi nửa đêm Giéclanđô mới được người nhà dìu khỏi bao lơn đưa vào đặt nằm trên chiếc đivăng trong phòng ăn. Lúc này cậu vẫn còn ngái ngủ. Cậu cố hé mở cái miệng làm ra vẻ cáu kỉnh để đối phương biết, muốn thuyết cậu điều gì không phải chuyện dễ. Cậu trịnh trọng gật gù cái đầu sau mỗi câu bà Elêônor nói. Nhưng khi bố mẹ cậu biết được câu chuyện, cả hai đều nổi giận đùng đùng, bất chấp lời trình bày của Giéclanđô rằng cách bà Elêônor đề nghị là thuận tiện cho cả đôi bên.
Để xoa dịu ông bố, cậu hứa sẽ tiếp tục đi học vào đầu tháng Mười tới. Bà mẹ cậu thì trừng phạt con dâu bằng cách ra lệnh cho con trai phải chiếm những phòng đẹp đẽ nhất, ngủ ở phòng sang nhất, học ở phòng thứ hai, và ăn cũng ở một phòng thật sang!
- Con không được dễ với nó! Nếu không thì mẹ sẽ sang và dạy cho nó biết phải hầu hạ chồng nó như thế nào?
Rút cuộc bác ta đành phải thề sẽ không thèm nói một cậu nào với cái bà mệnh phụ kiêu hãnh kia. Có đời thuở nào vợ mà đối xử với chồng như vậy? Mà con trai bác ta thua kém gì ai? Lấy được một tấm chồng như thế là may mắn quá đi rồi.
Sau đấy Giéclanđô lại vùi đầu vào sách vở lo học thi. Tất nhiên thời gian còn quá ít, được mỗi ba tuần lễ. Nhưng họa có Chúc mới biết được. Rất có thể cậu ta miệt mài, tự nhồi nhét được vào óc tất cả những kiến thức
mà cậu đã học qua quít trong suốt ba năm trời và biết đâu sẽ giật được cái bằng tốt nghiệp thì sao?
Khi những ngày đầu tiên buồn bã tuyệt vọng đã qua đi, nghe theo lời khuyên của chị giúp việc già, Elêônor bắt tay vào việc chuẩn bị tã áo cho đứa con sắp ra đời.
Trước đó bà không hề nghĩ đến chuyện ấy.
Chị giúp việc tên là Giêda giúp đỡ bà trong cái việc lạ lẫm này, chỉ dẫn cho bà chủ cách khâu tã, khâu mũ. Số phận ban cho bà niềm an ủi mà trước kia bà không hề nghĩ rằng mình sẽ được hưởng. Bà sẽ có một đứa con, trai hoặc gái, và bà sẽ hiến dâng cả cuộc sống của mình cho nó! Giá như Thượng đế ban cho bà đứa con trai thì hay nhất. Bà đã lớn tuổi, chẳng bao lâu sẽ chết, để đứa con gái ở lại trên đời bên cạnh một người bố như thế kia thật chẳng yên tâm chút nào! Bởi vì nếu là gái, con bà sẽ tiếp nhận tính nết của bà. Con trai bà thì đỡ hơn vì nó dễ thích ứng với hoàn cảnh xung quanh, dù bị số phận đưa đẩy đến đâu đi nữa.
Nhưng ý nghĩ ấy làm bà lo lắng, công việc khâu vá lại làm bà mệt mỏi. Mỗi khi cần giải trí, bà cầm lấy cuốn sách mà bà đem từ nhà ở ngoài thành phố về. Thỉnh thoảng ngừng tay bà hất đầu về phía cửa phòng, hỏi chị giúp việc:
- Cậu đang làm gì ngoài ấy?
Chị Giêda nhăn mặt khó chịu, nhún vai, bĩu môi đáp:
- Đang gục đầu trên cuốn sách, chắc ngủ. Cũng có thể đang nghĩ ngợi. Ai mà biết được.
- Giéclanđô suy nghĩ. Cậu thấy rằng, thì ra rút cuộc, đời cậu như thế này cũng chẳng hay ho gì.
Đúng thế… Bây giờ cậu là chủ nhân thật, nhưng quyền hành làm gì có. Có vợ cũng bằng không. Lại thêm chuyện lục đục với bố mẹ. Sau hết là cậu
giận cái đầu mình quá, học không sao vào nổi!
Cậu như phát điên lên, không thể làm được công việc gì. Rồi những cơn thèm muốn cháy bỏng hành hạ cậu. Cậu càng thèm vào với vợ nhất là khi thấy vợ cố tình xa lánh. Cậu bực bội, sao lại có sự thỏa thuận như vậy được kia chứ. Cậu là chồng, cậu phải là người quyết định chứ không phải bà ta.
Cậu đứng dậy ra khỏi gian phòng, bước đến trước phòng vợ. Nhìn thấy bà ta qua khung cửa hé mở, cơn giận dữ của cậu bỗng tan biết mất. Cậu thở một hơi thật dài, rồi không dám thú nhận với bản thân là mình sợ, đành tự an ủi bằng cách nghĩ thầm rằng, chẳng bõ mất công.
Một lần, sau khi làm hỏng bài thi ở trường, từ thành phố trở về, cậu quyết định: thế là đủ rồi, không học hành gì nữa! Cậu vơ tất cả sách vở, bảng vẽ, giấy nháp, thước kẻ, bút chì đem xuống sân, chất thành một đống định đốt.
Bác tá điền bố cậu vội chạy sang ngăn lại. Cậu hét lên:
- Không phải việc của bố! Bố đừng có dính vào. Bây giờ con là ông chủ rồi!
Bà mẹ cậu chạy sang. Rồi những bà con nông dân làm ở cánh đồng gần đấy cũng chạy lại. Đống sách vở đã bắt đầu bốc khói. Làn khói mỗi lúc thêm dày đặc và bay lên cao. Lửa cháy bùng bùng. Thấy tiếng ồn ào, Elêônor chay ra bao lơn, chị giúp việc chạy theo sau.
Giéclanđô đứng đó, không mặc áo vét, chỉ mỗi chiếc sơmi, đang giận dữ quăng nốt những thứ đã hành hạ cậu bao lâu nay.
Elêônor phì cười, quay trở vào phòng. Nhưng bà mẹ chồng đã nhìn thấy nụ cười trên môi con dâu, bèn quát con trai:
- Nó vui sướng kia kìa! Nó cười mày đấy.
Giéclanđô quay đầu nhìn lên bao lơn, hét:
- Rồi sẽ đến lúc bà ta phải khóc cho mà xem!
Elêônor nghe thấy và tái mặt. Bà hiểu được rằng, cuộc sống buồn tẻ kéo dài từ trước đến nay của bà sắp chấm dứt. Cuộc ngưng chiến vừa qua sao ngắn ngủi đến thế. Con dã thú kia muốn gì ở bà? Bà cảm thấy không còn sức lực gì nữa. Chỉ cần một nhát đánh nhẹ cũng đủ kết liễu cuộc đời bà.
Vừa lúc quay mặt ra, bà nhìn ngay thấy Giéclanđô. Cậu ta thở phì phò, mặt đỏ bừng lên giận dữ:
- Bà chế nhạo tôi thế đủ rồi! - Cậu ta tuyên bố. - Bố tôi là nông dân và tôi cũng sẽ là nông dân. Bà thôi cái trò ra vẻ mệnh phụ ấy đi. Con tôi không cần gì những tã những mũ rởm đời kia! Nó cũng sẽ là nông dân như tôi. Tống cổ cái chị giúp việc đi. Bà xuống bếp mà nấu nướng, mà quét dọn nhà cửa. Mẹ tôi thu vén nhà cửa thế nào thì bà cũng phải làm như thế. Rõ chưa nào?
Elêônor không nhịn được:
- Tôi không cần biết đến mẹ cậu, - bà nói, mắt nhìn thẳng vào mặt cậu ta, kiêu hãnh. - Tôi là tôi và cậu đừng hòng biến tôi thành một con mụ nông dân.
- Bà là vợ của tôi! - Giéclanđô hét lên rồi túm cánh tay Elêônor. - Tôi bảo gì bà phải làm thế. Nghe chưa?
Rồi cậu ta quay sang chị giúp việc, trỏ ra cửa:
- Cút ngay! Tôi không cần người ở!
- Đợi tôi cùng đi với chị, chị Giêda! - Elêônor hét lên, cố gỡ ra khỏi bàn ta của Giéclanđô.
Nhưng cậu không buông, càng nắm chặt hơn, ấn bà ngồi xuống.
- Không được. Không đi đâu hết! Đừng hòng thoát khỏi tay tôi! Tôi nhịn bà như thế là đủ rồi, đem các thứ đồ đạc ra khỏi cái căn phòng ấy! Tôi chịu đựng thế đủ rồi. Tôi khóc thế cũng đủ rồi!
- Cậu khóc chuyện gì vậy? - bà nói, cố ghìm nước mắt cho khỏi trào ra. - Tôi có đòi hỏi cậu thứ gì đâu nào?
- Lại còn không à? Bà đòi tôi không đụng đến người bà? Không được đến gần bà? Như thể tôi là cái thằng cha căng chú kiết nào ấy, còn bà là quý tộc vậy. Bà thuê chị giúp việc để chị ta cơm nước hộ. Lẽ ra chính bà, bà phải bưng cơm rót nước cho tôi như tất cả những người vợ khác!
- Cậu cần tôi làm những gì nào? - Elêônor hỏi, cố ghìm mình lại. - Được! Tôi sẽ bưng cơm rót nước cho cậu, nếu cậu muốn.
Đến lúc này bà không nhịn được nữa, nước mắt trào ra, bà thấy hoa mắt và ngã xuống bất tỉnh. Bị bất ngờ, Giéclanđô luống cuống chạy lại, vội vã đỡ cho bà khỏi ngã rồi cùng với chị giúp việc Giêda dìu bà ngồi vào ghế bành.
Tôi hôm ấy bà đau quặn bụng.
Vừa sợ hãi vừa hối hận Giéclanđô chạy sang gọi mẹ. Một thằng bé được phái ngay ra thành phố mời bà đỡ. Bác tá điền trai thì hoảng hốt cực độ; nếu như nàng dâu làm sao, số phận cái dinh cơ này sẽ thế nào? Bác quát con trai:
- Mày đúng là thằng ngu! Tại sao mày dám nói bà ấy như thế? Lỡ bà ấy chết thì sao? Mày sẽ mất tất. Mày dám bỏ học! Trong khi ấy thì cái cuốc mày cũng cầm không chặt! Mày sẽ không ra gì đâu, sẽ chẳng hơn gì con chó hoang!
- Ôi thôi, con mặt tất! - Giéclanđô gào lên. - Cái quan trọng là làm thế nào cho bà ấy sống.
Mẹ cậu ta chạy như điên, vừa giơ tay lên trời vừa rít lên.
- Gọi bác sĩ! Gọi bác sĩ mau! Bà ấy sắp chết!
- Bà ấy làm sao? - Giéclanđô hỏi, mặt tái xanh tái xám.
Nhưng bố cậu ta đẩy con trai ra phía cửa:
- Chạy đi mau! Nhanh lên!
Giéclanđô run lẩy bẩy. Cậu chạy nhưng nước mắt trào ra khiến cậu không nhìn thấy gì. Được nửa đường cậu gặp chiếc xe ngựa chở thằng bé và bà đỡ.
- Nhanh lên! Nhanh lên! - Cậu quát to. - Tôi đi mời bác sĩ. Bà ấy sắp chết rồi.
Cậu loạng choạng, ngã rồi đứng dậy đi tiếp, quần áo lấm lem, hai hàm răng cắn chặt vào ống tay áo rách tung.
Lúc cậu dẫn được bác sĩ về đến nhà thì Elêônor đã chỉ còn thoi thóp. Bà bị băng huyết.
- Quân giết người! Quân giết người! - Chị giúp việc Giêda nghiến răng rủa trong lúc vẫn tất bật bên cạnh bà chủ. - Tại cậu ấy hết! Dám đang tâm hành hạ bà chủ tôi!
Nhưng Elêônor lắc đầu phản đối. Bà cảm thấy cùng với máu, cuộc sống của bà cũng đang thoát ra ngoài, sức lực đang tàn dần và thân thể bà mỗi lúc một lạnh thêm. Thế càng hay. Bà thấy cái chết không đáng sợ. Thậm chí lại đáng mừng. Nó giải thoát cho bà bao nỗi đau khổ mấy tháng qua. Mặt xanh như tầu lá, bà ngước cặp mắt nhìn lên trần, chờ cho đến khi chúng nhắm lại lần cuối cùng, nhắm lại vĩnh viễn… Như qua một làn sương mỏng bà lờ mờ nhìn thấy ông bác sĩ già đã làm nhân chứng trong đám cưới ngày nào. Và bà mỉm cười với ông.
Giéclanđô không rời xa giường bệnh của bà vợ một lúc nào, ngày cũng như đêm, suốt thời gian bà chiến đấu với Tử thần.
