🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Amber: Kiếp Hồng Nhan - Kathleen Winsor full prc pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo VĂN HỌC MỸ KATHLEEN WINSOR AMBER MAI SANG dịch (Nguyên tác: Forever Amber) NHÀ XUẤT BẢN LONG AN - 1988 C GIỚI THIỆU ó thể nói ngay, Forever Amber là một tác phẩm văn học xuất sắc của nữ văn sỹ Kathleen Winsor. Bà đã kể lại một câu chuyện xảy ra vào thế kỷ 17 tại Anh quốc, xoay quanh nhân vật nữ chính là Amber - một cô gái mồ côi - đã dùng nhan sắc và sự quyến rũ của mình để tồn tại trong xã hội đa dạng lúc bấy giờ. Cô sẵn sàng làm người tình hay vợ những kẻ giàu có, nhưng lại không có được người cô yêu. Một điều lạ của cuốn sách, đó là nó vừa được yêu thích, vừa (từng) bị cấm xuất bản ở nhiều nơi (và bị xếp vào hàng… khiêu dâm). Dù vậy, cuốn sách vẫn có sức sống mạnh mẽ và luôn nằm trong danh sách tiểu thuyết hay nhất. Đoạn đời tuổi trẻ của Amber vùi dập trong chuỗi ngày mê muội, trong sự vùng vẫy để đạt điều cô mong ước. Những biến cố lịch sử có thật cũng được thể hiện sinh động dọc theo quãng đời của cô. Vừa dũng cảm lại vừa lẳng lơ, Amber có những lúc “lên voi” trong giới thượng lưu, thậm chí cả triều đình, và có những khi “xuống chó” phải đổi thân xác để có miếng ăn. Một trong những sự kiện khiến cho câu chuyện mang hơi thở thật của bối cảnh là trận dịch hạch kinh hoàng tại London. Qua đó cũng chứng tỏ tình yêu mãnh liệt và sự dũng cảm của Amber. Suốt đoạn đời được mô tả trong tác phẩm, Amber yêu và chỉ yêu Bruce Carlton. Kết thúc câu chuyện, Amber bắt đầu một hành trình vô vọng đến Hoa Kỳ để tiếp tục tìm kiếm Bruce, người đã lập gia đình với một cô gái khác. Hình như bản dịch tôi đọc là từ bản tiếng Pháp, cho nên tác giả đặt tựa là “Ambrơ” (theo Ambre). Sau này tôi có thấy sách được tái bản. Một cuốn sách không thể bỏ qua, tuy nhiên, cùng nguyên nhân với lệnh cấm từng dành cho nó tại nhiều nơi, tôi nghĩ nó chỉ thích hợp với người trên 20 tuổi (hoặc hơn nữa). * * * Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý. Amber St. Clare sinh ra đã mất mẹ và không bao giờ được biết mặt cha. Từ đó, cô bé lớn lên trong sự ganh ghét, dè bỉu của những người xung quanh, ngoại trừ tình yêu của cô Sarah tốt bụng. Cuộc gặp gỡ với Bruce Carlton năm cô 16 tuổi, khi anh cùng đoàn kỵ sĩ của Nhà vua đi ngang qua làng Marygreen, đã thực sự đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cô. Cô dành cho anh tất cả tình yêu sâu đậm, cháy bỏng và cuồng nhiệt… Cô theo anh đến Luân Đôn và không ngờ rằng trong suốt 10 năm sau đó cô phải trải qua biết bao biến động của thời cuộc và nhất là những thay đổi ghê gớm của cuộc đời mình. Xã hội dạy cho cô cách thức để vượt qua những hiểm nguy, gian khó, kể cả những ngày tháng kinh hoàng và khủng khiếp nhất. Amber không ngần ngại trước mọi thứ có thể đem lại cho cô tình yêu, tiền tài và danh vọng. Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý, một nữ bá tước… và hơn thế nữa là một quận chúa được nhà vua đặc biệt sủng ái. Cô đã có tất cả những gì cô muốn, ngoại trừ một điều thiêng liêng nhất - đó là tình yêu và một mái ấm gia đình thật sự với người đàn ông mình rất yêu… Ôi, thượng đế! Thời đại gì. Thế giới gì! Mà mỗi con người sống trong đó lại không thể không giở cái trò xảo trá và vị kỷ. SAMUEL PEPYS M PHẦN MỞ ĐẦU 1644 ột bầu không khí nóng, ẩm tràn ngập khắp phòng hộ sinh. Những tiếng sét dữ dội làm rung chuyển cả các cửa kính; những tia chớp như lóe lên ngay ở trong phòng. Không ai dám nói ra điều mà họ đều nghĩ: cơn giông này mặc dù là vào giữa tháng Ba, nhưng lại dữ dội, có lẽ là một điềm gở gì đây! Những người phụ nữ trong xóm hoàn toàn im lặng, vẻ lo âu, đứng xung quanh giường và chăm chú nhìn. Từ những cặp mắt đầy lo ngại của họ ánh lên một tình thương và mối thiện cảm đối với đứa bé mới sinh đỏ hỏn, với người mẹ vừa qua cơn vượt cạn, cả đến bà đỡ mồ hôi đầy mình đang cúi xuống giường và đưa hai tay đặt đứa bé vào trong chăn. Bà gọi nhỏ: - Sarah! Một người đàn bà ngẩng mặt lên; hai người thì thầm với nhau vài câu; sau đó, trong khi bà đỡ lại gần lò sưởi để tắm cho đứa bé trong một cái chậu đầy rượu đỏ ấm, thì người phụ nữ kia luồn tay vào chăn và xoa bụng cho người mẹ với những cử chỉ nhẹ nhàng, và dứt khoát. Vẻ lo lắng lẫn sợ hãi nhanh chóng biến mất trên bộ mặt chị ta khi thấy người sản phụ mở mắt ra và nhìn mình. Sản phụ dáng thiểu não, gầy guộc do đau đớn, vẻ mặt ngơ ngác, đôi mắt sâu hoắm và thâm quầng. Chỉ có bộ tóc mỏng manh màu hung rối bời xõa xung quanh đầu là còn có sức sống. Khi nói, giọng chị yếu ớt như tiếng thì thầm: - Chị Sarah! Con của em khóc đấy phải không? Sarah vẫn không ngừng tay, gật đầu với một nụ cười gượng gạo: - Phải đấy, Judith ạ! Con gái của em đấy! Tiếng khóc the thé lại vang lên. Mặc dù kiệt sức, sản phụ cũng lộ rõ vẻ thất vọng: - Con… gái à? Nhưng em muốn có một đứa con trai kia. Anh John thích như vậy! Đôi mắt chị nhòa lệ. Những giọt nước mắt tràn xuống làm ướt đẫm hai bên thái dương, chị quay đầu một cách khó khăn như để khỏi phải nghe thấy tiếng khóc của đứa bé. Nhưng chị đã quá kiệt sức. Sự mệt mỏi đang từ từ xâm chiếm lấy người chị. Chị cảm thấy tim mình đập nhẹ và gấp. Như bị một cơn lốc hút mạnh, cuốn chị mỗi lúc một nhanh, chị có cảm giác như bị kéo ra khỏi chính người mình, khỏi căn phòng - bị ném vào trong không gian vô định… Lẽ tất nhiên đối với John, con trai hay con gái cũng vậy, anh đều thương yêu như nhau. Chị mường tượng thấy vẻ mặt của John, thấy cái choáng váng và bất ngờ khi chị báo cho anh biết anh đã là cha, và cả sự bộc phát của anh vì vui sướng cùng hãnh diện. Anh mỉm cười, bộ răng trắng bóng ánh trên khuôn mặt sạm nắng; đôi mắt ngắm nhìn chị một cách yêu thương, như lần cuối cùng hai người gặp nhau. Chính chị đã luôn luôn nhớ đến đôi mắt ấy. Chúng có màu hổ phách, như một thứ thủy tinh có ánh mặt trời xuyên qua, và xung quanh cái đồng tử đen luôn óng ánh những điểm xanh và nâu. Từ thủa còn nhỏ, Judith hầu như đã biết là một ngày kia mình sẽ lấy John Mainwaring, người mà sau khi cha chàng qua đời, chàng sẽ thừa kế lãnh địa Rosswood. Gia đình cô có gốc Anh lâu đời, tên gọi là “Marisco” khi các thế hệ tổ tiên của cô tới cùng với quân Norman xâm lược, nhưng qua nhiều thế kỷ, tên đó đã chuyển thành Marsh. Mặt khác, những người Mainwaring nhận thấy của cải và quyền thế của họ tăng tiến một cách đáng kể trong thế kỷ vừa qua. Lãnh địa của hai họ đã trở thành láng giềng với nhau, gia đình hai bên vốn đã quan hệ thắm thiết từ ba đời nay. Vậy con trai họ Mainwaring lấy con gái họ Marsh là điều tự nhiên. John hơn nàng tám tuổi. Trong suốt một thời gian dài, anh không để ý đến nàng, mặc dù anh biết rằng có thể một ngày kia hai người sẽ lấy nhau. Lời hứa hôn đã được cam kết từ khi anh còn là một cậu bé, và Judith thì còn ẵm ngửa. Trong những năm tiếp theo, Judith thường gặp John luôn, vì anh hay đến Rose Lawn để cưỡi ngựa đi săn và tập kiếm với bốn người anh của Judith, nhưng anh chỉ xem cô như những người em gái của mình. Rồi anh đi học ở trường Oxford, rồi đến Inner Temple vào khoảng một năm, và hoàn thành chương trình học tập bằng một cuộc đi vòng quanh châu Âu. Lúc trở về, anh gặp lại một cô thiếu nữ mười sáu tuổi xinh đẹp, duyên dáng và anh liền yêu cô. Judith luôn luôn mê anh và vì hai bên gia đình hoàn toàn thỏa thuận, nên hình như không có một lý do nào phải chờ đợi. Hôn lễ được ấn định vào tháng Tám: đúng vào lúc cuộc nội chiến bắt đầu. Ngài William Marsh lập tức tuyên bố ủng hộ nhà vua, nhưng bá tước Rosswood, cha của John, còn lưỡng lự vài tuần lễ trước khi đi theo phái Nghị viện. Từ hơn một năm, Judith đã nghe thấy hai ông bố tranh luận tay đôi, mặc dù nhiều khi hai ông già đã nổi giận và giơ nắm đấm dọa nhau, nhưng họ vẫn thỏa thuận để uống một cốc rượu với nhau và nói sang chuyện khác. Nàng không hề ngờ rằng những cuộc cãi vã ấy sẽ làm thay đổi cả cuộc đời nàng! Bá tước Rosswood đã hàng trăm lần nói là ông có thể chấp nhận chính thể chuyên chế của nhà vua, nhưng không phải là với chính sách tôn giáo của Laud, trong khi đó thì ngài Marsh tin tưởng rằng, vào lúc quyết định, bạn ông sẽ chuyển sang hàng ngũ nhà vua. Nhưng khi thấy Rosswood đã không như vậy, ông ta nổi nóng, lúc đầu còn ngờ vực, sau thì đầy cay đắng và hận thù. Judith hoàn toàn không nhận thấy là nước Anh có nội chiến, cho đến ngày mẹ cô lạnh lùng bảo cô không được tơ tưởng đến John nữa, và cuộc hôn nhân đó sẽ không thể nào thành. Hoảng hốt, Judith vội gật đầu, nhưng hoàn toàn không tin đó là sự thật. Cha cô đã nói, cuộc chiến tranh sẽ kết thúc trong vòng ba tháng, và thế là họ sẽ quên đi mối bất đồng, tình hữu nghị sẽ được lập lại. Nhưng lúc John đến từ biệt trước khi ra mặt trận, ngài William đã nổi giận sấn tới trước ngựa chàng và đe dọa, cấm chàng không được lai vãng đến nhà ông. Hay tin ấy, Judith đã khóc sướt mướt vì chàng ra trận mà hai người không được tâm tình với nhau, cả đến một cái hôn. Mấy ngày sau, ngài William và bốn người anh của Judith cùng với những người đàn ông khỏe mạnh trong làng, đi theo Vua. Bây giờ nàng mới thấy tất cả sự thực của cuộc chiến tranh, nàng căm thù vì chiến tranh đã xâm nhập vào cuộc đời vốn bình yên và đầm ấm của nàng. Như ngài William đã nói trước, phe vua