🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Âm Điệu Bóng Đêm - Julie Garwood full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu]
Ebooks
Nhóm Zalo
ÂM ĐIỆU BÓNG ĐÊM
---❊ ❖ ❊---
Tác giả: Julie Garwood
Dịch thuật: Tú Phương
Phát hành: Bách Việt
Nhà xuất bản: Thanh Niên Nguồn text: Waka
Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap
M
Mở đầu
ưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời.
Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình.
Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến.
Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ
nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp.
Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh.
Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ.
Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào.
Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài.
“Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.”
Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó
xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn?
Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào.
Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu.
Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta.
Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức
vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi.
Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên.
Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất.
CHƯƠNG 1
WELLINGSHIRE, ANH QUỐC
T
iểu thư Gabrielle vừa tròn sáu tuổi khi được gọi đến bên giường bệnh của mẹ mình. Theo sau là cận vệ trung thành của nàng, hai người lính đi ở hai bên, họ thả chậm tốc độ để cô bé có thể theo kịp bước chân của họ trên hành lang dài. Âm thanh duy nhất phát ra là tiếng đế giày của họ đập xuống nền đá lạnh tanh.
Gabrielle được gọi đến bên giường bệnh của mẹ nhiều đến nỗi cô bé đếm không xuể.
Khi bước đi, cô cúi thấp đầu, nhìn chăm chú vào viên đá sáng bóng mà cô vừa tìm được. Hẳn là mẹ sẽ thích nó. Nó có màu đen với đường viền mảnh màu trắng uốn lượn quanh nó. Một mặt của nó mịn màng tựa như bàn tay của mẹ khi bà vuốt ve khuôn mặt của Gabrielle. Mặt còn lại của viên đá lại xù xì như những sợi râu của cha cô.
Mỗi ngày khi hoàng hôn buông xuống, Gabrielle đều mang những món quà khác nhau đến cho mẹ cô. Hai ngày trước cô bắt được một con bướm. Nó có đôi cánh tuyệt đẹp, màu vàng xen lẫn những đốm màu tím. Mẹ bảo rằng đó là con bướm đẹp nhất mà bà từng thấy. Bà khen ngợi Gabrielle vì đã thật dịu dàng với một tạo vật của Chúa khi cô đến bên cửa sổ và thả cho nó bay đi.
Ngày hôm qua Gabrielle hái được những đóa hoa từ ngọn đồi phía ngoài bức tường của lâu đài. Hương thạch thảo và mật ong vây lấy cô, trộm nghĩ mùi hương đáng yêu này còn dễ chịu hơn hương tinh dầu và nước hoa của mẹ. Gabrielle buộc chúng bằng một sợi dây xinh xắn và cố thắt thành hình một chiếc nơ thật đẹp, nhưng cô không biết cách rồi làm chúng rối tung cả lên. Sợi dây ấy đã được tháo ra trước khi cô đưa bó hoa
đến cho mẹ mình.
Đá là món quà mà mẹ cô yêu thích nhất. Bà giữ một giỏ thật đầy những viên đá mà Gabrielle đã nhặt cho bà và đặt nó ngay cạnh giường của mình. Chắc hẳn đây sẽ là viên mà mẹ thích nhất cho xem.
Gabrielle không hề lo lắng về chuyến thăm ngày hôm nay. Mẹ đã hứa với cô rằng bà sẽ không lên thiên đường quá sớm và bà sẽ không bao giờ thất hứa.
Mặt trời đổ bóng dọc theo những bức tường và sàn nhà lát đá. Nếu Gabrielle không mải bận bịu với viên đá, cô sẽ thích thú chạy theo bóng nắng và cố bắt cho được nó. Hành lang dài này là một trong những nơi vui chơi yêu thích của cô. Cô thích co một chân lên rồi nhảy lò cò từ viên đá này sang viên đá khác rồi xem thử mình đi được bao xa trước khi ngã. Cô vẫn chưa nhảy được đến cửa sổ mái vòm thứ hai, vẫn còn năm chiếc cửa sổ như thế nữa trên hành lang.
Thi thoảng, cô nhắm mắt lại, dang rộng cánh tay và xoay vòng cho đến khi mất thăng bằng rồi ngã phịch xuống sàn, choáng váng đến nỗi trông những bức tường như đang bay lượn trên đầu.
Hơn tất cả, cô thích nhất là chạy dọc theo hành lang, nhất là khi cha cô về nhà. Ông là một người cao lớn, cao hơn tất cả những cây cột trong giáo đường. Cha cô sẽ gọi tên cô và chờ đợi cô lao vào lòng ông. Sau đó ông bế bổng cô vào vòng tay rồi nhấc lên ngang đầu mình. Nếu lúc đó họ đang ở ngoài sân, cô sẽ với tay mình lên bầu trời, cảm thấy dường như mình có thể chạm tay vào những đám mây. Cha thường giả vờ như buông lỏng tay để cô nghĩ ông sắp làm rơi mình. Cô biết ông sẽ không bao giờ làm vậy, nhưng cô vẫn thét lên đầy thích thú. Cô vòng đôi tay mình quanh cổ cha và ôm thật chặt khi ông sải bước về phía phòng của mẹ. Những khi tâm trạng ông đặc biệt vui vẻ, ông sẽ cất tiếng hát. Cha có một giọng hát khủng khiếp, thi thoảng Gabrielle cười khúc khích rồi bịt tai mình lại tỏ vẻ sợ hãi, nhưng cô chẳng bao giờ bật cười thật sự. Cô không muốn tổn thương đến tình cảm dịu dàng của ông.
Hôm nay cha không ở nhà. Ông đã rời Wellingshire để đến thăm chú Morgan của ông đang sống ở miền Bắc nước Anh và ông sẽ không trở về nhà trong vài ngày tới. Garbielle không hề lo lắng điều gì. Mẹ sẽ không chết nếu không có cha ở bên cạnh đâu.
Stephen, thủ lĩnh đội cận vệ, mở cánh cửa phòng của mẹ cô và dỗ dành cô bước vào bằng một cái huých nhẹ nhàng vào lưng. “Vào đi nào, công chúa,” anh ta hối thúc.
Cô quay người lại nhíu mày bất mãn. “Cha nói rằng anh phải gọi mẹ em là Công nương Genevieve và gọi em là tiểu thư Gabrielle mới đúng.” “Ở nước Anh, em sẽ là tiểu thư Gabrielle,” anh ta vỗ lên chiếc phù hiệu đeo trên áo choàng của mình, “nhưng ở St. Biel, em là công chúa của chúng tôi. Giờ thì đi đi, mẹ em đang đợi đấy.”
Trông thấy Gabrielle, mẹ cô cất tiếng gọi. Giọng của bà thật yếu ớt, trông bà xanh xao đến đáng sợ. Kể từ khi Gabrielle có thể nhớ được đến nay, mẹ vẫn luôn nằm trên giường. Đôi chân bà đã quên cách để bước đi, bà giải thích với Gabrielle như thế, nhưng bà vẫn hy vọng và cầu nguyện một ngày nào đó chúng sẽ nhớ lại. Nếu kỳ tích ấy có thể xảy ra, bà hứa với Gabrielle rằng bà sẽ đứng trên đôi chân trần của mình dưới dòng suối trong để cùng con gái bà thu nhặt những viên đá.
Và bà cũng sẽ khiêu vũ với cha nữa.
Trong phòng đứng chật ních người. Họ nhích ra tạo một lối nhỏ cho nàng. Vị linh mục, cha Gartner, đang tụng kinh cầu nguyện gần góc tường và vị bác sỹ hoàng gia, người lúc nào cũng nhăn nhó và thích lấy máu mẹ cô bằng những con bọ đen sì nhớp nhúa, cũng đang có mặt. Gabrielle thầm biết ơn ông vì hôm nay không đặt con bọ nào lên tay mẹ cả.
Người hầu, quản gia… đều vây quanh chiếc giường. Mẹ đặt khung thêu và kim trên tay bà xuống, xua những người hầu kia ra xa một chút, rồi ra hiệu cho Gabrielle.
“Đến đây ngồi bên mẹ nào,” bà ra lệnh.
Gabrielle chạy vào phòng, trèo lên trên giường, đưa viên đá cho mẹ
mình.
“Ôi, nó thật đẹp.” Bà thì thầm, nhận lấy viên đá và quan sát nó thật cẩn thận. “Đây hẳn là viên đẹp nhất,” bà kèm theo một cái gật đầu. “Mẹ, lần nào con mang viên đá đến mẹ cũng nói vậy. Cái nào cũng là đẹp nhất.”
Mẹ nàng vỗ nhẹ xuống chỗ bên cạnh bà. Gabrielle nhích lại gần và nói, “Mẹ không thể chết vào hôm nay được. Mẹ đã hứa rồi. Nhớ chứ?” “Mẹ nhớ.”
“Cha sẽ vô cùng tức giận, vì thế, tốt hơn hết thì mẹ đừng làm vậy.” “Tựa gần hơn chút nào, Gabrielle,” mẹ cô nói. “Mẹ phải nói thật nhỏ mới được.”
Ánh lấp lánh trong mắt bà mách bảo Gabrielle rằng bà lại bắt đầu trò chơi của mình.
“Bí mật ạ? Mẹ muốn nói cho con nghe một bí mật phải không ạ?” Đám đông khẽ nhích về phía trước. Tất cả đều háo hức muốn nghe xem bà sẽ nói những gì.
Gabrielle nhìn khắp căn phòng. “Mẹ, vì sao những người này lại ở đây thế ạ? Vì sao vậy?”
Mẹ hôn lên má nàng. “Họ nghĩ rằng mẹ biết nơi giấu một kho báu khổng lồ và mong rằng mẹ sẽ nói cho họ biết đó là nơi nào.” Gabrielle khúc khích cười. Nàng thích trò chơi này. “Mẹ sẽ nói cho con biết chứ?”
“Không phải hôm nay,” bà đáp.
“Không phải hôm nay,” Gabrielle lặp lại để những người tò mò kia có thể nghe thấy.
Mẹ nàng chống người ngồi dậy. Người hầu vội tiến lên chèn chiếc gối xuống dưới lưng bà. Một lúc sau vị bác sỹ tuyên bố rằng thần sắc của bà đang dần được cải thiện.
“Ta thấy khỏe hơn rất nhiều,” bà nói. “Các người lui ra đi,” bà ra lệnh, giọng nói của bà mạnh dần theo từng chữ. “Ta muốn có chút thời gian
riêng tư với con gái ta.”
Vị bác sỹ trông như muốn phản đối, nhưng ông giữ im lặng và tách khỏi đám đông trong phòng. Ông ra hiệu cho hai cô hầu gái ở lại, đứng bên cánh cửa để đợi mệnh lệnh.
“Mẹ thấy khỏe hơn chưa? Hôm nay có thể kể chuyện cho con nghe không ạ?” Gabrielle hỏi.
“Có,” bà đáp. “Con muốn nghe câu chuyện nào?”
“Chuyện về nàng công chúa ạ,” cô háo hức trả lời.
Mẹ cô chẳng ngạc nhiên gì. Garielle luôn đòi nghe cùng một câu chuyện. “Ở vùng đất xa xôi có tên gọi là St. Biel có một nàng công chúa,” mẹ cô bắt đầu kể. “Nhà nàng là toà lâu đài nguy nga tráng lệ màu trắng nằm trên đỉnh núi cao. Đức vua chính là chú của nàng. Ngài đối với công chúa rất tốt, nàng sống rất hạnh phúc.”
Khi mẹ cô dừng lại, Gabrielle liền sốt ruột thốt lên, “Mẹ chính là nàng công chúa ấy.”
“Gabrielle, con biết là mẹ và đây là câu chuyện về mẹ và cha con mà.” “Con biết, nhưng con thích được nghe mẹ kể cơ.”
Mẹ cô tiếp tục kể. “Khi công chúa đến tuổi cập kê, nàng được hứa gả cho nam tước Geoffrey của Wellingshire. Công chúa phải kết hôn với nam tước và đến nước Anh sống cùng chàng.”
Bà biết rằng con gái mình thích nghe kể về lễ cưới, áo choàng và âm nhạc, thế nên bà kể rất chi tiết. Cô bé vỗ tay đầy hào hứng khi nghe về bữa tiệc, nhất là khi kể đến các loại bánh trái cây và bánh mật ong. Gần cuối câu chuyện, lời kể của người mẹ chậm chạp và khó nhọc. Bà đang dần kiệt sức. Cô bé thấy được và rồi, như đã trở thành một nghi thức, cô bé bắt mẹ mình phải hứa rằng sẽ không chết vào ngày hôm nay.
“Mẹ hứa. Giờ thì đến lượt con kể lại cho mẹ nghe câu chuyện mà mẹ đã dạy con rồi.”
“Từng câu từng chữ phải giống như mẹ đã dạy sao ạ? Và giống như những gì mà mẹ của mẹ đã dạy cho mẹ sao?”
Bà mỉm cười. “Phải rồi, từng chữ. Và con cũng phải nhớ kể nó cho con gái của con sau này để chúng biết về cội nguồn của chúng cũng như St. Biel.”
Gabrielle trở nên nghiêm túc và nhắm mắt lại để tập trung tinh thần. Cô biết mình sẽ không quên từ nào trong câu chuyện. Đây là di sản, mẹ nàng chắc chắn rằng ngày nào đó nàng sẽ hiểu được ý nghĩa của nó. Hai bàn tay nàng đan vào nhau, đặt trên đùi. Nàng mở mắt ra. Nhìn nụ cười khích lệ bên môi mẹ mình, nàng bắt đầu kể.
“Xưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn dông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi...”
CHƯƠNG 2
T
ất cả người dân ở nước Anh đều biết đến mối thù. Nam tước Coswold của Axholm, một trong những cố vấn thân cận của đức vua John và nam tước Percy của Werke, cũng là người bạn và tâm phúc của nhà vua, hai người họ đã cố tiêu diệt lẫn nhau trong suốt mười năm qua. Cuộc tranh đua giữa hai người đàn ông vô cùng khốc liệt. Ai cũng muốn nhiều của cải hơn người kia, nhiều quyền lực hơn, được tin cậy hơn và hiển nhiên là được nhà vua yêu thích hơn. Họ đối chọi gay gắt trong tất cả mọi chuyện và hơn tất cả, phần thưởng mà họ khao khát có được nhất chính là: Công chúa Gabrielle. Mỗi khi nhắc đến tên nàng họ liền trở nên điên cuồng như một con thú hoang. Cả hai đều kiên quyết muốn giành được người đẹp về cho mình.
Nhà vua thích thú bởi sự ganh đua của họ. Hễ có cơ hội, ông sẽ công kích để người này chống lại người kia.
Trong tư tưởng của ông, họ là những con thú cưng sẽ làm đủ mọi trò để làm ông vui lòng. Ông biết về sự thèm muốn của họ với con gái của nam tước Geoffrey, Gabrielle, nhưng ông không hề có ý định giao nàng cho bất cứ ai trong số họ. Nàng quá quý giá. Thay vào đó, ông muốn bỏ ngỏ khả năng rằng người nào cũng còn có cơ hội để cưới được nàng, bất cứ khi nào ông ta muốn.
Tất cả người dân ở nước Anh đều biết Gabrielle là ai. Vẻ đẹp của nàng là một huyền thoại. Nàng lớn lên ở Wellingshire cách cung điện hoàng gia không xa lắm. Cuộc sống của nàng khá tĩnh lặng và kín đáo, cho đến khi nàng trưởng thành và được ra mắt trước cung điện. Cha nàng, nam tước Geoffrey của Wellingshire, đích thân ở bên cạnh bảo vệ nàng tại buổi diện kiến đức vua John trong chưa đầy mười phút. Chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ
khiến cho nhà vua hoàn toàn bị mê hoặc.
John có thói quen đoạt lấy những gì mình muốn bất cứ khi nào muốn có nó. Ông nổi tiếng là phóng đãng. Chẳng lạ gì khi ông ta dụ dỗ những phu nhân và tiểu thư tự nguyện – và không tự nguyện – của thuộc hạ của mình, rồi sáng hôm sau, khoe khoang chiến tích mà mình chinh phục được. Tuy nhiên, ông ta không hề động đến Gabrielle, vì cha nàng là vị nam tước quyền lực và có sức ảnh hưởng nhất nước Anh.
John đã có đủ các mối xung đột trên tay mình. Ông ta chẳng cần thêm nữa. Ông ta đã bị công kích từ mọi mặt và ông tin rằng chẳng có cuộc xung đột nào là do mình gây nên cả. Vấn đề giữa ông ta và Đức Giáo Hoàng Innocent Đệ Tam gần đây đã trở nên căng thẳng hơn rất nhiều, bởi vì John đã từ chối chấp thuận việc Đức Giáo Hoàng chọn Stephen Langton trở thành tổng giám mục của Canterbury và Đức Giáo Hoàng đã ban hành lệnh cấm đối với nước Anh. Tất cả các hoạt động của nhà thờ đều bị cấm ngoại trừ việc rửa tội và thú tội, cũng vì thế mà các cha xứ và linh mục của nhà thờ đã phải bỏ trốn khỏi nhà thờ của mình để tránh cơn thịnh nộ của John và nhận ra rằng một trong hai phía tuân thủ các thỏa thuận gần như là chuyện không thể.
Lệnh cấm đã chọc giận vua John, ông ta trả đũa lại bằng việc tịch thu tất cả các tài sản của nhà thờ.
Đức Giáo Hoàng đã phản ứng rất mãnh liệt. Ông khai trừ vua John, từ đó làm suy giảm quyền lực của ông ta với đất nước mình. Không chỉ khai trừ để tâm hồn đen tối chết tiệt của John bị thiêu đốt dưới ngọn lửa vĩnh hằng của địa ngục, mà còn giải thoát những người dân của ông ta khỏi lời tuyên thệ về lòng trung thành của họ. Nhờ vào đó, các nam tước không cần phải trung thành với nhà vua nữa.
Theo một nguồn tin đáng tin cậy, đức vua John biết rằng vua của nước Pháp đang để mắt đến ngai vàng của nước Anh và bị những quý tộc phản bội kia xúi giục chuẩn bị cho một cuộc xâm lược. Dẫu vua John tin rằng mình có đủ nhân lực và tài lực để chống lại nguy cơ này thì nó vẫn là một
trận chiến tốn kém và đòi hỏi ông phải hết sức đề phòng. Cùng lúc đó cũng có vài phiền toái nho nhỏ quấy nhiễu ông. Những cuộc nổi loạn ở xứ Wales và Scotland ngày càng có tổ chức. Vua William của Scotland không đáng lo ngại. Ông ta đã hứa sẽ trung thành với vua John. Thay vào đó, những cư dân vùng cao nguyên mới là những kẻ nổi loạn. Dẫu vua William tin rằng mình đã kiểm soát được tình hình, nhưng những lãnh chúa kia lại chẳng phục tùng bất cứ ai ngoài chính bộ tộc của mình. Càng tiến về phương Bắc, những bộ tộc kia lại càng trở nên tàn bạo và hung ác. Có quá nhiều hiềm khích nảy sinh chẳng thể nào dò theo cho hết được.
Chỉ duy nhất một lãnh chúa ở vùng cao nguyên phía Bắc không hề đe dọa đến bất cứ ai, cũng là người thật sự được tôn trọng chút ít: lãnh chúa Alan Monroe. Ông là một người đàn ông đứng tuổi, nói chuyện mềm mỏng, tính tình khá dễ chịu, những đặc điểm khó thấy được ở một vị lãnh chúa vùng cao nguyên. Ông hài lòng với cuộc sống của mình và không hề có ý định gia tăng tài sản cho mình. Có lẽ đây chính là lý do ông được quý trọng như thế.
Với nỗ lực đáng kinh ngạc để xoa dịu những quý tộc có ảnh hưởng lớn dưới trướng mình và nghe theo lời kiến nghị của vua William xứ Scotland, vua John đã hứa gả tiểu thư Gabrielle cho lãnh chúa Monroe. Dù ông không cần thiết phải làm thế, nhưng ông vẫn dỗ ngọt nàng bằng mảnh đất rộng lớn ở vùng cao nguyên có tên Finney’s Flat mà ông ta đã mua từ nhiều năm trước để làm của hồi môn. Nhà của lãnh chúa Monroe nằm ở góc Đông Nam của mảnh đất danh giá này.
Nỗi lo của John về việc quân đội ở vùng cao nguyên tập hợp lại với rất nhiều lãnh chúa ở vùng biên giới mong muốn được gia nhập, tất cả đều có ý định tiến về nước Anh, có thể tạm gác sang một bên trong thời gian tới và vua William sẽ không còn phải lo lắng về nguy cơ xảy ra cuộc nổi loạn. Dù không an tâm và thông cảm cho các tộc người phương Bắc, nỗi sợ một vài quý tộc ở vùng đồng bằng sẽ tham gia vào cuộc nổi loạn đang dấy lên
trong lòng John.