Đến lúc cuối cùng, khi người ta khiêng bà đặt lên ghế bành, bà thay đổi đến mức không nhận ra được nữa: da trắng bệch, như không còn giọt máu nào trong người. Bà nhìn thấy Giéclanđô (cậu ta cũng như thể vừa trải qua một trận ốm thập tử nhất sinh), nhìn thấy hai vợ chồng bác tá điền đang cúi xuống nhìn mình thương xót. Bà nhìn họ bằng cặp mắt đen huyền, cặp mắt lúc này càng có vẻ như to hơn, và bà hiểu rằng giữa bà với những con người kia không có gì chung, tưởng như bà vừa mới từ một nơi nào đó xa lắc trở về, đã thành một con người khác hẳn. Bao mối quan hệ thắt buộc bà vào với họ đã đứt tung, và không phải chỉ với họ mà với cả quãng đời của bà trước đó.
Bà thấy khó thở. Chỉ một tiếng động nhỏ cũng làm tim bà ngưng lại, lát sau mới tiếp tục đập mạnh mẽ gấp bội. Bà kiệt sức đi rất nhanh.
Bây giờ, ngửa đầu lên lưng ghế bành, mắt nhắm nghiền, bà tiếc sao mình đã không được chết. Sau đây sẽ sống như thế nào? Liệu mình có chịu nổi sự tra tấn này không, có nhìn nổi vào mặt những con người kia và những đồ đạc kia nữa không? Bởi vì lúc này sao bà thấy mình xa lạ với tất cả những thứ đó đến thế! Nhưng hình ảnh ghê tởm của thời gian qua áp sát vào bà, như thế có kẻ nào dùng bạo lực túm chặt lấy bà, buộc bà phải nhìn, không cho bà được quên đi tất cả những thứ xa lạ mà bà thù ghét kia!
Bà đinh ninh rằng mìn không dậy nổi và sẽ chết và vỡ tim, nhưng lại không như thế… Mấy hôm sau bà ngồi dậy được, bắt đầu đi lại trong phòng, tựa trên cánh tay của chị Giêda. Vào hôm sau nữa, bà xuống thang gác được và đi dạo ngoài vườn. Rồi chiều chiều bà ra chỗ mỏm đất cao ở phía Nam dinh cơ. Đứng đấy, có thể nhìn xuống bờ biển. Lúc đầu chị Giêda và cậu Giéclanđô đi theo, về sau chỉ mỗi chị Giêda và cuối cùng bà tự đi một mình.
Bà ngồi lên phiến đá, dưới một gốc liễu cổ thụ, ngắm mép biển chạy mềm mại, hơi lượn vòng. Bà nhìn thấy mặt trời như một cái đĩa lửa chìm dần xuống làn sương nhẹ trên mặt biển mầu xám, những đợt sóng chồm lên
hân hoan, những đám mây vàng rực huy hoàng và thần diệu, sánh sáng tinh khiết và thanh thản của Thiên vương tinh rọi xuống mặt đất và vầng trăng mỗi lúc một sáng thêm. Đắm say trong vị ngọt ngào man mác của đêm đang tiến dần lại, hít thở không khí thơm mát, bà cảm thấy sự yên tĩnh và mát mẻ đang ngấm dần vào đáy tâm hồn mình, giống như một niềm hoan lạc thần kỳ.
Trong lúc đó, gia đình người tá điền đang tranh luận theo hướng có hại cho bà. Hai vợ chồng bác ta tìm mọi cách thuyết phục Giéclanđô về chuyện người thừa kế, lỡ rồi có sự bất trắc xảy ra.
- Mày để bà ta thơ thẩn một mình như thế là không nên, - bác trai nói. - Mày phải nhớ rằng bà ấy đang biết ơn mày đã chăm sóc lúc bà ấy đau ốm. Phải bám sát bà ta và chiếm được lòng tin của bà ta… Rồi lại phải tìm cách để con mụ giúp việc không được ngủ trong phòng bà ấy. Bà ấy khỏe rồi, không cần có người giúp việc túc trực ban đêm nữa.
- Ôi, lạy chúa! Ngay trong ý nghĩ cũng không bao giờ con dám làm chuyện ấy. Sao bố mẹ lại bảo thế nhỉ? Bà ấy đối xử với con chẳng khác gì người mẹ đối xử với con trai. Bố mẹ chưa nghe thấy cách bà ấy ăn nói với con…! Như thể bà ấy đã già lắm rồi, chẳng còn sống được bao lâu nữa…
Đúng thế, xin Chúa chứng giám!
- Già ấy à? - bác tá điền gái chen vào. - Tất nhiên bà ấy chẳng còn bé bỏng gì, nhưng già thì chưa đâu. Chính anh chẳng đã…
- Đúng mày là thằng ngu! - Bác tá điền trai ngắt lời. - Tao đã nói rồi. Mày cứ như thế thì sau này chỉ có đi ăn mày. Bà ấy mà chết đi, không để lại cho mày đứa con nào thì của hồi môn sẽ phải trả lại cho gia đình nhà họ. Luật pháp quy định như thế. Đến khi ấy mày không cò một chút gì trong tay. Học vấn thì chẳng có! Nghĩ đi, mày phải suy nghĩ đi, kẻo rồi hối không kịp đấy!... Phải làm ngay đi!
- Con hãy khéo léo với nó, - mẹ cậu khẽ khàng khuyên con trai. - Dịu dàng nói với nó: “Tôi sẽ chiều theo ý bà. Bây giờ bà cũng nên nghĩ đến tôi.
Bà mà làm sao thì tôi sẽ lấy gì để sống?”. Con sợ gì mà không dám nói với nó như thế? Đây có phải nơi trận mạc đâu mà sợ thế?
- Và mày nói thêm thế này nữa, - bố cậu lại chen vào. - “Bà định làm tốt cho ông em bà ư? Bà đã thấy ông ta đối xử tàn tệ như thế nào rồi. Bây giờ bà lại muốn ông ấy tống cổ tôi ra ngoài đường hay sao?”. Mà thật như thế ấy chứ. Mày mà bị ông ta tống cổ ra ngoài đường như con chó thì chúng tao cũng sẽ bị tống cổ theo.
Giéclanđô không đáp. Những lời khuyên nhủ của mẹ làm cậu khó chịu nhưng đồng thời cũng làm cậu khoan khoái như được gãi nhẹ vậy. Những lời dọa dẫm về tương lai của bố làm cậu sợ. Cậu phải làm thế nào bây giờ? Cậu thấy trước rằng cuộc nói chuyện với bà Elêônor sẽ rất khó khăn nhưng vậy không thể không nói được. Đành cứ thử xem sao.
Bây giờ Elêônor đã ra ngồi ăn với chồng. Một lần, trong bữa ăn tối bà nhận thấy cậu ta đăm chiêu nhìn xuống tấm khăn trải bàn, bà bèn hỏi:
- Sao cậu không ăn đi? Cậu làm sao thế?
Mặc dù Giéclanđô chờ đợi câu hỏi ấy, thậm chí cậu cố tình làm ra vẻ đăm chiêu cốt để Elêônor hỏi như thế, nhưng lúc này cậu vẫn không thể nói cái câu mà bố mẹ cậu đã dạy, cậu chỉ vẩy tay một cách mơ hồ.
- Cậu làm sao? - Elêônor gặng hỏi.
- Không làm sao cả, - Giéclanđô lúng túng đáp. - Bố tôi vẫn cứ nhất định.
- Bắt cậu đi học chứ gì? - Elêônor mỉm cười, gợi chuyện.
- Không, tệ hơn nữa ấy chứ, - cậu đáp. - Ông cụ cứ nhất định… nhất định buộc tôi phải lo đến tương lai. Bố tôi bảo cụ già rồi mà tôi thì chẳng có nghề ngỗng gì hết… Lúc này bà còn ở với tôi thì chưa sao, nhưng nếu… nếu tôi chỉ có một mình…
- Cậu bảo với ông ấy, Elêônor nghiêm giọng trả lời, tay che mất để khỏi nhìn thấy mặt cậu ta đang đỏ ửng lên. - Cậu hãy nói với ông ấy rằng không phải lo. Tôi đã tính trước hết cả rồi. Bây giờ cậu đã nhắc thì tôi xin nói luôn: nếu như tôi chết - mà cuộc đời chúng ta nằm trong tay Chúa - cậu mở ngăn kéo thứ hai trong chiếc tủ kê trong phòng của tôi, cậu sẽ thấy một lá thư gửi cho cậu.
- Một lá thư? - Giéclanđô hỏi lại, mặt đã chín nhừ.
Elêônor gật đầu.
- Đúng thế. Vì vậy cậu hãy yên tâm.
Sáng hôm sau, mặt mũi tươi tỉnh, Giéclanđô sang gặp bố mẹ thuật lại cuộc trò chuyện giữa cậu và bà Elêônor tối hôm trước. Nhưng hai vợ chồng bác tá điền, nhất là bác trai rất không bằng lòng.
- Mày bảo lá thư ấy à? Chuyện vớ vẩn.
Bức thư ấy là cái gì? Rất có thể là bản chúc thư. Nghĩa là để lại tài sản cho chồng. Nhưng lỡ bản chúc thư ấy được viết không theo đúng thủ tục thì sao? Không có người tòa án chứng nhận thì nó không có hiệu lực, biết đâu như thế? Ông em bà ta lại là luật sư, ông ấy rất có thể bác bản chúc thư kia!
- Đừng có hy vọng Tòa án bênh vực lẽ phải. Đừng có làm gì để phải viện đến tòa án. Nông dân nghèo chúng ta không thạo việc chạy chọt ở Tòa. Bọn họ hay làm cái trò đổi trắng thay đen, lật ngược vấn đề lắm đấy.
Mà đã chắc gì trong tủ có cái lá thư ấy thật? Bà ta nói như vậy để hoãn binh thôi. Mày đừng có cả tin như thế. Nghe chúng tao đây này! Mày còn dại lắm, con ạ.
Và thế là vào một buổi tối, trong lúc Elêônor ngồi chơi ngoài dải đất trên cao như thường lệ, Giéclanđô đột nhiên xuất hiện.
Elêônor thấy ớn lạnh, co quắp người lại và choàng lên vai tấm khăn rộng mầu đen, mặc dù tiết tháng hai ấm áp và mùa xuân đã đang tới. Bên dưới chân đồi, đồng lúa xanh rờn. Biển và chân trời nhuốm một mầu hồng, tuy rất nhạt nhưng đẹp vô cùng. Những xóm làng xa xa, không được mặt trời chiếu sáng, lấp lánh như những đồ chơi trẻ con.
Ngắm chán những mầu sắc diệu kỳ của thiên nhiên buổi hoàng hôn tĩnh mịch, Elêônor gục đầu vào thân cây liễu. Tấm khăn quấn đầu khiến khuôn mặt bà càng xanh xao.
- Bà ngồi đây làm gì thế? - Giéclanđô hỏi. - Trông bà lúc này giống như Đức Thánh mẫu Đồng Trinh đang đau khổ vậy.
- Tôi vừa mới ngắm phong cảnh. - bà đáp, thở dài rồi nhắm hai mắt lại. Nhưng cậu ta lại dở chuyện cũ ra:
- Bà biết không, bà choàng tấm khăn này trông bà rất đẹp… - Đẹp à? - Elêônor mỉm cười buồn bã. - Có tôi lạnh thì đúng.
- Không. Tôi bảo bà rất hợp với chiếc khăn này, - Giéclanđô hổn hển nói, cậu ta ngồi xuống mặt đất bên cạnh bà.
Bà nhắm mắt và mỉm cười để nước mắt khỏi trào ra. Bao kỷ niệm về tuổi trẻ đã trôi qua vô ích xóa vào tâm can bà. Năm mười tám tuổi bà đã từng xinh đẹp, xinh đẹp thật sự.
Nhưng một bàn tay đụng chạm thô lỗ vào người bà khiến bà bừng tỉnh.
- Đưa tay cho tôi, - cậu ta nói, mắt ngước từ dưới lên, cặp mắt long lanh đầy thèm muốn.
Bà hiểu cậu ta muốn làm gì nhưng làm ra vẻ như không hiểu.
- Tay à? Để làm gì? - Bà hỏi. - Tôi nhấc cậu dậy sao được. Tôi còn yếu lắm. Chân bước còn chưa vững nữa là… Thôi, muộn rồi, ta về đi.
Rồi bà đứng dậy.
- Không phải thế, - cậu cố giải thích. - Hai chúng ta ngồi đây một lát đã, trong bóng tối này.. Ở đây dễ chịu quá.
Cậu choàng tay ôm hai đầu gối bà, mỉm một nụ cười bằng cặp môi khô khốc.
- Không được! - Bà kêu lên. - Cậu điên à? Buông tôi ra!
Để khỏi ngã, bá níu lấy vai Giéclanđô rồi đẩy ra. Cậu ta đang quỳ xuống và tấm khăn choàng đen tuột khỏi vai bà, rơi xuống trùm kín người cậu.
- Tôi thèm! Tôi thèm bà, - cậu lẩm bẩm như người say rượu, một tay ghì chặt đầu gối Elêônor, một tay đưa lên quàng ngang eo bà, dồn dập hít mùi hương từ da thịt bà tỏa ra.
Elêônor đẩy mạnh cậu ta, chạy vụt ra chỗ bờ vực. Đến đó bà đứng lại quay đầu về phía sau quát:
- Không được đến gần tôi!
Giéclanđô điên cuồng lao tới. Bà nghiêng người tránh rồi lao xuống vực.
