🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
MARTIN CRUZ SMITH Nguyễn Việt Dũng dịch
—★—
ÁN MẠNG Ở CÔNG VIÊN GORKY
• GORKY PARK •
(Arkady Renko, #1)
BÁCH VIỆT & NXB HỒNG ĐỨC ebook©vctvegroup | 12-09-2020
Tặng Em
LỜI GIỚI THIỆU
M
artin Cruz Smith, tên khai sinh là Martin William Smith, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942, tại Reading, Pennsylvania, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Pennsylvania, Philadelphia năm 1964. Hiện tại, ông đang sống cùng gia đình ở San Rafael, California.
Từ năm 1965 đến 1969, Martin trở thành phóng viên và chỉ bắt đầu viết tiểu thuyết hư cấu từ thập niên 70 với tác phẩm đầu tay, The Indians Won.
Canto for a Gypsy, cuốn tiểu thuyết thứ ba trong sự nghiệp của ông và là cuốn thứ hai viết về nhân vật Roman Grey, một nhà môi giới nghệ thuật người Gypsy, đã được đề cử giải Edgar. Một tác phẩm khác cũng từng được đề cử giải Edgar, Nightwing (1977), được coi là tiểu thuyết đột phá của Martin và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên vào năm 1979.
Martin Cruz Smith nổi tiếng với series tiểu thuyết xoay quanh nhân vật trung tâm là chuyên gia điều tra người Nga, Arkady Renko, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm Án mạng ở công viên Gorky (Gorky Park). Renko được biết đến như một điều tra viên cao cấp chuyên gắn liền với các vụ án giết người và luôn sẵn sàng phơi bày bản chất tham nhũng, bất lương trong bộ phận những nhân vật chủ chốt có tầm ảnh hưởng lớn cũng như được bảo vệ chặt chẽ của thời “Cải tổ”. Án mạng ở công viên Gorky đã được tạp chí New York Times
đánh giá là “cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của thập niên 80”, đồng thời trở thành cuốn sách bán chạy nhất và được Hiệp hội Nhà văn Trinh thám trao giải Gold Dagger.
Trong suốt thập niên 90, Martin Cruz Smith đã hai lần được Hiệp hội các nhà văn viết truyện trinh thám quốc tế nhánh Bắc Mỹ trao tặng giải thưởng Dashiell Hammett, lần đầu vào năm 1996 với tác phẩm Rose và lần thứ hai với Havana Bay năm 1999. Năm 2004, Martin Cruz Smith xuất bản tác phẩm Wolves Eat Dogs, cuốn tiểu thuyết thứ năm trong series tám quyển về Arkady Renko. Tác phẩm đã được Bách Việt xuất bản vào quý III năm 2015, với tựa đề Chó sói cắn chó nhà. Tháng 9 năm 2010, sự trở lại của Martin và Arkady Renko đã đưa tác phẩm thứ bảy, Three Stations, lên vị trí đầu bảng trong danh sách tiểu thuyết bán chạy nhất của tạp chí New York Times.
Bachviet Books
LỜI CẢM ƠN
T
ôi xin cảm ơn Anthony Astrachan, Tiến sĩ Michael Baden, Anthony Bouza, Knox Burger, William Caunitz, Nancy Forbes, Tiến sĩ Paul Kagansky, Anatol Milstem, John Romano, Kitty Sprague và Richard Woodley vì sự giúp đỡ và khích lệ nhiệt tình của họ trong quá trình viết cuốn sách này.
Đặc biệt, tôi biết ơn Alex Levin, Yuri, Ala Gendler và Anatoly Davydov. Không có họ, công viên Gorky sẽ thành một nơi vắng bóng người.
Phần Một MOSCOW
Chương Một
M
ọi cảnh đêm đều tăm tối, mọi mùa đông đều ấm áp và mọi ánh đèn đều lóa mắt.
Một chiếc xe tải nảy lên rồi khựng lại với một vệt trượt dài, đội trọng án nhảy ra, các sĩ quan không còn trong hình mẫu của những chiếc áo cộc để lộ đôi tay vạm vỡ và đôi lông mày thấp nghiêm nghị mà cuộn mình trong áo bành tô bằng da cừu. Người không mang sắc phục là vị thanh tra trưởng, một người đàn ông gầy gò, xanh xao. Anh lắng nghe một cách đầy cảm thông với câu chuyện của tay sĩ quan đã tìm thấy những thi thể trong tuyết: Gã đang lang thang khá xa trên con đường mòn trong công viên vào giữa đêm để tìm chỗ “xả hơi,” thì thấy những cái xác, trong khi vẫn còn chưa trút hết được “nỗi lòng,” và cũng gần như đông cứng đến nơi rồi. Cả đội đi theo sau ánh đèn pha của chiếc xe.
Viên thanh tra ngờ rằng những gã khốn khổ kia chỉ là một nhóm ba kẻ nghiện vodka đã chén chú chén anh đến chết cóng. Vodka là hàng đánh thuế, giá lúc nào cũng tăng. Người ta đã công nhận rằng số ba là số may mắn cho một chai rượu khi tính đến sự hiệu quả và tính kinh tế. Nó là một ví dụ hoàn hảo về chủ nghĩa bầy đàn nguyên thủy.
Từ phía bên kia bãi đất trống, ánh sáng lóa lên, cây cối quét trên nền tuyết cho đến khi hai chiếc Volga đen xuất hiện. Một tổ đặc vụ
KGB* mặc thường phục được một gã lùn - thiếu tá lực lưỡng Pribluda - dẫn ra khỏi xe. Nhóm cảnh sát và KGB cùng giậm chân để làm ấm cơ thể, họ thở ra những làn hơi nước. Tuyết lấp lánh trên mũ và cổ áo họ.
Lực lượng cảnh sát của MVD chuyên hướng dẫn giao thông, truy đuổi những kẻ say xỉn, thu gom xác chết mỗi ngày, ủy ban An ninh Quốc gia - KGB - lại gánh vác những trách nhiệm vĩ đại hơn, tinh vi hơn, chiến đấu với các thế lực thù địch trong và ngoài nước, bọn buôn lậu, bọn chống đối và trong khi các đặc vụ có đồng phục, họ lại ưa mặc thường phục che giấu danh phận. Thiếu tá Pribluda với tâm trạng hài hước đầy thô thiển vào buổi sáng sớm, rất sẵn lòng giảm nhẹ mối hiềm khích vốn làm căng thẳng quan hệ cạnh tranh giữa Cảnh sát và ủy ban An ninh Quốc gia, luôn cười cho đến khi hắn nhận ra viên thanh tra.
“Renko!”
“Chính xác.” Arkady Renko bắt đầu ngay với những thi thể và để mặc cho Pribluda đi theo.
Viên cảnh sát tìm thấy các thi thể, phát hiện những vết tích dẫn nửa chừng qua tuyết lạnh đến những gò nổi lộ liễu ở giữa khu đất trống. Một viên trưởng thanh tra lẽ ra thường phải hút thuốc lá xịn nhưng Arkady lại châm một điếu Prima rẻ tiền, hít đầy vị nồng của nó trong miệng - thói quen của anh mỗi khi phải làm việc với sự chết chóc. Ở đó có ba thi thể, như những gì viên cảnh sát đã kể. Họ nằm bình yên, thậm chí đầy vẻ thi vị, bên dưới mảng băng đang tan chảy. Thi thể ở giữa nằm ngửa, hai tay đan vào nhau như trong một đám tang ngoan đạo, hai thi thể còn lại xoay nghiêng, cánh tay trồi lên dưới lớp băng như vết gờ trên giấy in nổi. Họ đi giày trượt băng.
Pribluda thúc vai đẩy Arkady sang một bên. “Khi tôi làm sáng tỏ được việc an ninh quốc gia không liên quan gì đến vụ này, thì anh hãy bắt đầu.”
“An ninh? Thiếu tá, chúng ta có ba gã say xin trong công viên...” Gã thiếu tá đã kịp vẫy tay gọi một trong những đặc vụ đang cầm camera. Đám tuyết lóa lên màu xanh dương và những thi thể xuất hiện trong mỗi bức ảnh. Đó là một chiếc máy ảnh ngoại, tráng hình gần như tức thời. Tay nhiếp ảnh tự hào chỉ cho Arkady xem một tấm hình. Ba xác chết bị chìm đi trong ánh phản chiếu đèn flash của đám tuyết.
“Anh nghĩ sao?”
“Rất nhanh.” Arkady trả lại bức hình. Tuyết đang bị giẫm xuống khắp xung quanh những xác chết. Giận điên người, anh hút thuốc. Anh đan những ngón tay thuôn dài vào mái tóc đen thẳng đang rũ xuống. Anh nhận thấy cả viên thiếu tá và gã chụp ảnh của hắn đều chẳng hề nghĩ đến việc đi ủng. Có lẽ những đôi chân ướt sẽ tống cổ được KGB đi. Còn về phần những xác chết, anh mong là sẽ tìm được một hay hai chai rượu đã uống hết dưới lớp tuyết quanh đó. Qua đôi vai anh, phía bên kia tu viện Donskoy, màn đêm đang nhạt dần. Anh thấy Levin, nhà nghiên cứu tâm thần học của đội cảnh sát, đang khinh khỉnh quan sát phía rìa bãi đất trống.
“Những thi thể trông có vẻ như đã ở đây lâu rồi,” Arkady nói. “Trong nửa tiếng nữa, các chuyên gia của chúng tôi có thể đưa họ ra và khám nghiệm đàng hoàng.”
“Một ngày nào đó, đây sẽ là anh,” Pribluda chỉ vào cái xác gần nhất.
Arkady không chắc mình đã nghe chính xác những gì hắn ta nói. Những mẩu băng lấp lánh trong không khí. Hắn không thể nào nói như thế được, anh cho là vậy. Gương mặt của Pribluda ẩn hiện dưới ánh đèn pha, như nắm được quân Át chủ bài trong tay, đôi mắt hắn nhỏ và đen như những chấm xúc xắc. Rồi bỗng hắn tháo đôi găng tay ra.
“Chúng tôi không ở đây để được anh dạy bảo.” Pribluda giạng chân trên những xác chết và bắt đầu lom khom xúc tuyết hất sang hai bên.
Rồi một khuôn mặt chết chóc lộ ra từ đám tuyết. Trưởng thanh tra chưa từng thấy cái đầu nào giống như thế này, anh nghĩ mình sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đó. Nhưng anh chưa hề biết, đó chính là khoảnh khắc định mệnh của cuộc đời anh.
“Đây là giết người.” Arkady nói.
Pribluda vẫn bình thản. Cùng lúc đó, hắn gạt đám tuyết khỏi những chiếc đầu còn lại. Chúng cũng giống như cái đầu tiên. Hắn đứng giạng chân trên cái xác ở giữa và ấn lớp băng giá phủ trên đó cho đến khi nó nứt rạn và tróc ra. Sau đó, hắn bẻ và bóc chiếc váy bên dưới ra.
“Không vấn đề gì.” hắn cười phá lên, “Anh vẫn có thể nhận ra đây là một phụ nữ.”
“Cô ta đã bị bắn,” Arkady nói. Giữa bộ ngực trắng bệch nơi đầu ngực là một lỗ đạn đen ngòm. “Anh đang làm hỏng bằng chứng đấy, thiếu tá.”
Pribluda bóc tung áo khoác của hai cái xác còn lại. “Bị bắn, tất cả đều bị bắn.” Hắn hoan hỉ như một gã đào trộm mộ.
Tay chụp ảnh của Pribluda nhấp nháy đèn flash liên hồi khi Pribluda đang nhấc mớ tóc đông cứng, moi viên đạn ghém ra khỏi miệng của một nạn nhân. Arkady để ý thấy bên cạnh việc bị xẻo bớt mặt, ba nạn nhân còn bị cắt mất những đốt ngón tay cuối, dấu vân tay của họ.
“Bọn chúng bắn xuyên cả sọ nữa,” Pribluda lấy tuyết để rửa tay. “Ba cái xác, con số đẹp đấy, thanh tra. Giờ tôi đã phải làm việc bẩn tay thay anh rồi, coi như chúng ta hòa. Đủ rồi!” Hắn ra lệnh cho tay chụp ảnh. “Chúng ta đi.”
“Anh luôn làm việc bẩn thỉu, thiếu tá ạ,” Arkady nói khi gã chụp ảnh lê bước ra chỗ khác.
“Ý anh là gì?”
“Ba người bị bắn và bị cắt ra trong tuyết? Đó là kiểu công việc của anh, thiếu tá. Anh không muốn tôi điều tra vụ này đâu. Ai mà biết nó có thể dẫn đến đâu?”
“Nó có thể dẫn đến đâu?”
“Mọi việc đang vượt ngoài tầm tay, thiếu tá ạ. Anh còn nhớ chứ? Sao anh và người của anh không tiếp quản việc điều tra luôn đi, còn tôi cùng người của tôi thì về nhà?”
“Không có bằng chứng nào cho tôi thấy về một vụ phạm tội chống lại quốc gia cả. Vậy là anh có một vụ hơi phức tạp hơn bình thường một chút, thế thôi.”
“Bị phức tạp hóa bởi ai đó đã làm nát tung bằng chứng.” “Báo cáo và các bức ảnh của tôi sẽ được gửi về văn phòng của anh” - Pribluda xỏ găng tay thật mạnh - “cho nên anh sẽ được hưởng lợi từ công sức của tôi.” Hắn cao giọng để cho tất cả những ai quanh khu đất trống đều nghe thấy. “Tất nhiên, nếu anh khám phá
ra được bất kỳ điều gì có liên quan đến một mối hiểm họa nào thuộc về phần của ủy ban An ninh Quốc gia, anh có thể cho công tố viên thông báo tới tôi ngay lập tức. Anh hiểu chứ, thanh tra Renko? Cho dù anh mất một năm hay mười năm, hãy gọi ngay khi anh phát hiện được điều gì.”
“Tôi hoàn toàn hiểu.” Arkady trả lời cũng cao giọng không kém. “Anh luôn nhận được sự hợp tác tuyệt đối của chúng tôi.” Đồ linh cẩu, đồ quạ, đồ ruồi nhặng, đồ sâu bọ, viên thanh tra nghĩ khi nhìn những chiếc xe của Pribluda khuất dần khỏi bãi đất trống. Đồ sinh vật bóng đêm. Bình minh đang ló dạng, anh gần như có thể cảm nhận được sự thôi thúc trong vòng quay hướng tới mặt trời mọc của Trái Đất. Anh châm thêm một điếu thuốc nữa để tống khứ dư vị của Pribluda ra khỏi miệng. Một thói quen thô thiển - như uống rượu vậy, một ngành công nghiệp quốc gia khác. Mọi thứ đều là một ngành công nghiệp quốc gia, kể cả chính anh. Kể cả đám hoa tuyết đang ló ra trong lúc không mong đợi nhất của buổi sáng. Phía rìa bãi trống, đám cảnh sát vẫn còn lớ ngớ. Họ đã thấy những phần mặt trồi lên từ trong tuyết.
“Đây là vụ của chúng ta,” Arkady thông báo với người của mình. “Các anh không nghĩ là chúng ta nên làm gì với nó hay sao?” Anh cho họ di chuyển dần tới hàng rào phía ngoài khu vực, và kêu tay trung sĩ trong xe gọi bộ đàm xin bổ sung thêm người, xẻng và máy dò kim loại. Quả là cách tổ chức giả vờ chưa từng thất bại trong việc khích lệ tinh thần binh sỹ. Anh thấy thế.
“Vậy chúng ta...”
“Chúng ta sẽ tiếp tục, trung sĩ. Cho đến khi nhận được thông báo tiếp theo.”
“Buổi sáng đẹp trời thật,” Levin giễu cợt.
Nhà nghiên cứu bệnh học này lớn tuổi hơn tất cả những người còn lại, ông ta là một bức tranh biếm họa Do Thái trong diện mạo một đại úy cảnh sát. Ông ta không có chút thông cảm nào cho Tanya, chuyên gia hiện trường của đội, người không thể rời mắt khỏi những gương mặt. Arkady dẫn ông ta sang một bên và đề nghị ông ta vẽ đường khoanh vùng khu đất trống và tư thế các xác chết.
“Trước hay sau khi họ bị tay thiếu tá tốt bụng xâm phạm?” Levin hỏi.
“Trước,” Arkady nói. “Hãy cứ làm như gã thiếu tá đó chưa từng có ở đây vậy.”
Chuyên gia sinh học của đội, một bác sĩ, bắt đầu tìm mẫu máu trong đám tuyết quanh xác chết. Hôm nay sẽ là một ngày đẹp trời, Arkady nghĩ. Phía bờ đê xa xa bên kia sông Moskva, anh thấy luồng sáng đầu tiên chiếu xuống những tòa nhà Bộ Quốc phòng, khoảnh khắc duy nhất trong ngày khi những bức tường ảm đạm dài bất tận kia có một nét của sự sống. Khắp xung quanh khu đất trống, cây cối rón rén vươn mình dưới ánh bình minh như một chú nai đầy cảnh giác. Giờ đây, những bông hoa tuyết ánh lên sắc xanh đỏ, rực rỡ như những dải ruy băng. Một ngày mà cả mùa đông như đã sẵn sàng tan chảy.
“Chết tiệt.” Anh nhìn lại những xác chết lần nữa.
Tay chụp ảnh của đội hỏi liệu có phải KGB vẫn chưa chụp ảnh. “Rồi, tôi chắc rằng chụp ảnh lưu niệm thì rất ổn, nhưng công việc của cảnh sát thì không thích hợp cho lắm.”
Tay nhiếp ảnh hãnh diện rồi cười phá lên.
Tốt lắm, Arkady nghĩ, cười lớn hơn nữa đi.
Một thám tử mặc thường phục tên là Pasha Pavlovich xuất hiện trong xe điều tra viên, một chiếc Moskvich năm năm tuổi, chứ không phải một chiếc Volga bóng mượt như của Pribluda. Pasha là người lai Tartar, một gã cơ bắp lãng tử chưng diện với mái tóc sẫm màu vuốt ngược phồng lên như mũi tàu thủy.
“Ba thi thể, hai đàn ông, một phụ nữ.” Arkady vào trong xe. “Đóng băng, có lẽ một tuần, cũng có thể một tháng, năm tháng. Không giấy tờ tùy thân, không đồ dùng cá nhân, không gì cả. Tất cả đều bị bắn xuyên tim và hai người còn bị bắn vào đầu nữa, đến và nhìn thử mấy gương mặt đi.”
Arkady đợi trong xe. Thật khó mà tin được mùa đông đã kết thúc vào giữa tháng Tư, thường thì nó dai dẳng đến tận tháng Sáu. Nó đã có thể kéo dài những điều ghê rợn này lâu thêm một chút. Nếu không vì băng tan hôm qua, vì cái bàng quang căng bọng của viên cảnh sát và cách ánh trăng chiếu xuống tuyết, Arkady đã có thể nằm thảnh thơi ở trên giường và nhắm mắt lại.