Khi sắc lệnh về hôn ước với Gabrielle được chuyển đến lãnh chúa Monroe, anh ta liền hăm hở đồng ý. Anh cũng tin rằng với sắc lệnh hoàng gia này của John, cuộc chiến tranh giành quyền cai trị Finney’s Flat giữa các lãnh chúa sẽ chấm dứt và hòa bình sẽ được lập lại trên vùng đất này.
Chỉ có hai người lên tiếng phản đối cuộc hôn nhân này, Percy và Coswol, nhưng John bỏ mặc tất cả những lời thỉnh cầu và phản đối từ hai vị nam tước này.
Cha của Gabrielle, nam tước Geoffrey, cũng ủng hộ cuộc hôn nhân này. Ông thích con gái mình được gả cho một nam tước Anh chính gốc và sống ở Anh, nơi mà thi thoảng ông có thể đến gặp nàng và đứa cháu tương lai của mình. Ông biết rằng Gabrielle sẽ không thể an toàn ngày nào John còn là vua. Nam tước Geoffrey thấy được sự thèm khát trong mắt nhà vua mỗi khi hắn nhìn Gabrielle. Hành động của hắn ta hệt như con nhện đang kiên nhẫn đợi chờ để giăng bẫy và nuốt chửng con mồi của mình. Và từ những gì nam tước Geoffrey nghe được từ người họ hàng xa ở Scotland của mình, dòng họ Buchanan, vị hôn phu của Gabrielle là một người đàn ông tốt và sẽ đối xử tốt với nàng. Đó quả thật là một lời khen cho lãnh chúa Monroe, bởi dòng họ Buchanan không ưa thích bất kỳ ai ngoài những người trong gia tộc mình. Nam tước Geoffrey và lãnh chúa Buchanan có quan hệ thông gia với nhau, nhưng lãnh chúa gần như không chịu đựng nổi cha của Gabrielle, nhưng trớ trêu thay cho lãnh chúa Buchanan, người ghét tất cả những thứ liên quan đến nước Anh lại kết hôn với một người phụ nữ Anh.
Với sắc lệnh của vua John và sự cho phép của nam tước Geoffrey, hôn lễ đã được định. Người duy nhất chưa hề lên tiếng về sự việc cũng là người cuối cùng được biết về lễ cưới sắp đến chính là tiểu thư Gabrielle.
CHƯƠNG 3
M
ột ngày trước khi nam tước Coswold dự định rời khỏi St. Biel, hắn trở thành một tín đồ.
Vua John đã cử hắn thực hiện một chuyến công du ngớ ngẩn và Coswold chắc chắn sẽ hoàn thành công việc này nhanh nhất có thể, bởi cuối cùng nhà vua cũng đã hứa với hắn, khi hắn trở về nước Anh, Gabrielle sẽ thuộc về hắn. Mặc dù cha của Gabrielle khinh thường Coswold, nhà vua vẫn đảm bảo rằng sẽ không có trở ngại gì nếu ông ta buộc nam tước Geoffrey phải chấp thuận cuộc hôn nhân này.
Coswold cũng biết nhà vua đã cử tình địch của hắn, nam tước Percy, đi một chuyến công du đến vùng hoang dã phía Bắc để gặp vua William của Scotland. Nhiệm vụ của hắn ta sẽ mất chút thời gian, Coswold hy vọng có thể trở về nước Anh và cưới Gabrielle một cách nhanh chóng trước khi Percy biết được.
Nhiệm vụ của Coswold rất đặc biệt. Hắn phải kiểm tra và xác định rằng người mà vua John đã cử đến trông coi St. Biel, người đàn ông da trắng nhỏ thó có tên là Emerly, không biển thủ tiền của nhà vua.
John đã chiếm đóng đất nước này từ mấy năm trước và cuộc xâm lược khốc liệt kia đã gần như phá hủy nó. Ngay khi St. Biel vào tay ông ta, ông ta đã cho đánh cướp cung điện và các nhà thờ. Nếu vẫn còn chút gì giá trị sót lại, John muốn được biết về nó. Nhà vua không tin tưởng một ai, kể cả người do chính ông ta chọn để trông coi đất nước nay đã nằm dưới sự cai trị của mình.
Nhà vua vẫn bị ám ảnh bởi những lời đồn đại về kho báu bị cất giấu, tuy khi được hỏi đến, nhà vua vẫn thừa nhận rằng mình thấy những lời đồn kia đều là vô căn cứ; nhưng dù chỉ có một chút cơ hội nhỏ nhoi, ông ta
vẫn muốn Coswold tìm ra nó. John không tin những gì Emerly báo lại. Khi Emerly vừa đặt chân đến bến cảng của St. Biel, hắn đã lôi kéo từng người nam lẫn nữ ở khoảng độ tuổi hai mươi có khả năng từng nghe được gì đó về kho báu kia. Ai ai cũng thừa nhận có nghe qua lời đồn và tất cả họ đều nghĩ kho báu chắc chắn đã từng tồn tại. Một vài người nghĩ số vàng kia đã đến tay Đức Giáo Hoàng, số khác thì nghĩ vua John đã trộm chúng. Chẳng có gì là chắc chắn, sau khi tự mình điều tra, kết quả Coswold thu được cũng không có gì khác.
Đã quá trưa, Coswold tản bộ trong sân của cung điện trong bầu không khí lạnh buốt để co duỗi chân mình. Con đường dẫn xuống một con dốc thoải đến bến cảng, hắn có thể
trông thấy người của mình đang chuyển đồ đạc của mình lên con tàu sẽ đưa hắn về nước Anh. Trước khi màn đêm buông xuống, hắn đã có thể ngồi trong khoang thuyền để đợi thủy triều lên.
Coswold quấn chiếc áo choàng nặng nề quanh vai mình chặt hơn và kéo mũ trùm qua tai. Hắn không thể chờ đợi được rời khỏi cái nơi chết tiệt này. Hắn đi ngang qua một dãy nhà tranh và trông thấy một ông lão đang ôm bó củi trên tay, hẳn là để nhóm lửa cho đêm nay.
Người lạ mặt kia nhận thấy Coswold đang run rẩy và nói, “Chỉ có những người không có máu mới cảm thấy thời tiết ôn hòa thế này là lạnh.” “Ông thật xấc xược,” Coswold nổi cáu. “Ông không biết ta là ai sao?” Hiển nhiên người đàn ông kia không hề biết Coswold là đại điện của vua John, chỉ cần nói một tiếng thôi là hắn có thể kết thúc cuộc sống của ông. “Kể cả người cai quản là Emerly cũng phải kính sợ ta đấy,” Coswold huênh hoang nói.
Ông lão có vẻ không lấy làm kinh ngạc. “Đúng là vậy, tôi không biết ngài,” ông lão thừa nhận, “tôi ở trên núi chăm sóc cho người bệnh. Tôi vừa trở về thôi.”
“Ông là thầy thuốc à?”
“Không, tôi là linh mục. Tôi trông nom những linh hồn nơi đây, tôi là
một trong số ít những linh mục còn sót lại ở St. Biel. Tên tôi là cha Alphonse.”
Vị nam tước nghiêng đầu quan sát gương mặt của linh mục. Làn da ông đã bị thời gian và khí hậu tàn phá, nhưng đôi mắt ông vẫn sáng ngời như một chàng thanh niên.
Coswold bước đến trước mặt ông lão, chặn đường ông lại. “Là một linh mục, ông không được nói dối, đúng không?”
Dù linh mục kia cảm thấy câu hỏi thật kỳ lạ, ông cũng không tỏ thái độ gì. “Không, chắc chắn là không được rồi. Dối trá chính là tội lỗi.” Coswold gật đầu, rất hài lòng với câu trả lời này. “Đặt bó củi kia xuống và đi theo ta. Ta có vài vấn đề muốn hỏi ông.”
Vị linh mục không hề cãi lại. Đặt bó củi xuống cạnh cửa của ngôi nhà tranh gần nhất, ông chắp hai tay ra sau lưng và bước đi bên cạnh nam tước. “Ông đã được cử đến St. Biel này bao lâu rồi?” Coswold hỏi. “Ôi Chúa tôi, đã lâu đến nỗi tôi chẳng nhớ được là bao nhiêu năm rồi nữa. St. Biel đã gần như trở thành nhà của tôi và tôi sẽ thấy rất tiếc nuối nếu phải rời khỏi nơi này.”
“Vậy là ông đã ở đây suốt cuộc đảo chính?”
“Đó là cách ngài gọi việc những người lính Anh chia rẽ đất nước chúng tôi, giết đức vua Grenier Đệ Nhị đáng kính và tiêu diệt hoàng gia đó sao? ‘Cuộc đảo chính’ cơ à?” Ông lão mỉa mai.
“Cẩn thận ngôn từ và thái độ của ông đối với ta đi linh mục. Trả lời câu hỏi của ta đi.”
“Đúng vậy, tôi đã ở đây.”
“Ông biết vua Grenier trước khi ông ta mất chứ?”
Cha Alphone tức giận ra mặt. “Ý ngài là trước khi ngài ấy bị giết sao?” Trước khi Coswold kịp đáp lại, ông đã nói, “Đúng, tôi biết ngài ấy.” “Ông có từng nói chuyện với ông ta không?”
“Tất nhiên là có.”
“Ông biết công nương Genevieve chứ?”
Nét mặt của vị linh mục giãn ra. “Có, tôi biết nàng ấy. Nàng là cháu gái của đức vua… con gái của em trai ngài ấy. Người dân St. Biel yêu mến nàng vô cùng. Họ không thích việc nam tước nước Anh kia đưa nàng đi.” “Nam tước Geoffey của Wellingshire.”
“Đúng vậy.”
“Hôn lễ được tổ chức ở đây, chẳng phải sao?”
“Không sai, đúng là như vậy và tất cả mọi người ở St. Biel đều được mời đến tham dự.”
“Ông biết công nương Genevieve có con gái chứ?”
“Tất cả người dân ở đây đều biết. Chúng tôi không bị cô lập đến thế đâu. Tin tức được truyền đến đây nhanh không khác gì những nơi khác. Tên nàng là Gabrielle và nàng thuộc dòng dõi hoàng gia của chúng tôi.”
“Vua John mới là hoàng gia của ông,” Coswold nhắc nhở. “Vì sao ngài lại hỏi tôi những câu hỏi này?”
“Ông không cần biết. Sống ở đây từng ấy thời gian hẳn ông đã từng nghe lời đồn về kho báu bị mất tích.”
“À, thì ra là vì chuyện này,” linh mục lầm bầm. “Trả lời câu hỏi của ta.” “Có, tôi có nghe về lời đồn.”
“Lời đồn đó có chút nào là thật không?”
Vị cha xứ thận trọng cân nhắc câu trả lời của mình. “Tôi chỉ có thể nói với ngài rằng từng có một lượng vàng lớn trong kho bạc của đức vua.” “Chuyện này ta đã biết rồi. Dân chúng ở đây đã nói với ta về khoản phí mà nhà vua các người đã thu từ những ai đi ngang qua những ngọn núi nơi này và họ cũng nói về sự tôn kính của ông ta dành cho thánh Biel và lễ vật ông ta dâng cho Đức Giáo Hoàng.
“À, thánh Biel.” Ông lão gật đầu. “Người đỡ đầu và bảo vệ của chúng tôi. Chúng tôi đều rất yêu quý ngài ấy.”
“Đó là chuyện hiển nhiên.” Coswold giễu cợt đáp lại. Hắn đưa tay quét qua một vòng. “Nhìn nơi này mà xem,” hắn nhạo báng đầy khinh bỉ. “Vị thánh của các người ở khắp nơi. Không một ai đặt chân lên mảnh đất tồi
tàn này mà không bị dõi theo bởi ánh mắt tò mò và vẻ mặt tự mãn đó. Nếu Đức Giáo Hoàng biết được đất nước này thờ phụng một vị thánh, ngài sẽ khai trừ tất cả các ngươi.”
Cha Alphonse chậm rãi lắc đầu. “Chúng tôi không thờ phụng vị thánh nào cả. Chúng tôi cầu nguyện trước Chúa; chúng tôi kính trọng Đức Giáo Hoàng, nhưng chúng tôi tin rằng chúng tôi nợ thánh Biel một ân huệ lớn lao. Ngài là thánh đỡ đầu của chúng tôi. Ngài đã che chở chúng tôi qua rất nhiều nghịch cảnh.”
“Và rồi thế nào,” hắn càu nhàu. “Nhân danh vị thánh đỡ đầu của các người, tất cả số vàng kia đã được gửi đến Đức Giáo Hoàng chăng?” Vị linh mục không trả lời.
“Nói cho ta biết,” hắn ra lệnh, “ông có từng thấy số vàng kia qua không?”
“Bao nhiêu năm qua tôi mới thấy vài đồng tiền vàng. Công nương Genevieve có một đồng như thế.”
Ông lão cố tình nói lấp lửng, nhưng Coswold tiếp tục gặng hỏi. “Ông có từng thấy số vàng trong kho báu hay không?”
“Chỉ một lần duy nhất,” cha Alphonse nói.
“Trước hay sau khi cống nạp cho Đức Giáo Hoàng.”
Vị linh mục ngừng lại vài giây. “Chuyện đã qua rất nhiều năm rồi. Đầu óc của tôi không còn minh mẫn được như trước nữa.”
Phản ứng lẩn tránh kia đã khơi dậy lòng hiếu kỳ của Coswold. “Đầu óc của ông vẫn đủ minh mẫn mà, ông lão. Ta nhân danh John, đức vua của ông, ra lệnh ông nói cho ta biết. Ông đã nhìn thấy số vàng đó lúc nào?”
Cha Alphonse không trả lời ngay. Coswold tóm lấy cổ áo của vị linh mục và kéo giật ông về phía trước.
“Nếu ông không nói cho ta biết,” hắn gầm lên, “ta thề rằng ngày mai ông sẽ không còn được nhìn thấy đất nước mà ông yêu quý nữa đâu, ta sẽ phá hủy tất cả những gì liên quan đến vị thánh thiêng liêng của các người và ném chúng xuống biển.”
Cha Alphonse thở hổn hển hớp lấy không khí. Ánh mắt của Coswold nói với ông rằng hắn không nói suông.
“Tôi nhìn thấy những đồng vàng trong kho báu sau khi lễ vật được gửi đến Đức Giáo Hoàng.”
“Ta muốn nghe cụ thể hơn,” hắn nói.
Vị linh mục thở dài. “Tôi chỉ vừa đến đây chưa bao lâu khi được diện kiến đức vua Grenier Đệ Nhất. Ngài là một người nhân hậu và thông minh. Ngài đã cho tôi xem cung điện và đất đai của ngài…”
“Ông ta đã cho ông xem kho báu?”
“Đúng vậy,” ông nói, “nhưng tôi tin đó chỉ là một sự tình cờ thôi. Tôi không nghĩ đức vua muốn để tôi nhìn thấy. Khi chúng tôi đang đi dạo dọc hành lang và trò chuyện vui vẻ, chúng tôi đã đi ngang qua kho báu. Cánh cửa để mở và hai người đàn ông đang chất những túi vàng lên nhau. Những đồng vàng chất đầy trên kệ và sàn nhà chỉ chừa một lối đi hẹp dẫn ra cửa. Cả đức vua và tôi đều không để ý đến những gì mình đã nhìn thấy.” “Và rồi sao nữa? Kể tiếp đi. Ta muốn biết thêm.”
“Thời gian trôi qua, tôi được triệu đến bên giường của đức vua để thi hành nghi lễ thánh cuối cùng, vì ngài đang hấp hối. Con trai của ngài ở bên cạnh, tiếp nhận chỉ thị chăm sóc đất nước của ngài. Một lần nữa, cánh cửa kho báu để mở và tôi tình cờ đi ngang khi đang trên đường đến phòng cầu nguyện. Nhưng lúc bấy giờ căn phòng đã trống rỗng. Không còn vàng, thậm chí chẳng còn lấy một đồng xu ở bất cứ đâu.”
“Có bao nhiêu vàng đã được giấu đi?”
“Tôi không biết.”
“Đoán thử đi,” hắn ra lệnh.
“Có lời đồn rằng chúng đủ để chiến thắng một cuộc chiến. Vàng là sức mạnh. Nó có thể mua bất cứ thứ gì… kể cả một vương quốc.” “Vậy giờ số vàng đó ở đâu?”
“Tôi không biết. Nó đã… biến mất. Có lẽ tất cả đã được gửi đến Đức Giáo Hoàng rồi.” Ông lui xa ra khỏi Coswold và cúi mình. “Nếu không còn
câu hỏi nào khác, tôi xin phép được về nhà để khối xương già này được nghỉ ngơi.”
“Đi đi,” Coswold nói. “Nhưng hãy nhớ giữ cuộc nói chuyện hôm nay lại cho riêng mình.”
Vị linh mục gật đầu xem như nhận lời và cất bước trở lên đồi. Coswold bật ra tiếng cười khinh bỉ. Làm sao một kho báu lớn như thế có thể biến mất không để lại chút dấu vết nào được đây? Hắn nói với theo sau ông lão, “Vậy là nhà vua ngu ngốc của các người đã giấu biến số vàng đi mà không nói với bất kỳ ai. Ông ta đã mang theo bí mật đó xuống mồ. Quỷ quyệt đến thế cơ đấy?”
Cha Alphonse quay lại, cố nén cơn giận của mình. “Sao ngài lại cho rằng ngài ấy không nói với một ai?”
CHƯƠNG 4
N
am tước Coswold trào lên cơn phẫn nộ. Hắn vừa trở về từ St. Biel thì nhận được tin từ một trong những sứ giả của nhà vua rằng chỉ còn ba tháng nữa thôi Tiểu thư Gabrielle sẽ được gả cho lãnh chúa Monroe tại tu viện Arbane. Làm sao có thể? Tin tức này làm cho hắn sững sờ. Sứ giả hoàng gia kia còn có một chỉ thị của vua John phải truyền đạt cho Coswold, nhưng hắn gần như chẳng thể tập trung được. Hắn yêu cầu sứ giả lặp đi lặp lại đến mấy lần.
Nam tước cố nén cơn giận đến khi về tới dinh thự. Sau đó hắn bộc phát. Hắn nổi đóa vì nhà vua lại nuốt lời lần nữa. Hắn xông vào sảnh chính, vớ lấy chiếc bình trà và miếng lót, ném thẳng vào lò sưởi.
Isla, con gái của chị hắn, ở đó để đón chào hắn. Ả là sinh vật nhỏ bé tôn sùng Coswold và tuân theo từng câu từng chữ của hắn kể từ ngày được hắn nhận nuôi. Isla từng nhiều lần chứng kiến cơn thịnh nộ của cậu mình, biết điều mà rúc mình vào trong góc hành lang cho đến khi hắn trút xong cơn giận.
Trong cơn thịnh nộ, hắn quên mất sự hiện diện của ả trong phòng. Hắn nện từng bước chân nặng nề xuống sàn, đá và ném bất cứ vật gì mà hắn thấy được, cư xử hệt như đứa trẻ ngỗ ngược không có được thứ mình muốn. Hắn gạt chiếc ly và bình trà trên mặt tủ và mỉm cười khoái trá khi chúng va vào tường và vỡ tan.
“Ta chẳng thể trách ai ngoài bản thân mình,” hắn gầm lên. “Ta quá ngu ngốc khi tin lời của đứa con hoang giả dối kia. Sao ta lại nghĩ lần này sẽ khác chứ? Tên khốn nạn luôn ra vẻ vua chúa kia đã bao giờ nói thật? Đã bao giờ?” Hắn thét lên.
Isla sợ hãi túm chặt mép váy của mình và lén lút tránh xa khỏi bức
tường. Ả dám trả lời hắn sao? Hắn có muốn ả làm thế không? Ả khẽ cắn môi dưới khi suy nghĩ về chuyện này. Nếu ả đưa ra quyết định sai lầm, cậu sẽ trút cơn giận lên ả. Chuyện này trước kia đã từng xảy ra một lần và rồi gần một tháng sau đó ả phải mang theo những vết bầm trên cánh tay, nơi hắn siết lấy và lắc mạnh. Ký ức lần đó đã giúp ả đưa ra quyết định. Isla đành giữ im lặng cho đến khi Coswold bình tĩnh lại.