thắng to. Hoàng thân Rupert, cháu vua, trẻ và đẹp, thắng hết trận này đến trận khác, cho đến khi toàn thể nước Anh - trừ góc đông nam - thuộc về nhà vua. Nhưng phe đối lập vẫn tiếp tục chiến đấu, nhiều tháng đã trôi qua. Judith rất bận, vì từ khi những người đàn ông ra đi, có nhiều công việc phải cáng đáng. Nàng không còn thì giờ để ca múa, hoặc thêu thùa nữa. Tuy nhiên, hầu như lúc nào, nàng cũng nghĩ đến John. Nàng tự hỏi không biết bao giờ chàng có thể trở về bên nàng và phác họa một tương lai mà cuộc nội chiến không thể làm thay đổi được. Mẹ nàng dễ dàng đoán biết lý do khiến con gái trở nên trầm tĩnh, ít nói; bà dọa dẫm nàng, bảo nàng hãy quên John đi. Bà còn cho nàng biết là bố mẹ đã có dự kiến về một cuộc hôn nhân khác, xứng đáng hơn, với một người đàn ông luôn luôn trung thành với nhà vua. Nhưng Judith không hề có ý định quên John. Nàng không thể tưởng tượng là sẽ phải lấy một người đàn ông khác, trừ phi có một Đức Chúa Trời mới ra lệnh cho nàng đổi ý. Năm tháng sau khi ra đi, John tìm cách gửi cho Judith một bức thư nhỏ, trong đó chàng nói là mình vẫn mạnh khỏe và vẫn yêu nàng tha thiết: “Chúng ta sẽ cưới nhau Judith ạ, khi nào chiến tranh chấm dứt, mặc dầu ý kiến của hai bên cha mẹ thế nào”. Anh nói thêm là sẽ thu xếp về thăm nàng, cố gắng càng sớm càng tốt. Mãi đến giữa tháng Sáu, chàng mới thực hiện được lời hứa. Thế là nàng bịa ra một câu chuyện để nói dối mẹ, cưỡi ngựa đi đến gặp chàng ở bờ sông là ranh giới của hai lãnh địa. Từ khi biết nhau, đây là lần đầu tiên họ gặp nhau một cách tự do không người dòm ngó. Lúc đầu Judith còn bối rối, nhưng sau khi đã xuống ngựa, nàng vội gieo mình vào vòng tay chàng, không chút chần chừ, lo lắng. Chưa bao giờ nàng cảm thấy vững tin, sung sướng và thỏa mãn như vậy. Chàng vừa hôn nàng vừa nói: - Judith ạ! Anh có rất ít thời gian. Lẽ ra anh không được đến đây. Nhưng anh cần phải gặp em! Hãy để cho anh ngắm em. Ôi! Sao mà em xinh đẹp thế? Hơn cả trong trí tưởng tượng của anh! Nép sát vào người chàng một cách tuyệt vọng, nàng nói là không thể nào để anh lại ra đi được nữa: - Ôi! Anh John! Em yêu anh biết chừng nào! - Được nghe em nói như vậy, tuyệt lắm rồi. Anh lo sợ quá, mặc cho hai gia đình chúng ta bất đồng, không sao cả phải không em? Không vì thế mà chúng ta kém phần yêu nhau… Chàng luồn một cánh tay choàng qua thân hình nàng, và hai người chậm bước đi trên bờ sông. Bầu trời xanh ngắt, loáng thoáng những đám mây lớn ngưng đọng như sau một gợn sóng; không khí ẩm ướt tỏa trùm lên khắp vùng. Hai bên bờ sông chi chít những cây trăn và cây liễu xanh um, những bông lay-ơn trắng đang nở. Sau cùng chàng nói: - Judith ạ! Anh không tin là chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng đâu. Nó còn có thể kéo dài đến hàng năm cũng chưa biết chừng. - Hàng năm kia à, anh John! Không thể thế được! Chúng ta sẽ già mất ngay cả trước khi bắt đầu cuộc sống!… Đột nhiên nàng nắm cánh tay anh: - … Anh John! Cho em đi theo với! - Thấy John định ngắt lời, nàng liền vội nói tiếp - Em sẽ sống ra sao chẳng cần. Em biết là có nhiều phụ nữ khác đã theo chồng ra ngoài mặt trận, em cũng có thể làm như thế được. Em không sợ gì cả! Em… - Em Judith thân yêu của anh! - Giọng chàng van nài, đôi mắt đẹp của chàng đầy sợ hãi - Chúng ta không thể nào cưới nhau bây giờ được. Trên đời này anh còn mong gì hơn là có em! Đúng là có những phụ nữ theo chồng ra trận, nhưng không phải là những người như em. Không, em ạ! Chúng ta phải chờ đợi, không thể làm khác được. Chiến tranh một ngày kia sẽ kết thúc, không lẽ kéo dài vĩnh viễn… - Nhưng anh John! - Nàng cay đắng phản đối, - rồi chúng ta sẽ ra sao? Nếu nhà vua thắng trận, hoặc nếu Nghị viện thắng? Chúng ta…? Ôi, anh John! Em sợ lắm! Tất cả những cái đó rồi sẽ dẫn đến đâu? John quay mặt đi, quai hàm như bạnh ra: - Trời ơi, Judith! Em chẳng hiểu gì cả! Khi kết thúc cuộc chiến, mọi người sẽ ra sao à? Chúng ta sẽ thu xếp cách này hoặc cách khác, anh nghĩ vậy! Bỗng nhiên Judith đưa hai tay lên bưng lấy mặt khóc nức nở. Nàng không tự chủ được vì bị chìm đắm với cảm giác đơn độc trong quá khứ và cả trong tương lai đang chờ đón nàng. John ôm lấy người yêu, dỗ dành và an ủi. - Judith, em! Anh sẽ trở về. Một ngày kia chúng ta sẽ có tổ ấm, chúng ta sẽ là của nhau… - Anh John, một ngày kia! - Nàng ghì chặt lấy anh, nét mặt lộ vẻ sợ sệt, nhưng đôi mắt liều lĩnh - một ngày kia! Nhưng nếu ngày đó lại không bao giờ đến!?… Một giờ sau, anh ra đi và Judith trở về nhà, bình tĩnh và sung sướng, thỏa mãn hơn bao giờ hết. Bây giờ, mặc cho sự việc diễn ra như thế nào, bên nào được hoặc thua, họ cũng đã thuộc về nhau rồi. Hai người có thể ở xa nhau, nhưng sẽ không bao giờ thực sự xa cách. Cuộc sống đối với nàng đơn giản và có ý nghĩa hơn. Ý nghĩ gặp lại mẹ, nhìn vào mặt bà khiến cho nàng bối rối và lo sợ. Cũng như trước kia, khi nàng còn là một cô bé, mẹ nàng không cần nhìn kỹ vào mặt nàng, bà cũng biết con gái bà có làm điều gì xằng bậy không. Nhưng một khi những ngày đầu tiên đã trôi qua êm xuôi, Judith lại thả mình vào cơn đắm đuối của dĩ vãng. Một tháng sau, có tin phái bảo hoàng thắng một trận lớn và ngài William viết thư cho vợ báo là hòa bình đã sắp đến. Thế là Judith đầy lạc quan tin tưởng, mặc dù mẹ nàng vẫn khư khư với thành kiến cũ một cách cay nghiệt. Chỉ cần chiến tranh chấm dứt thôi, cho dù như thế nào đi nữa, họ cũng cố tìm ra một giải pháp cho hai người, John đã nói như vậy. Và cũng chính lúc này nàng nhận thấy là mình đã có thai. Nàng không dám nghĩ đến điều gì sẽ xảy ra nếu như sự thật bị phát giác. Do thành kiến, cơn tức giận của cha nàng sẽ bùng lên ghê gớm, và ông sẽ tìm đến John để giết chàng. Trước khi cái thai bị lộ, nàng phải tìm mọi cách ra đi, theo John dù chàng ở đâu. Nàng không thể để cho một đứa con ra đời bất hợp pháp, nó sẽ là một vết nhơ không thể nào xóa được cho gia đình nàng. Tháng Chín, ngài William trở về, đầy kiêu hãnh với những câu chuyện về chiến thắng rực rỡ của phe bảo hoàng. Ông quả quyết: - Bọn chống đối nhà vua không thể nào đứng vững được thêm một tháng nữa. Judith không hề nghe thấy một câu nhỏ nào về John. Nàng sốt sắng nghe cha nói, hy vọng ông sẽ nhắc đến tên chàng, hoặc một ám chỉ nào, qua đó nàng sẽ biết chàng vẫn được bình yên. Nhưng ngài William có biết chút gì về John, chắc ông cũng không nói trước mặt con gái mình và mẹ nàng cũng hiểu được sự im lặng đó. Cả hai ông bà đều làm ra vẻ quên John, hoặc không hề biết đến sự tồn tại của chàng. Họ còn báo cho con gái biết là đã chọn được một người chồng cho cô. Người đó là bá tước Radclyffe, Judith đã gặp một năm rưỡi trước đây khi anh ta đến thăm Rose Lawn. Anh ta 35 tuổi, mới góa vợ và đã có một con trai nhỏ. Tất cả những gì nàng nhớ về anh ta, là chẳng có một chút cảm tình nào. Người thấp, vai hẹp, thân hình gầy gò, đầu to xù. Như vậy thì làm sao anh ta có thể chinh phục được một cô gái mười bảy tuổi mà trái tim đã dành cho một chàng trai trẻ, đẹp và khỏe mạnh? Nàng không muốn có một người chồng như thế, ngay cả khi nàng chưa biết John. - Con không muốn lấy chồng, - nàng trả lời và ngạc nhiên về sự liều lĩnh của mình. Cha nàng nhìn nàng trừng trừng, cặp mắt ông ánh lên một cách đáng sợ. Nhưng lúc ông mở miệng định nói thì bà mẹ đã giục con gái đi ra ngoài, bảo là mình sẽ nói với con sau. Sự bướng bỉnh của cô gái làm cho bố mẹ bực mình. Tuy nhiên, hai ông bà vẫn sốt sắng chuẩn bị lễ cưới cho con gái mà không cần hỏi ý kiến cô. Ông bà đinh ninh rằng lấy chồng rồi thì cô sẽ không còn nghĩ đến John nữa, thế gian đều như vậy cả! Tấm áo cưới may cách đây một năm, dành cho đám cưới của cô với John, được mang ra chải chuốt và treo nơi buồng ngủ. Áo may bằng satanh trắng, xung quanh viền những hạt ngọc. Cổ áo lớn và cổ tay áo chạy đăng-ten màu kem, váy xẻ và vén lên phía sau lưng thành váy ngắn sáng loáng màu bạc. Chiếc áo ấy được khâu bằng tay mua ở tận Paris, đẹp và rất đắt; lúc đầu Judith quý nó lắm, bây giờ thì cô chẳng còn buồn thử nữa, và cô còn bảo với người vú bằng một giọng buồn bã, là chẳng bao lâu nó sẽ trở thành cái áo liệm cho mình. Ít hôm sau, bá tước Radclyffe đến. Judith mặc dù đã được mọi người nhắc nhở là phải tỏ ra kính trọng và thân ái, cô vẫn cương quyết từ chối. Cô nằm lì trong buồng và chỉ khóc. Bốn tháng mang thai đã qua, Judith sống trong nỗi lo âu sợ hãi, mặc dù cái váy rộng của cô còn có thể che giấu cái thai trong vài ba tuần lễ nữa. Chính sự lo sợ đã làm Judith hốc hác; cô hay giật mình với mỗi tiếng động bất ngờ, dần dà trở nên thầm lặng, âu sầu và cáu kỉnh. “Ta sẽ ra sao?” Cô thường tự hỏi, ngơ ngác nhìn qua cửa sổ, hi vọng cầu trời cho mình được thấy John, hoặc một sứ giả nào từ trong núi cưỡi ngựa đến cứu cô. Nhưng chẳng thấy gì. Từ tháng Sáu đến giờ, cô chưa được tin tức của John, không biết chàng còn sống hay chết! Mười lăm ngày trước hạn ấn định lễ thành hôn của cô, phái Nghị viện đã tấn công một lãnh thổ lớn cách hai mươi dặm về phía đông nam. Bá tước Radclyffe cùng với ngài William vội vã cưỡi ngựa ra đi. Rose Lawn là mảnh đất ranh giới ngăn cách lãnh địa của vương quốc và của phái Nghị viện, nên tin tức về một cuộc tấn công gần như vậy, có một ý nghĩa rất lớn. Ngay từ đầu chiến tranh, khu nhà đã được chuẩn bị cho mọi tình huống, và theo