🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Án Mạng trên Sông Nile - Agatha Christie full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
epub©vctvegroup
1
“LINNET RIDGEWAY KÌA!”
“Chính là cô ấy!” Ông Burnaby, chủ đất khu Three Crowns lên tiếng.
Rồi ông huých khuỷu tay vào người đi cùng.
Hai người đàn ông há miệng tròn mắt nhìn chăm chăm. Một chiếc Rolls-Royce to màu đỏ vừa mới đỗ xịch trước cổng bưu điện.
Một thiếu nữ bước ra, không đội mũ và mặc một chiếc đầm trông có vẻ – chỉ có vẻ – giản dị. Một cô gái với mái tóc vàng óng và rất có nét – một thiếu nữ với dáng vẻ yêu kiều – thật là một người con gái hiếm gặp ở Malton-under-Wode.
Rồi cô nhanh nhẹn bước vào bưu điện.
“Chính là cô ấy!” Ông Burnaby lặp lại. Và ông thấp giọng tiếp tục. “Cô ấy có tiền triệu đấy… rồi sẽ chỉ cả trăm ngàn vào mảnh đất đó. Sẽ có hồ bơi, vườn kiểu Ý và một phòng khiêu vũ, rồi thì một nửa căn nhà sẽ bị đập bỏ và xây lại…”
“Cô ấy mang tiền đến cho thị trấn này” Người đi cùng đáp lời. Đó là một người đàn ông gầy còm, nom thiếu ăn. Và giọng của ông ta đầy sự ganh tị và ác cảm.
Ông Burnaby đồng ý.
“Đúng, đây là một điều tuyệt vời cho Malton-under-Wode. Thật sự rất tuyệt vời”.
Ông Burnaby cảm thấy hả hê vì chuyện này.
“Nó sẽ nâng tất cả chúng ta lên.” Ông thêm vào.
“Một chút khác biệt so với Ngài George nhỉ,” người đàn ông kia nói.
“Ừ, chính những con ngựa đã mang tiền về cho ông ấy,” ông Burnaby đồng tình trả lời. “Không bao giờ không gặp may mắn cả.”
“Thế ông ấy thu được bao nhiêu từ mảnh đất?”
“Tôi nghe nói là sáu mươi ngàn”.
Người đàn ông gầy gò huýt sáo một tiếng.
Ông Burnaby tiếp tục đầy hứng khởi: “Người ta cũng đồn rằng cô ấy hẳn sẽ chỉ thêm sáu mươi ngàn nữa để hoàn thành mọi thứ đấy”.
“Dữ nhỉ!” Ông gầy tiếp. “Cô ấy lấy đâu ra mà lắm tiền thế?” “Ở Mỹ, tôi nghe thế. Mẹ cô ấy là con gái duy nhất của một triệu phú. Hoàn cảnh giống nhau nhỉ, phải không?”
Sau đó, người thiếu nữ bước ra khỏi bưu điện và lên xe. Khi cô lái xe đi, người đàn ông gầy gò kia vẫn dõi mắt trông theo và lẩm bẩm: “Với tôi mọi thứ có vẻ không ổn – trông cô ấy tuyệt thế kia. Tiền của và sắc đẹp – thật là quá nhiều! Nếu một cô gái đã giàu có như thế kia thì không thể nào lại xinh đẹp nữa. Nhưng cô ấy thật sự là một người rất xinh đẹp… Cô ấy có tất cả mọi thứ. Có vẻ không công bằng…”
Trích từ mục Xã hội trên tờ Nhật báo Blague.
Tôi phát hiện ra Linnet Ridgeway xinh đẹp giữa những người đang thưởng thức bữa tối tại Chez Ma Tante. Cô đi cùng với Công nương Joanna Southwood, Huân tước Windlesham, và ông Tobby Bryce. Cô Ridgeway, như mọi người biết, là con gái của ông Melhuish Ridgeway và vợ Anna Hartz. Và cô được thừa kế một khối tài sản khổng lồ từ ông ngoại của mình – Leopold Hartz. Cô Linnet khả ái hiện là tâm điểm của mọi sự chú ý và có tin đồn rằng một cuộc đính hôn sẽ được thông báo trong nay mai. Hẳn nhiên ngài Windlesham trông có vẻ đăm chiêu!!
Ngồi trong phòng ngủ của Linnet Ridgeway tại Wode Hall, công nương Joanna Southwood thốt lên: “Bạn thân mến, tớ nghĩ mọi thứ sẽ thật tráng lệ.”
Từ cửa sổ căn phòng, cô phóng tầm mắt ra khu vườn và xa hơn là miền đồng quê được bao phủ bởi bóng mát xanh rượi của khu rừng.
“Mình lại nghĩ nó khá hoàn hảo đấy, phải không?” Linnet đáp lời.
Tựa tay vào thành cửa sổ, Linnet trông thật hồ hởi, sống động và linh hoạt. Bên cạnh cô, Joanna Southwood – một phụ nữ trẻ hai mươi bảy tuổi, cao, gầy với gương mặt dài thông minh và hàng lông mày không được chăm chút kĩ, trông có vẻ suy tư.
“Cậu đã làm được nhiều thứ trong thời gian vừa rồi! Thế cậu có nhiều kiến trúc sư và các thứ không?”
“Ba người thôi.”
“Những kiến trúc sư thì trông như thế nào nhỉ? Tớ chưa bao giờ được thấy người nào cả.”
“Họ cũng bình thường thôi. Đôi khi mình thấy họ hơi thiếu thực tế một chút.”
“Bạn thân mến ơi, rồi cậu sẽ sớm sắp đặt mọi thứ đâu vào đấy! Cậu là đứa thực tế nhất mà!”
Rồi Joanna cầm lên xem một chuỗi hạt ngọc trai trên bàn trang điểm.
“Đây là đồ thật hả Linnet?”
“Tất nhiên rồi!”
“Tớ biết, đối với cậu thì là như vậy, nhưng với hầu hết những người khác thì không. Họ thường dùng những đồ đã gia công nhiều hay thậm chí mua từ Woolworth*! Mà cậu nè, những hạt ngọc trai này thật đặc biệt, trông chúng thật sắc sảo. Chắc nó đáng giá lắm đây!”
“Cũng thường thôi mà.”
“Không, không phải thế đâu – nó có một vẻ đẹp thuần khiết. Hết bao nhiêu tiền thế?”
“Khoảng năm mươi ngàn.”
“Ôi nhiều thế cơ à! Mà cậu không sợ nó bị đánh cắp hay sao?” “Không, mình luôn đeo nó mà – và dù gì thì nó cũng được mua bảo hiểm rồi.”
“Cho tớ đeo nó đến giờ ăn tối nhé, được không bạn thân mến? Nó sẽ làm tớ vui sướng lắm đây.”
Linnet cười vang.
“Dĩ nhiên, nếu cậu thích.”
“Cậu biết không, Linnet, tớ thật sự ganh tị với cậu đó. Cậu có tất cả mọi thứ thật dễ dàng. Ở tuổi hai mươi, cậu là một nữ hoàng, muốn xài tiền bao nhiêu cũng có, rồi sắc vóc, và sức khỏe nữa. Mà cậu còn thông minh nữa chứ! À, khi nào thì cậu bước qua sinh nhật tuổi hai mươi mốt nhỉ?”
“Tháng sáu tới. Tớ sẽ tổ chức một buổi tiệc lớn ở London để mừng sự kiện này.”
“Rồi sau đó cậu sẽ cưới Charles Windlesham chứ? Tất cả các cây bút lá cải đều phấn khích về chuyện này. Còn anh ấy thì hết lòng vì cậu.”
Linnet nhún vai.
“Tớ cũng không biết nữa. Tớ thực sự chưa muốn cưới ai hết.” “Bạn thân mến à, cậu đúng đó. Mọi việc về sau sẽ không bao giờ như lúc đầu đâu, phải không?”
Bỗng chuông điện thoại reo lên và Linnet liền bước tới chỗ đấy. “Có gì không?”
Người quản gia trả lời: “Có cô de Bellefort gọi ạ. Tôi nối máy cho cô nhé?”
“Bellefort? Ô, dĩ nhiên rồi, nối máy cô ấy cho tôi.”
Tiếng cúp máy và một giọng nói thật hồ hởi, nhỏ nhẹ cất lên: “Xin chào, có phải cô Ridgeway không? Linnet đó à!”
“Jackie yêu quý! Đã lâu rồi mình không nghe tin tức gì của cậu!” “Tớ biết. Thật kinh khủng. Linnet, tớ muốn gặp cậu ngay.” “Cậu có thể xuống đây được không? Nhà mới của tớ đó. Tớ muốn cậu xem nó.”
“Đó cũng là điều tớ định nói với cậu.”
“Tốt, thế thì nhảy lên một chuyến tàu hay lái xe xuống đây đi.” “Được rồi, tớ làm liền. Tớ mới mua một chiếc xe hai chỗ đã cũ nát mất mười lăm bảng, và sau vài ngày thì nó mới chạy ngon. Nhưng mà nó cũng có từng cơn đó nha. Nếu tớ không đến trước giờ uống trà thì cậu biết là nó lên cơn rồi nhé. Lâu rồi không được gặp cô bạn yêu quý.”
Linnet đặt ống nghe xuống và quay lại chỗ Joanna. “Đó là người bạn thân nhất của tớ, Jacqueline de Bellefort. Chúng tớ có thời gian ở cùng nhau tại một tu viện ở Paris. Cô ấy vừa trải qua thời kỳ đen tối nhất của cuộc đời. Cha cô ấy là một kế toán người Pháp, còn mẹ đến từ miền Nam nước Mỹ. Cha thì bỏ theo người đàn bà khác, còn mẹ thì mất sạch tiền sau cuộc khủng hoảng phố Wall. Nên chỉ còn lại Jackie với hai bàn tay trắng. Tớ cũng không biết bằng cách nào mà cô ấy có thể xoay xở trong hai năm vừa rồi.”
Joanna đang ngồi đánh bóng những móng tay đỏ chót của mình bằng cây cọ của người bạn. Cô ngồi ngả lưng và nghiêng đầu sang một bên kiểm tra lại vết sơn tay.
“Bạn thân mến,” cô dài giọng, nói. “không phải điều đó chán ngắt hay sao? Nếu có điều không may xảy đến với người bạn của
tớ thì tớ sẽ bỏ họ ngay tắp lự! Nghe thì có vẻ vô cảm, nhưng nó sẽ giúp cho mình tránh khỏi rắc rối sau này. Những người này luôn muốn mượn tiền của cậu rồi chạy làng, hoặc họ sẽ mở một xưởng may quần áo và cậu sẽ phải nhận những bộ áo quần tệ nhất. Hoặc là họ sẽ sơn những cái chụp đèn, hay là làm thủ công những khăn choàng cổ chẳng hạn.”
“Vậy sao, nếu mình cũng cạn tiền, cậu cũng sẽ bỏ mình ngay ngày mai à?”
“Đúng vậy bạn thân mến ơi, tớ sẽ bỏ cậu liền. Và cậu cũng không thể nói rằng tớ đã không thành thật về điều này! Tớ chỉ thích những người thành đạt. Và cậu sẽ thấy điều này cũng đúng với hầu hết mọi người – chỉ là đa số mọi người không thừa nhận nó mà thôi. Thường họ chỉ nói là họ chịu đựng Maria, Emily hay Pamela hết nổi nữa rồi. ‘Thật tội nghiệp, những khó khăn đã làm cho cô ấy trở nên chua chát hơn và khép kín lại!’”
“Cậu thật là nhẫn tâm, Joanna!”
“Tớ chỉ là người nhìn lên trên, như những người khác thôi.” “Mình không phải là người như thế!”
“Lý do quá hiển nhiên! Cậu không phải quá nhỏ mọn như vậy khi có những quản lý người Mỹ dễ thương hàng quý đưa cho cậu một khoản tiền lớn.”
“Cậu đã sai về Jacqueline rồi,” Linnet nói. “Cô ấy không phải là loại rác rưởi như thế đâu. Tớ chỉ muốn giúp cô ấy, nhưng cô ấy không chịu nhận. Cô ấy rất hãnh tiến.”
“Thế thì tại sao cô ta lại vội vàng tới thăm cậu chứ? Tớ cá là cô ta có dự định gì đây. Cậu cứ chờ mà xem.”
“Đúng là cô ấy có vẻ phấn khích về điều gì đó.” Linnet thú nhận. “Jackie thường hay làm quá lắm. Cô ấy đã từng một lần đâm dao vào người ta.”
“Ghê vậy bạn thân mến!”
“Một lần Jackie cố ngăn cản một thằng nhóc đang trêu chọc một con chó. Nhưng thằng bé không chịu đừng. Thế là Jackie kéo thằng bé lại, nhưng nó chống cự khỏe hơn, và cuối cùng cô ấy đã rút ra một con dao nhỏ và đâm thẳng vào đứa nhóc. Đó là sự việc kinh khủng nhất!”
“Tớ cũng nghĩ vậy. Nghe có vẻ đó là việc khó chịu nhỉ!” Người hầu gái của Linnet bước vào phòng. Rồi cô lí nhí xin phép, lấy một chiếc đầm từ tủ quần áo và bước ra ngoài.
“Có chuyện gì với Marie thế nhỉ?” Joanna thắc mắc. “Nó đang khóc đấy.”
“Thật tội nghiệp! Cậu có nhớ là tớ đã kể cho cậu nghe chuyện Marie muốn cưới một ông đang làm việc ở Ai Cập không. Nó chẳng biết nhiều gì về ông đó, nên tớ mới nghĩ tốt hơn hết phải tìm hiểu xem ông ta có được hay không. Và hóa ra là gã đó đã có một vợ và ba con rồi.”
“Sao cậu lại tạo ra nhiều kẻ thù vậy, Linnet?”
“Kẻ thù ư?” Linnet ngạc nhiên hỏi.
Joanna gật đầu đồng ý và đốt một điếu thuốc lá.
“Kẻ thù, bạn thân mến à. Cậu giỏi ghê. Và cậu cũng làm việc đó thật là giỏi.”
Linnet cười vang.
“Tại sao chứ, tớ chưa từng có một kẻ thù nào trên thế giới này.”
Ngài huân tước Windlesham ngồi dưới cây bách hương nhìn mảnh đất Wode Hall thanh bình. Không có gì có thể phá vỡ vẻ đẹp cổ xưa này; những tòa nhà cao ốc mới và những thứ xung quanh đều nằm ngoài tầm mắt. Một khung cảnh thật êm đềm và yên bình trong nắng trời mùa thu. Nhưng sau một cái chớp mắt, nó không còn là Wode Hall mà Charles Windlesham đã từng thấy nữa. Thay vào đó là tòa dinh thự theo kiểu Elizabeth, một công viên trải dài, một khung cảnh ảm đạm hơn… Đây từng là nơi nhà anh ở – Charltonbury – rồi có một bóng người ở sân trước – bóng dáng của một thiếu nữ với mái tóc vàng rực và gương mặt sáng sủa tự tin… Chính là Linnet – cô chủ của Charltonbury!
Anh chợt cảm thấy hi vọng. Sự từ chối của cô không hẳn là một sự từ chối. Nó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi, ừ, anh có thể chờ đợi một chút…
Mọi việc thật thích hợp một cách kinh ngạc! Chắc chắn anh được khuyên nên cưới tiền, nhưng đó cũng không phải là vấn đề tiên quyết để anh bỏ tình cảm của mình sang một bên. Và anh yêu Linnet. Anh vẫn muốn cưới cô ngay cả khi cô không có một đồng xu dính túi thay vì là một trong những người con gái giàu nhất nước Anh. Thật may mắn khi cô là một trong những người con gái giàu nhất Anh quốc…
Trong đầu anh đang vẽ ra những kế hoạch hấp dẫn cho tương lai. Anh có thể nắm quyền vùng Roxdale, khôi phục lại vùng phía
tây, không nhất thiết cho người Scotland săn bắn nữa… Charles Windlesham đang mơ giữa ban ngày.
Lúc bốn giờ chiều, một chiếc xe hai chỗ nhỏ xíu dừng lại cùng với tiếng sỏi lạo xạo. Một thiếu nữ bước ra – một cô gái mảnh khảnh với mái tóc đen rối bù. Cô liền chạy lên các bậc thang và nhấn chuông cửa.
Một vài phút sau cô được dẫn vào một phòng khách rộng lớn, và người quản gia chào cô với giọng vừa đủ: “Cô de Bellefort.” “Linnet!”
“Jackie!”
Windlesham đứng cạnh bên và nhìn một cách cảm thông khi con người nhỏ bé nồng nhiệt này dang đôi tay chạy đến Linnet. “Huân tước Windlesham – đây là cô de Bellefort – bạn thân nhất của em.”
Một người được đấy, anh nghĩ – không thật đẹp nhưng rất cuốn hút với mái tóc quăn đen và cặp mắt to. Anh lầm bầm nói gì đó rồi âm thầm rút lui để lại hai người bạn nói chuyện với nhau.
Jacqueline liền chụp lấy Linnet theo cách mà Linnet nhớ đó chính là đặc điểm nhận biết của nàng ta.
“Windlesham? Windlesham ư? Đó là người đàn ông mà báo chí hay nói rằng cậu sẽ cưới làm chồng! Phải không, Linnet? Có đúng không?”
