🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Án Mạng Trên Chuyến Tàu Tốc Hành Phương Đông - Agatha Christie full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Lời Giới Thiệu
"C huyện xảy ra trên tàu tốc hành Phương Đông" là một tác phẩmtrinh thámcủa Agatha Christie được dịch sang tiếng Việt từ cuốn "Le Crime de l' Orient - Express" do Louis Pootif dịch tử bản gốc tiếng Anh mang tên "Murder on the Orient Express".
"C
Khác với chuyện "Sứ mạng trên Đào Đen" cùng một tác giả, "Chuyện xảy ra trên tàu tốc hành Phương Đông " không có những tình tiết éo le, sôi động. Ở đây, câu chuyện xảy ra trong một bối cánh đơn giản và thời gian thì thật ngắn ngủi. Tất cả những phương tiện thông tin đều bế tắc - Con tàu tốc hành bị nghẽn đường vì tuyết phủ. Án mạng đã xảy ra trên một toa tàu chỉ có hai cửa ở đầu và cuối toa. Số người hiện diện trong toa là 14 người. Trong đó có Hercule Poirot, một thámtử tài ba và cũng là nhân vật gần như xuất hiện xuyên suốt các tác phẩmtrinh thámcủa Agatha Christie.
Những dữ kiện đã được mô tả đày đủ từ những trang đầu. Số người trong toa lại đông và gần như họ có đủ chứng cứ vắng mặt ở hiện trường sẽ không thể xemlà thủ phạm. Mọi tang chứng tại hiện trường lại càng làmcho việc truy tầmthêmphức tạp, khó hiểu và dễ đưa đến một nguyên cớ từ bên ngoài. Những dữ kiện và tình huống đặt ra cũng như phương tiện truy tầmrất hạn chế đã đặt cho Poirot một bài toán hóc búa. Chỉ còn một phương pháp duy nhất và cũng là sở trường của Poirot vận dụng sự suy nghĩ.
Lý trí và lương tâmcùng với tình cảmcủa con người đã giúp Poirot tìmra thủ phạmvà cũng giúp Poirot giải quyết được vấn đề một cách rất nhân bản, đó là nội dung của câu chuyện mà Agatha Christie muốn kể cho chúng ta.
Sở Văn hóa LâmĐồng
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Phần I- Những Dữ Kiện Chương IMột Vị Khách Quý Trên Tàu
Vào lúc nămgiờ sáng, con tàu có tên gọi rất kiêu "Taurus Express" (Tốc hành Bò tót) đang nằmyên chờ khách tại nhà ga Alep. Đó là một con tàu tốc hành gồmmột toa ăn, một toa ngủ và hai toa khác chở hành khách.
V
Đứng trên bậc thang của toa ngủ, một thiếu úy trẻ người Pháp ngoài bộ đồng phục, bên ngoài mặc chiếc áo choàng dày đang đứng nói chuyện với một người đàn ông nhỏ thó, quần áo ấmche đến mang tai, chỉ còn chừa có chóp mũi đỏ và bộ ria mép hất quặt lên má.
Với thời tiết buốt giá này, hộ tống một nhân vật quan trọng ra ga không phải là một điều lý thú, nhưng thiếu úy Dubose thi hành nhiệmvụ này một cách hòa nhã và hầu chuyện với vị khách quí này một cách lịch thiệp. Thật ra anh cũng không biết ất giáp gì. Vị chỉ huy của Dubose đã tỏ ra gắt gỏng khi người đàn ông bé nhỏ người Bỉ này đến. Ông đã phải trải qua cuộc hành trình vất vả từ Anh đến Syrie. Một tuần lễ trôi qua trong không khí căng thẳng, nhiều biến cố dồn dập đã xảy ra: Một sĩ quan đã từ chức, một nhân vật giữ chức vụ cao trong bộ máy hành chính đã bị đưa về nước. Và rồi những khuôn mặt lo lắng đã trở lại tươi và một vài biện pháp gắt gao đã được giảmdần.
Dubose đã nghe lỏmđược một vài câu chuyện giữa vị chỉ huy của anh và người đàn ông người Bỉ.
- Thưa ông, - ngài chỉ huy già nói bằng một giọng run run - Ông đã làmsáng tỏ một vấn đề khá nặng nề và giúp chúng tôi tránh được nhiều phiền phức. Làmthế nào tôi có thể cảmơn ông đã nhanh chóng đến nhận lời mời của tôi?
Vị khách nhỏ thó với bộ ria mép độc đáo Hercule Poirot đã trả lời:
- Thưa đại tá, tôi không thể quên có một ngày ông đã cứu sống tôi...
Sau vài câu chuyện, trong đó có đề cập đến nước Pháp, nước Bỉ, vinh quang và danh dự, họ đã từ giã nhau.
Thiếu úy Dubose hoàn toàn mù tịt về nội dung câu chuyện: Anh chỉ nhận trách nhiệmđưa ông Poirot ra ga và anh đã thi hành công việc của mình một cách nhiệt tình.
- Hômnay là chủ nhật - Dubose nói với Poirot - Chiều mai thứ hai, ông sẽ đến Stambul.
- Chắc thế, - Poirot đáp trả.
- Ồng có định ở đấy vài ngày không?
- Nhất định rồi. Tôi chưa được biết Stambul vả lại chẳng có việc gì phải gấp gáp. Tôisẽ đi thămthành phố đó. - Nhà thờ thánh Sophie là một tuyệt tác! - Thiếu úy Dubose nói mặc dù anh ta chưa bao giờ trông thấy nó.
Một luồng gió lạnh thổi qua sân ga. Hai người đàn ông rùng mình. Thiếu úy liếc nhanh nhìn đồng hồ, 5 giờ kém5... chỉ còn 5 phút nữa thôi.
Ngỡ rằng Poirot đã trông thấy cử chỉ của mình, Dubose vội tiếp câu chuyện dở dang:
- Rất ít người đi du lịch vào thời gian này - vừa nhận xét, Dubose vừa nhìn lên cửa sổ cửa toa xe ngủ.
- Chắc thế.
- Mong rằng con tàu Tauruss không bị ngừng lại vì tuyết!
- Chuyện này có thường xảy ra không?
- Có chứ, thưa ông! Nhưng nămnay thì chưa thấy.
- Hy vọng rằng đường sẽ không bị nghẽn - Poirot nói - Nhưng những tin tức khí tượng không lấy gì làmkhả quan. - Họ dự đoán sẽ có nhiều trận mưa tuyết ở Balkan.
- Và ngay cả ở Đức nữa.
- Vậy thì, ngày mai vào khoảng 7 giờ 40 ông sẽ đến Constantinople.
- Phải. - và Poirot tiếp - Nhà thờ thánh Sophie, như người ta bảo với tôi, rất đẹp.
- Hình như nó lộng lẫy lắm.
Cửa sổ của một toa xe ngủ phía trên đầu họ bỗng được nâng lên và một thiếu nữ ló mặt ra.
Mary Debenhamđã không hề chợp mắt từ khi rời khỏi Bagdad, thứ nămtuần trước. Trên tàu Kirkur cũng như ở trong khách sạn Mossoul cũng thế. Ngồi mãi, mắt cứ mở trong toa tàu ngột ngạt làmcho cô mệt nhừ, vi thế Mary phải ra cửa sổ đứng nhìn ra ngoài.
Alep, chẳng có gì hấp dẫn đễ xem: bến tàu dài vô tận, tối tăm, ồn ào và toàn tiếng Ả Rập.
Dưới cửa sổ toa xe của Mary, hai người đàn ông đang nói chuyện bằng tiếng Pháp. Một người là một vịsĩ quan trẻ, người kia là một người đàn ông nhỏ thó với bộ ria mép thật dài. Mary mỉmcười khi trông thấy cách ăn mặc của người này. Có lẽ bên ngoài trời lạnh lắm. Và đó cũng là lý do tạisao trong toa xe lại ngột ngạt thế. Mary cố kéo cửa kính xuống nhưng không được.
Người phục vụ toa kút-sét đến gần hai người đàn ông và báo cho họ biết là tàu sắp khởi hành:
- Xin mời ông lên cho.
Người đàn ông nhỏ thó giở mũ ra. Mặc dù tâmtrí còn nghĩ đến nhiều chuyện, Mary Debenhamkhông khỏi mỉmcười khi trông thấy cái đầu hói của người đàn ông. Cô tự nghĩ: Làmsao có thể có người kỳ cục đến thế nhỉ?
Thiếu úy Dubose từ giã vị khách. Poirot cũng trả lời lại bằng những ngôn ngữ rất khách sáo.
- Thôi, xin mời ông lên xe cho! - Người phục vụ toa kút sét nói.
Như có vẻ nuối tiếc, Poirot lên tàu và đưa tay vẫy chào thiếu úy Dubose. Tàu bắt đầu chuyển bảnh.
Hercule Poirot thở dài.
Bằng một cử chỉ hết sức trang trọng, người phục vụ chỉ cho Poirot cách sắp xếp hành lý của ông.
- Cái vali nhỏ của ông ở đây.
Bàn tay của nhân viên phục vụ đong đưa đầy ý nghĩa. Poirot liền nhét ngay tiền vào đó.
- Xin cámơn ông.
Gã tài xế tỏ ra vồn vã.
- Tôi đã có vé cho ngài, xin ngài cho tôi thẻ thông hành nữa. Ngài nghỉ lại Stambul chứ?
- Phải, hình như đông khách lắmtrong toa xe nằmnày?
- Thưa vâng, chỉ thêm2 người thôi: 2 người Anh. Một vị đại tá từ Trung Đông trở về, và một bà từ Bagdad. Ngài cần gi không ạ? - Cần một chai nước suối!
Vào mùa đông, 5 giờ sáng quả là một giờ đáng ghét để đáp tàu hỏa. Mặt trời chỉ ló dạng trong 2 giờ nữa thôi. Mệt mỏi, Poirot thu mình trong một góc và thiếp đi.
Khi Hercule Poirot thức giấc thì đã 9 giờ 30 sáng. Ông vội đi ngay xuống toa ăn để uống cà phê.
Lức bấy giờ trong toa chỉ có mỗi một người. Chắc đấy là cô gái người Anh theo lời nhân viên đã nói. Cô ta cao và mảnh mai, tóc nâu, khoảng chừng 30. Với vẻ từ tốn của một người thượng lưu và quen đi du lịch, cô gọi thêmmột tách cà phê nữa. Bộ đồ đen bằng một loại vải thưa cô mặc rất hợp với không khí ngột ngạt của toa tàu.
Không có việc gì làmnên Hercule Poirot ngồi nhìn cô một cách kín đáo.
Cô thiếu nữ này, Poirot tự nhủ, thuộc vào loại đàn bà biết cách tự xoay sở trong mọi trường hợp. Cô ta không đẹp, nhưng Poirot thích nét khắc khổ, nước da hơi xanh, mái tóc đen, cặp mắt màu xámvà cái nhìn lạnh lùng... Thật ra, cô ta hơi có vẻ nghiêmtrang quá để có thể nói là đẹp.
Một người đản ông khoảng 40 đến 50 tuổi dáng người cao, khuôn mặt xương, nước da rámnắng tóc đã hơi điểmbạc, bước vào toa.
"Vị Đại tá từ Trung Đông về đây, - Poirot nghĩ". Người mới đến chào cô gái.
- Chào cô Debenham.
- Chào đại tá Arbuthnot.
Đại tá Arbuthnot đứng trước mặt cô gái, tay đặt lên thành ghế.
- Tôi không làmphiền cô chứ?
- Không một chút nào. Mời đại tá ngồi!
- Không phải lúc nào người ta cũng muốn nói chuyện khi đang dùng điểmtâm.
- Ồ không, ông cứ yên tâm, tôi không cản đâu.
Đại tá Arbuthnot ngồi xuống.
- Bồi! - Ông ta gọi bằng giọng của một kẻ chỉ huy, - cho trứng và cà phê.
Đại tá Arbuthnot liếc nhìn Hercule Poirot rồi quay đi chỗ khác, hoàn toàn thờ ơ. Poirot đoán có lẽ ông ta đang nghĩ: - Ôi! Chỉ là một người ngoại quốc.
Như tính khí của mọi người dân Anh, đại tá Arbuthnot và cô Mary Debenhamtỏ ra ít nói. Và một lúc sau thiếu nữ đứng dậy về toa của mình.
Cả hai lại ngồi chung bàn vào buổi ăn trưa và họ làmnhư không biết đến Poirot. Tuy nhiên câu chuyện của họ có vẻ hào hứng hơn. Đại tá nói về Punjah và hỏi chuyện Mary về Bagdad, ở đó cô đã đảmnhận chức vụ giữ trẻ. Qua cuộc nói chuyện, họ nhận ra là đều quen những người giống nhau nên dần dần cả hai đã trở nên thân thiện hơn. Đại tá Arbuthnot hỏi Mary rằng cô sẽ đi thẳng về Anh hay cô định ghé lại Constantinople?
- Không, tôi đi thẳng đến Constantinople.
- Thật tiếc cô không thể viếng thămStamboul.
- Tôi đã làmcuộc hành trình này cách đây 2 nămvà đã ghé vào Stamboul 3 ngày.
- Trong trường hợp đó thì tôi rất sung sướng rằng cô đã không ngừng lại vì tôi cũng đi thẳng. - Nói rồi, đại tá Arbuthnot cúi đầu và hơi đỏ mặt.
- À đại tá của chúng ta bắt đầu rung động rồi. Tàu hỏa đôi khi cũng nguy hiểmnhư tàu thủy. - Poirot thầmnghĩ. Cô Debenham, bằng một giọng bình thản, đồng ý là cuộc hành trình sẽ bớt dài đi nếu có bạn đi cùng.
Hercule Poirot nhận thấy rằng đại tá Arbuthnot đưa cô Mary về tận toa tàu của mình. Một lát sau, con tàu đi qua dãy núi Taurus. Đứng ở hành lang, cô Debenhamvà đại tá Arbuthnot ngắmnhìn cảnh hùng vĩ của núi đồi. Đứng không xa họ lắm, Poirot chợt nghe thấy tiếng thở dài của cô gái:
- Ồ, đẹp tuyệt, tôi muốn... tôi muốn...
- Gì vậy thưa cô?
- Có thể ngắmnhìn cảnh đẹp này thêmnữa!
Arbuthnot không trả lời, gương mặt ông trở nên nghiêmtrang, ông thầmthì:
- Tôi ước mong sao cô không hề dính líu vào vấn đề này.
- Xin ông hãy imđi!
- Phải, cô có lý.
Arbuthnot liếc nhìn Poirot rồi tiếp:
- Cô có biết là tôi đau xót biết ngần nào khi nghĩ đến cảnh cô bị những bà mẹ quái ác và những đứa con tinh nghịch của họ hành hạ trong vai trò giữ trẻ của cô!
- Ông lầmrồi! - Mary vừa cười vừa nói. - Chuyện cô giữ trẻ bị chèn ép xưa rồi, bây giờ thì bố mẹ những đứa trẻ đã thương người giữ trẻ rồi đấy.
Một thoáng imlặng, có lẽ Arbuthnot xấu hổ về sự quan tâmquá đáng của mình.
- Hai người này như là đang diễn kịch ấy! - Poirot tự nhủ.
Sau này, ông sẽ phải nhớ đến câu nhận xét này.
Tàu đến ga Konia lúc 11 giờ rưỡi đêm. Đại tá Arbuthnot và cô Mary Debenhani xuống sân ga, đi lại để thư giãn gân cốt.
Ngồi trong toa xe, Poirot nhìn cảnh người qua lại trên sân ga. Một lúc sau, Poirot tự nhủ là không khí trong lành sẽ làmmình sáng khoái hơn. Ông bắt đầu sửa soạn để xuống ga. Trùmmình kín trong chiếc áo măng tô, che hai lỗ mũi trong chiếc khăn quàng cổ, đi đôi giày cao su bọc lông và Poirot đặt chân một cách thận trọng lên sân ga đầy tuyết. Đi được một quãng khá xa, bỗng Poirot chú ý đến cuộc đối thoại của hai người đứng trong bóng tối. Arbuthnot nói:
- Mary.
Thiếu nữ cắt ngang.
- Không, không nên bây giờ! Khi mọi việc xong xuôi đã. Hoàn toàn xong... Lúc đó...
Ngạc nhiên, Poirot rảo bước nhẹ nhàng ra chỗ khác.
Ông đã khó nhọc lắmmới nhận ra giọng nói bình tĩnh và hơi có vẻ ra lệnh của cô Debenham.
- Thật lạ lùng! - Poirot tự nhủ.