lệnh chồng, bà William đã đề phòng một cuộc bị bao vây. Do dó, việc phụ nữ và cả ông già cũng phải tham gia vào quân đội hàng tuần và hàng tháng liền, không phải là chuyện hiếm. Tất cả những ai biết bà William đều tin chắc là nếu chiến sự lan đến, bà sẽ bảo vệ lãnh địa của bà với bất cứ giá nào. Đêm hôm sau, một trạm gác bỗng nhiên phát tín hiệu báo động. Tưởng giờ đã điểm, những người phụ nữ liền la thét, trẻ con kêu gào còn những con chó thì sủa ầm ĩ. Một phát súng trường nổ vang, người ta không rõ là từ đâu. Judith khoác vội áo rồi nhảy ra khỏi giường chạy đi tìm mẹ. Cô gặp bà ở dưới nhà, đang nói chuyện với một người tá điền và khi thấy con gái, bà liền quay lại đưa cho cô một bức thư niêm phong. Judith tái người, khẽ kêu lên một tiếng; mặc dù trước cặp mắt lạnh lùng và lên án của bà mẹ, cô cũng không thể giấu được nỗi xúc động vì biết ơn và phấn khởi. Đúng là thư của John. Trong khi mẹ cho người tá điền về, Judith bóc phong thư và bắt đầu đọc: “Trong vài ngày nữa, bọn anh sẽ tấn công Rose Lawn. Anh không thể nào ngăn cản được cuộc tấn công này, nhưng anh sẽ cố giúp em và mẹ được an toàn. Em đừng mang gì theo người làm cản trở cuộc hành trình, và đợi anh ở cửa sông vào chập tối mai. Anh không tiện đến đón em được, nhưng anh có một người cần vụ trung thành và anh đã bố trí tất cả để mẹ và em được chăm sóc chu đáo cho đến khi anh tới!” Judith ngước lên, bắt gặp đôi mắt mẹ, vẻ miễn cưỡng, cô đưa bức thư cho bà. Bà liền đọc rất nhanh, bước vội qua buồng và ném nó vào ngọn lửa. Rồi bà quay trở lại với con gái. Bà hỏi: - Thế nào? Cô vụt chạy lại bên mẹ: - Ôi! Thưa mẹ, chúng ta phải đi theo. Ở lại đây mẹ con ta có thể bị giết chết mất. Anh ấy bảo đảm an toàn cho hai mẹ con ta. - Mẹ không có ý định bỏ nhà trong lúc như thế này. Và tất nhiên là mẹ không thể chấp nhận một sự bảo vệ của kẻ thù. Đôi mắt bà lạnh lùng quan sát Judith. Bà có vẻ tự hào, kiên quyết và hơi tàn nhẫn. Bà nói tiếp: - Con hãy chọn đi, Judith, nhưng cần phải thận trọng. Vì nếu con đi, mẹ sẽ nói với bố là con bị bắt. Chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau nữa. Judith toan nói hết sự thật cho mẹ. Nhưng đọc trong đôi mắt bà, cô đã cảm nhận được là không bao giờ bà thông cảm với cô, bà sẽ khinh bỉ và kết tội cô. Chính cô phải tự quyết định lấy, và một khi đã quyết định rồi thì không còn có thể giải thích được nữa. Chỉ mang theo một bộ quần áo để thay đổi và một ít đồ trang sức, Judith từ giã Rose Lawn. Suốt đêm, cô đi với người cần vụ và sáng sớm hôm sau tới một cái trại trong lãnh thổ do quân của phái Nghị viện chiếm đóng. Cô được giới thiệu với Sarah và Matthew Goodegroome dưới cái tên là Judith St. Clare, vợ của John St. Clare, cô phải bỏ nhà ra đi vì sự xích mích giữa gia đình cô với chồng. Mặc dù không biết rõ nguồn gốc, Sarah cũng cho Judith là một phụ nữ danh giá: Judith, vâng theo lời dặn dò của John, không nói gì hơn. Khi nào chiến tranh kết thúc, John sẽ trở về và tất cả sẽ được giải thích. Trong khi chờ đợi, Sarah giới thiệu với mọi người trong làng, Judith là em ruột mình, đến ở đây vì chiến sự đang diễn ra gần nhà. Ở Sarah có cái gì như là chắc chắn, là độ lượng và sôi động, đem lại cho Judith niềm tin và cô lại lạc quan yêu đời. Hai người trở thành đôi bạn thân, và Judith cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Mỗi một khi có thể, John lại gửi cho cô một lá thư, nói rằng anh sẽ trở về sớm nếu hoàn cảnh cho phép. Có một lần, anh nói vắn tắt là Rose Lawn vẫn giữ vững được. Nhưng đối với Judith lúc này, cha mẹ, gia đình chỉ còn là ảo ảnh. Cuộc sống của cô hoàn toàn phụ thuộc vào trại ấp và những người bạn mới, vào những dòng suy nghĩ và những giấc mộng của cô, lúc nào cũng tơ tưởng đến John, và nhất là tới cái thai cô đang mang trong bụng. Thoát khỏi những nỗi lo lắng và sợ hãi, lúc này người ta tưởng cô, mà cô cũng tự cho là thế, là một người phụ nữ có chồng đáng kính trọng, cô càng ngày càng trở nên sung sướng và xinh tươi hơn. Cái thai vẫn tốt, nhưng cô mong chờ ngày mà cô sẽ đem lại cho John một đứa con trai, không bao giờ cô nghĩ đứa bé là con gái… Judith lại tiếp tục cựa quậy, nàng mơ hồ cảm thấy những cơn co rút bắp thịt ở tay, chân. Đôi mắt nàng đã mờ như đang mở mắt dưới nước. Nàng không ý niệm được thời gian đã trôi qua bao lâu. Sarah vẫn xoa bóp bụng nàng với những ngón tay mạnh và thành thạo, vẻ mặt chị căng thẳng, nhễ nhại mồ hôi. Judith mơ màng nghĩ thầm: “Mình phải bảo chị ấy nghỉ tay mới được, chị ấy mệt lắm rồi!” Nàng nghe tiếng đứa bé khóc và sực nhớ ra là con gái. “Ta chưa bao giờ nghĩ đến việc đặt tên cho nó: là Judith, hay Anne… hay có thể Sarah…!” Rồi nàng nhẹ nhàng nói: - Chị Sarah ạ! Em nghĩ là em sẽ gọi nó là Amber[1]… màu xanh hổ phách của đôi mắt bố cháu ấy… Nàng sẽ cử động để cố làm giảm cơn đau đang co thắt hai chân. Hai tay Sarah bỗng ôm lấy mặt khóc nức nở. Không chút lưỡng lự, một người phụ nữ khác vội cúi xuống tiếp tục xoa bóp bụng cho sản phụ. - Sarah! - Judith thì thào, giọng thổn thức - Sarah! Em, em muốn… Từ từ, dồn hết sức lực, nàng rút tay từ dưới chăn ra, giơ về phía bạn và nhận thấy bàn tay mình đầy máu tươi. Nàng ngắm nhìn nó một cách bất lực, rồi phút chốc nàng hiểu vì sao nàng bỗng thấy dễ chịu kỳ lạ, như vừa được tắm nước nóng. Đôi mắt hãi hùng vụt mở to, Judith kêu lên giọng thất thanh như van nài: - Chị Sarah! Sarah quỳ xuống, mặt méo đi vì quá xúc động. - … Chị Sarah! Chị Sarah! Giúp em với, em chưa muốn chết đâu!… Những người phụ nữ khác cũng đều thổn thức, còn Sarah thì đã trấn tĩnh và gượng cười: - Không sao đâu, Judith! Việc gì mà sợ. Một tí máu có hề chi! Nhưng chỉ một lúc sau, nỗi lo sợ làm nét mặt chị rúm ró và chị lại khóc, không thể nào trấn tĩnh lâu hơn nữa. Trong vài giây, Judith nhìn những cái đầu cúi gục, hai vai rung lên vì nấc; nàng cảm thấy trong người trào lên một niềm tức giận, tuyệt vọng và hãi hùng. Nàng tự nhủ: “Mình không thể nào chết được! Không thể chết! Mình phải sống!” Nàng cố gượng nói thêm với Sarah: - Chị Sarah! Sarah!… Đừng để cho em chết…! Nhưng nàng không còn nghe thấy tiếng mình nói, cũng không biết cặp môi mình đang mấp máy. Dần dà, nàng cảm thấy mình đang bồng bềnh trôi về một thế giới ấm áp và dễ chịu, không còn sợ hãi, trong đó John và nàng lại gặp nhau. Bây giờ, nàng không trông thấy gì, hai mắt nhắm nghiền, tiếng ù ù trong tai che lấp mọi tiếng động khác. Nàng không thể chống cự, đành buông mình cho một cơn mệt nhọc kéo dài triền miên. Rồi bỗng nhiên nàng nhận thấy tiếng khóc của con gái nàng vừa to, vừa rõ. Tiếng khóc đó dồn dập lặp đi lặp lại rồi yếu dần và mờ đi… PHẦN MỘT 1660 I L àng Marygreen không hề thay đổi trong mười sáu năm nay. Ban ngày yên tĩnh và nóng, trời xanh biếc, loáng thoáng những vệt mây trắng dài như có một cái chổi lông quét lên tấm tranh vẽ màu còn tươi. Không khí ẩm ướt của tiết xuân toát lên một mùi dễ chịu quen thuộc. Mặt đường cái lố nhố những bầy gà, ngỗng và chim sẻ. Một em gái nhỏ đứng trước hàng rào, hai tay ôm một con thỏ đã thuần tính. Trời đã quá trưa, người lớn đều bận công việc nên những kẻ lang thang trong lúc này là những con chó, mấy con mèo đang nô giỡn và một vài đứa trẻ còn nhỏ quá chưa giúp ích được việc gì. Một người đàn bà tay xách giỏ đi trên đường, dừng lại nói chuyện với một người đàn bà khác đang nâng cái khung cửa sổ lên và cúi xuống giữa những cây hồng leo. Túm tụm xung quanh một cây thánh giá của làng, do phép thần kỳ đã thoát khỏi tay bọn lính của Cromwell, là tám cô thiếu nữ của các ấp trại vùng xung quanh, được các bậc cha mẹ giao cho việc trông coi đàn súc vật đang ăn trên cánh đồng cỏ công cộng, không được để một con dê, một con bò hoặc một con cừu nào lạc đàn hay bị bắt trộm. Mấy cô trẻ nhất đang tập đồng ca bài “Từ đây đến Babylon còn bao xa?”, nhưng có ba cô lớn tuổi hơn đang chuyện trò một cách sôi nổi, hầu như giận dữ nữa. Hai nắm tay để lên đùi, họ nhìn về phía thửa ruộng bên kia có hai anh thanh niên cử chỉ ngượng ngùng, hai tay đút túi, lắc lư chân bên này sang chân bên nọ, đang nói chuyện say sưa với một thiếu nữ có lẽ đấy là nguyên nhân gây ra sự lúng túng cho hai cậu, nhưng bóng hai người lại che khuất mặt cô gái đối thoại. - Cái con ranh con Amber St. Clare ấy! - Cô lớn nhất nói - khi có bóng một đứa con trai nào ở đâu là y như có mặt nó ở đó! Có lẽ nó đã đánh hơi thấy trai từ xa! - Lẽ ra nó phải được lấy chồng và đẻ con từ một năm nay rồi kia đấy, mẹ tớ bảo thế! Cô gái thứ ba mỉm cười vẻ tinh quái và bô bô như là điều dĩ nhiên: - Ồ! Có thể là nó chưa lấy chồng, nhưng nó đã bị… - Suỵt! - Cô gái thứ nhất vội ngăn bạn và dùng đầu chỉ những đứa gái nhỏ. - Việc quái gì! - Cô kia phản đối nhưng cũng hạ thấp giọng và sau cùng chỉ còn là những tiếng thì thầm: - Anh tớ nói rằng Bob Starling đã kể là nó đã hiến thân cho anh ấy hôm chủ nhật vừa rồi đấy! Nhưng Lisbeth, cô gái đã mở đầu câu chuyện, búng các ngón tay một cách khinh bỉ: - Chuyện bịa, Gartrude! Jack Clarke cũng kể như thế cách đây đã sáu tháng mà hôm nay con ranh con ấy chẳng thấy phềnh ra hơn lúc đó chút nào. Gartrude như đã sẵn có câu trả lời: - Thế cậu có muốn biết tại sao không, Lisbeth? Bởi vì có thể nó đã nhổ nước bọt ba lần vào miệng một con ếch… thế đấy! Maggie đã trông thấy nó làm thế mà! - Thôi