🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ám Ảnh Đen - Cornell Woolrich full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo CORNELL WOOLRICH Nguyễn Thành Long dịch ÁM ẢNH ĐEN vctvegroup dựa theo bản in của NXB Văn Học & Phúc Minh năm 2018 1 BẰNG CHỨNG NGOẠI PHẠM Trong khi người người dạo phố thì cô ngồi bên cửa sổ, đắn đo giữa một chùm nho pha lê và một bông dành dành tươi, không biết nên gài món đồ nào lên vai áo. Đúng lúc ấy, có tiếng ai đó gõ lên cánh cửa căn phòng nằm đối diện phòng lễ tân. Cho dù chọn món đồ nào, cô cũng biết nó sẽ trở thành một trào lưu lan khắp thành phố. Hàng trăm cô gái trẻ sẽ đua nhau đeo nho pha lê hoặc hoa dành dành tươi những tuần sau đó. Khó mà tin nổi mới mấy năm trước, chẳng ai quan tâm cô gắn thứ gì lên vai. Thật ra thì chẳng ai đoái hoài đến cô chút nào. Hồi ấy, cô vẫn còn đi đôi giày bệt mòn vẹt và liên tục bị mấy hàng ăn ven đường xoàng xĩnh tại Detroit cho thôi việc. Còn giờ đây… Cô không thể ngừng quay đầu lại để ngắm nó ngoài cửa sổ. Đó là minh chứng, là biểu tượng cho thấy cô quan trọng nhường nào, cho dù địa vị này có ngắn ngủi đến đâu. Chính cái hình bóng ngoài kia. CASINO HẠNG SANG KIKI WALKER en la gran revista de arte “TRIC-TRAC” Biển quảng cáo ấn tượng nhất thành phố nổi trên nền trời xanh cobalt của buổi chiều muộn. Trong buổi diễn mở màn tuần sau, khi dòng điện truyền vào, đến cả những người sống ở đầu kia quận Alameda cũng sẽ thấy được tên cô trên màn đêm. Đã có nhãn hiệu nước hoa và sơn móng tay đặt theo tên cô rồi, tất nhiên họ phải trả tiền mới được lãnh vinh dự ấy, và cả thức uống mới nhất tại quán bar Inglaterra sang trọng nữa, cocktail Kiki Walker ("đầu đỏ rực và thấu tận óc", theo như cách giải thích của người pha rượu). Suốt "mùa đông" vừa rồi (từ tháng Sáu đến tháng Chín), cô đi diễu như nữ chúa khắp thành phố lớn thứ ba miền Nam kênh đào Panama này, với xe hơi và tài xế riêng, người hầu riêng và phòng khách sạn hạng sang. Đối với một cô gái đàn ca mua vui cho mấy quán xá Detroit bỗng vụt tỏa sáng thành một ngôi sao sau một tour diễn rong, điều đó không tệ. Không tệ chút nào. Cô vẫn chưa hiểu lắm là nhờ đâu mà mình được như thế này. Một chút tài năng nhảy múa, một xíu tài nghệ ca hát và cực kỳ nhiều may mắn đã hỗ trợ cô. Chủ yếu là cô đã vô tình ở đúng nơi, đúng lúc và không có đối thủ cạnh tranh. Hồi làm tại Detroit, bài hát của cô bị coi là rẻ tiền, nhưng tại đây thì chẳng ai hiểu ca từ nên thành ra chúng nghe có vẻ sâu sắc. Hồi ở Detroit, mái tóc đỏ của cô xuất hiện nhan nhản khắp nơi, nhưng ở đây nó lại trở thành mặt hàng hiếm. Và cô cũng phải thừa nhận rằng có khả năng, khả năng nhỏ thôi, là Manning cùng mấy cái trò điên rồ của anh ta đã góp phần be bé trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về phía cô. Kiki không muốn nhớ về cuộc gặp đầu tiên của họ. Khi ấy Manning ngồi tại một quán cà phê ven đường, râu ria chưa cạo và cổ áo thì dơ dáy; còn cô thì tạt qua quán xem họ có cần tuyển thu ngân, hay thậm chí bồi bàn không. Anh ta mời cô một tách cà phê, bởi vì vẫn còn đủ tiền mua thêm một tách; còn cô trông có vẻ đang cần đến cà phê. Nửa tiếng sau, lúc cả hai rời bàn đứng lên, anh ta đã trở thành đại diện truyền thông của cô. Hai tuần sau, Kiki có công việc đầu tiên và Manning có một cái cổ áo sạch. Mình đã giúp anh ta thành danh, cô hay ngắt quãng dòng hồi tưởng khó chịu kia ở đoạn này. Chuyện anh ta góp phần tạo nên thành công của cô nghe thật không tưởng, chẳng đáng nghĩ đến dù chỉ một giây. Bất kể ai đã giúp ai thành danh, chỉ có điều này là chắc chắn: Giờ cả thành phố đang phát điên lên vì cô. Tiếng gõ cửa lại vang lên. “Maria, chắc là Senor Manning đấy,” cô gọi chị người hầu. “Cho ông ấy vào đi.” Cô nghe tiếng then kéo được mở ra, nhưng thay vì câu chào khe khẽ quen thuộc, chị hầu gái lại rú lên chí mạng. Có tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng ghế đổ cái rầm, như thể ai đó vừa ngã lăn ra. Kiki vội xoay người trên băng ghế, tò mò đứng dậy. Trước khi cô kịp làm gì khác, nó đã lộ diện. Cảnh tượng đáng kinh ngạc đến độ tâm trí dứt khoát không tin nổi vào hình ảnh mà cặp mắt thu được, ngay cả khi nó đang lồ lộ trước mặt. Một cái đầu áp sát mặt đất, bấy giờ đang chui qua cửa, tiến về phía cô. Trong khoảnh khắc hoảng loạn đầu tiên, cô chỉ có thể nhận ra đây là đầu của một con vật họ mèo. Mấy từ "báo đốm", "báo hoa" nối đuôi nhau lướt qua bộ óc đờ đẫn vì sốc của cô. Bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gí sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển. Cô chỉ nhịn được đến lúc ấy trước khi la hét thất thanh, hòa cùng tiếng hét của chị hầu gái. Cô quay lại và nhảy vọt lên bàn trang điểm với sự nhanh nhẹn đầy bản năng của một vũ công. Nước hoa, phấn hộp và đồ trang trí rơi tứ tung xuống khắp sàn nhà, một hộp nhạc nhỏ lập tức ngân nga ngay khi chạm đất. Cô đứng tít trên đó múa may loạn xạ, tóm lấy phần váy gần đùi và vung vẩy nó lia lịa để xua đuổi nỗi kinh hoàng kia. Chỉ đến khi ấy, cô mới để ý cái rọ mõm siết chặt bộ hàm con vật cùng sợi dây buộc đang căng ra, và cả gương mặt đậm chất Trung Tây quen thuộc của Jerry Manning đang nhòm cô từ phía sau. Tiếng la hét trở nên tròn vành rõ chữ hơn, nhưng không giảm âm lượng chút nào. Chắn giữa họ là cái thân mình duyên dáng, uyển chuyển, uốn éo chẳng khác nào loài bò sát của con vật. Bấy giờ nó đang kéo căng dây buộc, bụng áp sát sàn, các thớ cơ vai mạnh mẽ nổi gồ lên dưới lớp lông đen mượt mà, đuôi giật liên hồi, chân tìm cách vồ lấy cái hộp nhạc đang phát ra một giai điệu trong trẻo như tiếng sáo. “Lôi nó ra khỏi đây!” Kiki rú rít như đang ngân quãng tám. “Manning, anh mắc chứng quái gở gì thế, sao lại mang cái thứ đó vào trong này?” “Nó sẽ không làm hại cô đâu,” Manning tìm cách giải thích, đẩy cái mũ cối lên qua vầng trán. “Chẳng việc gì phải sợ cả. Ban nãy, chính tôi đã ngồi cùng nó trong xe chở nông sản suốt chặng đường đến đây. Con báo đã được thuần hóa hoàn toàn. Nó vốn được một tay sống ở ngoại ô nuôi dưỡng từ khi còn bé tí mà.” “Rồi, thế anh mang nó đến chỗ tôi làm gì?” Ít nhất cô cũng đã ngừng la hét. “Tôi tin là trong lúc thực hiện chuyến ngao du hàng ngày quanh khu Alameda, sẽ là ý hay nếu cô dắt theo con vật này.” “Dắt theo cái thứ đó ấy hả? Không bao giờ! Còn lâu tôi mới đi cùng nó ra cửa, chứ đừng nói là ngồi cùng một xe với nó rong ruổi khắp Alameda! Giờ nghe cho rõ đây, Manning, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với sóng não nhà anh…” Anh ta tranh thủ đưa một tay lên châm điếu thuốc. “Hãy nghĩ thử mà xem, cô sẽ gây dậy sóng cỡ nào? Chỉ cần bước xuống khỏi xe với con báo bên cạnh, ghé vào quán Globo nhấm nháp vài hớp Martini trong mấy phút thôi. Chuyện ấy có gì khó khăn nhỉ? Tôi đã cài cắm nhiếp ảnh gia khắp quán để chụp cảnh cô dắt theo nó rồi. Tôi có thể giúp cô độc chiếm toàn bộ trang đôi của tờ Grafico Chủ nhật tới này, lão Herrera đã bật đèn xanh. Nguyên hai trang ảnh in ống đồng xanh, chỉ dành riêng cho cô. Nhìn này, tôi còn kiếm cho cô cả một cây roi vàng để mang cho đủ bộ.” “Anh tử tế với tôi quá!” Cô giận dỗi nói. “Chuyện này chỉ tốt cho cô, chứ không phải cho tôi,” anh ta dỗ ngon dỗ ngọt. “Tuần tới cô diễn mở màn rồi. Dân Mỹ Latin thích các siêu sao trông phải thật khác biệt. Cô muốn tour diễn thành công vang dội phải không?” “Tôi muốn tham gia biểu diễn, chứ không phải nằm băng bó đầy người trong một bệnh viện nào đó,” cô nói. “Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, giờ tôi còn cần chiêu trò làm gì nữa? Nếu là lúc mới bắt đầu sự nghiệp thì lại khác.” “Chẳng bao giờ cô xong xuôi trong cái ngành này được đâu. Thôi nào, Kick, chịu chơi đi. Xem này, nhìn tôi một tí nhé.” Con vật đang nằm ườn một bên, lười nhác liếm láp bên chân. Anh ta cúi xuống, gập ngón trỏ lại và nhẹ nhàng vuốt lớp lông mượt dưới bụng nó mấy lần. Nó lập tức lật ngửa lên theo đúng kiểu bọn mèo nhà, bốn chân giơ trên không, khẽ khàng tìm cách gạt ngón tay anh ta ra. “Cô không thể kiếm được con báo nào thuần hơn con này đâu. Cứ thử dắt nó xem. Chỉ cần thử thôi, xem cảm giác thế nào.” Anh ta vươn ra và chộp lấy bàn tay hãy còn ngại ngần của cô, luồn vòng dây buộc qua mấy ngón tay. Kiki vẫn đứng im trên bàn, trong lòng đã bắt đầu xuôi xuôi, dù không biểu hiện đồng tình ra mặt. Váy cô đã được thả xuống như cũ. Anh ta buông tay, sợi dây dắt nằm hoàn toàn trong lòng bàn tay cô. “Tôi sẽ ngồi trong một cái taxi ngay đằng sau và theo sát cô suốt cả chặng đường.” Riêng việc này thì cô kiên quyết rắn mặt, “Ồ không, anh sẽ không làm vậy. Hoặc anh đi cùng xe với tôi và ngồi trên ghế trước, hoặc là tôi sẽ ở lì trong này không thèm ló mặt ra đường.” Anh ta để dành lập luận hiệu nghiệm nhất của mình vào phút chót. Bằng kinh nghiệm bản thân, Manning biết chắc nó sẽ thuyết phục được cô ngay lập tức. Anh chàng này quả là một nhà tâm lý học ranh mãnh. “Cô nhìn mà xem, con báo hợp với bộ đồ cô đang mặc chưa kìa! Cô phải tận mắt thấy mình với nó hợp thành một bộ đôi ấn tượng ra sao! Xuống dưới này một phút thôi, Kick, đứng cạnh nó và nhìn vào gương đi! Đến cả hai vị nữ hoàng Zenobia và Cleopatra cũng không thể sánh được bằng cô!” Anh ta giơ tay lên đỡ cô xuống. Có vẻ đòn tấn công đã phát huy tác dụng. Tiếp tục liếc con báo đầy ngờ vực, Kiki dè dặt chúc mũi chân xuống, chuẩn bị đặt chân lên sàn một lần nữa. “Chết tiệt,” cuối cùng cô thốt ra, chút bỗ bã từ những tháng ngày lăn lộn ở Detroit tái trỗi dậy, “tôi thật đúng là biết hi sinh vì nghệ thuật!” Chuyến viếng thăm quán Globo của cô luôn là một sự kiện đình đám, nhưng lần này nó phải là một cú sốc choáng váng. Khách khứa đến nhấm rượu khai vị ngồi tràn ra tận ngoài vỉa hè có mái che. Tất cả những nhân vật tiếng tăm trong thành phố đều lai vãng đến quán, nơi đây là phòng trưng bày cá tính của mọi nữ diễn viên. Theo yêu cầu của cô, Manning, hiện đang ngồi tại ghế phụ lái trên chiếc Packard, đã phải kín đáo vắt dây