Cậu ta đứng sững lại hoảng hốt. Tiếng một cành cây gẫy khô khốc vọng lên. Cậu nghiêng người nhìn xuống, thấy một đống áo quần mầu đen nằm bất động trên sườn vực xanh mầu cỏ. Tấm khăn choàng mầu đen tuột ra vẫn còn đang bay lượn phía trên, từ từ xuống thấp dần, thấp dần.
Cậu ôm chặt hai tay lên đầu, quay nhìn về phía nhà. Cặp mắt cậu phản chiếu tia sáng của mặt trăng đang lên cao bên trên rặng liễu. Cậu đứng lặng,
nhìn mặt trăng không chớp mắt, như thể vầng trăng kia đã thấy tất cả và bây giờ đang kết tội cậu.
ĐIỀU KHÔNG NÓI TRẮNG RA
Xara Acgienta, biệt danh là Tarara, vừa được dẫn đến ngồi vào chiếc ghế dài dành cho bị can, cách phần còn lại của phòng xử án bằng một hàng rào cao, thì việc đầu tiên của anh là móc trong túi ra chiến khăn to mầu đỏ in hoa vàng cẩn thận trải xuống chỗ ngồi để khỏi làm bẩn bộ comlê chỉ để mặc ngày lễ ngày Tết bằng vải len thô mầu tím xẫm. Cả bộ comlê lẫn chiếc khăn đều mới toanh.
Ngồi thoải mái xong, Xara mới quay đầu nhìn đám nông dân đang chen chúc đằng sau hàng rào, ở phần bên kia của phòng xử án, dành cho nhân dân đến xem xử. Anh mỉm cười. Bộ mặt xưa nay vẫn râu ria tua tủa hôm nay được cạo nhẵn nhụi khiến anh giống như một chú khỉ. Tai anh đeo khuyên vàng.
Từ chỗ đám nông dân tỏa ra mùi phân ngựa, mùi mồ hôi, mùi cừu nồng nặc.
Một chị phụ nữ mặc đồ đen, quàng khăn len kéo xuống tận lông mày, nhìn thấy bị can chị hoảng sợ thét lên. Trong khi đó thì bản thân bị can lại vui vẻ ngắm từ trong cái lồng kia ra, khi thì giơ cao bàn tay sần sùi do lao động nặng nhọc, khi thì hất đầu sang trái rồi sang phải, không chỉ để ra dấu chào mà còn ra dấu cảm ơn những bạn bè cùng làm. Thậm chí anh còn tỏ vẻ như thông cảm với họ nữa.
Sau bao nhiêu tháng trời tạm giam, buổi xử án hôm nay đối với anh là một ngày hội. Bởi vậy anh mới ăn mặc như đi lễ ngày chủ nhật. Vì nghèo, Tarara không có tiền thuê luật sư, mà đành bằng lòng với thầy cãi do tòa chỉ định. Nhưng còn những gì thuộc phạm vi của riêng anh thì Tarara rất chu đáo: áo quần sạch sẽ, râu ria cạo sạch, tóc chải rẽ ràng:
Sau phần thủ tục và sau phần công bố thành phần xét xử, chủ tọa phiên tòa ra lệnh cho bị can đứng dậy.
- Tên anh?
- Tarara.
- Đấy là biệt danh. Tên thật kia?
- Xin Tòa tha lỗi. Tên tôi là Acgienta. Xara Acgienta, thưa tòa. Nhưng mọi người đều gọi tôi là Tarara.
- Thôi được. Bao nhiêu tuổi?
- Thưa Tòa, tôi không biết ạ.
- Sao lại không biết?
Tarara nhún vai rồi nhăn mặt như để mọi người hiểu rằng, việc tính tuổi đối với anh bao giờ cũng là việc làm xấu thói hoặc ít nhất cũng vô nghĩa. Nhưng anh vẫn nói thêm:
- Thưa Tòa tôi là người nhà quê. Ai lại đi tính tuổi.
Dưới hàng ghế người nghe có tiếng cười rộ. Chủ tọa phiên tòa cúi xuống những giấy tờ đặt mở rộng trước mặt Ngài.
- Anh sinh năm một ngày tám trăm bảy mươi ba. Nghĩa là năm nay anh ba mươi chín tuổi.
Tarara giơ cả hai tay lên trời, vẻ nhịn nhục:
- Thưa tòa, vâng.
Để khỏi làm công chúng ngồi xem bên dưới rộ lên những đợt cười mới, ngài chủ tọa vội vã đưa ra những câu hỏi khác rồi lại tự trả lời lấy:
- Đúng không? Đúng.
Khi đã hỏi xong, Ngài nói:
- Anh ngồi xuống. Bây giờ ông thư ký phiên tòa tuyên đọc bản luận tội.
Ông thư ký bắt đầu đọc, nhưng mới được một đoạn, ông ta phải dừng lại, bởi vì mùi khăm khẳm nồng nặc của gian phòng xử án khiến các vị thẩm phán nhức đầu. Lính gác được lệnh mở các cửa.
Và bây giờ thì mọi người đều thấy rõ sự ưu việc không thể chối cãi được của bị cáo trước những vị ngồi xử án.
Ngồi oai vệ trên tấm khăn đỏ chói. Tarara không hề ngửi thấy cái mùi ấy, bởi vì anh đã quá quen với nó. Anh chỉ khẽ mỉm cười. Anh không cảm thấy cái nóng ngột ngạt, mặc dù đánh cả một bộ comlê len mầu tím thẫm. Anh cũng không hề thấy khó chịu với đàn ruồi đang quấy rối các vị thẩm phán, ngài biện lý của đức Vua, các vị luật sư, những người lính gác và thậm chí cả mấy anh chàng pháp thủ hoa chân múa tay để xua chúng đi. Ruồi bậu kín hai cánh tay anh, vo ve bên tai anh, bậu cả vào trán, vào môi, vào mắt. Tarara không cảm thấy khó chịu, không thèm đuổi chúng đi mà vẫn tủm tỉm cười.
Viên luật sư trẻ tuổi được Tòa chỉ định, đã quả quyết từ trước với bị cáo rằng tội anh nhẹ thôi, vì anh giết vợ thật nhưng việc chị ta phản bội chồng đã có đủ bằng chứng.
Vẻ mặt hồn nhiên và thơ ngây giống như một con vật không biết suy nghĩ, Tarara lúc nào cũng bình thản. Không hề có bóng dáng của nỗi hối hận, lương tâm cắn dứt nào hết. Anh hoàn toàn không hiểu được, tại sao người ta lại bắt anh phải nhận tội, khi cái sự việc ấy chẳng liên quan đến bất cứ ai trên cõi đời này ngoài cá nhân anh. Anh coi luật pháp chỉ là một điều tất yếu chẳng vui vẻ gì. Trong công việc làm ăn sinh sống thì có chuyện mất mùa, còn trong cuộc đời thì có chuyện luật pháp. Cũng y hệt nhau thôi!
Tòa án với tất cả vẻ trịnh trọng của nó: những hàng ghế nặng nề, những chiếc mũ quan tòa, những chiếc áo thụng, những trang sức phù phiếm đối
với Tarara chỉ là một cái trò giống như việc khánh thành xưởng xay bột bằng máy hơi nước năm ngoái. Cách đây đúng một năm Tarara cùng với một đám vô công rồi nghề đứng xem cái máy kỳ quặc ấy với đủ thứ bánh xe lớn nhỏ, đủ thứ thanh sắt dài ngắn với những tấm kim loại đủ kiểu, anh cảm thấy trong lòng một nỗi ngạc nhiên kèm theo nghi hoặc. Mọi người đem hạt mì của mình đến đổ vào máy, nhưng ai dám quả quyết rằng số bột chảy từ máy ra mà mình nhận lại chính là bột của đúng thứ hạt mình đã đem đến, chứ không phải số hạt của người khác? Thôi thì cũng đành nhắm mắt bỏ qua, nhận số bột cái máy trả lại cho mình vậy.
Bây giờ cũng tựa như thế, Tarara cũng nghi hoặc và nhẫn nhục giao phó số phận của anh cho cái máy luật pháp.
Anh chỉ biết rõ một điều là anh đã bổ một rìu vỡ đôi cái sọ của vợ. Đầu đuôi câu chuyện như thế này. Tarara tuần nào cũng đi làm thuê cho những gia đình ở gần thị trấn Môngtapéctô suốt từ thứ hai đến thứ bảy. Thứ bảy hôm ấy anh về đến nhà, người ướt đẫm mồ hôi và lấm lem bùn đất, thì nghe được chuyện xô xát dữ dội vừa mới xảy ra trong làng Accô đi Xpôtô, tức là nơi anh ở.
Trước đây vài tiếng đồng hồ, vợ anh bị bắt quả tang đang ngủ với ngài sĩ quan kỵ binh Agatinô Phiorica. Bà Graxiela, vợ ngài sĩ quan, hai tay đầy vòng và nhẫn, má đỏ hây hây, mặt trát bự phấn giống như con lừa chở bột, đích thân dẫn hai cảnh binh do ngài cảnh sát trưởng Xpanô chỉ huy đến tận xóm Accô đi Xpôtô để ba vị quan chức này chứng kiến vụ ngoại tình là xảy ra thật.
Hàng xóm của Tarara không thể giấu anh nỗi bất hạnh, bởi vì chị vợ anh cùng với ngài sĩ quan đã bị cảnh sát giữ lại ngoài đồn suốt đêm hôm đó. Sáng hôm sau, chị ta vừa mới về đến cửa thì Tarara nhảy bổ đến. Hàng xóm chưa kịp ngăn thì anh đã bổ vỡ đôi cái sọ của vợ rồi.
Ông thư ký phiên tòa đang lắp bắp những gì có trời hiểu.
Khi thư ký đọc xong, ngài chủ tọa phiên tòa lại ra lệnh cho bị cáo đứng lên và trả lời tiếp những câu hỏi khác.
- Bị cáo Acgienta, anh hiểu anh bị buộc về tội gì chứ?
Tarara chỉ khẽ đụng đậy bàn tay và vẫn với nụ cười quen thuộc đáp: - Thưa tòa, thú thật tôi nghe không được rõ lắm.
Ngài chủ tọa phiên tòa giận dữ mắng:
- Anh bị kết tội là sáng ngày mồng mười tháng mười hai năm một ngàn chín trăm mười một đã dùng rìu giết chết chị Rêxaria Phêminela, vợ anh. Anh sẽ cãi lại thế nào? Quay mặt về phía các ngài thẩm phán và nói cho rành rọt, kính cẩn với Tòa.
Tarara đặt bàn tay lên ngực ý để nói rằng anh không hề có ý nghĩ thiếu tôn kính với Tòa. Công chúng ngồi xem vốn đã được khởi đầu thú vị và vui vẻ lúc này rất muốn được cười câu trả lời của bị can. Tarara nhìn thấy thế, anh hơi ngượng nghịu chưa đáp.
- Anh trả lời Tòa đi! - Ngài chủ tọa phiên tòa giục. - Anh hãy thưa với các vị thẩm phán những gì anh cần nói.
Tarara nhún vai rồi quyết định nói:
- Thưa Tòa, các ngài đều học thức cao và những gì ghi trong giấy tờ, các ngài đều đọc được cả. Thưa Tòa, tôi chỉ là đứa thất học. Nhưng nếu trong những giấy tờ kia có ghi tôi giết vợ thì cũng có nghĩa là đúng như thế. Tôi chẳng có gì để nói thêm nữa.
Đến lúc này thì chính ngài chủ tọa phiên tòa cũng không nhịn được cười.
- Chẳng có gì để nói thêm nữa à? Không đâu, anh bạn thân mến ạ, có điều cần phải nói đấy…
- Thưa Tòa, tôi chỉ định nói rằng. - Tarara lại đặt bàn tay lên chỗ trái tim giảng giải. - Rằng tôi đã giết vợ, có vậy thôi. Tôi đã giết nó, đúng thế, thưa Tòa, thưa các vị thẩm phán, tôi đã giết bằng chính hai bàn tay này, bởi vì tôi không thể không giết nó. Có vậy thôi ạ.
- Tôi yêu cầu các vị giữ trật tự cho! Không ai cười nữa! - Ngài chủ tọa phiên tòa nổi cáu, rung chuông liên tiếp. - Các vị quên đang ở đâu à? Đây là phòng xử án. Tòa đang xử một kẻ sát nhân. Nếu các vị còn cười tôi yêu cầu tất cả ra ngoài hết. Thưa các vị thẩm phán, còn các vị, tôi cũng xấu hổ thay cho các vị, vì tôi bắt buộc phải nhắc các vị tôn trọng không khí nghiêm túc của việc xét xử?
Rồi cau mày giận dữ, ngài chủ tọa quay về phía bị can:
- Anh vừa bảo không thể không giết được, nghĩa là sao?
Gian phòng trở lại im lặng. Tarara ngượng nghịu nói:
- Thưa Tòa, ý tôi muốn nói rằng tôi không có lỗi trong chuyện này. - Sao lại không có lỗi?
Đến đây viên luật sư trẻ tuổi, do Tòa chỉ định không nhịn được, cảm thấy bổn phận của mình là phải đứng lên phản đối giọng nói gay gắt của ngài chủ tọa.