Mười phút sau, hắn ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh bàn và ra lệnh đòi rượu. Người hầu vội tiến vào sảnh với bộ ly mới để thay cho đám hắn đã đánh vỡ. Chiếc ly nhanh chóng được rót đầy bởi thứ chất lỏng sóng sánh màu đỏ sẫm. Vài giọt sánh cả ra ngoài khi người hầu gái đặt nó lên bàn. Cô ta vội dùng miếng vải lau sạch chúng, cúi thấp người và đi lùi khỏi nam tước.
Hắn hớp một ngụm lớn, ngả người lên chiếc ghế của hắn, buông một tiếng thở dài. “Ngày nay chẳng có lấy một người trung thực nào trên nước Anh này nữa. Chẳng ai cả.”
Lúc này đây, hắn quay lại mới phát hiện ra Isla và gọi lớn. “Đến đây, ngồi với ta. Nói ta nghe những tin tức mà cháu thu thập được trong những ngày ta đi vắng. Percy thế nào? Tên khốn đó ra sao rồi?”
Vốn là người đầu óc đơn giản, Isla rất vui khi được chú ý đến. Ả nhanh chóng đến bên bàn và ngồi xuống vị trí đối diện với cậu mình. “Nam tước Percy được cử đến vùng cao nguyên ngay khi cậu khởi hành đến St. Biel.”
“Chuyện đó ta biết rồi,” hắn nói với vẻ mất kiên nhẫn. “Hắn đã quay lại chưa?”
“Vâng, ngài ấy đã trở lại rồi ạ,” ả đáp. “Nhưng cháu nghe cận vệ của ngài ấy nói rằng ngài ấy đang chuẩn bị đến tu viện Arbane trong vài tuần tới. Ngài ấy rất không vui vì chuyện tiểu thư Gabrielle sắp kết hôn và nói rằng sẽ làm gì đó khủng khiếp. Cận vệ kia nói với cháu rằng ngài ấy đã khóc.”
Đây quả là chút tin tốt lành nghe được kể từ khi Coswold bước xuống
khỏi chuyến tàu chết tiệt kia. Hắn cười khúc khích khi tưởng tượng cảnh Percy khóc lóc như một bà già. “Hắn đã khóc thật ư? Có ai thấy không? Kể ta nghe xem nào.”
Isla định cho hắn biết rằng ả nghe nói Percy đã vung tay múa chân la hét và ném đồ đạc các thứ khi hắn ta nghe rằng tiểu thư sẽ được gả cho lãnh chúa Monroe, nhưng rồi ả sực nhớ Coswold vừa làm những chuyện tương tự. Hắn sẽ không thích sự so sánh như thế này đâu.
“Ngài ấy thề rằng sẽ cưới tiểu thư cho dù nhà vua và cha nàng có cho phép hay không.”
Coswold cười khẩy. “Hắn lúc nào cũng mơ mộng hão huyền như thế.” Ả cúi thấp đầu. “Cháu ước gì ngài ấy có thể hạ thấp kỳ vọng vào người vợ của mình chút ít.”
Hắn chẳng mảy may chú ý đến lời nói của ả. Coswold nuốt ực hết chỗ rượu còn sót lại trong ly, dùng tay áo lau đi những giọt rớt xuống cằm, rồi tự rót thêm cho mình. “Percy có nói với ai là hắn sẽ làm gì để thực hiện được kỳ tích đó hay không?”
“Ý cậu là ngài ấy định làm thế nào để cưới tiểu thư Gabrielle mà không cần sự cho phép ạ?”
“Đúng, ý ta chính là thế đấy.”
Trước khi hắn trừng phạt ả vì để tâm trí mình lang thang nơi nào và mất tập trung, ả ta vội nói, “Không ạ, ngài ấy không nói với bất kỳ ai. Tên cận vệ kia nói với cháu rằng nếu nhà vua không đến tham dự buổi lễ thì nam tước Percy sẽ đại diện cho ngài.”
“Vậy là vua John có dự định đến tu viện Arbane à?” Nàng ta gật đầu. “Nhưng nam tước không tin nhà vua có thể đến kịp, ngài từng nói mình còn rất nhiều công văn cần xem trước.”
“Và Percy đang mong John sẽ không đến dự, đúng chứ?” Hắn nhíu mày khi đặt câu hỏi.
Isla lại gật đầu. “Percy khoe khoang rằng nhà vua đã trao toàn quyền để ngài ấy nhân danh nhà vua và đưa ra phán quyết theo ý ngài ấy.”
Tâm trạng đang tốt của Coswold bị tin tức này nhấn chìm. “Nam tước Percy có thể đưa ra bất cứ phán quyết nào mà hắn muốn?” Hắn gằn từng chữ. “Có thật vậy không?”
“Đó là những gì cháu nghe nói.” Isla gập hai tay lên mặt bàn và bật khóc. “Cậu phải cưới Gabrielle, thưa cậu. Dù đây là điều sai trái, cháu vẫn có tình cảm với nam tước Percy. Cậu biết chuyện đó mà. Cậu không thấy cháu đã đau khổ thế nào sao?”
Coswold vuốt cằm mình. “Hắn chỉ tán tỉnh cháu thôi, Isla, bởi hắn biết chỉ cần một lời dỗ ngọt là có thể khiến cháu cúi đầu và chiếm được lòng trung thành của cháu.”
Ả đặt tay lên ngực. “Cháu sẽ luôn trung thành với cậu. Khi cha cháu qua đời, cậu đã cưu mang và cho cháu tất cả những thứ cháu cần. Cháu yêu cậu và cháu sẽ không bao giờ phản bội cậu.” Ả vội nói thêm, “Nhưng cháu biết cậu muốn có được Gabrielle đến nhường nào và nếu cậu cưới được nàng ấy rồi thì có lẽ nam tước Percy sẽ để mắt đến cháu. Cháu biết mình không xinh đẹp, nhưng nếu cậu kết hôn rồi thì cháu cũng sẽ trở thành họ hàng với nàng, chẳng phải sao? Như vậy chẳng lẽ không có chút ý nghĩa nào với Percy sao?”
Hắn không biết nên trả lời thế nào. Hắn gần như cảm thấy tiếc thương cho ả, bởi ả đã mơ một giấc mơ quá hoang đường. Percy sẽ chẳng bao giờ cưới một người như ả cả. Coswold ngờ rằng sẽ chẳng có người đàn ông nào để mắt đến ả ta, bởi ả quá đỗi tầm thường. Làn da tái nhợt và sần sùi, đôi môi ả chỉ là một đường thẳng mỏng tanh và gần như mất hút mỗi khi ả nói chuyện. Ả đã từng là một đầy tớ tận tụy và người bạn đồng hành của Coswold và giờ ả đã trưởng thành, Coswold không hề có hứng thú với việc giữ ả lại trong nhà mình cho đến khi hắn hoặc ả chết. Nhưng nếu Isla muốn kết hôn, Coswold có thể tìm ai đến cưới ả đây? Ả chẳng có bao nhiêu của hồi môn trừ khi hắn thêm những gì cha ả đã để lại cho ả. Hắn biết rằng nếu của hồi môn đủ nhiều, ả sẽ có rất nhiều người đến cầu hôn, nhưng hắn không muốn bỏ ra bất cứ thứ gì mà mình đang có. Giờ cha mẹ ả đã mất
rồi, Coswold là người thân duy nhất của Isla. Khi ả biết rằng cậu của mình sẽ không tăng của hồi môn cho mình, hẳn là cô ả sẽ tức giận, đó là chuyện đương nhiên, nhưng rồi nó sẽ qua, cuối cùng ả ta sẽ chấp nhận chịu thiệt mà thôi. Ả chẳng có nơi nào khác để đi cả.
“Con người phải luôn giữ hy vọng,” hắn thì thầm vì chẳng biết nói gì khác hay hơn. “Hãy nhớ, ta và Percy là kẻ thù. Ta không nghĩ rằng hắn sẽ quên đi thù oán giữa chúng ta, đặc biệt là nếu ta cưới được Gabrielle. Tuy nhiên, dường như lãnh chúa Monroe mới là người sẽ chiến thắng sau cùng.”
“Cậu có thể thay đổi điều đó mà,” Isla nói. “Cậu khéo léo và thông minh như thế. Cậu sẽ tìm được cách để cưới nàng. Cháu nghe nói nàng vẫn còn chưa biết rằng mình sẽ phải gả cho lãnh chúa đâu.”
“Ta cảm thấy có lẽ con đang mơ mộng hão huyền, nhưng ta sẽ không làm con nản lòng đâu.”
“Nếu cháu có thể chiếm được trái tim của Percy, cậu sẽ cho phép ngài ấy cưới cháu chứ ạ?” Ả hỏi đầy háo hức.
“Ta sẽ.”
“Cảm ơn, thưa cậu,” ả nói khẽ. Cảm thấy sung sướng vì có lời hứa của hắn, ả chợt nhớ đến mục đích của mình. “Chuyến đi của cậu thế nào ạ? Nó có suôn sẻ chăng?”
Coswold nới lỏng sợi dây buộc quanh thắt lưng của mình, duỗi thẳng chân về phía trước, ngả người ra ghế. “St. Biel là một nơi thật khốn khổ. Nó lạnh khi đáng ra nên ấm áp và nóng như lửa thiêu khi mà nó đáng ra phải lạnh.”
“Cậu có tìm được kho báu cho nhà vua không?”
“Không.”
“Nó có tồn tại chứ ạ?”
Hắn trả lời ngay tắp lự. “Không.”
Chẳng có lý do gì để hắn nói cho ả biết suy nghĩ thật của mình. Với kiểu mê đắm mà ả dành cho Percy, hễ sơ sẩy chút là Isla có thể sẽ buột miệng
nói ra hết những những gì hắn nói. Tình yêu khiến cho đàn bà trở nên ngu ngốc.
Coswold không hề cho ai biết chuyện hắn tin kho báu kia có tồn tại. Hắn dự định tìm nó và giữ cho riêng mình. Hắn hoàn toàn không muốn chia dù chỉ một đồng vàng cho vua John, kẻ đã lừa dối hắn hết lần này đến lần khác. Với khối tài sản kếch xù trong tay, Coswold có thể xây dựng quân đội và giành lấy bất cứ thứ gì hắn muốn vào bất kì lúc nào. Ôi, nghĩ về sự tự do như thế khiến cho đầu óc hắn quay cuồng.
Để đạt được giấc mơ của mình, hắn cần phải hành động. Gabrielle nắm giữ chìa khóa của nơi cất giấu vàng kia. Hắn tin rằng bí mật về kho báu bị giấu kia đã được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nếu hắn không có được nàng, với ý định moi được chút thông tin từ nàng, vậy thì hắn phải chắc chắn nàng sẽ được trao cho một người hắn có thể lợi dụng. Và hắn đã nghĩ được một người rất lý tưởng.
“Vài ngày nữa ta phải khởi hành cho một chuyến đi dài khác,” Coswold nhấn mạnh.
“Cậu phải đi xa lắm không ạ?”
Hắn gật đầu. “Phải đến tận vùng cao nguyên.”
Ả giật nảy mình. “Cậu định đến tu viện Arbane sao ạ?”
“Ta phải gặp vua John trước để bẩm báo cho ngài những vấn đề liên quan đến St. Biel. Thật may, giờ ngài đang ở phương Bắc, sau khi chúng ta gặp mặt, ta sẽ tiếp tục đến vùng cao nguyên.”
“Đến tu viện.” Ả ta gật đầu khi đưa ra lời khẳng định. “Ta có một nơi khác phải đến, khi ta xong việc ở đó, ra sẽ đi thẳng đến tu viện. Ta sẽ có mặt ở hôn lễ sớm thôi.”
Isla hít một hơi thật sâu để lấy can đảm. “Cháu biết nếu cháu đòi hỏi thêm nữa là không phải, nhưng cháu có thể đi cùng cậu được không? Cháu muốn được nhìn thấy tiểu thư kết hôn. Cháu chắc đó sẽ là một buổi lễ thật long trọng.”
Giờ thì ả lại dối gạt hắn. Ả không hề có hứng thú với việc tham dự lễ
cưới của tiểu thư Gabrielle. Percy sẽ có mặt ở đó và ả muốn gặp hắn. Coswold định cự tuyệt lời thỉnh cầu của ả, nhưng rồi hắn đổi ý. Đứa cháu gái này có lẽ sẽ giúp ích được cho hắn.
Ả buồn bã cúi thấp đầu, đón nhận lời chối từ khi hắn còn chưa mở lời. “Được, con có thể đi cùng.”
Ả ngẩng phắt đầu lên. Vui mừng khôn tả, nước mắt lập tức dâng đầy trong mắt. Ả sẽ nhanh chóng được gặp tình yêu trong đời của mình, không biết chừng ả sẽ tìm được cách khiến cho hắn yêu mình. Bất cứ chuyện gì cũng đều có khả năng. Và Isla sẽ làm bất cứ việc gì để có thể gả cho nam tước Percy.
Bất cứ việc gì.
CHƯƠNG 5
H
ọ sẽ chôn em trai của Machugh giữa chiến trường, để tiêu khiển, họ quyết định phải chôn sống hắn.
Cánh đồng được chọn để thi hành bản án được gọi là Finney’s Flat, vùng đất thánh của dòng họ MacKenna. Người trong thị tộc gọi nó là thung lũng MacKenna, bởi có rất nhiều chiến binh dũng cảm của họ đã tử trận tại nơi này. Khi trận chiến cuối cùng kết thúc, mặt đất đã bị nhuộm đen bởi máu của người nhà MacKenna.
Lãnh chúa Colm MacHugh từng là người dẫn đầu cuộc tàn sát này. Vị thủ lĩnh vĩ đại và những chiến binh dũng mãnh của hắn đã ập xuống ngọn núi như một vạc dầu sôi tràn ra, chúng hung hăng hủy diệt mọi thứ trên đường đi của chúng. Thanh kiếm sáng bóng của chúng vung lên, tiếng hô hào vì cuộc chiến thống nhất của chúng làm rung động cả những hòn đá lởm chởm. Với những chiến binh của dòng họ MacKenna đang chờ bên dưới để nghênh đón trận chiến, đó là một khung cảnh hãi hùng.
MacHugh là cảnh tượng đáng sợ nhất trong tất cả. Cho đến ngày hôm đó vài chiến binh MacKenna từng không tin rằng vị lãnh chúa kia thật sự tồn tại, bởi những câu chuyện về sự tàn nhẫn của hắn nơi chiến trường và những chiến công hiển hách của hắn không thể nào là thật được… trừ phi, như những lời đồn đại ngoài kia, MacHugh kỳ thật giống một con quái vật hơn là con người.
Vài người từng nhìn thoáng qua hắn ta đều thề rằng hắn là nửa người nửa sư tử: gương mặt góc cạnh của hắn, mái tóc óng vàng tựa như chiếc bờm của sư tử và sự hung ác nơi chiến trường hệt như loại động vật kia. Chỉ trong một thoáng, hắn vồ lấy người tiếp theo, có thể xé toạc con mồi bằng tay mình.
Hoặc đó là những gì được đồn đại.
Những chiến binh sáng suốt cười nhạo câu chuyện hoang đường đó. MacHugh là cái bóng của sức mạnh siêu nhiên, họ đều nhất trí như thế. Hắn ta biến mất nếu muốn, nhưng khi bóng của hắn ta đến gần, kẻ đáng thương kia chỉ có thể quỳ gối xuống mà cầu xin chút lòng từ bi. MacHugh bất khả chiến bại, không thể tóm hay bắt được. Điềm báo duy nhất khi hắn sắp tấn công là âm điệu vang lên trước đó. Âm điệu của bóng đêm. Tiếng hô hào nơi chiến trận của hắn là bản giao hưởng hoàn hảo với tiếng xé gió khi thanh kiếm của hắn vung giữa không trung. Khi người lính nghe được âm thanh đó, cũng là khi anh ta mất mạng.
Lãnh chúa Owen MacKenna biết rõ rằng Colm MacHugh là con người bằng xương bằng thịt. Trong một năm qua, MacKenna có hai lần đứng trong cùng một sảnh lớn với hắn và hai mươi lãnh chúa khác. Họ tập hợp trong một buổi hội họp theo lệnh của vua Scotland. MacHugh vĩ đại kia không hề nói chuyện trực tiếp trong suốt thời gian đó, nhưng MacKenna vẫn cảm nhận được sự sắc bén trong lời nói của hắn. Khi vấn đề có thể gây ảnh hưởng đến vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau của họ được đưa ra, nhà vua và các lãnh chúa khác đều quay sang hỏi ý MacHugh, như thể đất đai và quyền lực của hắn quan trọng hơn MacKenna rất nhiều. Lúc nào cuộc tranh luận cũng là về Finney’s Flat – thung lũng trải dài tiếp giáp lãnh địa của MacHugh lẫn MacKenna. Vùng đất màu mỡ không có lấy một hòn đá, rất thích hợp để họ chăn thả đàn cừu và trồng chút ít lúa mạch, nhưng chẳng một nhà quý tộc nào được sở hữu nó. Nó thuộc về John, vua trị vì nước Anh, nó đã được vua Scotland tặng cho John từ nhiều năm trước như một món quà hữu nghị. Mỗi lần MacKenna cố chiếm một mảnh đất nhỏ cho mình, MacHugh sẽ nhúng tay vào và đẩy lùi anh ta.
Ôi, MacKenna khinh thường người đàn ông này. Mỗi lần anh ta hít thở, sự thù hận lại tăng lên cho đến khi nó gần như nuốt chửng anh. Không có ngày nào trôi qua mà trong đầu anh ta không có ít nhất một ý tưởng đen tối về vị lãnh chúa kia, nhưng điều khiến cho Owen hậm hực nhất là biết
được MacHugh không dành ra lấy một phút nào để bận tâm đến người của dòng họ MacKenna. Họ còn chẳng xứng để bị căm ghét.
Owen nhận ra sự ganh ghét đầy tội lỗi này. Lòng đố kỵ đang ăn mòn anh và anh ta cảm thấy mình hoàn toàn bất lực trước nó. Anh ta mơ ước có thể hủy diệt MacHugh, nhưng anh ta không dám thú nhận nó với linh mục của mình, anh ta rất sẵn lòng bán linh hồn của mình cho quỷ dữ để có được thứ mà mình muốn.
Tham vọng của anh ta có rất nhiều. Anh ta muốn có quyền lực của MacHugh. Anh ta muốn có đồng minh của mình: dòng họ Buchanan, dòng họ Maitland và dòng họ Sinclair. Anh ta muốn có sức mạnh và sự nghiêm khắc của riêng mình. Anh ta muốn nỗi sợ hãi vị lãnh chúa này ngấm sâu vào kẻ thù của mình; anh ta muốn lòng trung thành mà anh ta yêu cầu từ những người bạn của mình. Anh ta muốn lãnh thổ và tất cả mọi thứ MacHugh đang nắm giữ. Hơn tất cả, Owen khao khát được báo thù.
Hôm nay là ngày anh ta có thể giải thoát mình khỏi sự đố kỵ. Hôm nay là ngày mà anh ta sẽ đòi lại sự công bằng.
Một ngày thật tuyệt vời để tiến hành một… hoặc nhiều cuộc hành hình nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ và thật nhiều người của MacHugh bị giết. Tiếc là anh ta không thể chứng kiến, nhưng anh ta phải tránh xa khỏi buổi hành hình để mình không bị dính líu gì đến nó, anh ta có thể biện minh cho sự vô tội của mình và linh mục ở tu viện Arbane sẽ làm chứng cho sự hiện diện của anh ta.
Owen vạch ra kế hoạch rất thận trọng và chọn lựa kỹ càng binh lính thực thi cuộc chôn sống ấy.
“Thời gian,” anh ta giải thích, “nó là thứ quan trọng nhất. Ngươi phải đợi đến khi nhìn thấy lãnh chúa MacHugh đứng trên sườn đồi nhìn xuống khu đất phẳng trước khi ngươi chôn sống em trai hắn. Hắn sẽ biết đó là ai, nhưng hắn không thể ngăn cản được nó. Đừng lo. Mũi tên của hắn không thể bắn được xa đến thế, ngựa chiến của hắn cũng chẳng biết bay. Khi hắn đến được bên cạnh người em trai xấu số của mình thì đã quá trễ rồi, ngươi
và người của mình cũng đã kịp tháo chạy.”
“Toán binh lính sẽ mai phục sau hàng cây ở phía Tây. Chỉ cần MacHugh đến gần, họ sẽ bao vây và tấn công hắn.”
Anh ta xoa đôi tay mình với vẻ vui sướng đầy ác ý và nói thêm, “Nếu mọi chuyện suôn sẻ, cả hai người lãnh chúa Colm MacHugh và em trai Liam của hắn đều sẽ bị chôn vùi trước khi màn đêm buông xuống.”