buộc qua ghế và giữ chắc con báo đến tận phút chót. Khi họ đến nơi, anh ta mới chuyển chiếc dây cho Kiki lúc cô chuẩn bị rời xe. Người tài xế hăng hái xuống trước, chạy vòng ra sau mở cửa. Cô đứng dậy trong khoang xe, giữ thế chỉ vừa đủ lâu để tất cả mọi người có thể thấy rõ bản thân, sau đó sửa soạn bước xuống. Đến đây xảy ra một chút sự cố, nhưng chỉ thoáng qua rồi được lấp liếm đi nhanh chóng. Con báo đứng giữa cô và cánh cửa, ban đầu nó không chịu đi, cô sẽ phải bước vòng qua đầu nó mới ra ngoài được. “Lấy chân thúc nó đi!” Manning hạ giọng nhắc. Cô rón rén lấy mũi giày thúc vào sườn nó một cái. Rồi lại thêm một cái nữa. Con vật miễn cưỡng đứng dậy, hơi lảo đảo, sau đó nhảy tọt lên hè như cột nước đen tự nhiên phụt ra, giật mạnh tay cô một phát, khiến Kiki phải khó khăn lắm mới che giấu được bối rối. Cô bước theo nó, mỉm cười duyên dáng như thần Vệ Nữ. Đây là lần đầu tiên con báo tiến vào tầm nhìn trọn vẹn của đám đông trong quán. Từ nãy đến giờ, nó nằm khuất dạng trên sàn xe. Hàng chục cổ họng đồng thanh bật ra tiếng rì rào kinh ngạc, tạo thành dàn đồng ca trầm trầm và mơ màng. Hàng loạt lời bình phẩm đầy phấn khích dồn dập vang lên. “Mira! Mira! Nhìn xem cô ấy dắt gì theo kìa!” Câu này được lặp lại xung quanh, từ ghế này sang ghế khác và từ bàn này sang bàn khác. Những người ngồi xa đứng hẳn dậy để nhìn rõ hơn. Đám phụ nữ rú lên, tỏ vẻ hoảng sợ và thất kinh. “Ay, que horror!” “Que barbaridad! Cô ta định dắt nó vào đây sao?” Và họ chuẩn bị sẵn tinh thần nhảy lên né đường. Người người bắt đầu túm tụm lại, cẩn thận giữ khoảng cách. “Ở im đấy, đừng để tài xế đánh xe đi chỗ khác.” Cô thì thầm với Manning, nét căng thẳng lấp ló đằng sau mặt nạ tươi cười điềm tĩnh và thoải mái. “Anh ta không thể đỗ ngay trước mặt tiền quán, chúng ta đâu được phép dừng xe ở đây. Bọn tôi ở ngay cuối phố thôi. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả, cô chỉ cần đi đến bàn và ngồi xuống.” Tiếng xe nhả thắng ngay sau đó dường như khiến cô đóng băng tại chỗ. Thấy vậy, Manning vội cảnh báo, “Đừng đứng ngây ra thế, Kick. Cô đang ở trên sân khấu. Cô đang lên sóng truyền hình. Mọi người đều đang nhìn về phía cô đấy.” Chiếc xe phũ phàng lướt đi buộc cô phải tự thân xoay xở. Cô nhẹ nhàng dùng cây roi đồ chơi chạm vào con vật. Nó ngoan ngoãn đi trước, có lẽ bị thu hút bởi mùi đồ ăn tỏa ra trên bàn. Những người ngồi gần nhất thận trọng lùi ghế lại khi con báo bước dọc lối đi hẹp giữa các bàn, đôi lúc bộ lông của nó khẽ cọ vào chân họ. May mắn thay, quãng đường cần đi không quá xa. Đến cái bàn quen thuộc đã được đặt sẵn, cô dừng lại, đồng thời khẽ kéo ngược dây dắt ra sau để bắt con báo ngừng bước. Cô ngồi xuống chiếc ghế lưng mây do cậu bồi bàn kéo ra, dáng điệu hờ hững đầy quyền quý. Cậu ta thận trọng đứng phía sau cô để nhận yêu cầu chứ không vòng ra bên kia bàn. “Một Martini seco,” cô gọi đồ uống, vắt tréo chân, nhìn xung quanh với vẻ lạnh lùng đài các mà những quý cô thường tỏ ra khi đến những nơi sành điệu. Đồng thời, với một hoặc hai cú giật dây, cô đã khiến con báo nằm bẹp dưới chân mình sau vài giây lưỡng lự. Tuy nhiên, cái bàn hình ống vẫn nằm giữa cô và con vật. Nó nằm im, như thể vừa bị cơn mệt mỏi khác thường xâm chiếm, riêng đôi tai vẫn giật giật trước tiếng còi taxi từ ngoài phố vọng vào. Như thể đã bàn với nhau từ trước, những người ngồi gần cô ý nhị lui ra xa. Họ chuyển sang bàn bên cạnh, hoặc xoay ghế lại để hướng mặt về phía con vật, quyết không ngồi quay lưng với nó. Cuối cùng, một mình cô ngồi tại tâm điểm của vòng tròn nhỏ trống vắng. Ngay cả cậu bồi bàn cũng đi vòng ra sau lưng và đặt đồ uống qua vai cô. Dẫu vậy, Kiki vô cùng thích thú khi thấy bản thân thu hút biết bao nhiêu sự chú ý. Mọi người đều không thể rời mắt khỏi cô, hay nói đúng hơn là con vật đi cùng, dù sao cũng như nhau. Cô lấy một điếu thuốc lá đầu lọc vàng, môi giữ nó chĩa lên trời để tìm lửa. Một que diêm từ đằng sau chìa qua vai cô, sẵn sàng phục vụ. Đám báo chí mà Manning đã cài cắm sẵn như bước ra từ thinh không, túm tụm quanh cô. “Cô có thể phát biểu đôi lời chứ, Senorita Walker?” “Sí, como no.” Cô vui vẻ đáp. Một người khuỵu một bên gối xuống, chĩa ống phản quang về phía cô. “Fotografo, Senorita Walker?” “Được, anh chụp đi.” Ánh đèn chớp khiến con vật cảm thấy khó chịu. Nó co mình, sợ sệt nhích sát lại dưới gầm bàn. “Cô gọi nó là gì, Senorita Walker?” “Nhóc Bự. Nghĩa là chamaco.” Đoạn này là ứng khẩu, xét cho cùng cô cũng là nghệ sĩ mà. “Cô nuôi nó lâu chưa, Senorita Walker?” “Chưa, tôi mới nhận được nó hôm nay. Một người bạn gửi nó cho tôi.” Khóe mắt tay nhà báo lóe lên ánh nhìn ranh mãnh. “Gọi đây là một người bạn đặc biệt được không nhỉ, Senorita Walker?” Kiki cụp mắt xuống, hờ hững xoay que tăm cắm qua trái ô liu trong ly. “Gọi thế cũng được,” cô đồng tình. “Cô cho nó ăn gì, Senorita Walker?” Cô cứng họng trong mấy giây. “À, linh tinh chút này chút kia thôi.” Kinh nghiệm đứng trên sân khấu đã hỗ trợ cô. Đúng lúc ấy, có chuyện xảy ra. Sau này, trong những lời kể về nguyên cớ vụ việc, chẳng phiên bản nào giống nhau cả. Người thì nói khi ấy, một con chó Bắc Kinh trên chiếc xe đi ngang qua nổi cơn sủa loạn, khiến con báo hăng máu. Người khác lại bảo, trong lúc Kiki trả lời phỏng vấn, ai đó ở bàn khác đã nghịch ngợm quăng cho con báo miếng thịt nhỏ để xem nó phản ứng ra sao. Nhưng cũng có người tin rằng mấy ánh đèn chớp chớp, nháy nháy từ mớ thiết bị chụp ảnh cũng đã khiến thần kinh con báo căng thẳng quá sức chịu đựng. Dù nguyên nhân là gì chăng nữa, chuyện cũng đã xảy ra mà không hề có tín hiệu cảnh báo. Cặp chân đang gập cong của con báo bỗng bật dậy như lò xo thép. Chẳng hiểu từ đâu phát ra tiếng gầm kinh dị vang vọng khắp khu mái hiên. Cái bàn đổ nhào, kéo theo Kiki cùng cái ghế ngã cùng. Đám phóng viên chạy túa đi như vỏ trấu trước gió. Cơn hoảng loạn bùng lên khắp các bàn chật nêm người như lửa bén vào rơm. Đám đông hỗn loạn chà đạp nhau chạy về cuối phòng, để có thể đóng cửa lại cố thủ, cho dù những cánh cửa chủ yếu được làm từ kính. Đám phụ nữ rú lên, không phải để tỏ vẻ nữa; còn cánh mày râu thì gào khản cổ. Khay đĩa của bồi bàn rơi đổ loảng xoảng và vang rền tiếng thiếc, bàn ghế bị hất đổ khắp nơi, ly cốc vỡ toang. Mấy người tụt lại phía sau va vào nhau, đôi lúc ngã khuỵu xuống trong lúc chen lấn với những người chạy đằng trước. Cuối cùng, một khung kính cửa trước hiên rung lên rồi vỡ nát giữa cảnh nháo nhác. Chẳng ai biết chắc con báo đang ở đâu hay đang làm gì, cũng không ai dừng lại tìm hiểu mấy điều ấy. Kiki, bấy giờ đang gào thét như hóa rồ, không thể dành ra dù chỉ một phút để thoát khỏi tư thế mình đang mắc kẹt. Cô ngã sấp lưng, còn cái ghế lại ngã ngửa, khiến chân cô bất lực chĩa lên trời. Kiki thoáng thấy một hình ảnh rùng rợn: Cái đầu đen giận dữ đang lừ lừ phía trên cơ thể cô, tai ép sát đầu, hàm mở toác hung hãn, bất chấp cái rọ mõm vẫn giữ rịt lấy mõm, để lộ bộ nanh nhọn hoắt. Không có thời gian làm gì hết. Một bình xịt khoáng dày bằng thủy tỉnh xanh có lưới thép bọc ngoài, chưa sứt mẻ gì, rơi từ trên bàn, lăn về phía cô. Kiki vội vồ lấy, ấp nó sát ngực, nhắm mắt, thở hắt ra và điên cuồng xịt tứ phía. Không rõ hành động ấy đã giúp cô bảo toàn tính mạng, hay con vật đang hoảng sợ đến mất trí kia vốn không định tấn công cô mà chỉ muốn tìm đường bỏ chạy. Vấn đề này cũng nằm trong nhóm câu hỏi mà sau này không ai đưa ra được câu trả lời thỏa đáng. Vài giây sau, trong lúc mắt vẫn nhắm nghiền để tránh nhìn vào con vật mà mình vô phương trốn thoát, chất lỏng trong cái bình cạn dần, cô cảm thấy có mấy bàn tay đang đỡ mình dậy. Đó là bàn tay những người muộn màng quay lại giải cứu cô sau khi khoảnh khắc nguy kịch nhất trôi qua. “Nó đâu rồi?” Cô rùng mình, mở mắt, thẫn thờ nhìn khung cảnh tan hoang xung quanh. Tiếng thắng xe đang rít lên náo loạn ngoài đường. Có ai đó chỉ tay. Thần kỳ làm sao, con báo đã xoay xở chạy xuyên qua dòng xe đông đúc của buổi chiều muộn để sang bên kia đường mà không hề hấn gì. Cô vừa kịp nhìn thấy ở xa tít, tấm thân đen thẫm dẻo dai ấy chui tọt vào con hẻm hẹp như đường chỉ, chẳng khác nào một kẽ nứt giữa hai tòa nhà, và biến mất vào không gian tăm tối. “Cô định bắt nó lại kiểu gì đây, senorita?” Ai đó buông ra câu hỏi ngớ ngẩn, tay vẫn lấy mũ quạt cho Kiki trong lúc cô đặt ly nước lên môi. Kiki thô bạo đập tay xuống, mặt méo xệch, nước mắt đầm đìa. “Tôi không muốn bắt nó lại!” Cô gào lên man dại. “Tôi không quan tâm nếu nó đi mất dạng! Nhìn tôi này!” Cô bất lực cào mớ tóc rối bù đang xõa xuống hai vai. “Dìu tôi quay lại xe đi,” cô sụt sịt nói. “Tôi muốn về nhà…” Được hai người đàn ông đỡ, cô lảo đảo bước ra mép đường và chiếc Packard chạy lại gần. Phước bảy mươi đời cho Manning là anh ta không còn ngồi trong xe nữa. Anh ta đã nhảy ra ngoài, cùng với vài người to gan lớn mật trong đám đông đuổi theo con báo. Kiki yếu ớt ngã phịch xuống ghế sau, vẫn thút thít khóc, hoặc ít nhất cũng đang nổi điên như đang khóc, với chiếc khăn tay che miệng. Lần này không phải diễn trò, thần kinh vừa lãnh một cú sốc nặng và cô đang hành động theo cảm xúc thật. Để cuộc ngao du thảm họa này thêm trọn vẹn, hầu hết đám đông đã tràn ra phần sân ngổn ngang mảnh vỡ trước quán cà phê và khó chịu ra mặt với cô. Xem chừng họ đổ lỗi cho Kiki vì đã phá hỏng bữa rượu khai vị, tiếng rít với tiếng la ó vang lên rõ mồn một. Và việc bị một đám người Latin la ó cũng hệt như phải lãnh gạch đá và trứng thối từ đám dân miền Bắc. Quý cô tóc tai bù xù, mất hết thể diện và tinh thần chấn động tột độ kia được đưa đi khỏi nơi cô vừa lãnh một phen ê chề. Hàng tá người thấy rõ con báo lao vào ngõ hẻm cuối đường Alameda. Điều ấy không có gì phải nghi ngờ. Con hẻm này hẹp như khe núi, ngoằn ngoèo dẫn qua các tòa nhà bỏ hoang. Bên trong là khu nhà cũ kỹ, một trong những tàn dư nằm rải rác của mọi thành phố lớn, cho dù nó nằm ngay sát khu phố Alameda sành điệu và hiện đại bậc nhất. Vậy