Pasha quay trở lại, hằm hằm giận dữ. “Loại điên rồ nào có thể làm thế được chứ?”
Arkady nhắc anh ta quay trở lại xe.
“Pribluda đã ở đây,” anh nói khi Pasha đã ở trong xe. Trong lúc nói, anh quan sát những biến đổi dù chỉ một chút trên gương mặt của viên thám tử, chỉ vài từ ngữ đã khiến anh ta khẽ nhăn mặt, cái liếc mắt ra ngoài bãi đất rồi lại sang Arkady. Ba linh hồn người chết ngoài kia không hẳn là một tội ác quá khủng khiếp so với việc chúng là một vấn đề nan giải. Hoặc là cả hai, bởi vì Pasha là một trong số những tay cừ khôi, anh ta trông đã có vẻ bị cắn rứt lương tâm hơn bất kỳ ai.
“Dạng này không phải là vụ của chúng ta,” Arkady nói thêm. “Chúng ta sẽ làm việc ở đây một chút và họ sẽ tước nó khỏi tay chúng ta, đừng lo.”
“Dù sao cũng là ở công viên Gorky.” Pasha buồn rầu. “Kỳ lạ thật. Cứ làm theo những gì tôi bảo đi và chúng ta sẽ ổn thôi. Lái xe đến trạm gác công viên và lấy bản đồ đường trượt băng. Lấy danh sách của toàn bộ cảnh sát và người bán đồ ăn lưu động làm việc tại khu vực này vào mùa đông năm nay, cũng như danh sách của bất kỳ tình nguyện viên trật tự công cộng nào rình mò quanh đây. Quan trọng nhất là tạo nên một chiến lợi phẩm.” Arkady ra khỏi xe và ló đầu vào cửa sổ. “Nhân tiện, còn thám tử nào được phân công đến chỗ tôi nữa không?”
“Fet.”
“Tôi không biết anh ta.”
Pasha nhổ nước bọt xuống tuyết và nói, “Có một chú chim nhỏ nhắc đi nhắc lại những gì hắn nghe thấy...”
“Okay.” Có một sự ràng buộc để trở thành mật thám trong một vụ kiểu này, viên thanh tra không chỉ nhượng bộ trước sự thật đó, anh còn đón chào nó. “Chúng ta sẽ được lôi tuột ra khỏi mớ hỗn độn này sớm hơn thế nhiều, với sự hợp tác của tất cả mọi người.”
Khi Pasha đã đi rồi, hai xe tải chở cảnh sát tập sự và những chiếc xẻng mới lăn bánh tới nơi. Tanya đã kẻ ô khu đất trống nên có thể xúc hàng mét tuyết lên mà không làm mất dấu nơi tìm thấy bằng chứng, dù Arkady chẳng hề mong chúng kéo dài lâu như thế này sau vụ giết người. Mục đích của anh là ra vẻ hình thức. Với tấn hài đủ bự này, Pribluda có lẽ sẽ gọi trong ngày hôm nay. Dù sao đi nữa, hoạt động này cũng giúp ích cho đám cảnh sát. Họ cơ bản là đám
cớm giao thông và hạnh phúc ngay cả khi giao thông bao gồm có cả chính họ. Nếu không thì họ nhìn chung đã không hạnh phúc. Cảnh sát tiếp nhận mấy anh chàng nông dân vừa ra quân, hấp dẫn họ bằng lời hứa không tưởng về cuộc sống ở Moscow, rằng ngay đến các nhà khoa học hạt nhân cũng bị từ chối cư trú. Tuyệt vời! Kết quả là có nhiều người Moscow coi cảnh sát như một dạng quân đội của đám lạc hậu. Cảnh sát đến để rồi thấy những cư dân chung sống với họ như những kẻ sa sút, trụy lạc và có khi như lũ Do Thái. Dù thế, vẫn chẳng bao giờ có ai trở về với nông trại.
Lúc này, mặt trời đã thật sự lên cao, sống động, chứ không còn là chiếc đĩa ma quái ám ảnh mùa đông nữa. Đám tập sự lởn vởn dưới hơi thở ấm áp của gió, mắt lảng tránh khu trung tâm bãi trống.
Tại sao lại là công viên Gorky? Thành phố này có công viên lớn hơn để vứt xác - Izmailovo, Dzerzhinsky, Sokolniki. Công viên Gorky chỉ dài hai kilomet và chỗ rộng nhất cũng chưa đến một kilomet. Dù sao nó cũng là công viên đầu tiên được ưa thích sau Cách mạng. Ở phía nam, cái đuôi hẹp của nó gần chạm tới trường đại học. Phía bắc, chỉ có một khúc quanh của con sông cắt ngang tầm nhìn ra điện Kremlin. Đây là nơi mọi người đều tới: nhân viên văn phòng tới ăn trưa, các cụ bà cùng với các bé trai, bé gái. Có vòng đu quay, đài phun nước, rạp hát thiếu nhi, đường đi bộ, câu lạc bộ ẩn mình khắp các khu đất. Vào mùa đông, còn có bốn sân băng và đường trượt băng.
Thám tử Fet bước tới. Anh ta trẻ gần bằng đám tập sự, đeo kính tròn gọng thép và có đôi mắt lạnh lẽo màu xanh dương. “Cậu phụ trách đám tuyết nhé.” Arkady ra hiệu về phía đống tuyết đang lớn dần. “Làm tan nó và tìm kiếm đi.”
“Liệu thanh tra cấp cao muốn quy trình này được thực hiện ở phòng thí nghiệm nào?” Fet hỏi.
“Ồ, tôi nghĩ một ít nước nóng ở ngay tại chỗ là được việc đấy.” Vì nghe có vẻ chưa đủ ấn tượng, Arkady nói thêm, “Tôi muốn không một bông tuyết nào là không biến đổi cả.”
Arkady lấy chiếc xe cảnh sát màu đỏ da bò của Fet và lái đi mất, băng qua cầu Krimsky đến phía bắc thành phố. Dòng sông băng giá đang nhức nhối, sẵn sàng vỡ tan. Đã chín giờ, hai tiếng kể từ khi anh bị dựng dậy khỏi giường, vẫn chưa kịp ăn sáng, chỉ có thuốc lá. Ra khỏi cầu, anh vẫy chiếc thẻ căn cước đỏ của mình về phía viên cảnh sát hướng dẫn giao thông và tăng tốc vọt qua đám xe đang đỗ lại. Một đặc quyền của cấp bậc.
Arkady có rất ít ảo tưởng về công việc của mình. Anh là thanh tra tội phạm giết người cấp cao, chuyên gia án mạng trong một đất nước có rất ít tội phạm tổ chức cao và chẳng giỏi mưu mẹo. Nạn nhân thường gặp của người Nga bình thường là người đàn bà hắn ngủ cùng và rồi hắn say xỉn, sau đó dùng một chiếc rìu bổ vào đầu cô ta - có thể khoảng mười lần trước khi hắn thành công. Nói thẳng là, những tội phạm mà Arkady bắt giữ chỉ là lũ say xỉn đã rồi mới giết người và giỏi nát rượu hơn là giết chóc. Anh đúc kết được bằng kinh nghiệm rằng có ít tình huống nguy hiểm hơn là trở thành bạn thân nhất hay cưới một gã rượu chè và một phần đáng kể của đất nước này mất phân nửa thời gian để say xỉn.
Những nhũ băng ướt treo mình trên các ống máng. Xe của viên thanh tra rẽ đám bộ hành chạy toán loạn. Nhưng còn đỡ hơn hai ngày trước, khi giao thông và con người là những bóng đen ùn ùn trong đám hơi nước náo nhiệt. Anh cua xe men theo điện Kremlin
trên Marx Prospekt và rẽ lên phố Petrovka cách khu tổ hợp sáu tầng trụ sở Cảnh sát Moscow màu vàng ba dãy nhà, nơi anh đỗ xe dưới ga-ra tầng hầm và đi cầu thang máy lên tầng ba.
Phòng tác chiến của Cảnh sát thường được báo chí miêu tả như là “trung tâm đầu não nhất của Moscow, sẵn sàng phản ứng ngay lập tức trước các báo cáo về tai nạn hay tội phạm tại thành phố an toàn nhất thế giới này.” Một bức tường trong phòng là bản đồ Moscow khổng lồ được chia thành ba mươi phân khu và được đính đèn tượng trưng cho 135 đồn phường. Hàng dãy bộ chuyển sóng radio bao quanh bàn thông tín nơi các sĩ quan liên lạc với các xe tuần tra (“Đây là Volga gọi 39”) hay, bằng mật hiệu, tên khu vực (“Đây là Volga gọi Omsk”). Không có căn phòng nào khác ở Moscow trật tự, yên bình và có tổ chức đến thế, một tác phẩm của điện tử và quá trình sàng lọc phức tạp. Họ có những chỉ tiêu. Một viên cảnh sát đang đi tuần thường sẽ có rất nhiều báo cáo chính thức về đủ các tội, hoặc không thì anh ta sẽ đặt đồng sự tuần tra của mình vào tình huống trớ trêu là không hề có báo cáo tội phạm nào hết. (Mọi người đều nhận thức rằng luôn phải có một vi phạm nào đó.) Rồi dần dần từng phường một cắt tỉa các số liệu của họ để đạt tới mức giảm thấp theo tiêu chuẩn với các tội giết người, hành hung và cưỡng bức. Đó là một cơ chế lạc quan đầy hiệu quả đòi hỏi sự thanh bình và phải đạt được nó. Trên bản đồ lớn chỉ có một đèn khu vực nhấp nháy, có nghĩa là thủ đô của bảy triệu dân cư đã vượt qua hai mươi tư giờ mà chỉ có một hành động tội phạm đáng chú ý được báo cáo. Chiếc đèn đặt ở khu vực công viên Gorky. Người quan sát chiếc đèn này từ trung tâm phòng tác chiến là ủy viên cảnh sát, một người đàn ông mặt bẹt vận bộ đồng phục cấp tướng màu xám với dây bện thừng vàng, đính đầy ngực những huân chương cống hiến. Cùng với ông
ta là hai đại tá, phó ủy viên. Arkady trông thật nhếch nhác trong bộ đồ dạo phố của mình.
“Báo cáo thủ trưởng, tôi - trưởng thanh tra Renko xin được báo cáo,” Arkady nói, theo đúng lễ nghi. Không biết mình đã cạo râu chưa? Anh tự hỏi và cố kìm ý muốn đưa tay lên cằm.
Vị tướng gật đầu một cái khẽ nhất có thể. Một đại tá nói, “Thủ trưởng biết đồng chí là chuyên gia tội phạm giết người. Ông tin tưởng vào sự chuyên môn hóa và hiện đại hóa.”
“Thủ trưởng muốn biết phản ứng ban đầu của đồng chí trước vấn đề này,” vị đại tá còn lại nói. “Có những khả năng nào cho một giải pháp trước mắt?”
“Với lực lượng cảnh sát tinh nhuệ nhất thế giới và sự ủng hộ của người dân, tôi tin rằng chúng ta sẽ thành công trong việc nhận diện và tóm cổ được các nhóm tội phạm.” Arkady trả lời đầy miễn cưỡng.
“Vậy thì tại sao,” viên đại tá đầu tiên hỏi, “vẫn chưa có thông báo nào về các nạn nhân được gửi đến các phân khu?”
“Các thi thể không có giấy tờ và bị đông cứng, rất khó để xác định thời gian tử vong. Đồng thời, họ bị cắt xẻo. Sẽ không có được nhận dạng như trình tự bình thường.”
Sau khi liếc mắt về phía vị tướng, viên đại tá còn lại hỏi, “Có xuất hiện bên An ninh Quốc gia ở hiện trường?”
“Vâng.”
Vị tướng cuối cùng cũng cất lời. “Ở ngay tại công viên Gorky. Đó là điều tôi không hiểu được.”
Trong kho lương, Arkady dùng bữa sáng với bánh cuộn cùng cà phê, rồi nhét đồng hai kopek* vào bốt điện thoại công cộng và gọi. “Đồng chí giáo viên Renko có ở đó không?”
“Đồng chí Renko đang bận họp với đảng ủy quận.”
“Chúng tôi đã định đi ăn trưa cùng nhau. Hãy chuyển lời tới đồng chí Renko... rằng chồng cô ấy sẽ gặp cô ấy tối nay.”
Trong một giờ tiếp theo, anh tìm tài liệu liên quan đến thám tử trẻ Fet, tự hài lòng rằng anh chàng này chỉ làm những vụ được KGB đặc biệt quan tâm. Arkady rời tổng bộ bằng lối sân trong phía mặt đường Petrovka.
Các nhân viên cảnh sát văn phòng và phụ nữ trở về sau giờ nghỉ dài mua sắm đang lách đường đi quanh những chiếc limousine đỗ chật ních lối đi hình vòng tròn. Anh vẫy tay trước trạm gác và bước tới phòng khám nghiệm pháp y.
Đến trước cửa phòng khám nghiệm tử thi, Arkady dừng lại để châm thuốc.
“Anh định nôn đấy à?” Levin ngước lên khi nghe thấy tiếng quẹt diêm.
“Không, nếu như việc đó quấy rầy công việc của ông. Hãy nhớ rằng, tôi chẳng kiếm thêm được như một số người.” Arkady đang nhắc Levin nhớ rằng các nhà nghiên cứu bệnh học được trả thêm 25% so với bác sĩ thông thường, những người làm việc để mưu sinh. Đó là một khoản “chi phí mạo hiểm” vì không có hệ sinh vật độc hại nào lại có vẻ sống động đầy nguy hiểm như xác chết.
“Khả năng bị nhiễm trùng luôn thường trực,” Levin nói. “Chỉ sượt một nhát dao...”
“Họ bị đông cứng. Thứ duy nhất họ có thể lây sang ông là một trận cảm lạnh. Ngoài ra, ông cũng chẳng bao giờ sượt tay. Với ông, cái chết chỉ là một phần thưởng.” Arkady hít một hơi cho đến khi khắp mũi và phổi mình nhiễm đầy khói thuốc.
Khi đã sẵn sàng, anh bước vào một bầu không khí đầy phoóc môn. Ba nạn nhân có thể từng rất khác nhau về mặt tính cách, nhưng khi là những tử thi họ hoàn toàn cùng một kiểu. Trắng như bạch tạng, chỉ hơi bầm tím ở quanh vùng mông và vai, da đầy những vết sần da gà lớn, một lỗ hổng ở tim, mất đầu ngón tay và gương mặt. Từ đường chân tóc đến cằm, từ tai này sang tai kia đều bị róc hết thịt, để trơ lại xương mặt và máu đen ngòm. Đôi mắt cũng đã bị khoét mất. Đó là nguyên trạng khi họ trồi ra khỏi tuyết. Phụ tá của Levin, một người Uzbek đang bị sổ mũi, đang thêm thắt vài chi tiết trang trí nữa, anh ta cắt vào khoang ngực bằng một chiếc cưa máy lưỡi tròn. Uzbek liên tục bỏ cưa xuống để làm ấm lại tay. Một cái xác với kích cỡ chuẩn có thể đông đá suốt một tuần.
“Sao anh có thể phá án khi anh không chịu nổi hình ảnh người chết.” Levin hỏi Arkady.
“Tôi bắt giữ người sống.”
“Đó là một điều đáng tự hào sao?”
Arkady lấy báo cáo sơ bộ trên bàn và đọc:
Nam. Da trắng. Tóc nâu. Mắt không xác định. Tuổi xấp xỉ từ 20- 25. Thời điểm tử vong: khoảng từ hai tuần đến sáu tháng. Bị đông cứng trước khi kịp có bất kỳ sự phân hủy nào. Nguyên nhân chết: Các vết thương do súng bắn. Mô mềm và đốt ngón tay thứ ba của cả hai tay đều không còn do bị cắt. Hai vết thương có khả năng đã dẫn đến tử vong. Vết thương “A” bắn vào phần tiếp giáp ở khe miệng từ hàm trên, đường đạn đi 45 độ xuyên qua não và thoát ra phía trên cao sau hộp sọ. Vết thương “B” bắn sâu hai centimet, phía
bên trái xương ức, vào tim, vỡ động mạch chủ. Viên đạn đánh dấu GP1-B được gỡ ra từ khoang ngực.
Nam. Da trắng. Tóc nâu. Mắt không xác định. Tuổi xấp xỉ từ 20- 30. Thời điểm tử vong: khoảng từ hai tuần đến sáu tháng. Mô mềm và các đốt ngón tay thứ ba không còn do bị cắt. Hai vết thương có khả năng đã dẫn đến tử vong, vết thương “A” bắn vào phần tiếp giáp giữa miệng và khe hàm trên và làm gãy các răng cửa, đường đạn chệch góc xuyên qua não găm vào phần sau sọ sâu khoảng năm centimet, phía trên khe màng não. Viên đạn đánh dấu GP2-A được gỡ ra từ khoang hộp sọ. [GP2-A là viên đạn mà Pribluda đã moi ra.] Vết thương thứ hai, ba centimet. Bên trái xương ức xuyên qua khoang tim. Viên đạn đánh dấu GP2-B được gỡ từ trong xương vai trái.
Nữ. Da trắng. Tóc nâu. Mắt không xác định. Tuổi xấp xỉ từ 20-23. Thời điểm tử vong: xấp xỉ từ hai tuần đến sáu tháng. Nguyên nhân tử vong: vết thương do súng bắn ba centimet. Bên trái xương ức trúng tim, đứt tâm thất phải và tĩnh mạch chủ trên, thoát ra ngoài qua lưng giữa xương sườn thứ ba và bốn, hai centimet. Bên trái xương sống. Đầu và tay bị cắt bớt như nam GP1 và GP2. Viên đạn đánh dấu GP3 được tìm thấy trong váy sau vết đi ra của đạn. Không có dấu hiệu mang thai.
Arkady dựa vào tường, hút thuốc cho đến suýt choáng váng, rồi anh tập trung vào đám giấy tờ trong tay.
“Làm sao ông xác định được tuổi của họ.”
“Sự ít mòn men răng.”
“Vậy là ông đã làm biểu đồ nha khoa?”
“Làm rồi, nhưng nó chẳng giúp gì mấy. Nạn nhân nam thứ hai có mối hàn răng bằng thép.” Levin nhún vai.
Tay Uzbek đưa biểu đồ nha khoa, cùng với một hộp đựng những chiếc răng cửa bị vỡ đã được ghi ký hiệu như các viên đạn lúc nãy. “Thiếu một cái,” Arkady đếm những chiếc răng.
“Nát thành bột rồi. Những gì còn lại đang ở hộp khác. Nhưng có vài thứ đáng lưu tâm không có trong báo cáo sơ bộ, nếu anh muốn xem qua.”