- Xin lỗi, thưa ngài chủ tọa phiên tòa. Ngài làm như thế sẽ làm bị can bối rối! Tôi cảm thấy anh ta nói rằng không có lỗi là nói đúng, bởi vì kẻ có lỗi là chị vợ anh ta, chị đã phản bội chồng đi lại với ông sĩ quan kỵ binh Phiorica. Điều này đã rõ ràng.
- Xin lỗi ông luật sư, nhưng tôi yêu cầu ông không cản trở công việc của những người xét xử! - Ngài chủ tọa giận dữ ngắt lời viên luật sư. - Hãy để bị can phát biểu. Tarara, anh nói tiếp đi. Anh đồng ý với ý kiến người bào chữa của anh không?
Lúc đầu Tarara lắc đầu, sau đó anh nói rõ thêm:
- Thưa Tòa không ạ. Con vợ bất hạnh của tôi cũng không có tội. Chỉ mỗi một người có tội… chính là bà vợ ngài sĩ quan Phiôrica. Bà cứ nhất định không chịu để mặc cho cái chuyện kia diễn ra thầm kín, như trước đó vẫn diễn ra. Thưa Tòa, bà tay gây chuyện om sòm làm cái gì ở bên cạnh nhà tôi ở như vậy? Thưa Tòa, bà ta làm ầm ĩ đến nỗi những hòn đá lát trên đường cũng phải xấu hổ khi nhìn thấy ngài sĩ quan đáng kính - mà tất cả dân làng chúng tôi đều nhìn ngài xưa nay như thế - vậy mà lúc ấy ngài chỉ có mỗi chiếc áo lót trên người, cởi truồng, nằm trong túp lều rách của một con mụ nhà quê bẩn thỉu. Thưa Tòa, chỉ có Chúa mới biết chúng tôi nghèo khổ đã phải vất vả như thế nào, nhẫn nhục đến đâu để có được miếng bánh mì.
Trong khi Tarara nói tất cả những điều ấy bằng giọng run run vì xúc động, cặp mắt nhòa lệ, hai bàn tay co quắp ôm lấy ngực, thì dưới hàng ghế khán giả, tiếng cười rộ lên. Người ta cười không thể ghìm lại được, nhiều người ôm bụng lăn ra đất mà cười. Nhưng ngay cả trong tiếng cười ấy, ngài chủ tọa phiên tòa cũng vẫn nhận ra được chiều hướng mới của cuộc xét xử do bị can tạo nên. Viên luật sư trẻ tuổi cũng hiểu ra được như thế. Anh thấy rằng toàn bộ kế hoạch bào chữa cho bị can do anh công phu chuẩn bị lúc này tan ra thành mây khói. Anh quay sang nhìn bị can và ra hiệu cho bị can ngừng lại.
Nhưng muộn mất rồi. Ngài chủ tọa phiên tòa giận dữ rung chuông, hỏi bị can:
- Nghĩa là anh thú nhận có biết từ trước chuyện vụng trộm của vợ anh với ngài sĩ quan Phiôrica?
- Thưa ngài chủ tọa, - viên luật sư trẻ tuổi chồm dậy nói chen vào. - Xin lỗi, nhưng tôi… nhưng tôi…
- Tôi làm sao? - Ngài chủ tọa phiên tòa thét lên ngắt lời luật sư. - Tôi đang cần làm rõ thêm một điều.
- Tôi phản đối cách hỏi của ngài, thưa ngài chủ tọa.
- Ông không có quyền phản đối, thưa ông luật sư. Người điều khiển cuộc thẩm vấn là tôi!
- Nếu như vậy tôi xin trao trả nhiệm vụ bào chữa
- Tùy ông… Nhưng ông nói nghiêm chỉnh đấy chứ? Bởi vì chính bản thân bị can đã thú nhận.
- Không, xin lỗi. Thưa ngài chủ tọa! Bị can chưa hề thú nhận gì hết. Anh ta chỉ mới nói rằng, theo ý kiến anh ta người có lỗi là bà Phiôrica đã gây chuyện đánh ghen om sòm bên cạnh nhà anh ta.
- Cứ cho là như thế! Nhưng ông lấy lý do gì mà cản trở tôi trong việc thẩm vấn bị can? Tôi muốn hỏi xem anh ta có biết từ trước việc chị vợ anh ta dan díu với ngài sĩ quan hay không?
Trong lúc ấy, rất nhiều người ngồi xem phiên tòa gào lên và làm dấu ra hiệu cho Tarara đừng nói kiểu vừa rồi nữa. Ngài chủ tọa lại nổi nóng và quát yêu cầu mọi người trật tự, dọa nếu không sẽ đuổi tất cả ra ngoài.
- Bị cáo Acgienta, hãy trả lời Tòa, anh đã biết từ trước là vợ anh vẫn dan díu với ngài sĩ quan phải không?
Hoang mang, bối rối, Tarara liếc nhìn viên luật sư rồi đưa mắt bao quát phòng khán giả. Cuối cùng anh lẩm bẩm tự hỏi:
- Tôi phải trả lời là không hay sao?
- Ngu lắm! - Một ông già nông dân ngồi hàng ghế cuối cùng gào lên.
Viên luật sư trẻ tuổi đấm mạnh xuống ghế giận dữ rồi đứng lên, ngồi sang chỗ khác.
- Anh phải khai thật, và như thế chỉ có lợi cho anh! - Ngài chủ tọa phiên tòa hướng về phía Tarara.
- Thưa Tòa, tôi nói trắng ra sự thật, - Tarara lên tiếng là lần này anh đặt cả hai bàn tay lên ngực. Sự thật là thế này: mọi sự vẫn diễn ra và tôi để yên, coi như không biết. Bởi vì đúng là như thế, thưa các ngài thẩm phán. Quan hệ dấm dúi giữa vợ tôi và ngài sĩ quan không ai biết cho nên chẳng ai dám nói vào mặt tôi. Thưa các ngài thẩm phán, tôi nói điều ấy bởi vì tôi chỉ là một thằng nhà quê dốt nát. Một kẻ nghèo khổ như tôi, suốt tuần, từ mờ sáng thứ hai đến tối mịt thứ bảy đổ mồ hôi trên đồng ruộng thì còn hiểu biết được cái gì kia chứ? Chuyện vợ phản bội là chuyện mấy ai tránh được? Tất nhiên nếu có ai ra ngoài đồng, chỗ tôi làm, nói vào tai tôi rằng: “Tarara, con vợ anh ở nhà tằng tịu với ông sĩ quan Phiôrica” thì tôi không thể có cách nào khác là vớ lấy cái rìu chạy về nhà bổ vào đầu nó một nhát. Nhưng thưa Tòa, không ai đến bảo với tôi như thế. Còn tôi thì mỗi khi có dịp về thăm nhà giữa tuần, tôi đều cẩn thận nhờ người báo trước cho vợ tôi. Thưa Tòa, tôi nói thế để chứng tỏ rằng tôi không định làm phiền ai hết. Đàn ông là đàn ông, thưa Tòa, và đàn bà là đàn bà. Điều đó là rõ ràng. Anh đàn ông nào cũng cần hiểu rằng đàn bà bản tính là như thế. Không thể nào không phản bội chồng được. Kể cả khi chị ta ở liền bên cạnh chồng, ý tôi muốn nói là kể cả khi anh chồng không vắng nhà suốt cả tuần như tôi. Thế nhưng phận sự người đàn bà là phải giữ tiếng cho chồng, đừng để kẻ nào giễu cợt, chê trách chồng. Thưa Tòa, thưa các vị thẩm phán, có những thứ, thưa các ngài thẩm phán kính mến, có những thứ làm nhục anh chồng hơn là những lời đồn đại, đấy là khi sự việc hiển nhiên khiến anh ta không thể nhịn được và cũng không được phép nhịn. Thưa Tòa, thưa các vị thẩm phán, tôi xin thề rằng vợ tôi xưa nay vẫn tôn trọng tôi, vẫn giữ cho tôi không bị mang tiếng, mặc dù cả đời chưa bao giờ tôi làm rụng một sợi tóc của nó. Các ông các bà hàng xóm của tôi có thể chứng nhận cho tôi chuyện ấy. Nhưng thưa các vị, thật bất hạnh cho tôi, bà vợ ngài sĩ quan ấy lại chạy đến và gây chuyện om sòm… Thưa các vị, nếu như các vị cho đòi bà ta đến đây, tôi xin có lời với bà ấy! Thưa các vị, đúng những bà lắm mồm là thứ đáng sợ hơn mọi thứ! Giá như tôi được gặp, tôi sẽ bảo bà ấy rằng: “Nếu như ông nhà tằng tịu với một mụ đàn bà đã có chồng nào đó, thì bà muốn làm om sòm thế nào tùy bà, tôi không có ý kiến gì. Nhưng tại sao bà lại lôi tôi vào cuộc, tôi vốn là kẻ thích yên ổn. Không bao giờ tôi thích dính mũi vào chuyện người khác.
Tôi thích sống mà không nghe thấy gì hết, không nhìn thấy gì hết, chỉ cắm đầu suốt từ mờ sáng đến tối khuya, hết ngày này sang ngày khác, hết tuần này sang tuần khác để kiếm miếng bánh mì…”. Giá như có bà ấy ở đây tôi sẽ nói với bà ấy rằng: “Đối với bà chuyện kia chỉ là trò đùa giỡn. Bà đánh ghen, làm ầm ĩ thực ra cũng chỉ để giải sầu. Chỉ hai ngày sau bà lại bỏ qua và lại hòa thuận với ông nhà như chưa có chuyện gì xảy ra hết. Bà không hề nghĩ đến chuyện bà làm cho một thằng chồng phải dính vào. Bà không hề nghĩ rằng một thằng chồng khi kẻ khác cười vào mặt tất phải giữ thể diện và phải tiến hành một biện pháp nào chứ. Giá như bà đến gặp riêng tôi, báo cho tôi biết việc ông nhà đi lại lén lút với vợ tôi, thì tôi sẽ bảo bà ta rằng: “Ôi dào! Đàn ông chúng tôi từ khi lọt lòng mẹ đều có tính thích đi săn rồi! Bà quan tâm làm gì đến một con mụ nhà quê bẩn thỉu? Ông sĩ quan chồng bà đã quen ăn thứ bánh mì trắng bột mịn mua ở Pháp, thì thỉnh thoảng ông có thích sài thứ bánh mì đen thô thiển, bột to lổn nhổn cho lạ miệng cũng chẳng đáng để bà để bụng!”. Tôi sẽ nói với bà ta như thế, thưa các vị thẩm phán. Và khi ấy chắc chắn bà ta sẽ nghe ra và chẳng xảy ra cái chuyện vừa rồi. Cho nên tất cả chỉ do lỗi của bà vợ ông sĩ quan.
Ngài chủ tọa phiên tòa lại phải rung chuông, và lần này phải rung dữ dội một lúc lâu mới dẹp yên được công chúng. Họ đón bài diễn văn thú tội của Tarara bằng những tiếng gào thét và những tiếng cười điên cuồng.
- Nghĩa là anh đã thú nhận tội lỗi? Ngài chủ tọa hỏi bị can. Anh chàng Tarara thở hổn hển, lắc đầu:
- Thưa Tòa, không đâu ạ. Tôi có thú tội gì đâu ạ. Tôi chỉ nói trắng ra sự thật, thưa Ngài.
Vì cái sự nói trắng ra sự thật ấy, Tarara lĩnh án mười ba năm tù.
CHUYẾN VIỄN DU
Ađriana mười lăm năm sống cấm cung trong ngôi nhà cũ kỹ và lặng lẽ giống như một tu viện. Nàng vào đấy từ khi còn là thiếu nữ mới lớn. Suốt những năm ấy nàng không hề bước chân ra khỏi cửa. Chỉ những khách qua đường hiếm hoi có dịp đi trên con đường dốc trong ngõ hẻm vắng mới nhìn thấy nàng thấp thoáng bên trong cửa sổ; lối đi cỏ mọc kín giữa những tảng đá mấp mô lát đường.
Sống với chồng chưa được bốn năm thì chồng qua đời, thế là nàng bước vào cuộc sống cằn cỗi. Bây giờ nàng mới ba mươi năm nhưng đã quanh năm mặc toàn đồ đen, giống như hôm đưa tang chồng. Chiếc khăn lụa đen phủ khín mái tóc dày mầu hạt dẻ mà ngàng không thiết tết, chỉ rẽ đường ngôi ở giữa và búi lại sau gáy. Nhưng khuôn mặt xanh xao với những đường nét thanh tú của nàng lúc nào cũng như nở một nụ cười dịu dàng và buồn bã.
Thái độ tự giam hãm ấy không hề khiến dân thị trấn ngạc nhiên. Trong cái thị trấn miền núi hẻo lánh trên hòn đảo Xixin này, tập quán ngặt nghèo quy định người đàn bà góa chồng gần như phải theo ông chồng xuống mồ, và mọi người dân ở đây đều theo dõi xít xao, xem có ai dám vượt qua cái tục lệ ấy. Phụ nữ góa bụa có bổn phận phải sống xa lánh mọi người và để tang chồng cho đến ngày chết.