thì, cũng không khó khăn mấy để bám theo con vật sang đầu bên kia con hẻm, bắt kịp và ghìm chân nó, dù ta không thể tự thân tóm nó trước khi cảnh sát đến. Hoặc ít nhất cũng sẽ giữ được nó trong tầm mắt. Có điều mọi chuyện lại không diễn ra như vậy. Lúc ấy đang buổi hoàng hôn, cảnh vật trông khá rõ nét dù đã nhuốm màu xanh thẫm. Quãng đường cần đi chẳng xa xôi gì. Không chỉ vậy, mấy nhân vật ham hố phiêu lưu trong đám đông vừa vây quanh Kiki tại quán Globo, do Manning dẫn đầu, chỉ chạy sau con báo mấy giây. Vậy mà con vật đi biệt tích, như bị nuốt chửng, mất dạng vào đâu đó trong ngõ tắt ngắn ngủi này, giữa một trong những khu nhà san sát và tách biệt nhất thành phố! Khi đám người truy bắt kia, chạy đầu vẫn là Manning, xộc ra ngoài Plaza de los Mártires, một quảng trường nhỏ và nhộn nhịp với hàng cọ bao quanh, nằm đầu bên kia ngõ hẻm, họ nhận thấy dường như ở đây vừa xảy ra hiện tượng loạn thị hàng loạt. Mặc dù đôi khi vẫn xảy ra trường hợp người ta hoảng sợ hay kích động thái quá mà sinh bệnh, nhưng lần này đó không phải là nguyên nhân. Quảng trường tấp nập khách qua đường, nhưng chẳng ai nhìn thấy hay nghe được gì bất thường cả, chứ đừng nói đến thứ nổi bật là một con báo đen tuyền nhào đầu ra ngõ hẻm và lao vào giữa đám đông. Từ miệng hẻm rẽ ngoặt hơn một mét, một thằng bé đánh giày đang quỳ gối, nhìn chăm chăm vào bàn chân giơ cao của ông khách. Cả hai ở gần đến mức con báo mà phóng ra thì kiểu gì cũng tạt gió khiến họ ngã lăn. Đấy là nếu nó thực sự chui qua đây. Cả hai đều ngạc nhiên, nói rằng chẳng có gì xuất hiện hết. Sau đó, vì không chắc mình đã nghe đúng, họ ngơ ngác hỏi lại, “Một con gì kia?” thầm nghĩ Manning và mấy người này chắc hóa điên rồi. Cách đó không quá xa, một nhóm người đang tràn trề hi vọng theo dõi danh sách xổ số như thường lệ. Bàn dân thiên hạ nườm nượp lên xuống mấy toa xe điện ồn ã, tưởng như luôn chạy kín trong quảng trường cả ngày lẫn đêm, dây dẫn trên đầu xe bắn ra những nháng chớp màu lam mỗi lần dịch chuyển. Quảng trường vẫn như mọi ngày. Trong lúc phần đuôi của đội truy bắt vẫn đang tràn vào con hẻm từ mạn Alameda và gây tắc nghẽn, Manning cùng những người đi tiên phong tìm cách lèn qua họ để quay trở lại, vừa đi vừa loan tin con báo không chui ra ở đầu bên kia. Đến lúc ấy mới có ba anh cảnh binh trễ tràng xuất hiện, tay vung vẩy, mồm thổi còi toét toét, tiếp quản sự việc. Cuộc truy bắt ấy, đúng hơn là vấn đề ấy, bởi vì muốn truy bắt thì anh phải có thứ gì đó chạy đằng trước để đuổi theo, giờ đã chính thức vào tay giới công quyền. Lời giải thích cho sự lề mề của họ không đến nỗi khó chấp nhận: Lúc mới nghe báo thì họ không tin dù nửa chữ. Một vụ cướp đường nghe còn có lý. Hoặc vụ chém nhau chẳng hạn. Nhưng một con báo sống chạy loạn giữa phố ư? Nơi này là Ciudad Real. Khôn hồn thì tìm chỗ nào đó ngủ cho bớt hơi men đi, không là họ cho xộ khám luôn đấy. Manning tạm thời để mặc họ tự loay hoay, vật lộn lách về bên đường Alameda. Anh thử đi tìm nhân vật đã cho mình "mượn" con báo kia. Đó là một viên quản đốc trang trại tên Cardozo, người đáng lý sẽ mang xe chở nông sản đến gặp anh tại một góc phố kín đáo và mang con vật đi ngay khi Kiki đã xong việc với nó. Anh chỉ mất vài phút để đến chỗ hẹn, phát hiện tin tức loan truyền còn nhanh hơn cả mình. “Con báo chạy mất rồi,” anh vừa thở hồng hộc vừa thông báo. “Nó tách khỏi cô ta và suýt nữa giết luôn cô ta trong lúc hỗn loạn! Người ta đang tìm nó ở chỗ đám đông đằng kia.” “Tôi biết, có người báo cho tôi rồi,” Cardozo cáu kỉnh đáp. “Chắc đã có ai làm gì khiến nó nổi cơn như thế. Tôi đã bảo anh đừng hành nó quá mức mà. Tôi tưởng anh nói sẽ ở cạnh nó, suốt thời gian cô ta dắt nó ra ngoài.” Ông ta trông thực sự bất mãn trước tin con báo bị sổng, như thể bản thân đã có tình cảm gắn bó với nó. “Tôi chỉ ở cách đó không quá hai thân xe,” Manning sửng cồ lên, “và ngay lúc ấy tôi cũng không thể chạy kịp đến chỗ cô ta để ngăn con vật lại! Tôi đã thấy nó làm gì. Nó nhảy vọt lên người cô ta, lý do duy nhất cô ta thoát chết là nhờ chai xịt khoáng trong tay để phun về phía nó. Tôi tưởng anh bảo con báo đã được thuần hóa và khá vô hại, không phải lo lắng gì mà! Nếu lúc ấy nó xé xác cô ta ra thì có phải lớn chuyện rồi không?” “Suốt thời gian chúng tôi nuôi con báo ở estancia, nó hết sức ngoan ngoãn. Thằng con nhà ông bếp suốt ngày chui vào trong bãi quây và chơi với nó hàng giờ liền.” “Khi nào cơ, hai tháng trước hả?” Manning cay đắng nói. “Có thể lúc ấy nó đang lớn. Giờ thì nó chắc chắn trưởng thành rồi!” Anh chấm dứt cuộc bàn luận, bởi vì giờ đây chuyện đã như bát nước đổ đi. “Thôi nào, đứng đây tranh cãi việc này chỉ vô ích. Tôi chạy đi tìm anh vì tôi tin anh có thể giúp đỡ bắt nó lại.” “Tôi tính sẽ trói con báo lại trên đường về nên có để cái thòng lọng sau xe,” Cardozo đồng tình. “Tôi sẽ mang nó theo, có lẽ sẽ hữu ích.” “Con báo biến mất đâu đó trong kia,” Manning bảo, trong lúc họ chạy bộ trở lại khu vực huyên náo. “Anh nghĩ nó chạy đi đâu?” “Muốn biết điều đó thì anh phải trở thành một con báo,” ông quản đốc trang trại ráo hoảnh đáp lời. Lúc họ đến nơi, trật tự đang nhanh chóng trở lại với đám đông hỗn loạn, nhưng con báo vẫn chưa xuất hiện. Ba anh cảnh binh giờ đã tăng thành năm và chỉ lát sau đã thành bảy người. Tiếp đó, một trung úy cảnh sát chạy đến dẫn đầu chuyến tham quan safari ngay trên những tuyến đường của thành phố. Thậm chí còn có một xe cứu hỏa ở đây, nhưng chỉ để người ta lấy cái đèn pha công suất cao, loại đèn mạnh nhất có thể dùng được, chiếu vào trong con hẻm. Nó soi tỏ miệng hẻm bằng luồng sáng xanh nhợt nhạt rất kỳ dị, khiến sự kiện càng quái đản hơn. Mãi đến cuối cùng, nhưng cũng không quá lâu, họ mới cho gọi viên quản lý sở thú đến để nhờ tư vấn về kỹ thuật và nêu đề xuất, bởi ông ta được coi là chuyên gia trong lĩnh vực này. Có những việc hiển nhiên được thực hiện đầu tiên. Dân tình được yêu cầu rời khỏi ngõ hẻm bằng màn múa may dùi cui và những câu cảnh báo liên tục, “Lùi lại ngay. Không ai được phép vào trong, nguy hiểm lắm. Có khả năng con báo sẽ bất ngờ xuất hiện và tấn công đấy.” Hầu hết mọi người không cần phải giục đến lần thứ hai. Sau một lúc bối rối mò đường ra, ngõ hẻm đã được dọn quang. Dây thừng được căng hai bên đầu hẻm để giữ nguyên hiện trạng. Tiếp theo là yêu cầu tất cả người dân sống dọc con hẻm đi ra ngoài, vì cảnh sát phải khám xét từng nhà. Một lần nữa, mệnh lệnh ấy không cần lặp lại. Từ trong các căn hộ tồi tàn, người dân hoảng sợ di tản đầy hỗn loạn, xách theo chuồng chim, dụng cụ làm bếp, thậm chí cả chậu cây cảnh. Đám người này được đích thân viên trung úy cảnh sát thẩm vấn khi xếp hàng đi ra. Cuộc điều tra về cơ bản chẳng mang lại kết quả gì. Không ai nhìn thấy con báo chạy đi đâu. Nó phóng vọt qua bất chợt đến mức mọi người chẳng kịp chạy đến cửa sổ. Họ tò mò ngó ra bởi âm thanh huyên náo của đám người đuổi theo con báo chứ không phải vì tiếng động do nó gây ra. Hai hay ba người thừa nhận nhìn thấy con vật tiến lại từ đằng xa, mặc dù họ không nhận ra nó là giống gì. Trong bóng tối, họ nhầm nó với một con chó dại lông đen khá lớn. Nhưng những người này cũng chẳng giúp ích được gì nhiều, tất cả cùng đưa ra một câu trả lời cho dù khi ấy họ ở ngay giữa con hẻm. “Ừ thì tôi đã thấy con vật khi nó lao về phía mình. Nghe tiếng la ó đằng sau là tôi biết chẳng phải thứ tốt lành gì. Nó chạy đi đâu ấy hả? Ông nghĩ là tôi đứng ở đấy để tìm hiểu à? Tôi chui ngay vào khung cửa gần nhất và đóng sầm cửa lại. Đến lúc tôi nhòm ra thì nó đã biến đi đâu mất rồi.” Cuối cùng, gần đến cuối dòng người di tản, họ vớ được một bé gái tầm mười tuổi hứa hẹn hỗ trợ được cuộc tìm kiếm. Trong chốc lát, họ tưởng rằng sẽ có chút manh mối. Cô bé khẳng định đầy tự hào là đã kịp nhìn thấy con báo, bởi cô bé vốn thò đầu ra ngoài cửa sổ từ rất lâu rồi. “Cháu thấy có thứ gì to và đen chạy dọc hẻm, từ tận đầu kia kìa.” Cả hội đồng vội vã tụ tập lại. “Nó chạy đi đâu? Nó biến vào chỗ nào thế?” “Cháu không biết. Cháu chạy vào trong để gọi em trai ra xem cùng. Khi quay lại thì nó không còn ở đó nữa.” Thế là hội đồng lại tẽ ra, hệt như quả đậu ván chín tách hạt. Viên trung úy phụ trách quyết định phải lùng sục từng nhà thì mới xua được con báo ra. Giả thuyết khả dĩ duy nhất còn lại là nó đã tìm được một lối vào, khe nứt hay kẽ hở nào đó trên mấy bức tường mục nát, để lách vào trong. Con vật vẫn ẩn nấp đâu đó tại một trong những căn nhà tối tăm kia, có thể trong một tầng hầm, hay trong ống thông hơi không sử dụng, hoặc trong khoảng trống dưới cầu thang. Trú ẩn trong ngõ hẻm đầy ngóc ngách không có nổi ánh điện, con báo lặng lẽ thở những luồng hơi chết chóc. Gần 8 giờ, cuộc lùng sục bắt đầu, xuất phát từ phía đầu hẻm đường Alameda. Khi đoàn người ra khỏi căn nhà cuối cùng sát sườn quảng trường Plaza de los Mártires thì đã gần nửa đêm, tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Cuộc lùng sục thất bại hoàn toàn, hệt như cuộc rượt đuổi ban đầu. Họ đã rà soát rất kỹ lưỡng, dù không nên cơm cháo gì. Đám người lùng sục từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên trong các căn nhà nằm dọc hẻm, chiếu đèn vào từng xó xỉnh, gõ lên tường, thọc gậy lật tung thùng, hộp và các đụn rác, tay lăm lăm súng lục và dùi cui, sẵn sàng đối phó nếu con báo xuất hiện. Thế nhưng nó vẫn biệt tăm. Đứng sau đoạn dây căng ở hai bên đầu hẻm, đám đông bấy giờ nhìn theo luồng đèn pha xanh lờ mờ, cùng nín thở mỗi lần thấy cảnh sát đi vào một căn nhà, quan sát ánh đèn pin lấp loáng qua cửa sổ, đánh dấu quá trình tìm kiếm theo từng tầng. Rồi họ chui ra, báo cáo với sĩ quan chỉ huy rằng “Không có trong nhà này,” đánh dấu căn nhà an toàn, sau đó lại tiếp tục vào căn nhà kế bên. Cuối cùng, sau nhiều lần lặp đi lặp lại, kịch tính cũng dần tiêu tan. Lác đác vài người quay đi lo việc của mình, trời khi ấy đã tối. Đám đông đứng xem thưa dần, ai đó đề xuất nửa đùa nửa thật, rằng chưa biết chừng con