Linnet ậm ừ: “Có thể.”
“Cậu yêu quý… Tớ mừng quá! Anh ấy trông dễ thương đấy.” “Ô, đừng kết luận vội vậy chứ… tớ còn chưa quyết định mà.” “Dĩ nhiên là chưa rồi! Các nữ hoàng thường tiến hành xem xét rất cẩn trọng trong việc chọn đức lang quân mà!”
“Đùng vớ vẩn như thế, Jackie.”
“Nhưng cậu là một nữ hoàng mà Linnet! Cậu luôn từng như thế. Nữ hoàng của tôi, nữ hoàng Linette*. Linette tóc vàng. Và tớ… người bạn tâm giao của Nữ hoàng! Người phù dâu đáng tin cậy!”
“Cậu nói vớ vẩn gì đấy, Jackie yêu quý! Cậu đã đi đâu suốt thời gian qua? Cậu đột nhiên biến mất và không thấy thư từ gì cả.” “Tớ ghét viết thư. Còn tớ ở đâu ấy hả? Ô, bị chìm trong CÔNG VIỆC khoảng ba phần, cậu biết đấy. Những công việc dữ dội với những người đàn bà ghê gớm!”
“Bạn thân mến ơi, tớ ước cậu…”
“Nhận được ân sủng của Nữ hoàng, phải không? Thật ra đó chính là lý do tớ có mặt ở đây, bạn thân mến à. Không, không phải để mượn tiền. Chưa đến mức đó đâu! Nhưng tớ đến đây xin một đặc ân rất quan trọng!”
“Tiếp đi nào.”
“Nếu cậu chuẩn bị cưới Windlesham, có thể cậu sẽ hiểu thôi.” Linnet thoáng một chút lúng túng rồi gương mặt cô giãn ra. “Jackie, có phải ý cậu là… ?”
“Đúng rồi. Tớ đã đính hôn!”
“Hóa ra là thế! Thảo nào tớ thấy cậu trông rạng rỡ hẳn lên. Dĩ nhiên cậu vẫn thường thế, nhưng bây giờ cậu còn tươi tắn hơn
những lúc ấy.”
“Tớ cũng cảm thấy vậy.”
“Kể cho tớ nghe về anh ấy nào.”
“Tên anh ấy là Simon Doyle. Anh ấy to con, vạm vỡ, người rất giản đơn và như con nít ấy, là một người cực kì dễ thương! Nhưng anh ấy nghèo lắm – anh ấy không có đồng nào cả. Nếu gọi anh là một ‘thị trấn’ thì đó là một thị trấn nghèo xơ xác và tất cả chỉ có thế. Anh ấy đến từ vùng Devonshire. Anh ấy yêu miền quê và những gì thuộc về đồng quê. Trong năm năm vừa rồi anh ấy lên sống ở thành phố và làm việc trong một văn phòng chật chội. Và bây giờ khi họ cắt giảm người thì anh ấy bị mất việc. Linnet, tớ sẽ chết mất nếu không cưới được anh ấy! Tớ sẽ chết! Tớ sẽ chết mất! Tớ sẽ chết mất thôi…”
“Đừng có lố bịch thế chứ, Jackie.”
“Tớ nói với cậu đó, tớ sẽ chết! Tớ phát cuồng vì anh ấy. Anh ấy cũng phát rồ vì tớ. Chúng tớ không thể sống thiếu nhau được.” “Bạn thân mến ơi, bạn thân mến đã nghiêm trọng hóa vấn đề rồi!”
“Tớ biết. Nó thật khủng khiếp, phải không? Một khi cậu đã bước vào tình trường rồi thì cậu chẳng thể làm được gì nữa đâu.” Và cô ngừng lời trong giây lát. Đôi mắt đen của cô giãn ra, và bỗng nhiên trông rất thê lương. Cô khẽ rùng mình. “Thậm chí đôi lúc nó rất đáng sợ! Simon và tớ được sinh ra là để dành cho nhau. Tớ sẽ không bao giờ quan tâm đến một ai khác. Và cậu phải giúp chúng tớ, Linnet. Tớ nghe nói cậu đã mua miếng
đất này và nó làm nảy sinh trong đầu tớ một ý nghĩ. Nghe này, cậu sẽ phải cần một người quản lý đất… có thể là hai. Và tớ muốn cậu giao công việc này cho Simon.”
“Ô!” Linnet thốt lên ngạc nhiên.
Jacqueline tiếp tục hối thúc: “Anh ấy biết hết mọi thứ. Anh ấy biết mọi việc về bất động sản – anh ấy từng lớn lên trên một mảnh đất như thế. Và anh ấy cũng đã được đào tạo nghiệp vụ rồi. Ôi, Linnet, cậu sẽ cho anh ấy một công việc chứ, vì tình cảm đối với tớ? Nếu anh ấy làm không tốt, cứ trừng phạt anh ấy. Nhưng anh ấy sẽ làm tốt thôi. Và rồi chúng tớ sẽ cùng sống trong một ngôi nhà nhỏ, tớ sẽ được gặp cậu nhiều lần, và mọi thứ trong khu vườn sẽ thật thánh thiện.”
Rồi cô đứng dậy.
“Hứa rằng cậu sẽ làm thế nhé Linnet. Cậu hứa đi. Linnet xinh đẹp! Linnet tóc vàng cao ráo! Linnet đặc biệt của tớ! Hứa rằng cậu sẽ làm nhé!”
“Jackie…”
“Cậu hứa chứ?”
Linnet bật cười lớn tiếng.
“Vớ vẩn quá Jackie! Hãy mang người đàn ông trẻ của cậu tới đây và để tớ xem anh ấy thế nào rồi sẽ bàn kỹ hơn.”
Jackie liền nhảy bổ vào Linnet, hôn cô tới tấp.
“Linnet yêu quý… cậu đúng là một người bạn thực thụ! Tớ biết cậu mà. Cậu không làm tớ thất vọng đâu – chưa bao giờ. Cậu là người dễ thương nhất trên thế gian này. Chào tạm biệt cậu nhé.”
“Nhưng, Jackie, cậu ở lại chứ.”
“Tớ hả? Không, tớ không ở lại. Tớ sẽ quay về London, ngày mai tớ sẽ quay lại và kéo Simon theo, và chúng ta sẽ sắp xếp mọi chuyện. Cậu sẽ mến anh ấy cho mà xem. Anh ấy thật sự là một người đáng mến.”
“Nhưng cậu không thể đợi một chút và dùng ít trà rồi đi sao?” “Không, tớ không thể đợi thêm được nữa, Linnet. Tớ thấy phấn chấn quá. Tớ phải trở về ngay và nói cho Simon biết. Tớ biết là tớ khùng, nhưng bạn thân mến ơi, tớ không thể dừng lại được. Hôn nhân sẽ chữa lành tớ, tớ hi vọng như vậy. Dường như nó có một tác động thần kì lên con người ta đó.”
Rồi cô quay ra cửa, đứng lại một lát, và sau đó lật đật quay lại cho một cái ôm vội nhanh như cắt.
“Linnet yêu quý… không ai được như cậu cả.”
Ngài Gaston Blondin, chủ nhà hàng sang trọng nhỏ Chez Ma Tante, không phải là người thường vui mừng chào đón khách hàng của mình. Người giàu, người đẹp, kẻ khét tiếng, và người lương thiện có thể phải chờ đợi vô ích để được nhận ra và hút được sự quan tâm đặc biệt của ông. Chỉ những trường hợp hiếm hoi, với sự chiếu cố đặc biệt, ngài Blondin mới chào đón một người khách, đưa người ấy đến bàn đặc biệt, và thể hiện những cư xử lịch thiệp.
Vào tối hôm đó, ngài Blondin đã ba lần thực hiện đặc quyền hoàng gia ấy của mình – một lần đối với một Công tước phu nhân,
một lần với một tay đua xe nổi tiếng, và một lần với người đàn ông có dáng vẻ kì cục mà bất cứ một người bình thường nào thấy đều nghĩ rằng sự hiện diện của ông tại Chez Ma Tante sẽ không nhận được một sự ưu ái nào.
Tuy nhiên, ngài Blondin lại thấy phấn khích với sự chú ý của mình. Mặc dù khách hàng trong vòng nửa tiếng qua được thông báo rằng đã hết bàn, bỗng dưng lại có một bàn còn trống bí ẩn xuất hiện, lại còn được đặt ở vị trí ngon lành nhất. Ngài Blondin còn nhiệt tình dẫn người khách đó tới chỗ ngồi.
“Như thường lệ, luôn có một bàn dành cho ông, thưa quý ông Poirot! Tôi mong muốn là ông sẽ dành đặc ân ghé quán chúng tôi thường xuyên!”
Hercule Poirot mỉm cười, nhớ lại những gì vừa xảy ra mà một xác chết, một anh hầu bàn, ngài Blondin, và một người phụ nữ dễ thương góp phần trong đó.
“Ông thật tử tế, ông Blondin,” ông đáp.
“Ông đi một mình à, ông Poirot?”
“Vâng, tôi đi một mình.”
“Ô, thế à, thế Jules đây sẽ làm cho ông một bữa nho nhỏ như là một bài thơ – thực sự là một bài thơ! Phụ nữ ấy mà, tuy quyến rũ, nhưng lại có một điểm yếu: họ làm đầu óc chúng ta xao lãng khỏi thức ăn! Ông sẽ thích thú với bữa tối, ông Poirot; tôi hứa với ông. Và bây giờ đến phần rượu…”
Tiếp theo đó là sự trao đổi về rượu với sự trự giúp của Jules, người phụ trách nhà hàng.
Trước khi cất bước, ngài Blondin nán lại trong chốc lát, thấp giọng hỏi nhỏ: “Ông đang xử lý các vụ án nghiêm trọng à?” Poirot lắc đầu.
“Ố la la, tôi đang là người thảnh thơi,” ông nhẹ nhàng đáp lại. “Tôi đã làm việc cật lực thời đi làm rồi và bây giờ tôi đang tận hưởng cuộc sống nhàn rỗi.”
“Tôi ganh tị với ông đó.”
“Không, không, như thế thật không khôn ngoan chút nào. Tôi có thể đảm bảo rằng nó không giống cuộc sống của người nhàm chán như những gì thể hiện đâu.” Ông thở dài. “Câu nói rằng người đàn ông buộc phải tạo ra việc làm để tránh phải suy nghĩ
thật là đúng.”
Blondin giơ hai tay lên.
“Nhưng còn nhiều thứ lắm mà! Còn việc đi du lịch nữa!” “Ừ, đi du lịch. Tôi đã thực hiện cũng kha khá rồi. Tôi sẽ đến Ai Cập vào mùa đông này, tôi nghĩ thế. Khí hậu ở đó thật tuyệt vời, mọi người nói như vậy! Người ta sẽ thoát khỏi cảnh sương mù, bầu trời xám xịt, sự đơn điệu của những cơn mưa không dứt.” “Ai Cập à.” Blondin thở gấp.
“Người ta thậm chí còn có thể đi đến đó bằng tàu lửa, tôi tin là như thế, và tránh được việc đi trên biển trừ chuyện phải đi qua con kênh.”
“Biển à, chẳng lẽ ông không chịu được sao?”
Hercule Poirot lắc đầu và khẽ nhún vai.
“Tôi cũng thế,” Blondin đáp lại đầy cảm thông. “Tôi cũng tò mò
không biết nó tác động như thế nào lên dạ dày của con người.” “Nhưng chỉ tác động lên một số dạ dày thôi! Có những người không hề bị ảnh hưởng khi di chuyển. Thực ra họ còn tận hưởng cảm giác đó nữa!”
“Ông trời thật không công bằng.” Blondin thốt lên.
Ông lắc đầu buồn bã, nghĩ về những điều phi tín ngưỡng đó, và thôi không tranh luận nữa.
Lúc này những người phục vụ với đôi chân thoăn thoắt và bàn tay khéo léo đang chỉnh lại chiếc bàn. Món nướng Melba, bơ, một khay đá, và những thứ đi kèm tạo thành một bữa ăn trông thật ngon miệng.
Dàn nhạc của người da đen khơi dậy nỗi đam mê với những âm thanh lên xuống trầm bổng. Và London bắt đầu khiêu vũ. Hercule Poirot nhìn quanh, ông ghi nhận sự việc vào cái đầu được sắp xếp trật tự của mình.
Hầu như mọi gương mặt đều trông chán chường và mệt mỏi! Tuy nhiên cũng có một vài người đàn ông lực lưỡng lại đang tự tận hưởng… trong khi những bạn nhảy của họ lại thể hiện sự chịu đựng không khác nào bệnh nhân qua những sắc thái thể hiện trên gương mặt. Một người phụ nữ phốp pháp trong trang phục tím trông thật rực rỡ… Không nghi ngờ gì nữa, người mập thường có những sự đền bù khác của cuộc đời… sự vui vẻ – sự lạc quan – đối lập lại với những người có bề ngoài hợp thời hơn.
Một sự đa sắc ở người trẻ – một số đang kiếm chỗ trống – một số trông chán chường – một số hẳn không vui. Thật vô lý khi gọi tuổi trẻ là khoảng thời gian hạnh phúc – tuổi trẻ chính là thời kỳ
dễ bị tổn thương nhất!
Ánh nhìn của ông dịu lại khi dừng mắt ở một cặp đôi đặc biệt. Một cặp rất xứng đôi – người thanh niên cao với bờ vai rộng, người thiếu nữ mảnh khảnh dịu dàng. Hai con người đó đang cùng hòa chung nhịp đập hạnh phúc hoàn hảo. Sự hạnh phúc lan tỏa khắp không gian, thời gian, và trong mỗi người họ.
Đột nhiên điệu nhảy ngừng lại. Tiếng vỗ tay vang lên và rồi âm nhạc lại bắt đầu. Sau điệu nhảy lại lần thứ hai, cặp đôi trở về lại bàn của mình ở gần Poirot. Cô gái mặt ửng hồng và cười sảng khoái. Khi cô ngồi xuống, chuyển nụ cười sang anh thanh niên đi cùng, ông bắt đầu quan sát gương mặt của cô.
Có điều gì đó khác lạ trong mắt cô bên cạnh tiếng cười. Hercule Poirot lắc đầu nghi ngờ.
“Cô gái quan tâm quá mức đến anh chàng đó.” Ông tự nhủ với chính mình. “Không ổn. Không, không ổn một chút nào.” Và ngay sau đó có hai từ lọt vào tai ông: ‘Ai Cập’.
Ông nghe rõ giọng nói của cập đôi – giọng của cô thiếu nữ thì trẻ trung, trong trẻo, kiêu hãnh, với thêm một chút ít ám thanh nhẹ nhàng của tiếng ngoại quốc, và giọng của anh thanh niên thì dễ nghe, tông thấp, và đặc sệt giọng Anh.
“Em không có ‘chưa đẻ đã vội đặt tên’ đâu, Simon. Em nói với anh rồi, Linnet sẽ không làm chúng ta thất vọng đâu!” “Biết đâu anh làm cô ấy thất vọng.”
“Vớ vẩn – đó chính là công việc thích hợp với anh.” “Trên thực tế thì đúng như vậy… Anh không nghi ngờ gì về khả
năng của mình. Và ý anh là anh phải làm – vì em đấy!” Cô gái cười khúc khích, một nụ cười của sự hạnh phúc tinh khôi. “Chúng ta sẽ đợi ba tháng – để đảm bảo là anh không bị đuổi việc – và sau đó thì…”
“Và sau đó anh sẽ trao lời hẹn ước – đó là điểm mấu chốt của chuyện này, phải không em?”
“Và như em đã nói trước đây, chúng ta sẽ đi trăng mật ở Ai Cập. Chi phí mắc thiệt đó! Cả cuộc đời em vẫn luôn muốn được đến Ai Cập. Ở đó có dòng sông Nile, Kim tự tháp và những đồi cát…”
Chàng thanh niên đáp với giọng không rõ lắm: “Chúng ta sẽ cùng đến đó, Jackie… cùng nhau em à. Như thế không phải tuyệt vời hay sao?”
“Em đang phân vân. Không biết sự tuyệt vời đó đối với anh có giống như đối với em hay không? Anh có thực sự quan tâm nhiều như em quan tâm hay không?”
Giọng cô chợt chùng lại – đôi mắt giãn ra – với sự sợ sệt. Chàng thanh niên nhanh miệng trả lời quả quyết: “Đừng khờ khạo thế chứ, Jackie.”
Nhưng cô gái vẫn lặp lại: “Em vẫn tự hỏi…”
Rồi cô nhún vai. “Thôi chúng ta nhảy đi.”
Hercule Poirot lầm bầm một mình: “Một người thì yêu và một người được yêu. Ừ, tôi cũng thấy phân vân.”
Joanna Southwood hỏi: “Giả sử anh chàng đó là một kẻ khó chơi
thì sao?”
Linnet lắc đầu. “Ồ, không đâu. Tớ có thể tin vào trực giác của Jacqueline.”
Joanna lẩm bẩm: “Nhưng người ta thường không nhận ra được chân tướng khi đang yêu đâu.”
Linnet lắc đầu chán nản. Sau đó cô chuyển đề tài: “Tớ phải đi gặp ông Pierce để trao đổi một số kế hoạch đây.”
“Kế hoạch à?”