đi! Mẹ tớ nói rằng chẳng ai có thể nhổ được nước bọt ba lần vào miệng một con ếch! Nhưng cuộc tranh luận đột nhiên bị ngừng lại. Vì có tiếng vó ngựa vừa vang lên trong cảnh tĩnh mịch của cái thung lũng nhỏ bé này, và một đoàn người cưỡi ngựa xuất hiện ở ngã ba đường, đang phóng dọc theo con phố hẹp. Một em bé gái sáu tuổi thét lên vì khiếp sợ chạy vội đến nép mình vào người Lisbeth. - Lão Noll đấy! Lão từ địa ngục trở về để mang chúng ta đi. Mặc dù đã chết, Oliver Cromwell vẫn còn gây được những tác động tinh thần có hiệu lực đối với bọn trẻ không muốn vâng lời bố mẹ. Đoàn kỵ sĩ ghì cương làm cho những con ngựa của họ đứng sững lại cách nhóm các cô gái chừng mười bước. Các cô lúc đầu còn lo sợ, sau chuyển sang thái độ thành thật thán phục. Có tất cả mười bốn người, nhưng già nửa là đầy tớ hoặc người đưa đường, vì họ mặc quần áo dân thường và kín đáo đứng xa những người kia một khoảng. Những người này, khoảng sáu người, rõ ràng là thuộc giới thượng lưu. Tóc họ cắt đến ngang vai theo kiểu kỵ sĩ, quần áo rất hào nhoáng, bằng nhung đen hoặc đồ sẫm, hoặc bằng sa tanh xanh với những cổ áo lớn màu trắng, những chiếc sơ mi bằng lanh rất đẹp. Họ đội mũ vành rộng, trang điểm thêm chiếc lông cong vút, các tấm áo choàng kỵ sĩ thì khoác ở vai. Những đôi ủng cao của họ bằng da có gắn những đinh thúc ngựa bằng bạc, mỗi người đều kè kè một thanh gươm bên sườn. Rõ ràng là họ vừa mới rong ruổi cật lực qua một chặng đường dài, - vì quần áo của họ đầy bụi bặm và trên mặt họ lấm tấm những vết bẩn cùng mồ hôi. Nhưng với cặp mắt các cô gái, họ có một vẻ gì lớn lao, đáng sợ. Một người trong bọn họ ngả mũ ra nói với Lisbeth có thể là vì cô xinh nhất, với một vẻ từ tốn, nhã nhặn cả trong cặp mắt cũng như trong giọng nói; anh ta ngắm nghía cô gái từ đầu đến chân làm cho Lisbeth vô cùng lúng túng. - Thưa cô, chúng tôi muốn tìm một nơi để ăn trưa. Gần đây có quán nào tốt không? Lisbeth trợn tròn mắt nhìn ông khách, miệng há hốc không nói được lời nào, nhưng anh ta vẫn mỉm cười với cô, bàn tay bình tĩnh để trên đốc yên. Quần áo anh ta bằng nhung đen, với một cái áo chẽn ngắn. Tóc đen, cặp mắt xanh xám, ria mép đen nhỏ viền vành môi trên. Rõ ràng anh ta có dáng người to lớn, nhưng cái nổi bật ở anh chính là nét mặt rắn rỏi, từng trải chứng tỏ anh đúng là một nhà quý tộc, nhưng là một kẻ giang hồ, một tay ăn chơi lang bạt khét tiếng. Lisbeth nuốt nước bọt, khẽ nghiêng mình chào rồi trả lời: - Thưa ngài, có lẽ quán Three Cups ở Heathstone thích hợp với các ngài hơn. Cô không dám giới thiệu cái làng nghèo nàn của mình với các vị khách quyền quý này. - Đây đến Heathstone còn xa không? - Để cái Heathstone ấy cho quỷ sứ! - Một người cùng đi lên tiếng - Ở đây tồi tàn lắm sao? Không được ăn gì mà phải đi thêm một dặm đường nữa thì tôi chỉ có mà lăn xuống chân con ngựa này mất thôi! Đó là một chàng trai tóc hung, hai má đỏ, mặc dù vẻ không bằng lòng, cũng rất tươi tắn và hồn nhiên. Các bạn anh đều phá lên cười. Một người trong bọn họ đấm vào vai anh ta và nói: - Trời ơi! Sao mà chúng ta khốn khổ đến thế này! Almsbury chưa được một miếng nào vào dạ dày kể từ sáng nay khi anh ta chỉ mới nuốt hết nhẵn một cái đùi cừu để lót dạ. Họ lại cười rộ lên. Tính háu đói của Almsbury đã là một trò đùa cho các bạn anh. Các cô gái đều phụ họa theo. Bây giờ các cô đã thấy thoải mái, và em bé sáu tuổi, đã tưởng những tín đồ Thanh giáo ấy là những con ma, lúc này đã rời khỏi Lisbeth và tiến lại gần vài bước. Một sự kiện lại bất ngờ xảy ra làm thay đổi đột ngột tình hình đang diễn ra giữa những kỵ sĩ và các cô gái. - Thưa các ngài! Quán của chúng tôi ở đây không chê vào đâu được! Giọng nói lanh lảnh của một thiếu nữ vang lên: cô gái lúc nãy nói chuyện với hai thanh niên nông thôn, đã băng qua cánh đồng chạy đến. Các cô gái kia sững sờ, tỏ ra thủ thế, còn các kỵ sĩ thì lại nhìn cô thiếu nữ mới đến với vẻ ngạc nhiên thích thú. Cô nói tiếp: - Bà chủ quán ở đây chế rượu bia ngon nhất vùng này đấy ạ! Cô khẽ nghiêng mình chào Almsbury, rồi đôi mắt cô bắt gặp đôi mắt người kỵ sĩ, anh chàng này cũng ngắm nhìn cô với vẻ chiêm ngưỡng và thán phục. Trong một lúc, thời gian như ngừng trôi. Cô Amber St. Clare giơ cánh tay chỉ về phía cuối phố, một cái biển lớn cũ kỹ, trong đó hình con sư tử còn sáng chói dưới ánh mặt trời. - Thưa ngài, ở ngay bên cạnh cái lò rèn đấy ạ! Tóc cô màu mật rơi lòa xòa xuống hai vai, khi cô ngẩng mặt lên nhìn anh, đôi mắt trong sáng màu hổ phách của cô như hơi cụp xuống ở hai bên khóe. Lông mày đen, rõ nét, cặp mi cong và dày. Người cô toát lên một vẻ tươi thắm, ấm áp, hấp dẫn hầu như đối với bất cứ người đàn ông nào. Có lẽ cô cũng nhận ra điều ấy. Chính cái thứ đó đã làm cho các cô gái khác thèm muốn hơn là sắc đẹp của cô. Ăn mặc cũng như các cô gái kia: một cái váy bằng len thô, một cái khăn trùm trắng, và một cái áo nịt đen bó sát ngực. Chân cô không đi bít tất và mang một đôi giày đen xinh xinh. Tuy nhiên, cô cũng không thể lẫn với các cô gái khác. Rõ ràng là một loài hoa lạ giữa đồng nội, một con công non lạc vào đàn gà. Almsbury cúi mình về đằng trước, hai cánh tay khoanh trên đốc yên, chậm rãi nói: - Nhân danh Chúa Jesus! Cô làm gì ở đây, một nơi khỉ ho cò gáy này? Cô gái rời mắt khỏi người kỵ sĩ kia, nhìn anh mỉm cười, để lộ hàm răng trắng tuyệt đẹp. - Thưa ngài, nhà tôi ở đây ạ. - Trời ơi, tôi biết là thế rồi! Nhưng làm sao mà cô lại đến đây? Cô là ai? Con hoang của một tay quý tộc nào đó gửi nuôi ở nông thôn rồi bị lãng quên từ 15 năm nay, có phải không? Chuyện đó hầu như ai cũng biết, nhưng cô gái vẫn tỏ vẻ tức giận, nhíu cặp lông mày lại, đáp: - Thưa ông, tôi không phải là đứa con hoang. Tôi là con của bố tôi, cũng như ông, hoặc còn hơn thế nữa! Tất cả đoàn kỵ sĩ, kể cả Almsbury, cười thoải mái về câu đối đáp đó, anh nói: - Không có gì là xúc phạm đâu, cô bé thân mến ạ! Tôi chỉ muốn nói là cô chẳng có vẻ gì giống một thôn nữ mà thôi! Cô mỉm cười với anh như để xin lỗi về lời nói kém nhã nhặn vừa rồi, nhưng rồi cặp mắt của cô đã vội quay sang phía người kỵ sĩ kia. Anh ta vẫn chăm chú nhìn cô làm cô ấm lòng và hãnh diện. Các kỵ sĩ cho ngựa quay nửa vòng và khi anh ta đi qua trước mặt cô, anh gật đầu tỏ dấu thân mật. Almsbury ngả mũ chào cám ơn và đoàn người ngựa đi về phía quán ăn. Các cô gái đứng yên lặng một lúc nhìn họ xuống ngựa đi vào quán trong khi các cậu con trai nhỏ của chủ quán chạy ra dắt ngựa. Khi họ đã đi khuất, Lisbeth liền thè lưỡi ra với Amber và nguýt cô một cái rồi nói, giọng đắc thắng: - Này! Hay hớm nhỉ, đồ gái lắm mồm! Amber cũng lườm lại làm Lisbeth cụt hứng và kêu lên: - Ai khiến nhúng mõm vào? Cặp mắt hai cô gái nhìn nhau chòng chọc, rồi Lisbeth quay đi chạy qua cánh đồng đến chỗ các cô tập trung đồ nghề. Các cô gái kia đang nô đùa bỗng dừng lại và tất cả vội vã trở về nhà cho bữa cơm chiều. Mặt trời đã lặn, phía chân trời đỏ rực, còn bầu trời trên cao thì nhuốm màu xanh thẳm. Đó đây một vài ngôi sao xuất hiện; không gian đầy vẻ huyền diệu của buổi hoàng hôn. Tim còn hồi hộp, Amber quay về nơi để giỏ đồ trong đám cỏ. Hai anh thanh niên nông thôn đã đi rồi. Nhặt giỏ lên, Amber lững thững đi về phía quán trọ. Trong đời mình cô chưa bao giờ gặp một người nào giống như người đó. Quần áo chàng, giọng nói chàng, ánh mắt chàng, tất cả đều toát lên một vẻ như muốn thoát sang một thế giới khác, và cô thấy khao khát được gặp lại chàng, dù chỉ trong khoảnh khắc. Tất cả còn lại, nơi cô trú ngụ, cái ấp trại của bác Matt, những thanh niên mà cô quen biết, tất cả lúc này đối với cô đều rất tẻ nhạt và đáng ghét nữa. Sau khi nói chuyện với người thợ giày trong làng, cô được biết họ đều là những người thuộc giới thượng lưu. Nhưng họ đến đây làm gì, ở cái làng Marygreen này? Cô không sao tưởng tượng nổi. Bởi vì trong những năm gần đây, các kỵ sĩ đều phải hết sức náu mình, hoặc đã phải đi theo con vua, là Charles II, lúc này đang bị đày ra nước ngoài. Người thợ giày đã từng chiến đấu trong cuộc nội chiến, kể cho cô về những điều ông đã nghe và trông thấy. Ông nói là ông đã gặp vua Charles I ở Oxford, đã gần người như có thể sờ được vào người. Ông nói về vẻ đẹp của nhà vua, về sự vui vẻ của các bà cung phi; về lòng dũng cảm của những người đàn ông. Đó là một cuộc sống đầy màu sắc, thân tình và lãng mạn. Nhưng cô không được trông thấy gì vì tất cả đều kết thúc từ hồi cô còn bé con, ngày mà hoàng thượng bị chặt đầu ngay trong sân hoàng cung. Đó là một cái gì thuộc về môi trường mà người lạ mặt có mái tóc đen vừa rồi đã mang theo, không phải là những người kia, vì cô có để ý đến họ đâu, hơn thế nữa, một cái gì hoàn toàn có tính chất cá nhân. Cô bỗng có cảm giác như mình được sống đầy đủ và thoải mái. Tới quán, cô không vào bằng cửa trước, mà đi vòng ra phía sau, nơi có một em bé đang ngồi trên bậu cửa chơi với một con chó con có đôi tai cáo. Cô bước vào xoa đầu em. Trong bếp, bà Poterell đang bận rộn tíu tít. Trên thớt là một khoanh thịt bò sống, cô gái con bà chủ đang nhồi vào đấy bột mì trộn với hành tỏi. Một cô gái khác đang vội vã kéo nước nơi cái giếng trong góc bếp. Amber thu xếp để Poterell chú ý đến mình, bà đang tất tả đi từ đầu phòng đến cuối phòng, cái tạp dề của bà bọc đầy trứng. - Thưa bà Poterell, đây là chiếc bánh ngọt Hòa Lan