Ngay đàn bà con gái của một số ít những gia đình sung túc có chồng hay chưa, nói chung đều ít ló mặt ra phố trừ ngày lễ ra nhà thờ hay họa hoằn đến thăm nhau. Nhưng mặt khác, những ngày đó họ lại phục sức hết sức giàu có, mặc toàn áo đặt may tại những hiệu may nổi tiếng nhất ở tận Palécmô hay Catania, đeo toàn đồ trang sức quý, tuy không phải để khoe khoang với ai: ra đường họ đều cúi gầm xuống mà đi, mặt đỏ ửng bên cạnh chồng, cha hay anh. Việc ăn mặc diện gần như chuyện họ buộc phải làm: đi thăm ai hoặc đến nhà thờ chỉ cách nhà vài bước chân cũng bị coi là chuyện dạo chơi thật sự đối với phụ nữ, vả phải được họ chuẩn bị kỹ càng từ chiều
hôm trước. Đây là chuyện danh dự của gia đình, và đàn ông chăm sóc đến trang phục của phụ nữ trong già đình thậm chí có lẽ còn hơn cả bản thân những người phụ nữ ấy. Bởi vì họ muốn tỏ cho xung quanh biết, họ dám không tiếc tốn kém chi cho phụ nữ và rất am hiểu về phục sức của nữ giới.
Còn phụ nữ thì vốn ngoan ngoãn, nhẫn nhục, bao giờ cũng phục sức theo đúng như đàn ông yêu cầu, cố gắng không làm mất đi uy tín của đàn ông trong nhà. Sau chuyến đi ra ngoài ngắn ngủi, họ lại hoàn toàn thanh thản trở về với công việc nội trợ: đàn bà có chồng thì tiếp tục đẻ con, bao nhiêu tùy theo Chúa cho, đấy là số kiếp của họ; con gái chưa chồng thì chờ đợi cái ngày mà bố mẹ bảo họ: “Con hãy lấy anh ấy anh nọ”. Họ lấy chồng và hoàn toàn bằng lòng với thái độ phục tùng kiểu nô lệ và không đòi hỏi tình yêu.
Chỉ lòng tin mù quáng vào Thiên đường của Chúa mới giúp cho phụ nữ đủ sức chịu đựng, không rơi vào tâm trạng tuyệt vọng, hoặc nỗi buồn tẻ trước cuộc sống đơn điệu tại một thị trấn miền núi vắng lặng, đến nỗi tưởng như nơi không người. Dưới bầu trời xanh biếc nóng nực là những ngõ ngang dọc, rối rắm, hai bên là những ngôi nhà xây bằng đá thô, mái lợp ngói, có máng dễ hứng nước mưa.
Nếu ai cứ đi theo mãi một ngõ cho đến tận cùng sẽ thấy mở ra một khoảng trống với những tầng đất cháy xém tẻ nhạc. Đấy là mỏ lưu huỳnh. Trên trời như nung, dưới đất cũng như nung. Không gian lăng lẽ, họa chăng chỉ tiếng đàn ruồi vo ve, tiếng giun dế râm ran và từ xa vẳng đến một tiếng gà gáy, tiếng chó sủa khuấy động lên đôi chút. Trong không trung sáng đến chói mắt, bốc lên mùi cỏ khô và mùi phân từ các chuồng bò.
Không một nhà nào còn một giọt nước. Trong sân rộng rãi đằng sau các ngôi nhà của tầng lớp chủ, dưới lòng những máng dẫn nước, những bể hứng nước mưa đang chờ lòng thương của Thượng đế. Nhưng nơi đây, ngay giữa mùa đông cũng rất ít mưa. Vì thế mỗi trận mưa là một ngày hội. Phụ nữ đem ra sân đủ mọi thứ có thể đựng được nước: máng ăn của gia súc, thùng, chậu, rồi họ vén váy may bằng thứ len thô lên đứng ở cửa ngầm những dòng nước nhỏ chập lại thành dòng lớn, giống như những con suối chảy xiết, lắng nghe tiếng nước trên mái nhà giội xuống máng rồi ồng ộc chảy
trong ống, cuối cùng đổ vào bể chứa. Mưa rửa sạch mặt đường, tường nhà và người dân ở đây khoan khoái hít thở không khí thơm ngát chứa đầy hơi nước mát mẻ từ mặt đất ướt át bốc lên.
Đàn ông còn tìm thấy được chút ít thích thú nào đó trong công việc. Họ tham gia vào nhóm này nhóm khác để tranh cửa vào Hội đồng thị trấn. Và vào các buổi chiều tối, họ còn có thể ra quán giải khát hoặc tiến đến câu lạc bộ binh sĩ. Đàn bà thì ngay từ nhỏ đã bị người tas dập tắt mọi ý nghĩ phù phiếm, đến tuổi lấy chồng thì lại bị ép duyên, đã trở thành những kẻ nô tỳ trong nhà, ngày nào cũng làm đúng những công việc giống hệt nhau, bị nỗi buồn chán xâm chiếm, bế đứa con trên tay hoặc lần tràng hạt chờ chồng, người chủ, trở về.
Ađriana Bratgi không yêu chồng.
Anh ta nhát gan, suốt ngày chỉ băn khoăn lo lắng cho sức khỏe mỏng manh của bản thân. Và suốt bốn năm trời chung sống nàng bị chồng dằn vặt hành hạ, thậm chí ghen cả với ông anh ruột của anh ta. Việc anh ta lấy vợ đã thành tai họa cho ông anh. Có thể nói anh ta đã phản bội ông anh. Tại vùng này vẫn còn tục lệ nhà giàu nào nhiều con trai thì chỉ người con trai trưởng mới được lấy vợ để gia tài sau này khỏi bị phân tán ra nhiều người thừa kế.
Sêđarê Bragi, người anh cả, không hề bao giờ tỏ thái độ khó chịu vì thấy em mình cướp đoạt quyền lợi con trưởng của mình. Có lẽ vì ông bố của họ qua đời trước hôm cưới không lâu, khi từ giã cõi đời đã trối trăn lại là người con trưởng của ông, Sêđarê sẽ thay ông làm chủ gia đình, và cậu em phải phục tùng tuyệt đối tất cả những quyết định của ông anh.
Khi bước chân vào ngôi nhà cổ kính của gia đình Bratgi, Adriana cảm thấy ngay mình bị chịu thân phận thấp kém do ở dưới quyền của ông anh chồng. Hoàn cảnh của nàng lại tăng thêm phần ngột ngạt, khi chồng nàng, trong một cơn nóng giận đã nói hé ra rằng chính ông anh anh ta, Sêđarê cũng có ý định cưới nàng làm vợ. Bây giờ nàng không còn phải biết đối xử thế nào với Sêđarê. Nàng càng khó xử hơn khi thấy ông anh chồng không hề coi nàng là kẻ dưới, trái lại, còn quý mến nàng, coi nàng như em gái thực sự.
Sađarê tỏ ra con người rộng lượng, từ cách nói năng ăn mặc đến thái độ cư xửa với bất cứ ai, bất kể người trong nhà hay người ngoài. Lòng cao thượng của anh bẩm sinh ra được bộc lộ bất kể trong trường hợp nào, cả khi tiếp xúc với những người dân thường thô thiển, cả trong những công việc anh làm, cả trong thời nhàn hạ kéo dài nhiều tháng mỗi năm do cuộc sống tỉnh nhỏ tạo nên.
Thêm nữa, thường mỗi năm anh lại vắng nhà một vài tuần lễ, có khi cả một tháng. Anh rời khỏi thị trấn phó mặc công việc gia đình. Anh đến Palecmô, hoặc Nêapôn, Rôma hoặc Phlorenxi, Milăng để tìm hiểu thế giới hoặc như cách anh nói, để nếm mùi văn minh. Sau mỗi chuyến đi như thế, anh như trẻ ra, cả thể xác lẫn tâm hồn.
Ađriana vốn từ nhỏ chưa bao giờ rời xa quê hương, một lần thấy anh chồng trở về với ngôi nhà cổ kính lúc nào cũng lặng lẽ như nhà mồ, nơi thời gian như ngưng đọng lại, nàng cảm thấy trong lòng trỗi dậy một niềm phản kháng khiến nàng vừa không hiểu rõ vừa hoảng sợ.
Mỗi lần đi xa về, ông anh chồng đem theo về không khí của một thế giới khác mà nàng không thể hình dung nổi.
Niềm phản kháng càng tăng khi nàng nghe thấy tiếng cười gằn của chồng, lúc nghe Sêđarê kể trong phòng bên cạnh về những sự việc ly kỳ mà anh có dịp đụng độ trong chuyến ngao du. Tối hôm đó, nàng bỗng cảm thấy phẫn nộ và ghê tởm, khi thấy chồng nàng nghe xong chuyện của ông anh, quay trở vào phòng ngủ của hai vợ chồng, lại nổi khùng và trút cơn giận dữ lên đầu vợ. Càng khinh, ghét chồng bao nhiêu nàng càng cảm phục ông anh chồng bấy nhiêu.
Khi chồng chết, Ađriana lo sợ, không biết sẽ chung sống dưới một mái nhà với ông anh chồng ra sao đây? Thật ra còn có hai đứa con mà nàng sinh trong thời gian bốn năm chung sống với chồng. Nàng đã là người mẹ, nhưng nàng vẫn không cưỡng được cảm giác rụt rè e thẹn trước ông anh chồng như khi nàng còn là đứa con gái thơ ngây. Đúng ra thói e thẹn ấy chưa bao giờ biến thành ác cảm, nhưng bây giờ tình thế đã thay đổi. Lỗi chỉ
là do chồng nàng: khi còn sống quá ghen tuông, luôn hành hạ nàng bằng những cơn giận dữ, nghi ngờ và thường xuyên bí mật theo dõi vợ.
Sêđarê vốn tế nhị, lập tức mời ngay mẹ của Ađriana sang cùng ở với cô con gái đã góa chồng và hai cháu ngoại. Không còn bị chồng hành hạ, lại được có mẹ bên cạnh bênh vực, Ađriana dần dần lấy lại được niềm tự tin. Tuy chưa thể nói đã hoàn toàn thanh thản, nhưng ít nhất nàng cũng không còn phải cảm thấy đau khổ trong lòng nữa. Nàng dồn mọi sức lực và tâm hồn vào việc chăm nom hai đứa con. Bao nhiêu tình cảm bị nén lại thời gian chồng còn sống, bây giờ nàng trút hết cho chúng.
Sêđarê thì vẫn như trước, mỗi năm lại ngao du một chuyến vào đất liền và khi trở về bao giờ cũng mang theo rất nhiều quà cáp, cho em dâu, cho mẹ nàng và tất nhiên cho cả hai đứa cháu mà anh luôn yêu quý như con mình.
Thời gian anh đi vắng, hai người phụ nữ cảm thấy trống trải và sợ hãi, nhất là ban đêm, khi trong nhà thiếu người đàn ông. Riêng Ađriana, mặc dù ban ngày, trong không khí tịch mịch này, đặc biệt là sau khi Sêđarê lên đường, vẻ lặng lẽ càng tăng thêm, nàng vẫn cảm thấy một nỗi nguy hiểm nào đó như treo lơ lửng bên ngôi nhà cổ kính này. Chỉ một cơn gió thổi khiến sợi dâu thừng làm rung ống máng trên miệng bể nước mưa cũng làm nàng thấy một hơi lạnh chạy lướt trên da thịt. Nhưng chẳng lẽ chỉ vì hai người đàn bà, và hai đứa trẻ lúc này đã trở thành ruột thịt của Sêđarê mà bắt anh phải từ bỏ chuyến đi hàng năm, ngao du cho thoát khỏi trong ít ngày cuộc sống tẻ nhạt khiến anh mụ người vì những công việc cứ giống hệt như nhau? Với lại, do em anh lập gia đình nên anh không có quyền lấy vợ nữa, anh rất có thể không cần quan tâm đến ai hết, tự do sống theo ý thích. Chưa kể, phải thừa nhận trong những tháng ở nhà anh đã dùng tất cả mọi thời gian rảnh rỗi, dù chỉ vài ba tiếng đồng hồ, chăm sóc nhà cửa, chăm sóc hai đứa cháu mồ côi.
Dần dần, nỗi buồn trong lòng Ađriana cũng nhẹ đi. Hai thằng con trai lớn lên và nàng rất hài lòng thấy chúng được ông bác dạy dỗ. Nàng dồn mọi sức lực chăm nom con cái đến mứa mỗi khi ông anh chồng hay hai đứa trẻ tỏ vẻ không tán thành sự chăm sóc quá đáng của nàng, nàng lấy làm ngạc
nhiên. Nàng không hiểu như thế nào mà sự chăm sóc lại có thể bị coi là quá đáng? Không chăm sóc con thì nàng còn chăm sóc ai nữa?
Cái chết của bà mẹ khiến nàng đau khổ ghê gớm. Bao nhiêu năm nay bà là người duy nhất mà nàng có thể trò chuyện tâm sự. Hơn nữa, khi bà còn sống, Ađriana cảm thấy mình vẫn còn trẻ. Nay bà không còn, hai đứa con trai đã lớn: một mười sáu, một mười bốn, nàng bỗng cảm thấy mình đâm thành bà cụ.
Ađriana cứ sống như thế cho đến hôm nàng cảm thấy đau trong ngực, như thể có vật gì đè lên xương đòn gánh hoặc lên xương sườn bên trái. Thế rồi đến một lần nàng thấy tim đau nhói, đến mức gần như ngạt thở.