báo đã chui vào khoang sau xe thồ hay xe tải nào đó hớ hênh, lúc tài xế về thì đóng cửa nhốt luôn nó và tình cờ đưa nó ra khỏi khu này. Lỗ hổng duy nhất của giả thuyết ấy là không có chiếc xe nào vô tình đậu ở đây, bởi lý do rất hiển nhiên là nơi này không đủ rộng cho bất cứ phương tiện chuyên chở nào, may ra chỉ có xe đẩy mới lọt nổi. Một người khác bảo, có khi nó đã nhảy lên khinh khí cầu và bay tít lên trời, khiến đám đông cười nghiêng ngả. Sự hồ nghi bắt đầu len lỏi vào những khán giả vẫn cố bám trụ lại. Cảm thấy như bị nẫng mất cơ hội tham gia trò phấn khích vì ngóng đợi nãy giờ, họ quyết định xả ra cho đỡ tức. “Khéo con báo chui vào nhà thờ cầu nguyện rồi!” Người nào đó khum tay nói với vào trong hẻm. Cái nhà thờ nhỏ mà anh ta nhắc đến nằm ở cuối ngách cụt be bé gần quảng trường Plaza de los Mártires. Tuy không dài gì cho cam nhưng con hẻm vẫn kịp bẻ ngoắt hướng mấy lần. Tại một khúc quành, con hẻm như chia ngả làm đôi, nhưng thực chất hai nhánh chẳng thông đến đâu. Chặn đầu một bên ngách cụt ngắn ngủn là San Sulpicio, một nhà thờ tường vách mong manh được xây từ thời thực dân. Nói cách khác, đây chỉ là chỗ hõm hay một góc khuất, nằm tách khỏi đường hẻm chính và chỉ kéo dài vài mét. Nhà thờ này là nơi mà con báo ít có khả năng chui vào trốn nhất. Lâu rồi không ai lai vãng đến đây nữa, nhà thờ đã bị bỏ hoang từ nhiều năm trước sau khi xảy ra trận động đất nào đó khiến nó hư hỏng ít nhiều. Tuy vậy, cánh cửa gỗ gụ vững chãi vẫn nguyên vẹn, cảnh sát phải loay hoay với xà beng và dùi đục gần nửa giờ mới cạy mở được. Đến người sống lâu nhất cũng không nhớ nổi nhà thờ đã từng mở ra lần nào chưa. Cuối cùng, khi cánh cửa đã chịu bật khỏi vị trí, họ chỉ thấy bên trong mớ ghế băng mục ruỗng và thạch cao rơi ngổn ngang, được bao quanh bởi bốn bức tường không mái, trăng sao chiếu xuống vằng vặc. Con báo không thể nào vào được bên trong, mà nếu có cũng chẳng thể thoát khỏi nhà ngục đá vuông vắn này. Họ lại chui ra ngoài, phủi mấy ống tay áo trắng xóa bụi thạch cao, vừa ho vừa hắt hơi liên tục. Một người đang để tâm chăm sóc vết bọ cạp cắn trên mu bàn tay. Lát sau, họ đã ra đến Plaza de los Mártires. Thế là cuộc lùng sục bất đắc dĩ đến hồi kết thúc. Đám người hóng chuyện nhanh chóng tản đi mỗi lúc một nhiều. Tiếng chuông nửa đêm vang lên hết tháp chuông này đến tháp chuông kia. Ngọn đèn pha cứu hỏa bỗng tắt ngóm, xe cộ chuyển bánh rời đi. Dây dợ được tháo xuống. Người dân sống trong hẻm được phép trở về nhà. Đèn dầu, đèn parafin cùng nến nhấp nháy được thắp lên đây đó trong các căn nhà ám khói sau khi chủ nhân quay về. Nhiều người nán lại ngoài cửa nhà, tụ thành các nhóm nhỏ và bàn tán xôn xao. Hồi sau, những người này cũng giải tán, quay vào nhà đi ngủ. Con hẻm trở lại nhịp sống bình thường. Hầu hết các sĩ quan cảnh sát đã được rút về. Mỗi đầu hẻm sẽ chỉ còn một sĩ quan ở lại canh gác suốt đêm, dù mục đích của việc này vẫn còn là dấu hỏi. Buổi tối hôm đó dần khép lại, hệt như mọi buổi tối từ xa xưa tới giờ. Dẫu sao thì cho đến lúc này, toàn bộ sự kiện vẫn có một điều duy nhất rõ ràng. Con báo chưa được bắt lại. Tức là nó vẫn đang tự tung tự tác đâu đó. Sớm hôm đã lên và dưới ánh sáng ngập tràn phấn chấn, người ta bắt đầu có cách nhìn khác về vụ việc ấy. Ánh nắng rực rỡ, vàng ươm, giết chết nỗi sợ hãi và những điều hoang tưởng. Thật khó tin, một chuyện phi thường đến thế lại xảy ra được. Dẫu gì thì Ciudad Real cũng là thành phố của những người hoài nghi bẩm sinh. Sau khi người ta nhấm nháp cà phê sáng và bỏ bụng pan dulce, có tin đồn loan ra rằng vụ việc kia chỉ đơn thuần là màn bịp bợm nhằm quảng bá danh tiếng do Walker và đại diện truyền thông của cô ta đứng sau. Giống như trò tìm nữ trang mất tích mà đám diễn viên hay sử dụng. Mặc dù tin đồn này chẳng nhắc gì đến chuyện con vật bốn chân nhanh nhẹn kia giờ ra sao, nó vẫn dễ dàng được chấp nhận và mọi người cứ thế rỉ tai nhau. Ngay cả những người đầu tiên chốt cửa cài then và lo lắng nhòm ra từ gầm giường vào đêm hôm trước, giờ lại trở thành những người đầu tiên tuyên bố, “Tôi biết ngay từ đầu mà. Ông cũng chẳng tin phải không?” Nghe đến đây, nhân vật được hỏi chuyện sẽ nhăn mặt, “Tất nhiên là không rồi, cậu tưởng tôi là ai?” Bất chấp việc có hàng chục người chứng kiến tận mắt, tin đồn gần như đã thay thế sự thực. Ngay cả các nhân chứng cũng cảm thấy ái ngại sau thời gian liên tục khăng khăng nói rằng mình đã nhìn thấy con báo. Họ thầm băn khoăn, không biết có đúng mình đã nhìn thấy nó hay không. Báo giới, những thước đo dư luận, cũng giúp lan tỏa quan điểm ấy. Tất cả đều đăng bài về vụ việc nhưng cách viết lại đầy hài hước và châm biếm. Các dòng tít được viết theo kiểu Cuộc đại loạn báo, Ai đang sở hữu con báo của cô Walker? Có thể mang trả khổ chủ được không? Khắp thành phố, người ta cợt nhả chào nhau, “Thế nào, chị thấy con báo chưa?” Phía cảnh sát vẫn im hơi lặng tiếng, có khi còn muốn mọi chuyện diễn ra như vậy. Ít nhất điều này cũng không khiến dân chúng phát hoảng và cảnh sát đỡ phải nhận hàng chục tin báo sai lệch trong ngày. Hiện tại thì chẳng nhận được tin tức gì cả. Đáng chú ý là họ chưa từ bỏ cuộc tìm kiếm, dấu hiệu rõ ràng cho thấy thực sự có gì đó cần được làm rõ. Chỉ là phạm vi đã phân tán rộng hơn, người dân trong thành phố khó đoán được cảnh sát đang làm gì, bởi vì bây giờ họ không còn tập trung vào địa điểm cụ thể nào nữa, chẳng hạn như con hẻm hồi trước. Trong khi ấy, Manning đã trải qua 24 giờ hết sức khó chịu. Anh không chỉ bị bắt giam gần như cả đêm ấy, bị cáo buộc vi phạm một sắc lệnh cổ xưa nào đó của thành phố, cấm đem động vật hoang dã ra diễu giữa phố khi chưa có giấy phép; sáng ra thì bị xách cổ lên tòa, bị khiển trách nặng nề vì hành động phi pháp và chịu một khoản tiền phạt nhỏ rồi mới được thả. Đồng thời, anh còn mất việc ở chỗ Kiki Walker. Việc này đã được cô thông báo rất rõ vào cái đêm sau hôm diễn ra trò lố lăng kia, lúc anh tìm cách vào gặp nghệ sĩ của mình. Và qua khung cửa sổ con trên cánh cửa phòng khóa chặt ở khách sạn, giọng cô oang oang, to đến mức vài cánh cửa khác dọc hành lang cũng tò mò mở ra sau mấy giây. “Anh gan to thật đấy, dám quay lại đây sau khi chuyện kia xảy ra! Để tôi nói cho anh biết, anh đã biến tôi thành trò cười của cả thành phố! Biến đi! Mang mấy ý tưởng đột phá của anh đi chỗ khác!” “Nghe này, Kick, cô biết tôi không cố tình để xảy ra chuyện như thế mà,” anh cố gắng nói lý. “Công nhận là anh đã cho tôi được lên mặt báo!” Giọng cô vẫn giận dữ vang lên. “Anh đã thấy tấm ảnh trên tờ Grafico chưa? Ngã giập mông, chân chĩa ngược lên trời, đang xịt một tia nước khoáng qua chân nữa chứ! Tuần sau, lúc bức rèm sân khấu được vén lên, đó sẽ là hình ảnh mọi người nhìn thấy chứ không phải màn biểu diễn trước mắt! Rồi họ sẽ cười nhạo và xua tôi khỏi sân khấu!” “Tôi sẽ quay lại sau khi cô bình tĩnh hơn,” anh đều giọng nói. “Cô không cần làm to chuyện lên thế, để cho mọi người thò mặt ra khỏi phòng cười nhạo tôi.” “Thế lúc tôi ở giữa phố Alameda, bị cả thành phố chứng kiến thì sao?” “Được rồi, ngày mai tôi sẽ gặp cô,” anh nói, cố gắng bảo tồn quan hệ giữa hai người, dù nó đang trở nên mong manh cỡ nào. Dẫu sao đây cũng là cần câu cơm của anh. “Anh sẽ không bao giờ còn gặp tôi nữa!” Điều Manning không nhận ra và có thể cả Kiki cũng chẳng nhận ra, điều khiến cô nổi trận lôi đình không phải vụ con báo. Nguyên nhân sâu xa là cuộc gặp đầu tiên giữa họ. Anh đã chứng kiến cảnh cô nhẵn túi, mạt vận, không thể tự mua cho mình một tách cà phê. Cô không bao giờ tha thứ cho anh vì chuyện đó. “Đây là tiền bồi thường hợp đồng. Giờ anh không có lý do gì để lảng vảng quanh đây nữa. Chúng ta cắt đứt quan hệ!” Một vốc các đồng tròn lớn, peso bạc của Ciudad Real, văng qua khung cửa sổ và lăn khắp hành lang. Một vài người đứng ngoài cửa phòng giúp anh lấy chân chặn chúng lại. Một xấp tiền giấy chậm rãi rơi phất phơ phía sau. Manning chấp nhận gạt bỏ sĩ diện, cúi xuống nhặt không sót đồng nào. Anh đã phải làm việc cật lực mới kiếm được chỗ tiền đó, trong khi công việc này không phù hợp với tính cách hay tài năng của bản thân. Anh cần chúng. Anh chưa biết sau này mình sẽ kiếm thêm tiền ở đâu. “Thôi được rồi, Kick,” anh nói với vẻ tổn thương. “Nếu cô cảm thấy thế thì chúc cô may mắn.” Cánh cửa sổ đóng sập lại với tiếng rắc gãy gọn. Anh dựng thẳng cổ áo khoác lên, tay thọc sâu trong túi và thiểu não lê bước đi. Khi một người đàn ông mất việc, điều đầu tiên anh ta nghĩ đến thường là ra đường, làm một ly rượu để xoa dịu phiền muộn. Manning giờ cũng đang làm thế. Có điều, chẳng bao lâu anh nhận ra, đến quên cái chuyện khốn kiếp vừa rồi trong yên bình cũng chẳng được. Manning ghé vào một quán cách khách sạn của Kiki mấy dãy nhà. “Sao thế?” Ông pha rượu hỏi, miệng toét cười, tưởng vậy là niềm nở xã giao, “Anh đã tìm thấy con báo chưa?” Manning chợt hạ ly xuống, tưởng như nó làm anh phát bệnh, tặng ông pha rượu một ánh mắt hằn học, như thể ông ta cũng khiến anh thấy phát bệnh nốt. Anh đập một đồng xu xuống bàn, quay người lẳng lặng bước ra ngoài và tìm quán khác. Anh lại gọi rượu. Một lần nữa, anh pha rượu lại tìm cách giúp khách thấy thoải mái bằng câu mào đầu vui vẻ, “Tình hình con báo thế nào rồi?” Một lần nữa, Manning lại hạ ly rượu uống dở, nhăn mặt và bỏ đi. Đến quán thứ ba thì anh chặn mồm người pha rượu, “Tôi muốn hai thứ,” anh cay đắng nói. “Một ly Whisky cùng nước lọc và không phải nghe về chuyện con báo. Cậu làm thế giúp tôi được không, cố né cái đề tài kia ra? Tôi đến đây để quên nó đi.” Anh vạch một đường thẳng lên không, kéo dài ngang mặt mình. “Terminado. Chấm dứt rồi.” Nhưng mọi chuyện chưa dừng lại. Màn đêm đầy bí hiểm phủ lấy Ciudad Real, dường như đang nín thở. Ba phần tư triệu con người và một cái bóng thuôn dài ẩn nấp đâu đó trong số họ, với cặp chân bước êm như nhung và bộ nanh sẵn sàng xé xác những kẻ xấu số nó bắt gặp… 2 TERESA DELGADO Tối nay, đến cả cán chổi đáng