Người lính mà Owen giao việc giám sát quá trình chôn sống có đôi vai rộng tên là Gordon. Owen bắt gã lặp lại mệnh lệnh của anh ta để chắc chắn gã đã nắm rõ tầm quan trọng của việc tiến hành mọi chuyện đúng lúc.
Binh lính có chút khó khăn khi bắt Liam MacHugh. Chúng phục kích hắn ta ngay khi hắn đi ngang qua khu rừng. Chúng đánh hắn ta tới tấp rồi tháo giày của hắn, dùng một sợi thừng lớn trói quanh cổ chân và kéo lê hắn sau vó ngựa về phía chiếc hố nhỏ sâu hoắm mà chúng đã đào từ trước.
Trong lúc căng thẳng chờ đợi MacHugh lên đến sườn đồi và cũng đợi Liam tỉnh lại để hắn ta biết được chuyện đang diễn ra, sáu trong số bảy binh lính xúm lại trao đổi về việc chôn sống Liam.
Cuộc trao đổi biến thành một cuộc cãi vã. Ba người lính muốn em trai của MacHugh bị chôn phần đầu trước, chỉ để bàn chân của hắn ta lộ ra trên mặt đất. Khi ngón chân hắn thôi động đậy, chúng sẽ biết chắc là hắn đã chết. Ba người còn lại muốn ném chân anh ta xuống hố trước. Chúng muốn nghe hắn ta gào thét và van nài được tha cho đến khi xẻng đất cuối cùng phủ lên trên đỉnh đầu hắn.
“Biết đâu nó sẽ không tỉnh lại,” một người lính tranh luận. “Tao thích chôn đầu nó xuống trước hơn.”
“Nó còn chẳng rên rỉ lấy một tiếng khi bị chúng ta đánh. Sao mày lại nghĩ giờ nó sẽ gào thét xin tha được đây?” Một tên khác hỏi. “Nhìn mà xem sương mù đang xuống kìa. Gần như bao phủ mặt đất và ngập hết giày tao rồi. Đằng nào thì mày cũng sẽ chẳng thấy được đầu của nó nếu đám sương mù trở nên dày hơn đâu.”
“Tháo chiếc khăn trùm đầu ra và tạt thẳng một xô nước vào mặt nó, nó
sẽ tỉnh ngay thôi,” một tên khác đề nghị.
“Chôn đầu nó xuống trước.”
“Chôn chân trước,” một tên lính hét lên, xô đẩy người vừa cãi lại ý của hắn.
Gordon biết sớm muộn gì cuộc tranh cãi cũng sẽ biến thành ẩu đả. Hắn dán mắt lên phía đỉnh đồi và tuyên bố mình sẽ là người đưa ra quyết định sau cùng.
Liam MacHugh sẽ bị chôn từ chân lên đầu.
C
CHƯƠNG 6
hẳng có gì khác thường nếu lần đầu tiên cô dâu được gặp chú rể của mình là trong buổi hôn lễ, nhưng Gabrielle hy vọng ít nhất cũng
được nhìn thoáng qua người đàn ông ấy trước ngày đó. Thông tin duy nhất mà nàng có được về lãnh chúa Monroe là ông ta là một người đàn ông đứng tuổi. Tuy nhiên, không một ai cho nàng biết rằng ông ta già đến mức nào, trong lòng nàng ngập tràn lo lắng. Lỡ như ông ta là một tên xấu xí thì sao? Hoặc ông ta già đến nỗi không thể đứng thẳng được nữa? Hoặc chẳng còn chiếc răng nào và chỉ có thể húp cháo? Nàng biết rằng không nên quá xét nét tuổi tác và ngoại hình của ông ta, nhưng nếu ông ta có tính cách tàn bạo thì thế nào? Hoặc tệ hơn nữa, nếu ông ta rất hung dữ với những người xung quanh thì sao? Nàng có thể chung sống với người đối xử tệ bạc với những người sống phụ thuộc vào mình hay không?
Mẹ nàng thường nói rằng nàng hay lo lắng thái quá, nhưng chẳng phải những gì chưa biết luôn là một nỗi lo sợ đó sao? Với Gabrielle chính là như thế. Ôi, nàng ước gì giờ đây mẹ có mặt để cho nàng lời khuyên. Bà có thể trấn an những nỗi lo của Gabrielle. Nhưng mẹ nàng đã qua đời vào mùa đông hai năm về trước. Khi Gabrielle nhận thấy mình đã may mắn biết bao khi có bà trong suốt bao nhiêu năm như thế, cũng là những lần nàng khao khát được trò chuyện với bà nhất. Hôm nay cũng thế, bởi Gabrielle sắp phải tới hôn lễ của mình.
Hai mươi binh lính và đội ngũ người hầu tháp tùng Gabrielle cùng cha nàng đi đến vùng cao nguyên của Scotland. Đích đến của họ là tu viện Abrane, nơi sẽ diễn ra hôn lễ của nàng trong tuần tới. Phòng ốc trong tu viện đã được chuẩn bị để đoàn người nghỉ ngơi sau chuyến hành trình mỏi mệt.
Đám người leo lên dốc núi một cách chậm chạp và khó nhọc. Càng gần đích đến, Gabrielle lại càng tỏ ra hờ hững.
Con đường mòn nhỏ hẹp và cằn cỗi, nhưng cha nàng vẫn có thể cưỡi ngựa đi cạnh nàng mỗi khi họ đi qua khúc quanh. Nam tước Geoffrey đang cố nghĩ cách để làm vơi đi những lo ngại của nàng về tương lai.
Ông chỉ xuống thung lũng xanh tươi bên dưới. “Con có để ý thấy rằng mọi thứ ở nơi này đều rất tươi tốt không, Gabrielle?”
“Có, thưa cha, con có thấy,” nàng hờ hững đáp lời.
“Con có thấy bầu không khí nơi vùng cao này rất trong lành và đầy sức sống không?”
“Thưa có ạ,” nàng nói.
Ngài nam tước quyết tâm vực dậy tinh thần cho cô con gái của mình. “Những người ở vùng cao nguyên tin rằng họ đủ cao để có thể chạm đến bầu trời. Con nghĩ sao?”
Mơ mộng như thế chẳng giống cha Gabrielle chút nào. Mẹ nàng từng là một người mơ mộng, những giấc mơ của bà đều được truyền cho con gái. Nhưng cha nàng không phải người như thế. Ông là một thủ lĩnh, người che chở và là người đàn ông vô vùng thực tế.
“Con cho rằng họ đã nhầm,” nàng đáp. “Chúng ta chẳng đủ cao để chạm đến bầu trời từ đây. Chỉ khi ở St. Biel thì chuyện đó mới có thể xảy ra.” “Sao con biết được?”
“Từ mẹ,” nàng trả lời.
“À,” nam tước Geoffrey nở nụ cười u buồn. “Chính xác thì bà ấy đã nói gì với con vậy?”
“Mẹ lần nào cũng nói như nhau, rằng khi mẹ đứng bên tượng của thánh Biel nhìn về phía bến cảng, mẹ cảm thấy mình đã ở nơi gần với bầu trời nhất có thể trên mặt đất này.”
Những ngón tay của Gabrielle vuốt ve mặt dây chuyền vàng nàng đeo trên cổ. Nó được làm từ một đồng tiền vàng được khắc hình chân dung thánh Biel. Nàng đã có nó từ rất lâu, đến mức nàng chẳng nhớ được. Mẹ
nàng cũng có một cái như vậy đã được chôn cùng bà.
Ông để ý thấy hành động của nàng. “Cha cũng nhớ bà ấy,” ông nói. “Nhưng bà ấy sẽ luôn ở trong tim chúng ta.” Buông một tiếng thở dài, ông nói, “Con có thấy bầu trời xanh đến nhường nào không? Xanh hệt như đôi mắt mẹ con vậy.”
“Con có thấy,” nàng nói. “Và con cũng thấy cha cứ nhắc đi nhắc lại rằng vùng đất này đáng yêu biết bao. Hẳn là cha phải có động cơ nào đó nhỉ?” Nàng nói đùa.
“Cha muốn con thưởng thức quang cảnh xung quanh và muốn con cảm thấy hài lòng với nơi này cũng như cuộc hôn nhân của mình, Gabrielle à.” Nàng muốn cãi lại. Cuối cùng chỉ cần hài lòng là được sao? Phải chăng đam mê, tình yêu và sự hào hứng chỉ là mơ ước? Có khả năng nào có được tất cả những thứ đó hay không? Nàng muốn hỏi cha nàng những điều ấy, nhưng nàng không thể. Nàng mím chặt môi. Sau đó, nàng quyết định sẽ thực tế hơn, giống cha nàng vậy. Nàng là một phụ nữ trưởng thành, không lâu nữa sẽ trở thành một người vợ. Đây là lúc để nàng ném những ước mơ ấu trĩ của mình đi.
“Con sẽ cố thưa cha.” Nàng hứa.
Bước đi của họ chậm lại lần nữa vì đoạn dốc gập ghềnh. Cha nàng thấy được vẻ mặt và nỗi buồn trong mắt nàng. “Con gái,” ông bực dọc nói, “không phải con đang đến một lễ tang đâu. Đó là hôn lễ của con đấy. Vui lên nào.”
“Con sẽ cố ạ.” Nàng hứa.
Một giờ sau đoàn người dừng lại để lũ ngựa được nghỉ ngơi và họ cũng có thể thư giãn đôi chút, cha nàng yêu cầu Gabrielle cùng ông đi tản bộ. Họ không mở miệng lấy một lời cho đến khi họ dừng lại nghỉ ngơi dưới tán cây bạch dương gần một con suối.
“Cha đã từng gặp lãnh chúa Monroe và vài người trong gia đình cậu ta. Cậu ta sẽ đối xử tốt với con.”
Nàng chẳng muốn nói về người chồng tương lai của mình, nhưng cha
nàng có vẻ rất chắc chắn.
“Vậy con cũng nên tốt với anh ta,” nàng nói. Nam tước lắc đầu. “Con thật là cứng đầu.”
Nàng quay lại đối mặt với ông. “Thưa cha, có chuyện gì mà cha cảm thấy khó mở lời với con vậy?”
Ông thở dài. “Cuộc sống của con sẽ thay đổi khi con trở thành một người vợ. Con sẽ không được bình đẳng trong hôn nhân của mình và con phải chấp nhận nó.”
“Mẹ được bình đẳng với cha, chẳng phải sao?”
Ông mỉm cười. “Phải,” ông thừa nhận, “nhưng bà ấy là ngoại lệ.” “Có lẽ con cũng sẽ là một ngoại lệ.”
“Lúc nào đó có lẽ con sẽ như thế,” ông tán đồng. “Cha không muốn con lo lắng về người chồng tương lai của mình. Cha đã được đảm bảo rằng anh ta sẽ không dùng vũ lực với con. Con cũng biết mà, có những người chồng khá là thô lỗ với vợ mình.” Có chút chán ghét trong giọng nói khi ông nhắc đến sự thật này.
“Cha à, con nghĩ cha lo lắng cho cuộc hôn nhân này hơn cả con đấy. Cha thật sự đã nghĩ xem con sẽ làm gì nếu chồng con, hoặc bất cứ người đàn ông nào khác, dùng bạo lực với con sao?”
Hơi thất vọng, ông trả lời, “Không, cha không hề nghĩ. Cha biết chính xác con sẽ làm gì vì cha đã thấy buổi luyện tập của con.”
Trước khi nàng có thể chen ngang, ông nói tiếp, “Tuy nhiên, mọi thứ sẽ thay đổi khi con bước chân vào ngưỡng cửa hôn nhân. Con sẽ không còn được tự do làm những gì con muốn nữa. Con phải quan tâm đến cảm giác và nhu cầu của chồng mình. Trước nay con vẫn rất tự lập, nhưng nay con phải học cách kiềm chế lại.”
“Cha đang muốn nói con phải từ bỏ sự tự do của mình sao?” Ông thở dài. Xem ra con gái ông rất hoảng hốt với suy nghĩ đó. “Đại loại vậy,” ông lấp lửng.
“Đại loại vậy?”
“Khi con kết hôn,” nam tước Geoffrey nói tiếp, “con sẽ phải chung giường với chồng con và…” Ông nhận ra cuộc nói chuyện đã đi về đâu một cách quá muộn màng. Ông dừng lại, ho vài tiếng để che lấp sự lúng túng của mình. Ông đã nghĩ gì khi lái sang đề tài này kia chứ? Nói về chiếc giường tân hôn với con gái là chuyện ông không thể làm được. Sau một hồi cân nhắc ông quyết định sẽ mời một người phụ nữ có tuổi giải thích cho nàng hiểu chuyện sẽ xảy ra vào đêm tân hôn. Vậy thì ông không cần phụ trách việc này nữa.
“Cha đang nói gì thế ạ?” Nàng thúc giục.
“Chúng ta sắp đến tu viện rồi,” ông ấp úng nói. “Cha cược là còn khoảng chừng một giờ hoặc hơn chút ít và cũng gần Finney’s Flat hơn nếu đi về hướng ngược lại.”
“Trời vẫn còn sớm. Vẫn đủ thời gian để chúng ta ghé qua nhìn nơi ấy một chút.”
“Con quên rằng cha phải qua chào hỏi lãnh chúa Buchanan sao?” Ông hất đầu về phía Tây. “Khi chúng ta đến con dốc tiếp theo, cha sẽ rời đi. Khi ta đến nhà ông ấy hẳn là trời đã chập tối. Con và những người khác sẽ tiếp tục đi đến tu viện.”
“Con và cảnh vệ đi xem vùng đất bằng để những người khác đi tiếp có được không ạ? Con đảm bảo sẽ không mất nhiều thời gian để bắt kịp họ đâu. Con rất tò mò muốn thấy món quà hồi môn mà vua John đã ban tặng cho con.”
Ông cân nhắc yêu cầu của nàng trong một lúc lâu trước khi đồng ý. “Con phải dẫn theo bốn cận vệ bên mình và phải mang theo cung tên của mình, phải thận trọng trước mọi nguy hiểm. Và con phải hứa với cha là con sẽ không để lỡ thời gian và đây phải là một chuyến đi không có gì sơ suất. Nếu được như vậy thì cha sẽ cho phép con.”
Cô cố nhịn cười. “Không có gì sơ suất sao, thưa cha?”
Nhìn vào ánh mắt lấp lánh của cô, nam tước Geoffrey chợt thấy sửng sốt trước con gái mình. Với mái tóc đen và đôi mắt xanh tím, con bé thật
giống mẹ. Gabrielle đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp và lôi cuốn. Niềm tự hào dâng lên trong ngực ông khi nghĩ đến những thành tựu mà nàng đã đạt được. Nàng có thể đọc, viết và nói bốn thứ tiếng, rất lưu loát. Mẹ nàng thấy rằng Gabrielle giỏi trong những việc của phái nữ, còn ông thấy nàng có thể học tốt những việc thực tế hơn. Nàng có thể cưỡi ngựa giỏi không thua gì một người đàn ông, cũng không hề dè dặt trước bộ cung tên của mình. Thật lòng mà nói, nàng nhắm mục tiêu chính xác hơn cả ông.
“Không sơ suất sao, thưa cha?” Gabrielle lặp lại câu hỏi, tự hỏi vì sao cha nàng lại phân tâm như thế.
Ông thoát khỏi sự trầm tư của mình. “Con biết ý của cha là gì. Đừng có giả ngây ngô với cha. Con rành nhất là mấy trò tinh quái đấy.” Nàng cãi lại. “Con không thể hình dung được sao cha lại nghĩ…” Ông cắt ngang. “Hứa với cha chuyến đi này sẽ không có gì sơ suất và cũng không có trò tinh quái nào. Ta muốn con hứa, con gái à.” Nàng gật đầu. “Con hứa. Sẽ không có trò tinh quái và đây sẽ là một buổi chiều yên lành.”
Không giỏi trong việc thể hiện tình cảm, nam tước Geoffrey lúng túng vỗ nhẹ lên vai nàng rồi quay về chỗ mấy con ngựa.
Gabrielle vội vàng đuổi theo. “Cha ơi, cha lo lắng nhiều quá rồi. Con sẽ cẩn thận như con đã hứa mà, thế nên cha bỏ vẻ mặt cau có ấy đi. Sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu.”
Hai giờ đồng hồ sau đó nàng phải kết thúc sinh mạng của một người.
G
CHƯƠNG 7
abrielle đã làm gián đoạn một cuộc giết chóc.Nàng chỉ muốn tìm chút thú vui để xua đi những lo lắng trong lòng, nhưng chắc chắn
nàng không hề muốn tận mắt chứng kiến chuyện kinh hoàng thế này. Con đường trở nên dễ đi hơn, thật sự tiếp thêm sinh lực cho đoàn người. Sau khi nàng ngoan ngoãn hôn lên gò má râu ria của cha mình và chúc ông có chuyến đi chào hỏi gia tộc Buchanan an toàn, nàng cố ép mình bước đi, không được chạy, đến bên con ngựa của nàng, Rogue. Thậm chí nàng cho phép người lính Stephen đỡ mình ngồi lên yên ngựa. Rouge dậm chân sẵn sàng, dường như nó cảm nhận được rằng không lâu nữa nó sẽ được phép phóng mình vào trong gió vậy.
Nghĩ chắc nam tước Geoffrey vẫn đang nhìn theo, Gabrielle vờ như một thiếu nữ nhu mì, sẽ không cho phép Rogue phi nước đại như theo bản tính vốn có của nó. Nàng buộc nó phải bước đi thật chậm rãi. Nàng có cảm giác cha nàng biết rõ nàng đang muốn làm gì, vì thế nàng mỉm cười và quay lại vẫy tay với ông lần nữa trước khi nàng khuất khỏi tầm nhìn của ông.
Khi nàng được tự do để làm theo ý mình, Gabrielle liền buông lỏng dây cương và thúc nhẹ Rogue một cái. Con ngựa lập tức phi nước đại, khi họ lao về phía đỉnh đồi gần nhất, Gabrielle cảm thấy như mình đang bay lên. Nàng cười lớn với niềm hứng khởi có được trong khoảnh khắc ấy. Bao gánh nặng đè nặng trong lòng nàng dần dần tan biến.
Như thường lệ, Stephen dẫn đường. Christien và Lucien phòng vệ ở hai bên, còn Faust, người trẻ tuổi nhất, cưỡi ngựa đi sau cùng, phòng vệ sau lưng nàng. Bốn người lính có lẽ là anh em, họ có vẻ ngoài rất giống nhau với mái tóc màu vàng nhạt, mắt xanh và làn da rám nắng khô ráp. Trang phục của họ cũng giống nhau, đồng phục của binh lính, một màu đen
tuyền, biểu tượng hoàng gia của St. Biel rất nhỏ, khó nhận thấy được thêu ở vị trí trái tim của họ.
Tuy nhiên, tính cách của họ thì hoàn toàn khác nhau. Có thể vì là người lớn tuổi nhất và là chỉ huy của ba người lính còn lại, Stephen lúc nào cũng nghiêm nghị và hiếm khi nở nụ cười. Christien luôn nói ra những gì mình nghĩ và rất dễ nổi nóng; Lucien có một bộ óc hài hước tuyệt vời, còn Faust là người yên tĩnh nhất.
Tất cả đều nói tiếng mẹ đẻ của mình. Giống Gabrielle, họ có thể hiểu và nói được tiếng Gaelic, nhưng họ không thích nói cho lắm. Gabrielle biết mình đã may mắn nhường nào khi có được lòng trung thành của bốn người này. Họ là người bảo vệ nàng trong suốt khoảng thời gian nàng đã sống. Họ che chở mỗi khi bản tính thích mạo hiểm của nàng khiến nàng lâm vào những tình huống ngặt nghèo và họ giúp nàng giữ bí mật – kể cả với cha nàng khi nàng không muốn ông phát hiện ra những lần nàng lén lút trốn ra ngoài. Sự an toàn của nàng luôn là mục tiêu hàng đầu của họ, nhưng nàng đánh giá cao lòng tin của họ hơn. Họ đã nhiều lần cứu nàng thoát khỏi nguy hiểm, kể cả khi việc đó đe dọa đến mạng sống của họ. Chỉ mới tháng trước thôi Faust hộ tống nàng đến chợ làng. Nàng dạo quanh các gian hàng thì có hai kẻ say xỉn bám theo, nụ cười xấu xa đã tiết lộ ý định đen tối của chúng. Ngay khi chúng tiến về phía nàng, Faust đã đứng chắn về phía trước và quật ngã hai tên đó trên mặt đất trước khi chúng hiểu được chuyện gì đang xảy ra.