Hômsau, khi gặp lại hai người bạn đồng hành, Poirot tự hỏi không hiểu họ có cãi nhau không vì cả hai đều rất ít trao đổi với nhau, và Mary, với cặp mắt thâmquầng, có vẻ lo lắng.
Buổi trưa, khoảng 2 giờ rưỡi, con tàu ngừng lại, những cái đầu lố nhố thò ra khỏi cửa sổ các toa. Một nhómngười tụ tập dọc theo đường rầy xe lửa, đang chỉ những đốmlửa dưới toa xe.
Chồmra khỏi cửa sổ, Poirot hỏi người phục vụ của toa nằmđang chạy đến. Sau khi nghe xong câu trả lời, Poirot thụt đầu vào quay lại thì đụng ngay phải Mary Debenhamđang đứng sau lưng.
- Chuyện gì vậy thưa ông? - Cô ta hỏi - tạisao tàu lại ngừng vậy?
- Ồ chẳng có gì đáng ngại thưa có. Có một cái gì đã bắt lửa dưới toa tàu ăn. Không có gì quan trọng. Ngọn lửa đã được dập tắt và hiện người ta đang sửa chữa. Mọi nguy hiểmđã qua.
Mary đưa tay hất mái tóc như muốn xua tan sự lo lắng.
- Ồ, tôi hiểu, nhưng thì giờ thìsao?
- Sao ạ?
- Phải, sự trục trặc này sẽ làmchúng ta chậmmất.
- Có thể lắm, thưa cô.
- Nhưng, đâu thể như thế được! Con tàu này phải đến lúc 6 giờ 55 và chúng ta phải qua biển Bosphore đế kịp chuyền tàu tốc hành Simplon ở bên kia bờ lúc 9 giờ. Nếu bị chậmtrễ, chúng ta sẽ lỡ chuyến mất.
- Có thể lắmthưa cô. - Poirot nói.
Ồng nhận thấy môi cô gái và bàn tay tì vào cạnh thành cửa sổ run lên.
- Đối với cô, việc đúng giờ quan trọng lắmà? - Poirot hỏi.
- Thưa ông, tôi phải đuổi kịp chuyến tàu tốc hành này bằng mọi giá!
Nói rồi, Mary Debenhambực bội đi về phía đại tá Arbuthnot đứng cách đấy vài bước.
Mary đã lo lắng vô ích vì 10 phút sau, con tàu lại bắt đầu đi. Đến Hayda Pasa, tàu chỉ chậmcó 5 phút.
Chuyến tàu vượt sông Bosphore làmPoirot hơi mệt. Trên tàu qua biển Bosphore, Poirot mất hút hai người bạn đồng hành.
Đến bến Galata, Poirot đi đến khách sạn Tokatlian.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Ii Khách Sạn Tokatlian
Đến khách sạn Tokatlian, Hercule Poirot thuê một phòng có buồng tắm. Sau đó ông hỏi ở quầy hướng dẫn xemcó thư từ nào mang tên mình không.
Đ
Ba bức thư cùng một bức điện tín đã đợi Poirot ở quầy hướng dẫn. Trông thấy bức điện, Poirot nhíu mày ngạc nhiên. Tuy nhiên Poirot vẫn thông thả mở bức điện và đọc.
- "Vụ Kassnes tiến triển như dự đoán. Yêu cầu về gấp".
- Thật là bực mình! - Vừa nhìn đồng hồ, Poirot vừa lẩmbẩm.
Quay sang nhân viên quầy hướng dẫn, Poirot nói:
- Tôi phải đi ngay tối nay, chuyến tàu tốc hành Đông Simplon khởi hành mấy giờ?
- Thưa ông, 9 giờ.
- Làmơn giữ cho tôi một chỗ trong toa nằm.
- Thưa ông vâng, chẳng có gì khó khăn vào mùa này, phần đông, tàu chỉ đầy có một nửa. Ông muốn chỗ hạng nhất hay nhì ạ? - Hạng nhất.
- Xin tuân lệnh. Ổng đi đâu ạ?
- Đi London!
- Vâng thưa ông. Tôisẽ mua cho ông một vé đi London và giữ một chỗ trong toa nằmcủa chuyến Stamboul - Calais. Poirot lại nhìn đồng hồ.
- 8 giờ kém10. Tôi còn đủ thì giờ ăn tối không nhỉ?
- Lẽ dĩ nhiêu rồi, thưa ông.
Hercule Poirot đi thẳng đến phòng ăn của khách sạn.
Khi Poirot sắp sửa gọi món ăn với người bồi, thì bỗng một bàn tay đặt trên vai ông:
- Ồ, ông bạn quý, gặp ông ở đây thật quý hóa!
Poirot quay lại và trông thấy một người đàn ông to ngang, khoảng 40, 45 tuổi đang cười với mình:
- Ồ! Ông Bouc.
- Ông Poirot.
Ồng Bouc cũng là người Bỉ, và ông là một trong những giámđốc của công ty quốc tế đường sắt. Đặc biệt phụ trách những toa nằm. Ông Bouc là bạn lâu nămvới Poirot.
- Ông đi đâu xa thế, ông bạn?
- À... Một câu chuyện ở Syrie cần giải quyết.
- Bao giờ ông đi lại?
- Ngay tối nay.
- Thế thì hay quá, tôi cũng đi tối nay! Tôi đến Tausaune. Ông đi chuyến tàu tốc hành Đông Simplon chứ?
- Phải, tôi vừa giữ chỗ ở toa nằmxong. Tôi định ở lại đây vài ngày, nhưng lại vừa nhận được bức điện gọi gấp về London. - Ồ! - Ông Bouc thở dài - Lại công việc, lúc nào cũng công việc, chắc giờ ông đã ở đỉnh vinh quang.
- Ông quá lời, tôi chỉ đạt được vài thành công nhỏ thôi.
Bouc mỉmcười:
- Lát nữa chúng ta gặp lại nhé. Thôi xin chào ông.
Vừa ăn xúp, Poirot vừa cố gắng cho khỏi làmdính bộ ria mép. Vừa ăn, Poirot vẫn để ý quan sát những người xung quanh, (méo mó nghề nghiệp). Trong phòng có khoảng trên chục người nhưng Poirot chỉ chú ý đến hai người đàn ông.
Hai người đàn ông này ngồi ở một bàn cạnh Poirot. Một người trạc độ 30 tuổi, có lẽ là người Mỹ, có vẻ mặt dễ mến. Poirot lại chú ý đến người đàn ông ngồi cùng bàn với anh ta. Người này khoảng 60 đến 65 tuổi, có vẻ đầu hơi hói, cái trán vồ, và nụ cười để lộ hàmrăng giả, tạo cho ông ta một vẻ dễ dãi. Chỉ có đôi mắt nhỏ, lanh lợi và xảo quyệt là không hợp với khuôn mặt. Vừa nói chuyện với chàng trai ngồi cùng bản, ông vừa đảo mắt nhìn quanh. Cái nhìn của kẻ đã từng trải, dạn dày kinh nghiệm. Ông ta đứng dậy và nói bằng một giọng khàn khàn:
- Cậu trả tiền đi Hector.
Khi Poirot đến gặp Bouc trong phòng tiếp tân thì hai người đàn ông này đã về khách sạn. Những người bồi đemhành lý của họ xuống dướisự kiểmsoát của người đàn ông trẻ. Anh ta mở cửa ra vào bằng kính và nói:
- Tất cả đã sẵn sàng thưa ông Ratchett.
Người đàn ông lớn tuổi - ông Ratchett - lẩmbẩmđiều gì trong miệng và bước ra.
- Sao? - Poirot quay sang ông Bouc và hỏi - Ông nghĩ gì về hai người này?
- Họ là người Mỹ! - ông Bouc nói.
- Điều đó rành rành ra rồi! Tôi muốn nói đến vẻ bề ngoài của họ kia.
- Chàng trai có vẻ dễ chịu.
- Còn, ông già?
- Thật tình mà nói, tôi không thích ông ấy. Ông ấy có vẻ như thế nào ấy. Ông thấy sao?
Sau một lúc suy nghĩ, Poirot trả lời:
- Khi ông ta đi qua chỗ tôi ngồi, trong phòng ăn, tôi có cảmtưởng như một con thú dữ...
- Người Mỹ có vẻ quý tộc ấy à?
- Phải, người Mỹ có vẻ quỹ tộc!
- Có lẽ ông có lý đấy, - ông Bouc nói - có bao nhiêu kẻ ác trên quả đất này!
Ngay lúc đó, nhân viên phòng tiếp tân đẩy cửa bước vào, vẻ mặt ái ngại.
- Thưa ông, - anh ta nói với Poirot. - Tôi chẳng hiểu gì cả, không còn một chỗ nào trên toa tàu nằmhạng nhất. - Sao, - ông Bouc thốt lên, - vào mùa này à? Chắc hẳn lại là một nhómphóng viên hay các chính khách đã giữ chỗ hết rồi chứ gì?
- Thưa ông, tôi cũng không biết. - Nhân viên tiếp tân quay sang ông Bouc nói một cách kính cẩn. - Nhưng người ta cho tôi biết đã hết chỗ rồi ông ạ!
- Thôi được rồi, - ông Bouc nói với Poirot. - Để tôi giải quyết vậy. Trên tàu luôn luôn có một chỗ trong toa nằmtrống, số 16. Tài xế bao giờ cũng giữ chỗ này đến phút cuối cùng! - Nhìn đồng hồ, ông nói tiếp - Chúng ta đi thôi!
Khi họ đến ga, người tài xế toa nằm, trong bộ đồng phục màu nâu, vội chạy đến tiếp ông Bouc một cách nồng nhiệt. - Xin kính chào ông, chúng tôi đã dành cho ông toa số 1.
Nói xong, anh ta gọi những người phu khuân vác đến đemhành lý của họ lên toa xe mang bảng Constantinople Trieste - Calais.
- Hình như hết chỗ rồi thì phải?
- Thật khó tin, thưa ông! Hình như mọi người hẹn nhau cùng đi du lịch tối nay!
- Dù sao anh cũng phải tìmcho ông bạn tôi đây - Ông Bouc chỉ Poirot - một chỗ. Hãy dành cho ông ta toa số 16. - Thưa ông, chỗ này đã được mua rồi!
- Sao? Toa số 16 à?
- Vâng thưa ông. Như tôi đã bảo, tất cả các chỗ đều có người rồi.
- Có chuyện gì vậy? - Ông Bouc hỏi. - Người ta tổ chức hội nghị ở đâu à?
- Thưa ông không. Chỉ là ngẫu nhiên, nếu tất cả mọi người rủ nhau cùng đi du lịch đêmnay thôi!
Ông Bouc tỏ ra bực mình.
- Đến Belgrade - ông nói, - sẽ nối thêmtoa tàu đến từ Athènes và đến Wincovisisẽ nối thêmtoa tàu từ Bucarest... Nhưng chúng ta chỉ đến Belgrade vào tối mai mà thôi. Tối nay giải quyết sao bây giờ? Không còn ghế nào ở toa hạng nhì à?
- Thưa ông còn một chỗ...
- Vậy thì...
- Nhưng đã có người ở cùng toa đó rồi. Cô bồi phòng của một bà ở toa hạng nhất.
- Thật khó xử, - ông Bouc thốt lên.
- Xin ông đừng quá bận tâm, tôisẽ cố gắng thích nghi với tình huống này thôi, - Poirot nói.
- Không thể nào được! - Quay sang người tài xế, ông Bouc nói tiếp:
- Mọi người đã đến chưa?
- Thưa ông, còn thiếu một hành khách.
- Sao bây giờ anh mới nói, số nào?
- Thưa ông toa nằmsố 7 ở toa hạng nhì, ông khách chưa đến mà tàu sắp khởi hành vài phút nữa thôi.
- Hành khách đó là ai?
- Một người Anh, - người lái xế cúi xuống xembảng danh sách - Ông Harris.
- Điều may đấy, - Poirot nói. - Tôi đã đọc Dickens 1. Ông Harris sẽ không đến.
- Anh hãy đemhành lý của ông Poirot đến toa số 7. Nếu ông Harris đến, chúng ta sẽ tìmcách giải quyết sau. - Xin tuân lệnh! Thưa ông.
Ông Bouc lui lại phía sau để nhường bước cho Poirot bước lên tàu, ông nói:
- Ở cuối dãy này, toa gần cuối!
Khó nhọc lắmPoirot mới qua được dãy hành lang vì tất cả hành khách đều ra đứng ở cửa sổ. Cuối cùng Poirot cũng đến được toa nằmdành cho mình. Anh chàng người Mỹ trẻ mà Poirot đã gặp ở phòng ăn khách sạn Tokatlian đang ngồi ở đó. Anh ta đang với tay lấy chiếc vali trên giá đựng hành lý.
Anh hơi nhíu mày khi trông thấy Poirot.
- Xin lỗi, chắc ông nhầm! - Anh ta nói bằng tiếng Pháp.
Poirot hỏi anh ta bằng tiếng Anh:
- Ông là ông Harris à?
- Thưa không, tên tôi là Mac Queen. Tôi...
Ngườisoát vé của toa tàu nằmđỡ lời:
- Không còn chỗ nằmnào hết thưa ông. Tôi phải dành cho ông đây - anh ta chỉ Poirot - chỗ này.
Nói rồi anh ta xếp hành lý của Poirot vào toa.
Poirot hơi buồn cười khi nghe giọng nói trân trọng của gã soát vé với anh chàng Mac Queen. Chắc hẳn gã đã nhận một số tiền pourboire khá lớn để không nhận thêmmột hành khách nào khác ngồi cùng chỗ với Mac Queen. Nhưng dù số tiền pourboire có lớn đến đâu đi nữa thì cũng vô hiệu khi có ông giámđốc (ông Bouc) đi cùng tàu!
Gã soát vé ra khỏi toa khi đã đặt vali của Poirot lên giá đựng hành lý.
- Thưa ông như thế là ổn cả rồi, ông sẽ nằmkút-sét (couchette) 2 trên mang số 17. Vài phút nữa tàu sẽ khởi hành. - Nói rồi gã đi ra, Poirot bước vào toa.
- Một điều lạ đấy, - Poirot nhận xét một cách vui vẻ. - Một ngườisoát vé tàu nằmlại đi thu xếp vali. Thật chưa bao giờ thấy! Người bạn đồng hành của Poirot mỉmcười. Chắc hẳn anh ta thấy rằng nên tỏ ra hòa nhã hơn là bực mình vì điều trái ý vừa qua. Một giọng nói vang lên dướisân ga:
- Lên tàu!
- Chúng ta sắp khởi hành, - Mac Queen nói.
Con tàu vẫn chưa chuyển bánh, một hồi còi rít lên. Bỗng Mac Queen nói:
- Nếu ông thích nằmkút-sét dưới, xin ông cứ tự nhiên.
"Anh chàng này thật dễ thương!" - Poirot tự nhủ.
- Không! Không! - Poirot phản đối. - Tôi không muốn làmphiền ông.
- Tôi hoàn toàn không bận tâmvề chuyện đó.
- Ổng thật tử tế... Nhưng tôi chỉ ngủ ở đây đêmnay thôi. Ở Belgrade...
- Vậy, ông xuống ga Belgrade à?
- Cũng không hẳn thế, thưa ông.
Một chấn động. Hai người đàn ông quay về phía cửa sổ toa tàu. Sân ga rực sáng đèn đang lướt qua trước mắt họ. Chuyến tàu tốc hành Đông Simplon bắt đầu cuộc hành trình dài ba ngày qua châu Âu.
--------------------------------
1 Liên hệ đến một nhân vật trong tác phẩmcủa Dickens, văn hào Anh, nhân vật này không bao giờ có mặt khi cần thiết. 2 Kút-sét (couchette): Toa tàu có giường để nằmngủ trong những chuyến tàu đi ban đêmhoặc đi nhiều ngày.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Iii Poirot Từ Chối Một Đề Nghị
Thức dậy sớm, Poirot đã dùng điểmtâmở phòng toa ăn vắng người. Sau đó ông đã xemlại những giấy tờ liên quan đến việc ông phải về Luân Đôn gấp nên Poirot đã không gặp người bạn đồng hành của mình.
T
Buổi trưa, Poirot đến toa ăn hơi trễ. Ông Bouc, ngồi ở một bàn ăn đã dọn sẵn, vẫy tay gọi Poirot và mời ông đến ngồi cùng bàn. Poirot nhận lời và thưởng thức một bữa ăn thật ngon. Khi ăn đến món pho mát kem, ông Bouc bỗng thở dài và nói bằng một giọng triết lý:
- Ước gì tôi có thế viết văn như Balzac 1 để có thể tả cảnh này.