“Ừ, một vài ngôi lều cũ bẩn thỉu dơ dáy đó mà. Tớ đang cho tháo dỡ chúng sau khi mọi người ở đó đã chuyển đi hết.” “Ôi cậu thật là sạch sẽ và có tinh thần vì mọi người, bạn thân mến ơi!”
“Dù gì thì họ cũng phải dọn đi thôi. Những túp lều đó sẽ trông ra hồ bơi mới của tớ.”
“Thế những người sống ở đó có chịu chuyển đi không?” “Hầu hết mọi người đều rất vui vẻ. Chỉ có một, hai người tỏ ra ngu ngốc thôi – thực ra thì quá lố. Họ dường như không nhận ra cuộc sống của họ sẽ được cải thiện đáng kể như thế nào!” “Nhưng tớ nghĩ trong vụ này cậu hơi mạnh tay đấy.” “Joanna thân mến, thật sự cũng vì lợi ích của họ mà thôi.” “Đúng rồi, bạn thân mến. Tớ chắc là như thế. Lợi ích bắt buộc.” Linnet cau mày lại, còn Joanna phá lên cười.
“Bây giờ cậu thú nhận đi, cậu là một nhà độc tài. Một nhà độc tài từ thiện, nếu cậu thích.”
“Tớ một chút cũng không phải là nhà độc tài đâu.”
“Nhưng cậu thích mọi việc theo ý mình!”
“Không hẳn vậy.”
“Linnet Ridgeway, hãy nhìn vào mặt tớ và cho tớ biết có khi nào cậu không được như ý chưa?”
“Nhiều lần rồi.”
“Ừ, phải, ‘nhiều lần rồi’ – chỉ có thế thôi – nhưng lại không có một ví dụ cụ thể nào cả. Và đơn giản vì cậu không nghĩ ra được ví dụ nào cho dù cậu đã cố, bạn thân mến à! Mọi sự thuận lợi của Linnet Ridgeway đều nằm trong tầm tay của cô ấy.”
Linnet gằn giọng: “Cậu nghĩ tớ ích kỷ à?”
“Không – chỉ là tớ không ngăn được suy nghĩ này. Sự kết hợp giữa tiền và vẻ quyến rũ. Mọi thứ đều trong tay cậu. Cái mà cậu không thể mua được bằng tiền, cậu có thể có nó bằng nụ cười của cậu. Kết quả là: Linnet Ridgeway, Cô Nàng Có Được Mọi Thứ.”
“Đừng đùa cợt như vậy chứ, Joanna!”
“Không phải cậu đã có mọi thứ sao?”
“Tớ cho rằng tớ có… Nhưng nghe nó ghê gớm quá!” “Tất nhiên là nó như vậy đấy, bạn thân mến! Lát nữa có thể cậu sẽ cảm thấy chán khủng khiếp và đơn điệu. Nhưng cùng lúc đó, cậu vẫn tận hưởng được cảm giác thuận lợi trong tầm tay. Chỉ có tớ là phân vân, tớ thật sự thắc mắc điều gì sẽ xảy ra khi cậu xuống phố gập một biển hiệu ‘Đường cấm’.”
“Đừng ngốc nghếch thế, Joanna.” Ngay khi đó Huân tước Windlesham vào cùng tham gia với họ, Linnet quay qua anh và nói: “Joanna đang nói những điều khó nghe với em.”
“Đùa thôi mà, bạn thân mến, đùa thôi mà,” Joanna mơ hồ đáp lại khi cô đứng dậy khỏi chiếc ghế.
Cô không xin phép để rút khỏi cuộc nói chuyện, chỉ đứng dậy bỏ đi. Và cô bị bắt gặp bởi ánh nhìn của Windlesham.
Anh im lặng trong một, hai phút rồi sau đó đi thẳng vào vấn đề. “Em đã quyết định chưa, Linnet?”
Linnet từ tốn trả lời: “Em đâu phải là loài cầm thú, phải không anh? Em nghĩ, nếu em chưa đoan chắc, em phải trả lời là ‘Không’…”
Anh ngắt lời cô: “Đừng nói như thế chứ. Em sẽ có thời gian – bao nhiêu là tùy em. Nhưng anh nghĩ, em cũng biết mà, chúng ta sẽ hạnh phúc bên nhau.”
Linnet vẫn như con nít cô cãi bướng: “Anh thấy đấy, bản thân em vẫn vui vẻ – đặc biệt với tất cả những thứ này.” Cô đưa tay lên chỉ: “Em muốn cải tạo Wode Hall thành một căn nhà đồng quê thật sự lý tưởng, và em nghĩ em sẽ làm nó tươi đẹp, anh có nghĩ vậy không?”
“Đúng, thật là đẹp. Kế hoạch này thật hay. Mọi thứ đều hoàn hảo. Em thật thông minh, Linnet.”
Anh dừng trong giây lát rồi tiếp tục: “Em có thích Charltonbury không? Hẳn nhiên là nó cần được nâng cấp và mọi thứ tương tự như vậy – nhưng đúng là em rất giỏi về những việc như thế. Và em còn thích thú với chuyện này nữa.”
“Sao thế, Charltonbury quá tráng lệ rồi mà.”
Cô trả lời với tất cả sự nhiệt huyết, nhưng cô cảm nhận được
một sự chùng lòng bất chợt ở bên trong con người mình. Một âm thanh lạ lùng vang lên, xen vào sự hài lòng với cuộc sống của cô. Ngay lúc này cô không thể hiểu rõ cảm giác đó, nhưng sau khi Windlesham đã rời khỏi, cô cố gắng nắm bắt chỗ lấn cấn đó trong trí óc mình.
Charltonbury – vâng, đúng là nó – cô cảm thấy tức giận khi đề cập đến Charltonbury. Nhưng tại sao chứ? Charltonbury đã nổi tiếng từ thời xa xưa. Tổ tiên nhà Windlesham có được nó từ thời nữ hoàng Elizabeth. Trở thành chủ nhân của Charltonbury là một điều không thể bỏ qua trong xã hội. Và Windlesham là một trong những người hấp dẫn nhất ở nước Anh này.
Lẽ thường anh ấy không nên quan trọng hóa Wode như thế… Nó không đời nào so sánh được với Charltonbury.
À, nhưng Wode là của cô kia mà! Cô đã nhìn thấy nó, mua lại nó, xây dựng và trang hoàng lại cho nó, đổ không tiếc tiền vào nó. Wode là sở hữu của cô – là vương quốc của riêng cô.
Nhưng nếu cô kết hôn với Windlesham thì việc đó sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Họ sẽ làm gì với hai lãnh thổ này? Giữa hai nơi, dĩ nhiên Wode Hall sẽ bị từ bỏ.
Cô, Linnet Ridgeway, sẽ không còn tồn tại nữa. Cô sẽ trở thành Huân tước phu nhân của Windlesham, mang theo của hồi môn đáng giá về cho Charltonbury và chủ nhân của nó. Cô chỉ là hoàng hậu, chứ không còn là nữ hoàng nữa.
‘Mình thật ngớ ngẩn.’ Linnet tự nhủ với chính mình. Nhưng cũng không hiểu sao cô lại ghét cái ý nghĩ từ bỏ Wode đến thế…
Và hẳn có điều gì khác đã níu kéo cô?
Giọng nói của Jackie chọt vang lên với sự say mê mù quáng: ‘Tớ sẽ chết nếu không cưới được anh ấy! Tớ sẽ chết. Tớ sẽ chết mất…’ Thật lạc quan, thật chân thành. Cô, Linnet, có cảm giác như thế với Windlesham không? Chắn chắn là không. Có thể cô chưa từng có cảm giác như thế với ai cả. Phải có cảm giác như vậy mới thật tuyệt vời…
Tiếng xe hơi vọng từ ngoài cửa sổ của ngôi nhà.
Linnet rùng mình chán chường. Chắc đó là Jackie và anh chàng của cô ấy. Cô phải ra gặp họ.
Linnet đã đứng sẵn ngay cửa ra vào khi Jacqueline và Simon Doyle bước ra khỏi xe.
Jackie chạy đến với cô: “Linnet! Đây là Simon. Simon, đây là Linnet. Cô ấy là người tuyệt nhất trên thế gian này đấy.” Trước mắt Linnet là một người thanh niên cao to, vai rộng, đôi mắt màu xanh sẫm, mái tóc nâu quăn dòn, một cái cằm vuông, và một nụ cười giản dị, trẻ thơ và cuốn hút,…
Cô đưa tay ra và chạm phải một bàn tay rắn rỏi, ấm áp… Cô thích cách mà anh ấy nhìn cô, một sự ngưỡng mộ thật sự ngây thơ.
Jackie đã kể với anh ấy rằng cô rất tuyệt vời và rõ ràng là anh nghĩ cô thật tuyệt…
Một cảm giác trìu mến ấm áp của sự mê đắm lan tỏa khắp mạch máu của cô.
Linnet lên tiếng: “Mọi thứ thật đáng yêu phải không? Vào đi,
Simon, hãy để tôi long trọng chào đón người quản lý đất mới nào.” Và khi vừa dẫn đường, Linnet vừa thầm nghĩ: ‘Mình thấy vui quá. Mình thích anh chàng của Jackie… Mình rất thích anh ấy…’ Và một ý nghĩ ập đến: ‘Jackie may mắn thật…’
Tim Allerton ngả người vào chiếc ghế được làm từ lá liễu và ngáp dài nhìn ra biển, đoạn anh liếc nhanh qua mẹ mình. Bà Allerton đã ngoài năm mươi nhưng trông vẫn còn xuân sắc với mái tóc bạch kim. Bà thường giấu tình yêu thương vô hạn của mình dành con trai bằng việc cong miệng giả vờ đau đớn mỗi khi nhìn thấy nó. Những người hoàn toàn xa lạ đôi khi cũng bị chiêu thức này đánh lừa nhưng Tim lại nhìn thấu nó.
Anh cất tiếng hỏi mẹ: “Mẹ có thực sự thích Majorca không mẹ?” “Để xem nào.” Bà Allerton ngẫm nghĩ. “Nó rẻ tiền lắm.” “Và lạnh nữa chứ,” Tim đáp với một cái rùng mình nhè nhẹ. Tim là một chàng trai trẻ, cao, ốm, với mái tóc sậm màu và một
chiếc cằm hơi nhọn. Cái miệng của anh có biểu hiện rất đáng yêu, anh sở hữu một đôi mắt buồn, một cái cằm bạnh, và một đôi tay gầy guộc rất dài.
Cách đây vài năm, sau khi bị đe dọa tính mạng bởi bệnh lao phổi, anh không bao giờ có thể mập lên được nữa. Anh được mọi người biết đến là ‘người để viết’ nhưng trong bạn bè anh, ai cũng hiểu rằng những yêu cầu về việc viết lách không bao giờ được khuyến khích.
“Con đang nghĩ gì vậy, Tim?”
Bà Allerton lanh lẹ hỏi với đôi mắt sáng cùng hàng lông mi nâu trông có vẻ nghi hoặc.
Tim Allerton cười toe trả lời mẹ: “Con đang nghĩ đến Ai Cập.” Bà Allerton nghi ngờ hỏi lại: “Ai Cập sao?”
“Mẹ à, ở đó mới ấm thật sự. Những đồi cát vàng trải dài. Dòng sông Nile. Con thích được lên thượng nguồn sông Nile, còn mẹ thì sao?”
“Ồ, mẹ thích chứ,” người mẹ đáp lại khô khốc. “Nhưng đi Ai Cập mắc lắm đấy con. Không dành cho người phải đi kiếm từng đồng đâu.”
Tim cười lớn rồi vươn vai đứng dậy. Đột nhiên trông anh tươi tỉnh và hứng khởi hẳn lên. Giọng anh đầy phấn khích. “Mẹ yên tâm. Con sẽ lo chi phí cho chuyến đi. Con có đầu tư vào thị trường chứng khoán. Sáng nay con mới được nghe những kết quả rất khả quan.”
Bà Allerton hỏi lại ngay: “Sáng nay sao? Con chỉ mới nhận một lá thư và nó…”
Bà chợt im bặt.
Tim nhất thời trông có vẻ lưỡng lự không biết là nên vui hay buồn. Nhưng sự vui sướng đã chiến thắng.
“Và tin đó đến từ Joanna.” Anh chốt lại một cách vui vẻ. “Đúng đấy mẹ ạ. Mẹ thật là bậc thầy về thám tử. Thám tử lừng danh Hercule Poirot cũng phải dè chừng nếu mẹ đi theo nghề này đó.” Bà Allerton tỏ vẻ đau khổ.
“Mẹ chỉ tình cờ thấy cái mảnh giấy viết tay đó…”
“Và mẹ không biết đó là thông tin của nhà môi giới chứng khoán hay sao? Cũng đúng thôi. Vì thực sự là hôm qua con có nghe lỏm họ nói chuyện. Thật tội nghiệp, tuồng chữ của Joanna thật dễ nhận ra – nó ngoằn ngoèo trên cái phong bì như một con nhện say rượu vậy.”
“Thế Joanna đã nói gì? Có tin tức gì mới không?”
Bà Allerton cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh. Mối quan hệ giữa con trai bà và đứa cháu thứ hai, Joanna Southwood, thường làm cho bà cảm thấy khó chịu. Nhưng khi bà đặt mình vào hoàn cảnh đó, bà thấy ‘không có điều gì bất thường’ cả. Bà chắc chắn là không có gì. Tim chưa bao giờ có rung động tình cảm gì với Joanna, và ngược lại cô cũng vậy. Sự hấp dẫn giữa hai bên dường như chỉ dựa trên những lần tán dóc, cùng có nhiều bạn bè, và sở hữu chung nhiều thói quen. Cả hai đều thích con người và bàn tán về họ. Thật ra, Joanna có một cái miệng lươn lẹo.
Không phải là vì bà Allerton sợ Tim sẽ yêu Joanna, nhưng bà thường thấy bản thân mình trở nên cứng rắn hơn khi có mặt Joanna hay khi những lá thư của cô được gởi đến.
Đó còn là một cảm giác khác khó mà định nghĩa – có thể là sự ghen tị về niềm vui mà Tim thường cảm nhận được trong tầng lớp của Joanna. Mẹ con anh là một cặp đồng hành ăn ý khi mà việc để ý một người phụ nữ nào đó của Tim đều làm bà Allerton phải giật mình đôi chút. Bà cũng thấy vui khi sự hiện diện của bà trong những dịp đó đã dựng lên hàng rào ngăn cách giữa hai người thuộc thế hệ trẻ này. Thường thì bà sẽ hăng hái tham gia vào cuộc
trò chuyện của hai đứa, và với sự có mặt của bà, câu chuyện của chúng đưa đẩy hơn, và dường như có liên quan đến bà một cách có chủ ý như thể đó là điều bắt buộc. Hẳn nhiên, bà Allerton không thích Joanna Southwood. Bà cho rằng cô không chân thật, là người cầu kỳ và giả tạo. Bà tự thấy khó mà ngăn mình khỏi nói ra những điều như thế.
Để đáp lại thắc mắc của mẹ, Tim lôi lá thư từ trong túi ra và liếc qua nó. Mẹ anh nhận ra đó là một lá thư khá dài.
Anh liền giải thích: “Không có gì nhiều cả, mẹ ạ. Nhà Devenish đang chuẩn bị ly hôn. Monty bị phạt vì dám lái xe trong lúc say xỉn. Windlesham đã đi Canada. Dường như anh thật sự suy sụp khi bị Linnet Ridgeway từ chối. Cô ấy chắn chắn sẽ cưới người quản lý đất này.”
“Thật là kỳ lạ! Anh ta có ghê gớm lắm không?”
“Không, không, không phải vậy đâu. Anh ấy là người của dòng họ Doyle thuộc miệt Devonshire. Dĩ nhiên là không có đồng nào – và thực ra thì anh ta đã đính hôn với một trong những người bạn thân nhất của Linnet. Mặt dày thật đấy.”
“Mẹ không nghĩ đó là việc hay ho đâu.” Bà Allerton tuôn luôn một hơi dài.
Tim nhìn mẹ một cách trìu mến.
“Con biết, mẹ ơi. Mẹ không đồng tình với việc cướp chồng của người khác.”
“Thời của mẹ, mọi người có chung các chuẩn mực,” bà Allerton đáp. “Đó là việc rất hay! Ngày nay những người trẻ chỉ nghĩ là họ phải làm những gì mà họ cho là đúng thôi.”
Tim mỉm cười. “Họ không chỉ nghĩ thôi đâu. Họ thực hiện luôn ấy chứ. Như chồng Linnet Ridgeway đấy!”
“Ừ, mẹ thấy ghê sợ thật!”
Tim nháy mắt với mẹ.
“Vui lên nào, mẹ lẩm cẩm của con! Chí ít có con đồng ý với mẹ. Dù gì thì con vẫn chưa lấy vợ hay người yêu của người khác mà.” “Mẹ tin rằng con sẽ không bao giờ làm những chuyện như thế,” bà Allerton trả lời và tự hào. “Mẹ nuôi dưỡng con nên người mà.” “Thế thì công này là của mẹ rồi, không phải của con.” Anh cười chế giễu mẹ khi gấp lại lá thư và cất nó đi. Chợt bà Allerton nghĩ: ‘Nó cho mình coi hầu hết các lá thư. Nhưng nó chỉ kể một số đoạn trong thư của Joanna cho mình nghe mà thôi.’ Nhưng bà bỏ ý nghĩ không đáng có ấy qua một bên, và quyết định từ rày về sau sẽ cư xử như một quý bà lịch thiệp. Rồi bà hỏi: “Joanna có tận hưởng cuộc sống không?” “Cũng bình thường mẹ ạ. Cô ấy đang tính mở một cửa hàng thức ăn ở Mayfair.”