Nàng nhớ lại một sự cố xảy ra vào năm ngoái. Nàng đang trên đường đến chuồng ngựa của cha để xem thử chú ngựa con vừa chào đời. Ngay khi nàng rẽ vào khúc quanh của chuồng, sợi dây buộc chiếc xe chở lương thực trên đỉnh đồi bị đứt làm cho chiếc xe lao về phía nàng với tốc độ kinh người. Nàng chẳng kịp phản ứng gì thì Christien đã túm lấy vai và ném nàng ra khỏi đường đi của chiếc xe, mặc cho bánh xe va vào chân mình. Mắt cá chân của anh bị bầm tím và sưng vù, anh đã không thể đi lại trong suốt nhiều tuần liền.
Nàng áy náy khi nghĩ đến những rắc rối mà mình đã mang đến cho những người đàn ông cứng cỏi này, nhưng rồi nàng bật cười khi nghĩ đến những lần họ phải trông chừng nàng. Có những đêm khi nàng còn bé, Stephen phải canh chừng để nàng lẻn ra khỏi phòng mình nghe những nhạc công chơi đàn trong sân. Nàng vẫn nhớ một buổi chiều nọ, bất chấp lời căn dặn của cha, nàng và cô bạn Elizabeth của mình đã trèo lên cây liễu bên bờ sông và rồi ngã xuống dòng nước đục ngầu bùn đất. Lucien vội đưa hai cô bé đến nhà bếp để tắm rửa và thay bộ quần áo sạch sẽ trước khi nam tước Geoffrey phát hiện ra. Và nàng sẽ không bao giờ quên năm nàng lên chín, có một nhóm người lang thang rách rưới đã đến hạ trại ngay trên bãi cỏ cạnh lâu đài của cha nàng. Nàng được nhắc nhở phải tránh xa họ, nhưng nàng một mực cho rằng tất cả những người đến đều là khách và nên được đối xử như nhau. Nhà bếp đã nướng những chiếc bánh dâu để phục vụ cho bữa tối, thế là Gabrielle đợi đến khi chúng được đặt bên bệ cửa sổ để làm nguội rồi lén gom hết vào trong váy. Nàng vui sướng khi thấy những vị khách ngấu nghiến món ăn một cách ngon lành, nàng sẽ nán lại, thậm chí là chấp nhận lời mời đi cùng họ một lúc mà không hề quay lại để thấy Christien và Lucien đang đứng khoanh tay sau lưng, cách nàng chục bước chân với vẻ mặt cau có. Khi người hầu gái hỏi về vết bẩn khác thường trên váy của Gabrielle đêm ấy, hai người lính không hề nhắc đến việc không vâng lời của cô, nhưng khi họ ở riêng cùng cô bé, họ đã nhắc nhở cô về sự đáng sợ của thế giới này.
Christien và Faust là thành viên mới trong đội cận vệ của nàng, nhưng Stephen và Lucien đã ở bên nàng từ rất lâu rồi. Trong suốt những sự kiện quan trọng, hay cả chuyện vặt vãnh, trong đời nàng, luôn có một người trong số họ hoặc nhiều hơn ở bên cạnh nàng. Kể cả những lúc nàng sa sút nhất, họ vẫn ở đó. Khi bệnh tình của mẹ nàng trở nặng, một lần nữa Gabrielle được triệu đến bên giường bà, trong lòng Gabrielle hiểu rõ đây sẽ là lần thăm viếng cuối cùng của nàng. Hai ngày đau buồn dai dẳng, nàng và cha ngồi bên người phụ nữ đang hấp hối ấy, nắm chặt tay và vuốt ve
vầng trán bà. Rất nhiều người hầu và thầy thuốc đến rồi lại đi trong suốt thời gian ấy, nhưng bên ngoài cánh cửa, mỗi một phút trôi qua trong hai ngày này, bốn người cận vệ của Gabrielle đều đứng trông chừng. Không một ai rời khỏi vị trí.
Giờ đây, Gabrielle sánh bước bên họ đến Finney’s Flat và nhớ lại tất cả những gì họ đã làm cho nàng, nàng thầm nói lên lời nguyện cầu với lòng biết ơn dành cho những người bạn này.
Stephen kéo nàng ra khỏi dòng suy nghĩ miên man của mình khi anh rẽ về phía Đông. Gabrielle đi theo. Sau khi con ngựa được chạy một trận thoải mái, nàng giảm tốc lại. Khung cảnh xung quanh nàng khá trập trùng và được phủ một màu xanh rực rỡ. Có rất nhiều cây thạch nam tím tươi, những cây anh thảo trắng mướt và cây viễn chí trải dài khắp ngọn đồi. Cha nàng từng nói rằng mọi thứ ở Scotland đều rất đáng yêu, nhưng Gabrielle, nhìn ngắm khung cảnh bao la trước mắt, nàng nghĩ rằng vùng cao nguyên này thật hùng vĩ.
Càng lên cao, khí trời càng trở nên lạnh hơn. Mùi nhựa thông nồng đậm, làn gió mát lạnh mơn man trên gương mặt nàng cho cảm giác thật tuyệt vời.
Họ mất gần hai giờ đồng hồ thì lên đến đỉnh. Stephen đã thăm dò trước vùng đất này và nói với Gabrielle rằng chỉ có một con đường để tới được nơi họ muốn đến.
“Bởi chúng ta đến từ phía Bắc, đường đi sẽ là một đường thẳng, nhưng cô thấy đấy, con đường dày đặc cây cối, có lẽ sẽ khó để cưỡi ngựa đi qua. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể kiểm soát được.”
“Nếu chúng ta không thể thì sao?” Christien hỏi. “Vậy thì chúng ta sẽ đi đường khác.” Lucien đáp. “Finney’s Flat nằm phía bên kia đám cây này sao?”
Nàng hỏi.
“Vâng, thưa công chúa.”
Nàng đưa tay che đi ánh mặt trời, hết về phía Đông lại chuyển sang phía
Tây. Những hàng cây dường như trải dài đến tận hết tầm mắt. Cao nguyên này thật rộng lớn.
“Cây cối dày đến mức nào?” Nàng hỏi.
“Tôi chưa thử đi qua hết,” Stephen nói. Anh ngẩng lên ước lượng vị trí của mặt trời rồi nói, “Chúng ta có đủ thời gian để xem thử.” “Nếu lo cây cối quá rậm rạp, chúng ta có thể đến Finney’s Flat từ hướng Đông hoặc Tây không? Có lẽ như vậy sẽ nhanh hơn chăng?” Lucien đặt câu hỏi.
Christien đáp. “Cha của công chúa Gabrielle đã nói có rừng cây ở phía Đông của vùng đất, sau khu rừng ấy là Loch Kaenich. Còn có một khu rừng lớn trải dài ven mặt phía Tây của Finney’s Flat, sau khu rừng đó là những tên Buchanan mọi rợ.”
“Bunchanan mọi rợ?” Lucien tò mò về cách mà Christien gọi dòng họ kia.
“Đó là cách mà nam tước Geoffrey gọi họ, qua những câu chuyện mà ngài ấy kể, tôi không nghĩ cách gọi này là cường điệu chút nào. “Theo tôi biết thì không thị tộc nào cho phép người lạ xâm nhập vào vùng đất của họ cả,” Faust chen vào.
Gabrielle quay lại nhíu mày nhìn người cận vệ ít nói. “Faust à, hiện giờ chúng ta đang đứng trên đất của MacKenna, chẳng ai ngăn cản chúng ta cả.”
“Không, thưa công chúa,” anh chàng đáp. “Chúng ta không ở trên đất của MacKenna. Đúng là lãnh thổ của họ giáp với vùng đất phía Bắc của Finney’s Flat, nhưng chúng ta đang ở đỉnh Đông Nam, mảnh đất nhỏ bé này được cai quản bởi lãnh chúa Monroe, người chồng tương lai của cô. Đây là lý do chúng ta được tự do ở nơi này.”
Nàng chầm chậm đưa mắt nhìn về phía chân trời. Với nàng, vùng đất này trông có vẻ vô cùng hoang sơ. Kể từ khi họ bắt đầu chuyến hành trình dài qua vùng cao nguyên, nàng không hề trông thấy bất cứ một người nào. Phải chăng những người sống ở đây đã lẩn tránh để không phải tiếp xúc
với bên ngoài, hoặc đơn giản chỉ là họ có quá ít người và sống cách nhau rất xa?
“Stephen, nếu chúng ta cố cắt qua phía Đông để đến Finney’s Flat từ phía Bắc thì thế nào?” Nàng hỏi.
“Công chúa, cô không thấy ngọn núi ngay hướng Nam trước mặt chúng ta sao?” Anh hỏi. “Lãnh chúa Buchanan nói với cha ngài rằng gần chân núi có một vách đá cheo leo có rất nhiều tảng đá lớn dựng đứng phía trên Finney’s Flat…”
“Cha cô đã nói với chúng tôi rằng con đường mòn trên vách đá là con đường duy nhất để đi xuống và nó được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Nếu cô có thể nhìn được qua ánh mặt trời này thì cô có thể thấy nó,” Lucien giải thích.
“Từ chân núi đến con đường mòn phía trên đều được cai quản bởi dòng họ MacHugh, họ không tha cho những kẻ xâm phạm đâu.” Faust lên tiếng nhận xét.
“Tha cho kẻ xâm phạm ư?” Nàng cười khi lặp lại câu nói của anh chàng. “Họ… rất nóng nảy,” Christien nói. “Và dễ kích động.”
“Chúng tôi sẽ không để cô đến đó.” Stephen nói.
“Lãnh chúa MacHugh là một kẻ nguy hiểm,” Faust nói. “Đúng vậy, chúng tôi nghe nói dòng họ MacHugh khá hung hăng, người dẫn đầu của họ là một tên man rợ,” Christien nói với nàng.
Nàng lắc đầu. “Tôi sẽ không vội đánh giá một người chỉ vì ai đó nói xấu họ đâu.”
“Cô muốn thế nào, thưa tiểu thư?” Stephen hỏi. “Cô muốn chúng tôi làm gì?”
“Chúng ta sẽ đi bộ băng qua khu rừng ngay phía trước này,” nàng nói. “Đây là con đường ngắn nhất, chẳng phải sao? Cũng là cách hay để chúng ta vận động đôi chân của mình.”
Stephen cúi đầu. “Xin tuân lệnh, công chúa. Tôi đề nghị chúng ta sẽ cưỡi ngựa vào nơi sâu nhất có thể của khu rừng và giấu chúng khỏi những
kẻ tò mò tình cờ đi ngang qua đây. Faust, cậu sẽ ở lại với lũ ngựa khi chúng ta buộc phải đi bộ.”
Cứ như vậy, họ cưỡi ngựa đi được một đoạn khá xa vào sâu trong rừng, tuy có vài lần phải chen qua những bụi cây gai rậm rạp. Hai lần họ phải lùi lại để tìm đường khác, nhưng khi họ vượt qua một con suối hẹp, họ đã có thể tăng tốc. Khi họ đến được bìa rừng, họ xuống ngựa. Giao dây cương của nàng cho Faust, Gabrielle đi theo sau Stephen đang vạch những bụi cây ra để mở đường phía trước.
Mới chỉ dọn được vài bụi cây, Stephen chợt dừng lại và đưa tay ngăn không cho Gabrielle đi tiếp. Nàng đứng bên cạnh anh ta, căng người lắng nghe âm thanh của khu rừng. Trong khi chờ đợi, nàng âm thầm chỉnh lại sợi dây buộc túi đựng tên trên vai và chuyển cung tên sang tay trái để đề phòng. Vài giây sau, nàng nghe thấy những tràng cười sằng sặc và những tiếng chửi rủa thô tục.
Nàng đứng im tại chỗ. Nàng nghe tiếng người nói chuyện, nhưng giọng của họ đã bị bóp méo, không thể nghe ra họ đang nói gì.
Đưa tay ra dấu cho cận vệ của mình để bọn họ không cản trở, nàng từ từ tiến về phía trước. Nàng được bụi cây che giấu rất tốt, nhưng khi nàng nhích người sang trái, nàng có thể thấy được toàn cảnh vùng đất bằng phẳng phía trước. Nàng thấy bảy người đàn ông, tất cả đều mặc như linh mục với chiếc mũ màu nâu trùm qua đầu.
Trong một thoáng nàng cho rằng chúng đang đứng vây quanh một người trong nhóm, cầu nguyện cho linh hồn người đó trước khi chôn xuống lòng đất. Chúng đứng tụ lại quanh một cái giống như cái hố. Gần cái hố còn có những ụ đất mới. Khi thấy rõ được ý định của chúng, nàng suýt thét lên. Người đàn ông thứ tám đang nằm trên mặt đất. Người đó không ăn mặc như linh mục mà mặc chiếc áo sọc màu nhạt. Tay và chân anh ta bị trói chặt, toàn thân nhuốm máu.
Gabrielle đến gần hơn. Nàng nhận thấy bàn tay của Stephen trên vai mình, nhưng nàng lắc đầu và tiếp tục tiến về phía trước. Vẫn được che
chắn bởi bụi cây, nàng quan sát và lắng nghe cuộc tranh luận đang diễn ra. Những người kia đang cãi cọ xem sẽ ném người đang bị trói kia xuống hố theo cách nào. Ba người muốn cho đầu anh ta xuống trước. Những người khác kịch liệt phản đối, chúng muốn đưa chân xuống trước. Một người vẫn giữ im lặng, có vẻ là người chỉ huy, đã ra quyết định cuối cùng. Tất cả chúng đều đồng ý một chuyện: chúng muốn tù binh của mình tỉnh lại để chứng kiến những gì chúng sẽ làm với anh ta.
Gabrielle cảm thấy ghê tởm và kinh hoàng trước đoạn đối thoại mà nàng nghe được qua làn gió. Người tù binh kia đã phạm phải tội lỗi gì? Tội danh của anh ta là gì? Nàng quyết định mặc kệ dù anh ta đã làm gì, bởi không có tội lỗi nào, cho dù tàn ác đến đâu chăng nữa, lại có thể bị trừng phạt một cách tàn nhẫn như thế. Đây là hành động vô nhân đạo.
Lắng nghe cuộc tranh luận ngày càng gay gắt của chúng, nàng đã khám phá ra sự thật. Tội lỗi duy nhất người tù binh của chúng mắc phải chính là tội đồng lõa. Anh ta là em trai lãnh chúa Colm MacHugh.
Cuối cùng tên chỉ huy lên tiếng: “Hamish, trông chừng ngọn đồi bên kia. Chúng ta không thể ném Liam MacHugh xuống lòng đất cho đến khi trông thấy anh trai nó.”
“Gordon, tao đâu có điếc. Mày đã nói tao phải làm gì rồi và tao sẽ làm thế. Tao đã dán mắt vào ngọn đồi rồi. Tao rất muốn biết chúng ta sẽ phải làm gì nếu lỡ lãnh chúa MacHugh không đến cứu em trai hắn đấy.”
“Hắn chắc chắn sẽ đến,” một tên trong số chúng trả lời. “Và khi hắn ta xuất hiện trong tầm mắt, hắn sẽ thấy được chuyện đang diễn ra, nhưng dẫu cho ngựa của hắn lao nhanh mấy đi chăng nữa, hắn cũng sẽ đến không kịp. Em trai hắn đã chết từ lâu, còn chúng ta đã kịp chạy về bên kia ranh giới.”
“Làm thế nào hắn ta biết được người bị chôn là em trai hắn?” Một tên khác hỏi.
Gordon đáp, “Giờ đây tin em trai hắn gặp nạn hẳn đã đến tai hắn. Hắn sẽ không thể thấy được mặt tên này từ khoảng cách xa như thế, nhưng hắn sẽ nhận ra chiếc áo sọc này.”
“Nếu hắn không nhận ra được chiếc áo sọc này từ chỗ xa như thế thì sao?” Hamish hỏi.
“Hắn vẫn sẽ nhìn thấy chúng ta ném tên Liam này xuống hố và chôn sống hắn. Hắn sẽ biết thôi.”
“Nếu hắn không thể nhìn thấy mặt tên này, thì cũng sẽ không thể thấy mặt chúng ta được. Đã vậy sao chúng ta còn phải mặc mấy cái áo choàng này? Nó đang cọ vào da tao này. Cảm giác như mấy con rận đang bò trên người vậy. Nó còn thối nữa, như mùi máng lợn ấy.”
“Thôi càm ràm đi, Kenneth,” Gordon ra lệnh. “Chúng ta mặc áo choàng ăn trộm được vì không muốn cho MacHugh bất cứ cơ hội nào thấy được mặt chúng ta.”
“Nếu hắn biết được là chúng ta làm chuyện này…” Hamish rõ ràng đang run rẩy. “Hắn sẽ làm chuyện còn đáng sợ hơn là chôn sống chúng ta.” Có tiếng tán đồng khe khẽ. “Có lẽ chúng ta nên bỏ nó lại rồi chuồn ngay bây giờ thôi,” Kenneth nói. Hắn bồn chồn lùi xa khỏi cái hố. “Đừng có nói mấy lời ngu ngốc đó,” Gordon nói. “Lãnh chúa MacHugh sẽ không thể biết chúng ta là ai được. Ngươi cho rằng vì sao chúng ta lại lớn lên ở vùng đồng bằng chứ?” Hắn vội nói thêm trước khi có thêm những lời phàn nàn khác, “Còn được trả công hậu hĩnh nữa. Mày muốn bỏ hết à?”
“Không, nhưng…” Hamish bắt đầu.
“Nói chuyện trốn chạy đủ rồi đấy,” hắn quát. Hắn quay về phía tên đứng canh bên cạnh người chiến binh đang bất tỉnh nhân sự và nói, “Đá nó đi, Roger. Xem nó có động đậy hay không. Tao muốn nó phải tỉnh táo khi bị ném xuống hố.”
Roger làm theo mệnh lệnh, lập tức đá vào người bên cạnh hắn. Liam vẫn nằm yên bất động.
“Tao không nghĩ là nó sẽ tỉnh dậy vào lúc này,” Kenneth nói. “Tao đoán nó sắp chết đến nơi rồi.”
“Mày không nên đánh nó mạnh tay như thế, Gordon ạ,” Hamish làu bàu.
“Chúng ta đều có phần đấy,” Roger nhắc nhở.
“Chúng ta chỉ làm theo lệnh thôi mà,” một tên khác xen vào. Gordon gật đầu. “Đúng vậy. Chúng ta chỉ làm theo lệnh, như những người lính trung thành.”
Kenneth đẩy chiếc mũ trùm về phía sau, gãi gãi tai hắn. “Nhắc lại xem nào. Liam MacHugh dùng để làm gì?”
“Tao đã nói với mày cả chục lần rồi,” Gordon quát và xô Kenneth một cái thật mạnh, suýt chút đã đẩy hắn rơi xuống hố.
Tên lính loạng choạng lấy lại thăng bằng. “Nhắc lại lần nữa đi,” hắn nói. “Chúng ta bắt Liam và sẽ giết nó để dụ anh trai nó xuống núi, rồi đám lính đang nấp ở khu rừng phía Đông sẽ phục kích hắn ta.” Kenneth lại gãi tai như đang đuổi con bọ phiền nhiễu. “Những người kia sẽ làm gì khi bắt được hắn vậy?”
Gordon lắc đầu. “Giết hắn, đồ ngu, sau đó sẽ chôn hắn bên cạnh em trai mình.”
Kenneth không hề khó chịu trước cách gọi đó. “Đám lính đó đến từ dòng họ nào? Mày biết đấy, đám người đang nấp đằng kia kìa.” Hắn vẫy tay về phía Đông, nheo mắt nhìn xem có thể thấy được ai ở đó không.
“Đừng bận tâm chuyện họ thuộc về dòng họ nào,” hắn trả lời. “Mày biết càng ít càng tốt.”
“Nhìn kìa! Hình như hắn đang tỉnh lại,” một tên lính khác lên tiếng, dùng chân huých vào người tù binh của chúng.
Roger vui mừng reo lên. “Tốt. Hắn ta sẽ biết chuyện gì đang xảy ra khi chúng ta ném hắn xuống hố. Có chút nước nào để tạt vào mặt hắn không, Manus? Giúp hắn ta tỉnh táo chút nào.”
Trước khi hắn có được câu trả lời, Kenneth nói, “Hắn sẽ không tỉnh lại nữa đâu. Tao quan sát rồi, mắt hắn còn chẳng hé lấy một lần. Hắn chả khác nào người chết cả.”
“Nhưng biết đâu giống Gordon nói, chúng ta tạt nước vào mặt hắn thì…” một tên lính khác đề nghị.