tin cậy của Senora Delgado, công cụ thuyết phục tối thượng, cũng chẳng đủ sức khiến cô con gái cả phải tuân theo lệnh mẹ. Bà vươn tay về phía cái chổi đầy hăm dọa. Thường thì chỉ hành động ấy thôi đã đủ tạo động lực để con bé bước ra cửa. Tối nay nó lại không có tác dụng. Tiếp đó, bà ta cầm hẳn cái chổi lên dứ dứ. Nhưng cũng vô hiệu. Cuối cùng bà ta buộc phải vụt vào bắp chân đứa con ngang ngạnh để bắt con bé phải tiến lên phía trước. Thậm chí cái đòn ấy cũng không hiệu nghiệm hoàn toàn. Con bé chỉ đơn thuần nhảy loi choi sang hai bên, không chịu khuất phục. Hầu hết các cú vụt đều quật trúng bức tường trống không, lần nào con bé cũng tránh kịp. Cứ lần nào có việc cần ra ngoài là con bé lại giở trò ương bướng, trì hoãn, kỳ kèo. Nhưng tối nay thì còn hơn cả thế, có một sự lì lợm đến cùng, một kiểu phản kháng thụ động. Chưa bao giờ con bé chống đối dữ dội đến mức này. Hình như có thứ gì đang giữ chân con bé còn mạnh mẽ hơn cả nỗi sợ mấy cú vụt chổi của mẹ. Con bé ngồi thụp sát tường, tỏ thái độ không muốn đi chút nào, liên tục nhảy né cán chổi trừng phạt. Cặp mắt đen to tròn và long lanh nhìn mẹ đầy van nài thật khó hiểu. Con bé khá cao so với độ tuổi và so với ba mẹ mình, hiện nó đã cao ngang tầm người lớn, mặc dù khổ người thì chưa bằng. Nó sắp sửa mười tám hay mười bảy tuổi gì đó, hoặc có thể mới mười sáu, gia đình nhà họ không bận tâm đo đếm tuổi tác. Da con bé vàng óng như lúa mạch trên đồng, dù tuổi trưởng thành chắc sẽ làm nước da sậm đi chút ít. Nó đã trùm xong rebozo - tấm khăn choàng đầu phổ thông của đàn bà con gái Mỹ Latin nghèo - bước chuẩn bị đầu tiên trước khi ra ngoài, nhưng xem ra thì con bé có vẻ chưa sẵn lòng hoặc không thể đi được. Sau khi mấy cú vụt ngang không có công dụng gì hết, bà mẹ bắt đầu thọc thẳng chổi vào người con gái, miệng rú rít quát mắng, “Tao đã bảo mày đến tận ba lần rồi đấy! Mày có chịu đi không?” Bà thọc một nhát nữa. “Trong cái thành phố này, có bà mẹ nào phải vất vả với con cái đến thế không? Tại sao mày lại làm khổ tao như thế này hả, Teresa? Tối hôm nay mày mắc cái chứng gì vậy? Nhờ mày đi ra tienda, mang một ít than về để ông ba tội nghiệp nhà mày có cơm canh nóng sốt mà ăn sau khi đi làm quần quật về là quá quắt lắm à? Từ nãy đến giờ, đáng lẽ mày ra đó xong quay lại được đến hai lần rồi đấy!” “Madrecita,” Teresa đau khổ lạy lục, “sao không để Pedro đi một lần cho biết? Con đã phải làm việc cả ngày ở chỗ giặt là và mệt lắm rồi.” “Mày biết rõ là tao không thể nào tin tưởng giao việc cho Pedro được mà. Trên đường đi, nó toàn tung xu lên trời và chưa gì đã để mất tiền.” “Sao mẹ không dùng tạm củi hay giấy và chờ đến ngày mai? Tại sao con phải đi ngay bây giờ?” “Giấy có phải là than không? Nó cháy được bao lâu? Nó bùng lên thành lửa và sau đó tắt ngóm!” Nói đến đây, sực nhớ ra một chuyện, bà tạm hoãn lại màn vung chổi để chạy ra chỗ cái brasero lát gạch thô, bị bỏ không đã được một lúc. Bà tóm lấy cái quạt lá cọ, kéo mạnh cái nồi đất nung sang một bên, lo lắng quạt vào lỗ thông hở cho đến khi nó lại bắt đầu đỏ lừ bên dưới. “Nhìn thấy chưa?” Bà mắng mỏ. “Giờ bếp bắt đầu tắt rồi đấy! Nếu nó mà tàn hẳn…” Bà chạy vào lấy cây chổi, lần này quyết tâm sẽ tăng cấp độ đòn lên mức cao nhất, bởi chẳng còn cách nào hiệu nghiệm nữa: Quật cho ra trò quanh vai con bé. Trước viễn cảnh sắp sửa xảy ra, Teresa cuối cùng cũng chạy đến tận khung cửa, nhưng sau đó vẫn cứ đứng lần chần ở đấy, như thể trông mong đến phút chót sẽ có phép màu nào đó khiến mẹ tha cho mình. Một thằng nhóc khoảng chín hay mười tuổi, nhân vật Pedro ban nãy có nhắc đến, ló mặt ra khỏi một cái bát mà từ nãy đến giờ nó vẫn vục mặt vào, cười cợt bình phẩm, “Con biết chị ấy sợ gì. Chị ấy sợ con báo.” Con bé bắn cho em một ánh mắt như thừa nhận. Sau đó, nhờ có người nhắc đến chuyện ấy mà khả năng trình bày suy tư đã được giải phóng, con bé bắt đầu giãi bày với mẹ bằng cái giọng nửa hăng hái, nửa lo lắng, “Người ta đồn là có một con báo đâu đó quanh đây. Một cô nhà giàu buộc dây dắt con vật đi chơi và nó bị sổng mất. Chưa ai tìm thấy nó cả. Hôm nay con nghe mấy chị ở chỗ giặt là nói về chuyện ấy…” Cây chổi chỉ dừng lại mấy giây. “Một con báo? Là cái thứ gì vậy, có phải mấy con vật ở trên núi không?” “Chúng nó to lắm và sẽ vồ lấy mình đấy,” thằng ranh Pedro nói, đánh kèm một cú liếc sang chỗ cô chị, để lộ lý do phát biểu câu đấy. Senora Delgado không chấp nhận câu chuyện ngớ ngẩn này. Bà phải làm việc cực nhọc và quá mệt mỏi với bao lo toan, thế nên không buồn quan tâm đến những thứ nằm ngoài phạm vi công việc và lề thói hàng ngày. “Mày đã bao giờ đụng phải con nào như thế khi đi ra tienda cho tao chưa?” Bà gầm lên. Con bé nuốt khan, im lặng lắc đầu. “Thế thì lần này cũng không! Giờ cút ngay ra khỏi nhà! Làm như tao bảo đi!” Và bà giơ cái chổi ngược ra sau, quả quyết đến mức đứa con lui tọt ra khỏi cánh cửa. Cặp mắt con bé đen mọng nước, bấy giờ vẫn đang cầu khẩn trong vô vọng, là thứ lui ra cuối cùng. Senora Delgado bực bội đặt chổi sang một bên và quay lại với những công việc dang dở, lẩm bẩm quàu quạu và lắc đầu. Nhưng một thoáng sau, cánh cửa lại lén lút hé ra và con bé tìm cách tuồn vào nhà từ sau lưng mẹ. Bà bắt quả tang, rồi hùng hục lao về hướng nó, nhưng cửa nhanh chóng đóng lại trước khi bà kịp lao đến. Con bé một lần nữa ở bên ngoài. Senora Delgado giải quyết dứt điểm bằng cách chốt cái then giữa lại, mặc dù cũng phải rất trầy trật. Do không ai dùng nên then đã hoen gỉ cả. Chắc đã mấy năm rồi chưa lần nào nó được kéo vào ổ. Cửa nhà họ không bao giờ cần phải khóa, chẳng có thứ gì đáng lấy đi cả. Các mảng gỉ sét vụn rơi khỏi cái then và một đám mây bụi tí hon bay túa lên khi bà ta cuối cùng cũng kéo chốt vào hẳn, chủ yếu nhờ sức lực từ đôi tay rắn rỏi như tượng. Thế rồi bà ta dứ tay về phía cánh cửa gỗ vô tri trước mặt, “Giờ mày sẽ phải ở ngoài đó cho đến khi làm xong việc tao giao! Mày không được phép vào nhà cho đến khi mang than về!” Bên ngoài, con bé ngồi co ro một lúc trong phần bậu cửa. Nó quấn chặt chiếc rebozo quanh miệng. Làm vậy là để ngăn khí đêm độc hại xộc vào lỗ mũi và đường thở. Chỉ có người ngoại quốc, chẳng hạn như người Mỹ, mới dám ăn vận phong phanh. Nó cẩn thận nhòm trước nhòm sau cái tuyến đường bẩn thỉu, dốc xiên trong khu ổ chuột trước nhà mình. Đường đi không thẳng mà cong dần. Không có vỉa hè, chỉ có một đoạn đường nằm giữa. Duy nhất một cột đèn leo lét đang tù mù rọi soi cuối con đường, mặc cho phần còn lại ngập chìm trong bóng tối. Nhưng nó phải đi theo hướng ngược lại, nơi chẳng đèn đuốc gì hết. Trên đường không có lấy một bóng người. Giờ này thì tất cả đã vào trong nhà hết rồi. Người dân ở đây làm việc quá khổ cực. Ra ngoài buổi đêm là đặc quyền của người giàu. Trong đêm lễ hội thì khác. Hoặc nếu nhân vật trụ cột gia đình muốn vào quán rượu ngồi vài tiếng thì cũng khác nốt. Nhưng mà ngay cả khi ấy thì họ cũng không ở ngoài phố, họ ngồi trong quán. Thôi thì cũng không xa. Con bé không thể vào nhà cho đến khi đã mua được than, thế nên đi càng nhanh thì càng tốt. Nó can đảm lao ra khỏi khung cửa, đi vào lòng đường, hai tay ôm chặt lấy thân thể bên dưới chiếc rebozo, đôi mắt trên gương mặt trái xoan đảo qua đảo lại dò xét. Con bé đi vòng qua góc khuất trong hẻm, nối với con đường kế bên phía dưới. Nó thoáng nhìn thấy ánh sáng nâu vàng mờ nhạt tỏa ra từ trong tòa nhà tienda, nằm ngay mạn dưới trước mặt. Con đường mới tiếp tục đưa nó xuống dưới. Toàn bộ khu nhà này của thành phố được xây trên một con dốc, dẫn lên lòng sông khô cạn xa xưa. Nhưng, ngay khi con bé vừa nhìn thấy ngọn đèn thì ánh sáng tắt ngấm, cứ như thể từ nãy đến giờ ánh đèn chỉ đợi để được nhìn thấy rồi thôi. Cụ Calderón đã dọn hàng về nghỉ đêm. Việc này không diễn ra theo bất cứ hệ thống đồng hồ nào. Thực tình mà nói thì bà cụ không biết cách xem đồng hồ và cũng không sở hữu cái đồng hồ nào hết, hệt như tất cả người dân quanh đây. Kể từ lúc vị khách cuối cùng ghé qua, nếu như đã chờ đủ lâu, bà cụ tự hiểu rằng tối đó sẽ chẳng còn ai lai vãng nữa, rồi cụ đóng cửa hàng. Bởi thế nên có đêm bà cụ nghỉ bán lúc 10 giờ, đêm tiếp theo thì 11 giờ, đêm tiếp theo nữa thì 9 giờ. Teresa vội cất cao giọng gọi, nhằm tìm cách giữ chân bà cụ cho đến khi mình chạy tới nơi, con bé bắt đầu co cẳng phóng xuống chỗ cửa hàng. Nhưng khi đến nơi thì muộn rồi, ổ khóa bên trong đã chốt. Vì đây là kho chứa các món hàng quý giá như đường, nến, đậu gà và nhiều thứ khác, cứ đêm đến là sẽ được khóa lại chắc chắn, khác hẳn các căn nhà quanh đây. Áp sát mặt vào kính cửa sổ bên cạnh, con bé vẫn có thể nhìn thấy ánh nến tỏa ra lờ mờ từ sau bức màn gian trong. Gian ngoài là cửa hàng thì dùng điện, còn gian trong thì dùng nến, lẽ thường là như vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Con bé nện tay lên cửa sổ, lòng thầm hi vọng. Bức màn được kéo chéo sang bên và cụ Calderón thò mặt ra. Bà cụ đang thay dở quần áo, chân để trần, bím tóc bạc vấn quanh đầu đã được tháo xuống và đang lủng lẳng trước một bên vai. “Cháu chỉ muốn một túi than nhỏ để về nấu cơm cho ba thôi!” Teresa Delgado nói qua lớp kính giữa hai tay mình. Trong lúc tiếp tục xõa bím tóc ra, cụ chủ tienda lắc đầu, ra dấu xua con bé đi. “Manana.” “Sẽ chỉ mất một giây thôi mà. Thay vì đứng đó nói thì bà có thể đo luôn…” Con bé giơ đồng xu lên cho bà cụ nhìn. “Thế tức là tao sẽ phải tháo khóa ra, bật đèn lên, mò mẫm trong bọc. Nhiều thứ lằng nhằng lắm. Một khi tao đã đóng cửa tức là tao đóng cửa luôn.” Bức màn lại buông xuống và che khuất khuôn mặt bà cụ. Teresa thất vọng quay đi. Giờ thì con bé sẽ phải về nhà mà không có than, hoặc cuốc bộ tít ra một cửa hàng khác cách đây mấy con phố, ở tận bên kia cây cầu cạn. Đó là cửa hàng gần đây nhất. Cây cầu cạn là một lũy đá đặc, nâng đỡ một đại lộ bắc ngang qua lòng một con sông đã kiệt nước và cao ngang hai bên bờ sông. Người ta phải băng qua một đoạn hầm uốn vòm đâm xuyên chân cầu để sang