- Một ý kiến hay đấy! - Poirot nói.
- Phải không thưa ông? Chắc chưa ai nghĩ ra. Vậy mà ta có thế viết thành một tiểu thuyết đấy, ông Poirot ạ. Hiện diện ở đây là đủ mọi tầng lớp xã hội, đủ mọi chủng tộc và ở mọi lứa tuổi trong suốt ba ngày. Những người này hoàn toàn xa lạ với nhau, sẽ cùng ăn và cùng sống với nhau trong một toa tàu. Sau ba ngày đó họ sẽ từ giã nhau và có lẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau.
- Trừ phi có một tai họa xảy ra...
- Mong rằng, điều đó sẽ không xảy ra.
- Lẽ dĩ nhiên, về phía ông, thì đó là một điều đáng tiếc nếu có tai họa xảy ra trên tàu. Nhưng hãy thử nghĩ xem, nếu có một tai nạn. Như thế mọi người ở trên tàu sẽ gặp nhau ở... cõi chết.
- Thêmmột chút rượu nữa nhé, - ông Bouc nói. - Ông quả là bi quan, sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hóa đấy! - Thú thật là ở Syrie, đồ ăn không hợp cho dạ dày của tôi.
Poirot uống một ngụmrượu, ngả người dựa vào ghế, ông đảo mắt nhìn xung quanh. Tất cả có 17 hành khách. Họ thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi dân tộc như ông Bouc đã nói. Poirot bắt đầu quan sát họ.
Ngồi bàn trước mặt Poirot là ba người đàn ông đi, du lịch riêng rẽ: Một người Ý, to lớn đang ngồi xỉa răng một cách thích thú. Trước mặt anh ta là một người Anh, trầmtĩnh có dáng dấp đàng hoàng, gương mặt lạnh lùng. Bên cạnh anh ta là một người Mỹ trong bộ comlê màu sặc sỡ, có vẻ là một nhà buôn.
- Phải làmcho loá mắt - người Mỹ nói.
Gã người Ýrút tămra khỏi miệng, vung tay cao và tán đồng:
- Chắc chắn rồi, tôi đã bảo mà!
Anh chàng người Anh nhìn ra cửa sổ và đằng hắng giọng.
Poirot đưa mắt sang một người đàn bà lớn tuổi, ngồi ở một bàn nhỏ. Bà ta rất xấu, nhưng cái xấu của bà có một cái gì quí phái, gần như có sức thu hút hơn là gớmghiếc. Bà ta ngồi rất thẳng, cổ đeo một chuỗi hạt trai thật to, tay đầy nhẫn. Cái áo măng tô bằng lông thú, và cái mũ lông nhỏ không hợp chút nào với khuôn mặt vàng như da cóc của bà.
Bà ta đang nói với người bồi bằng một giọng trịch thượng:
- Ông vui lòng mang đến phòng tôi một chai nước suối và một ly nước cam. Cố gắng cho tôi thịt gà trong bữa ăn chiều nay. Người bồi nghiêng mình kính cẩn:
- Thưa bà sẽ được như ý muốn.
Bà ta khẽ cúi đầu và đứng dậy. Bắt gặp cái nhìn của Poirot, bà ta quay mặt đi chỗ khác.
- Công chúa Dragomiroff đấy! - ông Bouc nói - Một người Nga. Chồng bà ấy đã chuyển tiền sang ngoại quốc trước cách mạng và bà
ấy rất giàu.
Poirot vừa nghe nhắc đến tên của công chúa Dragomiroff ở đâu rồi...
- Bà ấy xấu như 7 mối tội đầu 2 - ông Bouc tiếp, nhưng ông phải nhận rằng ba ta rất quí phái.
Mary Debenhamđang ngồi ở một bàn khác cùng với hai người đàn bà. Một người khoảng 35 đến 40 tuổi, cao lớn; ăn mặc theo kiểu người Ái Nhĩ Lan. Mái tóc dày của bà ta hất ngược về phía sau và búi thành một "búi tóc". Một cặp kính che mất một phần gương mặt hiền từ của bà. Bà ta đang nghe một cách chămchú những lời phân trần của một bà bạn đồng hành với một khuôn mặt khả ái, đang nói với một giọng chậmrãi và đơn điệu, hình như không lúc nào dừng lại để lấy hơi.
- Sau đó con gái tôi đã nói: "Áp dụng, những phương pháp Mỹ ở đây là vô ích. Mọi người đều thờ ơ và thiếu tính hiếu động". Tuy nhiên các bạn sẽ ngạc nhiên về những kết quả lượmhái được trong trường hợp này. Đối với tôi, tri thức là trên hết Con gái tôi còn kể...
Con tầu qua hầm, và giọng phán của bà ta cũng chìmlẫn trong tiếng máy.
Ở bàn bên cạnh, đại tá Arbuthnot ngồi một mình. Mắt ông ta cứ dán chặt vào gáy Mary Debenham. Tạisao họ lại không ngồi ăn cùng bàn nhỉ?. Điều đó thật khó hiểu, vậy thì tạisao? Có lẽ Mary Debenhamkhông muốn, sợ hại cho uy tín của mình.
Poirot tiếp tục quan sát. Ông để ý đến một phụ nữ, mặc toàn đồ đen, mặt vuông và lạnh lùng ngồi dựa vào vách của toa tàu. Người Đức hay Phần Lan - Poirot đoán thế - Có lẽ là một bà quản gia...
Ở bàn bên, một cặp trai gái đang chụmđầu vào nhau nói chuyện một cách hào hứng. Người đàn ông mặc vét may vừa vặn - Chắc chắn phải may ở Luân Đôn. Nhưng anh ta không có vẻ người Anh - Cái đầu và đôi vai của anh đủ để chứng minh điều đó. Bỗng nhiên người đàn ông quay lại và Poirot có thể quan sát mặt anh ta kỹ hơn. Trạc độ 30, bộ ria vàng làmcho khuôn mặt đẹp trai của anh có vẻ đàn ông hơn.
Người đàn bà ngồi trước mặt anh ta khoảng chừng 20 tuổi. Bộ quần áo sang trọng màu đen để lòi cái cổ áo sơ mi bằng satanh trắng. Đầu cô đội cái mũ đen, nghiêng một bên theo đúng mốt. Nước da cô gái rất trắng làmnổi bật cặp mắt nâu và mái tóc xám. Cô ta đang hút một điếu thuốc cắmvào một cái bót xì gà; Poirot nhận ra trên bàn tay với những ngón tay sơn đỏ một cái nhẫn ngọc lớn. Giọng nói cũng như cái nhìn của cô rất đài các.
- Cô ta đẹp mà lạisang trọng nữa! - Poirot nói, - chắc họ là vợ chồng.
- Phải, anh ta làmở Bộ ngoại giao Hung; Họ thật đẹp đôi.
Hai người còn lại là anh bạn đồng toa Mac Queen, và chủ anh là ông Ratchett. Một lần nữa, Poirot lại nhìn ông Ratchett chămchú, sự tương phản giữa gương mặt đôn hậu và vẻ xảo quyệt, hung ác của cặp mắt lộ ra rất rõ.
Chắc hẳn ông Bouc cũng nhận thấy sự thay đổi từ Poirot. Ông ta hỏi:
- Ông đang nhìn con thú dữ của chúng ta đấy hẳn?
- Vâng - Poirot đáp.
Khi người bồi mang cà phê đến cho Poirot, ông Bouc đứng dậy và đến trước Poirot nói ông đã ăn trưa xong. - Tôi về phòng đây, - ông Bouc nói - Khi ăn xong mời ông đến, chúng ta sẽ cùng nói chuyện!
- Rất vui lòng.
Poirot nhâmnhi tách cà phê và gọi thêmmột ly rượu.
Người hầu phòng cầmcái bút nhỏ đi từng bàn đế tính tiền. Giọng nói của bà người Mỹ vang lên:
- Con gái tôi nói với tôi: "Mẹ hãy mua trước những phiếu ăn, như thế tiện hơn". Nhưng thật ra nó chẳng hiểu gì cả, còn phải cho 10% tiền phục vụ và nước suối của họ có mùi kỳ lạ. Thật khó chịu.
Mary Debenhamkéo ghế, cúi đầu dứng dậy. Ở bàn bên, đại tá Arbuthnot đứng lên và theo cô. Hai người đàn bà ngồi cùng bàu với Mary cũng đứng dậy. Cặp vợ chồng người Hung cũng đã rời bàn. Trong toa ăn chỉ còn lại Poirot, Ratchett và Mac Queen.
Ratchett nói nhỏ với Mac Queen. Anh ta rời bàn.
Ratchett cũng đứng lên. Nhưng thay vì theo Mac Queen ra khỏi toa ăn, ông ta đến ngồi vào bàn Poirot. - Ông vui lòng cho tôi xin chút lửa? - Ratchett nói bằng một giọng nhò nhẹ - Tôi là Ratchett.
Poirot cúi đầu chào, lôi hộp quẹt trong túi đưa cho Ratchett.
- Có phải tôi đang được vinh hạnh nói chuyện với ông Hercule Poirot không ạ?
- Thưa ông vâng, Chính tôi là Hercule Poirot đây. Trước khi nói tiếp, Ratchett đưa mắt dò xét Poirot. - Ở nước tôi, - Ratchett nói - người ta đi thẳng vào đề, thưa ông, tôi nhờ ông làmviệc cho tôi.
Poirot khẽ nhíu mày.
- Thưa ông, hiện thời thì thân chủ của tôi rất giới hạn. Tôi chỉ giải quyết một số rất ít những vụ ấy thôi. - Tôi hiểu, thưa ông Poirot. Nhưng ông sẽ không mất, mà trái lại - Ratchett cố thuyết phục.
Sau một lúc say nghĩ, Poirot hỏi:
- Vậy thì, thưa ông Ratchett, ông cần gì ở tôi?
- Ông Poirot ạ, tôi giàu, rất giàu, và như mọi người ở hoàn cảnh, tôi cũng có kẻ thù. Tôi có một...
- Một thôi à?
- Sao ông lại hỏi thế?
- Thưa ông, theo như ông nói, thì trong trường hợp ông không phải chỉ có một kẻ thù.
Câu hỏi của Poirot có vẻ làmcho Ratchett an tâm, ông vội vã nói tiếp.
- Lẽ dĩ nhiên, tôi hiểu ý ông. Nhưng một kẻ thù hay nhiều kẻ thù, thì cũng thế thôi. Điều quan trọng là sự an toàn của tôi. - Sự an toàn của ông à?
- Thưa ông, vâng! Cuộc sống của tôi đang bị đe dọa ông Poirot ạ! Tôi có thể tự chống chọi được.
Nói rồi, Ratchett rút từ trong túi ra một khẩu súng lục.
- Họ sẽ không làmgì tôi được. Tuy nhiên, không gì bằng đề phòng. Ông là người mà tôi cần. Như tôi đã nói, tôisẽ trả công cho ông
hậu hĩnh.
Trong vài giây, Poirot hoàn toàn cămlặng. Ratchett không thể náo đoán được Poirot đang nghĩ gì...
- Tôi rất tiếc thưa ông Ratchett, tôi không thể giúp ông được.
Ngạc nhiên, Ratchett nhìn Poirot một lúc.
- Ông hãy nói giá của ông đi!
Poirot lắc đầu.
- Hình như ông không hiểu. Tôi đã thành công trong nghề của tôi và tôi cũng dư giả để sống. Tôi chỉ nhúng tay vào những vụ mà tôi thấy... thích thú.
- Tôi thật khỉ đấy, 20 ngàn dollars được không nào?
- Tôi đã từ chối rồi thưa ông.
- Nếu ông nghĩ rằng tôisẽ nâng số tiền lên, thì ông nhầmđấy. Tôi biết giá trị của sự việc lắm.
- Tôi cũng thế, thưa ông Ratchett.
- Vậy thì, điều gì trong lời đề nghị của tôi đã làmông phật ý.
Poirot đứng lên.
- Nếu thật tình ông muốn biết, thỉ tôi cũng xin cho ông biết là bộ mặt ông không làmtôi ưa thích, thưa ông Ratchett. Nói rồi Poirot bỏ đi.
--------------------------------
1 De Balzac: Nhà văn nổi tiếng của Pháp về lối văn mô tả mọi tầng lớp xã hội Pháp.
2 7 mối tội của người Thiên chúa giáo.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương IvTiếng Thét Trong Đêm
Chuyến tàu tốc hành Simplon Orient Express đến ga Belgrade lúc 9 giờ kém15 tối và sẽ khởi hành lại lúc 9 giờ 45. Poirot xuống sân ga, nhưng ông thay đổi vì trời giá buốt, và tuyết rơi mỗi lúc một dày đặc.
C
Poirot về toa của mình. Người tài xế đang đi đi lại lại trên sân ga, nói:
- Thưa ông, vali của ông đã được chuyền đến toa tàu số 1, toa của ông Bouc.
- Ông Bouc đi đâu rồi?
- Ông ta đã chuyển sang toa tàu từ Athènes đến.
Poirot vội vã đi kiếmông Bouc. Mặc cho những lời từ chối của Poirot, ông Bouc cũng không không chịu nghe.
- Không sao! Không sao, Vì tôi đi thẳng đến Luân Đôn, tôisang toa tàu Calais. Phần tôi, cứ để tôi về toa cũ, có tôi và một Bác sĩ Hy Lạp thôi.
Tối nay chắc lạnh lắmđây. Chưa bao giờ tuyết lại rơi nhiều đến thế. Mong rằng chúng ta sẽ không kẹt. Điều đó chẳng có gì thích thú cả.
Đúng 9 giờ 45, tàu bắt đầu khởi hành, Poirot đi dọc dãy hành lang dài ngước về phía trước để về toa của mình, gần toa ăn. Đứng trước phòng, đại tá Arbuthnot đang trò chuyện với Mac Queen. Mac Queen imbặt khi trông thấy Poirot, và tỏ ra rất ngạc
nhiên.
- Ủa? Tôi tưởng ông đã xuống tàu rồi? Sao ông bảo là xuống ga Belgrade?
Poirot mỉmcười nói:
- Ông không hiểu ý tôi.
- Người ta đã lấy hết hành lý của ông rồi.
- Ồ, họ chỉ chuyền chúng sang toa khác thôi.
- Ồ, tôi hiểu.
Mac Queen tiếp tục nói chuyện với Arbuthnot. Poirot bỏ đi.
Trước khi vào phòng, Poirot trông thấy bà người Mỹ - bà Hubbard đang đứng nói chuyện với người đàn bà có khuôn mặt hiền từ, một người Thụy Điển. Hubbard đang cố làmcho người bạn mình nhận một tạp chí.
- Bà cứ cầmlấy, tôi còn nhiều lắm.
Bà Hubbard khẽ gật đầu chào khi Poirot đi qua.
- Tôi rất cámơn bà.
- Bà hãy ngủ ngon, cơn nhức đầu sẽ qua. Ngày maisẽ không còn cảmthấy mệt mỏi nữa đâu...
- Tôisẽ uống trà nóng.
- Và thuốc Aspirin nữa? Thôi, chúc bà ngủ ngon nhé.
Bà người Thuỵ Điển về phòng. Bà Hubbard quay sang Poirot và nói:
- Bà ta là người Thụy Điển... Hình như một nhà truyền giáo..., một nhà giáo thì phải. Bà ta rất dễ mến nhưng nói tiếng Anh không sõi.
Những điều tôi kể con gái tôi làmbà ấy rất thích.
Chẳng bao lâu, Poirot và tất cả những ai hiểu tiếng Anh trên tàu đều biết con gái của bà Hubbard.
Con gái và con rể bà Hubbard đều là giáo sư ở một trường lớn tại Syryrine. Bà Hubbard vừa đi du lịch lần đầu tiên ở Trung Đông và cho mọi người biết ý kiến của bà về dân Hồi giáo, sự thụ động và tình trạng đường sá tại đó...
Cánh cửa căn phòng gần đó xịch mở, Mac Queen bước ra. Poirot nhìn thấy ông Ratchett ngồi bên trong. Mặt Ratchett biến sắc khi nhìn thấy Poirot. Cánh cửa phòng đóng sầmlại.