“Tao đã uống hết ngụm nước cuối cùng rồi,” Manus nói. “Chúng ta có thể nhổ vào mặt nó.”
Đám người kia nghĩ đó là một ý kiến hay và bắt đầu đầu bật cười. Gabrielle nghe thấy hai cái tên còn lại khi chúng xô đẩy nhau, hành động như chúng đang tham gia một lễ hội nào đó. Fergus và Cuthbert. Nàng biết ghi nhớ tất cả bảy cái tên này là việc rất quan trọng, ngày nào đó chúng sẽ có ích.
Tiếng cười khằng khặc của Hamish dừng lại khi hắn vô tình ngước lên và trông thấy lãnh chúa MacHugh.
“Hắn kìa! Hắn kìa!” Hamish lóng ngóng kéo chiếc mũ trùm qua đầu. “MacHugh kia kìa!”
Tất cả, kể cả Gabrielle, đồng loạt đưa mắt về ngọn đồi. Bóng một người chiến binh trên lưng ngựa đang lao đi để lại một vệt mờ ảo màu vàng dưới ánh mặt trời.
“Chúng ta vẫn còn nhiều thời gian,” Kenneth nói. “MacHugh không thể bay ngay xuống đây được.”
“Nhìn những người theo sau hắn đi. Tôi đếm được hơn hai mươi rồi đấy,” Manus hét lên, giọng hắn run rẩy đầy sợ hãi.
Gordon bắt đầu hoảng hốt. Hắn dường như nghe thấy âm thanh ngay phía sau mình. Hắn quay lại nhìn, tay đặt lên chuôi kiếm trong tư thế sẵn sàng. Không thấy gì đe dọa, hắn quay lại nhìn từ Đông sang Tây. Chẳng có gì cả.
“Chúng ta lãng phí đủ thời gian rồi,” hắn nói. “Ném nó xuống hố. Chúng ta phải chôn nó và lên đường ngay.”
Roger và Cuthbert vội đến chỗ Liam và lôi anh ta dậy. Đầu của người tù binh gục xuống. Fergus túm tóc anh ta kéo giật về phía sau. “Nó lại nhắm mắt rồi.” Hắn nói, lộ rõ vẻ thất vọng.
“Mắt nó có mở bao giờ đâu,” Kenneth đáp lại.
Chúng đang kéo Liam đến bên cái hố thì âm thanh rầm rầm khiến chúng phải chú ý. Bảy tên đồng loạt quay ngoắt lại và thấy một tốp lính
đang cưỡi ngựa lao qua rừng cây ở bên kia thung lũng. Ngựa của họ phi lướt trên mặt đất và rút ngắn dần khoảng cách. Quá xa, trông họ không khác nào những đốm nhỏ trên đường chân trời.
“Có thể là lính của Buchanan,” Manus thét lên. “Vẫn chưa thấy rõ, nhưng tao đoán là chúng.”
“Chúng sẽ giết chúng ta! Giết chúng ta mất!” Hamish gào lên. Hắn xoay tròn như một con chuột nhắt bị dồn vào góc tường đang cố tìm đường tẩu thoát. “Chúng ta trốn đi đâu được đây? Nơi nào đây?”
Cuthbert và Manus thả cơ thể mềm oặt của Liam xuống. Giọng Gordon vô cùng khẩn trương khi ra lệnh, “Kéo nó dậy. Nhanh lên, đồ chết tiệt. Kéo nó dậy. Khi tao lôi nó xuống ngựa, nó vẫn đang mở mắt, tao là người duy nhất nó biết mặt. Ta phải giết nó trước khi ném xuống hố. Không đủ thời gian để chôn sống nó nữa.”
Cuthbert và Manus không làm theo mệnh lệnh. Cả Roger, Kenneth, Hamish lẫn Fergus cũng không, bọn chúng đều chạy trốn hết rồi. Gordon rút kiếm ra. Cùng lúc đó, Gabrielle cũng với lấy mũi tên và lắp nó lên cung, sẵn sàng bắn.
Lính Buchanan còn ở quá xa để có thể bắn tên đến chỗ này, lính MacHugh đang đổ xuống núi cũng quá xa để có thể cứu được người của họ.
Đột nhiên, có một trận huyên náo khác. Đám lính đang đợi để phục kích MacHugh xông ra khỏi cánh rừng và lao thẳng ra khu đất bằng về phía người của Buchanan. Một cuộc chiến chuẩn bị diễn ra trên diện rộng. Nếu họ không nhanh một chút, Gabrielle và cận vệ của mình sẽ sớm bị cuốn vào nó.
Gabrielle dán mắt vào Gordon, thủ lĩnh của đám xấu xa kia. Kẻ bị chúng bắt vẫn không động đậy. Liam đang nằm dài dưới đất, bên cạnh Gordon, hắn vẫn đang lo lắng liếc nhìn về phía Bắc. Hắn lui lại vài bước, hơi chần chừ, lại bước lên. Gabrielle biết Gordon không thể bỏ chạy mà để mặc Liam lại, anh ta đã thấy mặt hắn.
“Stephen,” nàng nói khẽ, “Nếu tôi bắn trượt…”
“Sẽ không đâu.”
“Nhưng nếu có… hãy sẵn sàng.”
Gordon đã có quyết định. Hắn quay về phía nàng, vung kiếm lên, định chém thẳng xuống Liam.
Mũi tên của Gabrielle đã ngăn hắn lại. Nàng ngắm bắn rất chuẩn, mũi tên xuyên qua da thịt, cắm thẳng vào trái tim đen tối của hắn. Chốc lát sau mặt đất dưới chân nàng gần như trũng xuống khi lính Buchanan đụng độ kẻ thù của mình trên chiến trường. Âm thanh kim loại va chạm vào nhau thật đinh tai. Cuộc giết chóc đã bắt đầu. Cuộc hỗn chiến đang di chuyển về phía nàng. Gabrielle cầu nguyện mong sao Liam MacHugh sẽ không bị lũ ngựa hay đám người kia dẫm đạp trước khi nàng đến được chỗ anh ta. May mắn thay, Christien và Faust đã nhanh chóng dẫn theo ngựa đến bên nàng. Gabrielle leo lên lưng Rogue chuẩn bị lao về phía mảnh đất trống, kéo mũ lên trùm qua đầu, hy vọng trong lúc hỗn loạn không ai trông thấy nàng.
Stephen ngăn nàng lại. Anh biết nàng muốn làm gì. “Christien và tôi sẽ phụ trách việc này. Lucien và Faust sẽ đưa cô trở lại chỗ con suối khi nãy chúng ta đi qua. Nhanh nào, tiểu thư. Cô phải tránh xa nơi này.”
Nàng không muốn mất thời gian để tranh cãi. Cô dùng chân thúc Rogue và quay trở về phía khu rừng. Một lúc sau, Stephen và Christien đã đuổi kịp họ. Gabrielle thầm tạ ơn Chúa vì họ không bị kẹt lại chiến trường.
“Anh ta còn sống chứ?” Nàng xuống ngựa và chạy đến bên Stephen. Liam MacHugh đang được vắt ngang trên yên ngựa của anh. “Anh ta vẫn còn thở,” anh đáp.
“Vậy thì nhanh lên, tôi biết nơi chúng ta có thể tìm được sự trợ giúp.”
CHƯƠNG 8
T
iếng thét xung trận vang vọng trong không khí. Kèm theo đó là những tiếng hét đầy đau đớn.
Lính MacHugh đã gia nhập vào trận chiến. Tạo nên một chiến tuyến không thể xâm phạm, họ tiến lên. Bên phía Buchanan đi theo thủ lĩnh của mình, chỉ trong vài phút ngắn ngủi hai đoàn binh đã vây kẻ thù vào giữa họ. Không hề khoan nhượng. Đây là trận chiến một sống một còn, khi nó kết thúc, mảnh đất đã ngổn ngang xác của những người ngã xuống.
Cuộc tìm kiếm Liam MacHugh diễn ra rầm rộ ngay sau đó. Colm MacHugh nhảy xuống khỏi ngựa và chạy đến bên cái hố mà kẻ thù chuẩn bị cho em trai hắn. Hắn thở phào nhẹ nhõm khi thấy trong hố trống không. Chỉ có một thi thể nằm gần bên ụ đất. Colm không nhận ra tên này. Khi lãnh chúa Brodick Buchanan đến gần thì hắn đang nghiền ngẫm ký hiệu kỳ lạ trên mũi tên đang cắm trên ngực gã đàn ông kia. “Tên này là ai thế?” Colm hỏi.
Brodick lắc đầu. “Tôi chưa từng gặp hắn bao giờ.”
Colm rút mũi tên khỏi ngực người đã chết. “Đây có phải tên của Buchanan không?”
“Không. Tôi còn tưởng là của anh.”
“MacKenna đứng sau chuyện này,” hắn nói.
Brodick lắc đầu. “Không có lính của hắn ta ở đây, đây cũng không phải mũi tên của chúng. Ký hiệu này… tôi chưa từng thấy qua cái nào giống vậy. Ở đây không có dấu hiệu của MacKenna.” Anh ta nhặt sợi dây thừng lên. Trên đó nhuốm máu. “Chúng đã trói em trai anh bằng cái này.”
“Dù sao đi nữa tôi vẫn nghĩ là do MacKenna làm,” Colm khẳng định. “Không có bằng chứng thì anh không thể buộc tội hắn được,” Brodick
đưa ra kết luận.
“Liam không thể bị đưa đi xa được.” Colm quét mắt qua khu rừng xung quanh họ. “Chúng ta tiếp tục lùng sục cho đến khi tìm được nó và kẻ đang giữ nó.”
“Người của Buchanan sẽ giúp anh,” Brodick đưa ra lời cam kết. “Miễn là có thể khiến chúng trả giá cho hành động tàn ác này.”
Hai vị lãnh chúa chia người của họ thành những nhóm nhỏ để tìm quanh vùng, sau nhiều giờ tìm kiếm, các nhóm lần lượt báo cáo lại rằng họ đã tìm khắp mảnh đất này và cả khu rừng, nhưng đều vô ích.
Liam MacHugh đã biến mất không chút tăm hơi.
CHƯƠNG 9
T
ình trạng của Liam MacHugh rất xấu. Kẻ nào đó đã dùng roi quật vào lưng anh ta, da thịt anh ta bị sợi dây thừng cứa nhầy nhụa máu. Chân và lòng bàn chân của anh ta cũng bị đánh đập, máu chảy ra từ vết thương khá sâu phía bên phải đầu anh ta.
Gabrielle biết mình có thể tìm kiếm sự trợ giúp từ những chiến binh ở tu viện Arbane, dù rằng nàng đang vội đến đó, nhưng người đàn ông thương tích đầy mình này cần được cứu chữa ngay.
Họ đi đọc theo con suối cho đến khi tránh đủ xa khỏi chiến trận kia thì dừng lại. Stephen nhấc cơ thể không chút sức sống của Liam MacHugh xuống khỏi ngựa và đặt xuống bên cạnh Gabrielle. Nàng nhẹ nhàng đỡ đầu anh ta dựa vào lòng mình và ấn một mảnh vải lanh lên vết thương bên thái dương anh ta, cố cầm máu, rồi nàng nhanh chóng lau sạch những vết thương khác bằng mảnh vải lụa thấm nước nàng xé ra từ lớp váy lót. Người này cần thuốc chống nhiễm trùng và giảm đau cho vết thương trên lưng. Anh ta cũng cần ai đó giúp khâu miệng vết thương lại. Nàng không muốn làm người khâu vết thương ấy, vì nàng không hy vọng gây thêm nỗi đau nào cho anh ta nữa.
Khúc quanh của con suối khuất sau rừng thông cách Finney’s Flat một khoảng khá xa. Họ hoàn toàn tách biệt và mong rằng sẽ không bị ai quấy rầy. Trong lúc Lucien và Faust canh gác xung quanh, Stephen và Christien ở lại bên cạnh nàng. Khi nàng đang định gọi họ đến di chuyển anh ta, vết thương trên đầu Liam lại bắt đầu chảy máu.
“Công chúa, máu dính hết vào váy cô rồi,” Stephen nhắc nhở. “Tôi không bận tâm chuyện đó,” nàng đáp lại. “Nhưng tôi lo cho anh chàng đáng thương này. Anh ta mất nhiều máu quá.”
“Tôi không nghĩ anh ta có thể qua khỏi,” Christien nói. “Chúng ta nên chuẩn bị cho khả năng đó. Cô muốn chúng tôi làm thế nào với cái xác đây?”
Gabrielle không hề kinh ngạc bởi sự thẳng thắn của Christien. Anh ấy không phải người vô tâm. Anh ấy là người giàu tình cảm, nhưng cũng là người thực tế nhất trong bốn cận vệ.
“Nếu anh ta chết, thì đó là ý của Chúa, nhưng tôi sẽ làm tất cả mọi thứ trong khả năng của mình để cứu sống anh ta.”
“Chúng tôi cũng vậy,” Stephen đảm bảo với nàng. “Tuy nhiên, Christien đã chỉ ra một điểm rất đúng. Tên lính MacHugh này chưa trông thấy cô.” Nàng khẽ cười. “Sao anh ta thấy được? Anh ta còn chưa mở mắt nữa kia mà.”
“Cô không hiểu ý của chúng tôi rồi,” Christien nói. “Cô có thể đang gặp nguy hiểm.”
Stephen tán đồng. “Chúng ta không biết đám người kia là ai hoặc có ai trong số chúng nhìn thấy chúng ta hay không. Mũi tên của cô đã giết chết tên cầm đầu đám người đào cái hố kia, nhưng những tên khác đã chuồn mất. Nếu chúng biết được chúng ta là người đã giết hắn, có lẽ chúng sẽ trả thù. Không thể để ai khác biết được cô đã có mặt ở đó.”
Gabrielle đảo mắt nhìn vẻ mặt ảm đạm của bốn người cận vệ, nàng biết rằng Stephen nói đúng. Nhưng cái nàng băn khoăn không chỉ có sự an toàn của mình. Nếu những người ở Finney’s Flat biết được nàng đã giết người của chúng, chúng sẽ không chỉ truy đuổi nàng, mà còn trả thù lên những cận vệ của nàng nữa. Nàng không thể để chuyện đó xảy ra.
“Các anh muốn tôi làm gì?” Nàng hỏi.
“Khi chúng ta gần đến tu viện Arbane, Lucien và Faust sẽ hộ tống cô vào trong và bảo hộ cô đến nơi nghỉ của mình,” Stephen đề nghị. “Cô có thể dùng áo choàng của mình để che đi vết máu trên váy,” Christien nói.
“Còn người bị thương này thì sao?” Nàng hỏi.
“Chúng tôi sẽ tìm cách khác để đưa anh ta đến tu viện. Những tu sĩ ở đó chắc chắn có thuốc mà anh ta đang cần.”
Christien gật đầu. “Nếu anh ta chết, rất có thể lãnh chúa MacHugh sẽ quy tội cho cô. Cô đã nghe đám hèn nhát kia nói gì về hắn rồi đấy.” “Chúng nói anh ta rất tàn nhẫn,” nàng nói. “Nhưng chính chúng lại có ý định chôn sống một con người. Sao tôi lại phải tin những gì chúng nói chứ?”
Nàng ngăn họ lại trước khi họ kịp cãi lại. “Người này giờ đây thuộc trách nhiệm của chúng ta. Tôi sẽ không giao anh ta cho bất kỳ ai khác. Tất cả chúng ta sẽ tìm cách vào tu viện mà không gây chú ý. Chỉ khi nào tôi chắc chắn anh ta sẽ được chăm sóc tốt thì tôi mới rời khỏi anh ta.”
“Nhưng thưa công chúa…” Christien lên tiếng.
Nàng tiếp tục nói. “Những linh mục kia là người của Chúa, chẳng phải sao? Tôi chỉ cần yêu cầu họ giữ bí mật chuyện Liam đến tu viện bằng cách nào là được. Nếu có được lời hứa của họ, họ không thể và sẽ không phá vỡ nó đâu.”
“Vẫn còn những cách khác mà,” Stephen nói. “Cô không thể để mình bị cuốn vào trận chiến này được.”
Nàng biết họ sẽ không buông tha cho việc này. “Chúng ta thỏa thuận thế này đi. Khi nào Liam được an toàn và có người chăm sóc, tôi sẽ lập tức rời khỏi.”
“Và cô sẽ không nói cho bất kỳ ai biết về chuyện đã xảy ra?” “Tôi sẽ không nói cho ai biết cả.”
CHƯƠNG 10
H
ọ vào đến tu viện một cách dễ dàng chưa từng thấy. Cửa phía Nam ở cuối bức tường bao quanh tòa tu viện không chỉ là không đóng, mà còn mở toang ra. Một linh mục đã đặt viên đá chắn ngay trước cửa để có thể vác những bao ngũ cốc trên xe vào cửa dễ hơn.
Gabrielle và cận vệ của nàng đứng khuất sau rặng cây ở sau tu viện nhìn vị linh mục kia. Nàng nghĩ chắc hẳn những bao tải kia nặng hơn sức của người linh mục. Ông ta không già cho lắm, chỉ khoảng bốn mươi, nàng đoán vậy, nhưng ông ta lại không có nhiều sức cho lắm. Lúc đầu ông ta cố vác bao tải lên vai, suýt chút thì té ngã, cuối cùng ông ta vòng cánh tay qua giữa bao rồi kéo lê nó giữa hai chân của mình.
Ghì dây cương để ngựa tiến đến chỗ cánh cửa, nàng gọi với theo người linh mục. “Thưa cha, cha có cần giúp không ạ?”
Lúc đầu vị linh mục tỏ ra hoảng hốt, sau đó ông gật đầu thật mạnh. “Ta sẽ vô cùng biết ơn nếu được giúp đỡ,” ông hô lên.
Lucien và Faust đã xuống ngựa và đi đến chiếc xe. Lucien nhận ra vị linh mục đang chật vật với cân nặng mà bao tải đè lên ông ấy. “Cha muốn đặt nó ở đâu?” Anh hỏi.
“Ngay sau cánh cửa này phía bên tay trái có một nhà kho. Ta rất biết ơn nếu con giúp ta đặt chúng vào đó.” Ông lấy khăn tay từ thắt lưng chiếc áo choàng của mình ra lau mồ hôi sau gáy. Nở một nụ cười, ông tiến về phía Gabrielle. “Xin chào, ta là cha Gelroy.”
Vừa bước qua cánh cửa thì ông phát hiện ra người bị thương đang nằm vắt ngang trên yên ngựa của Stephen.
“Cái gì thế này?” Ông hỏi. Ông nhanh chóng đến chỗ Stephen để nhìn rõ hơn, ông kinh ngạc trước tình trạng của người này đến nỗi vội làm dấu
thánh. “Chuyện gì đã xảy ra với anh chàng đáng thương này? Anh ta còn sống chứ?”
“Vẫn còn,” Christien trả lời.
Stephen xuống ngựa và nhấc Liam lên. “Cha thấy đấy, người này cần được giúp đỡ. Ở đây có thầy thuốc nào không thưa cha?” “À, có, hơn một người đấy,” ông trả lời nhanh chóng. “Nào, đi theo ta.” Lucien và Faust hoàn thành công việc dỡ những bao ngũ cốc rất nhanh. Gabrielle đã xuống ngựa và giao dây cương lại cho Lucien. Vị linh mục nhanh chân đi về phía cánh cửa trước mặt họ. “Người này có tên chứ?”
Gabrielle đáp. “Anh ta tên là Liam MacHugh.”
Cha Gelroy phản ứng rất nhanh. Ông đứng lại đột ngột nên người bị chúi về phía trước, sau đó ông quay người lại. Vẻ mặt của ông đầy vẻ nghi hoặc, sắc mặt gần như trắng bệch.
“Ta vừa nghe con nói là MacHugh?” Ông có vẻ rất kinh hãi, lớn tiếng hỏi. “Nói cho ta biết phải hay không?”
“Xin hãy nhỏ giọng thôi, thưa cha,” Stephen nhắc nhở. Vị linh mục đặt tay lên trán. Gabrielle có thể thấy được nó đang run rẩy.
“Lạy Chúa tôi. Các con đang giữ Liam MacHugh và cậu ta thì đang hấp hối. Nếu cậu ta chết…”
Gabrielle tiến lên. “Chúng ta vẫn còn hy vọng rằng thầy thuốc có thể cứu anh ta thoát khỏi cái chết,” nàng nói khẽ.