phía bên kia. Từ hồi trước (từ hồi còn chưa có tin đồn kia), Teresa đã luôn cảm thấy sởn gai ốc mỗi lần phải chui qua đó vào những lúc muộn màng thế này, khi xung quanh chẳng còn mấy bóng người. Đoạn trong hầm tối đen như mực. Nhưng nếu Teresa quay về với hai bàn tay trắng, mẹ sẽ không cho nó vào nhà. Giả như có để con gái bước qua ngưỡng cửa, chắc bà cũng sẽ không tin chuyện cửa hàng đã nghỉ bán và sẽ nện cho con thêm mấy nhát chổi nữa. Cho dù có là thứ ít nguy hiểm hơn, nỗi sợ hữu hình luôn lấn át nỗi sợ vô hình. Lòng đầy miễn cưỡng, con bé tiếp tục hành trình đi xuống cây cầu trước mặt thay vì quay về nhà. Lúc Teresa đến nơi và sắp sửa bước hẳn vào trong hầm, con bé hít một hơi thật sâu, trữ trong hai lá phổi đủ lượng khí để có thể đi được sang đến tận bên kia. Bóng tối trong đường hầm đen ngòm, khiến đôi mắt không thể nhìn thấu cái gì. Sàn đất bên ngoài dốc xuống, ngăn chút ánh đèn đường ít ỏi đằng xa tiến vào sâu, quầng sáng mờ nhạt đó chỉ hắt hờ hững ngay miệng hầm. Những tưởng ít nhất thì người ta cũng phải cho mắc một ngọn đèn bên trong hay bên ngoài cổng vào. Ừ, thì họ cũng đã từng thử nhiều lần, nhưng chỉ cần một đến hai ngày, bọn trẻ con chơi đùa quanh đây ban ngày kiểu gì cũng sẽ làm vỡ bóng hết. Thế là cuối cùng người ta không buồn lắp đèn nữa. Ngay khi vòm trần đen thẫm phủ chụp lên Teresa, vọng âm từ những bước chân bắt đầu vang lên, các mặt đá xung quanh khiến âm thanh ấy thêm phần ẩm ướt và mốc meo. Đã có lần, chừng khoảng một năm trước, ở trong này, người ta phát hiện thi thể một khách bộ hành xấu số với con dao găm cắm trên thân mình, xuyên qua cả túi. Nhưng giờ con bé không muốn nghĩ đến chuyện ấy. Hiện tại không phải lúc. Từ khi vào trong, Teresa vô thức rảo bước mau lẹ hơn, đồng tử dãn hết cỡ, cặp mắt long lanh và to tròn lạc trong bóng tối mịt mùng. Gracias a Dios, đường hầm không quá dài, chỉ bằng bề rộng của đại lộ chạy phía trên thôi. Con bé đã đi được nửa đường sang bên kia rồi. Hai bàn chân rơi xuống mặt hầm nghe bộp, bộp, bộp, bộp tựa tiếng tay vỗ trên trái bầu, vòm đá bên trên hất ngược âm thanh xuống nền đá bên dưới. Kia rồi! Teresa có thể thấy lối ra ở ngay trước mặt, con bé sắp đến bên ngoài. Nó bắt đầu hít thở trở lại và ngay lập tức nhận ra bản thân đã nín thở từ nãy đến giờ. Đằng trước cũng chẳng sáng sủa hơn là mấy. Một vài mẩu xám hay xanh thẫm pha trộn khiến bức màn đen nhẵn trông hơi xơ xác, chỉ vậy thôi. Nhưng âm vọng của những bước chân bắt đầu co lại, bầu không khí đã bớt ẩm ướt, ngột ngạt hơn, chúng mới là dấu hiệu chủ chốt thông báo rằng sắp đến cổng ra, chứ không phải những gì đôi mắt nhìn thấy. Trong lúc hối hả chạy ra ngoài không gian thoáng đãng, Teresa vô tình liếc sang bên cạnh. Không rõ nguyên cớ tại sao, ánh mắt của con bé bỗng dưng bị hút về nơi tưởng chừng như chẳng có gì hết, hơi thở chợt mắc nghẹn trong cổ họng. Cái gì thế kia? Hẳn phần đá đó bị ướt, hẳn một dòng nước đang rỉ ra giữa các khe kẽ. Teresa vừa thoáng thấy một tia phản chiếu, một ánh ngũ sắc lóe lên, như thể ánh sáng bên ngoài cửa hầm… Nhưng không, thứ ánh sáng bên ngoài nào có thể lọt vào xa đến vậy, còn hắt lên nền đá. Chúng không trải rộng mà chỉ gói gọn một chỗ, cũng không chảy xuống liên tục thành một đường chỉ dài như nước. Nếu đây mà là chất lỏng thì chúng có hình dạng của hai giọt nước đặt cạnh nhau. Hai giọt nước dài gần như bị chẻ dọc chính giữa, trông giống trực khuẩn mà ta quan sát được dưới ống kính hiển vi. Chúng khẽ lay động tựa màn khói lưu huỳnh vàng xanh, như thể có một luồng nhiệt đối lưu đang bốc lên giữa chúng. Ấy nhưng chúng không có hình hài cụ thể khắc hẳn vào tấm màn đen thẳm, không hề như thế, mà chỉ là một mảnh lóa khuếch tán. Đáng ra Teresa đã ngó lơ chúng nếu không phải vì đôi mắt, đôi mắt của con bé, chẳng còn biết nhìn đi đâu trong khoảng không gian tối như mực này. Chúng không phải là con mắt, hay chúng… đúng là con mắt thật? Chúng vẫn cứ giữ nguyên số lượng, vị trí song song, dãn cách một khoảng bất biến, với vẻ căng thẳng tột độ như một cái nhìn đăm đăm đầy hung hiểm… Không, tất nhiên là không phải. Sao chúng có thể là cặp mắt được? Mắt thì làm gì ở trong này và… và chúng là cặp mắt của ai mới được cơ chứ…? Đừng để chúng trở thành một cặp mắt! Đừng tưởng tượng ra chúng là một cặp mắt, thứ gì tâm trí không nghĩ đến thì sẽ không thành hình! Chúng chỉ là vệt sáng ướt át trên hai cái ụ nhỏ gồ ghề, hai điểm mấp mô nằm cạnh nhau trên nền đá, chỉ có vậy mà thôi. Giờ chúng đã chịu lùi lại phía sau, tất cả nhờ vào cặp chân không ngừng rảo bước của Teresa, hệt như những người lính tiếp tục thực thi mệnh lệnh đã được ban bố từ trước, kể cả sau khi sĩ quan chỉ huy không còn có thể ra lệnh hay thậm chí nghĩ ra được mệnh lệnh mới. Kể cả khi tầm mắt bị cắt đứt, con bé cũng không dám quay đầu lại, lòng e sợ rằng cái nhìn thứ hai sẽ phá vỡ tan tành lời giải thích được chắp vá kỳ công kia. Thêm một vài bước ngắn nữa, bầu trời đêm lại mở rộng trên đầu Teresa. Trông kìa, một ngôi sao. Rồi lại một ngôi sao nữa. Ôi, màn đêm phóng khoáng mới tươi đẹp làm sao. Con bé đã có chỗ để chạy. Ngay cả bóng tối cũng bớt mịt mùng hơn với đủ thứ màu ẩn náu bên dưới: trắng xỉn, xanh lá và xanh dương nhòe nhòe. Tiếng chân bộp bộp đầy thận trọng trở thành tiếng rào rạo thoăn thoắt, một đầu rebozo bay phất phới đằng sau con bé. Teresa chỉ dừng lại khi thứ ánh sáng bàng bạc, hắt trên nền đất như nan quạt xòe rộng của cửa hàng đã ở ngay trước mặt, chỉ cần vòng qua một khúc quanh là tới. Trông cửa hàng mới diễm lệ làm sao, với những miếng giấy tua rua bẩn thỉu viền trước mặt tiền, mềm oặt đi sau bao lần ngâm mưa chịu gió, bao sắc màu từng được sơn phết từ ngày xưa giờ đã chuyển thành những vệt sọc trên bức tường trát vữa. Tiếng lệch nhịp nghịch tai của quả chuông gắn cửa khi con bé bước vào nghe thật thân thiện. Bầu không khí sực nức mùi gai dầu, thừng chão và dầu hỏa nơi đây quả là tuyệt vời. Ông Basque già cả từ sau nhà chạy ra, tay còn mải chùi mép vì đang dở bữa cơm, đầu vẫn đội nguyên cái mũ nồi lúc ăn tối. Chỉ nhìn thoáng qua ông lão đã nhận ra con bé. “À, Teresita.” Vừa cân chỗ than ông lão vừa lắc đầu, “Ba mẹ cháu đáng ra không nên cho con gái ra đường một mình lúc muộn thế này, hijita.” Cảm thấy giờ bản thân đã được an toàn, Teresa trở nên can đảm. Con bé sẽ không thú nhận hồi nãy mình đã khiếp đảm chừng nào. Teresa gõ gõ ngón tay bên mép bàn thu ngân. “Cháu có thể gặp chuyện gì cơ chứ? Nơi này là Ciudad Real mà.” “Nhiều chuyện có thể xảy ra lắm,” ông lão đáp với vẻ bí hiểm. Đôi bên trao đổi một ánh mắt đầy thấu hiểu, nhưng họ không thốt hẳn thành lời. Không cần thiết phải làm thế. Vậy là ông lão cũng đã nghe về vụ việc ấy. Teresa biết ông lão đang nhắc đến thứ gì. Và ông lão cũng ngầm hiểu là con bé biết. Teresa cố gắng kéo dài thương vụ lặt vặt này hết mức có thể. Bởi vì chừng nào nó còn diễn ra thì chừng ấy con bé còn được an toàn, còn có ánh đèn, còn có người bầu bạn. Sau đó chỉ còn chỗ cho bóng tối, nỗi sợ và sự cô độc tái xuất hiện. “Để trong túi như thế có chắc không ạ?” “Chắc, cháu chỉ cần giữ thẳng lên là được. Cầm hai góc như thế này này.” “Ô, con mèo xinh thế!” “Cháu từng thấy nó rồi mà. Không nhớ à? Ông nuôi nó đã bao lâu rồi.” “À, phải rồi. Đúng là cháu đã từng thấy nó.” Trong lúc đặt tiền xuống bàn, con bé liếc nhìn cánh cửa sau lưng. “Ba mẹ không đưa đủ tiền cho cháu rồi. Giá than đã tăng.” “Lần sau cháu sẽ mang bù. Ông tin cháu được chứ? Cháu sống ở Pasaje del Diablo, ở mé bên kia cây cầu cạn…” “Không cần phải lo. Lần sau cháu trả cũng được.” Người nghèo không lừa lọc lẫn nhau, bởi họ cùng khốn khó cả. “À… thế thì senor, chúc ông ngủ ngon.” Mấy từ ấy bám quá chắc nơi cổ họng, Teresa phải vật lộn lắm mới thúc được chúng ra. “Chúc ngủ ngon, Teresita. Nhớ về thẳng nhà luôn nhé, đừng có la cà dọc đường.” Cái chuông rung lên lần nữa và con bé lại bước vào bóng tối. Lần này tiếng chuông nghe ảm đạm xiết bao, chẳng khác nào một lời vĩnh biệt. Vành quạt ánh sáng trên nền đất sau lưng chầm chậm gấp lại, quay ngược hướng khi Teresa bước vòng qua. Con bé sải những bước từ tốn đi đến hết khúc quanh và thấy bộ hàm đen ngòm của cây cầu, một lần nữa há rộng ra trước mắt mình. Thế rồi con bé bắt đầu bước mau hơn, guồng chân mỗi lúc một nhanh, tiến thẳng về phía đường hầm. Nó chỉ muốn đi xuyên qua hầm và sang đến đầu bên kia một cách nhanh hết cỡ, tự bao biện rằng có thể ba đã về nhà rồi và mình sẽ bị ăn chổi nếu đi mua than quá lâu. Nhưng con bé biết rằng đó hoàn toàn không phải là lý do. Teresa có thể đi đường khác, leo lên trên đại lộ qua cầu thang dài xây dựa vào một bên thành cầu. Nhưng đến cuối tuyến đường, con bé sẽ phải đi quá tận mấy dãy nhà và vòng ngược lại một đoạn nữa. Thôi kệ, trước giờ nó đã băng qua đường hầm này hàng chục lần rồi, thêm một lần nữa cũng chẳng sao. Nếu mới đây thôi, Teresa có thể đi qua hầm một cách bình an vô sự thì chắc chắn con bé có thể đi về thêm một lần nữa mà chẳng hề hấn gì. Trong lúc Teresa còn mải trấn an bản thân, khoảng không gian ở giữa tiêu biến dần. Cây cầu cạn bắt đầu vươn lên bầu trời đêm, sừng sững như một ngọn núi trước mặt, hệt như một vách đá dựng đứng càng leo cao càng che lấp nhiều vì sao. Tít trên đỉnh cầu, một quầng sáng xanh lơ mờ ảo tỏa ra từ các ngọn đèn hồ quang mắc dọc đại lộ. Con bé đoan chắc xe cộ đang phóng vun vút phía trên, không hay biết về chuyến phiêu lưu nho nhỏ nhưng đầy kịch tính diễn ra ngay bên dưới, trong vùng trũng tối om của khe núi. Thành phố này là vậy đó, những sinh mạng xoắn xuýt không nhận thức được sự tồn tại của nhau. Đã đến lúc rồi. Cổng đá hình trái xoan, hay đúng hơn là hình bán nguyệt, quét qua người Teresa như một lưỡi hái đen. Lại một lần nữa, những nhịp vọng âm trống rỗng lồng vào bước chân. Teresa sẽ không nhìn, con bé kiên quyết không nhìn gì nữa khi đến gần chỗ mình tưởng như đã trông thấy hai giọt lân quang. Teresa hạ quyết tâm từ sớm. “Mắt không thấy,” con bé khẽ tụ nhủ, “tức là tâm không thấy và lòng sẽ bình an. Dù sao thì cũng chẳng có gì ở đó đâu, mình chỉ tưởng tượng ra thôi.” Nhưng trong thâm tâm, Teresa sợ rằng nếu để ý quan sát, mình sẽ nhận ra chúng vẫn còn ở nguyên vị trí cũ. Đoán chừng cặp ánh sáng ở ngay trước mặt, sẽ rất khó để ngăn chúng lọt vào khóe mắt, Teresa vừa tiến về phía trước vừa quay mặt ngoắt sang bên đối diện. Trong bóng tối mịt mùng này, có giơ bàn tay lên sát mặt thì con bé còn chẳng thể nhìn thấy, nói gì đến việc xác định được chính xác vị trí mà chúng xuất hiện. Teresa phải ước lượng dựa trên lần đầu bản thân bắt gặp chúng, căn cứ vào khoảng cách từ chỗ chúng đến miệng hầm, lối ban nãy con bé vừa đi vào. Khi ấy chúng ở rất sát cổng, không quá mười lăm hay hai mươi bước chân. Giờ con bé đã đi được khoảng mười lăm hay hai mươi bước rồi. Cổ Teresa nhức nhối vì phải giữ nguyên một góc cứng nhắc. Thật khó mà di chuyển khi đầu thì quay một đằng, còn người thì quay một nẻo. Cái cổ cứ tự động tìm cách ngoảnh thẳng lại. Con bé bắt đầu nhẩm bảng cửu chương để làm xao nhãng tâm trí. Teresa không được đi học lâu lắm. Từ hồi còn mười hai hay mười ba tuổi, con bé đã vào làm cho tiệm giặt là. Nhưng Teresa biết viết một chút, biết đọc một chút, nếu câu từ không quá dài, nó còn thuộc một vài bảng nhân số nhỏ như bảng nhân hai, nhân ba, nhân được đến khoảng hai mươi gì đó. Nhịp thở của con bé bắt đầu nhẹ nhàng bám theo nhịp đếm. “Ba nhân một là ba. Ba nhân hai là sáu. Ba nhân ba là…” Xong, giờ hẳn chúng đã nằm sau lưng rồi. Đấy, việc đó chẳng phải dễ lắm sao? Làm vậy chẳng phải là khôn ngoan lắm sao? Teresa từ từ quay đầu trở về vị trí tự nhiên. Phía trước chẳng có gì cả, bên cạnh chẳng có gì cả, chẳng có gì ngoài tấm màn đen tuyền, không chút sắc màu pha trộn, không có ánh sáng xanh, không có vệt lấp loáng. Còn đằng sau ư? Ôi… tốt nhất đừng cố tìm hiểu làm gì, cứ để kệ nó đi. Một chút can đảm lại trỗi lên trong người Teresa. Chỉ cần vài bước nữa thôi là con bé sẽ thoát khỏi nơi này. Con bé thật nhát chết khi để cho bản thân lo lắng đến như vậy. Chỉ một chốc nữa thôi, Teresa sẽ thấy ngôi sao đầu tiên ở phía bên kia. Sau đó, con bé chỉ cần leo lên làn đường thấp, quay ngoặt sang Pasaje là về đến cửa nhà mình. Khoảnh khắc tồi tệ nhất đã… Chợt, tim Teresa chao đảo, trước khi kịp hiểu nguyên do, như thể trái tim còn nắm bắt tinh tường hơn cả đôi tai. Không rõ tim đã lỡ mất một nhịp, hay đập dồn dập trong lồng ngực thế nào, chỉ biết nhịp thở của Teresa lại tắc nghẹn trong họng hệt như ban nãy. Chỉ có đôi chân là còn tiếp tục guồng quay, hoạt động thay cho toàn bộ phần thân thể còn lại. Cái tiếng bẹp nhè nhẹ, nhạt nhòa phía sau không phải do Teresa gây ra. Không phải là vọng âm hay bất cứ âm thanh nào bắt nguồn từ con bé. Một thứ gì khác hẳn, biệt lập, tách riêng, con bé biết chắc là vậy. Giác quan của con người luôn có khả năng xác nhận âm thanh của chính mình. Kia không phải tiếng động của một bàn chân mang giày, mà nghe giống như một thứ có lót đệm hay để chân trần, cẩu thả đạp xuống nền đất. Một âm thanh lai tạp giữa tiếng xào xạc của lá rơi và tiếng vỗ tay hết sức mềm mại. Một âm thanh nho nhỏ, một âm thanh xa vắng. Ấy nhưng nó lại là một âm thanh hãi hùng đến vô tận, đang phình to ra và đè nén lên con tim cùng khối óc con bé. Teresa suýt thì buông rơi túi than nhỏ, vừa kịp siết chặt nắm tay ngay khi quai túi bắt đầu tuột dần. Con bé muốn đồng thời làm hai việc đối nghịch nhau. Đôi chân chỉ muốn đứng im, chôn cứng tại chỗ, cho đôi tai có cơ hội lắng nghe thêm lần nữa, xác nhận cho thật chắc chắn, phân tách tiếng động kia khỏi những âm thanh bản thân đang tạo nên. Nhưng cơn hoảng loạn không cho phép Teresa làm thế. Đứng im đồng nghĩa với cái chết. Con bé muốn quăng túi than vướng víu này đi, lập tức cắm đầu chạy hộc tốc nốt quãng đường từ đây về đến cửa nhà. Một lần nữa, cơn hoảng loạn lại ngăn cấm Teresa, ghìm con bé lại trong tốc độ vẫn đi nãy giờ. Giả vờ lờ nỗi sợ đang xâm chiếm là bản năng tránh né nguy hiểm từ bao đời. Cứ tiếp tục rảo bước như cũ và cuộc tấn công sẽ trì hoãn lại, dù là vài tích tắc. Bỏ chạy, hay tìm cách bỏ chạy, chỉ khiến rủi ro xảy ra sớm hơn mà thôi. Teresa tiếp tục tiến về phía trước như một cái máy, không còn biết chân mình đang làm gì nữa, để mặc cho chúng tự vận hành. Tai con bé căng hết lên để bắt lấy mọi tiếng động… Nó lại xuất hiện, ở sát phía sau và nhẹ nhàng hơn hẳn, ngược đời làm sao. Một tiếng động vô thanh, lời thì thầm của mấy phiến đá lát, khẽ khàng đến mức nếu Teresa trót bỏ qua lần đầu tiên, con bé sẽ chẳng bao giờ nghe thấy nó lần nữa, ngay vừa rồi. Giờ lại thêm một tác nhân bên ngoài công kích Teresa, tác động vào một giác quan khác. Một cảm giác gai gai, như đang bị nhìn chằm chằm từ đằng sau, như thể có thứ gì đang lén lút theo đuôi con bé không ngừng. Tựa như bị sởn gai ốc, cảm giác ấy từ từ loang ra khắp nơi, đầu tiên là sau gáy, sau đó chạy dọc khắp chiều dài xương sống. Teresa chẳng thể loại bỏ cũng không thể kìm hãm nó. Con bé biết có một cặp mắt đang dõi theo mình, nhận thức được thứ gì đang theo đuôi mình đầy chủ đích. Đúng lúc ấy, mái trần đen của đường hầm một lần nữa lui lại, Teresa bước ra không gian trống trải. Nhưng giờ điều ấy chỉ là vô nghĩa, bởi vì nỗi kinh hoàng đã không còn ranh giới, không còn bị giới hạn ở trong đường hầm mà đã bắt đầu dịch chuyển. Nó đuổi theo con bé vào vùng trời rộng mở. Bàn chân tê dại của Teresa dần trở nên lóng ngóng, cơ bắp bắt đầu từ chối phối hợp với nhau, dù chúng vẫn tiếp tục đưa chủ nhân đi thêm một vài mét nữa để lên làn đường thấp. Con bé biết đôi chân không còn trụ được lâu. Chúng đang bước chậm, chúng đang dần dừng lại, chúng đã ngưng bước. Teresa đứng sững lại, người run lẩy bẩy. Một thứ xung động đập liên hồi từ sâu bên trong cơ thể, như một cơn sốt rét. Teresa cần phải nhìn, con bé cần phải biết, linh hồn đang căng vì sợ hãi của con bé không thể chịu nổi nữa. Các cơ cổ bắt đầu giật mạnh, kéo Teresa ngoái lại phía sau, nơi tọa lạc cái miệng hầm chết chóc con bé vừa mới chui ra. Trong lúc làm vậy, trước khi hành động ấy hoàn tất, túi than dần trượt ra khỏi đôi bàn tay đang chết lặng, chuẩn bị đổ ụp xuống bên chân con bé, báo hiệu một thảm họa sắp xảy đến. Teresa bị mắc kẹt ngay tại chỗ, bị giữ chắc lấy, như một chú chim non kẹt cứng trong vòng siết của con trăn. Con bé không thể nhúc nhích thêm một bước nào nữa, cho đến khi ngoái hẳn ra sau, thực hiện xong vòng quay đầy chết chóc, chứng kiến miệng hầm đen ngòm sắp sửa nhả ra một thứ quái vật hung tợn. Cơn điên tiết của mẹ Teresa đang dần dâng cao, tỉ lệ nghịch với hơi nhiệt ngày một tàn lụi bên trong brasero của bà. Khi quạt mãi mà không thấy tro than ửng đỏ thêm chút nào, lửa giận của bà đã lên đến cực điểm. Bà cúi xuống, khéo léo hà hơi, đồng thời cố gắng gạt bỏ lớp tro trắng trên cùng để dọn chỗ cho mấy tia nhiệt bên dưới. Đến cả cách này cũng thất bại. Ngọn lửa của bà, tâm điểm cuộc sống hàng ngày của bà, đã rời bỏ dương gian. Bà đứng thẳng người dậy, vung tay lên trời, sau đó lại buông thõng chúng xuống. “Hết rồi,” bà nói đầy thê lương. Để tắt lửa là một tội lỗi không thể tha thứ được. Bất cứ người phụ nữ nào để chuyện ấy xảy ra… Ôi, bà thừa biết những người khác sẽ bình phẩm và đánh giá ra sao về mình. “Sao mẹ không bỏ thêm rơm vào cho đến khi chị ấy quay lại?” Thằng nhóc ngồi trong góc nhà gợi ý. “Rơm cơ đấy! Rơm có phải than không? Nó cháy được bao lâu? Nó bừng lên rồi cháy hết luôn và làm khói bốc đầy nhà. Mà đằng nào thì ở đây cũng làm gì có rơm.” Bà nhấc cây chổi lên, dứ dứ đầy đe dọa về hướng cánh cửa. “Tất cả là tại cái con ranh ấy. Nếu nó chịu đi ngay từ khi tao mới bảo… À, đến tận bây giờ nó đã vác mặt về chưa? Nhìn xem nó lề mề thế nào! Xem trên đường nó la cà thế nào kìa! Đến ốc sên còn về trước cả nó!” Bà hơi chỉnh lại cái nồi đất đặt trên brasero. “Lúc về nhà thì ông ấy sẽ thấy cảnh gì? Một mụ vợ đến hâm nóng đồ ăn cho mình cũng không thể làm nổi. Thật là một mụ đàn bà nhục nhã!” Thằng nhóc ngồi im re quan sát mẹ, hai tay chống lên má, môi nhếch lên thành một nụ cười. Bà lia thêm mấy đường chổi nữa. “Ôi, rồi tao sẽ cho nó lãnh đủ! Tao sẽ quất gãy đôi cái palo này lên lưng nó. Nó sẽ ê ẩm suốt cả ngày mai…” Chợt, có thứ gì đó nện lên cửa. Nghe như thể vừa có một loạt bước chân chạy dồn dập, đến tận phút chót mới vang lên rõ ràng, bỗng dưng kết thúc bằng một cú đâm sầm vào cửa. Một tiếng hét lách vào bên trong, y như một lưỡi dao xẻ đứt mọi đường may, cả bên trên bên dưới lẫn hai bên. Sau đó đến lượt lời lẽ vọng vào, nghe vừa kích động vừa nghẹn ngào, tựa như khuôn miệng thốt ra những từ ấy đang áp hẳn vào lớp gỗ. “Mamacita, cho con vào! Trời ơi, nếu mẹ còn thương con thì cho con vào đi!” Giọng nói co giật liên tục làm cho câu từ ríu hết vào với nhau. Senora Delgado đã đợi khoảnh khắc này từ nãy đến giờ, mặc dù không biết cảnh tuợng sẽ chính xác đến vậy. Bà khoanh tay sát người và hí hửng hất đầu trước màn trả thù cay nghiệt đã trì hoãn bấy lâu. “Giờ con ranh ấy mới chịu về nhà đấy hả? Cuối cùng nó cũng chịu chạy, sau khi đã quá muộn, sau khi ngọn lửa của tao đã tắt mất và mọi sự đã rồi!” Bà nhái cái giọng tắc nghẹt bên ngoài. “Mamacita, cho con vào! Trời ơi, nếu mẹ còn thương con thì cho con vào đi!” Sợ bóng tối à? Sợ chính cái bóng của bản thân à? Nó sẽ cứ ở ngoài đó. Để xem nó chịu được không. Lần sau nó sẽ biết khôn mà đi nhanh hơn.. Có tiếng móng tay cào lên gỗ đầy tuyệt vọng. Giọng nói trở nên điên dại, mất kiểm soát, gần như không thể hiểu nổi, chỉ là một tràng lắp bắp lộn xộn phải đoán mới hiểu nghĩa nổi. “Ay, madrecita de mi alma, nó đang đến, nó đang đến gần, con thấy nó đến từ bên bờ tường… Nó đến gần rồi, nó đến gần rồi…!” Senora Delgado nạt một tiếng đầy quyền uy, khiến thằng bé đang rón rén đi vòng quanh căn phòng về phía cánh cửa phải đứng sững lại. “Pedro! Tránh xa cửa ra!” Bà tiếp tục