Những bức tường xi măng xám vỏ sò, đầy vết ố bẩn quanh các lỗ thoát nước trên sàn, đèn tuýp sáng nhức mắt, lồ lộ những da thịt trắng ởn và lông mu. Mẹo của viên thanh tra là nhìn mà không nhìn, nhưng - ba người chết kia. Hãy nhìn chúng tôi này, những gương mặt nói. Ai đã giết chúng tôi?
“Như anh thấy đấy,” Levin nói, “người đàn ông đầu tiên có cấu trúc xương nặng và cơ bắp phát triển. Người đàn ông thứ hai có vóc dáng nhỏ và có vết gãy xương hở cũ ở ống đồng bên trái. Thú vị nhất là.” Levin giơ ra một nhúm tóc mượt như tơ kẹp giữa những ngón tay. “Đối tượng nam thứ hai nhuộm tóc. Tóc tự nhiên của anh ta màu đỏ. Những điều này sẽ được ghi lại trong báo cáo hoàn chỉnh.”
“Đó là điều mà tôi mong đợi đấy.” Arkady ra về.
Levin rượt theo thang máy và lẩn vào trong xe với Arkady. Ông ta từng là bác sĩ quân y trưởng ở Moscow cho đến khi Stalin cho rơi rụng hết đám bác sĩ Do Thái. Ông ta kìm giữ cảm xúc của mình như
giữ chặt vàng trong tay, một biểu lộ đồng cảm của ông ta vừa tuột ra ngoài, một cái giật nhẹ .
“Hẳn phải có viên thanh tra khác lo vụ này,” ông ta nói với Arkady. “Bất kỳ ai. Bất kỳ kẻ nào đã cắt những gương mặt và bàn tay đó cũng biết mình đang làm gì. Hắn đã từng làm thế rồi. Sự lặp lại của vụ sông Kliazma.”
“Ông nói đúng, đến mai bên trên sẽ tiếp quản vụ này thôi. Lần này, họ sẽ không để nó đi quá xa nữa đâu, vậy đấy. Sao ông lo lắng quá làm gì?”
“Sao anh không lo,” Levin mở mấy cánh cửa. Trước khi chúng kịp đóng lại, ông ta nhắc, “lặp lại vụ sông Kliazma.”
Khoa đạn đạo học là một căn phòng có bể nước dài bốn mét, chiếm phần lớn diện tích. Arkady để lại những viên đạn và tiếp tục đi tới Trung Tâm Thí Nghiệm Pháp Y, một phòng lớn có sàn lát ván, bàn phủ cẩm thạch, bảng viết phấn màu xanh lục và những gạt tàn cao ngang đầu gối được đỡ xung quanh bằng tượng nữ thần. Những chiếc bàn riêng được kê một bên để đặt quần áo của nạn nhân và các đội khác nhau làm việc với những phần nhớp nháp còn sót lại. Chịu trách nhiệm ở đây là một đại tá cảnh sát có mái tóc bóng mượt và bàn tay béo múp tên là Lyudin.
“Cho đến giờ thì không có nhiều máu lắm.” Lyudin tươi cười. Những kỹ thuật viên khác ngước lên nhìn viên thanh tra vừa bước vào. Một trong số họ đang hút bụi từ túi áo quần, người khác chải sạch vụn băng khỏi giày trượt tuyết. Sau lưng họ là đám dược phẩm sặc sỡ như kẹo trong hũ thủy tinh, tinh thể i-ốt, dung dịch bạc nitrat, gel làm đông agar.
“Thế còn tình trạng lúc đầu của quần áo?” Arkady hỏi. Anh muốn thấy hàng nước ngoài chất lượng cao, dấu hiệu cho thấy ba người chết là tội phạm dính líu đến dạng buôn lậu chợ đen mà KGB phải điều tra.
“Nhìn này,” Lyudin hướng sự chú ý của Arkady tới nhãn hiệu bên dưới của một trong số những chiếc áo khoác. Nhãn này ghi “jeans.” “Đồ nội địa. Tất cả đều là đồ bỏ, thứ anh có thể mua ở bất kỳ cửa hiệu nào tại đây. Nhìn cái áo ngực này.” Ông ta chỉ vào một chiếc bàn khác. “Không phải hàng Pháp hay thậm chí là Đức.”
Arkady nhìn thấy Lyudin đeo một cà vạt vẽ tay khổ rộng bên trong áo khoác phòng thí nghiệm của mình. Anh để ý vì cà vạt khổ rộng là thứ không mua được với đại đa số dân chúng. Viên đại tá thấy hài lòng với thái độ thất vọng của Arkady về trang phục của nạn nhân. Kỹ thuật viên pháp y trở thành phần quan trọng trong tỷ lệ trực tiếp dẫn đến sự thất vọng của các điều tra viên.
“Tất nhiên, chúng tôi vẫn chưa dùng đến hệ thống sắc ký khí, quang phổ kế, lấy mẫu kích hoạt nơ-ron, nhưng loại xét nghiệm đó rất đắt để dùng cho riêng ba bộ đồ.” Lyudin giơ tay bất lực. “Chưa kể thời gian cho máy tính nữa.”
Vốn lớn đây, Arkady tự nhắc chính mình. “Đại tá, không có ngân sách dành cho tư pháp,” anh nói.
“Đúng, đúng, nhưng tôi có thể có vài giấy tờ được ký, giấy ủy quyền tiến hành cả loạt xét nghiệm, anh thấy đấy.”
Arkady kết cục lại ký một tờ giấy ủy quyền trống. Đại tá Lyudin chắc sẽ điền vào đó đầy những xét nghiệm không cần thiết mà ông ta sẽ không tiến hành và lén bán đi những hóa chất không được
dùng đến. Dù sao ông ta cũng là chuyên viên kỹ thuật. Arkady chẳng có quyền gì phàn nàn cả.
Kỹ thuật viên trong phòng đạn đạo học đang di chuyển các viên đạn qua lại dưới một kính hiển vi so sánh khi Arkady tới. “Thấy không?”
Arkady nhoài người ra. Một viên đạn từ công viên Gorky ở dưới thị kính bên trái và cái thứ hai ở dưới thị kính phải, hai trường hình ảnh tiếp giáp vào nhau. Một viên bị hủy hoại nặng vì di chuyển xuyên qua xương, nhưng cả hai đều có rãnh bên trái và khi xoay chúng lại, anh lọc ra được cả tá điểm chung ở bề mặt và rãnh.
“Cùng một khẩu súng.”
“Tất cả đều cùng một khẩu súng,” tay kỹ thuật viên đồng tình. “Cả năm viên. Cỡ nòng 7.65 khá lạ lẫm với tôi.”
Arkady chỉ mang theo bốn viên đạn từ chỗ Levin. Anh lấy hai viên ra khỏi kính hiển vi. Viên bên tay trái anh không có đánh dấu. “Mới được mang đến từ công viên,” tay kỹ thuật viên nói. “Máy dò kim loại đã tìm ra chúng.”
Ba người bị giết ở một khu đất trống, bởi chỉ một khẩu súng ở cự li gần. Bị bắn và rồi bị cắt phanh ra.
Pribluda. Vụ án sông Kliazma.
Văn phòng công tố thành phố Moscow ở phía nam con sông trên phố Novokuznetskaya trong khu vực các cửa tiệm thế kỷ XIX. Tòa nhà văn phòng cũng được chia từ trung tâm ra thành một bên nhà hai tầng vàng và một bên nhà ba tầng xám. Các điều tra viên ở nửa màu vàng nhìn ra một công viên bé xíu và buồn thảm nơi công dân
được gọi đến thẩm vấn có thể ngồi và thất vọng. Trong công viên có một thảm hoa to cỡ ngôi mộ và bình hoa trống trên các đế xoay. Từ phía khác của tòa nhà, phía lớn hơn, ngài công tố viên nhìn xuống một sân chơi.
Arkady đi vào cửa dành cho điều tra viên và bước hai bậc một lên cầu thang dẫn đến tầng hai. Thanh tra trưởng Chuchin (phụ trách Vụ án Đặc biệt) và Belov (phụ trách các vụ bình thường) đang ở sảnh.
“Iamskoy muốn gặp anh.” Chuchin cảnh báo.
Arkady lờ đi và tiếp tục đi tới văn phòng của mình ở phía cuối. Belov đi theo anh. Belov là điều tra viên lớn tuổi nhất và sở hữu cái mà ông gọi là “một tấm lòng yêu mến không biết mệt mỏi” dành cho Arkady. Căn phòng rộng ba mét, dài bốn mét, tường nâu bao quanh nội thất bằng gỗ thông và một cửa sổ đúp, được tô điểm bằng bản đồ đường phố và giao thông cùng một bức ảnh hiếm chụp Lê-nin ngồi ghế xếp.
“Cậu khắc nghiệt với Chuchin quá,” Belov nói.
“Hắn là một con lợn.”
“Anh ta chỉ làm việc mình cần phải làm.” Belov gãi mái đầu húi cua hói của mình. “Tất cả chúng ta đều có chuyên môn riêng.” “Tôi chưa bao giờ nói bọn bẩn tính là vô dụng.”
“Theo quan điểm riêng của tôi. Anh ta lo phần rác rưởi xã hội.” Vsevolod Belov của những bộ com-lê rộng vô tận. Một tinh thần được khắc dấu bởi cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại như bức tường từng một lần bị cào lên vì súng máy. Những ngón tay gân guốc nhăn nheo theo tuổi tác. Hào hiệp và là kẻ chống đối bản năng. Khi Belov lẩm bẩm về “những tên cướp phương Đông”, Arkady biết rằng còn
lệnh động viên ở biên giới. Khi Belov nhắc đến “lũ Do Thái”, các giáo đường Do Thái bị đóng cửa. Khi hoài nghi về bất kỳ vấn đề xã hội nào, anh có thể hỏi Belov.
“Chú Seva, ai lại nhuộm tóc, mặc áo khoác thể thao có nhãn hiệu ngoại rởm?”
“Xui rồi,” Belov ái ngại. “Nghe như bọn nhạc sĩ hay lưu manh. Punk rock. Jazz. Thể loại đó. Cậu sẽ không nhận được bất kỳ hợp tác nào từ tụi đó đâu.”
“Tuyệt. Vậy ý kiến của chú là tụi lưu manh.”
“Cậu sẽ biết rõ hơn tôi nhờ tin tình báo của cậu. Nhưng, đúng, dạng hóa trang như tóc nhuộm và nhãn hiệu rởm là biểu hiện của du côn hay ai đó chơi nhạc mạnh hoặc là có xu hướng côn đồ.”
“Cả ba người trong đám đó bị bắn bởi cùng một khẩu súng. Bị cắt phanh ra bằng một con dao. Không giấy tờ. Và Pribluda đến đầu tiên để đánh hơi mấy cái tử thi. Điều đó có gợi cho chú nhớ đến cái gì không?”
Belov kéo cằm xuống, mặt ông nhăn lại như một chiếc quạt. “Những bất đồng cá nhân giữa các cơ quan tư pháp không nên gây trở ngại đến công việc lớn hơn,” ông nói.
“Chú có nhớ không?”
“Tôi nghĩ là”- Giọng Belove xa xăm - “với tụi du côn thì có khả năng liên quan đến chiến tranh băng đảng.”
“Chiến tranh băng đảng nào cơ? Chú có biết bất kỳ cuộc chiến băng đảng nào ở Moscow không? Tụi Siberia hay Armenia chẳng hạn, nhưng ở đây?”
“Tôi biết,” Belov nhân mạnh, “rằng một điều tra viên tránh suy đoán và luôn cố gắng nhìn thằng vào những sự việc thì không bao giờ đi sai đường cả.”
Arkady buông thõng hai bàn tay xuống bàn và mỉm cười. “Cảm ơn chú. Chú biết là cháu luôn đánh giá cao quan điểm của chú mà.” “Thế thì tốt hơn.” Belov nhẹ nhõm bước ra cửa. “Dạo này cậu có nói chuyện với bố cậu không?”
“Không.” Arkady trải các báo cáo khám nghiệm tử thi sơ bộ lên bàn và kéo máy chữ lại gần mình.
“Khi nào nói chuyện với ông ấy thì gửi lời chào của tôi nhé. Đừng quên đấy.”
“Cháu sẽ không quên đâu.”
Còn lại một mình, Arkady gõ báo cáo điều tra sơ bộ: Văn phòng công tố thị trấn Moscow, RSFSR*.
Tội - giết người. Nạn nhân - hai nam không nhận dạng, một nữ không nhận dạng. Địa điểm - Công viên văn hóa và giải trí Gorky, khu vực Octobryskaya. Bên báo cáo: Cảnh sát.
Vào lúc 6 giờ 30 phút, một thành viên đội cảnh sát đang đi tuần ở góc phía Đông Nam của công viên Gorky đã phát hiện ba thi thể tại một khu đất trống cách phía bắc đường đi bộ bốn mét thẳng hàng với phố Donskoy và dòng sông. Vào lúc 7 giờ 30 phút, các sĩ quan cảnh sát, sĩ quan của An ninh Quốc gia và điều tra viên viết báo cáo này đã khám xét các tử thi bị đóng băng.
Vì tình trạng đóng băng của họ, hiện chỉ có thể chỉ ra rằng các nạn nhân đã bị giết tại một thời điểm nào đó trong mùa đông này. Cả
ba đều bị bắn xuyên tim. Hai người đàn ông cùng bị bắn xuyên đầu. Năm viên đạn được tìm thấy đều thuộc cùng một vũ khí nòng 7.65 li. Không có vỏ đạn nào được phát hiện.
Tất cả các nạn nhân đều đi giày trượt băng. Không có giấy tờ, tiền lẻ hay các vật dụng được tìm thấy trong trang phục của họ. Việc nhận dạng sẽ bị cản trở vì phần thịt của gương mặt và đầu ngón tay đã bị cắt và gỡ ra. Các báo cáo - huyết thanh học, nha khoa, đạn đạo học, sắc ký, khám nghiệm tử thi và khám xét thêm tại hiện trường đã sẵn sàng, và cuộc tìm kiếm những người có thể biết về các nạn nhân hay khu vực công viên này đã được bắt đầu.
Đây có thể được giả định là một tội ác có tính toán. Ba người nhanh chóng bị giết bởi cùng một khẩu súng, tất cả các vật dụng cá nhân bị lấy đi tại công viên đông đúc nhất thành phố, những biện pháp cực đoan được thực hiện để ngăn cản việc nhận diện.
Ghi chú: Một nạn nhân nam nhuộm tóc và người còn lại mặc áo khoác mang nhãn hiệu nước ngoài giả, có thể là biểu hiện của hoạt động phản xã hội.
Renko, A. V.
Trưởng thanh tra.
Khi Arkady đọc một lại lượt bản báo cáo qua loa này, thám tử Pavlovich và Fet gõ cửa và bước vào, Pasha mang theo một cặp tài liệu.
“Tôi sẽ quay lại sau ít phút.” Arkady mặc lại áo khoác. “Cậu biết nên làm gì đấy, Pasha.”
Arkady phải xuống đường để sang khu nhà cho công tố viên. Một công tố viên là biểu tượng cho thẩm quyền đặc biệt. Ông ta giám sát toàn bộ công tác điều tra tội phạm, đại diện cho cả nhà nước và bị đơn. Lệnh bắt giữ phải được thông qua sự phê chuẩn của ông ta, bản án của tòa án nằm trong sự cân nhắc của ông ta và kháng cáo được khởi xướng bởi ông ta. Một công tố viên tham gia vụ kiện dân sự một cách tùy thích, xác định tính hợp pháp của những chỉ thị của chính quyền địa phương và cùng lúc giải quyết các vụ kiện hàng triệu rúp, các vụ phản tố khi một nhà máy giao đai ốc thay vì bu lông cho nhà máy khác. Dù cho vụ án lớn hay nhỏ đến thế nào, bọn tội phạm, thẩm phán hay thị trưởng đều trả lời ông ta. Còn ông ta chỉ phải trả lời với ngài Tổng công tố.
Công tố viên Andrei Iamskoy đang ngồi tại bàn làm việc. Đầu được cạo hồng hào, một sự tương phản đầy kinh ngạc với bộ đồng phục của ông ta, màu lam sẫm với một ngôi sao vàng tổng trưởng, được may đặc biệt cho bộ ngực và cánh tay quá khổ của ông ta. Thịt ngộn lên trên mũi và gò má, đôi môi ông ta dày, bợt bạt.
“Đợi đã.” Ông ta tiếp tục đọc một tờ giấy trên bàn.
Arkady đứng trên một tấm thảm xanh cách bàn ba mét. Trên các bức tường đóng ván là những bức ảnh Iamskoy dẫn đầu một phái đoàn công tố viên tại một cuộc họp long trọng với Tổng bí thư Brezhnev, bắt tay với Tổng bí thư, phát biểu tại một hội nghị công tố viên quốc tế tại Paris, bơi tại Silver Grove, và nổi trội hơn cả - bức hình ông ta đang tranh luận một kháng cáo trước Hội đồng Tòa Án Tối Cao về việc một công nhân bị kết án giết người oan trên tờ Pravda. Đằng sau vị công tố viên bằng xương bằng thịt là một cửa sổ được canh giữ bởi những tấm rèm nhung Ý màu hạt dẻ. Vệt da
cháy nắng lớn lốm đốm trên hộp sọ bóng loáng của Iamskoy, dù nắng đã nhạt màu, lẩn sau những tấm rèm cửa.
“Sao?” Iamskoy lật tờ giấy lại và ngước lên. Đôi mắt ông ta rất nhạt, như những viên kim cương sũng ướt. Như thường lệ, giọng ông ta nhẹ đến mức người nghe phải tập trung lắm mới nghe được. Sự tập trung, từ lâu đã được Arkady xác định là chìa khóa để đến với Iamskoy.
Arkady tiến lên một bước dài để đặt bản báo cáo lên bàn và lùi lại. Tập trung nào: Chính xác thì mi là ai và mi phải nói gì? Hãy xác định thật đúng về lợi ích mà mi làm được cho xã hội.
“Thiếu tá Pribluda đã ở đó. Anh không nhắc đến tên anh ta.” “Anh ta đã làm mọi việc nhưng lại phá tung mấy cái xác và rồi chuồn thẳng. Có phải anh ta đã gọi điện yêu cầu loại tôi khỏi vụ này?”
Iamskoy dừng ánh mắt trên khuôn mặt Arkady. “Anh là trưởng thanh tra về tội phạm giết người, Arkady Vasilevich. Tại sao anh ta lại muốn loại anh ra?”
“Chúng tôi có một trục trặc với tay thiếu tá này một khoảng thời gian ngắn trước đây.”
“Trục trặc gì? KGB đã tuyên bố rõ về quyền hạn của họ, cho nên vấn đề đã chấm dứt một cách tốt đẹp.”