Cha Gelroy buộc mình phải bình tĩnh lại. “Đúng, đúng, chúng ta phải tin tưởng như vậy,” ông lắp bắp nói. “Ta nói cho con hay. Nếu cậu ta chết chuyện sẽ rất tồi tệ. Nhanh nào. Đưa cậu ta vào trong. Phòng bên cạnh phòng ta để trống. Chúng ta sẽ để cậu ta ở đó. Ta dẫn các con đến đó rồi sẽ đi tìm cha Franklin. Ta tin rằng cha ấy có nhiều kinh nghiệm hơn những người khác.”
Lucien và Faust ở lại trông lũ ngựa trong khi Stephen và Christien đỡ Liam đi theo Gabrielle và vị linh mục vào tu viện. Ông dẫn họ vào một
hành lang tối tăm, nhỏ hẹp và có mùi như đang ở trong một cái hang ẩm mốc. Tất cả các cánh cửa đều làm bằng gỗ mục với cánh vòm cong. Cha xứ gõ lên cánh cửa một phòng khi ông đi ngang qua và nói. “Đó là phòng của ta.”
Ông dừng lại trước cánh cửa kế tiếp, dùng khớp tay gõ nhẹ lên để chắc chắn rằng căn phòng vẫn trống, sau đó ông nhấc then cài lên. Đẩy cánh cửa ra, bước vào trong và đứng giữ cho họ vào.
Căn phong bé tí, với chiếc cửa sổ nhỏ phía trên tấm ván gỗ trông như chiếc giường. Một tấm chăn len màu xám phủ lên tấm nệm rơm. Một chiếc ghế đẩu và cái bàn nhỏ, một chiếc ly và bình nước được đặt cạnh hai cây nến trên mặt bàn. Đó là những gì căn phòng có.
“Đặt cậu ta lên giường đi. Nhẹ thôi,” vị linh mục nói. “Hãy để cậu ta nằm nghiêng để cái lưng… ôi Chúa ơi, tấm lưng tội nghiệp…” Ông hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra. “Ta nghĩ cha Franklin đang ở buổi cầu kinh chiều. Ta sẽ bảo ông ấy mang thuốc đến. Khi quay lại, ta sẽ mang theo khăn choàng và chút dầu để làm thánh lễ cuối cùng cho Liam MacHugh.”
Gabrielle phản đối. “Nhưng lễ thánh đó chỉ dành cho người đang hấp hối thôi mà.”
“Con có thể nói với ta rằng cậu ta không phải là đang hấp hối hay không?”
Nàng cúi đầu. “Không, con không thể.”
“Vậy thì cậu ta phải được tiến hành nghi thức xức dầu bệnh nhân để có thể lên thiên đàng một cách an yên.”
Ông quay người định rời đi, nhưng Christien đã bước lên chắn trước cửa, ngăn không để ông ra ngoài.
“Thưa cha, tốt hơn hết là đừng để người khác biết được người này đã đến đây bằng cách nào.”
“Muốn vậy trước tiên ta phải biết trong các con có ai liên quan đến vết thương của cậu ta hay không. Đó là một câu hỏi tội lỗi, nhưng ta phải biết câu trả lời.”
“Anh ta đã trong tình trạng này trước khi chúng con đến rồi,” Christien nói với ông.
“Ta cũng nghĩ vậy, nhưng vì sao các con lại mang theo gánh nặng như thế này chứ?” Vị linh mục hỏi lại. “Ta hứa với con rằng sẽ không tiết lộ với bất kỳ ai về em trai của lãnh chúa MacHugh, nhưng ta muốn biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Cha có thể giữ bí mật cho chúng con chứ?” Christien hỏi. “Tốt hơn là cha không nên biết chúng con là ai.”
Vị linh mục lắc đầu. “Ta e rằng đã muộn mất rồi. Ngay khi nhìn thấy tiểu thư xinh đẹp này ta đã biết nàng ấy là ai. Suốt mấy tuần nay đã có rất nhiều lời đồn về việc nàng ấy sẽ đến.”
Ông quay về phía nàng và cúi mình. “Thật vinh hạnh khi được gặp người, Tiểu thư Gabrielle. Đừng lo, nếu sau này ta được giới thiệu với người, ta sẽ rất sẵn lòng xem đó là lần đầu gặp người. Ta sẽ không tiết lộ bí mật của người.”
“Cảm ơn, thưa cha,” nàng nói, nhưng nàng không chắc ông nghe thấy, vì ông đã vội vã bước ra khỏi căn phòng.
“Đến lúc cô phải đi rồi, thưa tiểu thư,” Stephen nói.
Christien gật đầu tán đồng. “Đúng vậy, đến lúc rồi.”
Hai người cận vệ trông có vẻ lo lắng, nàng cảm thấy rất có lỗi khi khiến họ phải thất vọng.
“Ta chưa thể rời đi lúc này. Anh ta bị thương quá nặng. Phải có ai đó trông chừng trong lúc anh ta yếu ớt thế này. Trước khi đi, ta phải chắc chắn anh ta được giúp và có được thuốc thang cần thiết.”
Nàng sẽ không đổi ý. Suy cho cùng việc phải tin rằng có thêm một người nữa là cha Franklin sẽ giữ bí mật cho họ vốn không nằm trong dự định của nàng. Cha Franklin cũng là người của Chúa, ông sẽ không phá vỡ lời hứa mà họ có được từ ông.
“Càng nhiều người biết càng có nhiều manh mối dẫn dắt đến người mà cô đã giết…” Stephen lên tiếng.
“Mạng sống của anh ta quan trọng hơn.”
“Chúng tôi không thể đồng ý, thưa tiểu thư,” Christien nói, “nhưng chúng tôi sẽ làm theo mệnh lệnh của cô.”
Liam vẫn chưa hề hé mắt hay phát ra bất kỳ âm thanh nào, kể cả khi cha Franklin, người mà Gabrielle phải thừa nhận rằng khá thành thạo, khâu lại vết thương cho anh ta. Ông đã định bỏ qua việc khâu vết thương mà dùng que cời nóng để làm khô vết thương, nhưng nàng không cho phép.
Việc đó không cần thiết vì vết thương rốt cuộc đã ngừng chảy máu. Còn một nguyên nhân khác nữa. Nàng nghĩ người đàn ông này có lẽ sẽ để ý đến ngoại hình, anh ta trông khá đẹp trai, sẹo do mũi kim khâu để lại sẽ không kinh khủng như vết sẹo bỏng.
Khi nàng chắc chắn đã làm tất cả những gì có thể cho người bị thương này, cuối cùng Gabrielle cũng tin tưởng mà giao lại việc chăm sóc anh ta cho hai vị linh mục.
Mặt trời đang dần buông xuống khi Gabrielle rời khỏi Liam.
G
CHƯƠNG 11
abrielle đến trước cổng tu viện Arbane thì được chào đón rất nồng nhiệt.
Tu viện trưởng đã nhận được lệnh triệu tập ngay khi nàng đến, giờ ông đang vội vã bước tới, thắt lại dây lưng buộc quanh bụng và hổn hển gọi đồ ăn thức uống.
Cúi đầu trịnh trọng, ông lắp bắp nói. “Thật vinh hạnh. Quả là vinh dự lớn khi được đón tiếp con đến nơi ở khiêm tốn này của chúng ta, thưa tiểu thư. Đúng vậy, chúng ta thật sự vô cùng vinh dự.”
Ông ta nắm lấy tay nàng và siết chặt. Không chịu buông ra cho đến khi nàng cương quyết giật tay về.
Nàng giới thiệu những người cận vệ của mình với tu viện trưởng và nói. “Chúng con rất biết ơn cha đã mở rộng những căn phòng cho chúng con và con cũng biết ơn cha đã cho phép hôn lễ của con được tổ chức tại nơi này.”
“Chúng ta rất vui mừng khi có được vinh dự đó. Mọi người đã chuẩn bị cho buổi lễ thánh khá lâu rồi, giờ đây, chỉ còn vỏn vẹn một tuần nữa thôi. Mối nhân duyên này chắc chắn sẽ đảm bảo được được hòa bình và mối quan hệ lâu dài giữa hai quốc gia cao quý của chúng ta.” Ông ngoắc tay ra hiệu cho người hầu nhanh chóng chuẩn bị. “Chắc con đói và khát rồi. Vào trong đi nào. Chúng ta đã chuẩn bị thức ăn cho con và những cận vệ kia. Ta hiểu họ sẽ không rời khỏi con khi con xa nhà. Đúng chứ?”
“Vâng đúng vậy, nhưng con cảm thấy vui khi có họ làm bạn đồng hành.”
Một cô gái trẻ xinh đẹp vội chạy đến và chìa một bó hoa đến trước mặt Gabrielle. Gabrielle nhận lấy và cảm ơn cô ta, mỉm cười khi cô ấy vội vàng cúi người chào một cách lúng túng.
“Chúng thật đáng yêu,” nàng gọi với theo khi cô gái kia vội vã rời đi. “Chuyến đi của các con thế nào?” Tu viện trưởng hỏi. Gabrielle không cười nổi dù nàng rất muốn, nàng tự hỏi ông ấy sẽ nghĩ gì nếu nàng tiết lộ sự thật về chuyến đi của họ. Họ đã từng ở trong tu viện suốt hàng giờ, nhưng tu viện trưởng không thể biết được. Gabrielle và những cận vệ của nàng đã trở lại yên ngựa và đi vòng qua khu rừng để đến cổng chính của tu viện Arbane. Chuyến đi của họ nhiều lắm chỉ mất khoảng vài phút, nhưng vì phải giữ bí mật về Liam MacHugh, nàng chỉ có thể nói. “Chuyến đi rất tuyệt thưa cha, nhưng con muốn thay váy áo trước khi dùng bữa ạ.” Chiếc áo choàng đã che đi vết máu của Liam. Nhưng tiết trời vẫn đang ấm áp, nếu nàng vẫn mặc bộ áo nặng nề này, tu viện trưởng sẽ nghĩ nàng ốm mất.
“Tất nhiên là được rồi. Thầy Anselm đang đợi ở trong để dẫn đường cho các con về phòng. Ta mong là các con sẽ hài lòng với nó.” “Con chắc là mình sẽ vô cùng thoải mái khi ở đó.”
“Chúng ta đã bắt đầu lo lắng khi thời gian đã qua mà chưa thấy con đến. Chúng ta đã đợi con suốt mấy giờ liền.”
“Con xin lỗi vì đã khiến cha bận lòng. Cảnh vật ở đây xinh đẹp quá khiến con quên cả thời gian.”
Tu viện trưởng có vẻ rất hài lòng với câu trả lời của nàng. Ông dẫn tay nàng và bắt đầu cất bước.
“Khách mời đã đến và dựng trại bên ngoài tu viện chúng ta từ nhiều ngày trước. Đa số đến từ Anh quốc như dự định, cũng có vài người đến từ phương xa như Pháp và Tây Ban Nha, ai cũng mang theo quà để mừng cho sự kiện tốt đẹp này. Ta nghĩ, những người đồng hương đến từ St. Biel của con đã mang đến món quà tuyệt vời nhất. Một bức tượng điêu khắc thánh bảo hộ của các con. Họ nhờ chúng ta giữ nó trong phòng chứa đồ thánh cho đến khi hôn lễ diễn ra, ta chắc rằng lãnh chúa Monroe sẽ đặt nó ở nơi thiêng liêng nhất trong nhà nguyện của mình. Con sẽ thấy nhiều món quà khác nữa trong buổi tiệc…”
Gabrielle mỉm cười và gật đầu khi tu viện trưởng tiếp tục nói về những món quà, khách mời và bữa tiệc. Có thể thấy rằng tu viện chưa bao giờ có một buổi lễ long trọng như thế và nàng vui vẻ để ông tiếp tục thể hiện sự nhiệt tình của mình.
Họ vừa bước vào sảnh thì tu viện trưởng dừng lại và ra hiệu cho người đàn ông vừa đi ngang qua.
“Con nên gặp lãnh chúa MacKenna. Cậu ấy cũng là khách mới, nhưng cậu ấy sắp phải đi rồi. Lãnh chúa,” ông gọi, “đến và gặp tiểu thư Gabrielle này. Cuối cùng nàng ấy cũng đến rồi.”
Người đàn ông quay lại và bước về phía họ với nụ cười chân thành và ấm áp. Anh ta sải từng bước chân rộng và đầy kiêu hãnh. Mái tóc đen lượn sóng được hất ngược ra sau lộ ra vầng trán cao, không có lấy một dấu vết nào trên gương mặt hoàn mỹ ấy. Chắc hẳn anh ta có một cuộc sống rất suôn sẻ, nàng nghĩ thế.
Anh ta cúi chào nàng. “Tôi đã được nghe nói rằng tiểu thư rất xinh đẹp và phải nói rằng lời đồn ấy không phóng đại chút nào.”
“Cảm ơn lời khen ngợi của anh.”
“Chắc con đã biết chuyện tiểu thư Gabrielle sắp kết hôn với lãnh chúa Monroe tại nơi này,” tu viện trưởng nói.
“Dĩ nhiên, con biết điều đó,” lãnh chúa MacKenna trả lời. “Anh ấy là bạn của tôi,” anh ta nói với Gabrielle, “tôi sẽ có mặt tại bữa tiệc theo lời mời của anh ấy. Đó sẽ là một ngày trọng đại cho cả hai quốc gia chúng ta. Giao lại thung lũng… ý tôi là Finney’s Flat cho người dân vùng cao nguyên sẽ mang lại hòa bình cho các thị tộc, lãnh chúa Monroe sẽ biết cách sử dụng nó thật khôn khéo. Tôi rất trông đợi buổi hôn lễ.” Anh ta cúi chào lần nữa. “Cho đến lúc đó…” dứt lời anh ta liền rời đi.
Tu viện trưởng đợi đến khi anh ta đi khuất khỏi tầm mắt và nói. “Việc làm tử tế của lãnh chúa MacKenna khiến chúng ta rất bất ngờ. Cậu ta mang cho chúng ta một xe chở đầy những bao ngũ cốc thu hoạch từ đất đai của mình. Cậu ta chưa từng hào phóng như vậy bao giờ, chúng ta khá ngạc
nhiên và vui mừng. Lãnh chúa đã trở nên biết suy nghĩ hơn. À, thầy Anselm đến rồi. Thầy ấy sẽ dẫn đường cho các con.”
Hai căn phòng được chuẩn bị cho Gabrielle nằm ở khu rộng rãi nhất của tu viện. Chúng rộng một cách bất ngờ và có cửa thông với nhau. Những người hầu đang bận rộn lấy váy áo của nàng ra để chuẩn bị cho buổi tiệc sắp đến. Gabrielle giữ áo choàng quanh mình cho đến khi chỉ còn một mình nàng trong phòng. Nàng không chắc mình có thể làm gì với vết máu trên chiếc váy màu kem của mình và nàng cũng không thể đưa ra một lời giải thích chính đáng về sự xuất hiện của chúng. Cuối cùng nàng xếp nó lại và giấu xuống đáy rương của nàng.
Buổi tối hôm đó, sau khi người hầu đã say ngủ, Faust và Lucien dẫn Gabrielle đến phòng Liam để xem tình hình anh ta thế nào. Cha Franklin và cha Gelroy đều có mặt ở đó và đang tranh cãi gay gắt.
“Anh ta tỉnh lại chưa?” Nàng hỏi nhỏ để không làm phiền đến người đang nằm trên giường bệnh kia.
Franklin cười với nàng. “Vẫn chưa, nhưng cậu ta có rên rỉ vài tiếng, ta có dự cảm là cậu ta sẽ tỉnh lại nhanh thôi.”
“Hoặc là không,” Gelroy nói, đầy cau có. “Cậu ta vẫn chưa qua khỏi nguy kịch, đúng không, Franklin?”
“Chúng ta phải giữ hy vọng, Gelroy à.”
“Nếu cậu ta không qua khỏi, Colm MacHugh sẽ phá tan nơi này, cho dù nó có là nơi linh thiêng hay không. Nó chẳng là gì với anh ta cả. Anh ta cần phải biết em trai mình đang ở đây. Hy vọng anh ta sẽ đến đón Liam trước khi cậu ta chết.”
“Nếu cậu ta chết,” Franklin cắt ngang. “Nhưng tôi không nghĩ là cậu ta sẽ chết. Tôi đồng ý là lãnh chúa MacHugh nên được báo tin Liam đang ở đây. Tôi nghĩ anh nên đi báo tin ngay khi trời sáng đi.”
“Tôi rất sẵn lòng làm thay những công việc của anh trong lúc anh đi đến nơi ở của MacHugh đấy,” Gelroy đáp lại.
“Tôi đã quá già và yếu ớt để có thể đi chuyến này,” ông lầm bầm.
Gelroy khịt mũi. “Anh nào có già hay yếu ớt. Anh đang sợ hãi, Franklin à. Đúng vậy, anh đang sợ đấy.”
“Anh thì không ư?”
“Tất nhiên là tôi sợ. Trên thực tế, tôi còn sợ hơn cả anh,” ông thấp giọng thừa nhận. “Tôi còn già hơn anh hai tuổi đấy, đó là lý do anh nên đi, còn tôi ở lại. Trái tim tôi không thể chịu được cơn thịnh nộ của lãnh chúa MacHugh đâu.”
Trước khi Franklin có thể cãi lại, Gelroy quay sang Gabrielle. “Chúng ta đã tranh luận về việc này hơn một tiếng rồi.”
Nàng nhíu mày nói. “Con không hiểu sao các cha lại do dự như thế. Con nghĩ lãnh chúa MacHugh sẽ rất vui khi biết em trai mình còn sống chứ.” “Có lẽ thế,” Franklin đồng tình. “Nhưng nếu Liam chết trước khi Colm MacHugh đến được nơi này thì sao? Sau khi Gelroy nói cho anh ta biết rằng Liam còn sống. Chuyện sẽ thế nào?”
“Anh nên nói là sau khi anh nói cho anh ta biết Liam còn sống,” Gelroy ngắt lời.
“Con tin rằng hai cha đang chuốc lấy phiền phức đấy,” nàng nói. “Và người tên Colm MacHugh này cần phải được thông báo. Chắc giờ đây anh ta đang phát điên lên. Nếu người con yêu quý biến mất, con không biết mình sẽ làm gì nữa.”
Tuy họ thảo luận rất nhỏ tiếng, nhưng Gabrielle vẫn nghĩ họ nên ra hành lang để tránh làm phiền đến Liam.
“Cậu ta không thể nghe thấy chúng ta nói gì đâu,” Franklin nói. “Cậu ta vẫn hôn mê.”
Gelroy đi theo Gabrielle đến hành lang và đóng cánh cửa sau lưng ông lại. “Ta hứa với con, tiểu thư, Franklin và ta sẽ xử lý chuyện này. Con đừng lo. Một trong hai ta nhất định sẽ thông báo cho Colm MacHugh biết em trai anh ta đang ở nơi nào.”
“Cận vệ của con muốn con hỏi xem cha có bằng lòng để họ canh chừng cho Liam vào buổi đêm hay không. Không nên để anh ấy ở một mình.”
Gelroy vừa vui mừng vừa như trút được gánh nặng với lời đề nghị ấy. “Ta sẽ vô cùng biết ơn sự giúp đỡ của họ. Ta và Franklin hứa với con sẽ không nói cho ai biết chàng trai đáng thương này đã đến đây bằng cách nào, chúng ta cũng quyết định rằng tốt hơn hết không nên nhắc gì đến Liam. Sẽ có rất nhiều câu hỏi và suy đoán. Chúng ta sẽ giữ bí mật sự có mặt của cậu ta ở nơi này càng lâu càng tốt. Con thấy đấy, chúng ta không thể yêu cầu bất cứ ai khác ở bên cậu ấy bởi như thế chuyện sẽ bị lộ mất.”
Franklin bước lên. “Gelroy nói với ta rằng ông ấy không hay biết chuyện gì đã xảy ra với Liam cũng như ai đã gây ra vết thương nghiêm trọng này cho cậu ấy, nhưng ta và ông ấy hứa với con, cho dù là ai đi nữa cũng sẽ không có cơ hội nào để làm như vậy một khi cậu ấy còn là khách nơi này. Với sự giúp đỡ từ các cận vệ của con, tất cả chúng ta sẽ đảm bảo sự an toàn cho cậu ấy.”
“Con ước mình có thể giúp đỡ nhiều hơn và được nhận phiên trông chừng anh ấy, nhưng con nhận thấy…”
Lucien ngắt lời. “Cô không thể làm thế, thưa công chúa.” “Ở chung phòng với người khác phái với con mà nói là không phải phép, bất luận anh ta có đang hôn mê hay không,” Franklin nói với nàng. Nàng không phản bác, bởi nàng biết ông nói đúng. Quay về phía Gelroy, nàng nói. “Một người trong các cha sẽ đi đến nơi ở của MacHugh ạ?” Hai vai ông trùng xuống. “Đúng vậy. Một trong hai ta sẽ đi.” “Con hiểu mà, tiểu thư. Dù ai là người đi thì cũng sẽ không trở lại,” Franklin nói một cách hiển nhiên.
Gelroy gật đầu tán đồng khi Franklin vỗ lên vai ông. “Tôi sẽ nhớ anh đấy, Gelroy.”
“Chuyến đi này sẽ nguy hiểm sao?” Nàng hỏi. “Không hẳn là thế,” Franklin đáp.
“Từ đây đến nơi đó có xa không?”
“Không xa lắm,” Gelroy trả lời.
“Không cần phải lo lắng thế đâu, tiểu thư. Ra được khỏi nơi đó hay
không mới là chuyện chúng ta lo lắng.”
Gabrielle chắc chắn nỗi sợ của họ với nhà MacHugh hơi quá. Họ đâu thể đáng sợ như lời hai vị linh mục này nói được.
“Cha sẽ đi sớm chứ?” Nàng gặng hỏi.
“Sớm thôi,” Gelroy hứa.
Định nghĩa về chuyện sớm của vị linh mục hoàn toàn khác với Gabrielle. Mất tròn ba ngày ba đêm ông mới lấy đủ dũng khí để khởi hành. Cùng lúc đó Liam đã hồi phục đủ để Gelroy cảm thấy tin tưởng anh ta sẽ sống sót, nhưng vị linh mục vẫn lo sợ. Cho dù ông biết mình phải đưa tin tức đến cho lãnh chúa MacHugh, ông vẫn nghi ngờ không biết mình có thể trở lại tu viện Arbane hay không.
Cha Gelroy rốt cuộc cũng cưỡi lên lưng con ngựa ông mượn được, nhưng đích đến của ông không phải nơi ở của MacHugh. Sau khi suy nghĩ kỹ càng về chuyện này, ông quyết định tìm đến đồng minh trung thành của MacHugh, lãnh chúa Buchanan. Gelroy ngốc nghếch tin rằng Brodick Buchanan sẽ dễ nói chuyện hơn và sẽ không động tay động chân với mình khi hay tin em trai của lãnh chúa MacHugh đã bị đánh đập tàn nhẫn.
Càng đến gần lãnh địa của Buchanan, ông càng run rẩy sợ hãi cho đến khi ông sợ mình sẽ run đến nỗi ngã khỏi lưng ngựa. Nhưng Chúa ban phước lành cho ông. Khi ông nghỉ ngơi dưới tán cây sồi khổng lồ ngay bên dưới nơi ở của Buchanan, ông trông thấy một người đang cưỡi ngựa lao xuống con đường mòn.
Giờ ông đang trong tình huống khó xử. Ông không biết người cưỡi ngựa kia là bạn hay thù. Ông có nên trốn đi chăng?
Không, người đó đã trông thấy ông. Gelroy thầm cầu nguyện và quyết định đặt hy vọng vào điều tốt đẹp.
Ơ kìa, người đang cưỡi ngựa về phía ông chính là nam tước Geoffrey. Ông làm dấu thánh để tạ ơn và khi nam tước tiến lại đủ gần, ông liền cất tiếng gọi. Ông nhắc rằng họ đã từng gặp nhau trước đó ở tu viện, gần hai năm trở về trước. Không hề nhắc đến con gái của nam tước, Gelroy hỏi
thăm nam tước có phải đã ở cùng Buchanan hay không. “Dường như ngài vừa rời khỏi nơi của họ.”
“Đúng thế,” nam tước Geoffrey trả lời. “Ngài có thân với nhà Buchanan không?”
“Chúng ta là họ hàng xa, ta đã ghé qua để chào hỏi và nán lại hơn một đêm ở nơi đó, một thảm kịch đã xảy ra. Có một chiến binh mất tích. Mọi người đều đổ xô đi tìm cậu ta và định là sẽ quay lại vào hôm qua nhưng lại bị cơn giông khủng khiếp đêm qua làm chậm trễ. Ta phải đợi đến khi lãnh chúa Buchanan quay trở về.”
“Có phải người chiến binh kia tên là Liam MacHugh không?” Ông nhẹ giọng hỏi.
“Phải. Vậy là cha cũng nghe về chuyện đã xảy ra rồi.”
“Ta đã gặp cậu ấy,” ông nói. “Cậu ta được đưa đến tu viện, chàng trai đáng thương.”
Nam tước nói không nên lời. Gelroy lập tức tận dụng thời cơ này. “Ngài hẳn sẽ được lên thiên đường, cho dù ngài là người Anh đi chăng nữa, nếu ngài quay lại và nói cho lãnh chúa Buchanan tin tức này để anh ta báo lại cho lãnh chúa MacHugh biết.”
Trong lúc nam tước Geoffrey đón nhận tin tức bất ngờ này, cha Gelroy đã quay người và leo lên lưng ngựa chạy xuống núi.
“Đợi đã,” nam tước hét lên. “Cha không thể đi mà không… Liam vẫn còn sống chứ?”
Gelroy thúc vào thân sau con ngựa để tăng tốc. Không hề quay đầu lại, ông gọi với qua sau vai. “Lạy Chúa, ta mong là thế.”
CHƯƠNG 12
N
hững lãnh chúa sống ở phía Bắc cao nguyên là đám người nóng tính. Họ nổi tiếng với tính cách thất thường, ngang ngược và thô lỗ. Họ cũng nổi tiếng vô cùng man rợ. Nếu nam tước Geoffrey lên án ai đó trong số họ về những thói hư tật xấu đó, họ sẽ cho rằng ông đang tâng bốc họ.
Phải, họ lập dị và Geoffrey tin rằng không một ai lập dị và cứng đầu hơn được lãnh chúa Brodick Buchanan. Brodick không ngần ngại gì khi bộc lộ tính cách của mình với Geoffey, tuy họ là họ hàng, nhưng anh ta vẫn không ưa ông chút nào vì ông là người Anh. Vì tình cờ vợ Brodick cũng đến từ Anh quốc và là em họ của Geoffrey, Brodick rất thẳng thừng khi nói rằng anh ta hận không thể lao ngay ra ngoài và nói cho mọi người biết anh ta ghét tất cả người Anh quốc, trừ một vài người ngoại lệ.
Vị lãnh chúa thô lỗ cũng nói cho Geoffrey biết rằng anh ta không muốn ông đặt chân lên lãnh thổ của mình, nhưng Geoffrey biết rằng nếu mình tuân theo mong muốn của vị lãnh chúa kia và không đến chào lấy nửa lời khi ông có mặt trên vùng đất này – tất cả mọi lãnh chúa ở vùng cao nguyên đều biết về việc này – thì Brodick sẽ mượn dịp này để xúc phạm đến ông và ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đáp trả lại.
Trước đây nam tước chỉ ghé thăm nơi này một lần, đó là sau khi Brodick cưới tiểu thư Gillian. Ông từng được chú Morgan của mình yêu cầu kiểm tra xem Gillian có hạnh phúc không. Morgan, em trai út của cha Geoffrey, là một ông già cáu kỉnh sống rất kín tiếng, không tin rằng Gillian sẽ hài lòng với cuộc sống nơi vùng cao với những người Buchanan hoang dã. Geoffrey rất ngạc nhiên, ông thấy Gillian không chỉ hài lòng mà còn khá hạnh phúc. Nàng vô cùng tao nhã với ông và lòng tốt của nàng nổi bật
hơn cả vẻ thù địch của chồng nàng.
Tuy rằng ông sẽ không bao giờ thừa nhận điều này với Brodick, nhưng Geoffrey rất ấn tượng về vợ chồng anh ta. Họ không sống trong toàn lâu đài nguy nga tráng lệ mà lại thích sống trong một căn nhà nhỏ không lớn hơn nhà quản gia của Geoffrey là bao. Hiển nhiên là cả Brodick lẫn Gillian đều không quan tâm đến ánh nhìn của người ngoài, họ muốn dành tâm trí vào những việc quan trọng hơn. Nhiệm vụ duy nhất của Brodick là bảo vệ vợ và người dân của anh ta. Nhiệm vụ của Gillian, ngay lúc này đây, là bảo vệ đứa con sắp chào đời của nàng. Nàng muốn đến dự hôn lễ của Gabrielle, tất nhiên, nhưng từ thời điểm nàng thông báo cho Brodick biết anh ta sắp lên chức cha, việc rời khỏi ngôi nhà của họ đã là việc miễn bàn.
Vị linh mục chặn đường Geoffrey và báo ông biết tin về Liam MacHugh đã hành động như thể phía sau ông có một bầy chó dữ đang đuổi theo vậy. Ngay khi vừa tiết lộ tin tức xong, ông đã xoay người và cho ngựa phi nước đại rồi biến mất sau những rặng cây.
Geoffrey quay trở lại nhà Buchanan, Brodick chẳng mấy vui vẻ khi gặp lại ông nhanh như thế. Anh ta chắc hẳn không có tâm trạng nào để tiếp cuộc viếng thăm nữa.
Vị lãnh chúa tạo ra một cảnh đáng sợ khi xông về phía Geoffrey. Cao lớn và lực lưỡng, anh ta có mái tóc vàng và những vết sẹo từ chiến trận, vẻ mặt anh ta u ám như bóng đêm. Tướng lĩnh hàng đầu của anh ta, binh sỹ có tên Dylan, đi theo ngay sau lãnh chúa của mình. Hai binh sỹ khác cũng đi theo.
Geoffrey đặt tay lên yên ngựa và đợi Brodick đến chỗ mình. Lãnh chúa không hề vui vẻ chào đón ông, nhưng Geoffrey cũng không trông chờ anh ta sẽ làm thế.
“Tôi cứ nghĩ đã thoát được ông rồi chứ, nam tước.” Geoffrey lờ đi lời nói xấc xược ấy. “Liam MacHugh đang ở tu viện Arbane.” Thông báo của ông đã làm cho vẻ mặt cau có của Brodick biến mất. “Cậu ấy còn sống chứ?”
Nam tước nhanh chóng kể lại những gì vị linh mục kia đã nói với ông, khi ông nói xong, Brodick hỏi. “Câu nói ‘ta mong là thế’ có ý gì? Liam còn sống hay đã chết đây.”
“Chắc hẳn ý của ông ấy là Liam vẫn còn sống khi lần cuối cùng ông ấy thấy cậu ta,” Geoffrey gợi ý. “Cậu sẽ nói lại với lãnh chúa MacHugh chứ?” “Tôi sẽ nói.”
Brodick quay người rời khỏi chỗ Geoffrey, bỏ ông lại. Anh ta quát tháo ra lệnh cho người của mình. Anh ta sẽ đi cùng MacHugh đến tu viện. Anh ta không hề nghi ngờ chuyện Colm MacHugh sẽ tìm cho ra người đã gây ra chuyện này cho em trai hắn bằng mọi giá. Nếu Chúa nhân từ, Liam MacHugh có thể vẫn còn sống khi họ đến đó.
CHƯƠNG 13
T
rong lúc Gelroy gom góp can đảm để đi đưa tin cho người nhà Liam biết về nơi ở hiện tại của anh ta, Gabrielle bận rộn với những buổi xã giao và chuẩn bị cho hôn lễ. Đến đêm nàng sẽ rời khỏi phòng mình để xem qua Liam khi anh đang say ngủ. Cận vệ sẽ đứng ngoài gác cửa. Cha Franklin đã giải thích cho bệnh nhân của ông khi anh ta tỉnh lại, tuy tu viện là nơi tôn nghiêm và cũng vì lẽ đó mà nó được xem là vùng đất thiêng của những điều tốt đẹp và của những ai kính sợ Chúa, ông sẽ không để bất kỳ một kẻ ngoại đạo nào có cơ hội tổn thương Liam thêm nữa. Ông nói với Liam rằng tiểu thư Gabrielle cùng đội cận vệ của nàng có mặt ở đây để chuẩn bị cho hôn lễ, ông đã nhờ họ giúp đỡ. Với tình trạng suy yếu của mình, Liam không hề có phản ứng gì nhiều. Anh ta biết rằng họ đang trông chừng mình, nhưng anh ta không nói chuyện với họ, khi họ nói chuyện với nhau, họ nói thứ ngôn ngữ mà Liam chưa từng được nghe và không thể hiểu được.
Khi Liam lấy lại ý thức, cha Gelroy thông báo rằng ông sẽ đi đưa tin cho anh ta, ông khởi hành khi bình minh ló rạng. Khi đêm xuống ông đã trở lại. Ông gõ cửa phòng Gabrielle, nàng rất vui mừng khi thấy ông, nhưng nàng thấy ngạc nhiên bởi chuyến đi quan trọng như vậy mà ông lại trở về quá nhanh. Nàng để ông ngồi thoải mái trên chiếc ghế bên ban công, mời ông chút điểm tâm và ngồi xuống đối diện.
“Cha khỏe chứ, thưa cha?” Nàng hỏi.
“Ta khỏe,” ông trả lời. “Con thì sao, tiểu thư?”
“Con rất tốt ạ,” nàng đáp, “nhưng con hơi tò mò. Con có thể hỏi, làm cách nào cha có thể hoàn thành chuyến đi của mình trong thời gian ngắn như thế không?”
“Ta phóng đi thật nhanh và không ngừng nghỉ,” ông khoe khoang. Một người hầu bưng chiếc khay đứng trước cửa. Gabrielle ra hiệu cho người đó và đưa một ly nước lạnh cho vị linh mục. Cha Gelroy mỉm cười gật đầu cảm ơn nàng và uống một ngụm lớn.
“Lãnh chúa MacHugh có vui mừng khi biết tin về em trai ngài ấy không ạ? Ngài ấy có an tâm hơn chăng?”
“Ta nghĩ rằng anh ta sẽ vui mừng và an tâm,” ông trả lời. “Con biết đấy, ta không hề đi đến chỗ của MacHugh, ta nghĩ sẽ khôn ngoan hơn… phải, khôn ngoan,” ông lặp lại, “khi đến chỗ Buchanan và báo tin cho lãnh chúa Buchanan để anh ta báo lại cho lãnh chúa MacHugh. Nhà Buchanan là đồng minh với MacHugh, chỗ của họ gần tu viện hơn nhiều.”
“Con biết.” Gabrielle đặt tay trên đùi và hỏi, “Vậy lãnh chúa Buchanan có vui mừng và an tâm với tin tức này không?”
“Ta đoán là có,” ông nói với vẻ ngượng ngùng. “Cha không biết sao?” Nàng hỏi, đầy sửng sốt.
Ông hắng giọng. “Chuyện hóa ra là ta không cần phải đi đến tận nơi Buchanan ở. Cha con đang trên đường rời khỏi đó, ta vừa khéo gặp ngay ngài nam tước và báo tin vui này với ngài. Ta chắc là ngài ấy sẽ rất sẵn lòng nói lại với lãnh chúa Buchanan.”
Gabrielle cảm thấy vị linh mục đã phức tạp hóa một chuyện đơn giản như thế. Thật khó hiểu vì sao ông lại sợ lãnh chúa MacHugh. Dù thế nào thì ông cũng có tin tốt muốn báo cho lãnh chúa. Sao ông lại lo sợ anh ta sẽ làm hại ông kia chứ?
“Vâng, con chắc rằng cha con sẽ làm thế,” nàng nói. “Cha con sẽ đến đây nhanh thôi,” ông nhấn mạnh.
“Con rất vui khi gặp lại ông. Có lẽ ông ấy sẽ cùng con cưỡi ngựa đi tham quan nơi này. Không phải con muốn làm phiền, nhưng con mong muốn được rời khỏi tu viện một lúc.”
“Mấy ngày nay ngoài đó rất đông người,” ông nói. “Những sứ giả từ các nước đã đến để tham dự hôn lễ. Rất nhiều quý tộc đến từ Anh quốc đã
dựng trại tại đây. Con cũng biết đấy, khi họ đi đâu đó, họ đều mang theo tất cả những vật dụng cần thiết để dựng nhà. Ta nghe nói có một căn lều to bằng nhà thờ của chúng ta đấy. Hôn lễ của con và lãnh chúa Monroe hứa hẹn sẽ là một buổi lễ long trọng.”
“Con không ngờ họ lại đi cả một hành trình dài như thế cho buổi lễ này,” nàng nói.
“Đây là một sự kiện quan trọng với nhiều người mà,” ông giải thích. Cha Franklin gõ cửa và cắt ngang cuộc nói chuyện. Người hầu vừa mở cửa, ông đã lao vội vào trong phòng. Khi trông thấy Gelroy, ông sững lại và ra hiệu cho ông đến chỗ mình.
“Có vẻ Franklin có chuyện muốn nói riêng với ta. Ta nghĩ mình biết chuyện gì rồi. Ta đã lỡ mất buổi cầu kinh trưa,” ông nói. “Ta đoán là ông ấy đang muốn răn dạy ta đấy.”
Một lúc sau hai vị linh mục bắt đầu trao đổi, những lời thì thầm qua lại. Gabrielle bị thu hút bởi cảnh vật bên dưới. Nàng tựa lên lan can và thấy các linh mục đang vừa chạy vừa hét lớn với hai người đang ra khỏi nhà thờ, nhưng nàng không nghe rõ họ đang nói gì. Mảnh sân nhanh chóng đầy người tụ lại, họ vẫy tay và lắc đầu. Vài linh mục làm dấu thánh, quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện.
Có chuyện tồi tệ gì đó đã xảy ra.
“Tiểu thư Gabrielle?”
Cha Gelroy gọi nàng. Từ vẻ mặt ông nàng có thể khẳng định. Đây hẳn là một tin xấu.
Nàng nghĩ đến những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Phải chăng là cha nàng? Có chuyện gì xảy ra với ông sao? Ôi lạy Chúa, xin đừng. Nàng buộc mình tỉnh táo và chờ đợi một trong hai vị linh mục kia giải thích.
Gelroy huých Franklin. “Anh nói đi.”
“Là lãnh chúa Monroe, thưa tiểu thư. Cậu ấy không thể cưới con được.” “Tất nhiên là cậu ta không thể cưới cô ấy rồi,” Franklin lầm bầm.
“Anh ấy không thể sao ạ?” Nàng hỏi, cố hiểu câu nói này. “Không, thưa tiểu thư, cậu ấy không thể,” Gelroy nói. “Cậu ấy mất rồi.”
CHƯƠNG 14
T
hật đáng tiếc vì hắn không có đủ thời gian để dàn dựng vụ ám sát này trông như tai nạn. Làm vậy sẽ giúp cho cuộc sống sau này của hắn thoải mái hơn. Hắn từng nghĩ đến việc siết cổ Monroe, nhưng một người đang bên bờ vực cái chết hoàn toàn có sức mạnh địch lại mười người để đấu tranh cho sự sinh tồn của mình. Không, siết cổ rủi ro quá cao.
Dìm chết cũng vậy. Lỡ như gã đó là một tay bơi cừ khôi thì sao? Hoặc gã kêu cứu? Chỉ một tiếng hét lớn là có thể dẫn người đến giúp gã. Dìm chết, hắn quyết định bỏ qua cách này.
Hắn đã nghĩ đến rất nhiều cách thức khác nhau để tạo ra một vụ tai nạn, nhưng cuối cùng hắn loại bỏ hết. Vài cách quá phức tạp, những cách khác thì quá tốn sức lực và thời gian.
Cuối cùng hắn quyết định dùng dao. Một lưỡi dao bén nhọn sẽ kết thúc mạng sống một cách nhanh chóng và dễ dàng. Đáng tiếc là, sẽ không ai tin nó là một vụ tai nạn cả. Làm sao ai đó có thể vô tình ngã vào một con dao đến năm sáu lần kia chứ? Mất rất nhiều thời gian mới giết được Monroe.
Trước đây hắn đã từng giết người, nhưng chưa bao giờ giống lần này. Vì với địa vị và quyền lực của mình, hắn sẽ giao nhiệm vụ tương tự cho người nào đó. Nhưng lần này thì khác. Hắn phải đích thân làm việc này, không thể tin tưởng ai. Đây là cách duy nhất để chắc chắn không để lại đầu mối nào có thể truy ra hắn.
May mắn là những năm trở lại đây, Monroe bắt đầu trở nên tự mãn. Gã không còn cẩn thận như trước nữa, những người đi theo gã cũng trở nên lơ là. Chúng không lo lắng bởi lãnh chúa của chúng không có kẻ thù. Làm sao lại không có chứ? Gã chưa bao giờ đứng hẳn về phía một thị tộc nào để