mà bác Sarah của cháu gửi đến cho bà. Sự thật không phải thế, bác Sarah đã gửi chiếc bánh đó cho vợ người lò rèn, nhưng Amber đã tự nhủ là nên đưa đến đây thì tốt hơn. - Ôi! Cám ơn em vô cùng, em thân mến ạ! Bác chưa bao giờ gặp tình trạng như thế này. Sáu ông khách quý tộc cùng một lúc đến nhà bác. Trời ơi! Tôi biết làm thế nào bây giờ? Vừa nói bà vừa đập những quả trứng vào trong một cái bát lớn. Meg, một cô gái 15 tuổi, lúc đó vừa chui từ dưới hầm lên, người đầy bụi, hai tay nắm chặt những cái chai xanh. Amber chạy đến nói: - Meg đây rồi, để tôi giúp cho! Cô cầm lấy năm cái chai đi vào phòng bên, dùng đầu gối đẩy nhẹ cánh cửa, cặp mắt cúi xuống làm ra vẻ chú ý vào các cái chai. Các chàng kỵ sĩ đang đứng trong phòng. Họ đã bỏ áo khoác ra nhưng vẫn còn đội mũ. Almsbury trông thấy khi cô vừa xuất hiện, anh tươi cười chạy lại: - Thế nào, em thân mến… để tôi đỡ cho đã. Vậy là ở đây người ta cũng chơi cái trò cổ lỗ sĩ ấy à? - Thưa ngài, trò nào ạ? Anh cầm lấy ba chai, và Amber để hai chai kia xuống bàn, rồi cô ngẩng mặt lên mỉm cười với anh. Nhưng lập tức cô lại đưa mắt tìm người kia đang đứng cạnh cửa sổ với hai người bạn và ném những con xúc xắc xuống góc bàn. Anh chàng ấy không quay mặt lại nhìn cô, anh ném một đồng tiền xuống trong khi hai người bạn búng ngón tay vì vừa thắng ván bạc. Ngạc nhiên và phật ý - vì cô muốn chàng trông thấy mình ngay, hoặc là còn trông mình nữa, - cô lại quay về phía Almsbury. Anh nói: - Phải! Đó là một trò chơi cũ rích nhất thế giới. Có một cô hầu bàn xinh đẹp để chài các khách hàng cho đến khi họ cháy túi. Tôi đánh cuộc là cô đã lôi kéo và làm phá sản ít ra một thằng con trai chủ ấp! Anh mỉm cười và cầm lấy một chai, mở nút đưa lên môi. Amber mỉm cười đáp lại một cách láu lỉnh và nhõng nhẽo với hi vọng là anh chàng kia sẽ quay lại thấy mình: - Ôi! Thưa ông, tôi không phải là hầu bàn ở đây. Tôi chỉ đến đây để mang cho bà Poterell một chiếc bánh ngọt và giúp Meg mang rượu lên cho các ông. Almsbury chỉ tu vài ngụm đã gần hết chai; anh reo lên giọng tán thưởng: - Thế à! Vậy cô là ai? Tên cô là gì? - Amber St. Clare, thưa ông. - Amber nghĩa là hổ phách! Không bao giờ một người nông dân lại nghĩ đến một cái tên như vậy! Cô cười và lén nhìn sang bên kia, nhưng anh chàng vẫn còn mải mê với món xúc xắc. - Bác Matt tôi cũng nói như thế, bác bảo tên tôi cần phải là Mary, Anne; hoặc Elizabeth. Almsbury lại tu vài ngụm nữa và chùi mép bằng mu bàn tay. - Bác cô không phải là người giàu trí tưởng tượng! - Thấy cô lại nhìn về phía những người đang đánh bạc, anh hất đầu về phía sau và cười, nói tiếp - Vậy là cô muốn phía ấy phải không? Nào, lại đây! Anh cầm lấy cổ tay cô gái, kéo đi ngang qua phòng. Khi tới gần nhóm chơi bạc, anh nói: - Carlton này, đây là một cô gái đang muốn ngủ với cậu! Carlton quay lại, nhìn Almsbury với vẻ đồng lõa và mỉm cười với Amber. Amber không nghe thấy câu nói và nhìn chàng với cặp mắt to sáng ngời. Cô cao không quá năm feet ba foot, một tầm vóc cũng đã khá cao, thế mà chàng còn vượt hơn cô ít nhất một feet. Cô chỉ nghe thấy quãng mở đầu của Almsbury… - Một người mà tôi rất quý trọng mặc dù hắn đã cướp của tôi mất hết cả những cô gái đẹp mà tôi để ý tới… đây là Bruce Carlton. Amber nghiêng mình chào, chàng cúi đầu ngả mũ một cách kính cẩn như đối với một quận chúa. - Tất cả chúng tôi đều trở về với đức Vua, - chàng nói. - Với đức Vua? Hoàng thượng đã trở về chưa? - Người trở về… cũng sắp sửa, - Bruce Carlton nói. Với tin đặc biệt ấy, Amber hết cả bối rối, bởi vì nếu như trước kia người ta có cảm tình với phái Nghị viện, họ cũng đã dần dần, như tất cả mọi người khác, bắt đầu luyến tiếc chính thể quân chủ và những lối sống cũ. Từ khi ám hại nhà vua, các bầy tôi lại đâm ra yêu mến vua hơn bao giờ hết, và họ mang tình yêu ấy đặt vào người kế vị vua. - Trời! - Amber thở dài - sự kiện vĩ đại làm sao để mà thực hiện ngay lập tức, nhất là trong những trường hợp như thế này! Carlton cầm lấy một chai rượu mà Meg vừa để lên bàn, dùng lòng bàn tay chùi bụi trên miệng chai, mở nút và bắt đầu tu. Amber tiếp tục nhìn chàng trừng trừng, vừa kính cẩn sợ hãi, vừa thán phục. Chàng nói với cô: - Chúng tôi đi tới Luân Đôn, nhưng một con ngựa cần phải đóng móng lại. Cái quán này thế nào? Có thể trọ đêm ở đây được không? Liệu chủ quán có định ăn trộm của chúng tôi không? Có rận rệp gì không? Vừa nói chàng vừa nhìn cô, và vì một lý do mà cô không thể hiểu tại sao trong cặp mắt chàng sáng lên một ánh tinh nghịch. Cô bực tức kêu lên: - Ăn trộm của các ông à? Bà Poterell không bao giờ ăn trộm của ai cả! Đây là một quán trọ tuyệt vời. Cái ở Heathstone không thấm với đây! Hai người quý tộc cười, Almsbury nói: - Thôi! Dù chủ quán có xoáy trộm của chúng tôi những đôi giày, dù có nhiều rận rệp như cỏ ngoài đồng, thì nó vẫn là một quán trọ bên nước Anh và mẹ kiếp! Một cái quán tốt! Anh nghiêng mình chào rồi bỏ hai người, để đi kiếm một chai rượu khác. Amber có cảm giác như toàn thân mình tan ra. Cô lặng người ngắm chàng, bực mình vì sự sững sờ đã làm lưỡi cô cứng lại không nói được. Tại sao cô là người lúc nào cũng sẵn sàng một câu đối đáp với mọi người mặc dù ở tuổi nào hay địa vị nào, thế mà lúc này cô không tìm được một câu nào để nói cả? Cô đang tuyệt vọng tìm một câu làm cho chàng phải để ý, phải chia sẻ sự khích động và sự ngưỡng mộ mà cô cảm thấy. Thất vọng, cô nói luôn ngay một câu mà cô chợt nghĩ: - Ngày mai ở Heathstone tổ chức hội chợ tháng Năm. - Thật à? Cặp mắt chàng cúi xuống nhìn vào bộ ngực đầy đặn và tròn trĩnh của cô. Đó là một cô gái đã sớm tới tuổi trưởng thành, mọi dấu vết niên thiếu không còn nữa. Amber cảm thấy máu trào lên cổ và lên mặt, cô vội nói thêm: - Đó là một hội chợ đẹp nhất vùng này. Các nông dân từ hai mươi dặm đường xa cũng tới. Cặp mắt của hai người lại gặp nhau, chàng mỉm cười dướn cặp lông mày lên như rất thú vị về cuộc đi chơi địa phương ấy, rồi tu nốt chai rượu. Cô ngửi thấy trong hơi thở của chàng có mùi rượu, mùi đàn ông nặng nề trong bộ quần áo, lẫn với mùi da của đôi ủng. Thứ mùi hỗn hợp ấy gây cho cô cảm giác choáng váng, gần như bị ngộ độc, và một sự thèm muốn xác thịt nổi lên trong lòng. Câu nói của Almsbury lúc nãy không có gì là quá đáng. Lúc này chàng nhìn qua cửa sổ: - Đêm đã bắt đầu xuống rồi, cô nên về đi. Nói xong chàng đi ra, mở cửa trước mặt cô. Trời tối rất nhanh, nhiều ngôi sao đã xuất hiện. Mặt trăng lưỡi liềm cao tít, mảnh mai và trong suốt. Một ngọn gió mát mẻ nổi lên. Chỉ có hai người ở bên ngoài, xung quanh là những tiếng cười nói từ trong quán lọt ra. Nông thôn yên tĩnh vang lên những tiếng dế, tiếng ếch nhái xa xa, tiếng vo ve của những con muỗi. Cô ngước mắt lên nhìn chàng, mặt cô trắng bệch như sáp. - Mai ông đến hội chợ chứ? Cô chỉ sợ không được gặp lại chàng. - Có thể, nếu tôi có thì giờ. - Ôi! Em van ông! Nó ở ngay trên đường cái mà các ông sẽ đi qua. Ông sẽ dừng lại nhé? Giọng nói và cặp mắt van nài hộ cô. Chàng dịu dàng nói, và lần đầu tiên giọng nói của chàng đượm vẻ trang nghiêm: - Sao mà em đẹp thế! Hai người nhìn thẳng vào mặt nhau một lúc rồi vô tình Amber cúi xuống chàng, hai mắt nhắm lại. Chàng vòng tay ôm lấy người cô và kéo cô lại, cô cảm thấy những bắp thịt rắn chắc của chân chàng. Đầu cô ngửa ra phía sau, miệng hé ra để chờ đón một cái hôn. Mãi một lúc lâu sau chàng mới buông cô ra, cô còn cho là sớm quá và cảm thấy thất vọng. Mở mắt ra cô thấy chàng đang nhìn cô hơi ngạc nhiên. Nguyên nhân là ở cô hay ở chàng? Cô cũng không biết nữa. Không gian đối với cô như vừa mới bùng nổ. Cô cảm thấy choáng váng như vừa bị một đòn mãnh liệt, và tất cả sức lực của cô như đã biến mất. Cuối cùng chàng nói: - Em thân mến, em phải về đi thôi. Gia đình em chắc lo lắng lắm khi thấy em ra ngoài quá khuya. Cô định nói với chàng: “Em chẳng cần về nhà. Em chỉ nghĩ đến anh. Ôi! Xin anh cho em ở lại đây và ra đi với anh, ngày mai…” Nhưng có cái gì ngăn lại không cho cô nói thế. Có thể là hình ảnh cô Sarah, thường ở trong trí cô, cô Sarah chau mày, băn khoăn bối rối. Nét mặt nghiêm nghị, phúc hậu và trách mắng của bác Matt. Tốt hơn là không nên tỏ ra quá liều lĩnh như vậy, vì sau đó chàng có thể sẽ khinh cô. Cô Sarah vẫn thường bảo là bọn đàn ông không thích những phụ nữ không biết bẽn lẽn. - Nhà em ở cách đây không xa mấy, qua vài cánh đồng là đến. Cô hi vọng chàng sẽ tiễn cô về, nhưng không thấy chàng làm gì cả; sau vài giây chờ đợi, cuối cùng cô đành nghiêng mình chào: - Ngày mai em sẽ đợi ông! - Có thể ngày mai tôi sẽ đến. Chúc em ngủ ngon. Chàng gật đầu chào với một nụ cười kèm theo là một cái nhìn xoáy vào cô từ đầu đến chân, rồi chàng đi vào trong quán. Amber còn đợi một lát nữa, như đứa trẻ bị lạc. Cô chạy đi, còn ngoái đầu lại một lần nữa, nhưng chàng đã biến mất. Cô đi dọc con phố hẹp, qua trước cửa nhà thờ, cô rảo bước đi dọc theo nghĩa địa nơi an táng mẹ, cô rẽ sang phải, đi tắt qua một cánh đồng dẫn đến trại Goodegroome. Bình thường đi đêm ngoài đường cô rất sợ, nhưng lúc này cô chẳng thấy sợ ma hay phù thủy. Tâm trí cô còn chất đầy những vấn đề khác. Chưa bao giờ cô trông thấy một người giống như chàng, và cũng không nghĩ là có một người như vậy. Chàng là tượng trưng cho tất cả những người quý tộc đẹp đẽ, dũng cảm mà ông thợ giày