Bà Hubbard kéo Poirot ra xa và nói:
- Gã đàn ông này làmtôisợ. Không phải anh chàng theo hầu đâu. Cái nhìn của hắn có một cái gì giả dối, Con gái tôi thường nói và giác quan thứ 6 của tôi ít khisai. Tôi đã có một nhận xét, riêng đối với gã này. Cứ nghĩ đến phòng gã ấy sát bên cạnh phòng tôi đã làmtôi run hẳn lên rồi. Tối hômqua, tôi đã phải chồng tất cả vali của tôi ở cửa phòng thông qua phòng gã. Hình như đêmqua tôi nghe có ai vặn nắmđấmcửa. Tôi chẳng ngạc nhiên nếu hắn là một tên cướp, hoặc là một tên vô lại: Gã đàn ông này làmtôisợ suốt cuộc hành trình! Cứ nghĩ hắn ta ở phòng bên là tôi lên cơn sốt rồi. Điều xấu nhất có thể xảy ra. Làmsao anh chàng thanh niên đáng mến kia lại có thể là một thư ký cho một người như thế? Thật khó hiểu?
Đại tá Arbuthnot và Mac Queen đi về phía họ.
- Ông hãy vào phòng tôi, - Mac Queen nói với Arbuthnot - Tôi muốn biết quan điểmcủa chúng ta về chính sách tại Ấn Độ và... Người đàn ông đi qua hành lang về phía phòng của Mac Queen.
Bà Hubbard chúc Poirot ngủ ngon.
- Tôi lên giường ngay để đọc sách - bà ta nói- Chúc ông ngủ ngon.
- Chúc bà ngủ ngon!
Poirot về căn phòng của mình, cạnh phòng Ratchett.
Thay quần áo, Poirot lên giường, đọc sách khoảng một giờ rồi tắt đèn.
Một lát sau Poirot thức giấc vì một tiếng thét, rất gần, và ngay lúc đó một tiếng chuông vang lên.
Poirot ngồi nhỏmdậy, bật đèn. Con tàu đã ngừng lại...
Tàu đang ở một ga nào đó.
Poirot chợt nghĩ ra là Ratchett ở phòng bên. Bước xuống giường, Poirot ra mở cửa. Đúng lúc đó, người tài xế bước nhanh đến phòng Ratchett và gõ cửa. Poirot khép hờ cánh cửa lại và đứng rình phía sau. Người tài xế gõ một lần nữa. Một tiếng chuông lại réo lên. Ở một cánh cửa xa hơn, một ngọn đèn đỏ bật sáng cho biết một hành khách đang gọi.
Ngay phòng gần bên Poirot, một giọng nói thốt lên bằng tiếng Pháp.
- Xin lỗi, tôi nhầm.
- Thưa ông, vâng.
Nhân viên phục vụ đến nhanh về phía cánh cửa có đèn đỏ vừa bật sáng.
Mọi việc yên ổn, Poirot quay về giường, tắt đèn, nhìn vào đồng hồ, lúc này là 1 giờ kém23!
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương V Án Mạng
Poirot không tài nào ngủ lại được. Không còn sự đong đưa của con tàu. Nhà ga này có vẻ yên tĩnh quá, và có lẽ vì thế nên mọi tiếng động trên tàu đều rõ mồn một. Poirot nghe tiếng Ratchett trằn trọc phía bên kia: tiếng mở vòi nước, nước chảy vào chậu, tiếng xê dịch cái chậu, sau đó lại tiếng chậu để vào chỗ. Ngoài hành lang, tiếng chân người bước nhẹ.
P
Hercule Poirot đã tỉnh ngủ hẳn. Tạisao lại yên tĩnh quá nhỉ? Poirot cảmthấy cổ họng khô lại. Ông đã quên gọi một chai nước suối thường lệ trước khi đi ngủ. Đưa mắt nhìn đồng hồ, lúc này giờ đã 1 giờ 15. Định đưa tay bấmchuông gọi nhân viên phục vụ lấy nước suối thì Poirot ngừng lại: một tiếng chuông khác vừa mới reo vang.
Nhân viên phục vụ không thể trả lời cùng một lúc được.
- Reng... reng... reng...
Nhân viên phục vụ đâu nhỉ? Người khách vẫn tiếp tục bấmchuông:
- Reng... reng... reng...
Bỗng nhiên nhân viên phục vụ chạy đến và gõ vào một cánh cửa không xa phòng Poirot lắm.
Poirot nghe một giọng nói tôn kính và tiếng của một người đàn bà: bà Hubbard.
Poirot mỉmcười.
Hai người nói với nhau một lúc. Người đàn bà nói liên tục. Thỉnh thoảng gã tài xế mới chen vào được một câu. Sau cùng tất cả có vẻ được thu xếp ổn thoả. Poirot nghe:
- Chúc bà ngủ ngon!
Cánh cửa đóng sập lại.
Poirot đưa tay bấmchuông. Gã tài xế chạy đến vẻ bực mình.
- Anh cho tôi một chai nước suối.
- Thưa ông vâng...
Có lẽ cái nheo mắt của Poirot làmcho gã tài xế hứng khởi nên anh ta tiếp:
- Cái bà người Mỹ ấy...
- Sao?
Nhân viên phục vụ lau trán và nói:
- Bà ấy cứ nằng nặc quả quyết rằng có một người đàn ông trốn trong phòng mình. Ông thử tưởng tượng xem, trong một phạmvi nhỏ hẹp như thế, anh ta trốn chỗ nào? Tôi đã cố gắng thuyết phục bà ta và chứng minh sự vô lý của sự việc. Bà ấy vẫn cứ bảo đảmlà khi thức dậy bà đã trông thấy một người đàn ông trong phòng toa của mình. Tôi đã hỏi bà làmcách nào gã đàn ông đã ra khỏi phòng mà lại gài chốt ở bên trong. Bà ấy vẫn không chịu. Làmnhư chuyện hoang tưởng! Lại còn cơn tuyết này nữa chứ.
- Tuyết à?
- Vâng thưa ông. Ông không thấy là tàu đã ngưng rồisao? Nó không đi được vì tuyết đấy. Chỉ có trời mới biết bao giờ chúng ta mới lại đi được. Tôi còn nhớ có lần đã bị kẹt tàu vì tuyết trong 7 ngày.
- Chúng ta đang ở đâu?
- Giữa Vincovci và Brod.
- Thật xui xẻo! - Poirot thở dài.
Gã tài xế bỏ đi, một lúc sau, đemmột chai nước suối lại.
- Chúc ông. Ngủ ngon.
Uống xong nước, Poirot sửa soạn đi ngủ.
Đang thiu thỉu, Poirot lại bị thức giấc. Có một vật gì nặng vừa mới rơi xuống gần cửa phòng. Poirot nhảy ngay xuống giường, chạy ra ngoài cửa. Chẳng có gì. Phòng bên phải, xa hơn một tí, một người đàn bà mặc áo choàng màu đỏ đang đi ở hành lang. Tít cuối toa, gã tài xế ngồi tỉnh bơ. Tất cả cả có vẻ yên tĩnh.
"Thần kinh mình hơi bị giao động rồi" - Poirot tự nhủ khi trở lên giường.
Lần này ông ngồi đến tận sáng. Khi Poirot thức giấc, tàu vẩn chưa đi được. Poirot nâng bức mành lên để nhìn ra ngoài, từng mảnh tuyết to ngăn chặn đoàn tàu. Nhìn đồng hồ Poirot thấy đã hơn 9 giờ.
Lúc 10g thiếu 15, sau khi đã sửa soạn kỹ, Poirot bước vào toa ăn ở đó mọi người đang bàn tán xôn xao vì vụ đường bị nghẽn.
Tất cả những chênh lệch xã hội được xoá bỏ giữa đámhành khách. Sự xui xẻo đã làmcho họ xích lại gần nhau. Bà Hubbard nói vẫn nhiều hơn ai hết.
- Con gái tôi đã dặn tôi là nên nghỉ ngơi cho đến Paris. Chúng ta phải chịu tình trạng này đến bao giờ? Rõ khổ, tàu tôi lại nhổ neo ngày kia rồi? Làmthế nào bây giờ? Tôi lại không thể đánh điện để hủy chỗ nữa chứ - chỉ nghĩ đến tình thế này làmtôi tức lên rồi!
Người đàn ông Ýnói là những công việc đang trông đợi ông ở Milan và gã người Mỹ trong bộ quần áo sặc sỡ cố an ủi bà Hubbard:
- Chị tôi và các cháu đang đợi tôi. - người đàn bà Thụy Điển rên rỉ - Không có cách nào để bảo cho họ? Họ sẽ nghĩsao? Không khéo họ lại nghĩ có chuyện không may xảy ra cho tôi.
- Chúng ta sẽ ở đây bao nhiêu lâu? - Có ai biết không nhỉ?
Mary Debenhamlên tiếng, giọng của cô ta tỏ vẻ sốt ruột, nhưng Poirot nhận thấy cô ta không hề lo lắng khi con tàu tốc hành "Bò tót" ngừng lại ở đây.
Bà Hubbard lại ca thán:
- Chẳng ai trên tàu có khả năng cho ta biết về sự chậmtrễ này! Họ chẳng cần quan tâmđến, chứ ở nước tôi thì...
Quay sang Poirot, Arbuthnot nói bằng tiếng Pháp pha đầy giọng Anh - Ông là giámđốc của ngành phục vụ, phải không thưa ông? Ông có thể cho chúng tôi biết...
Tươi cười, Poirot vội đính chính:
- Thưa ông, không phải tôi, ông nhầmtôi với ông Bouc, bạn tôi đấy.
- Ồ, xin lỗi ông.
- Không sao, ông nhầmcũng bình thường thôi vì tôi hiện đang ở phòng của ông ấy.
Không thấy ông Bouc trong toa ăn, Poirot đảo mắt quanh toa để xemcòn thiếu ai.
Công chúa Dragomiroff, cặp vợ chồng trẻ người Hung, Ratchett, người hầu của ông ta và bà hầu phòng người Đức không thấy có mặt trong toa.
Bà người Thụy Điển lau nước mắt.
- Tôi khóc thật kỳ cục. Dù sao đi nữa chúng ta cũng phài chấp nhận số phận thôi.
Tuy nhiên không phải ai cũng nhẫn nhục như bà.
- Bà không hiểu là chúng ta có thể bị kẹt ở đây nhiều ngày hay sao? - Mac Queen nói.
- Chúng ta đang ở đâu nhỉ? - Bà Hubbard rên rỉ.
Một người cho bà Hubbard biết là con tàu đang ở NamTư.
- Chỉ có cô là có vẻ không sốt ruột thôi? - Poirot nói với Mary Debenham.
Mary khẽ nhún vai:
- Rầu rĩ mà giải quyết được gì?
- Cô thật triết lý đấy!
- Thật ra tôi hơi ích kỷ và cố gắng tránh cho mình mọi xúc động vô ích.
Mary có vẻ nói cho chính mình, cô đưa mắt nhìn về phía cửa sổ, chỗ những mảnh tuyết bên ngoài.
- Cô có vẻ can đảm. Trong tất cả mọi người ở đây cô là người nhiều nghị lực nhất đấy.
- Ồ không đâu, thưa ông. Tôi biết một người vững vàng hơn tôi nhiều.
- Ai thế?
Mary chợt ý thức là mình đang nói chuyện với một người lạ, cô cười khỏa lấp và nói:
- Tôi muốn nói đến cái bà... Chắc ông cũng đã để ý đến bà ấy. Một bà thật xấu, nhưng lại có sức thu hút khá mạnh... Bà ta chỉ cần đưa ngón tay út lên, nói vài câu lịch sự là tất cả nhân viên trên tàu thuỷ sẽ chạy đến phục vụ bà ấy...
- Họ cũng sẵn sàng chạy đến ông Bouc bạn tôi, vì ông ấy là một trong những giámđốc của Cục Đường sắt chứ đâu phải vì ông ta là người tài trí?
Mary Debenhammỉmcười.
Đã gần trưa nhưng nhiều hành khách, trong đó có Poirot, vẫn còn ngồi lại trong toa ăn để tán gẫu. Poirot biết rõ hơn về con gái bà Hubbard và càng rõ hơn nữa về chồng của bà! Những thói quen của ông từ lúc thức dậy cho đến khi ông Hubbard đi ngủ phải mang vớ do chính bà Hubbard đan.
Khi Poirot đang nói chuyện với bà người Thụy Điển thì nhân viên của toa kút sét tiến về phía ông.
- Xin lỗi ông.
- Chuyện gì vậy?
- Ông Bouc mời ông đến nói chuyện.
Poirot cáo lỗi và theo anh nhân viên. Anh ta không phải là gã tài xế toa của Poirot mà là một người cao lớn, tóc vàng. Anh ta gõ một cánh cửa ở toa xe sau và nhường chỗ cho Poirot bước vào.
Đó là một phòng thuộc toa hạng nhì... được chọn có lẽ vì rộng. Bên trong đã đầy người.
Ông Bouc ngồi ở góc phòng. Trước mặt ông là một người đàn ông tóc nâu, đang nhìn tuyết rơi bên ngoài. Một người đàn ông to lớn, trong bộ đồng phục xanh, đứng án ngữ ngay lối vào. Sau cùng là nhân viên phục vụ toa của Poirot. - May quá, ông đây rồi - ông Bouc thốt lên khi trông thấy Poirot - Mời ông vào! Chúng tôi đang cần ông đấy. Người đàn ông tóc nâu ngồi cạnh cửa sổ lùi lại, nhường chỗ cho Poirot. Poirot bước vào và ngồi trước mặt ông Bouc. Nét mặt ông Bouc nghiêmtrọng - Chắc hẳn có vấn đề gì quan trọng.
- Chuyện gì vậy? - Poirot hỏi - Nhiều chuyện lắm. Mới đầu là trận bão tuyết nghẽn đường... và... Ông Bouc ngừng lại, người phục vụ toa tàu nằmthở dài.
- Rồisao?
- Một hành khách vừa bị ámsát đêmqua - ông Bouc nói tiếp.
- Một hành khách à? Ai vậy?
- Một người Mỹ... tên là... - ông Bouc lật những tờ giấy trước mặt - Ratchett..., đúng Ratchett.
- Vâng, đúng đấy thưa ông. - Nhân viên phục vụ nói, mặt trắng bệch.
- Hãy cho anh ta ngồi, anh ta sắp xỉu đấy! - Poirot nói.
Người xếp toa lui lại, anh phục vụ nhào đến cái ghế gục mặ vào hai tay!
- Nghiêmtrọng đấy!
- Dĩ nhiên rồi. Mọi vụ giết người luôn luôn khủng khiếp. Nhưng vụ này thì rắc rối đấy. Có thể chúng ta bị kẹt ở đây nhiều giờ. Ở chỗ khác thì cảnh sát sẽ lên tàu, nhưng ở NamTư thì khác. Ông hiểu tình trạng của chúng ta chứ?
- Vâng, điều ông nóisẽ không làmcho tình hình tốt hơn! - Poirot nhận định.
- Tình hình còn trở nên bi đát, - ông Bouc nói - Xin lỗi bác sĩ Constantine tôi đã quên giới thiệu ông với ông bạn Poirot... Người đàn ông tóc nâu và Poirot khẽ gật đầu chào nhau.
- Theo bác sĩ Constantine thì vụ án xảy ra khoảng một giờ sáng.
- Khó có thể xác định được thời gian, nhưng tôi có thể chắc là cái chết đã xảy ra với nạn nhân giữa 12 giờ đêmvà 1 giờ sáng. - Ông Ratchett được trông thấy lần cuối cùng vào lúc nào? Poirot hỏi.
- Lúc 1 giờ thiếu 20. Ông ấy đã nói chuyện với nhân viên phục vụ toa tàu.
- Đúng đấy, - Poirot nói - Chính tôi đã nghe thấy. Có phải đây là lần cuối cùng ông Ratchett được trông thấy còn sống không? - Vâng.
Bác sĩ Constantine nói thêm:
- Cửa sổ phòng ông Ratchett mở rộng để cho người ta nghĩ rằng kẻ sát nhân đã tẩu thoát bằng đường đó. Nhưng trên tuyết lại không có dấu chân nào.
- Khi nào vụ án được phát giác?
- Michel!
Người phục vụ toa kút sét ngồi thẳng dậy, vẻ hốt hoảng.
- Anh hãy giải thích cho ông Poirot chuyện gì đã xảy ra! -
ông Bouc ra lệnh.
Bằng một giọng run run, anh ta bắt đầu kể:
- Sáng nay, người hầu của ông Ratchett đã gõ cửa nhiều lần mà không có tiếng trả lời. Cách đây 1 giờ người hầu trưởng của toa muốn biết ông Ratchett có ăn trưa không. Lúc đó là 11 giờ, tôi đã mở cửa phòng của ông Ratchett bằng chìa khóa riêng. Nhưng dây xích an toàn đã được gài bèn trong và không có ai trả lời cả. Trong phòng yên lặng như tờ, nhưng lại rất lạnh, lạnh vì cửa sổ mở và tuyết không ngừng tràn vào phòng. Nghĩ rằng ông khách bị ốm, tôi vội đi gặp ông xếp tàu và chúng tôi đã phải phá dây xích an toàn để vảo phòng. Ông Ratchett đã bị... Trời ơi! Khủng khiếp quá.