Bà Allerton có vẻ nắm bắt câu chuyện: “Con bé luôn nói chuyện nỗ lực vươn lên, nhưng nó đi khắp mọi nơi và ngốn bộn tiền vào chuyện áo quần. Lúc nào nó cũng ăn mặc đẹp.”
“À, đúng vậy,” Tim trả lời. “Cô ấy có thể không phải tự trả tiền những thứ đó đâu. Không, mẹ ạ, con không có ý nói về những quan niệm cũ trong lòng mẹ. Thật ra con chỉ muốn nói là cô ấy không thanh toán các hóa đơn của mình thôi.”
Bà Allerton thở dài.
“Mẹ cũng không hiểu sao người ta có thể làm như thế được.” Tim đáp lại: “Đó là một món quà đặc biệt, mẹ à. Nếu mẹ thích hàng hiệu, mà lại không có tiền, người ta sẽ tặng cho mẹ một khoản nào đó.”
“Đúng, nhưng cuối cùng thì con cũng sẽ phải nộp đơn xin phá sản thôi, như ông George Wode đáng thương ấy.”
“Mẹ thương cảm cái gã bán ngựa đó vì ông ta đã gọi mẹ là đóa hồng tại buổi khiêu vũ vào năm 1879 phải không.”
Bà Allerton phật ý: “Mẹ không phải sinh vào năm 1879, Ông George đó tính rất dễ thương và mẹ không để con gọi ông ấy là gã bán ngựa đâu.”
“Vậy à, con nghe rất nhiều chuyện tiếu lâm về ông ấy từ những người biết chuyện đó.”
“Con và Joanna không chú ý đến những gì bọn con nói về người khác cả; nếu cứ cay độc như thế, nó sẽ ảnh hưởng về sau đấy.” Tim ngước mắt nhìn mẹ.
“Mẹ à, mẹ nóng lên rồi kìa. Con không biết là ông Wode ấy lại là thần tượng của mẹ.”
“Con không biết ông ấy đã khó khăn thế nào đâu khi bán Wode Hall đi. Ông ấy thật sự yêu mảnh đất ấy.”
Tim nén không đáp trả lại. Cuối cùng, anh đang đánh giá ai cơ chứ? Thay vào đó, anh trả lời một cách nghiêm túc: “Mẹ biết đấy, con nghĩ mẹ nói không sai. Linnet đã mời ông Wode xuống và xem cô ấy có thể làm được gì cho mảnh đất, nhưng ông ta đã từ chối một cách thô lỗ.”
“Dĩ nhiên. Cô ta phải biết mình nên làm gì hơn là hỏi ông ấy chứ.”
“Và con tin là ông ta có ác cảm với Linnet – con người ấy vẫn thường lầm bầm chửi rủa mỗi khi thấy cô ấy. Con không thể chịu nổi việc Linnet trả giá quá cao cho mảnh đất sâu mọt ấy.”
“Con không thể hiểu chuyện đó sao?” Bà Allerton cao giọng. Tim từ tốn trả lời: “Nói thật với mẹ là con không hiểu. Tại sao cứ sống trong quá khứ hoài vậy? Tại sao cứ bám víu vào những chuyện xa xưa?”
“Thế ở địa vị của họ, con sẽ làm được gì nào?”
Anh nhún vai. “Vui mừng chẳng hạn. Cảm giác mới mẻ. Tận hưởng cuộc sống hôm nay, không quan tâm những gì xảy đến trong những ngày sắp tới. Thay vì thừa kế một mảnh đất không có lợi ích nào thì vui với việc làm ra tiền cho bản thân – bằng chính khối óc và tài năng của mình.”
“Phải là một phi vụ thành công trên thị trường chứng khoán chứ gì!”
“Tại sao không?” Tim cười vang.
“Thế còn việc thua lỗ thì sao?”
“Mẹ ơi, cái đó khó nói lắm. Và chẳng thích hợp với hôm nay gì cả… Kế hoạch đi Ai Cập sẽ như thế nào đây mẹ?”
“À…”
Anh cười với mẹ và cắt ngang: “Coi như xong nha mẹ. Cả hai mẹ con ta đều muốn đi Ai Cập.”
“Thế con tính khi nào thì đi được?”
“Ồ, tháng tới ạ. Tháng giêng là thời gian đẹp nhất để đến đó. Chúng ta sẽ thưởng thức bầu không khí sảng khoái ở khách sạn trong vài tuần lễ.”
“Kìa, Tim,” bà Allerton trách rồi nói tiếp. “Mẹ e rằng mẹ đã lỡ hứa với bà Leech chuyện con sẽ đến sở cảnh sát cùng bà ấy. Bà ấy không biết tiếng Tây Ban Nha.”
Tim nhăn mặt.
“Có phải chuyện chiếc nhẫn của bà ấy không? Viên hồng ngọc của con gái kẻ tham lam đó à? Có phải bà ấy vẫn cứ khăng khăng cho rằng nó bị đánh cắp? Con sẽ đi nếu mẹ muốn, nhưng nó chỉ tốn thời gian vô ích mà thôi. Bà ấy sẽ lôi người hầu gái không may vào rắc rối cho mà xem. Ngày hôm đó, chính mắt con đã trông thấy rõ ràng chiếc nhẫn trên tay bà ấy khi bà ấy bước xuống biển. Bà ấy không nhận ra là nó đã rớt xuống nước thôi.”
“Bà ấy khẳng định là đã tháo nó ra và để nó trên bàn trang điểm.”
“Không phải đâu. Chính con thấy nó mà. Người đàn bà đó thật là ngu ngốc. Thật ngu xuẩn làm sao khi đi biển vào tháng mười hai và cho rằng nước biển ấm áp chỉ vì mặt trời bất chợt ló dạng. Dù gì đi nữa, ngay cả những phụ nữ khỏe mạnh cũng không được đi tắm; trông họ thật mất điểm trong mấy bộ đồ bơi ấy.”
Bà Allerton lẩm bẩm: “Mẹ nghĩ mẹ nên từ bỏ việc tắm biển.” Tim cười phá lên.
“Mẹ đó hả? Mẹ bỏ mấy thứ nhí nhố và nghỉ ngơi đi.” Bà Allerton thở dài rồi trả lời: “Ước gì có thêm vài người trẻ nữa
ở đây với con.”
Tim Allerton lắc đầu, quả quyết: “Con không cần. Con và mẹ có thể vui vẻ cùng nhau mà không cần ai khác.”
“Nếu Joanna ở đây thì con sẽ thích mà.”
“Con không muốn.” Đột nhiên giọng Tim trở nên kiên quyết. “Vấn đề này thì mẹ hoàn toàn sai rồi. Joanna giúp con vui vẻ, nhưng thực sự con không thích cô ấy, và con thấy căng thẳng mỗi lần cô ấy luẩn quẩn bên cạnh con. Con thật sự biết ơn vì cô ấy không ở đây. Con cũng sẵn sàng đồng ý nếu con không bao giờ gặp Joanna nữa.”
Rồi anh thêm vào bằng giọng hết sức nhỏ: “Trên trái đất này chỉ có một người phụ nữ mà con thật sự kính trọng và ngưỡng mộ thôi, và con nghĩ, hỡi quý bà Allerton, mẹ biết rất rõ người phụ nữ ấy là ai.”
Mẹ anh đỏ bừng mặt và cảm thấy bối rối.
Tim chân thành nói: “Khắp thế giới này không có nhiều phụ nữ tốt đâu mẹ. Nhưng mẹ là một người trong số những người đó.”
Trong căn hộ nhìn ra công viên trung tâm tại thành phố New York, bà Robson thảng thốt nói: “Không phải dễ thương thế sao! Con là người con gái may mắn nhất đó, Cornelia.”
Cornelia Robson, một cô gái to lớn vụng về với đôi mắt nâu, lập tức đỏ mặt.
“Dạ, thật là tuyệt vời!” Cô đáp nhát gừng.
Quý bà lớn tuổi Van Schuyler tựa đầu một cách thoải mái với thái độ đúng mực dành cho những mối quan hệ lỏng lẻo. “Cháu luôn mơ về một chuyến đi đến Châu Âu,” Cornelia thở dài, “nhưng cháu có cảm giác là mình chả bao giờ đến được đó cả.”
“Cô Bowers dĩ nhiên sẽ đi cùng với dì như thường lệ,” bà Van Schuyler cho biết, “nhưng với tư cách là một người bạn, dì thấy cô ấy còn nhiều hạn chế – rất nhiều hạn chế. Và Cornelia có thể giúp dì rất nhiều việc nhỏ.”
“Cháu rất thích, dì Marie.” Cornelia tỏ ra phấn khởi. “Tốt, tốt, vậy là quyết định xong nhé,” bà Van Schuyler trả lời. “Giờ cháu chạy đi kiếm cô Bowers đi. Đến giờ uống rượu pha trứng của dì rồi.”
Khi Cornelia rời khỏi, mẹ cô nói: “Em Marie thân mến, chị thật sự rất biết ơn em! Em biết đó, chị nghĩ Cornelia đã phải chịu đựng nhiều từ những thất bại trong cuộc sống. Điều đó làm cháu nó cảm thấy xấu hổ. Giá mà chị có đủ khả năng cho cháu đi các nơi – nhưng chị thấy mọi thứ cứ như thế nào ấy kể từ khi Ned mất.”
“Em rất vui khi giúp được cháu,” bà Van Schuyler trả lời. “Cornelia là một đứa khéo léo dễ thương, sẵn sàng chạy việc lặt vặt, và không ích kỷ như một số người trẻ ngày nay.” Bà Robson đứng dậy hôn lên gương mặt đã nhăn nheo và có phần vàng vọt của người họ hàng giàu có của mình.
Bà thành thật: “Chị biết ơn em hơn bao giờ hết.”
Sau đó nơi cầu thang, bà gặp một người phụ nữ cao trông dễ thương đang mang một ly nước sủi bọt màu vàng. “Ô, cô Bowers, thế cô chuẩn bị đi châu Âu phải không?”
“Vâng, bà Robson, có chuyện gì không ạ?”
“Thật là một chuyến đi tuyệt vời!”
“À, vâng, tôi nghĩ chuyến đi sẽ rất vui.”
“Nhưng trước giờ cô đã đi nước ngoài chưa?”
“Ô, có chứ bà Robson. Tôi đã đi Paris mùa thu vừa rồi với bà Van Schuyler. Nhưng tôi chưa từng tới Ai Cập.”
Bà Robson lưỡng lự.
“Tôi thực sự mong sẽ không có vấn đề gì xảy ra.”
Bà Robson hạ giọng xuống. Tuy nhiên cô Bowers vẫn giữ giọng tỉnh rụi trả lời: “Ồ, không, bà Robson; tôi sẽ sắp xếp ổn thỏa mọi việc. Tôi thường coi chừng kỹ lắm.”
Tuy nhiên khi bà Robson tiếp tục bước xuống cầu thang, trên gương mặt bà vẫn còn phảng phất nét hồ nghi.
Ở văn phòng dưới phố, ông Andrew Pennington vừa mở hộp thư cá nhân ra xem. Bất chợt ông nắm chặt tay và giộng mạnh xuống bàn; gương mặt ông trở nên đỏ bừng và hai mạch máu to nổi giần giật trước trán, ông nhấn cái chuông trên bàn, và sau đó, một người thư ký mặt mày sáng sủa xuất hiện nhanh chóng.
“Nói ông Rockford vô đây ngay.”
“Vâng, thưa ông Pennington.”
Một vài phút sau, đồng nghiệp của Pennington là Sterndale Rockford bước vào văn phòng. Hai người đàn ông không khác nhau là mấy – đều cao lớn, vai rộng, mái tóc nâu với gương mặt
nhẵn nhụi sáng láng.
“Có việc gì thế, Pennington?”
Pennington ngước mắt lên khỏi lá thư đang đọc và trả lời: “Linnet đã kết hôn…”
“Cái gì?”
“Ông nghe tôi nói rồi đấy! Linnet Ridgeway đã kết hôn!” “Làm sao? Khi nào vậy? Tại sao chúng ta lại không biết gì về chuyện này nhỉ?”
Pennington liếc quyển lịch ở trên bàn.
“Khi viết lá thư này thì cô ấy chưa làm đám cưới, nhưng bây giờ thì đã xong rồi. Sáng ngày mùng bốn. Chính là hôm nay đấy.” Rockford ngồi phịch xuống ghế.
“Trời! Không có thông báo trước gì cả! Không có gì cả sao? Ai là chú rể thế?”
Pennington xem lại lá thư một lần nữa.
“Doyle. Simon Doyle.”
“Anh ta là người như thế nào? Có bao giờ nghe nhắc đến anh ta chưa?”
“Chưa. Cô ấy không tiết lộ nhiều…” Ông lướt qua các dòng chữ viết tay bị xéo lên trên nhưng rõ ràng. “Tôi chợt nghĩ hình như có vấn đề gì đó ẩn chứa phía sau cái đám cưới này… Nhưng không quan trọng lắm. Điểm chính yếu là cô ấy đã kết hôn.”
Ánh nhìn của hai người đàn ông chạm vào nhau. Rockford gật đầu đồng ý.
“Việc này cần phải được làm sáng tỏ.” Ông thốt lên một cách
yếu ớt.
“Vậy chúng ta sẽ làm gì đây?”
“Tôi hỏi ông kia mà.”
Hai người ngồi lặng im. Rồi Rockford cất tiếng: “Đã có kế hoạch gì chưa?”
Pennington từ tốn trả lời: “Con tàu Normandie ra khơi ngày hôm nay. Một trong hai ta phải bắt kịp nó.”
“Ông điên rồi à! Ông có kế hoạch gì vậy?”
Pennington bắt đầu hé mở: “Mấy cha luật sư người Anh…” và rồi dừng lại.
“Họ thì sao! Chắc chắn là ông không qua tới đó để giải quyết họ chứ? Ông khùng thật rồi!”
“Tôi không có nói là ông – hoặc tôi – sẽ đi Anh.”
“Thế thì vấn đề là gì đây?”
“Linnet sẽ đi hưởng tuần trăng mật ở Ai Cập. Có thể sẽ mất ít nhất là một tháng để tới đó…”
“Ơ, Ai Cập à?”
Rockford suy nghĩ và khi ngước mắt lên, ông bắt gặp ánh mắt của Pennington.
Rồi ông nói tiếp: “Ai Cập – đó là ý của anh à!”
“Đúng – một cuộc gặp tình cờ. Ở chuyến đi đó. Linnet và phu quân – cùng không khí trăng mật. Việc đó có thể thực hiện được.” Rockford nghi ngờ: “Linnet ương bướng lắm, cô ấy… nhưng…” Pennington nhẹ nhàng tiếp: “Tôi nghĩ sẽ có cách xử lý được thôi.”
Hai đôi mắt lại giao nhau lần nữa. Rockford đồng ý. “Được thôi, ông anh.”
Pennington nhìn đồng hồ.
“Chúng ta phải gấp rút chọn ai sẽ đi đây.”
Rockford nhanh nhảu: “Ông chứ ai nữa. Linnet luôn có cảm tình với ông mà. ‘Chú Andrew.’ Đó là giấy thông hành đấy.” Mặt Pennington trở nên cương cứng và đáp: “Tôi hi vọng có thể thay đổi được tình hình.”
Người bạn của ông đáp lại: “Ông phải làm được. Tình huống nguy cấp rồi…”
William Carmichael lên tiếng nói với người trẻ tuổi gầy yếu đang mở cửa: “Gọi anh Jim đến chỗ tôi nhé.”
Jim Fanthorp bước vào phòng và nhìn ông chú của mình đầy thắc mắc. Người đàn ông ngẩng mặt lên và vừa gật đầu chào vừa làu bàu.
“Hừ, cháu đây rồi.”
“Chú gọi cháu ạ?”
“Nhìn cái này đi.”
Người cháu ngồi xuống ghế và kéo đống giấy tờ về phía mình. Người chú nhìn đứa cháu và hỏi: “Thấy sao?”
Người cháu lập tức trả lời: “Trông có vẻ đáng nghi, thưa chú.” Người bạn già của Carmichael, Grant & Carmichael lần nữa lại phát ra âm thanh lầm bầm quen thuộc.