“Xin lỗi, nhưng hôm nay chúng tôi đã tìm thấy ba người trẻ tuổi bị giết trong một công viên công cộng bởi một tay súng lão luyện xài một khẩu súng ngắn nòng 7.65 li. Những loại súng duy nhất mà người Nga có thể có là hàng quân đội, 7.62 li hay 9 li, không có cái nào giống như vũ khí của tay giết người cả. Ngoài ra, các nạn nhân
còn bị cắt xẻo. Cho đến giờ, bản báo cáo của tôi không đưa ra một suy luận nào hết.”
“Suy luận về cái gì?” Iamskoy nhướn mày.
“Về bất kỳ cái gì,” Arkady trả lời sau khi ngừng lại một chút. “Cảm ơn anh,” Iamskoy nói. Đấy là kiểu mời giải tán của ông ta. Arkady đã ở cửa khi viên công tố nói tiếp như là một ý nghĩ chợt nảy ra sau cùng. “Mọi tính pháp lý sẽ bị giám sát. Anh nên để mắt kỹ tới các trường hợp ngoại lệ vốn chỉ chứng minh thêm cho quy luật này.” Arkady cúi chào và bước đi.
Fet và Pasha đã dán lên tường một bản đồ công viên Gorky, bức phác thảo địa điểm chết chóc của Levin, những bức ảnh xác chết và báo cáo khám nghiệm tử thi. Arkady ngồi sụp xuống ghế và mở một gói thuốc lá mới. Anh quẹt ba que diêm trước khi châm được thuốc. Anh đặt ba que diêm gẫy và que đã cháy vào giữa bàn. Fet quan sát, cau mày. Arkady đứng dậy để gỡ mấy bức ảnh xác chết và đặt chúng vào trong một ngăn kéo. Anh chẳng cần nhìn mấy gương mặt này. Anh quay lại ghế và ngồi nghịch mấy que diêm.
“Đã thẩm vấn gì chưa?”
Pasha mở một cuốn sổ ra. “Mười sĩ quan cảnh sát vốn chả biết gì cả. Nếu đó là vấn đề, tôi có lẽ đã trượt băng ở đó mười lần mùa đông này rồi.”
“À, thử mấy người bán đồ ăn lưu động xem. Mấy bà già đó để ý ối chuyện mà cảnh sát không chú ý tới.”
Fet hiển nhiên là không đồng tình. Arkady nhìn anh ta. Bỏ mũ xuống, tai của Fet bung ra ở một góc mà Arkady đoán là chuẩn cấu trúc để nâng đôi kính tròn gọng thép.
“Cậu đã ở đó khi viên đạn cuối cùng được tìm thấy à?” Arkady hỏi anh ta.
“Vâng. GP1-A được lấy từ khoảng đất ngay dưới chỗ hộp sọ có GP1, nạn nhân nam thứ nhất.”
“Chết tiệt, tôi sẽ rất hạnh phúc nếu chúng ta có vài cái tên cho mấy cái xác này thay vì Một, Hai và Ba.”
Pasha xin một điếu thuốc của Arkady. “Như nào nhỉ?” Arkady hỏi. “Phù hợp?” Pasha hỏi.
“Công viên Gorky Một, Công viên Gorky Hai...” Fet lại bắt đầu. “Ôi thôi nào.” Pasha lắc đầu. “Cảm ơn,” anh nói với Arkady và thở dài. “Công viên Gorky Một? Anh ta là một tay cao lớn? Hãy gọi anh ta là “Cơ bắp”.”
“Vẫn chưa đủ văn hoa,” Arkady nói. ““Quái vật”, tên “Người đẹp” thì dành cho người phụ nữ, “Quái vật” cho người cao lớn, “Còm nhom” cho tay người nhỏ thó.”
“Anh ta có mái tóc đỏ thực sự,” Pasha nói. “Đỏ.”
““Người đẹp”, “Quái vật” và “Đỏ”. Quyết định lớn đầu tiên của chúng ta, thám tử Fet ạ,” Arkady nói. “Đã có ai nghe nói bên Pháp y đang làm việc với mấy cái giày trượt như thế nào rồi chưa?”
“Mấy cái giày trượt có lẽ chỉ là một trò lừa,” Fet đặt vấn đề. “Có vẻ khó tin khi ba người có thể bị bắn trong công viên Gorky mà không một ai nghe thấy. Ba nạn nhân có thể đã bị bắn ở đâu đó khác, rồi giày trượt tuyết có thể được đi cho họ và họ có lẽ đã được mang đến công viên vào ban đêm.”
“Tôi đồng ý là, khó mà tin được lại có tới ba người bị bắn ở công viên Gorky mà không ai nghe thấy.” Arkady nói. “Nhưng mang giày
trượt lên chân người chết là không thể. Lúc nào đó cứ thử mà xem. Hơn nữa, nơi mà cậu không muốn thử lén giấu xác ba người chết nhất chính là công viên Gorky.”
“Tôi chỉ muốn anh suy nghĩ về khả năng đó thôi,” Fet nói. “Làm tốt lắm,” Arkady quả quyết. “Giờ hãy tìm hiểu xem người của Lyudin tìm ra được những gì.”
Anh quay số, gọi phòng thí nghiệm ở phố Kiselny. Đến hồi chuông thứ hai mươi, tổng đài trả lời và nối máy cho anh với Lyudin. “Đại tá, tôi...” Anh phải nói trước khi bị ngắt kết nối. Anh quay số lại lần nữa. Không có phản hồi từ phố Kiselny. Anh nhìn đồng hồ. 4 giờ 20 phút: thời điểm những nhân viên trực tổng đài tắt máy để chuẩn bị rời công sở lúc năm giờ. Đám thám tử cũng sẽ muốn về sớm. Pasha thì về để tập tạ. Còn Fet? Về nhà với mẹ hay với Pribluda trước đây?
“Có lẽ họ bị bắn ở chỗ nào đó khác và được mang tới công viên vào ban đêm.” Viên thanh tra gạt đám diêm sang một bên. Fet ngồi thẳng dậy. “Anh vừa nói là không phải thế. Hơn nữa, tôi nhớ là, chúng ta đã tìm thấy viên đạn cuối trong lòng đất, chứng tỏ là họ đã bị bắn ở đó.”
“Chứng tỏ rằng những nạn nhân, còn sống hay đã chết cũng bị bắn xuyên đầu ở đó.” Arkady đặt một que diêm về lại giữa bàn. “Không tìm thấy vỏ đạn. Nếu một khẩu súng ngắn tự động đã được dùng, đám vỏ đáng lẽ đã bị đẩy xuống đất.”
“Hắn có thể đã nhặt chúng lên,” Fet phản đối.
“Tại sao? Đạn giúp nhận diện vũ khí cũng như vỏ đạn vậy.” “Hắn có lẽ đã nổ súng từ khoảng cách xa.”
“Không phải,” Arkady nói.
“Có thể hắn nghĩ cần nhặt chúng lên vì nếu có ai tìm ra thì họ sẽ tìm kiếm một cái xác chết.”
“Hắn mang súng trong áo khoác chứ không phải vẫy vẫy nó khắp nơi.” Arkady nhìn sang một bên. “Khẩu súng và vỏ đạn trong ổ đạn vốn đã nóng rồi. Những vỏ đạn bị đẩy ra, bị làm nóng lên hơn bởi khí đẩy, sẽ tan vào trong tuyết rất lâu trước khi những cái xác bị tuyết bao phủ. Dù sao tôi cũng tò mò.” Anh nhìn Fet. “Tại sao cậu lại nghĩ đó là một tay súng đơn lẻ?”
“Chỉ có một khẩu súng mà thôi.”
“Cho đến giờ chúng ta biết rằng chỉ có một khẩu súng được dùng đến. Cậu có thể tưởng tượng việc một tay sát thủ khiến ba nạn nhân đứng yên trong khoảng cách gần khi hắn nổ súng khó đến thế nào không - trừ khi cùng với hắn còn có các tay súng khác? Tại sao các nạn nhân lại cảm thấy tình huống của mình vô vọng đến mức họ còn chẳng chạy đi cầu cứu? Ừ thì, chúng ta sẽ tóm tay sát nhân này. Chúng ta chỉ mới bắt đầu và có rất nhiều vấn đề luôn nảy sinh. Chúng ta sẽ tóm tên khốn béo ị đó.”
Fet không hỏi, sao lại là béo?
“Dù sao thì,” Arkady kết thúc vấn đề, “Hôm nay quả là một ngày dài. Phiên làm của các cậu hết rồi.”
Fet là người ra ngoài đầu tiên.
“Thế là chú chim nhỏ của chúng ta đi rồi,” Pasha nói khi đang đi theo sau.
“Tôi hy vọng hắn là một con vẹt.”
Còn lại một mình, Arkady gọi về sở chỉ huy ở Petrovka để gửi một bản thông báo thuộc nước cộng hòa - trải rộng về phía tây vùng Urals về thông tin vụ phạm tội sử dụng súng, chỉ để khiến ủy viên cảnh sát hài lòng. Đồng chí Giáo viên Renko, anh được người ta bảo thế, đang chủ trì một phiên phê bình dành cho phụ huynh và không thể nghe máy được.
Những điều tra viên khác đang ra về, trưng lên bộ mặt hăm hở và kéo áo khoác lên. Những chiếc áo khoác nghiêm chỉnh của họ, Arkady nghĩ trong lúc quan sát từ bậc cầu thang trên cùng. Trang phục hơn cả-một-công-nhân Liên Xô của họ. Anh không đói, nhưng việc ăn uống có vẻ hấp dẫn với anh. Anh muốn tản bộ. Anh lấy áo khoác và đi ra ngoài.
Anh đi bộ xuống phía nam tới tận ga tàu Paveletsky trước khi đôi chân đưa anh tới một quán ăn tự phục vụ nơi đang có buffet cá thịt trắng và khoai tây ngập dấm. Arkady tới quầy bar và gọi một cốc bia. Ngồi trên những chiếc ghế cao còn lại là những công nhân đường sắt và các tay lính trẻ lẳng lặng say sâm panh: những gương mặt sưng sỉa giữa những cái chai màu xanh mơ ước.
Một lát bánh mì với bơ và trứng cá muối xám dính đi kèm với bia của Arkady. “Cái gì đây?”
“Từ thiên đàng đấy,” người quản lý trả lời.
“Làm gì có thiên đàng?”
“Nhưng chúng ta đang ở đó đấy thôi.” Người quản lý nở nụ cười với nguyên bộ răng thép. Bàn tay ông ta phóng ra để đẩy trứng cá muối về gần Arkady hơn.
“À, tôi vẫn chưa đọc báo ngày hôm nay,” Arkady thừa nhận.
Vợ của người quản lý, một thần lùn trong bộ đồng phục trắng, bước ra khỏi bếp. Khi nhìn thấy Arkady, bà ta phá lên cười sang sảng làm hai má phồng lên và kéo sự chú ý tới đôi mắt sống động - khiến cho bà ta trông có vẻ xinh đẹp. Người chồng đứng đầy tự hào bên cạnh bà ta.
Họ là Viskov, F. N., và Viskova, I. L. Năm 1946, họ thành lập một “trung tâm hoạt động chống Liên Xô” bằng cách điều hành một cửa hàng sách hiếm chứa chấp những nhà văn hạng xoàng Montaigne, Apoillinaire và Hemingway. Cuốn “Thẩm vấn với định kiến” đã khiến Viskov bị què và vợ ông bị câm (cố gắng tự tử bằng kiềm), và họ phải nhận thứ mà vào thời điểm đó vẫn thường được gọi một cách khôi hài là phiếu 25 rúp : Hai mươi lăm năm khổ sai trong trại (cách nói đùa từ khi cảnh sát và An ninh quốc gia là một và cùng cơ quan). Năm 1956, vợ chồng Viskov được thả và thậm chí được đề nghị cho cơ hội mở hiệu sách khác, nhưng họ đã từ chối.
“Tôi cứ nghĩ bà phụ trách tiệm ăn tự phục vụ chỗ rạp xiếc mà.” Arkady nói.
“Họ phát hiện ra vợ tôi và tôi cùng làm ở đó trái với quy định. Cô ấy chỉ đến đây để giúp ngoài giờ làm việc.” Viskov nháy mắt. “Đôi khi con trai tôi cũng đến giúp nữa.”
“Nhờ có anh,” đồng chí Viskova mấp máy môi.
Chúa ơi, Arkady nghĩ, một cỗ máy đã kết tội hai người lương thiện, bắt cóc họ đến những trại nô lệ, tra tấn họ, xé toạc ra những gì tinh túy nhất trong quãng đời trưởng thành của họ và rồi khi một người từ cỗ máy đó đối xử với họ bằng phép lịch sự cơ bản, họ thành những suối nguồn của niềm vui. Anh có quyền gì mà hưởng
một lời tử tế từ họ chứ? Anh ăn trứng cá muối, uống bia và rời khỏi tiệm ăn một cách nhanh nhất mà phép lịch sự cho phép. Lòng biết ơn như một chú chó quấn quít bên gót chân anh. Sau khi đi qua vài dãy nhà, anh chậm lại vì đang là khoảng thời gian yêu thích của mình, đêm tối với những ô cửa sổ nhỏ và sáng rực, những gương mặt trên phố cũng bừng sáng như những ô cửa. Vào khoảng thời gian này trong ngày, anh cảm thấy mình có thể ở bất kỳ một Moscow nào trong năm thế kỷ vừa qua và anh sẽ không ngạc nhiên trước tiếng vó ngựa đạp lên bùn. Sau ô cửa sổ của một cửa hàng, những con búp bê cũ kỹ thật nhỏ bé, những Người Tiên Phong hoàn hảo, một chiếc Sputnik chạy pin chạy vòng quanh một chiếc đèn hình mặt trăng đầy thôi thúc “Hãy hướng tới Tương Lai!” Trở lại văn phòng, Arkady ngồi trước tủ và xem qua các tài liệu. Anh bắt đầu với tài liệu về tội phạm dùng súng.
Giết người. Một người thợ máy tiện trở về nhà và phát hiện ra vợ mình đang ăn nằm với một sĩ quan hải quân và trong cuộc vật lộn nảy sinh từ đó, người công nhân dùng chính súng của viên sĩ quan để bắn anh ta. Phiên tòa đã xem xét rằng viên sĩ quan đáng lẽ không nên mang theo súng, rằng bị cáo đã được công đoàn của mình chứng thực là người lao động cần cù và ông đã ăn năn hành động của mình. Tuyên án: mười năm tù.
Giết người có tình tiết tăng nặng. Hai thương nhân chợ đen tranh cãi về vấn đề phân chia lợi nhuận và cả hai đều bị bất ngờ, một người chết do khẩu Nagurin đã han gỉ vẫn hoạt động. Lợi nhuận là tình tiết tăng nặng. Tuyên án: Tử hình.
Tấn công có vũ trang (một dạng tấn công). Một cậu thiếu niên dùng súng giả bằng gỗ cướp hai rúp của một người say rượu.
Tuyên án: năm năm tù.
Arkady xem qua những hồ sơ giết người trực tiếp, tìm kiếm những tội phạm mà anh có thể đã quên, những kẻ giết người thể hiện việc lên kế hoạch cẩn thận và sự táo bạo lạnh lùng. Với những vụ dùng dao, rìu, dùi cui và bóp cổ, dù gì, cũng có ít sự thận trọng hay lãnh đạm. Trong ba năm ở cương vị phó thanh tra và hai năm làm trưởng thanh tra, anh gặp phải không quá năm vụ giết người vượt lên trên sự ngu ngốc trẻ con, hoặc là sau đó thủ phạm không trình diện trước cảnh sát với vẻ khoác lác say xỉn hay sầu não thảm hại. Kẻ giết người gốc Nga có niềm tin lớn vào việc mình chắc chắn sẽ bị bắt, tất cả những gì hắn muốn là khoảnh khắc của mình trên sân khấu. Người Nga thắng trận là vì họ quăng mình ra trước xe tăng, điều vốn không phù hợp với tâm lý của một tên tội phạm bậc thầy.
Arkady bỏ cuộc và đóng hồ sơ lại.
“Này chàng trai trẻ.” Nikitin mở cửa ra mà không hề gõ và ló đầu vào, tiếp theo sau là cả thân hình của anh ta, sau đó ngồi lên bàn của Arkady. Viên trưởng thanh tra về liên lạc chính phủ có gương mặt tròn và mái tóc mỏng, và khi say nụ cười của anh ta vặn xoắn đôi mắt thành những khe ti hí. “Làm việc muộn à?”
Ý Nikitin là Arkady đang làm việc chăm chỉ, quá chăm chỉ, một cách vô ích, một cách thành công, rằng Arkady thông minh, hay một kẻ ngốc? Nikitin ám chỉ tất cả những điều đó.
“Cũng giống anh thôi.” Arkady nói.
“Tôi đang không làm việc - tôi đang kiểm tra anh. Đôi khi, tôi nghĩ anh chẳng bao giờ học được điều gì từ tôi cả.”
Ilya Nikitin từng là trưởng thanh tra tội phạm giết người trước Arkady, khi mà anh ta còn tỉnh táo, viên thanh tra giỏi nhất mà Arkady từng biết đến. Nếu không vì rượu Vodka, anh ta hẳn đã là công tố viên từ lâu rồi, nhưng nói “nếu không vì vodka” với trường hợp của Nikitin thì chẳng khác nào nói “nếu không vì thức ăn và nước uống.” Mỗi năm một lần, nhuộm đầy mình bệnh vàng da, anh ta được chuyển tới một khu suối khoáng ở Sochi.
“Anh biết đấy, tôi luôn biết anh đang làm gì, Vasilevich. Tôi luôn trông chừng cho anh và Zoya.”
Vào một kỳ nghỉ cuối tuần khi Arkady đang đi vắng, Nikitin đã cố dụ Zoya lên giường. Khi Arkady trở lại, Nikitin lập tức bị chuyển đến Sochi, từ đó anh ta ngày ngày gửi những bức thư dài đầy ăn năn. “Muốn uống chút cà phê không, Ilya?”
“Ai đó cần phải cứu anh khỏi chính anh thôi. Xin thứ lỗi, Vasilevich” - Nikitin cố tình dùng cách gọi theo tên cha một cách trịch thượng - “Nhưng tôi, có lẽ đơn giản - tôi biết anh không đồng tình - chỉ là có thông minh hoặc là nhiều kinh nghiệm hơn anh một chút, hay ít nhất là thân cận với những nguồn cao cấp hơn. Đây không phải là một lời chỉ trích thành tích của anh, bởi vì thành tích của anh khá lừng danh và khó có thể hơn được thế nữa.” Đầu của Nikitin nghiêng sang một bên, anh ta nhe răng cười, một lọn tóc ướt dính trên má, vẻ đạo đức giả ứa ra như mùi hôi hám của động vật. “Chỉ là anh không nhìn thấy được toàn cảnh lớn hơn.”