Anh ta lại vùi mặt vào đôi bàn tay:
- Cửa phòng đóng và dây xích an toàn được gài bên trong? - Poirot lập lại - Có phải là tự tử không?
Bác sĩ Constantine cười mỉa mai:
- Một người tự tử mà tự đâmvào mình 10 hay 12 nhát à?
Poirot mở to mắt.
- Hung dữ vậy sao?
Lần đầu tiêu người xếp tàu nói:
- Hung thủ là đàn bà. Hãy tin tôi đi, chỉ có đàn bà mới đâmkiểu đó -
Bác sĩ Constantine nhíu mày:
- Nếu là đàn bà, thi người ấy phải mạnh lắm. Không cần giải thích dài dòng tôi có thể nói là một vài nhát đã mạnh đến độ xuyên qua nhiều lớp gân.
- Thoạt nhìn thì vụ án này không có gì là khoa học cả.
- Đúng thế, - bác sĩ Constantine nói - Hình như những nhát dao đều được đâmmột cách may rủi và có những nhát gần sớt qua da thôi. Ta có cảmtưởng kẻ sát nhân đã bịt mắt khi đâm.
- Đó là một người đản bà. Đàn bà thường thế. Sự giận dữ làmsức mạnh họ tăng thêm- Người xếp tàu nói đầy kinh nghiệm.
- Tôi có thể cung cấp thêmdữ kiện, - Poirot nói - Ông Ratchett đã nói chuyện với tôi hômqua, theo tôi biết thì cuộc sống của ông ấy bị đe dọa.
- Có lẽ bởi bọn găng-tơ Hoa Kỳ trong trường hợp đó, hung thủ không phải là đàn bà.
Người xếp tàu có vẻ mếch lòng khi thấy lập luận của mình bị bẻ gẫy.
- Vậy thì, hung thủ là một tay mơ ngủ, - Poirot nói một cách bực dọc.
- Tôi để ý trên tàu, có một người Mỹ ăn mặc loè loẹt, miệng luôn luôn nhai kẹo cao su. Chắc ông biết tôi nói ai chứ nhĩ? - ông Bouc hỏi người phục vụ.
- Vâng thưa ông, ông ta ở phòng 16. Nhưng nếu là ông ấy thì tôi đã thấy ông ta ra vào rồi.
- Chưa chắc đâu. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Bây giờ ta phải làmgì đây? - ông Bouc hỏi Poirot. Ông nói tiếp:
- Chắc ông bạn cũng hiểu tôi mong gì ở ông. Tôi biết khả năng của ông. Ông hãy điều khiển cuộc điều tra. Xin ông đừng từ chối. Đối với chúng tôi, Tổng Cục Quốc Tế Đường Sắt phụ trách về toa kút-sét, vụ này quan trọng lắm. Nó sẽ đơn giản hơn nếu chúng ta tìm ra hung thủ. Trước khi cảnh sát NamTư đến. Nếu không, chúng ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Có thể là những người vô tộisẽ bị buộc tội. Đằng này nếu ông tìmra câu trả lời cho vụ án, chúng ta sẽ nói khi họ đến "Một vụ án mạng đã xảy ra và đây là thủ phạm".
- Nếu tôi thất bại...?
- Ôi, ông bạn thân mến. Tôi đã từng nghe danh ông và biết cách làmviệc của ông. Đây là một vụ cần đến ông. Nghiên cứu quá khứ của tất cả hành khách, điều đó đòi hỏi thời gian. Nhưng ông đã từng nói với tôi là muốn tìmra thủ phạm, thì cần ngồi imvà suy nghĩ? Vậy thì, xin ông hãy bắt tay vào việc! Hãy hỏi tất cả những hành khách trên tàu, xemxét tử thi, suy nghĩ về những dữ kiện, tôi chắc chắn ông
sẽ thành công. Hãy cho những chất xámlàmviệc - như ông vẫn thường nói - và ông sẽ timra thủ phạm. Ông Bouc nhìn Poirot đầy thiện cảm.
- Sự tín nhiệmcủa ông làmtôi thật cảmkích. Poirot nói bằng một giọng xúc động. Như ông vừa nói, bài toán e không dễ. Tối hôm qua... nhưng thôi ta không nên lẩn lộn. Trước đây nửa giờ, tôi chán nản nghĩ là chúng ta bị kẹt ở đây hằng giờ. Vậy mà bây giờ lại xảy ra một vụ án... thật rắc rối.
- Vậy là ông nhận lời?
- Vâng tôi nhận. Ông giao tôi cuộc điều tra này!
- Toàn bộ... thưa ông... và chúng tôisẽ tuân theo mọi ý kiến của ông.
- Trước hết ông cho tôi một sơ đồ của toa tàu ngủ Constantinopol-Calais với tên những hành khách của từng phòng, thẻ thông hành và vé của họ.
- Michel, hãy đi lấy tất cả những thứ ấy.
Michel rời khỏi phòng.
- Những hành khách khác của chuyến tàu này là ai?
- Trong toa này chỉ có bác sĩ Constantine và tôi. Trong toa Bucarest, có một ông lão què và quen với tài xế. Sau đó là toa hành lý không làmchúng ta quan tâmlắm. Vì khi bữa ăn được dọn lên tối qua, thì toa này đã được khoá.
- Nếu thế e rằng chúng ta phải tìmthủ phạmtrong toa Constantinople - Colais - Quay sang bác sĩ Constantine, Poirot hỏi - Ông cũng đồng ý chứ?
Bác sĩ Constantine gật đầu.
- Từ 12 giờ 30 đến 1 giờ, chúng ta đã bị nghẽn đường, từ lúc đó trở đi không một ai rời tàu...
Đến đây ông Bouc gằn từng tiếng:
-Thủphạmởcùngvớichúngtarongtoatàunày.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Vi Một Người Đàn Bà?
Trước hết tôi muốn nói chuyện với Mac Queen. Anh ta có thể cho chúng ta một vài chi tiết quý báu. T
- Lẽ dĩ nhiên, - ông Bouc nói.
Ông ta quay về phía xếp tàu:
- Anh hãy mời ông Mac Queen đến đây. - Michel bước vào trên tay cầmgiấy thông hành và vé tàu giao cho ông Bouc. - Cámơn Michel. Hiện giờ anh nên trở lại làmviệc, lát nữa chúng tôisẽ hỏi anh.
- Thưa ông vâng.
Michel rời khỏi phòng.
- Khi chúng ta đã hỏi Mac Queen xong, bác sĩ vui lòng trở lại phòng của nạn nhân với tôi nhé? - Poirot hỏi. - Sẵn sàng thôi.
Sau đó, người xếp tàu trở lại, theo sau là Mac Queen.
Ông Bouc đứng dậy nhường chỗ cho Mac Queen.
- Ở đây chật chội. Anh hãy ngồi chỗ tôi. Ông Poirot sẽ ngồi trước mặt anh - Quay sang người xếp tàu, ông Bouc nói tiếp:
- Anh hãy cho mọi người ra khỏi toa ăn, đế ông Poirot sẽ sử dụng toa đó. Mời ông sang đấy làmviệc. - Có lẽ như thế tốt hơn.
Poirot gật đầu.
Mac Queen đứng yên hết nhìn người này đến người kia, anh không tài nào hiểu những câu nói nhanh bằng tiếng Pháp: - Chuyện gì thế? Tạisao?...
Poirot mời Mac Queen ngồi xuống ghế ở góc phòng.
- Tạisao?... - Mac Queen lặp lại, sau đó anh tiếp tục hỏi bằng tiếng Mỹ:
- Có chuyện gì xảy ra trên tàu?
- Vâng, Poirot trả lời. Có chuyện quan trọng vừa xảy ra. Anh hãy bình tĩnh nghe tin chẳng lành: ông Ratchett, chủ anh, chết rồi! Miệng Mac Queen tròn lại. - Từ ánh mắt của anh, hoàn toàn không thấy sự xúc động hay xót thương nào. - Cuối cùng họ cũng giết được ông ta, - anh ta nói.
- Anh nói thế nghĩa là thế nào, anh Mac Queen?
Mac Queen do dự một lúc.
- Theo anh thì ông Ratchett bị ámsát à? - Poirot hỏi.
- Ông ta không bị giết à?
Lần này, Mac Queen lộ vẻ ngạc nhiên rõ rệt.
- Tôi cứ tưởng ông ta bị giết... Ông muốn nói là ông Ratchett bị chết một cách bình thường, trong giấc ngủ à? Sức khỏe của ông ta... - Không, không. - Poirot cắt ngang. - Sự nghi ngờ của anh đúng đấy. Ông Ratchett đã bị giết... bị đâm. Tôi muốn biết tạisao anh lại
chắc chắn, đây là một vụ ámsát chứ không phải là một cái chết hình thường.
Suy nghĩ một lúc Mac Queen nói:
- Trước hết xin ông cho tôi biết ông giữ vai trò gì trong vụ này?
- Tôi đại diện cho Công Ty Quốc Tế Đường sắt toa kút-sét. Tôi là một thámtử, tên tôi là Hercule Poirot.
Nếu Poirot mong đợi ở Mac Queen một sự ngạc nhiên, cảmphục thì ông đã lầm. Mac Queen chỉ gục đầu nói: - Ra thế! - và đợi Poirot nói tiếp.
- Anh đã nghe qua tên tôi rồi chứ.
- Vâng, tên ông hơi quen quen. Nhưng tôi cứ ngỡ đó là tên một nhà thợ may danh tiếng.
Hercule Poirot lườmMac Queen và nói:
- Thật không thể chấp nhận được.
- Cái gì không thể chấp nhận được, thưa ông?
- À, Không có gì. Chúng ta trở lại vấn đề. Anh Mac Queen, tôi mong anh nói hết những gì anh biết về nạn nhân. Anh là họ hàng của ông Ratchett à?
- Không. Tôi là... hay đúng hơn tôi đã là thư ký của ông ta.
- Từ bao lâu?
- Một nămnay.
- Anh hãy cho biết thêmchi tiết?
- Tôi đã biết ông Ratchett hơn một nămnay, khi tôi còn ở Perse.
Poirot hỏi ngang.
- Anh làmgì ở đó?
- Tôi từ New York đến để thamquan một cơ sở dầu khí. Nhưng công việc thất bại cho tôi và bạn tôi. Ông Ratchett lúc đó ở cùng khách sạn với chúng tôi. Ông vừa cho người thư ký cũ thôi việc và đã thâu tôi làmviệc. Ở vào thế kẹt nên tôi đã sung sướng nhận lời...
- Rồi từ đó?
- Chúng tôi đã đi du lịch nhiều nơi. Ông Ratchett muốn biết thế giới nhưng lại bị hạn chế vì không biết nhiều ngoại ngữ; về phần tôi thì cuộc sống nay đây mai đó rất thích hợp.
- Anh hãy cho tôi biết về chủ của anh.
Mac Queen khẽ nhún vai và nói:
- Ông bắt tôi làmmột việc hơi khó đấy.
- Tên thật của ông ấy là gì?
- Sanuel Edward Ratchett.
- Ông ta là người Mỹ à?
- Vâng.
- Ông ta thuộc vùng nào?
- Tôi không rõ.
- Vậy anh hãy nói cho tôi những điều anh biết.
- Thật ra thì tôi chẳng biết gì về ông Ratchett. Ông ta chẳng bao giờ nói với tôi về bản thân, và ngay cả đến cuộc sống của ông ở New York.
- Anh có biết tạisao không?
- Thưa không. Nhưng tôi nghĩ rằng rất có thể ông ấy xấu hổ về dĩ vãng của mình, có nhiêu người như thế. - Ông ta có gia đình không?
- Ông ta không bao giờ nhắc đến.
- Anh Mac Queen, chắc chắn anh phải có một nhận xét riêng về ông Ratchett chứ?
- Dĩ nhiên. Tôi nghĩ là Ratchett không phải là tên thật của ông ấy. Ratchett đã rời đất Mỹ để trốn một kẻ nào đó. Và hình như ông ta đã thành công cho đến hai tuần lễ cuối này.
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Ratchett đã nhận được những bức thư hămdọa.
- Anh có đọc chúng không?
- Có. Xemtrước những bức thư là nhiệmvụ của tôi. Bức thư thứ nhất đã đến cách đây 15 ngày...
- Những bức thư này có được hủy không?
- Một vài cái thôi. Tôi vẫn còn giữ hai cái trong tập hồ sơ của tôi. Ông có muốn tôi đi lấy chúng không? - Vâng, anh làmơn hộ.
Mac Queen rời khỏi phòng. Vài phút sau Mac Queen trở lại và đặt trước mặt Poirot hai tờ giấy:
Bức thư đầu tên, không ký tên, được viết như sau:
"Ông tưởng rằng thoát khỏi tay chúng tôi, ông lầmto rồi. Chúng tôi đã thề sẽ giết ông và chúng tôisẽ làmđược". Không bình phẩmmột lời nào ngoài cái nhíu mày, Poirot đọc bức thư thứ hai.
"Chúng tôisẽ đưa ông đi du lịch ông Ratchett ạ. Và cuối cùng ông sẽ không thoát được".
Cách hành văn hơi đon điệu, Poirot nhận xét. Nét chữ có vẻ sắc sảo.
Mac Queen chămchú nhìn Poirot không hiểu.
- Chắc ông không nhận thấy, - Poirot nới bằng giọng thông cảm. - Phải có cặp mắt tinh đời mới thấy rằng bức thư này do ít nhất hai người viết, có khi là nhiều người viết. Mỗi người đã viết một chữ. Ngoài ra, họ đã viết bằng chữ in nên việc nhận ra chữ rất khó, - ngừng một lúc Poirot tiếp:
- Anh có biết là Ratchett đã nhờ tôi bảo vệ ông ấy không?
- Ông à?
Sự ngạc nhiên của Mac Queen cho thấy rõ là anh ta hoàn toàn không hay biết gì về sự việc trên.
- Phải, tôi, - Poirot đáp - ông ta tỏ vẻ rất lo lắng. Thái độ của ông ấy khi nhận được bức thư đầu tiên như thế nào? - Ông ta chỉ cười và không hề tỏ ra nao núng. Tuy nhiên tôi có cảmtưởng như ông ta cố làmra vẻ bất cần. Đến đây Poirot bỗng đặt một câu hỏi rất đột ngột:
- Anh Mac Queen, anh hãy cho tôi biết một cách tường tận anh nghĩ gì về ông chủ của anh? Anh có thích ông ấy không? Hector Mac Queen chỉ trả lờisau một lúc suy nghĩ:
- Không, tôi không thích ông ấy!
- Tạisao?
- Tôi cũng không hiểu tạisao vì ông ta luôn luôn tỏ ra rất dễ thương. - Ngừng một lúc, Mac Queen tiếp:
- Thành thật mà nói, Ratchett không đemlại cho tôi lòng tin tưởng, ông ấy có vẻ ác độc và nguy hiểm. Tôi phải thú thật là không có một lý do cả nhân nào để nhận xét về Ratchett như thế.
- Tôi cámơn anh, anh Mac Queen. À còn một câu hỏi nữa: Anh đã trông thấy Ratchett lần cuối cùng còn sống vào lúc nào? - Tối hômqua, khoảng... 10 giờ. Tôi đến phòng ông ta để xin một vài ý kiến.
- Vấn đề gì?
- Về những đồ cổ mua ở Perse Ba Tư. Những đồ này không ăn khớp với bông đặt hàng.
- Có đúng đó là lần cuối cùng anh trông thấy Ratchett còn sống không?
- Vâng, đúng thế!
- Anh có biết ông Ratchett đã nhận được bức thư đe dọa cuối cùng lúc nào không?
- Sáng hômông ta rời Constantinople - Tôi muốn biết anh có hòa thuận với ông Ratchett không?
Mắt của Mac Queen khẽ chớp.
- Không! Ratchett và tôi chưa bao giờ cãi nhau.
- Anh Mac Queen, anh hãy vui lòng cho tôi biết. Tên họ, địa chỉ ở Mỹ của anh.
- Hector Willard Mac Queen, chỗ ở New York.
Poirot dựa mình vào thành ghế.
- Như thế tạmđủ rồi anh Mac Queen ạ. Tôi đề nghị anh nên giữ bí mật về cái chết của ông Ratchett.
- Mastesman người hầu của Ratchett sẽ rõ thôi.