đã tả và còn được tô điểm thêm trong những giấc mộng của cô. Bob Starling, Jack Clarke chỉ là hai kẻ thô lỗ! Cô tự hỏi không biết lúc này chàng có nghĩ tới mình không. Cô tin là có. Không một người đàn ông nào đã hôn một người đàn bà một cách như thế, lại có thể quên ngay được. Cô tự nhủ, cái hôn đó, thay vì vấn đề khác, sẽ dẫn chàng đến hội chợ ngày mai, sẽ lôi kéo chàng đến mặc dù chàng không muốn. Cô tự khen mình đã hiểu thấu đàn ông và bản chất của họ đến như thế. Luồng gió ban đêm mát rượi như vừa thổi qua băng tuyết, cánh đồng rải rác những cây ba lá đỏ tía. Amber tiến lại gần phía sau trại, vượt qua một con suối trên một chiếc cầu làm bằng hai mảnh ván ghép lại, đi qua vườn trồng bắp cải, và qua nhiều gian nhà phụ, kho, chuồng ngựa, chuồng bò, tất cả đều quét vôi trắng, mái phủ đầy rêu. Rồi đi theo cái ao nuôi vịt, cô vào trong sân. Ngôi nhà ở được xây dựng hai tầng gác, sườn nhà làm bằng gỗ sến trạm trổ, các bức tường xây bằng gạch đỏ phủ đầy những giàn nho. Các lò sưởi được bao quanh bằng những cây trường xuân và một tấm phên mắt cáo đóng khung cánh cửa bếp trên có đóng một cái móng ngựa để chống bọn phù thủy. Trong sân lát gạch, những cây hoa của cô Sarah mọc dọc theo các bức tường, những hoa viôlet trắng và đỏ tía mọc thành những khóm thấp, những cây hoa hồng, cúc mọc cao đến tận mái nhà. Nhiều cây ăn quả đang ra hoa làm không khí thơm lừng. Trên một cái ghế dài bằng gỗ nhỏ có để hai cái tổ ong phủ rơm… Ngôi nhà ấy có vẻ đẹp của nó: toát lên vẻ thanh bình và gợi cho ta hình ảnh một cuộc sống tích cực và có ích. Nó đã trải qua một thế kỷ và năm đời đã sống ở đó, tuy không giàu có nhưng ấm cúng. Đó là một ngôi nhà của tình yêu. Trước khi bước vào, Amber dừng lại, ôm lấy một con mèo con và vuốt ve bộ lông dày của nó. Bữa ăn tối đã xong và chỉ có mình cô Sarah ở lại trong bếp với con gái, Agnes 15 tuổi. Agnes nói, giọng sôi nổi và đầy uất hận: - Người ta nói đủ chuyện về nó, chẳng có gì là lạ cả. Mẹ ạ, con thề với mẹ là con rất xấu hổ có một đứa em họ như nó. Amber nghe thấy, nhưng cứ thản nhiên như không. Agnes đã nói vậy nhiều lần rồi. Cô bước vào trong buồng với một tiếng reo vui vẻ và chạy đến bá lấy cổ cô Sarah. - Cô Sarah! Cô Sarah quay đầu lại mỉm cười với cháu gái, nhưng cặp mắt cô đầy lo lắng. Amber nói tiếp: - Trong quán đầy những nhà quý tộc. Đức Vua sắp trở về. Vẻ lo lắng của cô Sarah biến mất: - Có thật không cháu? - Thật ạ! - Amber nói với niềm kiêu hãnh. - Các ông ấy đã bảo với cháu thế mà! Amber đầy vẻ trịnh trọng về cái tin cô mới mang về và về những cuộc phiêu lưu mà cô vừa trải qua. Cô tưởng tượng rằng chỉ nhìn thấy cô, ai nấy đều nhận thấy cô đã thay đổi như thế nào so với cách đây hai giờ từ nhà ra đi. Agnes có vẻ thực sự nghi ngờ, và cả khinh miệt nữa, nhưng Sarah chạy ra ngoài đến một cái kho, ở đây có nhiều người đàn ông đang làm nốt công việc buổi tối. Bọn đàn ông liền chạy sang các kho khác và các chuồng ngựa, còn bọn đàn bà lao ra khỏi nhà, vì trong trại có nhiều ngôi nhà nhỏ, những con chó cũng lao theo, sủa lên những tiếng vui vẻ, như chúng cũng muốn tham gia vào cái vui chung của mọi người. Hoàng thượng Charles II muôn năm! Tuần lễ trước ở ngoài chợ người ta đã nghe thấy những tiếng đồn về một cuộc Phục hưng. Tin đồn đó đã lan ra khắp trong nước từ hồi đầu tháng Ba, do những hành khách mang đến, do những người bán rong, do tất cả những ai được tiếp xúc với đại thế giới phương Nam. Tumbledown Dick con trai ông bảo vệ bị đuổi khỏi nơi làm. Tướng Monk đã từ Scotland sang chiếm thủ đô Luân Đôn và triệu tập một nghị viện tự do. Cuộc nội chiến có vẻ như lại sắp bùng nổ giữa các dân chúng và những đạo quân lớn. Tất cả những sự kiện đó đã để lại những lo âu và hi vọng - lo âu và chán nản do những cuộc hỗn loạn liên miên trong suốt hai mươi năm qua, hi vọng về một chính thể quân chủ sẽ mang lại hòa bình và an ninh. Người ta khao khát sự trở lại của những tập quán cũ. Và các kỵ sĩ trở về, như thế có nghĩa là vua Charles cũng trở về, một thời kỳ hoàng kim thịnh vượng, hạnh phúc và hòa bình sắp mở ra. Cuối cùng sau khi sự khích động đã bắt đầu giảm xuống, mọi người ai về công việc nấy, Amber trở về nhà. Ngày mai cần phải dậy sớm để đi hội chợ, cô dự định đi ngủ sớm để lấy sức. Lúc đi qua phòng sữa trước khi vào bếp, cô nghe thấy có tiếng gọi tên mình nhẹ nhàng và khẩn khoản, cô dừng lại. Tom Andrews đứng trong bóng tối giơ tay ra nắm lấy cổ tay cô. Tom là một thanh niên hai mươi hai tuổi làm việc với bác cô, rất mê cô và cô cũng rất thích anh mặc dù cô biết anh không phải là người mà cô mơ tưởng. Mẹ cô đã để lại cho cô của hồi môn, nó cho phép cô có thể lấy được một nông dân giàu có trong vùng, nhưng cô thấy thích Tom và đã khuyến khích anh. Sau khi liếc nhìn không thấy có ai theo dõi, cô bước vào. Cái buồng nhỏ, mát mẻ và dễ chịu, hoàn toàn không có ánh lửa. Tom nắm lấy cô một cách dữ tợn, đưa một cánh tay ôm chặt ngang lưng cô, vừa luồn một bàn tay vào trong coócxê vừa tìm cặp môi cô. Điều này không phải là mới lạ đối với hai người. Amber để cho mình được hôn và được vuốt ve một lúc rồi mới đẩy mạnh anh chàng ra và nói: - Tom, ai cho phép anh quá suồng sã vậy? Cô tự nhủ thầm, cái hôn của một con người tầm thường khác hẳn với của một quý tộc, nhưng Tom tự ái và bực mình tìm cách lại nắm lấy cô: - Sao thế Amber? Anh đã làm gì em? Em làm sao thế? Cáu kỉnh, cô vùng ra và chạy đi. Vì bây giờ cô cảm thấy mình trên hẳn những trò bỡn cợt ấy với những người tầm cỡ như Tom, và chỉ có một ước muốn là về buồng mình, lên giường nằm để tha hồ mà nghĩ đến ngài Carlton và mơ mộng đến ngày mai. Không còn ai ở trong bếp, trừ cô Sarah đang quét thềm lần cuối cùng trước khi đi ngủ. Ba bốn ngọn đèn nến còn sáng, một đám mây muỗi nhỏ đang nhảy nhót xung quanh mỗi ngọn đèn, chỉ có tiếng dế kêu như những tiếng chuông con, là còn khuấy động sự yên tĩnh ban đêm. Bác Matt bước vào, đôi lông mày nhíu lại chẳng nói chẳng rằng, bác bước thẳng đến chum nước, lấy gáo múc và uống thẳng một hơi. Trông ông nghiêm nghị, người tầm thước, làm việc rất hăng, kiếm ăn tốt và yêu mến gia đình. Ông là người có lương tâm và kính Chúa; ông có những ý nghĩ dứt khoát về cái đúng và cái sai, về điều thiện điều ác. Cô Sarah nhìn ông rồi hỏi: - Có gì thế mình? Con ngựa con không sống được chăng? - Không, nó sẽ sống. Đứa con gái ấy! Nét mặt cau có, ông tiến lại cái lò sưởi cao xung quanh để đầy những nồi niêu xoong chảo, cái đen sì, cái bằng đồng bóng loáng, cái bằng thiếc đánh bóng rất kỹ trông cứ như bằng bạc. Những miếng mỡ, giăm bông treo trên xà, trong những túi lưới lớn, cùng với những đôi ủng bằng cỏ to tướng. - Đứa nào? - Cô Sarah hỏi. - Amber ấy à? - Còn đứa nào nữa? Mới cách đây một giờ tôi thấy nó trong phòng sữa bước ra và, một phút sau thằng Tom theo sau nó như con chó cụp đuôi. Nó đã khiến cho thằng ấy gần như điên dại chẳng còn làm ăn gì được nữa. Và tôi xin hỏi mình, nó làm gì ở trong cái quán trọ với bọn đàn ông quý phái ấy!… Giọng ông to, mỗi lúc một bực tức thêm. Cô Sarah xếp cái chổi vào sau cánh cửa, đóng và gài then lại. - Suỵt, Matt! Vẫn còn có người ở ngoài buồng. Tôi không tin là nó đã làm điều gì bậy bạ. Nó đi qua đấy, trông thấy họ, nó dừng lại, có gì là lạ! - Và nó đi đêm về một mình? Có cần phải một giờ nó mới nghe được là đức Vua đã trở về? Tôi nói với mình nhất thiết là phải gả chồng cho nó. Tôi không muốn nó làm nhục gia đình ta. Mình có nghe thấy không? - Có, tôi có nghe thấy. Cô Sarah lại gần chiếc nôi vì đứa bé dậy, khóc. Cô cho bé bú và đến ngồi trên một cái ghế dài có lưng tựa cao, buông một tiếng thở dài mệt nhọc: - Nhưng nó còn chưa muốn lấy chồng! - Ồ! - Bác Matt nói giọng chua chát - Nó chưa muốn lấy chồng thật sao? Tôi nghĩ là thằng Jack Clarke, hoặc thằng Bob Starling không xứng với nó sao, hai thằng đẹp trai nhất vùng! Cô Sarah mỉm cười yếu ớt: - Dù sao thì nó cũng là quý phái. - Quý phái! Một con đĩ thì đúng hơn! Suốt bốn năm nay nó đã làm tôi khổ nhiều rồi; xin thề có Chúa! Mẹ nó có thể là một bà quý phái, còn nó chỉ là con… - Matt! Đừng nói về đứa con của Judith như thế. Ôi! Tôi biết! Tôi cũng lo lắm. Tôi đã tìm cách khuyên can nó, chẳng hiểu nó có chịu nghe không. Chiều nay Agnes có bảo tôi: “Con không tin như vậy thành vấn đề lớn lao! Amber xinh đẹp, bọn con gái khác ghen tỵ và chúng bịa ra đủ chuyện.” - Tôi không cho là thế. Mình thì lúc nào cũng muốn tin con người tốt hơn thực tế, và họ chẳng bao giờ xứng đáng. Sáng nay Bob Starling lại một lần nữa hỏi tôi về nó, tôi xin nói với mình là nếu nó không sớm lấy chồng thì rồi đến thằng Tom Andrews cũng chẳng thèm nó nữa! - Nhưng mình hãy thử nghĩ là nếu cha nó trở về thấy chồng nó là một người nông dân? Ôi, Matt! Tôi vẫn thường tự nhủ thầm chúng ta đã mắc sai lầm không nói cho nó biết nó là ai… - Còn làm thế nào hơn được nữa hả Sarah? Mẹ nó chết rồi. Bố nó cũng vậy, nếu không chúng ta đã nhận được tin tức, và cũng chẳng bao giờ chúng ta thấy được vết tích của một người có họ là St. Clare nào khác. Sarah, tôi đảm bảo với mình tốt hơn cả nên lấy cho nó một người chồng nông dân. Còn việc muốn biết lý lịch của nó là… Ông giơ bàn tay phác một cử chỉ mơ hồ, rồi nói tiếp: - … Tôi thương hại cho thằng con trai nào sẽ lấy nó. Tại sao lại còn làm cho