Nàng không nói ra với ai, và bệnh tật của nàng sẽ chưa ai biết đến, nếu như hôm ấy đang bữa ăn tối, nàng không bị một cơn nguy kịch.
Người nhà cho mời bác sĩ, ông vẫn thường chữa cho gia đình này bao nhiêu năm nay. Nghe xong triệu chứng, ông bác sĩ lộ vẻ rất lo lắng. Sau khi khám kỹ, ông hoảng sợ thật sự.
Màng phổi bị tổn thương. Nhưng là bệnh gì? Ông bác sĩ già mời thêm một bạn đồng nghiệp đến, và cả hai cũng chọc hút nhưng không phát hiện thêm được điều gì. Về sau, phát hiện ra hiện tượng cứng tuyến bạch huyết bên trên xương đòn gánh, bác sĩ mới tuyên bố với Sađarê rằng, bệnh nhân cần được chở ngay ra thành phố Palecmô, bởi vì ông nghĩ rằng đấy là một khối u ác tính.
Họ chưa thể đi ngay được. Sau mười ba năm cấm cung, Ađriana không có lấy được một cái áo dài tươm tất để có thể mặc đi ra khỏi nhà. Đành phải đặt gấp một chiếc ở ngoài Palecmô.
Nàng nhất quyết phản đối, khăng khăng nói với anh chồng và hai con rằng nàng không thấy khó chịu gì mấy trong người. Mới chỉ thoáng nghĩ đến chặng đường dài từ đây đến Palécmô nàng đã thấy hoảng. Chưa kể lúc ngày sắp đến thời gian Sađarê đi ngao du một tháng. Nếu nàng cùng đi với anh, nàng sẽ làm vướng chân anh và chuyến đi của Sêđarê sẽ không còn thú
vị gì nữa. Không, nàng nhất định không đi! Và ngàng cũng không chịu giao phó nhà cửa con cái cho bất cứ ai. Lý do này nàng tưởng có sức thuyết phục nhất, nhưng Sêđarê và hai con nàng lại phá lên cười, thấy nàng sợ hãi không đâu. Nàng bướng bỉnh quả quyết rằng, nếu đi bệnh tình nàng sẽ nặng thêm cho mà xem. Ôi, lạy Đức mẹ thiêng liêng, chẳng lẽ họ không hiểu được đường sá sẽ vất vả đến mức nào ư? Khủng khiếp ấy chứ! Không! Mong sao họ vì Chúa để nàng được yên!
Khi áo quần, mũ đặt ở Palécmô đã được đem về, hai đứa con nàng khen ngợi hết lời.
Chúng hồ hởi vác những cái hộp to tướng bọc giấy chống ẩm vào phòng mẹ rồi tranh nhau đòi nàng phải mặc thử ngay. Chúng thèm được nhìn thấy mẹ chúng ăn mặc sang trọng và đẹp. Chúng làm náo động cả ngôi nhà và năn nỉ đến nỗi nàng phải đành lòng.
Chiếc áo liền váy tuy màu đen, kiểu tang phục nhưng may bằng vải đắt tiền và được cắt rất khéo. Ađriana đã quá lâu không để ý gì đến ăn mặc cho nên hoàn toàn không hiểu gì về kiểu cách áo quần thời trang, thậm chí không biết cách mặc vào người chiếc áo liền váy này như thế nào? Sao mà lắm khuy lắm móc cài đến thế! Lại cái cổ, sao họ để cao đến như vậy? Rồi ống tay áo sao lại bồng lên như thế này? Chẳng lẽ mốt bây giờ là như vậy sao?
Trong khi đó thì tiếng hai đứa con bên ngoài cửa vẫn không ngớt: - Mẹ mặc xong chưa?
Như thể mẹ chúng đang sửa soạn đi dự vũ hội vậy! Và khi thúc giục nàng chúng quên bẵng mất nguyên do nào dẫn đến bộ quần áo sang trọng này. Thật ra ngay đến bản thân nàng lúc này cũng không nghĩ đến bệnh tật.
Khi Ađriana mặt đỏ ửng vì xúc động, ngước mắt lên, nhìn vào gương, nàng bỗng thẹn thùng. Tấm áo liền váy ôm chặt hai bắp đùi và ngang lưng, bó bộ ngực của nàng thành những đường cong duyên dáng, nàng bỗng cảm thấy mình trẻ hẳn lại, như thể còn đang tuổi con gái. Lâu nay nàng vẫn nghĩ
mình già nua, nhưng hôm nay cô gái trẻ trung xinh đẹp trong gương đang nhìn nàng.
- Sao thế này? Sao lại thế này được nhỉ? Vô lý thật! - Nàng thốt lên, quay mặt đi, rồi hai tay ôm mặt để khỏi nhìn thấy gì.
Nghe thấy tiếng mẹ kêu lên, hai đứa con đập cửa thình thình bẳng cả hai tay lẫn hai chân, chúng gào lên, đòi mẹ phải cho chúng vào xem.
Và hai con nàng dọa sẽ phá cửa nếu nàng không chịu mở.
Cả hai cậu cũng đều sửng sốt, không ngờ lại có sự biến hóa kỳ lạ đến như thế. Nàng cố đẩy hai con ra ngoài:
- Ô hay, các con! Để mẹ yên! Đi chơi đi.... Hai đứa điên cả rồi hay sao thế này?
Vừa lúc ấy ông anh chồng bước vào. Lạy Chúa! Ađriana hoảng hốt. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là chạy trốn, nấp vào chỗ nào đó, bởi vì nàng cảm thấy như bị bắt gặp giữa lúc nàng đang trần truồng. Nhưng hai cậu con trai không cho. Hai con nàng muốn ông bác ngắm xem mẹ của chúng đã biến đổi như thế nào. Còn ông anh chồng thì chế giễu sự xấu hổ của nàng.
- Áo may đẹp đấy, rất vừa với thím! - Cuối cùng anh nói giọng nghiêm túc - Nhưng khoan đã, để anh ngắm thím một cái đã.
Nàng quyết định ngẩng đầu lên.
- Cứ như em sắp sửa đi dự hội hóa trang ấy...
- Không đâu. Tại sao thím lại nghĩ thế? Chiếc áo này thím mặc rất vừa. Quay nghiêng thử xem nào... Thế, để tôi nhìn nghiêng xem sao...
Nàng tuân theo, cố giữ vẻ thản nhiên, nhưng ngực nàng được đường lượn của chiếc áo ôm vừa vặn, cứ phập phồng, theo hơi thở dồn dập khiến nàng không giấu được nỗi ngượng ngập. Thấy Sêrađê chăm chú ngắm nghía
với thái độ hết sức nghiêm túc, nàng càng ngượng, nàng biết rằng anh rất thạo về cách phục sức của phụ nữ.
- Đúng là đẹp thật. Còn mũ thì sao?
- Xấu lắm, như cái giỏ đi chợ ấy...
- Bây giờ là mốt đội mũ rộng và to. Càng to càng tốt.
- Đầu em đội không vừa. Mà nếu đội thì phải chái tóc theo kiểu khác. Sêđarê lại nhìn cô em dâu rồi mỉm cười bình thản.
- Chứ còn gì nữa. Thím có làn tóc dày như thế kia cơ mà...
- Đúng rồi! Đúng rồi! - Hai đứa con trai nàng hùa theo - Mẹ chúng mình đẹp quá! Nào, mẹ chải đầu lại đi, nhanh lên.
Ađriana mỉm cười buồn bã.
- Tại anh hết cả đấy! - Nàng quay sang nói với ông anh chồng. Việc khởi hành định vào sáng hôm sau.
Và bây giờ thì nàng cùng đi với anh.
Nàng đã bước vào chuyến đi ngao du mà trước kia mỗi lần nghĩ đến nàng đều xấu hổ. Nhưng bây giờ nàng chỉ lo mỗi một điều, làm cách nào Sêđarê không nhận thấy nàng đang xấu hổ, bởi vì anh ngồi đối diện với nàng, luôn chăm sóc nàng, và cũng như mọi khi, thái độ bao giờ cũng bình thản.
Thái độ bình thản hoàn toàn tự nhiên ấy rất có thể làm nàng càng ngượng về nỗi xấu hổ của mình và đỏ mặt lên không biết chừng. May thay, nàng đã tự lừa dối bản thân mà không biết, chỉ cốt để giảm đi nỗi ngượng ngùng, bằng cách đổ tội cho chuyến đi, cho cảnh lạ đường xa, cho những
cảm giác mà trước kia ru rú trong nhà nàng chưa bao giờ được hưởng. Còn nỗi xấu hổ mà nàng cố giấu để ông anh chồng không nhận thấy (mặc dù nỗi xấu hổ ấy cũng chẳng có gì đáng chê trách) thì Ađriana lý giải là do nàng không muốn tỏ ra quá thơ ngây và hứng thú quá mức trong chuyến đi. Dù sao anh chồng của nàng cũng là đàn ông, dễ cảm thấy cô em dâu tầm thường. Sêđarê năm nào chẳng đi ngao du như thế này? Đối với anh chẳng có gì lạ lẫm và kích thích lòng tò mò nữa. Liệu hứng thú dọc đường có lộ ra trong cặp mắt trẻ thơ của nàng không? Chẳng gì nàng cũng đã ba mươi lăm tuổi rồi.
Chính vì thế mà nàng cố ghìm nỗi sung sướng hoặc ít nhất thì cũng không để lộ ra niềm vui trong cặp mắt, cố gắng thật ít lắc lư đầu, mặc dù hai bên đường luôn hiện ra đủ thứ quang cảnh kỳ thú nàng mới gặp lần đầu. Nàng cố giấu đi niềm phấn khởi, đẩy cao lòng hiếu kỳ để lấp đi nỗi xấu hổ, khiến thỉnh thoảng làm nàng như chóng mặt. Mà cũng có thể nàng bị say tàu chăng, do những tiếng đều đặn của bánh xe lăn trên đường ray, hoặc những hàng cây lùi lại nhanh bên ngoài cửa sổ của toa tàu.
Đây là lần đầu tiên nàng đi xe lửa. Nàng cảm thấy mỗi giây phút, thậm chí mỗi vòng quay của bánh xe tàu hỏa lại đưa dần nàng vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ. Thế giới này gồm những đồ vật và những hiện tượng hiện đang ở xung quanh nhưng vẫn vô cùng xa lạ đối với nàng. Niềm vui được nhìn thấy nhiều thứ mới lạ kèm theo một nỗi buồn lâng lâng không giải thích nổi trong đáy lòng nàng. Những thứ kia như thể tồn tại bên ngoài cuộc sống của nàng, thậm chí bên ngoài cả sự tưởng tượng của nàng. Chúng vẫn thế từ bao nhiêu năm nay, nhưng đối với chúng nàng vẫn là thứ gì bên ngoài, nàng đi khỏi đây rồi, cuộc sống nơi này vẫn tiếp tục diễn biến theo cái dòng của nó.
Kia lại một làng, với những con đường, những nhà cửa với đầy đủ cả mái, cửa sổ, cửa ra vào, bậc thềm lát đá. Nơi ấy có những con người với những ý nghĩ và công việc của họ. Họ sống như những tên tù bị giam trong mảnh đất thảm hại giữa đất trời bao la, giống như nàng đã từng sống trước đây trong cái thị trấn của mình. Họ không biết đến những gì ngoài tấm mắt của họ. Cuộc đời của họ như một giấc mộng: sinh ra, lớn lên, chết đi vẫn chưa được nhìn thấy những thứ mà bây giờ nàng đang thấy trong chuyến
ngao du này. Mà những gì nàng nhìn thấy cũng lại hết sức nhỏ bé so với cả thế giới, mặc dù đối với nàng thế đã là nhiều lắm rồi.
Lúc quay mặt từ cửa số này sang cửa sổ khác, Ađriana hay bắt gặp đôi mắt và nụ cười của Sađarê. Mỗi khi ấy anh lại hỏi:
- Thím thấy thế nào?
Nàng gật đầu tiếp:
- Em dễ chịu lắm.
Có lúc anh ngồi xuống cạnh nàng, để trỏ nàng thấy một cái làng mà anh đã từng đến, một quả núi trông giống như một con vật nào đó, và nói chung tất cả những gì anh cho rằng đáng để nàng quan tâm. Anh không biết rằng, những thứ đối với anh bình thường quen thuộc đều gây cho nàng những cảm giác mới mẻ. Những lời giới thiệu hoặc giải thích của anh không những không tăng thêm mà còn giảm đi mức độ cảm xúc của cô em dâu. Những cảm giác ấy khiến trong lòng nàng thoáng có một nỗi buồn lâng lâng mà nàng không giải thích nổi. Tất cả những cái đó tạo nên một ấn tượng chung về sự vô tận của thế giới lạ lẫm bao quanh.
Giọng nói của Sêđarê không làm dịu đi những cảm giác của nàng mà còn kích động thêm nỗi buồn khó hiểu kia. Nàng cảm thấy mình chỉ là con bé ngốc nghếch đến thảm hại. Bỗng nhiên nàng tự giận mình, mãi đến giờ nàng mới được nhìn thấy tất cả những thứ này thì đã quá muộn, những thứ đang tràn ngập lòng nàng.