“Chúc ngủ ngon, Ilya.” Arkady mặc áo khoác bành tô. “Tôi chỉ đang nói là có những cái đầu thông thái hơn anh. Mục đích của chúng ta là hòa giải. Mỗi ngày, tôi hòa giải những chính sách của chính phủ với tính pháp lý xã hội chủ nghĩa. Một sắc lệnh
được đưa ra để san bằng nhà cửa của công nhân với ý định xây nhà tập thể mà công nhân không thể mua nổi, một thứ dường như vi phạm quyền công nhân. Iamskoy hỏi ý kiến tôi, cấp trên tham khảo ý kiến của tôi, thị trưởng Promislov cũng hỏi ý tôi, bởi vì tôi biết cách hòa giải thứ có vẻ như mâu thuẫn này.”
“Không có mâu thuẫn nào?” Arkady đưa Nikitin xuống sảnh. “Giữa công nhân và nhà nước? Nhà nước này là của công nhân. Những gì có lợi cho nhà nước tất có lợi cho họ. Bằng cách giật đổ nhà của họ, chúng ta bảo vệ quyền lợi cho họ. Thấy không? Hòa giải xong.”
“Tôi chẳng thấy gì cả.” Arkady khóa cửa.
“Từ góc nhìn đúng thì chẳng có mâu thuẫn nào hết,” Nikitin khàn khàn giọng thì thầm dưới cầu thang. “Đó là điều anh sẽ chẳng bao giờ hiểu được.”
Arkady lái một chiếc xe công vụ tới đường cao tốc Inner Circle và đi theo hướng bắc. Moskvich là loại xe chậm chạp, lì máy, dù sao anh cũng không ngại sở hữu một chiếc như thế. Lúc này, trên đường hầu hết là taxi. Trong đầu anh đang nghĩ về thiếu tá Pribluda, người vẫn chưa đình chỉ vụ điều tra này. Băng từ bánh xe bắn ra phía trước và vỡ tung ra trước ánh đèn pha.
Những chiếc taxi rẽ theo hướng ga tàu hỏa quảng trường Komsomol. Arkady tiếp tục đi tới phố Kalanchevskaya, số 43, Tòa án Thành phố Moscow, một tòa án cũ kỹ mà dưới ánh đèn đường hắt trên những viên gạch, dường như đang tàn lụi một cách sống động. Có mười bảy Tòa án Nhân dân trong khắp thành phố, nhưng tội phạm nghiêm trọng được xét xử ở Tòa án Thành phố, cho nên nó có vinh dự được bảo vệ bởi quân đội. Arkady giơ thẻ căn cước
ra cho hai binh sĩ trẻ măng trên bậc thềm. Vào tầng hầm, anh bất ngờ đánh thức một tay hạ sỹ đang ngủ gục trên bàn. “Tôi sẽ vào trong cũi.”
“Bây giờ á?” Tay hạ sỹ nhảy dựng dậy và đóng cúc áo choàng. “Tùy ý cậu.” Arkady đưa cho tay hạ sỹ chùm chìa khóa và khẩu súng lục tự động hắn để trên bàn.
Cũi là một lưới kim loại bao quanh khu hồ sơ ở tầng hầm tòa án. Arkady giở những ngăn kéo hồ sơ tháng Mười hai và tháng Một trong khi tay hạ sỹ trông chừng bên ngoài cửa vì một viên trưởng thanh tra có cấp bậc ngang với hàm đại úy.
“Sao cậu không bật bếp điện pha trà cho chúng ta nhỉ?” Arkady gợi ý.
Anh đang tìm cách thọc gậy bánh xe. Thứ gì đó có ba xác chết và nghi ngờ cho tay thiếu tá, một thứ gì khác tìm thấy tù nhân được gửi trả từ Tòa án Thành phố về giam ở chỗ KGB. Anh lục từ thẻ này sang thẻ khác, loại trừ những người quá trẻ hoặc quá già, kiểm tra tiểu sử và tình trạng hôn nhân. Không ai - đoàn thể, nhà máy hay gia đình - thấy vắng mặt những thi thể này.
Nhấp một ly trà nóng, anh chuyển tiếp sang hồ sơ tháng Hai. Có một vấn đề là trong khi các trọng tội như giết người, hành hung và cướp - đều được xét xử tại Tòa án Thành phố thì những vụ hiển nhiên là KGB cũng quan tâm đến nhiều như thế - những vụ chia rẽ chính trị và ký sinh xã hội - đôi khi lại được xét xử tại Tòa án Nhân dân, nơi sự tham gia của công chúng được kiểm soát dễ dàng hơn. Nước ngưng tụ ánh lên trên những bức tường tầng hầm. Thành phố này được bao bọc bởi những con sông, sông Moskva, Setun,
Kamenka, Sosenka, Yauza và men theo rìa ngoài cùng phía bắc thành phố là sông Kliazma.
Sáu tuần trước, có hai thi thể được tìm thấy bên bờ sông Kliazma cách hai trăm kilomet về phía đông Moscow gần Bugolubovo, một ngôi làng của các nông dân trồng khoai tây. Thành phố gần nhất là Vladimir, nhưng sẽ không ai trong số những nhân viên công tố Vladimir đảm nhận vụ này. Tất cả bọn họ đều bị “ốm”. Tổng chưởng lý đã chuyển cho trưởng thanh tra tội phạm giết người tại Moscow.
Thời tiết hôm đó lạnh. Nạn nhân là hai người đàn ông trẻ với gương mặt trắng bệch và hàng lông mi đóng băng, nắm tay đông cứng trên lớp sương muối ở bờ sông. Miệng họ há hốc ra một cách kỳ lạ và áo khoác cùng ngực họ bị cắt phanh ra, vết thương nghiêm trọng mà hầu như không chảy máu. Giám định pháp y của Levin khẳng định rằng tên sát nhân đã moi những viên đạn đã thực sự giết các nạn nhân. Levin đồng thời cũng tìm thấy cao su và sơn đỏ lốm đốm trên răng người chết, và natri aminate trong máu họ, từ đó Arkady hiểu được bệnh kỹ tính đã đánh gục những nhà điều tra địa phương. Vùng bên ngoài làng Bugolubovo, không có trên bản đồ dù có nhiều dân cư hơn trong làng, là khu cách ly Vladimir, một nhà tù chính trị cho những tù nhân có những ý tưởng dễ gây ảnh hưởng cho dù là với trại lao động, và natri aminate là một loại ma túy cách ly giúp làm dịu những linh hồn nguy hiểm này.
Arkady đã đi tới được một giả thuyết rằng những nạn nhân này là những bạn tù, trong lúc đang được giải thoát khỏi chất cách ly đã bị giết bởi những đồng bọn trong nhóm. Khi văn phòng trại giam từ chối cuộc gọi của anh, đáng lẽ anh đã có thể đánh dấu trường hợp “chưa giải quyết” dưới thẩm quyền của nhà tù Vladimir. Hồ sơ của
anh lẽ ra đã không bị ảnh hưởng, và mọi người đều biết anh muốn về nhà. Nhưng thay vào đó, anh mặc đồng phục trưởng thanh tra, có mặt tại nhà tù, yêu cầu và đọc sổ ghi chép về phóng thích tù nhân và nhận thấy rằng dù không có phạm nhân nào được thả gần đây, vào ngày trước khi những thi thể được tìm thấy, có hai người đàn ông đã được đặt dưới sự giám sát của thiếu tá Pribluda cho cuộc thẩm vấn của KGB. Arkady gọi cho Pribluda, người đã thẳng thừng từ chối việc đã tiếp nhận tù nhân.
Một lần nữa, viên thanh tra đã có thể tạm dừng lại. Thay vào đó, Arkady trở về Moscow, tới văn phòng của Pribluda tại chi nhánh tồi tàn của KGB trên phố Petrovka và tìm thấy trên bàn của viên thiếu tá hai quả bóng cao su màu đỏ mang vết sẹo hình e-líp và mang chúng đến phòng thí nghiệm pháp y, nơi những dấu vết đó trùng khớp từng điểm một với răng của nạn nhân.
Pribluda hẳn đã mang hai tù nhân bị đánh thuốc đến thẳng mép sông, nhồi bóng cao su vào miệng họ để chặn tiếng la hét, bắn họ, nhặt vỏ đạn và dùng một con dao lưỡi dài để loại bỏ dấu vết của những viên đạn. Có thể, hắn nghĩ trông nó sẽ giống như là họ đã bị đâm tới chết. Khi đã chết, họ bị chảy rất ít máu. Những cái xác bị xé toạc đông cứng lại rất nhanh.
Lệnh bắt phải được thông qua bởi công tố viên. Arkady tới gặp Iamskoy với cáo buộc giết người đối với Pribluda và yêu cầu một giấy phép khám xét văn phòng và nhà riêng của Pribluda để tìm súng và dao. Arkady đang ở cạnh công tố viên khi một cuộc gọi đến thông báo rằng vì các lý do an ninh, KGB sẽ tiếp quản việc điều tra về những thi thể được tìm thấy bên dòng sông Kliazma. Tất cả báo cáo và bằng chứng sẽ được chuyển tiếp cho thiếu tá Pribluda.
Những bức tường đang bị rỉ nước. Ngoài những sông lộ thiên, còn có những dòng sông ngầm từ cổ xưa đào xuyên lòng thành phố, những dòng chảy lạc hướng không thể nhìn thấy. Đôi khi vào mùa đông, một nửa số tầng ngầm ở Moscow bị ngấm nước.
Arkady cất các hồ sơ về chỗ cũ.
“Anh có tìm thấy thứ anh muốn không?” viên hạ sỹ cất tiếng. “Không.”
Viên hạ sỹ đứng chào đầy khích lệ. “Người ta vẫn bảo rằng, mọi thứ luôn trông ổn hơn vào buổi sáng.”
Theo quy định thì Arkady nên trả chiếc xe về lô đỗ ở chỗ làm. Anh lái xe về nhà. Đã quá nửa đêm khi anh chạy xe đến một khoảng sân bên ở xa khỏi khu Tanganskaya tại phía đông thành phố. Những ban công bằng gỗ thô nổi bật hẳn trên nền tầng hai. Căn hộ của anh tối om. Anh vào cổng đi chung, lên cầu thang và mở cửa nhà mình một cách khẽ khàng nhất có thể.
Anh cởi đồ trong phòng tắm, đánh răng và mang theo đám quần áo đi ra khỏi phòng. Phòng ngủ là phòng rộng nhất trong căn hộ. Trên bàn là một dàn âm thanh. Anh nhấc chiếc đĩa hát ra khỏi máy quay đĩa và đọc nhãn hiệu của nó dưới luồng sáng yếu ớt từ cửa sổ. “Aznavourà1” “Olympi”. Bên cạnh máy quay đĩa là hai cốc nước và một chai rượu vang rỗng.
Zoya đang ngủ, mái tóc dài vàng óng ả được bện lại của cô vắt qua vai. Mùi nước hoa Moscow Night tỏa hương nồng nàn trên chăn đệm. Khi Arkady trườn vào giường, cô liền mở mắt.
“Quá muộn rồi đấy.”
“Xin lỗi. Có một vụ giết người. Ba vụ giết người.”
Anh quan sát dòng suy nghĩ cuối cùng cũng hằn lên trong mắt cô.
“Bọn lưu manh,” cô nói khẽ. “Đó là lý do vì sao em bảo lũ trẻ đừng nhai kẹo cao su. Ban đầu là kẹo cao su, sau đó là nhạc rock, rồi cần sa và...”
“Và?” Anh mong là cô sẽ nói làm tình.
“Và giết người.” Giọng cô bị kéo đi xa tắp, đôi mắt nhắm lại, trí óc chẳng đủ tỉnh táo để nói ra những gì cơ bản và giờ lại say giấc một cách an lành lần nữa. Điều bí ẩn mà anh ngủ cùng.
Trong một phút, sự mệt mỏi dâng cao và viên thanh tra ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, anh bơi xuyên một làn nước đen, lặn xuống vùng nước tối sẫm hơn với những sải bơi trơn tru, mạnh mẽ. Ngay khi anh nghĩ đến việc quay trở lại mặt nước, một người đàn bà xinh đẹp với mái tóc đen và gương mặt xanh xao bơi tới cùng anh. Trong chiếc váy trắng, cô trông như đang bay xuống. Như thường lệ, cô nắm tay anh. Điều bí ẩn mà anh mơ tới.
Chương Hai
K
hông một mảnh vải trên người, Zoya bóc vỏ một quả cam. Cô có gương mặt to và trẻ thơ, đôi mắt xanh trong veo, vòng eo thon và bộ ngực nhỏ với đầu ngực bé xíu như những vết tiêm. Đôi chân cô săn chắc, giọng nói cao và khỏe.
“Các chuyên gia nói với chúng ta rằng tính cá nhân và tính sáng tạo sẽ là những vấn đề then chốt của nền khoa học nghiên cứu tương lai của Liên xô. Các bậc phụ huynh nên chấp nhận chương trình giảng dạy và toán học mới, cả hai đều là những bước đi tiên tiến trong việc xây dựng một xã hội còn vĩ đại hơn nữa.” Cô dừng lại để quan sát Arkady đang nhìn cô và uống cà phê trên bậu cửa sổ. “Anh ít nhất cũng có thể tập thể dục đấy.”
Dù cao và gầy, một ngấn mỡ vẫn lộ ra dưới lớp áo chẽn khi anh khom người. Mái tóc không chải rủ xuống. Nó cũng giả bộ ốm đau như chủ nhân vậy, anh nghĩ.
“Anh đang bảo tồn bản thân cho sự tương quan so sánh với những xã hội vẫn chưa vĩ đại hơn,” anh nói.
Cô nhoài người qua bàn để lướt qua đoạn văn được gạch chân trong tạp chí Nhà Giáo, tay thu lượm hạt và vỏ cam, đôi môi cô mấp máy một lúc.
“Nhưng tính cá nhân không nên dẫn tới chủ nghĩa vị kỷ và tư tưởng địa vị.” Cô khựng lại để liếc mắt nhìn Arkady. “Anh thấy điều đó nghe có ổn không?”
“Bỏ qua tư tưởng địa vị đi. Quá nhiều kẻ thích địa vị trong đám khán giả Moscow rồi.”
Khi cô cau mày và quay đi, Arkady lướt tay xuống rãnh lằn sâu phía cuối sống lưng của cô.
“Đừng, em phải chuẩn bị sẵn sàng cho bài diễn thuyết này.” “Khi nào?” Anh hỏi.
“Tối nay. Quận ủy sẽ chọn một thành viên để nói trước cuộc mít tinh toàn thành phố vào tuần sau. Dù sao thì anh cũng chả có tư cách gì để chỉ trích những người ưa địa vị cả.”
“Giống như Schmidt?”
“Phải,” cô trả lời sau một thoáng suy nghĩ. “Như Schmidt.” Cô bước vào phòng tắm và qua cánh cửa mở, anh ngắm cô đánh răng, vỗ chiếc bụng phẳng của mình, tô son môi. Cô phát biểu trước gương:
“Hỡi các vị phụ huynh! Trách nhiệm của các vị không dừng lại khi ngày làm việc của các vị kết thúc. Liệu chủ nghĩa vị kỷ có làm hư các học trò khi ở nhà các vị? Các vị đã đọc những số liệu thống kê gần đây liên quan đến chủ nghĩa vị kỷ và con một chưa?”
Arkady trượt khỏi bậu cửa để đọc bài viết mà cô đã gạch chân. Tiêu đề là: “Cần có những gia đình lớn hơn.” Trong phòng tắm, Zoya bóc một hộp thuốc tránh thai. Loại của Ba Lan. Cô không thích việc đặt vòng.
Hỡi những người Nga, hãy sản sinh thêm ra! Bài viết thôi thúc. Hãy ươm mầm vinh quang của một thế hệ trẻ Nga vĩ đại hơn để tất cả những dân tộc thấp kém không nhét những phần cương cứng của chúng vào tỷ lệ dân số cần thiết giữa người Nga da trắng có giáo dục và lũ tăm tối... “Vậy nó cho thấy rằng những gia đình không có hay chỉ có một con, chỉ đơn thuần phù hợp cho những bậc phụ huynh làm việc tại trung tâm đô thị thuộc phần châu Âu của Nga, không mang lại lợi ích lớn hơn cho xã hội nếu chúng ta khao khát những vị lãnh đạo Nga tương lai.” Một tương lai đói khát người Nga! Thật không tin nổi, Arkady nghĩ trong lúc Zoya đang giãn cơ trên thanh xà thể dục.
“... học sinh được tiếp cận với tính độc đáo cần phải được đào tạo một cách nghiêm khắc hơn nữa về ý thức hệ.” Cô nâng chân trái lên ngang tầm thanh xà. “Nghiêm khắc. Mạnh mẽ.”
Anh nghĩ đến một đám đông dân châu Á tuyệt vọng đổ xô ra những đường phố quanh Cung văn hóa Tiền phong, tay giơ cao, la ó, “Chúng tôi khao khát người Nga.” “Xin lỗi,” một nhân vật la lên từ Cung văn hóa trống không, “Chúng tôi hết sạch người Nga rồi.”
“... bốn, một, hai, ba, bốn.” Trán của Zoya chạm đầu gối. Trên bức tường phía sau giường ngủ là một tấm áp phích đã được sửa lại nhiều lẫn hình ba đứa trẻ: châu Phi, Nga và Trung Quốc - với khẩu hiệu: “Một thành viên Tiền phong là người bạn của trẻ khắp các quốc gia!” Zoya đã vào vai đứa trẻ Nga và khi tấm áp phích trở nên nổi tiếng, cô nghiễm nhiên trở thành gương mặt xinh đẹp của nước Nga. Lần đầu tiên Zoya thu hút Arkady tại trường đại học chính là từ hình ảnh “Cô bé trong tấm áp phích của đội Tiền phong.” Trông cô vẫn còn giống đứa trẻ đó.
“Thoát khỏi mâu thuẫn sẽ dẫn đến sự tổng hợp.” Cô hít thật sâu. “Sự độc đáo hòa trộn với ý thức hệ.”
“Tại sao em lại muốn diễn thuyết?”
“Một trong hai ta phải nghĩ đến sự nghiệp.”
“Chuyện này tệ lắm à?” Arkady bước đến gần cô.
“Anh kiếm được một trăm tám mươi rúp một tháng, em kiếm được một trăm hai mươi rúp. Một quản đốc nhà máy kiếm được gấp đôi thế. Một thợ sửa chữa làm thêm được gấp ba số đó. Chúng ta chẳng có ti vi, máy giặt, hay thậm chí quần áo mới mà em được mặc. Chúng ta đã có thể có một trong số những chiếc xe cũ từ KGB - Chuyện đó đáng lẽ đã có thể được dàn xếp.”
“Anh không thích mẫu xe đó.”
“Đáng ra lúc này anh đã có thể trở thành một điều tra viên cao cấp rồi nếu anh là một người năng nổ hơn.”