Jim Fanthorp đọc lại lá thư vừa được gởi tới bằng đường hàng không từ Ai Cập:
Thật là vô duyên khi ngồi viết thư trong một ngày như thế này. Chúng tôi đã trải qua một tuần Ở Mena House và làm chuyến du ngoạn đến Fayum. Ngày tới chúng tôi sẽ đi tàu hơi nước lên thượng nguồn sông Nile tới Luxor và Assuan, và có thể là Khartoum. Sáng nay trên đường tới đại lý Cook để lấy vé, các ông có biết là chúng tôi đã gặp ai không? – người quản lý tài chính của chúng tôi, Andrew Pennington. Tôi nghĩ ông đã gặp ông ấy cách đây hai năm khi ông ấy sang thăm. Tôi không biết là ông ấy đi Ai Cập và ông ấy cũng thế! Mà ông Pennington cũng không biết là tôi đã kết hôn! Ông ấy không nhận được lá thư tôi gởi thông báo cuộc hôn nhân của mình, ông Pennington thật ra cũng đi cùng chuyến lên thượng nguồn sông Nile như chúng tôi. Có phải đó là sự tình cờ không? Cám ơn ông rất nhiều vì những gì ông đã làm trong thời gian bận rộn này. Tôi…
Khi người cháu chuẩn bị lật sang trang, ông Carmichael lấy lại lá thư.
“Thế là đủ rồi. Phần còn lại không quan trọng. Cháu nghĩ sao?” Ông hỏi.
Người cháu suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: “À – cháu nghĩ – không phải là sự tình cờ…”
Người kia gật đầu đồng ý.
“Cháu có thích đi một chuyến tới Ai Cập không?” Ông thốt lên. “Có nên không chú?”
“Chú nghĩ chúng ta không nên lãng phí thời gian nữa.” “Nhưng tại sao lại là cháu chứ?”
“Dùng đầu óc của mình đi chú nhóc, hãy suy nghĩ. Linnet Ridgeway chưa bao giờ gặp mặt cháu; và Pennington thì càng không. Nếu cháu đi máy bay thì có thể đến đó kịp lúc đấy.” “Cháu… cháu không thích.”
“Có thể cháu không thích… nhưng cháu phải đi.”
“Có cần thiết không chú?”
Ông Carmichael trả lời: “Theo ý chú, điều này rất quan trọng.”
Bà Otterbourne chỉnh lại chiếc khăn choàng quấn quanh đầu dệt bằng nguyên liệu tự nhiên rồi nói: “Mẹ thật không hiểu tại sao chúng ta lại không đi Ai Cập nhỉ. Mẹ chán Jerusalem lắm rồi.”
Bà nói tiếp khi cô con gái không trả lời: “Ít nhất con phải trả lời khi có người nói chuyện với con chứ.”
Rosalie Otterbourne đang nhìn vào một gương mặt trên tờ báo. Dòng chữ dưới tấm hình ghi: Phu nhân Simon Doyle, trước khi kết hôn được biết đến là người đẹp nổi tiếng Linnet Ridgeway. Cặp đôi này đang hưởng kì nghỉ tại Ai Cập.
“Mẹ muốn đi Ai Cập phải không?”
“Mẹ muốn chứ,” bà Otterbourne đáp lại ngay. “Mẹ thấy những người ở đây đối xử với chúng ta chẳng đàng hoàng chút nào. Việc có mặt của chúng ta ở đây là phước cho họ lắm rồi – đáng lẽ mình phải được giảm giá đặc biệt chứ. Khi mẹ bóng gió với họ thì họ lại
hết sức xấc xược – quá láo xược ấy chứ. Mẹ nói đúng những gì mẹ nghĩ về họ.”
Đứa con gái thở dài và nói: “Nơi nào cũng giống nhau thôi mẹ ơi. Ước gì mẹ con mình có thể đi ngay lập tức.”
Bà Otterbourne tiếp: “Sáng nay tên chủ láo toét đã nói với mẹ là các phòng đã được đặt trước hết rồi và yêu cầu chúng ta dọn đi trong vòng hai ngày.”
“Vậy chúng ta phải đi đâu đó.”
“Không hẳn. Mẹ đã sẵn sàng chiến đấu vì quyền lợi của mình.” Rosalie lẩm bẩm: “Con nghĩ chúng ta có thể đi Ai Cập. Thật sự cũng không có khác biệt mấy.”
“Dĩ nhiên nó không phải là vấn đề sống hay chết rồi.” Bà Otterbourne tán thành.
Nhưng bà đã sai – thật sự đó là vấn đề giữa sự sống và cái chết.
2
“THÁM TỬ Hercule Poirot kìa.” Bà Allerton thốt lên. Bà và con trai đang ngồi trên chiếc ghế bành màu đỏ tươi bên ngoài khách sạn Cataract ở Assuan. Họ đang trông theo hai cái bóng đang dần xa – một của người đàn ông trong bộ quần áo bằng vải siu trắng và một của một cô gái cao, ốm. Tim Allerton ngồi bật dậy trong tư thế cảnh báo bất thường. “Người đàn ông nhỏ thó đó hả mẹ?” Anh hỏi một cách châm chọc.
“Đúng là người đàn ông nhỏ thó đó!”
“Ông ta làm cái quái gì ở đây vậy nhỉ?” Tim thắc mắc. Mẹ anh cười. “Con yêu, trông con có vẻ phấn khích nhỉ. Đàn ông tại sao luôn khoái những chuyện về tội phạm thế? Mẹ ghét truyện trinh thám và không bao giờ đọc chúng cả. Nhưng mẹ không nghĩ ông Poirot lại ở đây vì lý do sâu xa nào hơn. Ông ấy đã có nhiều tiền rồi và giờ là lúc hưởng thụ cuộc sống, mẹ thật sự ngưỡng mộ.”
“Thế thì phải xem xét cô gái xinh đẹp kia rồi.”
Bà Allerton hơi nghiêng đầu về một bên nhìn bóng hình phía xa của ông Poirot và người đi cùng.
Người thiếu nữ cao hơn Poirot khoảng bảy phân. Cô bước đi chậm rãi, không quá nhanh hay vung vẩy.
“Mẹ nghĩ cô ta trông được đấy chứ.” Bà Allerton nhận xét rồi liếc
qua Tim, cảm nhận được sự đồng tình của Tim, bà tiếp: “Còn hơn được nữa ấy chứ. Nhưng tiếc quá, trông có vẻ cô ấy là người nóng tính và u sầu.”
“Có thể đó chỉ là điệu bộ bên ngoài thôi mẹ.”
“Mẹ nghĩ đây là một cô gái trẻ ghê gớm. Nhưng trông cũng có nhan sắc đấy.”
Chủ đề của câu chuyện chuyển dần sang ông Poirot. Rosalie Otterbourne đang xoay vặn chiếc dù chưa mở, và những điệu bộ của cô càng khẳng định những điều Tim vừa nói. Cô vừa có vẻ u sầu vừa có vẻ nóng nảy. Hai hàng lông mày chau lại trông thật khó tính và vành môi của cô thì lại trễ xuống.
Họ rẽ trái ra khỏi cửa khách sạn và đi vào vùng bóng mát của khu vườn công cộng.
Hercule Poirot đang trò chuyện một cách lịch sự nhưng vẫn không quên thể hiện sự hài hước. Ông mặc một bộ vải siu trắng được ủi phẳng lì, cùng với chiếc nón kiểu panama, và mang theo một cây gậy màu mè có tay cầm giả ngọc thạch.
“… điều đó thật hấp dẫn tôi,” ông nói. “Những tảng đá đen trên đảo Elephantine, và mặt trời, và những chiếc thuyền nhỏ trên dòng sông. Thật là đáng sống để tận hưởng.”
Ông ngừng một lát rồi nói tiếp: “Cô không thấy vậy sao?” Rosalie Otterbourne trả lời ngắn gọn: “Tôi nghĩ là ổn. Nhưng Assuan là một nơi ảm đạm. Một nửa khách sạn còn trống, và mọi người thì cũng cỡ trăm tuô…” Cô bặm môi và ngừng lại. Hercule Poirot hấp háy mắt.
“Đúng là như vậy, còn tôi thì một chân đã đặt xuống lỗ rồi.” “Tôi… tôi không định ám chỉ ông,” người thiếu nữ nói. “Tôi xin lỗi. Nó nghe có vẻ thô lỗ phải không.”
“Không phải thế đâu. Cũng tự nhiên thôi khi cô muốn một người cùng lứa tuổi song hành cùng với mình. À, phải rồi, ít nhất cũng có một chàng thanh niên kia kìa.”
“Anh chàng luôn bám theo mẹ suốt ngày đó à? Tôi thích bà mẹ – nhưng người con thì trông chán ngấy – quá kiêu ngạo!” Poirot mỉm cười. “Còn tôi – trông có kiêu ngạo không?” “Ồ, không, tôi không nghĩ vậy đâu.”
Cô ấy hẳn nhiên có vẻ không mặn mà lắm – nhưng điều này cũng không làm Poirot phật ý. Ông điềm tĩnh trả lời: “Bạn thân nhất của tôi nói tôi rất tự kiêu đấy.”
“Thế à?” Rosalie mơ hồ đáp. “Tôi nghĩ hẳn ông phải có điều gì để tự hào mà. Tuy nhiên tôi lại không hứng thú với chuyện tội phạm một chút nào.”
Poirot nghiêm giọng đáp: “Tôi rất vui khi biết rằng cô không có bí mật đáng ngờ nào cả.”
Chỉ trong chốc lát, vẻ mật buồn rầu kia của người đi cùng bỗng biến sắc khi cô phóng nhanh một tia nhìn ngờ vực về phía ông. Poirot có vẻ như không nhận ra điều đó và tiếp tục: “Thưa cô, tôi không thấy mẹ cô hôm nay xuống dùng bữa trưa. Bà không khó chịu trong người chứ?”
“Nơi này không thích hợp với mẹ tôi. Tôi sẽ rất vui nếu chúng tôi rời khỏi đây.”
“Chúng ta đi cùng chuyến phải không? Cả hai chúng ta sẽ cùng đi lên Wadi Halfa và Cataract* thứ hai chứ?”
“Vâng, đúng vậy.”
Họ đi ra khỏi bóng mát của con đường hoang phế ven sông. Năm người bán chuỗi hạt, hai người bán bưu thiếp, ba người bán bọ hung bằng thạch cao*, hai thằng nhóc dắt lừa và một đám trẻ ranh đứng gần đó.
“Ông muốn mua các chuỗi hạt không? Rất tốt, rất rẻ…” “Cô ơi, bọ hung thạch cao không? Nhìn này – bọ hung chúa – rất may mắn đó…”
“Ông xem nè – đá thật đấy. Rất tốt, rất rẻ…”
“Ông muốn cưỡi lừa không? Con lừa này ngon lắm. Con lừa Whiskey và Soda nè ông…”
“Ông muốn lên mỏ đá granite không? Con lừa này ngon lắm. Các con lừa khác thì í ẹ, con lừa kia hay ngã lắm…” “Cô ơi bưu thiếp nè – rất rẻ – rất đẹp…”
“Cô ơi… chỉ có mười pi-át* thôi – rất rẻ – viên đá màu ngà…” “Cây gậy chống này rất tốt – bằng đá hổ phách…”
“Đi thuyền không ông? Tôi có thuyền tốt lắm…”
“Cô về lại khách sạn hả? Con lừa thượng hạng này…” Hercule Poirot xua tay để thoát khỏi đám đông ồn ào đó. Còn Rosalie thì lách người qua khỏi đám đông như người mộng du.
“Tốt nhất là giả vờ như người câm người điếc.” Cô nhận định. Nhóm trẻ ranh du thủ du thực bên cạnh lầm bầm buồn rầu: “Cho tiền kẻ nghèo khó đi? Cho tiền cho kẻ khó khăn đi? Híp híp
hu – ra – vậy mới tốt, vậy mới hay…”
Đám người lô nhô trước mắt họ trong những mảnh quần áo rách bươm nhiều màu. Họ đeo bám rất sát. Những kẻ khác lùi lại và tiếp tục tấn công các vị khách mới ở góc đường kế tiếp.
Và bây giờ Poirot và Rosalie chạy thục mạng giữa hai dãy cửa hàng – nơi phát ra những giọng nói đầy ngọt ngào, lôi kéo… “Ghé hàng em anh ơi?”, “Anh xem con cá sấu màu ngà này đi?”, “Anh chưa ghé cửa hàng em lần nào phải không? Để em cho anh xem những mặt hàng rất đẹp nhé.”
Họ bước vào cửa hàng thứ năm, Rosalie mua lấy mấy cuộn phim chụp ảnh – đây là mục tiêu của chuyến đi dạo. Sau đó họ một lần nữa lại bước ra khỏi cửa hàng và tiến về phía bờ sông.
Một chiếc tàu hơi nước vừa cập bờ. Cả Poirot và Rosalie đều thích thú ngắm nhìn đám hành khách.
“Đông người nhỉ?” Rosalie bình luận.
Và cô ngoái đầu nhìn khi Tim Allerton cũng vừa bước lên, hai ánh mắt họ chợt chạm nhau. Anh dù đang bước khá nhanh nhưng trông có vẻ hụt hơi.
Cả hai đứng lại đó trong ít phút, sau đó Tim cất tiếng. “Đám đông vẫn kinh khủng như mọi ngày,” anh nói một cách giễu cợt, ám chỉ những hành khách đang lên bờ.
Rosalie đồng ý: “Họ vẫn thường ồn ào như thế mà.” Cả ba người đứng đấy, ngỡ ngàng quan sát đám đông. “Xem kìa!” Giọng Tim chợt trở nên phấn khích. “Tôi dám chắc
đó là Linnet Ridgeway.”
Nếu thông tin ấy làm Poirot đứng lặng thì nó lại lay động sự tò mò của Rosalie. Cô rướn người về phía trước và bộ mặt sầu thảm của cô đã biến mất ngay lập tức khi cô cất tiếng hỏi: “Đâu, đâu? Có phải người mặc áo trắng đó không?”
“Đúng, đi cùng với người đàn ông cao to đó. Họ sẽ lên bờ ngay thôi. Tôi nghĩ anh ta là chú rể mới. Tự nhiên lại không nhớ được tên của anh ta.”
Rosalie trả lời: “Doyle, Simon Doyle. Mọi thứ đều đưa tin trên báo chí đó. Nhưng cô ấy nhẹ nhàng đi qua dư luận nhỉ?” Tim vui vẻ trả lời: “Đơn giản vì cô ấy là cô gái giàu nhất nước Anh.”
Ba người lặng im nhìn dõi theo các hành khách bước lên bờ. Poirot thích thú nhìn nhân vật chính của đoạn đối thoại vừa rồi và lầm bầm: “Cô ấy đẹp thật.”
Rosalie cay đắng đáp: “Một số người có tất cả mọi thứ.” Khi cô nhìn người con gái kia bước lên cầu tàu, khuôn mặt cô chợt hiện lên một sự đố kị khó tả.
Linnet Doyle sở hữu dáng vẻ của người đang bước vào trung tâm sân khấu đương đại. Cô có một cái gì đó của một diễn viên nổi tiếng. Cô bị soi mới, được ngưỡng mộ, và là trung tâm của mọi sự chú ý bất kể nơi đâu cô đặt chân đến.
Linnet cảm nhận được những ánh mắt đang nhắm chằm chặp vào cô – đồng thời cũng vờ như không biết gì về chúng: những điều đó là một phần của cuộc đời cô.
Linnet bước lên bờ như thể đang diễn một vai nào đó mà thậm chí ngay cả cô cũng không biết. Một cô dâu nổi tiếng, xinh đẹp, giàu có đang đi nghỉ kì trăng mật. Cô quay sang người đàn ông bên cạnh mỉm cười và nhẹ nhàng nói gì đó. Anh trả lời, và giọng nói ấy đã làm Hercule Poirot chú ý. Ông nhướng mắt lên và nhíu mày lại.
Cặp đôi đi ngang qua gần ông. Ông nghe Simon Doyle nói: “Em yêu, chúng ta sẽ thử và dành thời gian cho nó. Nếu em muốn, chúng ta có thể ở lại đây một hoặc hai tuần cũng được.”
Anh quay mặt lại nhìn cô một cách vui vẻ, trìu mến, và có phần hơi khúm núm.
Poirot lướt mắt nhìn khắp một lượt người thanh niên – vai rộng bè, gương mặt rám nắng, đôi mắt xanh thẫm, và nụ cười như trẻ con.
Sau khi đôi kia đi ngang qua, Tim liền nói: “Tên khốn may mắn đó. Tự nhiên ngon lành vớ được một người vợ có tài sản thừa kế kếch xù!”
“Trông họ thật hạnh phúc,” Rosalie thốt lên với giọng đầy ganh tị. Đột nhiên cô nói thêm, nhưng quá nhỏ đến nỗi Tim không nghe thấy. “Thật không công bằng chút nào.” Nhưng Poirot lại nghe được. Ông cau mày khó hiểu, và chỉ liếc nhanh qua người thiếu nữ.
Tim nói: “Tôi phải đi gom vài thứ cho mẹ tôi đây.” Và anh nhấc mũ lên rồi rời gót.
Poirot và Rosalie chầm chậm quay lại con đường cũ trở về khách sạn và liên tục khoa tay từ chối những lời mời mọc của
đám người cho thuê lừa.
“Thế là không công bằng hả cô?” Poirot hỏi nhẹ nhàng. Cô gái đỏ mặt tức giận. “Tôi không hiểu ý ông.”
“Tôi chỉ lặp lại những gì cô vừa mới nói thật nhỏ thôi. Đúng thế, cô đã nói như vậy.”
Rosalie Otterbourne nhún vai.
“Dường như có quá nhiều thứ chỉ dành cho một người. Tiền bạc, sắc đẹp, vóc dáng tuyệt vời và…”
Cô ngừng lại và Poirot tiếp lời: “Và tình yêu phải không? Ừ? Và tình yêu? Nhưng cô không biết là có thể cô ấy kết hôn được là nhờ tiền thì sao!”