Đến Palécmô hôm trước thì hôm sau Sêđarê dẫn nàng đến khám ông bác sĩ giỏi nhất thành phố này. Và nàng đã hiểu rõ tất cả. Nàng thấy được Sêđarê đã phải cố gắng đến mức nào để khỏi lộ ra nỗi buồn rầu, và phải cố gắng tỏ ra xăm xắn yêu cầu ông bác sĩ nhắc lại một lần nữa đơn thuốc. Cả thái độ ông bác sĩ khi trả lời. Nàng hiểu rằng bệnh nàng đã không phương cứu chữa. Và thứ thuốc mà nàng phải uống bao nhiêu giọt ấy trước mỗi bữa ăn kia, vì đó là thuốc độc nên không được dùng quá liều, thật ra chỉ là thứ
trò lừa dối vì lòng thương nàng, một thứ giúp nàng tiếp nhận cái chết cho đỡ đau khổ phần nào.
Tuy vậy, khi Ađriana vừa bước khỏi phòng khá bệnh của bác sĩ, mũi vẫn còn phảng phất mùi cồn rất khó chịu và đi qua hành lang tối tắm ra đường phố, đứng trước mặt trời hoàng hồn treo lơ lửng giữa những đám mây đỏ rực bên trên mặt biển hiện ra nơi cuối đường phố Côcxô, khi nàng nhìn thấy những cỗ xe ngựa và những hàng cây, những khuôn mặt và những áo quần ánh lên màu đỏ rực, những tủ kính cửa hàng và tiệm giải khát lấp lánh như ngọc, nàng cảm thấy cuộc sống đang tràn vào thân thể nàng, thấm vào từng bộ phận trong cơ thể khiến nàng ngây ngất. Nàng không hề cảm thấy buồn, không hề nghĩ đến cái chết đã trú ngụ trong ngực, dưới xương đòn gánh bên trái và đang tạo nên những cơn đau nhói. Không! Không! Cần phải sống! Và trong cơn say sưa ngất ngây ấy, một cái gì dâng lên chẹn cổ họng khiến nàng gần như ngạt thở. Đó chính là nỗi buồn man mác lúc nào và giờ đây khiến mắt nàng rưng rưng.
- Không sao...không sao, - nàng mỉm cười nói với ông anh chồng và cặp mắt ướt của nàng ánh lên niềm vui, khiến mặt nàng rạng rỡ. - Hình như em... Em cũng không biết nữa... Ta đi thôi.
- Về khách sạn nhé?
- Không...không...
- Nếu vậy ta đến hiệu “Salê” ăn bữa tối, cái hiệu ngoài bờ biển gần Phôrô Italicô được không?
- Vâng, tùy anh.
- Vậy thì hay lắm. Ăn xong ta sẽ dạo phố rồi tới rạp Phôrô nghe hòa nhạc.
Thuê xe ngựa, hai anh em đi về hướng mặt trời đang lặn.
Buổi tối hôm ấy, được nghỉ ngơi bên bờ biển nàng thấy tuyệt vời: trăng sáng vằng vặc, rọi ánh sáng xuống tòa nhà Hội chợ, những cỗ xe ngựa trang trọng chạy dọc theo Đại lộ, những khu vườn tỏa mùi hương thơm ngát của hoa Pômêran... Nỗi sung sướng sẽ tràn ngập và xâm chiếm hoàn toàn con người nàng nếu như không bị vướng một cảm giác lạ lùng: nàng cảm thấy hình như tất cả những cái này không có thật, hình như đây không phải nàng. Mọi thứ này như chỉ là giấc mộng, và trong giấc mộng ấy chân trời mở ra bao la.
Cảm giác về sự bao la ấy lại tràn ngập lòng nàng một lần nữa vào buổi sáng hôm sau, lúc hai anh em ngồi trên xe ngựa chạy trên những lối đi trong công viên La Phavôrit. Đến một lúc nào đó nàng hít một hơi dài và trở về với thực tại, để có thể tận hưởng được cùng một lúc cảm giác bao la, đồng thời cả niềm ngây ngất của giấc mộng. Nàng mở to mắt và thấy những cây cổ thụ đang còn say sưa trong giấc ngủ giữa không trung tịch mịch của buổi sớm mai.
Không hiểu tại sao, nàng bỗng quay sang Sêđarê mỉm một nụ cười biết ơn.
Nhưng nụ cười ấy gợi lên trong lòng nàng một nỗi tự thương mình vô tận. Chẳng bao lâu nữa nàng sẽ chết và cặp mắt đầy thán phục của nàng bây giờ sẽ không được nhìn thấy vẻ đẹp khó tả này, không còn được thấy cuộc sống mà lẽ ra nàng cũng phải được hưởng như mọi người khác.
Nghĩ đến đấy nàng bỗng tự hỏi, phải chăng Sêđarê đã làm một việc tàn nhẫn là chỉ ra cho nàng thấy thế giới?
Nhưng rồi cuối cùng cỗ xe ngựa dừng bánh ở cuối lối đi chạy vào sâu trong công viên. Sêđarê đưa tay đỡ Ađriana bước ra khỏi để ngắm được kỹ vòi phun nước và pho tượng thần Héc- quyn. Nàng đứng dưới bầu trời tím sẫm gần như đen do mầu trắng long lanh của đá cẩm thạch khắc họa thân thể vị thần lực sĩ đứng trên bệ cao giữa đám cây thẳng vút. Ađriana cúi xuống nhìn làn nước trong vắt với những chiếc là và những đám rêu xanh trôi bồng bềnh, rọi bóng đen xuốc đáy biển. Và khi nhận thấy, mỗi lần làn nước xao động, mặt lạnh lùng của những con mình thú đầu người canh gác
nơi đây thoáng đượm một vẻ trầm tư, nàng cảm thấy vẻ mát mẻ của mặt nước kéo theo một ý nghĩ lướt nhanh trong đầu óc nàng khiến nàng đờ đẫn, tưởng chừng bao nhiêu thế giới trong vũ trụ bỗng nhiên bùng lên sáng chói, và nàng chợt như thấu hiểu được bản chất của sự vĩnh hằng, thấu hiểu được mọi thứ trên thế gian, thậm chí cả những điều thầm kín náu sâu trong đáy lòng mỗi con người. Nàng cảm thấy trong khoảnh khắc, hiểu cặn kẽ vạn vật! Và thế là đủ đối với nàng, bởi vì nàng tưởng như mình đã trở thành vĩnh hằng.
Ađriana đề nghị ông anh chồng đưa nàng về quê ngay hôm ấy. Nàng nghĩ, đã đến lúc phải giải thoát cho anh. Sêđarê đã mất không bốn ngày liền cho cô em dâu. Rồi còn thêm một ngày nữa để đưa nàng về. Anh cần phải được tiếp tục cuộc ngao du, đi đến những nơi xa lạ, sang tận bên kia biển xanh. Anh có thể yên tâm mà đi, bởi vì trong khoảng một tháng nàng chưa thể chết được.
Những ý nghĩ ấy Ađriana không nói ra mà chỉ đề nghị ông anh chồng đưa nàng về.
- Sao lại thế? Thím về làm gì kia chứ? - Sêđarê phản đối. - Thím đã ra đến đây thì đi cùng với tôi thăm phong cảnh thành phố Nêapôn và biết đâu tôi còn kiếm được một bác sĩ giỏi khám cho thím.
- Đừng anh ạ. Cứ cho em về. Khám thêm cũng chẳng để làm gì. - Sao lại chẳng đề làm gì? Càng tốt chứ sao? Mà biết đâu đấy...
- Ông bác sĩ ở đây nói thế còn chưa rõ ràng hay sao? Mà hiện giờ em không thấy đau đớn gì hết. Trong người rất dễ chịu. Anh nhìn thì biết. Rồi em sẽ uống thuốc. Còn cần ở lại thêm làm gì nữa.
Thế là Sêđarê nhìn nàng và nói giọng rất nghiêm nghị.
- Không được. Thím phải nghe tôi.
Nàng không biết nói gì nữa. Vốn sinh trưởng ở quê, nơi nàng đã quen với tập quán tuyệt đối vâng lời người đàn ông trong nhà, nàng đành phục tùng. Tuy vậy nàng vẫn nghĩ rằng, anh ấy muốn giữ mình ở lại đi với anh ấy chỉ cốt để sau này khỏi phải ân hận là đã không chăm nom em dâu đến cùng, chỉ dẫn đến khám một bác sĩ là đã coi như xong. Anh ấy muốn sau này dân thị trấn sẽ khen: “Anh Sêđarê đã làm đủ mọi cách cứu cô ấy, dẫn đi cả Palécmô, cả Nêapôn...” Mà cũng có thể anh ấy hy vọng thật sự là một bác sĩ nào nhiều kinh nghiệm hơn có được cách chữa cho mình khỏi bệnh? Mà cũng lại có thể là...vì nàng cảm thấy nguyên do này đúng hơn cả, biết em dâu không sống được bao lâu nữa, Sêđarê muốn cho nàng hưởng thật nhiều niềm vui để bớt nỗi đau đớn trước cái chết tàn khốc.
Nhưng Ađriana rất sợ biển, rất sợ. Mới nhìn thấy biển và nghĩ đến chuyện phải đi tàu trên mặt biển nàng đã hoảng rồi, tưởng như phải bơi tay không trên sóng vậy.
- Có gì đáng sợ đâu, rồi thím sẽ thấy, - anh mỉm cười an ủi cô em dâu.- Mùa này đi biển chẳng khác gì đi trên đất liền. Thím nhìn kìa, sóng lặng đến thế kia mà. Rồi thím lại thấy con tàu nữa chứa. Ngồi trên ấy cứ như ngồi trong nhà vậy.
Không, nàng không nỡ nói ra hết với ông anh chồng niềm linh cảm của mình khi nhìn ra mặt biển. Nàng có cảm tưởng rằng, nếu rời khỏi bờ, mà đây cũng đã khá xa quê hương rồi, thì nàng sẽ xa hẳn thị trấn thân thiết và sẽ không bao giờ thấy lại quê hương nữa. Chuyến đi cứ mỗi lúc một xa. Mặt biển sao mênh mông đến thế và cũng bí hiểm biết bao. Nàng sẽ không bao giờ trở về nhà, có chăng thì quan tài của nàng được chở về đấy. Nàng gạt điều linh cảm đáng sợ ấy ra khỏi đầu óc, để chính nàng cũng không nghĩ đến nó mà chỉ khăng khăng với lý do là nàng sợ đi biển. Ngày trước đã bao giờ nàng thấy biển, vậy mà bây giờ phải đi thuyền vượt nó.
Tối hôm ấy hai anh em xuống tàu sang Nêapôn.
Khi tàu nhổ neo, chạy ra khỏi bến cảng, Ađriana, vẫn còn hơi choáng váng vì tiếng người huyên náo ở bến, tiếng sếu và tiếng ngỗng trời kêu inh ỏi, dần dần tỉnh lại. Nàng nhịp vào bến, thấy bờ biển lùi xa, và mọi thứ cứ
nhỏ dần: đám người trên bến với những chiếc khăn quàng vẫy, những chiếc tàu đậu trong cảng và những ngôi nhà trên bờ. Rồi đến lúc toàn bộ thành phố hòa lẫn vào dải sương mù trắng dưới chân rặng núi hồng nhạt với những đốm sáng mờ mờ đây đó. Nàng cảm thấy lần nữa chìm vào một giấc mơ, giấc mơ giữa lúc đang tỉnh. Đồng thời nàng lại thấy mắt nàng mở to vì sợ hãi, khi con tàu lắc lư theo làn sóng nhịp nhàng xô đẩy, bất chấp tàu to đến như thế. Và có lúc tưởng như còn tàu sắp vỡ tung. Nó đi vào mặt biển mênh mông, hòa lên với chân trời.
Thấy nàng sợ hãi. Sêđarê cười chế giễu rồi cầm tay nàng - giá như trước kia thì không đời nào Ađriana cho anh làm thế - dẫn cô em dâu lên boong, đến một chỗ có thể nhìn thấy những luồng nước lấp loáng như những đường cày do chân vịt tạo nên. Nhưng nàng lại càng lúng túng hơn khi thấy bàn tay mình nằm trong bàn tay ông anh chồng, thêm nữa là hơi khói nực mùi dầu máy khiến cho nàng choáng váng, suýt nữa gục xuống đầu anh. Nhưng nàng gượng lại được và kinh hoàng nhận thấy bỗng nhiên mình lại muốn ngả người theo nỗi yếu đuối đang xâm chiếm.
- Thím khó chịu trong người lắm à?
Giọng anh nói đầy vẻ lo lắng.
Ađriana lắc đầu. Nàng không đủ sức nói ra thành tiếng. Thế là hai người tay trong tay bước về phía đuôi tàu, ngắm làn sóng lấp loáng ánh lân tinh mà con tàu bỏ lại đằng sau trên mặt biển, lúc này đen sẫm dưới bầu trời đầy sao. Những đợt khói đỏ rực phả ra từ ống khói, lên cao đen lại và bay hướng về những ngôi sao ấy. Phong cảnh càng thêm thần tiên khi mặt trăng bắt đầu nhô lên khỏi mặt biển: lúc đầu là một cái đĩa rất to mầu đỏ máu bên trên đường chân trời, như một vị thần hung dữ đang ngắm nhìn đất đai dưới quyền, sau đấy dần dần nhỏ lại và sáng trắng. Mặt biển mênh mông hắt lên ánh phải chiếu mầu bạc của những con sóng nhấp nhô. Ađriana càng hoảng sợ và thấy không thể cưỡng nổi sự yếu đuối đang đẩy nàng gục hẳn lên ngực người anh chồng.