Khi anh chạm vào hông cô, da thịt ở đó co lại, như đá cẩm thạch. “Sao em phải tốn công uống mấy viên thuốc này làm gì? Chúng ta đã không làm gì hàng tháng nay rồi.”
Zoya chộp lấy cổ tay anh và đẩy ra, nắm chặt hết sức có thể. “Phòng trường hợp bị cưỡng bức,” cô nói.
Đám trẻ vây quanh chú hươu cao cổ bằng gỗ ở dưới sân liếc nhìn trộm qua lớp áo liền quần mùa đông và những chiếc mũ lưỡi trai khi Arkady và Zoya vào trong xe. Cố đến lần thứ ba, thì nút đề máy cũng xoay và anh quay trở lại khu Taganskaya.
“Natasha mời chúng ta cùng về vùng đồng quê vào ngày mai.” Zoya nhìn chằm chằm vào kính chắn gió. “Em bảo cô ấy là chúng ta
sẽ đi.”
“Anh đã bảo với em về lời mời đó từ một tuần trước và em đã không muốn đi mà,” Arkady nói.
Zoya kéo khăn choàng lên che miệng. Bên trong chiếc xe còn lạnh hơn bên ngoài, nhưng cô ghét phải mở cửa sổ. Cô ngồi cuộn mình cứng đờ và yên lặng trong chiếc áo khoác nặng có mũ lông thỏ, khăn choàng, đi bốt. Khi dừng đèn đỏ, anh lau đám nước ngưng tụ trên kính chắn gió. “Anh xin lỗi vì chuyện bữa trưa hôm qua,” anh nói. “Hôm nay nhé?”
Cô nheo mắt liếc xéo về phía anh. Đã từng có khoảng thời gian, anh nhớ lại, khi họ dành hàng giờ trong lớp chăn ấm áp, một lớp sương mờ phủ ấm cúng trên ô cửa sổ. Họ đã nói chuyện về điều gì, anh thừa nhận rằng, anh không thể nhớ được nữa. Anh đã thay đổi? Cô đã thay đổi? Bạn có thể tin ai đây?
“Tụi em có một cuộc họp,” cuối cùng cô cũng trả lời. “Tất cả các giáo viên phải tham gia, cả ngày?”
“Tiến sỹ Schmidt và em, để lên kế hoạch cho phần diễu hành của câu lạc bộ thể dục.”
À, Schmidt. Ờ thì, bọn họ có rất nhiều điểm chung. Hắn ta, xét cho cùng, cũng là thư ký Quận ủy. Cố vấn cho hội đồng Komsomol của Zoya. Huấn luyện viên thể dục. Cùng làm chung một công việc sẽ dẫn đến sự nảy sinh tình cảm song phương. Arkady ghìm lại cơn thèm thuốc lá bởi vì nó sẽ khiến cho hình ảnh một người chồng ghen tuông trở nên quá hoàn thiện.
Học sinh đang đi thành hàng vào lớp khi Arkady tới trường 457. Dù bọn trẻ đáng lẽ phải mặc đồng phục, nhưng hầu hết đều đeo khăn quàng đỏ Tiền phong và mặc những bộ đồ cũ.
“Em sẽ về muộn.” Zoya nhanh chóng nhảy ra khỏi xe. “Được rồi.”
Cô níu lấy cửa xe thêm một lúc nữa. “Schmidt nói em nên ly dị anh khi còn có thể.” Cô nói thêm và đóng cửa.
Tại cổng trường, đám học sinh hét tên cô. Zoya quay lại nhìn chiếc xe một lần và Arkady lúc này đang châm thuốc lá. Rõ ràng là ngược lại với học thuyết Liên xô, anh nghĩ. Từ sự tổng hợp đến xung đột.
Viên thanh tra hướng suy tư trở lại với ba vụ giết người tại công viên Gorky. Anh tiếp cận vấn đề theo góc nhìn công lý kiểu Liên Xô. Công lý, cũng có đầy tính giáo dục như bất kỳ một trường học nào.
Ví dụ. Thường thì những tay say xỉn sẽ chỉ đơn giản bị giữ tại một phòng tạm giam cho người say và sau đó được tống về nhà. Khi con số những tay say quắc cần câu - dù giá vodka tăng - đơn giản là trở nên quá nhiều, một chiến dịch giáo dục về sự khủng khiếp của rượu được tung ra, thế là, tụi say xỉn bị tống vào tù. Trộm cắp vặt xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng ở các nhà máy, đó là phía làm ăn tư nhân của nền công nghiệp Liên Xô. Thông thường, một quản lý nhà máy quá vụng về đến mức bị bắt sẽ được xét xử lặng lẽ với mức năm năm tù, nhưng khi trong một chiến dịch chống trộm cắp, anh ta sẽ bị lớn tiếng xử bắn.
Kiểu của KGB cũng chẳng khác gì. Khu cách ly Vladimir đảm nhiệm chức năng giáo dục những thành phần chống đối cứng đầu, “nhưng chỉ có nấm mồ mới chỉnh được người gù,” và vì vậy có một bài học cuối cùng cho những kẻ thù tồi tệ nhất của Nhà nước. Arkady cuối cùng đã tìm hiểu ra rằng hai xác chết được tìm thấy bên
sông Kliazma là những kẻ tái phạm gây kích động, cuồng tín vào loại nguy hiểm nhất: Nhân chứng Giê-hô-va.
Có điều gì đó về tôn giáo khiến Nhà nước nổi xung. Chúa khóc than, Chúa khóc than, Arkady tự nói với chính mình, dù anh chẳng biết anh học được cách nói này ở đâu. Toàn bộ sự mộ đạo tăng vọt, thị trường tượng thánh, sự khôi phục các nhà thờ khiến chính phủ quay cuồng như điên. Ném những nhà truyền giáo vào tù cũng chỉ dung dưỡng những người cải đạo. Thà dùng một bài học cứng rắn cho mục đích giáo dục còn hơn.
Công viên Gorky, dù sao, cũng không xa bờ sông, đó là trái tim thanh khiết nhất của thành phố. Ngay cả Pribluda hẳn cũng đã từng tới công viên Gorky khi còn là một đứa trẻ mập mạp, một kẻ đi picnic phì nộn, một tay tán gái hay rên rỉ. Ngay cả Pribluda cũng nên biết rằng công viên Gorky là một nơi dành cho việc vui chơi chứ không phải giáo dục. Ngoài ra, những thi thể đã ở đó hàng tháng ròng chứ không phải chỉ vài ngày. Bài học đó thật lạnh lùng, cũ kỹ và vô nghĩa. Đó không phải là thứ công lý như Arkady vẫn mong đợi và ghét cay ghét đắng.
Lyudin đang đứng chờ ở sau chiếc bàn được che lấp bởi thiết bị đựng những mẫu vật xét nghiệm và ảnh, đầy vẻ tự mãn như một ảo thuật gia được bao bọc bởi những chiếc vòng lớn và khăn choàng.
“Phòng pháp y đã làm việc cật lực vì anh, trưởng thanh tra ạ. Các chi tiết thật lôi cuốn.”
Và đầy lợi nhuận nữa, Arkady chắc mẩm. Luydin đã trưng dụng lượng hóa chất đủ để chất đầy một nhà kho tư nhân, mà có khi ông ta đã làm thế thật.
“Tôi rất nóng lòng.”
“Anh biết nguyên tắc của sắc ký khí đấy, tác động của khí di chuyển và vật liệu dung môi cố định.”
“Tôi nói thật đấy,” Arkady nói. “tôi không thể chờ nổi.” “Ồ” - tay giám đốc phòng thí nghiệm thở dài - “ nói một cách nhanh gọn là, sắc ký được tìm thấy ở quần áo của cả ba nạn nhân đều được kết lại rất rõ những bột thạch cao và mùn cưa, và trên quần của GP-2 có một dấu vết rất nhỏ của vàng. Chúng tôi xịt luminol lên quần áo, chuyển chúng vào một phòng tối và quan sát sự phát huỳnh quang chỉ ra vết máu. Hầu hết máu, đúng như dự kiến, là của nạn nhân. Dù vậy, những chấm máu nhỏ nhất không phải là máu người mà là máu gà và cá. Chúng tôi cũng tìm thấy một hoa văn rất thú vị trên quần áo.” Lyudin giơ cao một bản vẽ những cái xác còn đang mặc quần áo trong tư thế giống như khi họ được tìm thấy. Có một vùng tối phía trước của người phụ nữ nằm ngửa và dọc theo phần trên khuỷu tay của các nạn nhân nam nằm nghiêng. “Ở vùng tối, và chỉ có ở trong vùng tối, chúng tôi tìm thấy dấu hiệu của carbon, chất béo động vật và axit tanic. Nói cách khác, sau khi những cái xác được bao phủ phần nào bởi tuyết, có thể trong vòng bốn mươi tám giờ, chúng cũng đã được phủ nhẹ một lớp tro từ đám cháy quanh đó.”
“Đám cháy ở xưởng thuộc da Gorky,” Arkady nói.
“Rõ ràng là thế rồi.” Lyudin không thể kìm nổi một nụ cười. “Vào ngày mùng ba tháng Hai, một vụ hỏa hoạn từ xưởng thuộc da Gorky đã bao phủ đầy tro lên một vùng rộng ở quận Octobryskaya. Ba mươi centimet tuyết rơi vào ngày mùng một và hai tháng Hai. Hai mươi centimet tuyết rơi từ ngày mùng ba đến mùng năm tháng Hai.
Nếu chúng ta đã có thể duy trì nguyên trạng đám tuyết ở khu đất trống, thậm chí chúng ta có thể tìm ra được một lớp tro chưa bị xáo trộn. Dù sao thì, điều đó có vẻ như giúp anh xác định được thời điểm phạm tội.”
“Làm tốt lắm,” Arkady nói. “Tôi ngờ rằng bây giờ chúng ta cần phải phân tích mẫu tuyết.”
“Chúng ta đồng thời cũng đã phân tích các viên đạn. Kẹt bên trong tất cả các viên đạn là những lượng khác nhau quần áo và mô của nạn nhân. Viên đạn dán nhãn GP1-B còn mang theo những mẩu da thuộc màu nâu không liên quan đến quần áo của các nạn nhân.
“Thế còn thuốc súng?”
“Không hề có trên quần áo của GP1 nhưng có vài dấu vết mờ nhạt trên áo khoác của GP2 và GP3, cho thấy rằng họ đã bị bắn ở cự li gần hơn,” Lyudin nói thêm.
“Không, nó cho thấy họ bị bắn sau GP1,” Arkady nói. “Có gì ở giày trượt tuyết không?”
“Không có máu, thạch cao hay mùn cưa. Không phải là giày chất lượng cao lắm.”
“Ý tôi là dấu hiệu nhận dạng. Người ta thường đề tên của mình lên giày trượt, đại tá ạ. Anh đã làm sạch mấy cái giày và xem thử chưa?”
Tại văn phòng của mình ở Novokuznetskaya, Arkady nói, “Đây là khu bãi trống ở công viên Gorky. Cậu,” anh nói với Pasha, “là Quái vật. Thám tử Fet, cậu là Đỏ, gã gầy còm ấy. Đây” - anh đặt một chiếc ghế giữa bọn họ - “là Người Đẹp. Tôi là kẻ sát nhân.”
“Anh đã nói là có thể có nhiều hơn một hung thủ,” Fet nói. “Đúng, nhưng lần này chúng ta chỉ thử từ trước ra sau thay vì cố gắng gò ép thực tế vào một lý thuyết.”
“Tốt thôi. Tôi cũng yếu về mặt lý thuyết.” Pasha nói.
“Trời mùa đông. Chúng ta đang cùng nhau trượt băng. Chúng ta là bạn bè, hay ít nhất là người quen. Chúng ta rời đường trượt băng tới bãi trống, ở gần đường nhỏ nhưng bị chắn bởi cây cối. Vì sao vậy?”
“Để nói chuyện,” Fet gợi ý.
“Để ăn uống!” Pasha la lên. “Đó là lý do vì sao bất kỳ ai cũng trượt băng, để bạn có thể dừng lại và ăn một chiếc bánh nhân thịt, chút pho mát, bánh mì và mứt, dĩ nhiên là chuyền tay nhau chút vodka hay brandy.”
“Tôi là chủ tiệc,” Arkady nói tiếp. “Tôi chọn chỗ này. Tôi mang đồ ăn tới. Chúng ta đang thư giãn, có chút vodka trong bụng và chúng ta đang cảm thấy rất ổn.”
“Và rồi anh giết chúng tôi? Bắn bằng một khẩu súng từ trong túi áo khoác của anh?” Fet hỏi.
“Có khi anh sẽ tự bắn chính chân mình nếu anh thử làm thế,” Pasha trả lời. “Anh đang nghĩ về mẩu da trên viên đạn, Arkady. Nghe này, anh mang đồ ăn đến. Anh không thể mang nhiều đồ ăn như thế trong túi áo. Anh mang chúng trong một chiếc túi da.”
“Tôi đang đưa đồ ăn ra từ túi.”
“Và tôi thì chẳng ngờ vực gì khi anh nâng túi lên gần với ngực tôi. Tôi bị bắn trước vì tôi là kẻ lớn nhất và hung dữ nhất.” Pasha gật đầu - thói quen khi anh ta bị buộc phải suy nghĩ. “Bùm!”
“Phải. Đó là lý do vì sao lại có mẩu da trên viên đạn thứ nhất, nhưng không có thuốc súng trên áo khoác của Quái vật. Thuốc súng có thoát ra ngoài lỗ đạn trên túi ở những lần bắn sau.”
“Thế còn tiếng ồn,” Fet phản đối và được ra hiệu ngồi xuống. “Đỏ và Người đẹp không thấy khẩu súng nào cả.” Pasha hào hứng, đầu anh ta gật lia lịa. “Họ không biết chuyện gì đang xảy ra.” “Đặc biệt là nếu chúng ta được coi là bạn bè. Tôi chuyển cái túi sang phía Đỏ.” Ngón tay Arkady trỏ về phía Fet. “Bùm!” Anh nhắm vào chiếc ghế. “Đến giờ, Người đẹp đã có đủ thời gian để hét lên. Vì một lý do nào đó, tôi biết cô ta sẽ không làm thế, tôi biết cô ta thậm chí còn chẳng cố gắng chạy trốn.” Anh nhớ lại cái xác của cô gái giữa hai người đàn ông. “Tôi giết cô ta. Và tôi bắn xuyên đầu hai anh.”
“Đòn ân sủng. Rất gọn nhẹ.” Pasha tán đồng.
“Nhiều tiếng ồn hơn,” Fet gạt phắt đi. “Tôi chẳng quan tâm những gì anh nói, như thế là có quá nhiều tiếng ồn. Dù sao đi chăng nữa, bắn vào miệng ai đó thì cũng chẳng phải đòn ân sủng gì cả.”
“Thám tử” - Arkady đưa ngón tay trở lại - “cậu nói đúng. Vậy tôi đang bắn cậu vì một lý do khác, một lý do tốt để bắn thêm hai lần nữa.”
“Đó là gì?” Pasha hỏi.
“Giá mà tôi biết được. Giờ tôi lấy dao ra và cắt rời mặt của các cậu. Có lẽ là dùng kéo lớn để cắt các ngón tay. Bỏ mọi thứ vào trong túi.”
“Anh đã dùng một khẩu tự động.” Pasha tràn đầy cảm hứng. “Ít tiếng ồn hơn là một khẩu côn và vỏ đạn được phóng thẳng vào trong túi. Đó là lý do vì sao chúng ta không tìm thấy vỏ đạn trong tuyết.”
“Khoảng thời gian nào trong ngày?” Arkady thúc giục. “Khuya,” Pasha nói. “Như thế thì có ít khả năng những người trượt tuyết khác dừng ở bãi trống. Có thể là trời đầy tuyết - làm lấp bớt tiếng súng. Vậy là trời tối và tuyết rơi khi anh đi ra khỏi công viên.”
“Và ít có khả năng người nào đó nhìn thấy tôi quăng cái túi xuống sông.”
“Đúng vậy!” Pasha vỗ tay.
Fet ngồi trên ghế. “Dòng sông đã bị đóng băng,” anh ta nói. “Mẹ kiếp!” Hai bàn tay của Pasha buông thõng xuống. “Đi ăn thôi,” Arkady nói. Lần đầu tiên trong hai ngày nay anh có cảm giác muốn ăn.
Quán ăn tự phục vụ ở trạm dừng tàu điện ngầm bên kia con phố giữ một bàn cho các điều toa viên. Ông già Belov gia nhập vào nhóm và bắt đầu những câu chuyện thời chiến về cha của Arkady.
“Lúc này vẫn còn sớm, trước khi chúng tôi tập hợp lại.” Belov nháy mắt sụt sịt. “Tôi lúc đó là tài xế lái xe BA-20 của đại tướng.” Arkady vẫn nhớ câu chuyện. BA-20 là một chiếc xe bọc thép cổ lỗ gồm một tháp súng máy hình nhà thờ Hồi giáo đặt trên một bộ khung xe Ford. Ba chiếc BA-20 dưới quyền chỉ huy của cha anh đã bị bẫy xuống một trăm kilomet sau phòng tuyến của Đức trong tháng đầu của cuộc chiến và đào thoát mang theo tai cùng cầu vai của một chỉ huy nhóm SS.
Phần về những cái tai khá buồn cười. Người Nga chấp nhận cưỡng bức và tàn sát như là những trò diễn bên lề bình thường của chiến tranh. Điều khiến cho đất nước của những cuộc cách mạng
rung chuyển thế giới dội lại trong sự khiếp sợ chính là ý tưởng về chiến lợi phẩm con người bị tước đoạt bởi người Nga. Nó còn hơn cả tồi tệ, đối với giai cấp vô sản bất khả chiến bại nhưng thoáng vẻ bồn chồn, nó chỉ ra một vết nhơ đậm hơn tất thảy: sự thiếu văn minh. Tin đồn về những chiếc tai cứ đeo đẳng sự nghiệp của viên đại tướng sau cuộc chiến.
“Lời đồn về những chiếc tai là không đúng sự thật,” Belov quả quyết tại bàn.
Arkady có nhớ những chiếc tai. Chúng thường được treo lủng lẳng như những chiếc bánh khô quăn trên tường phòng làm việc của cha anh.
“Anh thực sự muốn tôi nói chuyện với tất cả những người bán dạo đó à?” Pasha dùng dĩa cuốn một miếng thịt nguội. “Tất cả những gì họ nói là họ muốn chúng ta đuổi bọn Gypsy khỏi công viên.”
“Hãy nói chuyện với những người Gypsy nữa. Chúng ta có thời điểm rồi, đầu tháng Hai.” Arkady nói. “Và tìm hiểu loại nhạc trượt băng mà họ chơi trên loa phóng thanh.”