“Thế ông không thấy cách nhìn mà anh ta dành cho cô ấy ư?” “Ồ, vâng, thưa quý cô. Tôi thấy hết tất cả – nhưng tôi còn thấy những thứ mà cô không thấy nữa cơ.”
“Cái gì vậy?”
Poirot từ tốn trả lời: “Thưa cô, tôi thấy những đường lằn đen dưới mắt của một người phụ nữ. Tôi thấy một bàn tay xiết mạnh cây dù đến nỗi nó trắng bệch ra…”
Rosalie chằm chằm nhìn ông.
“Ý ông là gì đây?”
“Ý tôi là không phải vàng nào cũng lấp lánh đâu. Có nghĩa là, mặc dù cô gái kia giàu có, đẹp và dễ thương, nhưng có điều gì đó không ổn. Và tôi còn biết một vài điều khác nữa.”
“Vâng?”
Poirot trả lời một cách nghiêm nghị: “Tôi biết, tôi đã nghe giọng
nói đó ở đâu đó rồi, ở một thời điểm nào đó – giọng nói của ông Doyle – và ước gì tôi có thể nhớ ra là đã nghe nó ở đâu.” Nhưng Rosalie không nghe thấy. Cô đang đứng lặng xem xét các hình thù vằn vện trên cát mềm được tạo ra bởi mũi dù. Bất thần cô thốt lên một cách giận dữ: “Tôi thật đáng ghét, thật đáng ghê tởm. Tôi đúng là một con quái vật. Tôi chỉ muốn xé toác quần áo và chà nát gương mặt xinh xắn, kiêu ngạo và tự tin của cô ta thôi. Tôi chỉ là một con mèo đầy sự ghen tị – nhưng đó chính là những gì tôi cảm nhận được. Cô ta thật thành công, đĩnh đạc, và tự tin.” Hercule Poirot có phần kinh ngạc trước sự bùng nổ đó. Ông cầm lấy tay cô và lắc nhẹ.
“Tiếp đi – cô sẽ thấy khá hơn khi nói ra được những điều đó!” “Tôi ghét cô ta! Tôi chưa bao giờ ghét ai dữ như thế ngay từ cái nhìn đầu tiên.”
“Tuyệt vời!”
Rosalie nhìn ông nghi hoặc. Rồi miệng cô chúm lại và cười phá lên.
Poirot đáp: “Tốt!” và cũng phá lên cười.
Sau đó họ vui vẻ quay về khách sạn.
“Tôi phải đi kiếm mẹ đây.” Rosalie cho hay khi họ bước vào cái sảnh mát lạnh của khách sạn.
Poirot nhìn qua phía bên kia của khu vườn hướng ra sông Nile. Ở đấy có những bộ bàn uống trà nhưng bây giờ hẵng còn sớm. Ông đứng ngắm sông một lát, rồi bước xuống khu vườn. Một vài người đang chơi quần vợt dưới ánh nắng chói chang.
Ông nhìn họ một lúc, rồi thả bộ xuống con đường dốc. Khi ngồi trên băng ghế nhìn ra sông Nile, chính nơi đây ông đã nhìn thấy người thiếu nữ ở Chez Ma Tante. Ngay lập tức ông nhận ra cô. Gương mặt cô, như ông đã nhìn thấy đêm hôm đó, đã khắc sâu vào trong trí nhớ của ông. Nhưng hôm nay trông cô hơi khác một chút: xanh xao hơn, ốm hơn, và những nếp nhăn trên khuôn mặt cho biết có sự lo lắng và đau khổ tột cùng.
Rồi ông bước lùi lại. Cô không nhận ra ông, và ông quan sát cô một lúc mà không gây cho cô nghi ngờ nào về sự hiện diện của mình. Đôi chân nhỏ nhắn của cô bước đi một cách vô hồn. Đôi mắt cô, chất chứa một ngọn lửa cháy âm ỉ, hiện ra một sự chịu đựng thảm hại kì quặc. Cô đang nhìn những con thuyền màu trắng giăng buồm xuôi dòng sông Nile.
Một gương mặt – và một giọng nói. Ông đã nhớ ra gương mặt của cô gái và giọng nói vừa mới nghe lúc nãy, giọng nói của tân giai lang…
Và ngay lúc ông đứng đó quan sát người thiếu nữ thất thần kia, cảnh tiếp theo của tấn thảm kịch đã diễn ra.
Những giọng nói vang lên. Người thiếu nữ trên băng ghế đứng dậy và câu chuyện bắt đầu. Linnet Doyle và chồng đang đi xuống con đường. Giọng Linnet thật hạnh phúc và tự tin. Vẻ căng thẳng và cứng nhắc đã biến mất, Linnet đang say sưa với hạnh phúc.
Cô gái đứng ở đấy tiến lên phía trước. Và hai người kia chợt khựng lại.
Jacqueline de Bellefort cất tiếng: “Chào Linnet. Ô, cậu cũng ở đây à. Dường như chúng ta không ngừng đụng độ nhau nhỉ. Chào
Simon, anh khỏe không?”
Linnet Doyle lùi lại, dựa vào hòn đá và bật khóc. Gương mặt điển trai của Simon Doyle bỗng chốc nổi cơn thịnh nộ. Anh bước tới như thể muốn tấn công người con gái mảnh khảnh kia.
Bằng một động tác lắc đầu nhanh như cắt, cô ra hiệu sự có mặt của người lạ. Simon quay người lại và thấy Poirot. Anh lúng túng: “Xin chào, Jacqueline; chúng tôi không nghĩ lại gặp em ở đây.” Câu ấy được thốt ra thật không thuyết phục.
Cô gái gầy ốm kia mím môi hỏi: “Thật là một sự ngạc nhiên phải không?” Rồi cô đi lên.
Poirot tế nhị đi về hướng ngược lại. Khi vừa rời bước, ông nghe thấy Linnet Doyle thốt lên: “Chúa ơi, Simon! Simon, chúng ta sẽ làm gì đây?”
3
BỮA TỐI ĐÃ KẾT THÚC. Hiên ngoài khách sạn Cataract được thắp sáng nhẹ nhàng. Những chiếc bàn nhỏ nhắn trước khách sạn gần như được lấp đầy bởi những người khách ngụ tại khách sạn.
Simon và Linnet Doyle bước ra, một người đàn ông cao, tóc nâu, nổi bật với gương mặt nhẵn nhụi mang đậm nét Mỹ bước cạnh họ. Khi họ còn lưỡng lự đứng ở cửa ra vào, Tim Allerton đã đứng dậy và bước tới.
Anh niềm nở nói với Linnet: “Tôi chắc là cô không nhớ tôi, nhưng tôi là anh họ của Joanna Southwood.”
“Dĩ nhiên – thật thế sao! Anh là Tim Allerton. Đây là ông xã của tôi.” Một giọng nói đầy sự e thẹn, tự hào hay xấu hổ nhỉ? “Và đây là người quản lý đến từ Mỹ của tôi, ông Pennington.”
Tim đáp lời: “Cô nhất định phải gặp mẹ tôi mới được.” Vài phút sau họ đã ngồi chung với nhau – Linnet ngồi ở một góc, Tim và Pennington ngồi ở hai bên cô, cả hai đều nói chuyện với cô, và tranh giành sự chú ý của cô. Còn bà Allerton thì nói chuyện với Simon Doyle.
Cánh cửa chợt chuyển động. Một sự căng thẳng bất ngờ đến với người thiếu nữ xinh đẹp ngồi ngay góc giữa hai người đàn ông. Rồi khi một người đàn ông nhỏ thó bước ra và đi qua sân hiên, sự
căng thẳng trong phút chốc được giải tỏa.
Bà Allerton bình luận: “Cháu không phải là người nổi tiếng duy nhất ở đây đâu. Người đàn ông nhỏ thó đó là Hercule Poirot đấy.” Bà nói thật nhỏ nhẹ, vượt qua sự tế nhị thông thường để xóa khoảng im lặng kì lạ, nhưng Linnet có vẻ sững sờ trước thông tin đó.
“Hercule Poirot ư? Dĩ nhiên là cháu đã nghe qua tên ông ấy…” Cô dường như chìm trong sự lơ đãng. Hai người đàn ông ở bên cạnh cô ngay lập tức bị cụt hứng.
Lúc này Poirot đã đi xuống đến sân hiên, nhưng ông đột nhiên chú ý đến một tiếng gọi.
“Ngồi xuống đây, ông Poirot. Thật là một buổi tối tuyệt đẹp!” Ông gật đầu.
“Dĩ nhiên, thưa bà, đúng là tối nay đẹp thật.”
Ông cười một cách lịch sự đáp lại bà Otterbourne. Bộ đồ đen kết hợp với chiếc khăn xếp trông thật buồn cười! Bà Otterbourne tiếp tục cao giọng than vãn: “Hôm nay có nhiều người nổi tiếng đến đây nhỉ? Tôi hi vọng chúng ta sẽ thấy việc này xuất hiện sớm trên các báo. Những người đẹp, tiểu thuyết gia nổi tiếng…”
Bà ngừng lời với nụ cười khiêm tốn giả tạo.
Poirot cảm nhận, hơn là nhìn thấy, một thiếu nữ với vẻ khó chịu buồn rầu đang ngồi đối diện ông, cô gái mang dáng vẻ tần ngần, chiếc miệng trễ xuống trông còn sầu thảm hơn trước.
“Có phải bà đang sáng tác một tiểu thuyết không, thưa bà?” Ông hỏi.
Bà Otterbourne lại cười một cách tụ tin.
“Hiện giờ tôi thấy lười lắm. Tôi thật sự phải vật lộn đấy. Độc giả của tôi đang mất hết cả kiên nhẫn rồi – và cả cái nhà xuất bản của tôi nữa, trời ơi! Cứ phải gửi lần lần! Thậm chí phải gửi xuyên đại dương luôn!”
Một lần nữa ông cảm nhận người thiếu nữ kia xê dịch trong bóng tối.
“Thật tình với ông, ông Poirot, tôi ở đây để trải nghiệm thực tế. Tuyết trên Sa mạc là tên quyển tiểu thuyết mới của tôi đó. Mạnh mẽ – khêu gợi. Tuyết – trên sa mạc – sẽ lập tức tan chảy ngay trong nhịp thở đam mê đầu tiên.”
Rosalie liền đứng dậy, lầm bầm điều gì đó, và đi xuống khu vườn tối om.
Bà Otterbourne vừa ve vẩy chiếc chăn vừa nói tiếp: “Người ta phải mạnh mẽ. Những con người cá tính – đó là những gì quyển sách tôi đề cập – tất cả đều quan trọng. Thư viện ngăn cấm cũng không sao! Tôi chỉ nói sự thật thôi. Tình dục – à! Ông Poirot – tại sao mọi người lại sợ tình dục chứ? Đó là sự xoay vần của vũ trụ! Mà ông đã đọc sách của tôi chưa nhỉ?”
“Ố la la! Xin bà hiểu cho, tôi không đọc nhiều tiểu thuyết lắm. Công việc của tôi…”
Bà Otterbourne quả quyết: “Tôi sẽ đưa cho ông quyển Dưới bóng cây sung. Thể nào ông cũng sẽ thấy nó rất quan trọng, mặc dù hơi cường điệu – nhưng đó là thực tế đấy!”
“Bà thật tốt quá. Tôi sẽ hứng thú đọc nó cho mà xem.”
Bà Otterbourne im lặng một lát. Bà liên tục mân mê chuỗi hạt quanh cổ. Rồi bà lắc lư người qua lại.
“Có thể – tôi sẽ chạy đi lấy nó cho ông ngay bây giờ.” “Ồ, thưa bà, không cần phiền bà thế đâu. Sau này…” “Không, không. Không phiền gì đâu.” Nói rồi bà đứng dậy. “Tôi sẽ chỉ cho ông…”
“Có chuyện gì vậy mẹ?”
Rosalie đột nhiên xuất hiện bên cạnh bà.
“Không có gì đâu, con yêu. Mẹ tính lên lấy quyển sách cho ông Poirot đây.”
“Quyển Cây sung phải không? Để con lấy cho.”
“Con không biết nó ở đâu đâu. Để mẹ đi lấy.”
“Con biết chứ.”
Nói rồi người con gái bước nhanh qua sân hiên và vào khách sạn.
“Chúc mừng bà có một cô con gái thật dễ thương,” Poirot trả lời một cách cung kính.
“Rosalie đó hả? Đúng, đúng – con bé thật dễ thương. Nhưng nó cũng rất khó chịu. Và không có sự cảm thông nào cho sự yếu đuối. Nó luôn nghĩ cái gì nó cũng biết rõ hết. Nó còn tưởng nó biết rõ về sức khỏe của tôi hơn tôi chứ…”
Poirot ra hiệu cho một người phục vụ bàn vừa mới đi ngang qua.
“Bà dùng rượu chứ? Rượu Chartreuse nhé? Hay là một ly kem bạc hà?”
Bà Otterbourne lắc đầu từ chối.
“Không, không. Tôi kiêng rượu. Ông có thể nhận thấy tôi không uống gì khác ngoài nước lọc – hoặc có thể là nước chanh. Tôi không thể chịu nổi mùi rượu.”
“Thế thì để tôi gọi cho bà một ly nước chanh nhé?” Sau đó ông gọi một ly chanh vắt và một ly rượu ngọt. Cánh cửa lại chuyển động. Rosalie bước vào, tiến về phía họ với một quyển sách trong tay.
“Con đây rồi.” Giọng người mẹ thể hiện thật khác thường. “Ông Poirot vừa mới gọi cho mẹ một ly nước chanh đó.” “Thế cô dùng gì, thưa cô?”
“Không cần đâu.” Rồi bất chợt nhận ra sự cộc lốc vô lý của mình, Rosalie bèn chữa lỗi: “Không cần đâu, cảm ơn ông.” Poirot cầm lấy quyển sách bà Otterboume đưa. Quyển sách vẫn còn vỏ bọc bên ngoài với hình minh họa một quý bà sặc sỡ vui vẻ, với kiểu tóc ngắn và những móng tay son đỏ chót, đang ngồi trên một mảnh da hổ trong trang phục của Eva. Phía trên cô gái ấy là một cái cây, với những tán lá sồi, đang mang vác những quả táo to rực thứ màu sắc lạ lùng.
Quyển sách mang tựa Dưới bóng cây sung của tác giả Salome Otterbourne. Bên trong là lời giới thiệu của nhà xuất bản. Đó là lời tâng bốc cho sự dũng cảm và hiện thực về đòi sống tình yêu của người phụ nữ hiện đại. “Không sợ hãi, không bị bó buộc, rất hiện thực” là những tính từ miêu tả quyển sách này.
Poirot cúi đầu cung kính: “Thật là vinh hạnh cho tôi, thưa bà.”
Khi ông ngẩng đầu lên, ánh mắt ông gặp phải ánh mắt của con gái tác giả. Và ông cảm thấy không được tự nhiên. Ông ngạc nhiên và nhận ra nỗi đau thống khổ từ cặp mắt đó.
Đúng lúc ấy, thức uống được đưa lên và bầu không khí hốt nhiên trở nên vui vẻ.
Poirot mở mắt kính và nói một cách lịch sự.
“Vì sức khỏe của bà – thưa bà.”
Bà Otterbourne khuấy ly nước chanh và thốt lên: “Tỉnh cả người – ngon thật!”
Rồi sự im lặng bao trùm cả ba người. Họ nhìn xuống những tảng đá bóng loáng trên sông Nile. Ở chúng có nét gì đó thật hấp dẫn dưới ánh trăng vằng vặc. Trông chúng giống như những con quái vật thời tiền sử trồi một nửa thân mình lên mặt nước. Một làn gió nhẹ đột ngột thổi tới rồi cũng bất ngờ biến mất. Lúc này, trong không khí như có sự chờ đợi.
Hercule Poirot chuyển điểm nhìn ra phía sân hiên cùng những con người ở ngoài ấy. Không biết ông có lầm chăng, hay ở đấy cũng tồn tại sự chờ mong? Nó giống như giây phút người ta mong đợi sự xuất hiện của nữ diễn viên chính trên sân khấu vậy.
Vào đúng ngay giây phút ấy, cánh cửa lại chuyển động một lần nữa. Không khí tràn ngập sự nghiêm trang. Mọi người ngưng nói chuyện và tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía cánh cửa.
Một cô gái gầy guộc, đen nhẻm trong chiếc áo đầm màu rượu bước vào. Cô dừng lại quan sát, rồi đắn đo bước về phía sân bên ngoài, đoạn ngồi xuống một chiếc bàn trống. Không có biểu hiện gì nổi bật ở bên ngoài về cách sống của cô gái, nhưng bằng cách
nào đó cũng thể hiện hơi hướm của việc trình diễn trên sân khấu. Bà Otterbourne vấn lại chiếc khăn xếp trên đầu và nói: “Chà. Cô gái đó nghĩ mình là ai chứ!”
Poirot không trả lời mà vẫn tiếp tục chú ý. Cô nàng kia đã chọn được một chỗ ngồi mà cô có thể quan sát được Linnet Doyle. Poirot nhìn ra là Linnet Doyle đang chồm về phía trước nói gì đấy, lát sau cô đứng dậy và chuyển chỗ ngồi sang hướng đối diện khi nãy.