Chuyện ấy đã xảy ra tại thành phố Nêapôn, lúc hai người bước ra khỏi tiệm ăn có kèm hòa nhạc, nơi họ vừa dùng bữa và nghe âm nhạc. Sêđarê
trong những chuyến ngao du hàng năm đã nhiều lần khoác tay một cô gái nào đấy bước ra khỏi những nhà hàng kiểu thế này. Nhưng lần này, khi theo thói quen chàng đưa tay ra cho Ađriana, chàng thấy bên dưới vành mũ rộng có đính chiếc lông công lo ra cặp mắt mở to long lanh nhìn chàng. Và bất giác Sêđarê áp mạnh bàn tay ấy vào ngực mình. Chỉ cần thế là đủ. Đám cháy đã bùng lên.
Trong bóng tối mờ mờ của khoang cỗ xe ngựa đang lăn bánh về phía hướng khách sạn, hai người ôm ghì lấy nhau, hai cặp môi dính chặt vào nhau trong một cái hôn tưởng như không bao giờ thỏa. Và trong vài phút giây ngắn ngủi họ đã kể hết ra mọi điều với nhau: chàng hiểu được toàn bộ cuộc đời nàng, chỉ những đau khổ và chịu đựng âm thầm. Ađriana kể cho anh nghe rằng, nàng vẫn thầm yêu anh từ lâu lắm rồi, mặc dù nàng không dám thú nhận ngay với bản thân mình. Còn Sêđarê thì ngay từ thời trẻ đã khao khát nàg, thèm được ôm ấp nàng, được chung sống mãi mãi với nàng! Mãi mãi!
Đây là một sự cuồng nhiệt, một ngọn lửa bùng bùng được cháy bằng lòng thèm khát trong vài ngày ngắn ngủi tận hưởng để bù lại bao nhiêu năm tháng bỏ phí, những năm tháng phải nén nhịn nhưng trong lòng thì khao khát. Lúc này bản ánh tử hình đã đặt trước mắt nàng cho nên họ càng phải tranh thủ; phải cướp lấy tất cả những hạnh phúc mà lẽ ra họ phải được hưởng suốt thời gian qua. Cả hai đều thấy phải quên đi mọi thứ, phải cắt đứt khỏi quá khứ, khỏi mối quan hệ giữa họ trước đây, giữa em chồng và em dâu, thứ quan hệ buộc họ phải giữa vẻ ngoài kính cẩn mà tục lệ của dân trong thị trấn quê hương quy định. Tình yêu giữa Sêđarê và Ađriana lúc này cũng như cuộc hôn nhân sắp tới giữa họ, nếu dân thị trấn biết, sẽ coi đấy là một hành động sỉ nhục, một sự nhạo báng mọi người xung quanh.
Hôn nhân ư? Ồ, không đời nào nàng đỡ đẩy anh vào tình thế bị mọi người chê trách. Mà buộc anh vào dây dợ hôn nhân làm gì khi cuộc sống của nàng chẳng còn lâu nữa? Không không! Chỉ cần tình yêu là đủ. Một mối tình mù quáng, điên cuồng, trong thời gian ngắn ngủi của chuyến ngao du này, một chuyến viễn du tình ái chỉ có đi mà không trở lại, một chuyến đi xuyên qua tình yêu để đến với cái chết.
Nàng sẽ không thể về nhà, gặp lại hai đứa con trai. Nàng hiểu rất rõ điều ấy, ngay từ lúc bước xuống con tàu. Nàng biết từ trước rằng sang bờ biển bên kia, nàng sẽ không bao giờ quay trở lại. Giờ đây nàng sẽ đi với Sêđarê; tay cầm tay, đi mãi, đi mãi không ngoái đầu trở lại, không suy nghĩ gì hết, đi thẳng đến cái chết.
Họ thăm thành phố Rôma, Phlorenxơ, rồi Milăng, nhưng họ có thấy được phong cảnh gì đâu. Sự chết đang náu mình trong cơ thể nàng luôn nhắc nàng nhớ đến sự hiện diện của nó bằng những cơn đau dữ dội và càng thúc đẩy nàng yêu mãnh liệt hơn.
- Không sao, - nàng nói, mỗi khi cơn đau hành hạ. - Không sao...
Và mặc dù cơn đau làm da mặt nàng tái nhợt đi, nàng vẫn chìa môi ra cho anh.
- Em đang đau lắm kia mà, Ađriana?
- Không sao! Đau mấy em cũng mặc!
Ngày cuối cùng của thời gian dừng lại ở Milăng, khi họ chuẩn bị đi Vơnidơ, trước khi mặc chiếc áo liền váy để lên đường, Ađriana soi vào gương. Đêm hôm đó, ở trên tàu, khi hai người thức dậy sáng sớm và lên boong, trước mắt họ là cảnh tượng lặng lẽ lúc rạng đông, thành phố hiện ra trước mắt họ, trên mặt biển, như trong câu chuyện cổ tích, vừa hùng vĩ, vừa gợi một nỗi buồn man mác, Ađriana hiểu được rằng, nàng sẽ không thể đi thêm nữa. Cuộc ngao du với nàng đã sắp kết thúc.
Tuy nhiên, nàng vẫn muốn được thưởng thức phong cảnh Vơnidơ. Và suốt ngày hôm ấy hai người ngồi trên xuồng lướt nhẹ trên những con sông đào chạy ngang dọc chi chít trong thành phố, cho đến tận khuya. Đêm hôm ấy nàng không sao chợp mắt được, thầm ôn lại trong óc những ấn tượng ban ngày. Và ngày hôm ấy nàng thấy như được bọc nhung.
Phải chăng đấy là lớp vải nhung bọc ghế trên chiếc xuồng? Hay là nhung của những con sông đào lặng lẽ chạy ngang dọc dưới bóng cây râm
mát? Làm sao biết được! Hoặc nhung trong quan tài, biết đâu?
Sáng hôm sau, trong lúc Sêđarê ra Bưu điện hỏi thư gửi về đảo Xixin, thì Ađriana sang phòng của anh. Nàng cầm lên chiếc phong bì đã mở đặt trên bàn, nhận ra bút dạng của đứa con đầu, rồi đưa chiếc phong bì lên môi, hôn khắp mặt giấy. Sau đấy nàng trở về phòng của mình, lấy trong chiếc ví bằng da rất sang cái lọ nhỏ đựng thuốc mà nàng chưa hề đụng đến, đấy là thuốc độc. Nàng nằm xuống chiếc giường còn bề bộn đệm, dốc một hơi cạn hết lọ thuốc.
CHIẾC KHUY ÁO KHOÁC
Họ không la hét cũng không làm ầm ĩ. Họ chỉ đơn giản đứng nhìn thẳng vào mặt nhau chửi rất khẽ, gần như thì thầm.
- Đồ hớt lẻo!
- Đồ lưu manh!
Họ vươn dài cổ ra như hai con ngỗng sắp sửa mổ nhau, nói liên tiếp một tràng dài không nghỉ “đồ hớt lẻo”, “đồ lưu manh”, rồi không muốn im miệng, vẫn tiếp tục và bây giờ mỗi lúc một nhấn mạnh thêm chử “ẻ” trong từ hớt lẻo và người kia thì chữ “a” trong từ lưu manh.
Nhưng cây cối không cao lắm hai bên đường của cái phố hẹp lát đá dường như lấy làm thú vị được thưởng thức cảnh tượng này.
Chẳng là những cây ở bên phải đường mới rồi đã chứng kiến việc anh chàng Mêô Dépxa leo lên bờ tường, còn hàng cây bên trái phố thì biết rõ nơi ông già Phili- béctô Phiorinnanxi nấp.
Đám chim sẻ, chim liếu tiếu, chim sâu dường như đã nhận được tín hiệu của những thám tử đầy cảnh giác của chúng, tức là những cây hai bên đường, cũng đua nhau dùng các kiểu tiếng hót, tiếng kêu của chúng phụ họa thêm với những lời chửi nhau giữa hai đối thủ đang đứng chiếu tướng nhau và không ngớt ném vào nhau những lời lăng mạ.
Cả hai người đều không nâng cao giọng thêm mà chỉ kéo dài hơn cách phát âm để nhấn mạnh sự khinh bỉ lẫn nhau.
- Đồ hớ- ơt lẻ- ẻ- ẻ- o!
- Đồ lưu ma- a- anh!
- Đồ hớ- ơt lẻ- ẻ- ẻ- o!
- Đồ lưu ma- a- anh!
Đến khi cả hai bên đều khản đặc cổ lại và đều cần thấy phải in thật sâu vào bộ mặt đáng ghét của đối phương một vế nhơ không bao giờ nhòa (chẳng thế màhọ nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần hai từ “hớt lẻo” và “lưu manh”, Mêô Dépxa ngoắt đi về một phía, và Philibéctô Phiôrinnanxi ngoắt đi sang phía bên kia.
Nhưng đã rời xa nhau rồi, họ vẫn chưa nguôi cơn giận mắt họ vẫn ánh lên nỗi hằn học. Lại vươn cổ lên thót bụng vào, hai kẻ tử thù lặp lại, lúc này cổ họng họ đã khản đặc, và môi họ run run: “hớt lẻo, hớt lẻo, hớt lẻo” và “lưu manh, lưu manh, lưu manh”.
Đấy là ánh sáng bùng lên của một ngọn đèn sắp tắt. Thế như khi Philibéctô Phiorannanxi vừa bước vào đến nhà mình thì cơn uất giận lại bùng lên với một cường độ mới.
Ông mà là kẻ hớt lẻo ư?
Philibéctô Phiorinannxi cảm thấy cái từ hớt lẻo ấy làm bẩn phẩm giá của mình. Thở rất dài, ông cởi áo khoác ngoài ra.
Thế ra một người lương thiện vạch mặt một tên vô lại, đã bao nhiêu năm lừa dối, lừa bịp mọi người mà chưa hề bị trừng phạt, lại là kẻ hớt lẻo ư?
Ông chải chiếc áo khoác ngoài rồi treo nó vào trong tủ mà hai tay vẫn run bần bật.
Ông đã hớt lẻo thằng cha lưu manh chúa trùm kia bao giờ và với ai kia chứ? Ông không hề mở miệng nói một lời về hắn với ai! Chưa lần nào!
Có chăng là ông chỉ nhìn chăm chú vào thằng cha Mêô Dépxa, một cái nhìn tỏ thái độ. Đúng thế. Lúc thằng cha Mêô Dépxa bẩn thỉu kia nhăn nhở
đến gần ông, nhe răng và nháy mắt một cách trơ trẽ, định vỗ vai ông bằng hai bàn tay lông lá múp míp của nó, ông chỉ nheo mắt nhìn nó tỏ thái độ! Philibéctô Phiorinnanxi nghiêm khắc và thẳng thắn xưa nay bao giờ cũng lảng xa hắn. Cặp mắt nghiêm nghị và lạnh lùng, tái đi vì giận dữ rõ ràng như muốn nói: “Tao đã thấy hết và biết hết!”.
- Thằng lưu manh...thằng lưu manh... - Ông vẫn còn lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại lúc đã cởi bộ vét chỉ còn chiếc sơmi trên người đang đi đi lại lại trong phòng, hai bàn tay run run đụng hết vật này đến vật kia.
Cuối cùng mệt bã người ông Philibéctô ngồi ghé xuống mép giường. Mắt ông ngạc nhiên chăm chú nhìn ngọn nến, đang cháy êm ả trên chiếc bàn nhỏ kê ở đầu giường, như thể giục chủ đi nằm.
Ông không còn nhớ chính mình đã thắp ngọn nến ấy.
Rút cuộc ông cũng cởi quần áo, lên giường, nhưng đêm hôm đó ông không sao chợp mắt được.
Đã có thời ông Philibéctô lầm tưởng rằng có thể giải thích rõ ràng mọi hiện tượng. Tóm lại đã có thời ông tưởng hiểu thấu được cơ cấu của thế giới.
Thế rồi ông bước dần, bước dần vào con đường đời. Không thể nói rằng lúc nào ông cũng tự tin. Không. Trong lòng ông lúc nào cũng tồn tại một nỗi sợ bị đòn giáng nào đó đột ngột và tàn nhẫn phá trụi chỉ trong giây phút cái thế đứng yên ổn mà ông đã mất bao công lao để tạo dựng nên.
Đã lâu lắm rồi, cái thời ông thích sôi nổi tranh luận trong các câu lạc bộ và tiệm giải khát. Cũng như trong việc giải quyết những sự việc quan trọng hơn, ông bao giờ cũng tỏ ra một mẫu mực về điềm đạm và công bằng. Hai phẩm chất mẫu mực ấy thể hiện cả trong dáng đi và cách thức ăn mặc của ông. Họa may Trời biết được, ông đã phải chịu đựng như thế nào khi vào những ngày hè nóng nực vẫn cài khuya đến tận cổ chiếc áo khoác ngoài. Đành rằng chiếc áo khoác của ông không còn mới nữa, nhưng mặc áo khoác vẫn làm cho con người ta có một vẻ chững chạc và nghiêm túc biết