tình hình của nó khó khăn hơn? Không, xin mình đừng chống lại tôi. Sẽ là Jack Clarke, hoặc Bob Starling, một trong hai đứa ấy, càng sớm càng tốt! II N hững cỗ xe sơn xanh, đỏ, đi bộ hoặc cưỡi ngựa, tất cả những tá điền và những người nông dân từ hai mươi dặm quanh vùng đều đổ về Heathstone. Họ đem theo vợ con, lúa mì, phó mát, ngũ cốc mà họ có để bán, vải và len sợi mà những người phụ nữ đã se trong những đêm đông dài. Nhưng họ cũng đến đấy để mua: những đôi giày, những đĩa thiếc, những dụng cụ cho ấp trại, cũng như hàng nghìn thứ mà họ không cần đến nhưng lại thích có: đồ chơi trẻ con, ruybăng buộc tóc cho con gái, tranh ảnh treo trong nhà… Đứng giữa Bob Starling và Jack Clarke, Amber chau mày dậm chân sốt ruột nhìn khắp trong đám đông. Chàng ở đâu? Cô đã có mặt ở đây từ bảy giờ sáng, lúc này đã quá chín giờ rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng Carlton cùng các bạn chàng đâu. Tim cô đập một cách nóng nảy và cổ họng khô lại. Ôi! Nếu chàng muốn đến thì chàng đã có ở đây rồi… Không, chàng đã đi rồi! Chàng đã hoàn toàn quên mình nên chàng đã bỏ đi… Jack Clarke, một thanh niên thô thiển, dùng khuỷu tay huých vào người cô: - Này Amber, cô có thích cái này không? - Cái nào? Ồ! Có. Đẹp lắm. Cô quay đầu lại trông thấy một nhóm người đang gào thét xung quanh một anh hề đứng trên một cái bục, từ đầu đến chân phủ đầy những kem, mọi người ném vào chậu mấy đồng xu. “Ôi! Tại sao chàng không đến?” - Amber, cô có thích cái ruybăng này không? Cô thưởng cho mỗi cậu một nụ cười và cố gắng không nghĩ đến ngài Carlton nữa, nhưng không thể được. Tâm hồn cô đầy hình ảnh chàng, nếu như ngày hôm nay không gặp được chàng, cô tự nhủ thầm, cô sẽ không thể nào sống được qua cơn tuyệt vọng này. Cô chưa bao giờ trải qua một cơn khủng hoảng như thế, tuy nhiên cô lại biết nhiều, cô nghĩ vậy. Cô mặc bộ quần áo đặc biệt chải chuốt và tự biết là mình chưa bao giờ xinh đẹp hơn. - Có lẽ là tôi thích cái… Cô nói bằng một giọng lơ đễnh, ngón tay chỉ vào một dải ruybăng bằng sa tanh đỏ ở giữa một đống những cuộn khác. Đột nhiên cô chau mày quay lại nhận ra chàng: - Ồ! Đứng lặng một lúc rồi bỗng nhiên, hai tay cô xốc váy chạy đi, để lại hai cậu si tình ngơ ngác và cáu kỉnh. Carlton cùng với Almsbury và một người trẻ tuổi nữa vừa mới đi vào trong hội chợ, theo một phong tục cổ, một bà già quỳ xuống lau giày cho họ. Amber tiến lại gần, thở hổn hển nhưng tươi cười và nghiêng mình chào, họ cũng ngả mũ đáp lại một cách trịnh trọng. Almsbury nhiệt tình kêu lên: - Ôi! Cô nàng xinh đẹp của tôi! Cô đúng là một trinh nữ đẹp nhất mà địa ngục không thể giữ được! - Thưa ngài, cảm ơn rất nhiều! - Cô nói nhưng cặp mắt đã vội quay sang Carlton lúc này đang nhìn làm cô lạnh xương sống. - Em sợ, em e rằng các ông đã đi mất rồi! - Người thợ đóng móng ở trong hội chợ này - Carlton nói - và chúng tôi đã phải đến đây. - Chàng đưa mắt nhìn quanh rồi nói tiếp - Chúng ta bắt đầu ra sao đây? Một thứ bỡn cợt hờ hững hiện trong cặp mắt và vẽ thành một nếp nhăn trên góc mép chàng. Amber bối rối và cảm thấy bất lực, vụng về, không nói nên lời, hơi tự bực mình. Làm sao có thể gây cho chàng cảm xúc được nếu cô chẳng tìm thấy gì để nói và cứ đực ra trước mắt chàng, mặt tái mét rồi ửng đỏ, để mà ngắm nghía chàng như một con ngỗng cái đần độn? Bà già đã đánh xong giày, bọn người quý phái, mỗi người đều cho bà một đồng tiền gọi là “tiền vào cửa”. Bà ta đi nhưng còn ngoái cổ lại nhìn Amber, cô đã bắt đầu cảm thấy mình là mục tiêu cho mọi người, vì tất cả mọi người đều nhìn các chàng kỵ sĩ và chắc chắn là đều tự hỏi không biết cô gái nông thôn kia có vấn đề gì với họ. Cô hân hoan vì tình thế đã thuận lợi, nhưng lại sợ người nhà trông thấy, cô biết như thế sẽ ra sao. Tốt hơn cả là nên tìm một nơi yên tĩnh và kín đáo hơn. Almsbury nói: - Này Bruce, tôi muốn đến xem cái tiệm bán rượu Tây Ban Nha ở đằng kia. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở ngã tư cuối phố, khi mặt trời đã tới kia… Anh chỉ một điểm phía chân trời rồi nghiêng đầu chào và cùng với người kia bỏ đi. Amber lưỡng lự một lát đợi xem ý chàng ra sao, nhưng chàng vẫn im lặng, cô quay đi về phía những cột gỗ của cái lều vải trong đó đang có diễn kịch. Người còn đông, nhưng nơi đó khá xa trung tâm hội chợ. Chàng đi bên cạnh cô trong vài phút, hai người chẳng ai nói câu nào. Amber sung sướng vì sự ồn ào làm cho họ không thể nói được một câu mà không gào lên, chàng tưởng là vì thế mà cô không nói. Cô có cảm giác nặng nề về sự kém cỏi, e rằng mọi lời nói và hành động của mình sẽ làm chàng chê cười. Đêm hôm trước, nằm trong giường, tưởng tượng việc nói chuyện với chàng rất vui vẻ thoải mái, như cô đã từng nói với Tom Andrews, Bob Starling hoặc với nhiều người khác nữa. Nhưng lúc này cô lại cảm thấy một khoảng cách rất lớn ngăn cách hai người không thể nào vượt qua được. Cảm giác và xúc động đã đạt tới cường độ gần như làm cho cô đau đớn, tất cả những gì cô trông thấy đều có một sắc thái xa lạ. Để che giấu tình trạng bối rối và lúng túng của mình, cô chú ý quan sát tất cả những lều trại mà hai người đi qua. Sau cùng, lúc họ đi qua một quán hàng trong đó một thiếu phụ bán những đồ trang sức lóng lánh, Carlton cúi nhìn cô và hỏi: - Cô có thích đồ nữ trang này không? Một ánh hân hoan bất ngờ thoáng trong cặp mắt Amber. Tất cả những đồ nữ trang ấy đối với cô thật là tuyệt diệu, nhưng tất nhiên là giá đắt lắm. Chưa bao giờ cô được mang những thứ như vậy, mặc dù tai cô đã được đục lỗ vì, như cô Sarah đã nói, khi nào lấy chồng cô sẽ có một đôi hoa tai do mẹ cô để lại. Tất nhiên là khi trở về nhà, bác Matt sẽ nổi giận và cô Sarah sẽ lại tiếp tục nói đến đám cưới cô, nhưng sức hấp dẫn của những đồ trang sức ấy và viễn ảnh về một món quà của ngài quý phái, không sao cưỡng được! Không do dự, cô trả lời: - Thưa ngài, em rất thích một đôi hoa tai! Thấy hai người dừng lại, và nghe Amber nói đến hoa tai, người thiếu phụ bán hàng vội vàng đưa ra một đôi treo lủng lẳng những hạt thủy tinh gọt đẽo thô sơ, trong suốt và có màu sắc: - Thưa cô, hãy ngắm đôi này mà xem! Chúng xứng đáng để được trang điểm cho tai của bà quận chúa đấy, xin cô tin tôi! Nào, xin mời cô cúi xuống, tôi sẽ đeo thử cho cô. Thế đó! Thưa chúa công, ngài nghĩ thế nào ạ? Theo tôi, chúng làm cho cô thay đổi hẳn, nom lịch sự quá! Đây, xin cô thử nhìn vào trong gương mà xem. Ôi! Chưa bao giờ tôi thấy đồ trang sức làm thay đổi con người ta đến độ như vậy, tôi xin thề, thưa cô… Thiếu phụ nói thao thao bất tuyệt, tay cầm một cái gương để Amber có thể tự mình thấy sự thay đổi đáng kinh ngạc ấy. Amber cúi xuống, hai tay vén tóc để lộ đôi tai ra, cặp mắt sáng ngời vui thích. Đôi hoa tai ấy làm cho cô nom già đi và như hơi có vẻ tà tâm. Cô nhếch mép mỉm cười về phía Carlton, tìm hiểu xem chàng nghĩ thế nào, tuy rất muốn có chúng, nhưng lại sợ mình quá ham thích làm chàng hiểu lầm. Chàng mỉm cười với Amber và quay lại người bán hàng hỏi: - Bao nhiêu? - Thưa ngài, hai mươi silinh ạ! Chàng rút trong túi ra hai đồng tiền vàng và ném lên bàn: - Cũng đáng thôi! Hai người đi ra, Amber hân hoan, cô tin là chúng làm bằng vàng thật, bằng kim cương và bằng ngọc bích. - Thưa chúa công, em sẽ giữ nó mãi mãi, em xin thề sẽ không bao giờ đeo thứ gì khác! - Tôi rất sung sướng thấy cô thích nó. Chúng ta làm gì bây giờ? Cô có thích xem kịch không? Chàng hất đầu về phía cái lều mà họ đang đi tới. Amber lúc nào cũng muốn được xem một vở kịch, vì đó là một thứ cấm đối với cô, cô đưa cặp mắt thèm thuồng nhìn nhà hát. Tuy vậy cô cũng lưỡng lự, vì sợ ở đấy gặp một người quen, hơn thế nữa cô rất muốn được một mình với chàng, xa tất cả mọi người. - Ồ! Nghĩa là… xin thú thật với ông, bác Matt không muốn em vào đấy… Lúc đứng cạnh chàng, đợi quyết định của chàng, cô bỗng trông thấy, cách đấy mười mét Agnes, Lisbeth, và Gartrude, cả ba đang há miệng kinh ngạc bực tức và ghen tị nhìn cô. Cặp mắt Amber gặp cặp mắt người chị họ, cô kêu lên một tiếng sợ hãi, rồi vội nhìn đi nơi khác, làm ra vẻ không nhìn thấy họ, các ngón tay cô sẽ đập đập vào dải mũ. Cô khích động khẽ nói: - Nguy rồi! Người chị họ em đấy! Chắc chắn là chị ấy sẽ về kể hết cho cô em nghe. Chúng ta chạy đi đằng này… Cô không nhìn thấy nụ cười của ngài Carlton vì cô đã chuồn rồi, lách qua đám đông… Không nhìn ba cô gái, Carlton đi theo cô. Amber quay đầu lại để xem Agnes có đi theo mình không và mỉm cười với chàng, nụ cười tươi tắn, nhưng vẫn còn lo ngại. Chắc chắn là Agnes sẽ chạy đi báo với cô Sarah hoặc với bác Matt, và một người trong nhà sẽ được cử đi kéo cô về. Cần phải nhanh chóng chuồn xa nơi đây, cô đã quyết định ở lại một vài giờ với Carlton, sau này muốn ra sao thì ra. - Đây là nghĩa địa, - cô vội vàng nói, - chúng ta vào đây làm với nhau một lời nguyền. Carlton ngừng lại. Amber cũng làm theo, ngơ ngác nhìn chàng. Chàng nói: - Cô em ạ, tôi e rằng cô sẽ gặp phải nhiều điều phiền toái đấy. Chắc chắn bác cô là một người rất nghiêm khắc, ông sẽ chẳng vui lòng thấy cô cháu gái đi với một kỵ sĩ. Có lẽ cô còn quá trẻ để mà hiểu được điều đó, nhưng những người tín đồ Thanh giáo và những kỵ sĩ không tin tưởng ở nhau, nhất là trong quan hệ với phụ nữ. Trong tiếng nói của chàng vẫn có cái giọng uể oải và trên nét mặt chàng vẫn cái