- Có lẽ hiện giờ, phút này anh ta đã biết rồi. Vậy anh hãy cố làmanh ta giữ lời.
- Cũng không khó đâu. Đúng phong cách của người Anh, Mastesman sẽ giữ những gì anh ấy biết. Anh ấy đánh giá người Mỹ rất thấp.
- Cảmơn anh Mac Queen.
Mac Queen rời phòng.
- Sao, ông Bouc hỏi. Ông có tin những lời của anh chàng này không?
- Anh ta có vẻ thật thà. Mac Queen đã không che giấu là anh ta không ưa Ratchett. Ratchett cũng không cho Mac Queen biết ông ấy đã nhờ đến tôi giúp đỡ. Tôi nghĩ đây không phải là một trường hợp khả nghi. Ratchett là người không cần đến lời khuyên của kẻ khác.
- Như vậy Mac Queen vô tội, - ông Bouc vừa cười vừa nói.
Poirot nhìn ông ta với vẻ trách móc.
- Tôi nghi ngờ tất cả mọi người cho đến phút cuối. Tuy nhiên tôi cũng khó chấp nhận cảnh Mac Queen điềmđạmvà kín đáo, mất bình tĩnh, dễ đi đến chỗ đâmông chủ của mình tới 12 nhát dao. Điều đó không phù hợp chút nào với tính khí của Mac Queen.
- Không, - ông Bouc nói. - Sự hung dữ của vụ ámsát cho thấy đó là hành động của một kẻ điên loạn, gần như là sự thù hằn của một người La-tinh. Và nếu theo như ý kiến của người xếp ga, thì đó là hành động của một người đàn bà.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Vii Nạn Nhân
Theo sau là bác sĩ Constantine, Poirot bước sang toa kế tiếp và vào phòng nạn nhân. Người phục vụ mở cửa cho họ bằng chìa khóa của mình.
T
Poirot hỏi khi bước vào phòng:
- Có gì bị xê dịch không?
- Không một vật gì được di chuyển. Tôi cũng tránh không lật xác nạn nhân lại khi khámxét. - Bác sĩ Constantine nói. Poirot nhìn xung quanh một cách vừa ý.
Điều làmcho ông chú ý trước tiên là cái lạnh khủng khiếp đang tràn vào phòng qua cửa sổ vẫn còn mở. - Ôi, lạnh quá. - Poirot thốt lên.
- Tôi nghĩ là nên để mọi vật ở đúng vị trí cũ nên đã không đóng cửa. - Bác sĩ Constantine vừa nói vừa cười. Poirot xemxét cửa sổ.
- Ông có lý đấy. Không có ai ra khỏi nơi đây bằng ngả này. Cánh cửa sổ này mở là cố tình làmcho ta lầmtưởng. Tuyết đã làmhỏng ý định của kẻ sát nhân.
- Không có dấu vết, điều đó chứng tỏ là người ta đã xóa hết vết tích. Nếu có, thì chúng cũng không cho ta biết thêmgì vì đó cũng
chỉ là dấu tích của Ratchett. Ở thời đại chúng ta thì những kẻ sát nhân không ngờ nghệch đến thế. Thời chúng ta hãy kéo cửa kính này xuống, không thôi thì cứ như là ở trong tủ lạnh.
Sau khi kéo cửa sổ xuống, Poirot quay sang nhìn xác chết.
- Ratchett nằmngửa. Cái áo ngủ dính đầy máu được mở tung ra.
- Tôi muốn xemtình trạng những vết thương. - Bác sĩ Constantine giải thích.
Poirot cúi xuống bên xác chết rồi ngẩng lên, nhăn mặt nói:
- Trông thật ghê rợn. Kẻ sát nhân phải đứng ở đây và đâmnhiều lần. Có tất cả bao nhiêu vết thương nhỉ? -Tôi đếmđược mười hai vết. Một hay hai nhát chỉ là những vết trầy thôi. Vả lại ba nhát cũng đủ làmnạn nhân chết rồi. Có một cái gì đó trong giọng nói của bác sĩ Constantine làmPoirot ngạc nhiên. Poirot thấy bác sĩ đang nhíu mày nhìn xác Ratchett. - Ông vừa tìmthấy một điều gì bất ổn phải không? Ổng hãy cho tôi biết điều gì làmông ngạc nhiên đi.
- Tôi nhận thấy có một sự kiện lạ lùng.
- Điều gì?
- Ông hãy nhìn hai vết đâmnày, vết này và vết kia (vừa nói Constantine vừa chỉ hai nhát đâmcho Poirot) chúng rất sâu... chắc phải chạmvào động mạch, vậy mà chúng lại không rộng; Bình thường hai vết này phải gây ra xuất huyết nhiều, vậy mà.
- Điều đó chứng tỏ?
- Rằng Ratchett đã chết một lúc rồi mới bị đâmhai nhát này... nhưng điều đó thật vô lý.
- Trừ phi, - Poirot trầmngâmnói, - tên sát nhân tưởng là nạn nhân chưa chết, đã trở lại đâmtiếp hai nhát này cho chắc ăn. Nhưng giả thuyết này không hợp lý chút nào. Bác sĩ còn thấy thêmgì không?
- Có, còn một chi tiết nữa.
- Chi tiết gì?
- Ông thấy vết thương này chứ... dưới cánh tay phải, gần vai. Hãy cầmlấy bút chì của tôi và hãy thử đâmnhư thế đi. Poirot hạ mạnh cánh tay xuống.
- Tôi hiểu. Với tay mặt thì gần như không thể đâmđược như thế. Muốn như vậy ta phải gần như bẻ quặt cổ tay lại. Nhưng nếu đâm bằng tay trái thì.
- Đúng đấy ông Poirot ạ, vết đâmnày phải do tay trái gây ra.
- Như vậy tên sát nhân của ta thuận tay trái à? Đâu đơn giản thế được, phải không bác sĩ?
- Ông có lý đấy ông Poirot ạ. Một vài vết đâmrõ ràng được gây ra bởi tay phải.
- Haisát nhân à. Đèn có được bật sáng không nhỉ? - Poirot đột ngột hỏi.
- Thật khó nói. Mỗisáng, nhân viên tàu cúp cầu dao lúc 10 giờ.
- Chúng ta hãy thử xemcông tắc, - Poirot nói.
Poirot xemcông tắc đèn trần và đèn ngủ cạnh giường.
- Như thế là tất cả đèn đều đã được tắt. Chúng ta đang đứng trước giả thuyết kẻ sát nhân thứ nhất và kẻ sát nhân thứ nhì như Shakespeare nói. Tên sát nhân thứ nhất đâmxong nạn nhân ra khỏi phòng sau khi đã tắt đèn. Tên sát nhân thứ hai lọt vào phòng và trong bóng tối không biết là công việc đã có người đến trước làmrồi, đâmthêmít nhất là hai nhất nữa. Ông nghĩsao về ý kiến này?
- Tuyệt quá - bác sĩ Constantine thốt lên - ông nghĩ thế à? Như thế là tôi yên trí - Chỉsợ rằng đã nói lên một điều vô lý thôi. - Vậy thì làmthế nào để giải thích hai vết đâmsau này?
- Tôi cũng chưa biết. Còn thêmchi tiết nào về việc có hai tên sát nhân không?
- Tôi nghĩ có thể chứng minh điều đó. Một vài nhát đâmcho thấy sự yếu đuối thiếu sức mạnh và ý chí... trong khi đó nhát này và
nhát kia (ông ta chỉ hai vết đâmđã khép lại) đòi hỏi một sức mạnh thể xác.
- Theo ông thì chỉ có một người đàn ông mới có thể đâmnhư thế à?
- Tôi gần như chắc chắn điều đó.
- Một người đàn bà không làmđược sao?
- Một phụ nữ còn trẻ, tràn đầy sức sống, một lực sĩ thì có thể được. Đặc biệt là nếu cô ta đang bị xúc động mạnh. Nhưng theo lời, thì điều ấy hầu như không thể xảy ra được.
Poirot imlặng.
Ngạc nhiên, bác sĩ Constantine hỏi;.
- Ông hiểu quan điểmcủa tôi chứ?
- Vâng, - Poirot nói - Tất cả đều rõ ràng! Kẻ sát nhân là một người đàn ông khỏe mạnh, nếu yếu, đó là một người đàn bà. Hắn có thể thuận tay phải, tay trái. Ôi! Thật buồn cười. - Poirot tiếp bằng một giọng tức giận.
- Còn nạn nhân? Nạn nhân thìsao? ông ta không hét à? ông ta có giãy giụa, có chống cự không?
- Luồn tay dưới gối, Poirot rút ra khẩu súng lục mà Ratchett đã cho ông xem.
- Đầy đạn, bác sĩ hãy xemđi!.
Cả hai người đều nhìn quanh phòng. Quần áo của Ratchett treo ở máng áo cạnh vách. Trên bàn có nhiều đồ dùng khác nhau. Trong một cái ly là hàmrăng giả của Ratchett và cạnh chai nước suối là một cái ly không, một bình nước một gạt tàn đựng những mẫu xì-gà, những mảnh giấy bị đốt cháy; và hai que diêmđã được sử dụng.
Bác sĩ Constantine cầmlấy cái ly và ngửi.
- Đây là những bằng chứng về việc bất động của nạn nhân.
- Người ta đã cho ông ấy uống thuốc ngủ ả?
- Phải.
Poirot nhặt hai que diêmvà xemxét kỹ.
- Ông có tìmthấy gì không? - Bác sĩ Constantine hỏi.
- Hai que diêmnày có hình dáng khác nhau. Một que có đầu dẹp hơn que kia.
- Những que đầu dẹp được bán trên tàu.
Poirot lục túi của Ratchett và kéo ra một bao diêm, ông lấy một que so sánh với hai que diêmđã được sử dụng. - Que diêmcó đầu tròn là do Ratchett đốt. Thử xemông ta có que diêmdẹp không?
Poirot lục soát lại, nhưng vô hiệu.
Cặp mắt của Poirot nhanh nhẹn và soi mói như mắt chimkhông bỏ sót một góc nào của căn phòng.
Bỗng nhiên Poirot kêu lên và cúi xuống lượmmột vật gì trên thảm: Một mảnh vải mỏng có thêu chữ "H" ở góc:
- Đây là khăn tay của một người đàn bà, bác sĩ Constantine nhận xét. Anh xếp tàu đã không lầmkhi nói có một người đàn bà trong vụ này.
- Do một sự ngẫu nhiên, cô ta đã để rơi chiếc khăn tay, - Poirot giải thích, - cứ giống như trong tiểu thuyết hay trong những phim trinh thám. Và để làmcho công việc của chúng ta dễ dàng hơn, chiếc khăn tay lại có chữ đầu.
- Một dấu hiệu hơi thừa, phải không?
Giọng của Poirot làmbác sĩ Constantine ngạc nhiên. Không đủ cho ông ta có thì giờ hỏi, Poirot lại cúi xuống đất. Lần này thì ông lượmlên một cái nạo ống điếu.
- Vật này có lẽ của ông Ratchett, - bác sĩ Constantine nói.
- Tôi không tìmthấy ống điếu, thuốc lá và hộp đựng thuốc ở trong túi nạn nhân.
- Trong trường hợp này thì hai vật ấy cũng là những tang vật.
- Đúng thế. Và nó đến thật đúng lúc. Lần này là đồ dùng của một kẻ hay hút thuốc. Chúng ta không nên than vãn vì thiếu manh mối. Chúng rất nhiều nữa là khác. Không hiểu vũ khí giết người đâu nhỉ?
- Tôi chẳng thấy dấu vết nó. Có lẽ tên sát nhân đã mang theo rồi.
- Vì lý do gì?
- Điều đó thì.
Bác sĩ Constantine lại tìmmột lần nữa trong túi nạn nhân.
- Ủa, tôi không để ý đến cái này.
Từ trong túi áo, ông lôi ra một cái đồng hồ bằng vàng. Cái vỏ đã bị móp méo và kimđồng hồ chỉ 1 giờ 15.
- Ông thấy đấy, chúng ta biết giờ xảy ra án mạng rồi. Dự đoán của tôi khá đúng. Vụ ámsát xảy ra giữa 12 giờ khuya và 2 giờ sáng và tôi đã thêm: khoảng 1 giờ sáng. Và đây là bằng chứng vụ án xảy ra lúc 1 giờ 15.
- Có thể, rất có thể!.
Bác sĩ Constantine đưa mắt nhìn Poirot dò hỏi.
- Xin lỗi ông Poirot, nhưng tôi không hiểu ông.
- Tôi còn chưa hiểu tôi, và tôi hoàn toàn không hiểu gì về vụ án này. Điều đó làmtôi rất ngạc nhiên.
Buông một tiếng thở dài, Poirot cúi xuống bàn và nhìn những mảnh giấy đã bị đốt cháy.
- Điều tôi cần bây giờ, - Poirot nói, - là một hộp đựng mũ theo mốt cổ điển.
Bác sĩ Constantine không hiểu gì về câu nói của Poirot. Không để ông hỏi, Poirot mở cửa và gọi nhân viên phục vụ. - Có bao nhiêu bà du lịch trong toa tàu này?
- Anh đếmtrên đầu ngón tay.
- Một, hai, ba... sáu thưa ông. Bà Mỹ già, bà Thụy Điển, cô gái người Anh trẻ, quận chúa Andrenyi và công chúa Dragomiroff với người hầu phòng của bà.
Poirot suy nghĩ một lúc.
- Tất cả những bà này đều có hộp đựng mũ chứ? 1
- Thưa ông vâng.
- Anh đemđến cho tôi hộp đựng mũ của bà người Thụy Điển và của cô hầu phòng. Hãy nói với họ là thuế vụ đòi xét hay là anh hãy bịa cho họ mọi lý do cần thiết.
- Tất cả sẽ ổn thôi thưa ông. Hiện giờ thì cả hai bà đều không có trong phòng.
- Vậy, anh hãy làmnhanh đi.
Anh ta đi một lúc và trở lại với hai hộp đựng mũ. Poirot mở hộp của cô hầu phòng sau khi xemxong ông đẩy qua một bên. Khi mở hộp đựng mũ kia ra, ông reo lên vui mừng. Lấy những cái mũ ra một cách cẩn thận, ông trông thấy những cuộn nhỏ bằng kimkhí mảnh.
- Đây, cái chúng ta cần đây rồi. Cách đây mười lămnăm, tất cả những hộp đựng mũ đều được làmtheo kiểu này. Người ta gắn mũ với những kimdài vào những cuộn này.
Vừa nói Poirot vừa gỡ hai cuộn ra. Sau đó ông lại để những cái mũ vào chỗ cũ.
Cánh cửa vừa đóng lại, Poirot quay sang bác sĩ Constantine.
- Ông hiểu chứ? tôi không phải là người dựa vào hoàn toàn cách làmviệc của những chuyên viên trong một vụ án. Tôi nghiên cứu khía cạnh tâmlý, những vết tay hay đến những tàn thuốc lá. Nhưng trong trường hợp này, tôisẵn sàng nhận sự giúp đỡ của một nhà
khoa học (như ông đây). Trong phòng này đầy những dấu hiệu nhưng làmthế nào để biết là chúng không phải do kẻ sát nhân tạo ra. - Đến đây tôi không còn hiểu được ông nữa.
- Đây nhé, một ví dụ. Chúng ta tìmthấy một khăn tay phụ nữ. Có thật là một người đàn bà đã làmrơi nó không? Nếu kẻ sát nhân là một người đàn ông, hắn có thể đã lý luận, như sau:" Để cho người ta lầmtưởng thủ phạmlà một người đàn bà, ta sẽ đâmnạn nhân vài nhát trông có vẻ nhẹ và vô hại. Sau đó ta sẽ để rơi khăn tay này, chắc chắn họ sẽ tìmra nó", đó là giả thuyết thứ nhất. Một giả thuyết khác: một người đàn bà là sát nhân và đã làmrơi một cái nạo ống điểu. Chúng ta có thể kết luận ra hai kẻ, một namvà một nữ đã hành động một cách độc lập và dù vô ý để quên một vật có thể giúp ta nhận diện ra họ. Sự trùng hợp này khó tin lắm.
- Cái hộp đựng mũ giữ vai trò gì ở đây?
- Chúng ta sắp nói đến nó đây. Như tôi đã nói lúc này, cái đồng hồ ngừng chạy, chiếc khăn tay, cái nạo ống điếu có thể là những dấu vết thật hoặc giả tạo. Cho đến gíờ phút này, tôi chưa khẳng định được điều gì. Nhưng tôi đã tìmra một dấu tích mà theo tôi không phải là giả tạo. Tôi muốn nói đến que diêmdẹp đầu. Theo tôi, người ta đã dùng nó để đốt một mảnh giấy bất lợi hoặc một cái thơ mà lời lẽ có thể cho ta biết danh tánh của kẻ sát nhân. Tôisẽ cố gắng làmsáng tỏ điều này.