Poirot gật đầu một cách suy tư.
Khoảng năm phút sau, cô gái kia cũng chuyển chỗ ngồi nhìn ra ngoài sân. Cô hút thuốc và cười một mình, tỏ vẻ mãn nguyện. Nhưng, có vẻ vô ý, ánh mắt trầm tư của cô lại luôn hướng về phía vợ của Simon Doyle.
Mười lăm phút sau, đột nhiên Linnet đứng dậy và quay về khách sạn. Ngay lập tức, chồng cô tiếp bước theo sau. Jacqueline de Bellefort mỉm cười và xoay ghế. Cô đốt thêm một điếu thuốc và nhìn ra sông Nile. Rồi cô lại tiếp tục tự cười với chính mình.
4
“ÔNG Poirot.”
Tiếng gọi làm Poirot giật mình, ông đang ngồi một mình ở ngoài sân, sau khi mọi người đã đi hết. Ông giật mình thoát khỏi sự tĩnh lặng khi đang chú mục vào những hòn đá đen láng lưỡng bên sông.
Đó là một giọng nói tử tế, tự tin, một giọng nói cuốn hút nhưng có phần kiêu hãnh.
Hercule Poirot đứng dậy, nhìn vào đôi mắt khẩn nài của Linnet Doyle. Cô quấn chiếc khăn nhung tím đắt tiền quanh chiếc đầm sa-tanh trắng; trông Linnet bội phần dễ thương và lộng lẫy hơn những gì Poirot mường tượng.
Linnet hỏi nhưng cũng tự trả lời: “Ông là Hercule Poirot?” “Có tôi đây, thưa cô.”
“Có lẽ ông đã biết tôi là ai rồi?”
“Vâng, thưa cô. Tôi có nghe tên cô. Và tôi biết rõ cô là ai.” Linnet gật đầu, đó chính là điều cô mong đợi. Linnet tiếp tục nói với giọng yêu cầu: “Ông đi với tôi đến phòng chơi bài được không, ông Poirot? Tôi rất muốn nói chuyện với ông.”
“Rất sẵn lòng, thưa cô.”
Cô đi trước vào khách sạn và ông theo sau. Cô dẫn ông đến một phòng chơi bài không có người rồi yêu cầu ông đóng cửa lại. Sau đó cô ngồi xuống một chiếc bàn và ông ngồi phía đối diện cô.
Cô trực tiếp đi vào vấn đề một cách không do dự. Giọng cô tuôn chảy.
“Tôi đã nghe rất nhiều về ông, ông Poirot, và tôi biết ông là một người rất thông minh. Cũng thật tình cờ là hiện giờ tôi rất cần một người giúp đỡ mình – và tôi nghĩ ông có thể làm được việc này.”
“Cám ơn ý tốt của cô, nhưng cô thấy đấy, tôi đang đi nghỉ, và khi tôi đi nghỉ thì tôi không nhận làm vụ nào cả.”
“Nhưng ông có thể sắp xếp được mà.”
Câu nói ấy thật sự không ý ra lệnh – chỉ mang sự im lặng tự tin của người thiếu nữ trẻ luôn biết cách sắp xếp mọi việc theo ý mình.
Linnet Doyle tiếp tục: “Thưa ông Poirot, tôi hiện là mục tiêu của một vụ khủng bố không thể chịu đựng nổi nữa. Việc khủng bố này phải chấm dứt ngay! Tôi muốn đi báo cảnh sát, nhưng chồng tôi lại nghĩ cảnh sát không thể giúp gì được trong vụ này.”
“Có thể – cô có thể giải thích rõ thêm được không?” Poirot lịch sự đáp lại.
“Ô, tất nhiên là thế rồi. vấn đề hết sức đơn giản.”
Vẫn không ngập ngừng, Linnet Doyle đúng là một người có đầu óc rõ ràng. Cô chỉ ngừng trong giây lát rồi tiếp tục trình bày sụ việc một cách cô đọng nhất trong khả năng cho phép.
“Trước khi tôi gặp chồng tôi, anh ấy đã đính hôn với de Bellefort, một người bạn của tôi. Chồng tôi sau đó đã bỏ đính ước với cô ấy – dù gì đi nữa thì họ cũng không hợp nhau. Rất tiếc phải nói là cô ấy đã quá nặng nề về chuyện này… Tôi rất tiếc về điều này – nhưng những việc như thế cũng không giúp được gì cả. De Bellefort đã đưa ra – vâng, những lời đe dọa – mà tôi cũng không chú ý lắm, tôi cho rằng cô ấy không cố tình làm như vậy. Rồi sau đó, cô ấy đã làm những trò bất thường là đi theo chúng tôi đến bất cứ nơi đâu chúng tôi tới.”
Poirot nhướng mày.
“À – giống một vụ trả thù không bình thường nhỉ.” “Thật không bình thường chút nào – rất lố bịch! Và cũng rất phiền phức.”
Cô bặm môi lại. Còn Poirot gật đầu đồng ý.
“Vâng, tôi có thể hình dung ra được. Cô đang đi hưởng tuần trăng mật phải không?”
“Đúng như vậy. Chuyện này xảy ra – lần đầu tiên – tại Venice. Cô ấy cũng ở đó – tại cửa hàng Danielli. Tôi nghĩ đó chỉ là sự tình cờ. Tôi có hơi bối rối một chút, nhưng tất cả chỉ có thế. Rồi sau đó chúng tôi lại thấy cô ấy trên thuyền tại Brindisi. Vợ chồng tôi hiểu là de Bellefort đang đi Palestine. Và chúng tôi đã nghĩ rằng cô ấy ở lại trên thuyền. Nhưng… nhưng khi chúng tôi đến Mena House thì cô ấy cũng ở đó… đang đợi chúng tôi.”
Poirot gật đầu và hỏi tiếp: “Và bây giờ thì sao?”
“Chúng tôi đi thuyền lên thượng nguồn sông Nile. Tôi cứ đinh ninh rằng sẽ gặp cô ấy ở trên thuyền, nhưng rồi không thấy và tôi
nghĩ rằng de Bellefort đã chấm dứt cái trò trẻ con của mình. Ai dè khi chúng tôi vừa tới đây – cô ấy – cô ấy đã ở đây chờ.” Poirot nhìn Linnet thật kỹ. Cô vẫn điềm tĩnh, song những khớp trên mu bàn tay lại trắng bệch ra vì bàn tay cô siết mạnh vào cạnh bàn.
Ông cất tiếng hỏi: “Và cô sợ những việc như thế lại tiếp diễn?” “Vâng.” Cô ngưng lại một chút rồi nói tiếp. “Dĩ nhiên là chuyện này thật nhảm nhí! Jacqueline tự làm bản thân mình trở nên lố bịch. Tôi thật ngạc nhiên khi cô ấy lại không có lòng tự trọng như thế.”
Poirot phác một cử chỉ nhẹ nhàng.
“Thưa cô, có những lúc lòng tự trọng và kiêu hãnh rồi cũng lên đường! Có những cảm xúc khác mãnh liệt hơn.”
Linnet trở nên nóng nảy: “Vâng, có thể. Nhưng cô ấy hi vọng sẽ được gì từ những tất cả điều này chứ?”
“Thưa cô, không phải lúc nào cũng là câu hỏi sẽ được gì đâu.” Trong âm điệu của viên thám tử có chút gì đó khiến Linnet không đồng tình. Cô đỏ mặt và đáp nhanh: “Ông nói đúng. Ngoài điểm này cần phải tìm hiểu xem động cơ là gì nữa. Điểm mấu chốt của vấn đề là phải dừng lại được việc này.”
“Thế cô đề nghị xử lý việc này như thế nào?” Poirot hỏi. “Vâng – theo lẽ thì tôi cùng chồng không muốn tiếp tục bị làm phiền nữa. Phải có sự can thiệp của pháp luật về chuyện này,” cô nóng nảy trả lời.
Poirot quan sát cô thật kỹ và hỏi lại: “Thế cô ấy có đe dọa cô
bằng lời nói trước mặt mọi người không? Có sử dụng những lời lẽ xúc phạm không? Hay có cố làm hại đến thân thể cô không?” “Không.”
“Thế thì, thưa cô, thật lòng tôi không thấy cô có thể làm gì hơn được. Nếu nó là niềm vui đi du lịch đó đây của một thiếu nữ trẻ, và những nơi đó cũng là nơi mà cô và chồng đi tới – tốt thôi – đó là gì vậy? Không khí là của chung mọi người mà! Không có vấn đề cô ấy xâm phạm sự riêng tư của cô phải không? Chuyện như thế này cũng thường xảy ra mà?”
“Ý ông là tôi không thể làm được gì sao?” Linnet vẫn còn hoài nghi.
Poirot từ tốn đáp: “Không thể làm được gì, như những gì tôi thấy. Cô de Bellefort vẫn ở trong giới hạn của cô ấy.” “Nhưng – nhưng vậy thật là mất trí! Thật không thể chịu được khi tôi phải bỏ qua chuyện này!”
Poirot đáp lại khô khốc: “Thưa cô, tôi rất thông cảm – đặc biệt khi tôi hình dung ra là cô hiếm khi nào phải bỏ qua chuyện gì.” Linnet cau mày.
“Chắc chắn phải có cách nào để ngăn việc này lại chứ,” cô lầm bầm.
Poirot nhún vai và đề nghị: “Cô có thể rời khỏi đây và đi đến nơi nào đó.”
“Cô ấy lại theo chân thôi!”
“Đúng – rất có thể.”
“Thật là vô lý!”
“Chính xác.”
“Dù thế nào đi nữa, tại sao tôi – chúng tôi – phải chạy trốn chứ? Cho dù có như thế nào…”
Cô ấy ngừng lại.
“Chính xác, thưa cô. Cho dù thế nào…! Mọi thứ đều như thế, phải không?”
Linnet ngẩng đầu lên nhìn ông.
“Ý ông là sao?”
Poirot đổi giọng, đổ người về phía trước, giọng rất tự tin và dễ thương, ông lịch sự trả lời: “Sao cô phải bận tâm nhiều vậy, thưa cô?”
“Tại sao ư? Vì chuyện này thật vô lối! Tôi cảm thấy khó chịu vô cùng! Tôi đã nói với ông tại sao rồi mà!”
Poirot lắc đầu.
“Cô không nói hết tất cả mọi việc.”
Linnet hỏi lại lần nữa: “Ý ông là sao?”
Poirot ngả người về phía sau, khoanh tay lại và nói một cách lãnh đạm.
“Cô hãy nghe tôi nói đây, thưa cô. Tôi sẽ quay lại quá khứ một chút nhé. Cách đây khoảng một hoặc hai tháng, tôi đã dùng bữa tối tại một nhà hàng Ở London. Ngay cạnh bàn của tôi có một cặp thanh niên nam nữ. Họ trông rất vui vẻ, và hình như đang yêu nhau. Họ rất tự tin khi nói về tương lai. Thật ra thì những gì tôi nghe thấy không có ý nghĩa gì với tôi cả; họ có vẻ không bận tâm xem những ai nghe thấy họ và những ai không nghe thấy. Tấm
lưng của chàng trai hướng về phía tôi, nhưng tôi thấy được gương mặt của cô gái. Khuôn mặt ấy trông thật mãnh liệt. Cô ấy đang yêu – bằng cả trái tim, linh hồn, và thể xác của mình – cô ấy không phải là típ người yêu hời hợt và yêu nhiều lần đâu. Đối với cô gái ấy, mọi chuyện thật rõ ràng, hoặc là yêu, hoặc là không yêu. Hai người họ đã đính hôn và chuẩn bị cưới; đó là những gì tôi nghe được; và họ cũng thảo luận những nơi họ sẽ đến trong kỳ trăng mật. Họ dự định đi Ai Cập.”
Ông dừng lại. Linnet liền hỏi dồn: “Rồi sao?”
Poirot tiếp tục: “Đó là một, hai tháng về trước, nhưng gương mặt của cô gái đó thì tôi không thể quên được. Chắc chắn rằng tôi sẽ nhận ra gương ngay mặt ấy khi tôi gặp lại. Và tôi cũng nhớ cả giọng nói của anh chàng đó nữa. Giờ thì có lẽ cô cũng đã đoán ra thời khắc tôi lại một lần nữa nhìn thấy gương mặt đó và nghe giọng nói ấy. Ngay tại đây, ở Ai Cập này. Chàng trai đang đi kì trăng mật, đúng, nhưng lại là với một người phụ nữ khác.”
Linnet hỏi tới: “Vậy là sao? Tôi đã nói là chỉ những sự thật thôi mà.”
“Sự thật – đúng đấy.”
“Rồi tiếp sau đó như thế nào?”
Poirot chậm rãi nói tiếp: “Trong nhà hàng, cô gái đã đề cập đến một người bạn – một người bạn mà cô ấy rất tin tưởng rằng sẽ không làm cho mình thất vọng. Tôi nghĩ người bạn đó chính là cô.”
“Vâng. Tôi đã kể với ông rằng chúng tôi từng là bạn kia mà.” Linnet đỏ mặt.
“Và cô ấy tin tưởng cô?”
“Đúng vậy.”
Linnet cắn môi ngập ngừng trong giây lát; có vẻ như Poirot không muốn nói tiếp, rốt cuộc, chính cô gái là người đã phá vỡ bầu không khí yên lặng: “Hiển nhiên mọi thứ đã không như ý muốn. Nhưng thưa ông Poirot, những sự việc như thế vẫn diễn ra đấy thôi.”
“À! Vâng, nó xảy ra chứ, thưa cô.” Ông ngưng một lát rồi tiếp. “Cô có đi lễ nhà thờ không?”
“Có.” Linnet có vẻ hoang mang.
“Thế hẳn cô đã nghe những đoạn Kinh thánh được đọc trong nhà thờ rồi. Cô có nghe đoạn nói về vua David, một người giàu có với nhiều gia súc, cùng một người nghèo khó chỉ có một con cừu gầy nhom chưa – và người giàu có đã cướp con cừu ốm yếu của người nghèo. Đó là điều đã xảy ra, thưa cô.” Linnet đứng phắt dậy với ánh mắt giận dữ.
“Tôi đã hiểu điều ông muốn nói tới, ông Poirot! Nói một cách đơn giản, ông nghĩ là tôi đã cướp người yêu của bạn mình. Nếu nhìn sự việc dưới góc độ tình cảm – mà tôi cho rằng đó là cách mà thế hệ của ông thường xem xét – thì điều đó có thể đúng. Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Tôi không phủ nhận việc Jackie yêu Simon say đắm, nhưng tôi không nghĩ rằng ông đã tính đến chuyện chồng tôi không hoàn toàn say mê cô ấy. Simon đã từng thích cô ấy, nhưng thậm chí trước khi gặp tôi, anh ấy đã mang cảm giác rằng mình phạm sai lầm. Ông Poirot, xin hãy nhìn sự việc kỹ càng. Simon nhận ra chính tôi là người anh ấy yêu, chứ
không phải Jackie. Anh ấy sẽ làm gì chứ? Sẽ cao thượng và cưới người phụ nữ mà anh ấy không còn quan tâm sao – và rồi có thể phá hỏng cuộc đời của cả ba người ư – vì thật mơ hồ là anh ấy có thể làm cho Jackie hạnh phúc trong những trường hợp như thế? Nếu thật sự anh ấy phải kết hôn với Jackie khi anh ấy gặp tôi thì tôi đồng ý đó là nghĩa vụ mà anh ấy phải gắn bó với cô ấy – dù tôi cũng không thật sự chắc chắn về điều này. Nếu một người không hạnh phúc thì người còn lại cũng phải chịu đựng điều tương tự thôi. Nhưng đính hôn vẫn chưa thật sự là một điều ràng buộc. Nếu phạm phải sai lầm, tốt hơn hết là đối diện với nó trước khi quá trễ. Tôi phải thú nhận là điều này rất khó khăn đối với Jackie, và tôi rất lấy làm tiếc – nhưng nó đã như thế rồi. Không thể thay đổi được!”
“Tôi nghi ngờ lắm.”
Cô trừng mắt nhìn ông.
“Ông nói như vậy là sao?”
“Tất cả những gì cô nói rất hợp lý. Nhưng có một điều không giải thích được.”
“Điều gì?”
“Thái độ của chính cô. Trông thấy cô, cũng như những rắc rối cô đang gặp, thì cô có thể nhìn nó theo hai chiều hướng. Hoặc nó có thể gây cho cô phiền phức – mà đúng thật như vậy, hoặc nó làm khơi dậy sự thương cảm nơi cô – rằng người bạn của cô chắc hẳn đã bị tổn thương nhiều để có thể gạt bỏ mọi luân thường đạo lý sang một bên. Nhưng đó không phải là cách mà cô phản ứng. Không, đối với cô, sự đeo bám này là không thể chịu nổi – và tại
sao lại như thế? Chỉ có một lý do thôi – đó là cô cảm thấy tội lỗi.” Linnet liền nhảy dựng lên.
“Sao ông lại dám nói như thế? Thưa ông Poirot, thật sự là ông đã đi quá xa rồi đấy.”