“Anh có hay gặp vị đại tướng cha anh hay không?” Fet chen vào để hỏi.
“Không thường gặp.”
“Tôi nghĩ về những gã khốn tội nghiệp ở trạm cảnh sát trong công viên,” Pasha nói. “Cái trạm nhỏ khá ổn - túp lều gỗ phổ thông, bếp lò ấm áp, mọi thứ. Chẳng trách họ không biết được rằng trong rừng đầy xác chết. Họ sẽ thấy rất nhiều cánh rừng ở trạm tiếp theo của họ, gấu trắng và dân eskimo nữa.”
Belov và Fet khiến Arkady phải chú ý. Trước sự ngạc nhiên của anh, những người bạn chí cốt này đang đả kích sự Sùng bái Cá nhân.
“Ý các anh là đồng chí Stalin?” anh hỏi.
Fet tái mặt. “Ý chúng tôi là Olga Korbut.”
Chuchin tới. Viên trưởng thanh tra Vụ đặc biệt là tổng hợp của những nét phổ thông nhất, một cái khuôn được tô hình người. Anh ta nói với Arkady rằng Lyudin đã gọi báo về một cái tên trên những chiếc giày trượt.
Trong sự buồn tẻ của Moscow, bên triền đồi Lê-nin là xưởng phun Mosfilm. Còn có những xưởng phim khác trong nước: Lenfilm, Tadjifilm, Uzbekfilm. Không có cái nào lớn hay có thanh thế như Mosfilm. Một người quyền cao chức trọng tới thăm xưởng sẽ được chở tới bằng xe limousine dọc theo bức tường rào màu cam nhạt qua cổng nhà, rẽ trái theo hướng khu vườn và đột ngột ngoặt phải tới cửa chính của tòa nhà rạp phim trung tâm, nơi những đạo diễn nổi tiếng (luôn mang theo kính dày cộp và thuốc lá) cùng những cô đào ngoan ngoãn cầm hoa xếp hàng để đón tiếp ông ta. Ông ta sẽ còn được vây quanh bởi nhiều nhà rạp lớn hơn nữa, những dãy nhà ở, nhà chiếu phim, nhà của người viết kịch bản, tòa nhà của các biên kịch, tòa nhà quản lý, gara máy bay, phòng tráng phim, nhà kho và dựng rất nhiều xe ngựa kiểu Tarta, xe tăng bọc thép và tàu vũ trụ. Bản thân nó cũng là cả một thành phố, với dân số ngày càng tăng gồm những kỹ thuật viên, họa sỹ, nhà kiểm duyệt và các diễn viên phụ - một số lượng diễn viên phụ đặc biệt lớn vì xu hướng thích những cảnh quần chúng của phim Liên Xô, bởi vì không có bộ phim
Xô Viết nào với khoản ngân sách hạn hẹp có thể chi trả cho cả một đám đông, và bởi vì với rất nhiều người trẻ tuổi, giành được một suất làm diễn viên cho Mosfilm thậm chí chỉ là vai phụ cũng là được sinh ra một lần nữa.
Không có chức sắc cũng chẳng được mời, Arkady tìm đường đi riêng của mình giữa nhà rạp trung tâm và những đống tuyết bị xúc bỏ trước tòa nhà điều hành. Một cô gái đứng nhìn trừng trừng giơ cao một bảng hiệu viết phấn màu đen ghi yêu cầu : “Yên lặng!” Anh nhận ra mình đã tới một bối cảnh ngoài trời, một vườn đầy những chậu trồng táo chìm trong cỏ được soi sáng bởi đèn chiếu lọc màu với ánh sáng rực rỡ ấm áp của một buổi hoàng hôn mùa thu. Một người đàn ông mặc bộ đồ công tử thế kỷ XIX đang nghiền ngẫm một cuốn sách bên chiếc bàn sắt rèn màu trắng trong vườn. Đằng sau anh ta là một bức tường giả với cửa sổ mở nhìn vào một chiếc đèn dầu trên đàn piano. Một người đàn ông thứ hai mặc quần áo vải thô nhón chân dọc theo bức tường, rút một khẩu súng lục nòng dài ra và ngắm bắn.
“Lạy chúa tôi!” Người đàn ông đọc sách nhảy lên.
Có điều gì đó sai, điều gì đó dường như luôn sai, và họ cứ quay đi quay lại cảnh này. Đạo diễn và các quay phim, với tâm trạng cáu bẳn và áo khoác da thời trang, chửi rủa các trợ lý sản xuất, vốn là những cô gái xinh xắn trong áo khoác Afghan. Tất cả họ đều trưng ra nét mặt pha trộn giữa vẻ nhàm chán và căng thẳng. Đám đông rất hào hứng. Bất kỳ ai không có việc gì làm - thợ điện, tài xế, những người Mông Cổ khoác trên mình một lớp body painting, những vũ công ba lê nhí nhút nhát cũng như những chú chó tạp chủng - lặng lẽ quan sát với vẻ say mê màn kịch quay phim còn thú vị hơn nhiều so với vở kịch đang được quay.
“Lạy chúa! Anh làm tôi chết khiếp!” Người đọc sách gắng gượng một lần nữa.
Cố đứng kín đáo hết mức có thể bên cạnh xe phát điện dành cấp nguồn chiếu sáng, Arkady có thừa thời gian để tìm trợ lý trang phục. Cô cao, mắt sẫm màu, da trắng và tóc nâu cuộn lại thành một búi. Áo khoác Afghan của cô sờn hơn áo của những cô gái khác, và ngắn, để lộ cổ tay. Đứng bất động, ôm một kịch bản, cô có sự tĩnh lặng của một bức ảnh. Khi cô cảm nhận được ánh mắt của Arkady, cô nhìn về phía anh và cái nhìn của cô khiến anh cảm giác như được chiếu rọi trong giây lát. Cô hướng sự chú ý trở lại với cảnh phim trong vườn, nhưng anh đã kịp nhìn thấy vết bớt trên má phải của cô. Trong ảnh của cảnh sát, vết bớt có màu xám. Giờ anh thấy nó màu xanh nhợt, nhỏ nhưng nổi bật vì cô đẹp.
“Lạy chúa! Anh làm tôi sợ chết khiếp!” Người đọc sách chớp mắt trước khẩu súng đang được chĩa ra. “Tôi đã đủ căng thẳng rồi, và anh còn làm cái trò ngu xuẩn như thế nữa!”
“Nghỉ ăn trưa!” đạo diễn hô lên và bước ra khỏi khu vực chỉ đạo. Cảnh này cũng đã được diễn trước đó, để cho diễn viên và đoàn làm phim rút đi gần như là nhanh chóng, bỏ lại đám người xem giải tán. Arkady quan sát cô trợ lý trang phục choàng những tấm khăn phủ bụi lên chiếc bàn ngoài vườn và ghế, kéo thẳng lại một bông hoa bị rủ xuống và vặn nhỏ chiếc đèn dầu trên đàn piano. Áo của cô còn hơn cả sờn cũ, những miếng vá đã biến họa tiết thêu trên áo Afghan thành một chiếc chăn ghép vải điên rồ. Một chiếc khăn quàng cổ màu cam rẻ tiền được thắt lỏng lẻo quanh cổ cô. Đôi bốt của cô bằng nhựa dẻo màu đỏ. Một bộ đồ khác thường, song cô mặc nó với sự bình thản rằng người phụ nữ khác nhìn thấy cô có lẽ sẽ nói, Phải rồi, đó là cách mà tôi nên mặc đồ, như vừa nhảy ra khỏi
thùng rác vậy. Không có những chiếc đèn chiếu, khu vườn trở nên tối sầm. Cô nở một nụ cười.
“Irina Asanova?” Arkady cất tiếng.
“Và anh là?” Cô có giọng nói dày và tròn âm điệu Siberi. “Tôi biết tất cả bạn bè của mình, và tôi chắc rằng tôi không quen anh.” “Cô có vẻ biết rằng cô là người mà tôi tìm đến để nói chuyện.” “Anh chẳng phải người đầu tiên đến làm phiền khi tôi đang làm việc.” Tất cả những điều này được nói ra kèm theo một nụ cười như thể chẳng có chuyện làm mất lòng. “Tôi sẽ lỡ bữa trưa,” cô thở dài, “coi như là tôi sẽ ăn kiêng đi. Anh có gì để hút không?” Vài lọn tóc quăn thoát ra khỏi trật tự của búi tóc. Irina Asanova hai mươi mốt tuổi, Arkady nhớ theo hồ sơ cảnh sát. Khi anh châm thuốc cho cô, cô khum những ngón tay dài lạnh lẽo chắn ngọn lửa từ tay anh. Động chạm thể xác thế này là một trò khiến anh thất vọng, cho đến khi anh nhìn vào mắt cô và cô cười nhạo anh. Đó là một đôi mắt đầy biểu cảm, chúng có thể khiến cô gái thô kệch nhất trở nên thú vị.
“Mấy người từ Vụ Đặc biệt luôn có thuốc lá xịn hơn, tôi phải báo với anh là như thế,” cô nói và hít sâu một hơi đầy tham lam. “Đây có phải là một phần của chiến dịch khiến tôi bị sa thải không vậy? Nếu các anh xua đuổi tôi khỏi chỗ này, tôi sẽ kiếm việc khác thôi.”
“Tôi không đến từ Vụ Đặc biệt hay KGB. Đây.” Arkady giơ thẻ căn cước ra.
“Khác mà cũng chả khác lắm.” Cô đưa trả chiếc thẻ. “Trưởng thanh tra Renko muốn gì ở tôi đây?”
“Chúng tôi tìm thấy giày trượt băng của cô.”
Mất một lúc để cô hiểu ra. “Giày trượt của tôi!” Cô bật cười. “Anh thực sự tìm thấy chúng à? Tôi mất chúng hàng tháng nay rồi.” “Chúng tôi tìm thấy chúng trên người một người chết.” “Tốt. ông trời xử chúng đúng lắm. Suy cho cùng cũng có công lý trên đời. Tôi mong chúng bị chết cóng. Xin đừng sốc. Anh có biết tôi đã phải dành dụm bao lâu cho đôi giày đó không? Nhìn vào đôi bốt của tôi này. Nào, nhìn chúng đi.”
Anh thấy đôi giày đã bị bong khóa. Irina Asanova đột ngột tựa vào vai anh và tháo giày ra. Cô có đôi chân dài yêu kiều. “Thậm chí còn chẳng có một tấm lót nữa.” Cô cọ những ngón chân trần. “Anh thấy tay đạo diễn phim này không? Hắn hứa cho tôi một đôi bốt Ý lót lông nếu tôi ngủ với hắn. Anh nghĩ tôi có nên làm thế không?”
Đó dường như là một câu hỏi thật sự. “Mùa đông sắp hết rồi,” anh nói.
“Chính xác.” Cô xỏ lại bốt.
Điều gây ấn tượng cho Arkady, ngoài đôi chân của cô, là cách mà cô khiến toàn bộ phần trình diễn của mình mang đầy vẻ thờ ơ, như thể cô chẳng quan tâm đến những gì mình nói hay làm.
“Chết,” cô nói. “Tôi cảm thấy khá hơn rồi. Tôi báo mất giày trượt, anh biết đấy, ở sân trượt băng và báo với cảnh sát.” “Chính xác là, cô báo mất chúng vào mùng bốn tháng Hai, dù cô nói cô mất chúng vào ngày ba mươi mốt tháng Một. Cô không biết là đã mất chúng trong bốn ngày sao?”
“Chẳng phải thường thì anh nhận ra anh mất thứ gì khi anh muốn dùng nó một lần nữa sao? Kể cả anh đấy, viên thanh tra? Mất
một thời gian tôi mới nghĩ ra là đã mất chúng ở đâu - rồi tôi quay lại chỗ sân trượt băng. Quá muộn.”
“Có thể trong lúc chờ đợi, cô đã nhớ ra điều gì đó hay ai đó ở sân trượt băng mà cô không nói nhắc đến với cảnh sát khi cô báo mất giày. Cô có biết ai có thể lấy giày trượt của cô không?”
“Tôi nghi ngờ”- cô khựng lại để tạo chút hiệu ứng khôi hài - “tất cả mọi người.”
“Tôi cũng thế,” Arkady nói một cách nghiêm túc.
“Chúng ta cũng có chút điểm chung đấy.” Cô cười sảng khoái, “hay tưởng tượng!”
Nhưng ngay khi anh bắt đầu cười với cô, cô lờ anh đi ngay. “Một trưởng thanh tra chẳng đến đây để nói với tôi về giày trượt,” cô nói. “Tôi đã nói với cảnh sát tất cả những gì tôi biết lúc trước rồi. Anh muốn cái gì?”
“Cô gái đi giày trượt của cô đã bị giết. Hai người khác nữa cũng được tìm thấy cùng cô ta.”
“Thế thì liên quan gì đến tôi?”
“Tôi nghĩ cô có thể giúp được.”
“Nếu họ đã chết, tôi chẳng thể giúp họ được. Tin tôi đi, tôi sẽ chẳng làm gì cho anh đâu. Tôi từng là sinh viên luật. Nếu anh định đến bắt tôi, anh phải có một tay cảnh sát đi cùng. Anh có định bắt tôi không đấy?”
“Không...”
“Vậy trừ khi anh muốn làm tôi mất việc, anh sẽ đi khỏi đây. Mọi người ở đây sợ anh, họ không muốn thấy anh lảng vảng quanh đây. Anh sẽ không đến nữa, phải không?”
Arkady ngạc nhiên với chính mình vì đã để cô gái lố bịch này làm trò. Mặt khác, Arkady hiểu hoàn cảnh của những sinh viên bị ném ra khỏi trường đại học và bám víu lấy bất kỳ công việc nào họ có thể tìm được để không mất giấy thông hành Moscow và bị chuyển về nhà. Về tận Siberi trong trường hợp cô gái này.
“Không,” anh đồng ý.
“Cảm ơn anh.” Anh nhìn nghiêm nghị của cô chuyển sang thực dụng. “Trước khi đi, anh có thể cho tôi một điếu thuốc nữa không?” “Cứ lấy cả bao đi.”
Đoàn làm phim lại đổ về phim trường. Tay diễn viên cầm súng lục say xỉn và chĩa súng vào Arkady. Irina gọi với theo viên thanh tra đang ra về, “Nhân tiện, anh nghĩ gì về cảnh phim?”
“Giống Chekhov,” anh ngoái lại trả lời, “nhưng dở tệ.” “Nó là tác phẩm của Chekhov,” cô nói, “và nó kinh tởm, anh chẳng chệch điều gì cả.”
Levin đang nghiền ngẫm một thế cờ khi Arkady bước vào văn phòng của nhà nghiên cứu bệnh học.
“Tôi sẽ cho anh biết lịch sử ngắn gọn về đời của chúng ta.” Levin không ngẩng đầu lên khỏi những mảnh đen và trắng. “Một khi một người đàn ông ưa giết chóc, trong khi anh ta chẳng nghĩ gì về cướp bóc, anh ta tiến tới ngôn ngữ thô tục và chủ nghĩa vô thần, và từ những điều đó tới những cánh cửa mở mà chẳng cần gõ cửa. Nước cờ đen.”
“Ông không phiền chứ?” Arkady hỏi.
“Không sao.”
Arkady gạt sạch phần trung tâm bàn cờ và đặt ba con tốt đen về bên của chúng. “Người đẹp, Quái vật và Đỏ.”
“Anh đang làm gì vậy?” Levin quan sát ván cờ bị làm hỏng. “Tôi nghĩ ông đang bỏ sót điều gì đó.”
“Làm sao anh biết được?”
“Để tôi nói qua về vụ này nhé. Ba nạn nhân, tất cả đều bị giết bởi một phát súng xuyên lồng ngực.”
“Hai phát qua đầu nữa, vậy anh nghĩ phát đạn nào trước vậy?” “Tên sát nhân đã lên kế hoạch cẩn thận,” Arkady tiếp tục đào sâu hơn. “Hắn lấy đi giấy tờ tùy thân, khoắng sạch túi nạn nhân, thực sự lột da mặt họ và cắt đầu ngón tay để loại bỏ đặc điểm nhận dạng. Tuy vậy, hắn vẫn liều lĩnh bắn thêm hai phát nữa vào mặt những nạn nhân nam.”
“Để chắc rằng họ đã chết.”
“Hắn biết rằng họ đã chết. Không, trên một người đàn ông còn có một điểm nhận dạng nữa cần bị xóa bỏ.”
“Có thể là bắn vào đầu họ trước rồi mới bắn vào tim.” “Vậy tại sao không làm như thế với cô gái ? Không, hắn bắn vào đầu người đàn ông đã chết, và nhận ra rằng hắn chỉ đang thông báo cho những gì hắn định làm. Và thế là bắn cả người đàn ông đã chết thứ hai.”
“Vậy tôi hỏi anh.” - Levin đứng dậy - “Tại sao không bắn cả cô gái?”
“Tôi không biết.”
“Và tôi nói với anh với tư cách một chuyên gia, mà anh vốn không phải, rằng viên đạn với đường kính như thế không thể gây
biến dạng đến mức khiến người đàn ông không thể nhận dạng được. Ngoài ra, tay đồ tể này đã lột mặt của họ ra rồi.” “Hãy nói cho tôi biết với tư cách một chuyên gia, những viên đạn đó đạt được cái gì vậy?”
“Nếu hai người đàn ông đã chết rồi,” Levin khoanh tay, “chủ yếu là phá hủy cục bộ. Răng vốn là thứ chúng ta đã kiểm tra kỹ rồi.” Arkady không nói gì cả. Levin giật tung một ngăn kéo và mang ra những chiếc hộp đánh dấu GP1 và GP2. Từ hộp GP1, ông ta đổ hai chiếc răng cửa gần như nguyên vẹn vào lòng bàn tay mình. “Răng khỏe,” Levin nói. “Anh có thể cắn quả hạch với những chiếc răng này.”
Những chiếc răng trong hộp GP2 ở tình trạng không tốt. Một chiếc răng cửa bị vỡ vụn và một túi riêng đựng những mảnh vỡ và bột.
“Phần lớn của một chiếc răng đã bị mất trong tuyết. Dù vậy, những gì chúng tôi đã phân tích được cho thấy những dấu vết của men tráng, men răng, cement, tủy răng đã được khử nước, vết ố do thuốc lá và chì.
“Một vết hàn răng?” Arkady hỏi.
“Chín gram.” Levin dùng tiếng lóng chỉ viên đạn. “Hài lòng chứ?” “Đây là Đỏ, chàng trai nhuộm tóc, phải không?”
“GP2, lạy chúa tôi!”
Đỏ ở tầng dưới, trong một ngăn lạnh bằng kim loại. Họ đẩy thi thể này vào phòng khám nghiệm tử thi. Arkady bập bùng rít từng hơi ngắn thuốc lá.