Poirot rời khỏi phòng và trở lại vài phút sau đó, mang theo một bếp nấu bằng alcôn và một que sắt để uốn... tóc. - Tôi dùng nó cho bộ ria của tôi, - Poirot giải thích.
Ngạc nhiên, bác sĩ Constantine nhìn Poirot kéo thẳng hai miếng thiếc của ông lấy từ trong hộp đựng mũ, quấn một đầu của miếng giấy bị đốt trên một ống và trải đầu giấy còn lại lên trên. Sau đó ông cầmtất cả bằng cái kẹp và đặt trên lò đã bật.
- Đây chỉ là một cách làmtạmbợ nhưng mong rằng sẽ thành công.
Mảnh thiếc bắt đầu rực nóng rồi bỗng nhiên trên miếng giấy đen đã bắt đầu nổi lên những chữ như bị nung bằng lửa. Người ta có thể đọc được phần cuối của một câu:
-... hơ đến cô bé Daisy Armstrong.
- Điều này giúp gì ông không? Bác sĩ Constantine hỏi.
Mắt sáng lên, Poirot để cái kẹp xuống;.
- Có chứ. Bây giờ thì tôi biết rõ tên thật của nạn nhân và lý do ông ta không còn ở Hoa Kỳ nữa.
- Ông ta tên thật là gì?
- Cassetti.
- Cassetti!... cái tên làmtôi nhớ đến, không biết rõ..., có phải đây là tên một vụ đã xảy ra tại Hoa Kỳ không? - Phải, - Poirot đáp, nhưng thay vì giải thích rõ, Poirot nhìn xung quanh và kết luận:
- Lát nữa chúng ta sẽ trở lại vấn đề. Chúng ta hãy xemkỹ một lần nữa xemcó còn bỏ sót gì trong phòng này không?
Bằng bàn tay lanh lợi, Poirot soát lại túi của nạn nhân một lần nữa, nhưng không còn tìmthấy gì. Sau đó Poirot mở thử cửa ăn thông sang phòng bên, nhưng cửa bên kia đã cài chốt.
- Còn một điều làmtôi ngạc nhiên, bác sĩ Constantine nhận xét. Nếu kẻ sát nhân đã trốn ra bằng cửa sổ, nếu cửa thông qua phòng bên khóa phía bên kia, và nếu cánh cửa hành lang không những khóa mà còn cài dây xích an toàn, vậy thìsát nhân đã trốn thoát bằng cửa nào?
- Đó là điều mà khán giả muốn biết khi xemmột nhà ảo thuật trình diễn màn bị bó tay bó chân... nhốt trong tủ. - Ông nóisao?
- Tôi muốn nói, rằng, - Poirot giải thích, - nếu kẻ sát nhân muốn ta lầmtưởng hắn đã nhảy qua cửa sổ, hắn sẽ làmcách nào cho hai lối thoát kia trở nên vô dụng. Giống như nhà ảo thuật cột lấy chân nằmtrong tủ, phải có cách để ra. Chúng ta phải lột mặt nạ nó.
Nói xong, Poirot đưa tay gài chốt cánh cửa ăn thông qua phòng bên và giải thích:
- Phòng hờ lỡ bà Hubbard tò mò muốn biết những chi tiết về vụ án để kế cho co con gái bà ta.
Poirot nhìn qua căn phòng một lần cuối và nói:
- Không còn việc gì phải làmnữa. Chúng ta hãy ra gặp ông Bouc.
--------------------------------
1 Phụ nữ thời bấy giờ đều đội mũ. Để giữ cho mũ khỏi hỏng, họ đều cất mũ trong những hộp các tông lớn.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Viii Cuộc Bắt Cóc Cô Bé Armstrong
Ông Bouc vừa ăn xong thì Poirot và bác sĩ Constantine bước vào:
- Tôi xét thấy thuận tiện nên đã cho dọn bữa ăn trưa trong toa ăn. Khi đã xong, ông Poirot có thể cho tiến hành cuộc hỏi cung những hành khách. Trong khi chờ đợi tôi đã cho người mang cơmtrưa đến đây.
- Ýkiến hay đấy! - Poirot nói.
Cả ba người đàn ông đều không đói nên bữa ăn xong nhanh, nhưng chỉ mãi đến lúc cà phê được dọn lên thì ông Bouc mới đề cập đến vấn đề đang làmhọ bận tâm.
- Sao? - Ông Boue hỏi.
- Tôi đã tìmra tông tích của nạn nhân và nguyên nhân làmông ta phải rời khỏi Hoa Kỳ.
- Ai thế?
- Ông đã bao giờ nghe nói đến embé Armstrong chưa? Nạn nhân chính là kẻ đã giết chết cô bé Daisy Armstrong. Hắn ta tên là Cassetti.
- Tôi nhớ ra thảmkịch khủng khiếp đó rồi, nhưng chi tiết thì không rõ lắm.
Đại tá Armstrong là người Anh đã được huân chương Victori 1, ông ta là người Mỹ phía bên ngoại. Mẹ Armstrong là con của Van Der Halt, một nhà tỷ phú. Armstrong thành hôn với con gái của Linda Arden nữ diễn viên nổi danh Mỹ thời bấy giờ và cặp vợ chồng Armstrong đã lập nghiệp tại Mỹ. Họ đã sinh được một người con gái mà họ rất yêu thương gần như tôn sùng. Khi đứa bé ba tuổi, một
bọn cướp đã bắt cóc nó và đòi chuộc bằng một số tiền rất lớn. Tôi không đi vào chi tiết. Nhưng sau khi đã trả 100 ngàn Đô la, người ta đã tìmthấy xác của đứa bé. Nó đã bị chết trước đó ít nhất là 15 ngày.. Dư luận đã rất phẫn nộ.
Nhưng còn một điều khác tệ hại hơn. Bà Armstrong đang mang thai, vì bị xúc động mạnh nên đứa bé đã chết trong bụng mẹ. Và bà ta cũng chết khisinh nó, điên lên vì đau buồn, đại tá Armstrong đã tự tử bằng súng lục.
- Trời đất, thật là bi thảm! tôi nhớ ra rồi, - ông Bouc nói. - Nhưng hình như còn một người nào đó đã chết vì thảmkịch này.
- À có... một cô hầu người Pháp hay Thụy Sĩ bị nghi ngờ đồng lỏa với bọn cướp. Mặc dù cô đã phản đối kịch liệt, nhưng người ta đã một mực không tin. Cuối cùng quá uất ức, cô đã nhảy qua cửa sổ tự tử. Sau đó, sự vô tội của cô mới được sáng tỏ.
- Thật khủng khiếp!.
- Sáu tháng sau, Cassetti bị bắt vì là đầu đảng của bọn cướp. Bọn chúng đã dùng cách dã man nhất vìsợ bị bắt. Chúng đã giết đứa bé; giấu xác và tiếp tục lấy tiền chuộc cho đến khi tử thi được tìmthấy. Tôi có thể khẳng định một điều: Cassetti là sát nhân. Nhưng nhờ vào tàisản to lớn của hắn và việc tống tiền đối với một số vị tai to mặt lớn, nên cuối cùng hắn được trắng án. Tuy nhiên, dân chúng đã giết hắn rồi nếu hắn không lanh lẹ cải trang và trốn khỏi Hoa Kỳ dưới một tên khác. Từ đó trở đi hắn đã bôn ba đây đó, nhờ vào tàisản của hắn.
- Ôi! Tên độc ác! - ông Bouc nói bằng một giọng kinh tởm. - Người thương tiếc hắn chắc chắn không phải tôi. - Tôi cũng thế.
- Nhưng đâu cần thiết phải giết hắn trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông này!
Poirot mỉmcười và nói:
- Phải tìmxemcó phải vụ ámsát do một băng cướp kình địch mà Cassetti đã phản bội, hay đây chỉ là một cuộc trả thù cá nhân. Poirot kể lại cho ông Bouc những chữ tìmthấy trên mảnh giấy bị đốt.
- Theo dự đoán của tôi thì cái thơ đã bị thủ phạmđốt. Tạisao ư? Vì nó có đề tên: Armstrong... tên này là chìa khóa của điều bí ẩn. - Họ hàng gia đình Armstrong còn aisống sót không?
- Rất tiếc là tôi không biết. Nhưng hình như tôi đã đọc ở đâu nói rằng ông Armstrong có một emgái. Poirot trình bày những điều ông và bác sĩ Constantine đã tìmthấy. Mặt ông Bouc rạng rỡ lên khi nghe chuyện cái đồng hồ bị đứng. - Như vậy là chúng ta có giờ của vụ án.
- Phải, điều đó rất quan trọng, Poirot nói bằng một giọng kỳ lạ làmcho hai người đàn ông kia nhìn ông, vẽ hốt hoảng. - Ông đã chẳng nói rằng ông đã nghe Ratchett nói với nhân viên phục vụ lúc 1 giờ kém20 sao? - ông Bouc hỏi. Poirot kể lại tỉ mỉ những điều đã xảy ra đêmqua.
- Như vậy tất cả đều chứng minh là Cassetti hay Ratchett vẫn còn sống lúc 1 giờ kém20.
- 1 giờ kém23 phút.
- Nói một cách khác, vào lúc 12 giờ 37 Ratchett vẫn còn sống. Đó là điều không chối cãi được.
Poirot không trả lời mà chỉ đămchiêu nhìn về phía trước.
Có tiếng gõ cửa và sau đó người hầu trường bước vào và nói:
- Thưa ông, toa ăn đã rảnh.
- Nào, chúng ta đi, - vừa nói ông Bouc vừa đứng lên.
- Tôi có thể theo các ông không? - Constantine hỏi.
- Lẽ dĩ nhiên rồi thưa bác sĩ. Trừ phi ông Poirot không cảmthấy phiền.
- Ồ không.
Cả ba người đều đi về phía toa ăn.
-------------------------------- 1 Tên nữ hoàng nước Anh.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Phần Ii - Cuộc Thẩm Vấn Chương ILời Khai Của Nhân Viên Toa Kút Sét
Trong toa ăn, tất cả đều sẵn sàng để đón ba người.
T
Poirot, ông Bouc ngồi cạnh nhau, bác sĩ Constantine ngồi trước mặt họ.
Sơ đồ của toa kút sét (couchette 1 kèmtheo tên của những hành khách viết bằng chữ đỏ trải ra trước mặt Poirot. Bên cạnh là giấy thông hành và những vé tàu. Nhân viên cũng không quên để mực, giấy, bút mực và bút chì.
- Tốt lắm! - Poirot nói. - Chúng ta hãy tiến hành ngay cuộc điều tra, Trước hết là nhân viên phục vụ toa nằm. Chắc ông biết rõ về đạo đức của anh ta chứ? Ta có thể tin vào lời của anh ta không?
- Ồ, dĩ nhiên, Pierre Michel làmviệc cho Cục đường sắt hơn 15 nămrồi. Anh ta là người Pháp ở Calais. Có thể anh ta không thông minh lắm, nhưng rất thật thà.
- Tốt, mời anh ta vào.
Mặc dù đã lấy lại chút nào bình tĩnh, Pierre Michel vẫn còn vẻ bối rối.
- Mong rằng ông không phiền về cách phục vụ của tôi chứ? - Michel vừa hỏi vừa nhìn Poirot và ông Bouc. - Thật kinh khủng, nhưng chắc là trách nhiệmcủa tôi không bị tổn thương chứ ạ?
Sau khi đã trấn an Michel, Poirot bắt đầu hỏi tên, địa chỉ, thời gian Michel làmviệc ở công ty và ở tuyến đường Constantinop - Calais, Poirot đã biết là những điều này nhưng đây chỉ là giúp cho Michel cảmthấy thoải mái trước khi bước vào đề.
- Nào, bây giờ chúng ta hãy đi vào những biến cố của đêmqua. Ông Ratchett đã về buồng lúc nào?
- Ngay sau bữa ăn tối, thưa ông, trước khi tàu rời ga Belgrade. Như tối trước, ông ta đã bảo tôi làmgiường trong khi ông ta đi ăn tối, và tôi đã làm.
- Có ai vào phòng ông ta không?
- Người bồi và thư ký của ông ta.
- Còn ai nữa không?
- Theo tôi biết thì hết rồi.
- Tốt. Có phải đó là lần cuối cùng anh trông thấy hay nghe ông ta không?
- Thưa không. Ông quên là ông Ratchett đã bấmchuông khoảng 1 giờ thiếu 20... vài phút sau khi tàu bị nghẽn. - Chuyện gì đã xảy ra?
- Tôi đã gõ cửa, nhưng ông Ratchett đã cho biết ông ấy bấmlộn.
- Ông ta đã trả lời bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp?
- Bằng tiếng Pháp.
- Ông ta nói chính xác những điều gì?
- Ồ xin lỗi, tôi nhầm.
- Tốt, - Poirot nói. - Đó cũng là những câu tôi đã nghe. Sau đó anh bỏ đi à?
- Thưa ông vâng.
- Anh có quay lại ngồi ở ghế của anh không?
- Thưa không. Tôi phải chạy đến trả lời cho một người khách gọi tôi.
- Michel. Tôisẽ hỏi anh một câu quan trọng. Vào lúc 1 giờ 15 anh ở đâu?
- Tôi ấy à, thưa ông? tôi ngồi ở chỗ tôi ở cuối dãy hành lang.
- Anh có chắc chắn không?
- Có chứ... trừ phi.
- À phải, tôi đã sang toa khác - toa Athènes - thămVivet, bạn tôi. Chúng tôi đã nói với nhau về trận bão tuyết. Lúc đó chắc khoảng 1 giờ... tôi không dámchắc lắm.
- Lúc nào thì anh quay về?
- Có một hành khách bấmchuông gọi, hình như khi nãy tôi đã nói rồi. Đó là bà người Mỹ. Bà ta đã gọi nhiều lần. - Phải, tôi đã nhớ ra rồi, và sau đó?
- Sau đó thưa ông, tôi đã đến phòng ông vì ông đã bấmchuông và đemđến cho ông một chai nước suối. Khoảng 1/2 giờ sau, tôi đã làmgiường cho ông người Mỹ trẻ... thư ký của ông Ratchett.
- Ông Mac Queen có ở một mình trong phòng khi anh vào làmgiường không?
- Đại tá người Anh phòng số 15 đang ngồi nói chuyện với ông ta.
- Sau khi nói chuyện xong, viên đại tá đã đi đâu?
- Ông ta đã quay về phòng mình.
- Phòng 15... gần chỗ anh ngồi phải không?
- Thưa ông vâng, đó là phòng thứ hai từ cuối hành lang đi tới.
- Giường của ông ta đã làmchưa?
- Thưa ông rồi. Tôi đã làmlúc cơmtối.
- Vào lúc nào?
- Tôi không thể nói rõ được. Nhưng chắc chắn không quá hai giờ.
- Rồisau đó?
- Tôi đã ngồi ở chỗ tôi cho đến sáng.
- Anh không trở lại toa tàu Athènes à?
- Thưa không.
- Anh có ngủ không?
- Tôi nghĩ là không. Sự bất động của con tàu đã làmtôi ngủ không được. Tôi đã quen với cái lắc lư của nó rồi. - Anh không thấy hành khách nào qua lại ở hành lang à?
Michelsuy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Một bà trong đámhành khách đã. Đi vào phòng vệ sinh ở cuối dãy hành lang.
- Bà nào?
- Tôi không thể xác định được thưa ông. Bà ta ở cuối hành lang và quay lưng lại chỗ tôi. Bà ta mặc một cái áo khoác màu đỏ có thêu những con rồng.
- Đúng. Rồisau đó?
- Chẳng còn việc gì xảy ra nữa cho đến sáng.
- À có chứ. Ông, phải chính ông, đã mở cửa và nhìn ra ngoài.
- Đúng đấy anh bạn ạ. Tôi đang tự hỏi là anh có nhớ chi tiết cỏn con đó không? À, tôi đã bị thức giấc vì nghe thấy một vật nặng rơi ngoài cửa phòng tôi. Anh có thể cho tôi biết đó là cái gì không?
Michel nhìn Poirot chămchú rồi nói:
- Thưa ông, chẳng có gì cả.
- Nếu thế chắc tôi đã nằmmơ. - Poirot nói một cách thờ ơ.
- Nếu không phải là mơ thì tiếng động đó ở phòng bên cạnh ông, - ông Bouc nói.