“Nhưng tôi dám như thế đấy, thưa cô! Tôi sẽ nói rất chân thành với cô. Mặc dù cô cố gắng che đậy sự thật, nhưng tôi cho rằng cô đã tính toán thận trọng để đưa chồng mình ra xa khỏi người bạn của cô. Tôi cũng cho rằng cô đã bị cuốn hút ngay trong lần gặp đầu tiên. Nhưng tôi biết có một giây phút nào đó, cô cũng đã phân vân, khi cô biết có một lựa chọn – mà cô có thể rút lui hoặc tiến tới. Tôi biết ý nghĩ đó đọng lại trong cô – chứ không phải với anh Doyle. Cô xinh đẹp; cô giàu có; cô thông minh – và cô quyến rũ nữa. Cô có thể dùng sự quyến rũ của mình hay cô có thể giữ nó lại. Cô có tất cả mọi thứ mà cuộc đời có thể ban cho, thưa cô. Cuộc đời của bạn cô chỉ giới hạn trong một kiếp người. Cô biết điều đó, nhưng mặc dù cô đã do dự, nhưng cô vẫn không giữ tay lại. Ngược lại cô đã dang tay ra, như người giàu có trong Kinh thánh vậy, cô đã lấy con cừu gầy ốm của người nghèo khó.”
Sự im lặng bao trùm trong không gian. Linnet cố gắng giữ bình tĩnh, cô lạnh lùng đáp: “Tất cả đều không đúng chủ đề!” “Không, không chệch chủ đề chút nào đâu. Tôi chỉ đang giải thích cho cô hiểu tại sao sự xuất hiện không trông đợi của cô de Bellefort lại làm cô buồn rầu đến thế. Đó là vì dù cô ấy có thể không nhu mì và không tự trọng trong những việc mình làm, nhưng trong thâm tâm, cô cũng thừa nhận rằng cô ấy cũng có phần đúng.”
“Điều đó không đúng.”
Poirot nhún vai.
“Cô đã từ chối việc thành thật với chính bản thân mình.” “Không phải như thế mà.”
Poirot nhẹ nhàng tiếp tục: “Thưa cô, tôi có thể nói rằng cô có một cuộc sống hạnh phúc, cô phóng khoáng và tử tế với những người khác.”
Linnet đáp lại – gần như với chính mình: “Tôi đã cố như vậy.” Và nét giận dữ trên gương mặt cô dần biến mất.
“Và đó cũng là lý do tại sao việc cô cố ý làm người khác tổn thương lại làm cô buồn lòng đến thế, và tại sao cô lại chần chừ thừa nhận sự thật. Thứ lỗi cho tôi nếu tôi không đúng, nhưng tâm lý chính là chứng cứ quan trọng nhất trong một vụ án.”
Linnet thẫn thờ đáp: “Ngay cả khi những điều ông nói là đúng – và tôi không thừa nhận nó, thì chúng ta có thể làm gì bây giờ? Người ta không thể thay đổi được quá khứ; người ta phải xử lý những việc hiện có.”
Poirot gật đầu.
“Cô rất rõ ràng. Đúng, người ta không thể quay ngược lại quá khứ. Người ta phải chấp nhận thực trạng của sự việc. Và đôi khi, thưa cô, đó là tất cả những gì người ta có thể làm – đó là chấp nhận những hệ quả của việc làm trong quá khứ.”
Linnet vẫn còn thắc mắc: “Ý ông là tôi không thể làm được gì sao – làm không được việc gì sao?”
“Cô phải dũng cảm lên; đó là những gì tôi thấy cô có thể làm
được.”
Linnet chậm rãi nói: “Ông có thể nói chuyện với Jackie – cô de Bellefort? Lý giải cho cô ấy được không?”
“Vâng, tôi có thể làm được. Tôi sẽ làm nếu cô muốn thế. Nhưng đừng kì vọng nhiều nhé. Tôi cho rằng cô de Bellefort đã có kế hoạch mà không có thứ gì có thể lay chuyển được cô ấy.”
“Nhưng chắc chắc chúng tôi có thể làm được gì đó để tự giải thoát chứ?”
“Dĩ nhiên là cô có thể quay về Anh, và ổn định cuộc sống ngay trong ngôi nhà của mình.”
“Thậm chí sau đó, tôi cho rằng Jacqueline cũng có thể đến đó và tôi sẽ lại thấy cô ấy mỗi khi tôi bước ra khỏi nhà.”
“Đúng.”
Linnet tiếp tục với sự chậm rãi: “Hơn nữa, tôi không nghĩ rằng Simon sẽ đồng ý chạy trốn đâu.”
“Thế thái độ của cậu ấy trong trường hợp này như thế nào?” “Anh ấy giận dữ – đơn giản chỉ giận dữ thôi.”
Poirot đồng ý.
Rồi Linnet cầu khẩn: “Ông sẽ nói với cô ấy chứ?”
“Vâng, tôi sẽ làm. Nhưng theo ý của tôi thì tôi sẽ không thể hoàn thành mọi việc đâu.”
Linnet mạnh mẽ tiếp: “Jackie rất đặc biệt! Người ta không thể đoán được việc cô ấy sẽ làm.”
“Cô đề cập đến những đe dọa mà cô ấy đã đưa ra phải không. Cô có thể cho tôi biết những đe dọa đó là gì không?”
Linnet nhún vai. “Cô ấy đe dọa sẽ – phải – giết cả hai chúng tôi. Jackie có thể đôi lúc hơi man rợ một chút.”
“Tôi hiểu.” Giọng Poirot trở nên nghiêm trọng.
Linnet tiếp tục khẩn nài: “Ông sẽ làm vì tôi chứ?”
“Không, thưa cô.” Giọng Poirot trở nên cứng rắn. “Tôi sẽ không chấp nhận sự ủy thác của cô. Tôi sẽ làm những gì có thể vì tình người. Đúng như vậy. Tình huống ở đây rất khó khăn và nguy hiểm. Tôi sẽ làm để giúp sáng tỏ mọi việc – nhưng tôi cũng không lạc quan về khả năng thành công lắm đâu.”
Linnet từ tốn hỏi: “Nhưng ông sẽ không làm vì tôi phải không?” “Phải, thưa cô,” Hercule Poirot trả lời.
5
HERCULE Poirot tìm thấy Jacqueline de Bellefort đang ngồi trên mỏm đá nhìn ra sông Nile. Ông có cảm giác rằng chắc chắn cô vẫn chưa đi ngủ và ông có thể tìm thấy cô ở đâu đó quanh khách sạn.
Cô đang chống cằm ngồi đó, và cũng không thèm quay đầu lại khi nghe tiếng bước chân của ông đi tới.
Poirot cất tiếng hỏi: “Cô de Bellefort phải không? Cô cho phép tôi nói chuyện với cô một lát nhé?”
Jacqueline hơi ngoái đầu lại và uể oải cười đáp lại: “Vâng, hẳn ông là Hercule Poirot? Để tôi đoán xem nhé? Ông đang làm vì cô Doyle, người đã hứa trả cho ông một khoản phí rất lớn nếu ông hoàn thành nhiệm vụ này.”
Poirot ngồi xuống băng ghế bên cạnh cô.
“Cô chỉ đoán đúng một phần thôi,” ông mỉm cười đáp. “Tôi mới từ chỗ cô Doyle xong, nhưng tôi không chấp nhận bất kì một khoản phí nào từ cô ấy cả, và nói cho đúng thì tôi không làm vì cô ấy.”
“Ồ!”
Jacqueline nhìn ông thật kỹ và hỏi ngược lại: “Thế ông đến đây làm gì?”
Poirot trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thưa cô, cô đã bao giờ gặp tôi chưa?”
Jackie lắc đầu.
“Không, tôi nghĩ là chưa.”
“Nhưng tôi lại gặp cô rồi. Tôi đã ngồi cạnh cô một lần ở Chez Ma Tante. Cô đã ở đó cùng với anh Simon Doyle.”
Một cảm xúc giả tạo thật lạ thoáng qua khuôn mặt người đối diện. Rồi cô trả lời: “Tôi nhớ đêm đó…”
Poirot nói tiếp: “Nhiều chuyện đã xảy ra kể từ lúc đó.” “Đúng, như ông nói, nhiều việc đã xảy ra.”
Giọng cô chợt đanh lại chứa đầy sự chua chát tuyệt vọng. “Thưa cô, tôi nói ở đây với tư cách là một người bạn. Cô nên quên chuyện đó đi.”
Jackie ngạc nhiên.
“Ý ông là sao?”
“Bỏ qua quá khứ! Hướng tới tương lai! Chuyện gì đã qua thì cho nó qua. Đau khổ cũng không thể thay đổi được gì.” “Tôi nghĩ rằng điều đó hợp với Linnet đáng yêu đó.” Poirot liền khoát tay.
“Bây giờ tôi không nghĩ cho cô ấy! Mà tôi nghĩ cho cô. Đúng là cô đã chịu nhiều khổ đau – nhưng những gì cô đang làm chỉ kéo dài thêm sự đau khổ mà thôi.”
Cô lắc đầu: “Ông sai rồi. Có những lúc tôi cảm thấy rất hả hê vui vẻ.”
“Thưa cô, đó chính là sự tồi tệ nhất của tất cả mọi thứ đấy.”
Cô ngước mặt lên và nói chậm rãi: “Ông không phải là loại người ngu ngốc. Tôi nghĩ là ông chỉ có ý tốt thôi.”
“Cô hãy về nhà. Cô còn trẻ, cô thông minh, cô có cả tương lai ở phía trước.”
Jacqueline lắc đầu.
“Ông không hiểu – hoặc ông sẽ không thể hiểu được. Simon là tất cả đối với tôi.”
Poirot nhẹ nhàng đáp: “Tình yêu không phải là tất cả. Chúng ta nghĩ nó là tất cả khi ta còn trẻ mà thôi.”
Nhưng cô vẫn lắc đầu và tiếp tục: “Ông không hiểu rồi.” Rồi cô liếc nhanh ông và nói. “Dĩ nhiên là ông biết mọi thứ về tình yêu, phải không? Ông đã nói chuyện với Linnet, phải không? Và ông cũng có mặt tại nhà hàng trong đêm đó… Simon và tôi rất yêu nhau.”
“Tôi biết rằng cô rất yêu anh ấy.”
Jacqueline chợt nhận ra ngữ điệu trong lời nói của ông và cô nhấn mạnh: “Chúng tôi yêu nhau. Và tôi quý Linnet… Tôi đã tin tưởng cô ấy. Cô ấy là bạn thân nhất của tôi. Cả cuộc đời Linnet có thể có bất kì thứ gì mà cô ấy muốn. Cô ấy chưa bao giờ từ chối cho bản thân mình một điều gì… Khi cô ấy thấy Simon, cô ấy muốn anh ấy – và rồi cô ấy đã lấy anh ấy.”
“Và anh chàng ấy cũng chịu bị mua chuộc sao?”
Jacqueline lắc đầu chậm chạp.
“Không, không phải như thế đâu. Nếu như vậy, tôi đã không ở đây… Ông cho rằng Simon không đáng được quan tâm như thế…
Nếu nói anh ấy cưới Linnet vì tiền của cô ấy thì điều này có thể đúng. Nhưng nó phức tạp hơn như thế nhiều. Có một thứ gọi là sự mê hoặc, thưa ông Poirot. Và tiền có thể góp phần. Ông thấy đấy, Linnet có được ‘ảnh hưởng’ đó. Cô ấy là nữ hoàng của một vương quốc – một cô công chúa trẻ tuổi – mọi thứ xa hoa đều vây quanh cô ấy. Điều này giống như một sân khấu đã được dựng sẵn. Mọi thứ đều nằm trong tầm tay của cô ấy, một trong những người giàu nhất và được săn đón nhất muốn cưới cô ấy. Thay vì thế, cô ấy lại chọn ngay chàng Simon Doyle có tương lai mờ mịt… Ông có nghĩ rằng anh ấy cũng biết điều đó không?”
Đột nhiên cô chỉ lên trời.
“Hãy nhìn mặt trăng trên kia. Ông có thấy rõ không? Nó rất thực. Nhưng nếu mặt trời tỏa sáng thì ông sẽ khống còn trông thấy mặt trăng đâu nữa. Chuyện này cũng giống như thế. Tôi chẳng khác nào mặt trăng… Khi mặt trời ló dạng, Simon không còn thấy được tôi nữa… Anh ấy đã bị lóa mắt. Và anh ấy không thể thấy gì khác ngoài mặt trời – đó là Linnet.”
Cô ngừng một lúc rồi tiếp tục: “Đấy, ông thấy điều đó thật huyền bí phải không. Linnet đã bước vào đời anh ấy. Đó đích xác là sự tự tin của cô ấy – thói quen của sự ra lệnh. Cô ấy tự tin rằng mình có thể làm người khác tin tưởng. Có thể Simon đã yếu đuối, nhưng anh ấy là một người đơn giản. Có lẽ anh ấy chỉ yêu mình tôi và chỉ mình tôi mà thôi, nếu Linnet đừng xuất hiện và chụp anh ấy lên chiếc xe vàng ngọc của mình. Tôi biết rõ rằng Simon sẽ không bao giờ yêu cô ấy nếu cô ấy không bắt Simon phải làm như vậy.”
“Đó là những gì cô nghĩ – đúng vậy.”
“Tôi biết rõ. Anh ấy đã yêu tôi – và anh ấy sẽ luôn như vậy.” Poirot hỏi: “Thậm chí ngay cả lúc này sao?”
Jacqueline như muốn trả lời ngay nhưng rồi kìm nén lại. Cô nhìn Poirot và mặt cô đỏ bừng vì giận dữ. Cô quay mặt đi, đầu rủ xuống. Giọng cô như bị bóp nghẹt: “Tôi biết. Hiện anh ấy ghét tôi. Đúng, rất ghét tôi… Anh ta phải coi chừng!” Bỗng nhiên cô lục tung chiếc giỏ xách nhỏ để trên ghế. Rồi cô rút ra một khẩu súng nhỏ có báng được khảm ngọc trai – trông giống như một món đồ chơi nhỏ bé.
“Thật là một vật bé bỏng dễ thương, phải không?” Cô cất tiếng hỏi. “Trông có vẻ không giống thật lắm, nhưng nó là đồ thật đấy! Một viên đạn có thể giết chết một người đàn ông hay một người phụ nữ. Và tôi là một người bắn giỏi đó.”
Cô cười, một nụ cười xa xôi, hồi tưởng.
“Lúc còn nhỏ, tôi được đi cùng với mẹ về quê ở miền Nam Carolina, ông ngoại đã dạy cho tôi bắn súng, ông thuộc típ người cũ tin vào tài nghệ bắn súng – đặc biệt ở những nơi trọng danh dự. Cha tôi cũng thế, khi còn trẻ ông đã từng có một vài cuộc đấu súng tay đôi. Cha tôi còn là một người biết chơi kiếm và đã từng hạ gục một người vì một người phụ nữ. Ông thấy không, ông Poirot.”
Cô gái bắt gặp ánh mắt của người đối diện đang mở to. “Tôi có sẵn máu nóng trong người! Tôi đã mua nó khi sự việc mới xảy ra. Tôi định giết một trong hai người – nhưng vấn đề nằm ở chỗ tôi chưa quyết định được sẽ giết ai. Cả hai đều sẽ không
vui. Và tôi nghĩ Linnet sẽ vô cùng sợ hãi – nhưng cô ấy là một người rất kiên cường. Cô ấy sẽ đứng dậy hành động. Và rồi tôi lại nghĩ tôi sẽ – đợi! Việc này càng lúc càng thôi thúc tôi hành động. Cuối cùng, tôi có thể thực hiện bất cứ lúc nào; sẽ vui hơn trong lúc chờ đợi – và nghĩ về điều đó. Rồi bỗng nhiên có một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi – là đi theo họ! Bất kể khi nào họ đi đến nơi nào cùng nhau và đang vui vẻ, họ sẽ thấy tôi. Quả là có tác dụng thật. Điều này khiến cho Linnet khó chịu – mà không ai có thể làm gì được! Nó làm cho cô ấy bực bội thực sự… Đó là lúc tôi bắt đầu thấy hả dạ… Linnet không thể làm gì được cả! Tôi vẫn luôn vui vẻ và lịch sự! Không có từ nào họ có thể bắt lấy làm chứng! Nó đang làm hỏng mọi thứ – mọi thứ giữa họ.”
Jacqueline cười phá lên, tiếng cười rõ to và lạnh lùng. Poirot nắm lấy tay cô. “Im lặng nào. Im lặng, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe.”
Jacqueline lại nhìn ông và hỏi; “Sao?” Rồi cô cười một cách thách thức.
“Cô ơi, tôi mong cô đừng làm những gì cô đang làm.” “Ý ông là để Linnet yên chứ gì!”
“Còn hơn thế nữa. Đừng bắt tay với quỷ dữ.”
Môi cô chùng lại; ánh mắt thể hiện sự ngạc nhiên. Poirot nghiêm túc tiếp tục: “Bởi vì – nếu cô tiếp tục – ác quỷ sẽ đến… Đúng, chắc chắn ác quỷ sẽ đến… Nó sẽ đến chiếm lấy cô, và sau một thời gian ngắn, không còn ai có thể kiểm soát được nó.” Jacqueline chăm chăm nhìn ông, ánh nhìn mang hình ảnh của