“Cho tôi chút ánh sáng.” Levin huých khuỷu tay vào anh. “Tôi cứ nghĩ anh ghét công việc này.”
Ở trung tâm của hàm trên là một lỗ hổng được đóng khung bởi răng cửa phụ màu nâu. Dùng một cái dùi, Levin chọc những mẩu hàm lên trên một bản kính đựng chất lỏng. Khi những chất lắng đọng bọc lấy bản kính, ông ta mang nó tới một kính hiển vi trên bàn làm việc.
“Anh có bao giờ biết được mình đang tìm kiếm cái gì không, hay anh chỉ đơn giản là đoán mò?” ông ta hỏi Arkady.
“Tôi đoán, nhưng chẳng ai lại cướp một két sắt rỗng cả.” “À, dù nó có nghĩa là gì đi chăng nữa.” Nhà nghiên cứu bệnh học ghé một mắt vào kính hiển vi đồng thời khuấy chiếc xương vỡ. Bắt đầu với thị kính 10x, ông ta xoay các thấu kính của vật kính. Arkady kéo một chiếc ghế lên và ngồi quay lưng lại với xác chết khi Levin lấy ra khỏi bản kính mỗi lần một ít bụi xương.
“Tôi đã gửi một báo cáo đến văn phòng anh mà có thể anh vẫn chưa xem đấy.” Levin nói. “Những đầu ngón tay đã bị cắt bỏ bằng kéo lớn. Vết thương có những rãnh đối xứng và rõ ràng. Mô mặt đã không bị lột bỏ bằng dao mổ, những vết cắt không ngọt như thế - thực tế, có một vết cắt lõm mạnh vào xương. Tôi cho là một con dao lớn, có thể là dao đi săn, và cực kỳ sắc.” Một lớp bụi xương mịn đọng lại trên bản kính. “Đây, xem thử này.”
Khi phóng đại lên hai trăm lần, bụi xương là một đám đá vụn màu ngà rải rác lẫn với gỗ hồng.
“Cái gì vậy?”
“Gutta-percha*. Chiếc răng bị vỡ theo cách đó vì nó đã chết và giòn. Anh ta làm ống chân răng, và gutta-percha được đệm vào vị trí
chân răng.”
“Tôi không biết là có thủ thuật đó.”
“Nó không được làm ở đây. Nha sỹ ở châu Âu không dùng gutta percha, chỉ nha sỹ Mỹ thôi.” Levin chế nhạo nụ cười hớn hở của Arkady. “May mắn thì cũng chẳng có gì đáng tự hào cả.” “Tôi không tự hào.”
Trở về Novokuznetskaya, vẫn mặc áo bành tô, Arkady gõ:
Báo cáo về vụ án mạng Công viên Gorky.
Phân tích bệnh học trên Nạn nhân GP2 xác định thấy những gì sót lại của một mối bơm gutta-percha trong ống chân răng của răng cửa giữa phía trên bên phải. Nhà nghiên cứu bệnh học đã chỉ ra rằng kỹ thuật này không đặc thù trong ngành nha khoa Liên Xô hay châu Âu. Nó phổ biến ở Mỹ.
GP2 đồng thời là nạn nhân đã ngụy trang bằng cách nhuộm tóc vốn đỏ thành màu nâu.
Anh ký tên, ghi ngày tháng, lăn bản báo cáo, tách giấy than ra và mang bản gốc sang phòng bên cạnh một cách khẽ khàng như một ân giảm. Arkady đặt báo cáo lên giữa bàn của công tố viên.
Khi Pasha quay lại vào buổi chiều, viên thanh tra đang ngồi ngả ngốn đọc tạp chí. Tay thám tử đặt máy ghi băng lên bàn và ngồi sụp xuống ghế.
“Cái gì đây, về rút lui sớm à?”
“Không phải là rút lui, Pasha. Mà là một quả bóng bay, một bong bóng trôi lên trời, một con đại bàng tự do bay vút lên - nói ngắn gọn là, một người đàn ông đã trốn tránh trách nhiệm thành công.” “Anh đang nói cái gì vậy? Tôi chỉ vừa mới phá án.”
“Chẳng có vụ án nào cho chúng ta nữa.”
Arkady miêu tả răng của người đàn ông đã chết.
“Một tay gián điệp Mỹ?”
“Ai quan tâm chứ, Pasha? Ngoại trừ bất kỳ thằng Mỹ đã chết nào. Pribluda sẽ phải nhận thẩm quyền về vụ này.”
“Thế còn công trạng thì sao?”
“Cho hắn một ngày đi. Chuyện này đáng ra phải là của hắn ngay từ đầu. Hành quyết bộ ba vốn không phải là kiểu vụ án của chúng ta.”
“Tôi biết KGB. Lũ bẩn tính. Sau khi chúng ta làm hết mọi việc.” “Việc nào? Chúng ta còn không biết nạn nhân là ai chứ đừng nói đến kẻ đã giết họ.”
“Chúng được trả lương gấp đôi thám tử, có cửa hàng đặc biệt riêng, câu lạc bộ thể thao hoành tráng.” Pasha sa đà vào lối mòn của riêng mình. “Anh có thể nói cho tôi biết tụi nó hơn tôi ở chỗ nào chứ, tại sao tôi chẳng bao giờ được tuyển cả? Có điều gì đó không ổn ở tôi chỉ vì ông tôi chẳng may lại là một hoàng thân sao? Không, anh phải có một dòng dõi, đầy mồ hôi và bùn đất suốt mười thế hệ, hoặc phải nói được mười thứ tiếng.”
“Pribluda chắc chắn hơn anh khoản mồ hôi và bùn đất rồi. Tôi không nghĩ hắn nói được hơn một thứ tiếng.”
“Tôi đã có thể nói tiếng Pháp hay tiếng Trung nếu tôi có cơ hội.” Pasha tiếp tục.
“Anh nói tiếng Đức.”
“Ai chả nói tiếng Đức. Không, nó rất điển hình, câu chuyện đời tôi. Giờ họ sẽ lấy hết công trạng khi chúng ta phát giác ra cái gì nhỉ, cái gì, cái gì đó...”
“Răng.”
“Chết tiệt.” Đó là một biểu hiện tức giận mang tính quốc gia, không phải một câu xúc phạm.
Arkady bỏ mặc Pasha trong cơn kinh hãi và tới văn phòng của Nikitin. Vị trưởng thanh tra điều phối không có trong phòng. Với chiếc chìa khóa trong bàn của Nikitin, Arkady mở một két gỗ chứa danh bạ điện thoại thành phố và bốn chai vodka. Anh chỉ lấy một chai.
“Vậy là cậu thà làm một thằng bẩn tính còn hơn là làm một thám tử tốt?” Anh nói với Pasha khi quay trở lại. Không nguôi ngoai nổi, Pasha nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Arkady rót ra hai cốc rượu vodka. “Cạn ly.”
“Vì cái gì?” Pasha càu nhàu.
“Vì ông của cậu, ngài hoàng thân!” Arkady mời mọc. Pasha mặt đỏ tía tai vì lúng túng. Anh ta nhìn chằm chằm qua khung cửa mở ở sảnh.
“Vì Nga Hoàng!” Arkady thêm thắt.
“Xin anh đấy!” Pasha đóng cửa lại.
“Thế thì uống đi.”
Sau vài ly rượu, Pasha không còn quá đau khổ. Họ nghênh đón khám phá pháp y của Đại tá Levin, sự tất thắng của công lý và việc mở các đường tàu biển tới Vladivostok.
“Vì người đàn ông trung thực nhất Moscow,” Pasha gợi ý. “Ai?” Arkady hỏi, mong đợi một câu nói đùa.
“Anh,” Pasha nói và uống cạn.
“Thực ra” - Arkady nhìn vào cốc của mình - “những gì chúng ta đang làm trong hai ngày qua cũng chẳng trung thực lắm.” Khi ngước lên, anh thấy tinh thần vừa được khôi phục lại của tay thám tử bắt đầu chùn xuống. “Dù sao thì, cậu nói là cậu đã “phá án” hôm nay. Nói cho tôi biết như thế nào vậy.”
Pasha nhún vai, nhưng Arkady nài ép, vì anh biết viên thám tử muốn anh làm thế. Cả ngày nói chuyện với đám búp bê Nga cũng đáng được thưởng một cái gì đó.
“Tôi chợt nảy ra ý nghĩ “ - Pasha cố gắng tỏ ra thản nhiên - “là có thể có thứ gì đó ngoài tuyết che lấp đi tiếng súng. Sau khi phí cả ngày nói chuyện với mấy người bán đồ ăn dạo, tôi đi và nói chuyện với bà già nhỏ thó bật nhạc trượt băng qua loa phóng thanh trong công viên vào mùa đông. Bà ấy có một căn phòng nhỏ trong tòa nhà ở cổng Krimsky Val. Tôi hỏi “Bà có bật đĩa nhạc ồn ào nào không?” Bà ấy nói, “chỉ những đĩa nhạc tĩnh lặng dành cho trượt băng thôi.” Tôi hỏi tiếp “Bà có theo dõi chương trình âm nhạc nào hàng ngày hay không?” Bà ấy trả lời, “Chương trình là dành cho ti vi, tôi chỉ bật nhạc trượt băng, những đĩa nhạc tĩnh lặng được bật bởi một người lao động giản dị, như những đĩa mà tôi có từ thời chiến khi tôi còn ở pháo binh. Tôi có được công việc này một cách trung thực, bởi vì tôi tàn tật.” Tôi lại nói “Đó không phải là việc của tôi, tôi chỉ muốn biết
thứ tự các bản nhạc mà bà đã bật.” “Thứ tự đúng,” bà nói. “Là tôi bắt đầu từ trên xuống dưới chồng đĩa, và nếu chẳng còn đĩa nhạc nào nữa thì tôi biết đã đến lúc về nhà.” “Cho tôi xem nào,” tôi nói. Bà già mang ra một chồng mười lăm chiếc đĩa nhạc. Chúng thậm chí được đánh số từ một đến mười lăm. Tôi đang nghĩ là vụ nổ súng có lẽ diễn ra vào khoảng cuối ngày và vì vậy tôi xem xét từ cuối lên. Số mười lăm, không còn nghi ngờ gì luôn, từ vở Hồ Thiên Nga. Số mười bốn, anh có muốn đoán không? Bản “dạo đầu 1812”. Đại bác, chuông, đủ thứ. Cuối cùng thì tôi cũng khôn ra. Tại sao lại phải đánh số những đĩa nhạc? Tôi giữ đĩa nhạc trước miệng mình và hỏi bà ấy, “Bà đã bật chúng to cỡ nào?” Bà ấy chỉ nhìn, không nghe thấy gì cả. Bà già bị điếc, đó là khuyết tật của bà ấy và đó là người họ dùng để bật nhạc ở công viên Gorky!”
Chương Ba
M
ột cuối tuần ở vùng nông thôn với đợt tuyết cuối mùa. Cần gạt nước trên kính chắn gió gạt những bông tuyết rơi dày đặc xuống. Một chai Vodka có pha hương vị để bù lại cho cái lò sưởi ô tô yếu ớt. Tiếng lốp xe hối hả kêu xì xì. Tiêu, trống, kèn co, những chiếc chuông gióng dục của một chiếc xe kéo. Tiến lên!
Zoya ngồi phía sau cùng Natalya Mikoyan, Arkady ở phía trước cùng Mikhail Mikoyan, người bạn lâu năm nhất của anh. Họ đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian trong Đoàn thanh niên Cộng sản Komsomol, Quân đội, trường đại học Moscow và khoa Luật. Họ cùng chia sẻ một hoài bão, những cuộc vui say sưa chè chén, những bài thơ, thậm chí vài cô gái. Với gương mặt thanh tú trẻ thơ dưới những nếp tóc đen quăn, Misha đã đi thẳng từ khoa Luật tới ủy ban Luật sư Thành phố Moscow. Một cách chính thức thì, luật sư biện hộ được trả lương không nhiều hơn thẩm phán, tức là, hai trăm rúp một tháng. Một cách không chính thức thì, các thân chủ trả gấp đôi hay hơn thế nữa, đó là lý do vì sao Misha có thể mua những bộ vest xịn, một chiếc nhẫn hồng ngọc đeo ở ngón út, đồ lông thú cho Natasha, một ngôi nhà ở vùng đồng quê và một chiếc xe hai cửa Zhiguli mà họ đang dùng để đi tới đó.
Natasha, da ngăm và mảnh khảnh đến mức cô có thể mặc vừa đồ trẻ em, đóng góp tiền lương của cô với tư cách một ký giả của
hãng tin Novosti và mỗi năm nạo thai một lần. Cô không thể dùng thuốc, dù cô cung cấp thuốc cho bạn bè của mình. Trên chiếc xe kéo này không có quá nhiều hành lý. Tiến lên!
Căn nhà vườn nằm cách Moscow ba mươi kilomet về phía đông. Như thường lệ, Misha đã mời khoảng tám người bạn đến cùng. Khi xe chở đầy người của chủ nhà xuất hiện, họ giậm mạnh tuyết khỏi bốt của mình, cánh tay nặng trĩu những bánh mì, hũ cá trích và rượu mạnh, họ được chào đón bởi một cặp đôi trẻ đang đánh bóng các ván trượt tuyết và một người đàn ông béo vận áo len bó chặt đang cố nhóm lò sưởi. Có thêm nhiều khách đến theo sau: một đạo diễn các phim giáo dục và tình nhân của ông ta, một diễn viên múa ba lê và bà vợ đeo bám của mình. Đám ván trượt bị đổ, chúng có vẻ như đổ liên tiếp, bắt đầu từ ghế sô pha. Đàn ông ở một phòng, phụ nữ ở phòng khác, những người đến muộn đổi sang quần áo mặc ngoài trời.
“Một buổi sáng ngập tuyết trắng.” Misha vẫy tay đầy cởi mở. “Tuyết quý giá hơn đồng rúp.”
Zoya nói cô sẽ ở lại cùng Natasha vốn vẫn đang hồi phục sau lần phá thai gần đây. Ngoài trời, tuyết ngừng rơi và chất ngập đầy mặt đất.
Misha cảm thấy hào hứng khi tự vạch ra con đường của riêng mình xuyên qua cánh rừng. Arkady hài lòng với việc dừng lại hết lần này đến lần khác để ngắm nhìn những ngọn núi thấp, những sải bước dài thoải mái khiến việc bắt kịp bước đi chúi mũi bồn chồn của Misha chẳng là vấn đề gì với anh. Sau một giờ, họ nghỉ ngơi để Misha có thể rửa băng kết lại giữa giày và ván trượt. Arkady tháo ván trượt ra và ngồi xuống.
Hơi thở trắng, cây trắng, tuyết trắng, bầu trời màu trắng. “Mảnh mai như đàn bà,” những cây phong vẫn luôn được gọi như vậy. Cảm hứng cho những thi sĩ nữa, Arkady nghĩ.
Misha giải quyết đám băng y như cách anh làm việc ở tòa án: đầy sự giận dữ và kịch tính. Khi còn là một cậu bé, anh ta có giọng to nhất, như một chiếc tàu nhỏ xíu với cánh buồm vĩ đại. Anh ta bổ mạnh vào ván trượt.
“Arkady, tôi có một rắc rối.” Anh ta buông chiếc ván rơi xuống. “Cô gái lần này là ai?”
“Một nhân viên mới, có lẽ không hơn mười chín tuổi. Tôi nghĩ Natasha đang nghi ngờ. Ồ, tôi chẳng chơi cờ hay thể thao gì hết, còn cái gì khác để giải khuây ở đó đây? Điều nực cười nhất là đứa nhóc này có lẽ là người ngốc nghếch nhất mà tôi từng gặp, và tôi sống hay chết theo ý cô ta. Chuyện tình chẳng phải là một thứ đẹp đẽ gì, khi anh lao vào nó. Hoặc là rẻ tiền. Ôi.” - anh ta mở áo khoác và lôi ra một chai rượu vang - “có chút rượu vang Sautem của Pháp này, được gã vũ công mà anh thấy khoa tay múa chân quanh nhà nhập lậu đấy. Rượu tráng miệng hảo hạng nhất thế giới. Tôi không có món tráng miệng nào cả. Có muốn uống một chút không?”
Misha bóc lớp giấy lấp lánh phía trên và đưa chai rượu cho Arkady, anh vỗ đáy chai và bật nắp chai ra. Anh nốc một ngụm. Rượu có màu hổ phách và ngọt.
“Ngọt hả?” Misha bắt gặp vẻ mặt của Arkady.
“Không ngọt bằng vài loại rượu vang Nga,” Arkady nói với đầy vẻ yêu nước.
Họ thay phiên nhau uống. Tuyết rơi từ những cành cây, đôi khi rơi bịch xuống, có lúc rất nhẹ và nhanh như bước chân của một chú
thỏ rừng. Arkady thích ở cạnh Misha và những lúc tuyệt nhất là khi Misha ngậm miệng.
“Zoya vẫn rầy rà anh về chuyện Đảng à?”
“Tôi là một Đảng viên, tôi có thẻ Đảng.”
“Nhưng anh phải làm gì đó để trở nên năng nổ hơn? Một cuộc họp một tháng một lần nơi anh có thể đọc báo nếu anh muốn. Một lần một năm anh vận động bỏ phiếu. Anh còn chẳng làm thế. Lý do duy nhất anh có thẻ Đảng là vì nếu không thì anh không làm trưởng thanh tra được. Mọi người đều biết, vì thế anh có thể cũng được hưởng lợi từ nó, hãy thử tham gia vào Quận ủy và tạo dựng một vài mối quan hệ đi.”
“Tôi luôn có lý do tốt để lỡ một buổi họp.”
“Chắc chắn rồi. Chẳng trách sao Zoya giận dữ. Anh nên nghĩ về cô ấy một chút. Với thành tích của mình, anh chắc chắn sẽ trở thành thanh tra ủy ban Trung ương rồi. Anh có thể đi ngao du khắp nơi kiểm tra các hành động thực thi pháp luật, thúc giục các chiến dịch, làm những viên tướng cảnh sát địa phương sợ bĩnh ra quần.”
“Nghe có vẻ không hấp dẫn lắm.”
“Điều đó cũng chẳng quan trọng. Chủ yếu là, anh có quyền mua sắm ở những cửa hàng của ủy ban Trung Ương, anh sẽ đứng hàng đầu trong danh sách đi nước ngoài, và anh sẽ tiếp cận được với những người ở ủy ban Trung Ương, những người bổ nhiệm vào vị trí cao cấp. Anh sẽ trên đà leo lên cao.”
Có một tầng mây đặc, trắng sứ bay lên trời. Nó sẽ rít lên ken két nếu bạn cọ nắm tay của mình lên đó, Arkady nghĩ.
“Tôi đang phí lời rồi,” Misha nói. “Anh nên nói chuyện với Iamskoy, ông ta thích anh đấy.”