Poirot làmnhư không chú ý đến câu nói của ông Bouc, có lẽ ông không muốn cho ý kiến riêng trước mặt nhân viên phục vụ. - Thôi chúng ta hãy sang một vấn đề khác. Giả sử như kẻ sát nhân đã lên tàu. Hắn có thể tẩu thoát được sau khi giết người không? Pierre Michel lắc đầu.
- Hắn có thể trốn ở một chổ nào không?
- Ông hãy bỏ ý nghĩ ấy đi ông bạn ạ, chúng tôi dã lục soát khắp nơi.
- Ngoài ra, - Michel nói, - không ai có thể vào toa kút sét hay ra mà tôi không thấy.
- Ga cuối cùng là ga gì nhỉ?
- Vincovei.
- Lúc đó mấy giờ?
- Thường thì tàu phải rời ga đó lúc 11 giờ 58 phút. Nhưng vì thời tiết xấu! nên bị chậm20 phút.
- Ai có thể sang toa kút sét từ những toa khác không?
- Thưa không, sau bữa tối, cánh cửa ngăn đôi toa kút sét và những toa khác đã khóa.
- Anh có xuống tàu ở ga Vincovei không Michel?
- Thưa có. Như thói quen, tôi đã xuống sân ga và đã đứng ở gần bực thẳng lên lầu. Những nhân viên phục vụ khác cũng làmthế. - Còn cánh cửa phía trước gần toa ăn?
- Nó luôn luôn khóa bên hông.
- Nhưng hiện giờ nó đâu có khóa.
Michel lộ vẻ ngạc nhiên một lúc. Sau đỏ mặt anh tươi lên.
- Có lẽ một trong những hành khách đã mở ra đề nhìn tuyết.
- Có thể lắm, - Poirot gật gù đáp.
Có vẻ suy tư, Poirot gõ nhẹ xuống bàn.
- Ông trách tôi điều gì? - Michel hỏi.
- Poirot cười thông cảmvà nói:
- Anh không may mắn rồi. À còn một điều tôi vừa nhớ ra. Anh có nói một hành khách khác bấmchuông gọi anh khi anh gõ cửa phòng ông Ratchett. Tôi cũng nghe thấy tiếng chuông. Ai gọi thế?
- Công chúa Dragomiroff. Bà ta cần cô hầu.
- Và anh đã gọi cô ấy hộ bà ta?
- Vâng, thưa ông.
Poirot cúi xuống nhìn sơ đồ của toa xe rồi nói:
- Xong rồi, cảmơn anh.
- Thưa ông, vâng.
- Michel nhìn sang ông Bouc.
- Đừng hoảng sợ Michel ạ, anh đã làmtròn trách nhiệmcủa mình. Với vẻ nhẹ nhõm, Pierre Michel rời toa ăn.
--------------------------------
1 kút sét (couchette): là những toa tàu có chỗ nằm.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Ii Hỏi Cung Người Thư Ký
Poirot có vẻ trầmtư như đang đeo đuổi, một ý nghĩ gì đó.
P
- Chúng ta nên hỏi lại Mac Queen, - cuối cùng Poirot nói.
- Sao, cuộc điều tra tiến triển đến đâu rồi, - Mac Queen hỏi khi bước vào phòng.
- Không đến nổi tệ lắm. Tôi đã biết danh tánh thật của Ratchett.
Hector Mac Queen cúi nhìn về phía trước.
- Ồ.
- Ratchett, như anh đã nghi ngờ, chỉ là tên giả. Ratchett chính là Cassetti, kẻ chuyên môn bắt cóc trẻ con. Và đã bị kết án trong vụ bắt cóc và giết cô bé Daisy Armstrong.
Mac Queen biểu lộ một sự ngạc nhiên tột độ:
- Tên khốn kiếp! - Anh thốt lên.
- Anh không mảy may nghĩ ngờ à?
- Thưa không! Nếu tôi biết tôi đã tự chặt tay hơn là làmviệc cho tên đó.
- Anh có vẻ bị chấn động bởi tên này nhỉ?
- Tôi cũng có lý do. Bố tôi là biện lý trong vụ án Armstrong. Vì thế tôi có nhiều dịp thấy bà Armstrong... một người đàn bà đẹp và hiền từ! Sự đau khổ của bà làman ủi lòng nhiều người! Nếu có người nào xứng đáng bị giết thì đúng Ratchett... Cassetti. Tên khốn kiếp đó không đáng sống.
- Nếu biết, anh có thể giết ông ta không chút áy náy?
- Vâng.
Mac Queen chợt imvà đỏ mặt.
- Hình như tôi đang tự buộc tội mình.
- Tôi có thể nghi ngờ anh, nếu cái chết của Ratchett làmanh buồn khổ nhiều đến thế. - Vừa cười Poirot vừa nói.
- Tôi không thể hối tiếc ông ta được. - Ngừng một lúc Mac Queen tiếp - tôi không tò mò quá nếu hỏi ông làmcách nào tìmra danh tánh Cassetti.
- Bởi một mảnh của lá thư trong phòng ông ta, - Nhưng mà... à tôi muốn nói, hắn thật lơ đễnh khi để giấy tờ lung tung.
- Điều này còn tùy theo góc độ ta đứng. Bổn phận của tôi là phải biết rõ mọi hành vi của những hành khách trên tàu, nên tôi mong anh đừng giấu điều gì.
Mac Queen vui vẻ nói.
- Ông cứ thi hành phận sự của mình, để tôi còn có dịp biện hộ cho mình chứ?
- Không cần thiết hỏisố phòng của anh nữa vì tôi đã ngủ với anh một đêm- vừa nói Poirot vừa cười, - Bây giờ thì một mình anh ở phòng 6 và 7 toa hạng nhì phải không?
- Đúng thế.
- Anh Mac Queen... anh cho tôi biết anh đã làmgì đêmqua sau khi đã rời toa tàu.
- Đơn giản thôi! tôi, đã quay về phòng, tôi đọc sách một lúc rồisau đó xuống... ga Belgrade. Vì lạnh qúa... nên tôi lại lên tàu và nói chuyện một lúc với người Anh phòng bên... sau đó tôi lại nói chuyện với đại tá Arbuthnot. Hình như lúc tôi nói chuyện với Arbuthnot thì ông đi qua. Sau đó tôi đến phòng Ratchett để ghi chép vài vấn đề (ông ta đọc cho tôi). Tôi về phòng sau khi đã chúc Ratchett ngủ ngon. Đại tá Arbuthnot lúc đó vẫn đứng ở hành lang và vì phòng của ông ta đã được dọn thành giường nên tôi rủ ông ấy về phòng để nói chuyện. Tôi đã gọi bia và chúng tôi tranh luận về đề tài chính trị. Thường thì tôi tránh tiếp xúc với người Anh. Sự lạnh lùng của họ làmtôi bực mình. Nhưng tôi lại thích đại tá Arbuthnot.
- Anh cho tôi biết Arbuthnot đã rời phòng mình lúc mấy giờ?
- Rất dễ... khoảng hai giờ sáng.
- Anh có nhận thấy tàu đã ngừng chạy chưa?
- Có. Việc này làmchúng tôi ngạc nhiên. Chúng tôi đã nhìn ra ngoài và trông thấy tuyết dày đặc. Nhưng chúng tôi không ngờ được những hậu quả.
- Chuyện gì đã xảy ra khi đại tá Arbuthnot rời khỏi phòng anh?
- Ông ta đã về phòng, còn tôi thì gọi nhân viên tàu đến làmgiường.
- Anh ở đâu khi nhân viên làmgiường?
- Tôi ra hành lang đứng hút thuốc.
- Rồisau đó?
- Sau đó tôi đi ngủ và ngủ đến tận sáng.
- Anh có xuống tàu một lúc nào không?
- Arbuthnot và tôi đã xuống ở... tên ga đó là gì ấy nhỉ?... À, Vincovei. Chúng tôi xuống cho giãn gân cốt. Nhưng trời lạnh quá nên chúng tôi lên tàu ngay.
- Anh đã xuống tàu bằng cửa nào?
- Bằng cửa lan can, cửa gần phòng tôi nhất.
- Cảnh cửa gần toa ăn à?
- Phải.
- Anh nhớ thử xem, cánh cửa đó có khóa bằng khóa an toàn không?
Mac Queen suy nghĩ trước khi trả lời:
- Có, tôi nhớ ra rồi. Một thanh sắt như đòn bẫy đã được kéo xuống. Chắc ông muốn nói đến cái đó phải không? - Phải! Ổng có kéo nó xuống khi lên tàu không?
- Không! tôi là người cuối cùng lên tàu và tôi nhớ là đã không khóa.
- Trong khi anh và đại tá Arbuthnot nói chuyện trong phòng, cửa hành lang có mở không?
- Có!.
- Anh có thể cho tôi biết ai đi... ngang qua hành lang từ khi tàu rồi khỏi Vincovei cho đến khi anh và Arbuthnot chia tay nhau không?
Mac Queen khẽ nhíu mày:
- Hình như nhân viên phục vụ có đi ngang qua một lúc. Anh ta đến, từ phía toa ăn và một người đàn bà đã đi theo hành lang về phía ấy.
- Bà ta là ai?
- Tôi không biết. Tôi không chú ý lắm. Lúc đó cuộc tranh luận của chúng tôi đang sôi nổi. Và tôi chỉ thấy một cái bóng màu đỏ lướt qua cửa thôi.
- Chắc bà ta đi về phía nhà tắm?
- Có lẽ thế.
- Anh có thấy bà ta trở về không?
- Rất có thể là bà ấy đã đi ngược trở lại? nhưng tôi không chú ý đến.
- Còn một câu hỏi nữa. Anh có hút ống điếu không Mac Queen?
- Không, tôi không hút ống điếu.
Ngừng một lát Poirot nói:
- Tạmxong rồi. Tôi muốn gặp anh hầu phòng của Ratchett. A! nhân thể, thường anh và anh hầu phòng đi du lịch ở toa kutset hạng nhì à?
- Anh ta thì vậy nhưng tôi thường đi toa hạng nhất, và nếu được phòng thông qua phòng Ratchett. Ông ta để phần nhiều hành lý của ông ta trong phòng tôi và vào bất cứ lúc nào khi ông ta cần tôi. Lần này tất cả phòng hạng nhất đã có người, trừ phòng RatcheM nên tôi phải ở toa hạng nhì.
- Tôi hiểu, thôi cảmơn anh, Mac Queen!.
ÁN MẠNG TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH PHƯƠNG ĐÔNG
Agatha Christie
www.dtv-ebook.com
Chương Iii Anh Hầu Phòng
Sau Mac Queen, là người hầu phòng người Anh. Với vẻ mặt lạnh lùng, anh ta đứng, Poirot mời anh ta ngồi. S
- Anh là, như người ta nói, hầu phòng cho ông Ratchett?
- Thưa vâng.
- Tên anh là gì?
- Edouard Henry Masterman.
- Anh bao nhiêu tuổi?
- 39
- Địa chỉ của anh?
- 21, đường Fria, Kriard street, Clerkenwell.
- Anh có biết là chủ anh đã bị giết không?
- Thưa có. Thật khủng khiếp.
- Anh có thể cho tôi biết anh trông thấy ông Ratchett còn sống lần cuối cùng lúc mấy giờ không?
Anh hầu phòng suy nghĩ rồi trả lời.
- Lúc đó khoảng 9 giờ tối.
- Anh hãy kể cho tôi cụ thể hơn.
- Như mọi khi, tôi đã đến phòng ông Ratchett để xemông ta có cần gì không?
- Anh phải làmgì?
- Gấp hay máng quần áo. Để răng giả của ông ấy vào ly nước. Xemông Ratchett có thiếu gì không?
- Anh có thấy điều gì không bình thường trong thái độ ông Ratchett không?
- Hình như ông ấy hơi lo lắng.
- Lo lắng à, về vấn đề gì?
- Về một lá thư mà ông ta vừa đọc xong. Ông ta hỏi xemcó phải tôi vừa mới đemvào phòng không. Khi tôi trả lời không, thì ông ta bắt đầu gắt gỏng và chê trách tất cả những gì tôi làm.
- Ông ta có hành động bình thường không?
- Ổ, thưa ông không. Ông ấy ít khi nổi giận lắm.
- Chỉ có khi nào có một lý do quan trọng lắmông Ratchetr mới tỏ ra... khó chịu thôi.
- Ông chủ anh có hay dùng thuốc ngũ không?
Bác sĩ Constantine hơi chồmvề phía trước khi Poirot hỏi câu này.
- Ông ta luôn luôn cần đến thuốc ngủ khi đi du lịch, vì ông không thể ngủ được.
- Anh có biết ông Ratchett thường đùng loại thuốc nào không?
- Tôi không rõ vì trên nhãn chai chỉ đề có hang chữ: Thuốc ngủ dùng buổi tối trước khi đi ngủ.
- Hômqua ông chủ anh có uống không?
- Thưa có. Tôi đã đổ thuốc vào cái ly để trên bàn.
- Ông ta không uống trước mặt anh à?
- Thưa không.
- Chuyện gì đã xảy ra sau đó?
- Tôi hỏi xemông ta còn cần gì nữa không và mấy giờ ngày mai phải gọi ông dậy. Ông Ratchett bảo là đừng quấy rầy ông ta trước khi ông bấmchuông gọi.
- Ông ta có thói quen như thế à?
- Thưa vâng. Thường buổisáng. Ông bấmchuông để bảo nhân viên tàu hỏa gọi tôi đến khi ông sắp dậy. - Ông ta, dậy sớmhay trễ?
- Tùy hứng, ông ta có thể dậy ăn điểmtâmhay chờ đến giờ cơm.
- Anh không ngạc nhiên khi thấy đã muộn mà ông Ratchett không gọi anh à?
- Thưa ông không.
- Ông Ratchett có kẻ thù không?
- Thưa có, - gã hầu phòng nói một cách bình thản.
- Sao anh biết?
- Tôi nghe ông ta đề cập đến một vài bức thư - với ông Mac Queen.
- Anh có mến ông Ratchett không? Anh Masterman.
Khuôn mặt gã hầu phòng trở nên lạnh lùng hơn.
- Câu hỏi của ông làmtôi khó trả lời. Ông Ratchett là một ông chủ rất hậu hĩnh.
- Nhưng anh không mến ông ta phải không?
- Thú thật là tôi không có cảmtình với người Mỹ.
- Anh đã sang Mỹ bao giờ chưa?
- Thưa ông chưa.
- Anh có nhớ là một dạo báo chí đã đăng tin vụ Armstrong không?
Gò má của Masterman ửng hồng.
- Thưa ông có. Có phải đó là vụ bắt cóc một cô bé không?
- Anh có biết là chủ anh đã cầmđầu bọn bắt cóc đó không?
- Thưa không. Có lẽ nào? tôi không thể tin được.
Lần đầu tiên giọng nói của anh hầu phòng run lên vì xúc động.
- Tuy nhiên, đó lại là sự thật. Anh có thể cho tôi biết tối hômqua anh đã làmgìsau khi rời khỏi phòng ông Ríitchều? một câu hỏi thông thường thôi.
- Tôi đã báo cho ông Mac Queen rằng ông Ratchett cần ông ta. Sau đó tôi về phòng để đọc sách.
- Anh ở phòng nào?
- Phòng cuối ở toa hạng nhì, gần toa ăn.
Poirot cúi xuống xemsơ đồ của toa tàu.
- Anh ngủ ở kút sét nào?
- Kút sét dưới.
- Số 4 phải không?
- Vâng.
- Còn có ai cùng phòng với anh không?
- Thưa có, một người Ý.
- Anh ta có nói tiếng Anh không?
- Một loại tiếng Anh hơi lạ. Masterman nói với giọng hơi khinh miệt. Anh ta đã sống ở Mỹ - Chicago - theo tôi biết. - Hai người có hay nói chuyện với nhau không?
- Thưa không. Tôi thích đọc sách hơn.
Poirot mĩmcười. Ông có thể tưởng tượng ra cảnh anh người Ýto béo nói nhiều và anh người Anh lầmlì ít nói. - Tôi có thể được biết anh đọc quyển gì không?
- Hiện nay tôi đọc quyển: Mắc bẫy ái tình của bà Arabella Richardson.
- Một tiểu thuyết hấp dẫn?
- Tôi thấy đó là một quyển đầy thú vị, thưa ông.
- Tốt, chúng ta tiếp tục. Anh quay về phòng và đọc sách, cho đến lúc nào?
- Khoảng 10 giờ 30 thưa ông. Anh người Ýmuốn ngủ nên nhân viên đã đến làmgiường.