vẻ hơi bỡn cợt đã làm cô xúc cảm một cách kỳ lạ buổi tối qua. Vì cô cảm thấy cái vẻ uể oải thờ ơ ấy che giấu một bản chất cuồng nhiệt, không gì lay chuyển và cũng có thể là hơi tàn bạo nữa. Không ý thức được rõ những ham muốn của chính mình, cô mơ hồ thấy mình muốn xé toang cái màn lịch sự ấy để tự mình thấy được cái sức mãnh liệt ấy đang bên cô, nó không bị ru ngủ mà bị kìm hãm. Bắt đầu cảm thấy tự tin, cô đành liều trả lời: - Bác em thì cần gì! Cô em vẫn tin tưởng ở em. Ông cứ mặc em. Em đề nghị ông đấy, em rất muốn được thực hiện một câu nguyền. Chàng nhún vai đi theo cô. Cả hai người vượt qua đường cái, qua hàng rào phủ đầy cây trường xuân, rồi tiến về phía hai cái máy nước nhỏ ở cách nhau vài chục phân. Amber quỳ xuống vục hai bàn tay vào hai cái máng nước cho đến tận cổ tay. Hai mắt nhắm lại thầm lặng làm một lời nguyền: “Hãy làm cho chàng yêu em!” Yên lặng một phút không cử động trong trầm tư rồi nâng hai bàn tay lên thành hình cái bát, cô uống nước. Chàng giơ tay ra và kéo cô dậy: - Tôi chắc cô đã làm một lời nguyền chinh phục thế giới. Cô cần phải bao nhiêu thời gian? - Một năm, nếu em có lòng tin, hoặc không bao giờ cả. - Thế cô có tin không? - Tất cả những câu nguyền khác của em đều đã được chấp thuận. Ông cũng nên làm một câu nguyền đi chứ? - Một năm không đủ cho phần lớn những tham vọng của tôi. - Không thật sao? Em nghĩ là một năm đủ cho tất cả! - Phải, ở thời mười bảy tuổi! Amber đưa mắt nhìn xung quanh, một phần vì cô không chịu nổi cái nhìn xoáy vào của cặp mắt xanh, và cũng để tìm một chỗ nào kín đáo hơn. Nghĩa địa là một nơi công cộng, tất cả mọi người đều có thể đến được, và dù là già trẻ gái trai hay trẻ con đều có thể đe dọa đến hạnh phúc của cô. Cô có cảm giác là họ đều liên kết với nhau để chia rẽ chàng với cô và lôi cô về cái mảnh đất khô cằn của bác Matt và cô Sarah. Bên cạnh nghĩa địa có một cái vườn, phía bên kia là cánh đồng ngăn cách Heathstone với khu rừng Bluebell. Tất nhiên là nên tới đó! Trong rừng mát mẻ và tối, có những góc chẳng bao giờ có ai đi tới, cô biết nhiều chỗ như thế, hồi tưởng lại những cuộc hội chợ trong bốn năm vừa qua. Cô uể oải đi tới đó, hi vọng chàng sẽ tưởng: tới đó do tình cờ. Đi qua vườn, họ leo qua một hàng rào đến giữa một cánh đồng. Trên mặt cỏ rải rác những bông hoa dại đủ các màu. Cứ mỗi bước, họ lại đi trên đất xốp hơn. Xa hơn nữa, gần bờ sông có một điểm vàng chỉ rõ nơi đó mọc những cây tầm xuân, tới gần họ có thể thấy những cây lau sậy mọc từ dưới nước lên. Hai bên bờ toàn những cây liễu lùn, phía bên kia dòng nước ở ven rừng, một bụi cây lá lóng lánh dưới ánh mặt trời, Bruce Carlton nói: - Tôi hầu như quên mất là nước Anh vào mùa xuân đẹp biết bao! - Ông đã xa nước Anh bao lâu rồi? - Khoảng mười sáu năm. Sau khi cha tôi bị giết chết tại Marston Moor, mẹ tôi và tôi đi ra nước ngoài. - Mười sáu năm ở ngoại quốc! Chà! Ông đã làm thế nào? Chàng cúi xuống nhìn cô với một nụ cười yêu thương: - Chúng tôi không muốn thế, nhưng làm sao có thể lựa chọn được. Còn về phần tôi, tôi không có gì để phàn nàn cả. - Nhưng ở đó ông có được vui không? - Cô hỏi và hơi khó chịu vì câu nói báng bổ ấy. Lúc này họ đã đi qua con sông có dòng nước trôi nhanh, trên một cái cầu hẹp và lung lay, làm bằng những thân cây. Bên dưới, những chú cá phóng như những mũi tên, những con chuồn chuồn bay lượn trên nhiều bụi huệ mọc trong một cái ao nhỏ. Sang phía bờ bên kia, họ đi vào khu rừng, trên con đường giữa các hàng cây và những bụi cây hoang dại. Trời mát mẻ và yên tĩnh, mùi thơm của hoa lẫn với mùi lá khô. - Có thể là một sự phản bội nhỏ đối với tổ quốc của một người Anh thích ở ngoại quốc hơn. Tuy nhiên tôi cũng thích nhiều nước: Pháp, Ý, Tây Ban Nha. Nhưng nhất là nước Mỹ. - Nước Mỹ! Sao kia! Ở phía bên kia đại dương ấy à? Đó là tất cả những gì Amber biết về nước Mỹ. - Rất xa, ở phía bên kia. - Ở đấy có vua không? - Không! Tôi đã đến đó một lần trên một con tàu buồm, một phái đoàn riêng cùng với người anh em họ của vua, hoàng thân Rupert. Và một lần khác trên một con tàu buôn. Amber bồn chồn, chàng đã đến những nước xa xôi như vậy, vượt qua đại dương! Không thể tưởng được, như câu chuyện thần tiên. Cô chưa bao giờ đi xa hơn Heathstone, và mỗi năm chỉ có hai lần vào dịp hội chợ mùa xuân và thu. Người độc nhất mà cô biết đã đi tới Luân Đôn, là ông thợ giày. - Đi ra thế giới bao la như vậy đẹp đẽ biết chừng nào. - Cô thở dài, nói tiếp: - Ông đã đến Luân Đôn chưa? - Mới có hai lần thôi, nếu tôi nhớ không lầm. Cách đây mười năm tôi đã đến và đã trở lại đó mấy tháng sau khi Cromwell chết, nhưng không bao giờ ở đấy lâu cả. Hai người đứng lại, chàng đưa mắt nhìn trời qua các hàng cây, như để biết thời gian còn lại cho mình. Thấy vậy, Amber bỗng hoảng hốt. Chàng sắp ra đi rồi, về cái thế giới bao la ấy với tất cả sự ồn ào náo động, còn cô phải ở lại đây. Một cảm giác cô đơn hoàn toàn mới lạ và khiếp đảm, như bị đày vào một góc cô tịch nào đó trong một phiên hội mà ở đó chỉ mình cô là xa lạ. Tất cả những xứ sở mà chàng đã thấy, còn cô thì không bao giờ cả; những vui thích mà chàng đã hưởng, còn cô thì không. Nhưng điều tồi tệ hơn cả là không bao giờ cô thấy chàng nữa. - Chưa đến giờ phải đi chứ, thưa ông? - Chưa đâu, còn một lúc nữa. Amber quỳ xuống trên cỏ, bĩu môi, vẻ phản ứng trong cặp mắt, chàng cũng ngồi xuống trước mặt cô. Cô vẫn giữ vẻ hờn dỗi, nghĩ đến tương lai buồn thảm của mình, rồi ngước mắt nhìn chàng. Chàng chăm chú quan sát cô, cô hồi hộp nhìn lại chàng. Cảm giác bạc nhược dịu dàng dày vò làm cô kiệt sức đến độ phải nhắm mắt lại. Toàn thân rạo rực vì ham muốn, tuy nhiên cô vẫn giữ thái độ hững hờ, dè dặt, một cảm giác sợ hãi mạnh mẽ hơn là ham muốn. Chàng ôm lấy thân hình cô và từ từ kéo cô lại. Amber sẽ nghiêng đầu đón cặp môi và quàng hai cánh tay vào cổ chàng. Thế là thái độ dè dặt mà chàng đã thể hiện cho đến lúc này bỗng nhiên tan biến để nhường chỗ cho một sự ham mê man rợ, mãnh liệt, và ích kỷ một cách tàn nhẫn. Amber chưa có kinh nghiệm chứ không phải ngây thơ, đáp lại chàng những cái hôn mãnh liệt. Được những cái vuốt ve kích thích, lòng ham muốn của cô cũng dâng lên, dù từ trong thâm tâm lúc đầu cô có nghe những lời khuyên nhủ của cô Sarah, hình ảnh đó cứ mờ dần rồi biến mất hoàn toàn. Nhưng khi Bruce lật ngửa cô nằm trên bãi cỏ, cô phản ứng ngắn ngủi và khẽ kêu lên một tiếng, chỉ có thế thôi! Kiến thức của cô không đi xa được hơn thế. Điều bí hiểm ghê gớm có lẽ đang chờ cô. Hai bàn tay cô đẩy người đàn ông ra, một tiếng nấc sợ hãi khẽ thốt lên, cô quay đầu đi. Nỗi sợ hãi tràn ngập vô lý, dữ dội, gần như nóng nảy, cô kêu lên: - Không! Buông tôi ra! Nhìn khuôn mặt chàng ngay trên mặt mình, cặp mắt chàng xanh biếc. Và đột nhiên Amber nức nở, gần như điên lên vì say mê và sợ hãi, cô đã hoàn toàn hiến dâng thân mình. Trong tình trạng ghê tởm mơ hồ, cô dần dần tỉnh lại với thế giới thực tại, hai người đã rời nhau. Hai mắt vẫn còn nhắm chặt, cô thốt lên một tiếng thở dài sâu xa và khoái lạc. Cô có cảm giác như không thể cử động được nữa, ngay cả với ngón tay út. Một lúc lâu sau chàng mới tách ra xa và ngồi lên, hai khuỷu tay để trên đầu gối, hai hàm răng ngậm một nhánh cỏ, cặp mắt nhìn trừng trừng ra phía trước. Bộ mặt sạm nắng của chàng ướt đẫm mồ hôi và chùi nó bằng cánh tay áo nhung đen của chàng. Amber vẫn nằm duỗi thẳng bên cạnh, hoàn toàn im lặng, hai mắt nhắm, cánh tay vắt trên trán. Cô nóng nực buồn ngủ và cảm thấy sung sướng tuyệt vời trong tất cả các thớ thịt vì việc đó đã xảy ra rồi! Cho đến lúc đó, cô thấy như mình mới sống có một nửa đời người. Cảm thấy cặp mắt chàng nhìn mình, cô nhẹ nhàng quay đầu lại và mỉm cười với chàng. Cô muốn nói cô yêu chàng, nhưng không dám; cô khao khát được chàng tỏ tình, nhưng chàng chỉ cúi xuống và hôn cô rất nhẹ nhàng. Chàng khẽ nói: - Tôi lấy làm ân hận thấy cô vẫn còn trinh tiết. Thật quả tôi không ngờ! - Em lấy thế làm sung sướng lắm! Chàng chỉ nói có thế thôi ư? Cô nhìn chàng và chờ đợi. Cô bắt đầu cảm thấy có một vấn đề gì bấp bênh và đáng sợ. Chàng lại giống như lúc cô mới gặp lần đầu, thái độ và dáng điệu của chàng không có gì tỏ ra là hai người đã gần nhau tới mức ấy. Ngạc nhiên và bị thương tổn, vì cái điều vừa xảy ra phải làm cho chàng thay đổi cũng như cho bản thân cô. Không gì có thể như trước đây đối với bất cứ người nào trong hai người. Sau cùng chàng đứng lên đưa mắt nhìn mặt trời rồi nói: - Chắc là họ đang đợi tôi. Chúng tôi muốn tới Luân Đôn trước khi trời tối. Chàng giơ tay ra để giúp cô đứng lên. Cô nhảy lên hai chân, vuốt lại tóc, kéo lại cái khăn trùm, sờ đôi hoa tai để được chắc chắn là chúng không bị mất. - Trời ơi! - Bruce lại kêu lên, - chúng tôi không thể chậm trễ được đâu. Vừa phủi bụi ở mũ, chàng đưa mắt ngạc nhiên nhìn cô, rồi đội mũ vào. Chàng chau mày lại như thể chàng vừa được hưởng điều quá mong muốn. Trước cái nhìn đó, nụ cười và sự kích thích của Amber biến ngay mất. - Ông không muốn đem em đi theo với à? - Cô nói như khóc. - Em yêu ạ, ông bác và bà cô của em không tán thành vậy đâu! - Không cần! Em muốn đi với ông! Em căm ghét mảnh đất này! Không bao giờ em còn muốn trở lại đây nữa. Ôi! Em van ông, thưa chúa công của em! Cho phép em đi theo với! Mảnh đất Marygreen và cuộc sống của cô ở đây