nhái giọng con bé. “Phải rồi, nó đang đến gần, đúng không? Láo toét! Mentiras! Con ranh, tưởng mấy lời dối trá ấy sẽ giúp mày thoát tội à. Mày tưởng tao tin có thứ gì ngoài đó hả? Có càng tốt, tao chỉ cầu cho nó có thật thôi! Nó sẽ dạy cho mày biết lần sau phải nghe lời mẹ.” Một tiếng rú đau đớn cùng cực vang lên, bao kích động bật tung khỏi buồng phổi, khiến cho mọi tiếng gào la từ nãy đến giờ trở nên vặt vãnh hẳn. Vừa hòa lẫn vào với tiếng kêu vừa xóa nhòa nó đi, cuối cùng bóp nghẹt lấy nó, là một cú va dữ dội đến mức toàn bộ cánh cửa rung động từ trên xuống dưới, đoạn giữa oằn vào rồi bật trở về trạng thái cứng đơ như cũ. Khó mà tin nổi lại có ai lấy thân mình làm được như thế mà xương cốt trong người vẫn còn lành lặn. Bụi thạch cao bay túa lên ở hai bên thành cửa. Bản mặt cười cợt của thằng nhóc biến sắc, nó khàn giọng thốt lên. “Carajo, mama! Chị ấy không đùa đâu.” Người đàn bà kia cũng lập tức thay đổi thái độ hệt như thằng nhóc, bấy giờ mới lao tấm thân mập lùn của mình về phía trước. “Đợi chút, Teresa,” bà rối rít gọi. “Mẹ đến đây, mẹ đây rồi, để mẹ mở…” Bà tuyệt vọng cào vào thanh chốt cửa. “Chờ một chút thôi, con yêu. Mi querida, chỉ một chút nữa thôi. Mẹ con đây rồi, để mẹ cho con vào.” Thanh chốt không nhúc nhích. Nó đã bị kẹt mất rồi. Đã lâu không ai dùng đến nó. Hoặc bề mặt của nó đã bị gỉ sét, làm nó thô nhám quá mức, hoặc cú va chạm vừa rồi đã bẻ cong nó. Nó tắc cứng bên trong cái hốc. Bà tiếp tục giằng nó ra trong tuyệt vọng, khẽ xoay mình lại tỏ vẻ bất lực, sau đó quay về đằng trước. Bà áp mạnh một bàn tay lên phần gỗ phía trên thanh chốt, trong khi tay còn lại thì cố gắng vặn lùi nó. “Pedro, Pedro, ngón tay mày nhỏ hơn…” Trước tình thế nguy ngập, bản chất nam tính tiềm ẩn trong bên trong thằng bé lập tức trỗi dậy. Một người đàn ông, dù trẻ hay già, to con hay bé nhỏ, sinh ra là để đảm đương những chuyện như vậy, giải quyết các khủng hoảng bất chợt, những công việc cần đến sức vóc. Còn các chuyện khác là phần của đám đàn bà con gái. “Một hòn đá… thứ gì để đập then cài… Để con, con xử được! Mẹ né ra đi…” Có một viên gạch đang nằm trên sàn buồng trong, chẳng ai nhớ đã mang vào để làm gì. Thằng bé vớ lấy nó và chạy ra ngoài. Một nện, hai nện, ba nện, cái then ngang bướng giật ngược ra sau. Đã một phút trôi qua kể từ khi tiếng gào thảm thiết tắt ngấm và cú lao điên dại đập vào cánh cửa, đến tận bây giờ họ mới có thời gian để nhận ra điều ấy. Bên kia cánh cửa là một sự tĩnh lặng vô cùng. Trong tích tắc chững lại sau đó, bà thấy mắt thằng bé trợn tròn nhìn xuống sàn nhà. Một cái lưỡi đỏ đang luồn bên dưới khe cửa, liếm vào bàn chân trần của thằng bé. Một vũng dịch lỏng lênh láng có kích thước và hình dạng giống hệt đầu lưỡi con người. Ngay khi họ vừa trông thấy, nó đã bắt đầu loang rộng, dài ra, lấp loáng một cách bất thường. Thằng bé giật ngược cánh cửa vào trong trước khi tiếng hét đang dần tích tụ trong lòng bà mẹ kịp bật ra khỏi miệng. Pedro lập tức nhảy vọt lại như thể vừa bị thứ gì cắn phải. Bên ngoài, tưởng như có ai vừa ném túi bụi từng cục bùn đỏ, cho đến khi chúng bám dính với nhau để tạo thành một đụn nhoe nhoét đùn vào cửa. Trộn trong đó là mấy miếng vải, mấy mẩu tóc và thậm chí còn cả mấy mẩu san hô tí hon, nứt ra từ một sợi dây chuyền. Cái khối kia trượt xuống, rã nát khắp ngạch cửa. Ngày hôm sau, Manning đến diện kiến cô gái trẻ tại nhà xác, hoặc Caja de los Cadáveres theo cách gọi của những người hay phải qua lại chỗ này, trước khi thân nhân đến nhận thi thể về. Anh đi cùng một thanh tra cảnh sát tên là Robles, người từng mắc nợ Manning bởi đã có lần anh kiếm cho ông ta mấy tấm vé vào xem buổi biểu diễn của Kiki Walker. “Nếu anh cứ khăng khăng muốn xem thì cũng được, anh bạn ạ…” Robles cảnh báo trước. “Nhưng tôi khuyên anh đừng nên làm thế, trừ khi anh thuộc loại thần kinh thép. Chắc chắn anh sẽ còn mơ về cảnh tượng ấy suốt vài tuần nữa đấy. Nếu người nhà cô gái không đủ tiền chi trả, giới chức trách cũng nên đưa thi hài đi hỏa thiêu.” Ông ta nói với nhân viên trực, “Mở cái khoang này ra!” Robles đứng sang một bên để người đi cùng không bị vướng tầm nhìn. “Dễ sợ thật đấy, phải không?” Anh chàng người Mỹ quan sát thi thể không chút nao núng, mặt hơi tái đi một chút, nhưng chỉ vậy thôi. Anh gật đầu, trông như bị hớp hồn. “Đủ rồi đấy!” Robles bảo người nhân viên. Ông ta quay sang Manning, lộ rõ ý định sẽ lên lớp anh một trận. “Vậy là anh thấy được trò phô trương ngớ ngẩn của mình gây hậu quả thế nào rồi đấy. Một người đã phải bỏ mạng. Có khi đây chưa phải nạn nhân cuối cùng trước khi mọi chuyện chấm dứt đâu. Sinh vật kia vẫn chưa bị bắt lại.” Manning không trả lời. Anh còn đang dán mắt xuống sàn xi măng, nhưng ánh nhìn mang vẻ bối rối nhiều hơn là ăn năn. “Tất nhiên, xét trên phương diện pháp lý thì anh không phải chịu trách nhiệm,” Robles nói tiếp. “Vì anh không tiên liệu được việc này, cũng không cố ý để nó xảy ra, nên chúng tôi không thể trừng phạt anh vì tội này được. Nhưng xét trên phạm trù đạo đức thì tất cả là lỗi của anh. Chính vì anh mà cô gái trẻ này mới thiệt mạng. Thế nên tôi mới dễ dàng chấp nhận đề nghị đưa anh xuống dưới này, để anh được tận mắt chứng kiến thi thể. Có thể nó sẽ dạy cho anh một bài học.” “Tôi xin xuống dưới này không phải vì ăn năn hối lỗi,” Manning lặng lẽ đáp. “Mà cũng chẳng phải vì tính tò mò bệnh hoạn. Ông hiểu nhầm tôi rồi. Chuyện là… à, kể từ lúc nghe tin, tôi cứ bị một cảm giác bất an đeo bám, không tài nào rũ bỏ được.” “Anh thấy thế là đúng rồi,” Robles nghiêm nghị nói. “Không, ông vẫn không hiểu ý tôi.” Anh bối rối đưa một tay lên vuốt tóc. “Ông có chắc là sinh vật kia, như cách ông gọi nó, là thủ phạm không?” Ban đầu Robles nhìn anh đầy kinh ngạc, sau đó chuyển sang một vẻ mặt gần như là khinh miệt. “Anh định bảo nó không phải là thủ phạm sao? Ha, anh vừa mới chứng kiến tận mắt đấy thôi. Ngoài bộ móng vuốt của con quái thú ấy ra, còn thứ gì có thể gây nên những thương tích kinh khủng như thế? Cô gái bị cào xé tả tơi. Không, riêng chuyện đó thì chúng tôi không nghi ngờ gì cả, bởi còn gì để mà nghi ngờ nữa chứ? Tôi có thể đưa anh qua phòng thí nghiệm của cảnh sát, để anh nói chuyện với nhân viên ở đó. Họ phát hiện được trên thi thể cô gái mấy mẩu lông tơ giũ ra từ thân mình con vật. Hiện bọn tôi vẫn đang lưu giữ chúng. Anh còn đòi hỏi gì hơn thế nữa?” “Không gì cả,” Manning thừa nhận, mắt cụp xuống. “Tôi không đòi hỏi gì cả. Nhưng tại sao tôi cứ có cái cảm giác không thỏa mãn…?” Anh bỏ dở câu nói. “Cô gái… Con báo có tìm cách…?” Manning ấp úng hỏi ngay sau đó. Không chút chần chừ, Robles nói nốt hộ anh với chất giọng tỉnh rụi của một điều tra viên chuyên nghiệp. “Anh đang định hỏi là cô gái có bị ăn thịt không à? Không. Không rõ liệu chúng có ăn thịt người hay không? Tôi không hiểu lắm về loài báo, phải hỏi ông quản lý sở thú mới biết được. Nhưng dẫu sao thì vẫn có lý do để con vật không làm như thế. Chuyện xảy ra ngay bên ngoài cửa nhà, mẹ cùng em trai cô gái nghe thấy rất rõ, họ liền chạy vội ra. Hẳn con quái thú đã bị dọa chạy mất trước khi nó kịp… hoàn tất mục đích của mình, nếu nó thực sự định làm thế, như tôi vừa nói.” “Thế có ai trông thấy nó chưa?” vẫn chưa vừa lòng, Manning bèn hỏi tiếp. “Đó là điều tôi muốn biết. Nếu chuyện này xảy ra ngay trước cửa nhà cô gái và có nhiều nhà khác xung quanh, có ai tận mắt trông thấy nó không? Đáng ra phải có người ngó ra ngay khi cô gái hét lên.” “Ồ, hoặc có ai tận mắt trông thấy, hoặc nó không tồn tại, phải vậy không? Đây là một lý luận rất liều lĩnh khi thực hiện điều tra, anh có nghĩ vậy không? Quanh đấy toàn những căn nhà ổ chuột của đám người nghèo, anh biết chúng như thế nào rồi đấy. Mấy túp lều lụp xụp với một hai căn phòng, hầu hết không có cửa sổ, chỉ một cửa ra vào trước nhà. Đến lúc họ bắt đầu rụt rè thò đầu ra ngoài thì chuyện đã kết thúc. Vài người nhận là có nhìn ra, đúng lúc thấy một hình bóng đen thui lẩn vào góc quanh cuối ngõ. Khả năng họ thấy thật, hoặc cũng không thấy. Chuyện ấy khác gì đâu chứ?” “Không phải tôi nghi ngờ việc con báo đã tấn công cô gái,” Manning lưỡng lự nói. “Tôi không có giả thuyết gì về vụ này cả. Tôi không phải là một thám tử, chỉ là một đại diện truyền thông vừa thất nghiệp. Có điều… chỉ là… tôi vẫn cứ có cảm giác quái lạ, như ban nãy tôi đã nhắc đến, rằng vụ này không đơn giản như vẻ ngoài.” “Không đơn giản như vẻ ngoài? Nó còn phức tạp đến đâu được nữa?” Robles đáp trả. “Nó còn cần phức tạp đến thế nào anh mới vừa lòng?” Manning lúng túng bóp phần da sau gáy. “Bản thân tôi cũng không biết. Tôi không tài nào giải thích được. Nhưng thật tình mà nói, ông không thấy chuyện kỳ lạ, thậm chí gần như là phi thường, khi một sinh vật hoang dã, một loài thú rừng to lớn và dễ thấy như con báo này, lại có thể ẩn náu trong một thành phố lớn vậy suốt từng ấy thời gian mà không bị phát hiện và hoàn toàn thoát khỏi tầm mắt người dân? Đây không phải là một ngôi làng tọa lạc trên đồi và ngay sát rừng rậm. Đây là thành phố lớn thứ ba Nam Mỹ. Hiển nhiên là nó không rời thành phố rồi quay trở lại đây. Nó đã ở đây suốt từ lúc đó đến giờ. Nhưng ở đâu? Trốn kiểu gì?” Robles mím môi đồng tình phần nào và gật đầu, “Đây là chuyện chưa từng có tiền lệ, cũng là chuyện không thể tin nổi, nhưng… không thể phủ nhận là nó đã xảy ra, đúng không? Con vật vẫn chưa bị bắt lại, xác nó vẫn chưa được tìm thấy. Thế tức là nó vẫn còn sống. Thế là đủ hợp lý rồi. Anh bạn có nghĩ thế không, hở Manning?” “Nhưng con báo náu ở đâu, nó trốn đi đâu vào ban ngày, nó tìm chỗ trú ngụ ở đâu cơ chứ? Hãy nhớ là nơi này được xây dựng hoàn toàn từ đá. Nhựa đường, đá cuội, vỉa hè xi măng, nhà xây bằng đá. Ở đây không có cây cối ngoại trừ khu Bosque, một vài quảng trường nhỏ và công viên. Con báo đi đâu được cơ chứ? Hàng ngàn người bao vây lấy nó suốt ngày đêm. Người ta thấy nó chạy vào Callejon de las Sombras vào lúc 6 giờ trong một buổi chiều nọ, với một đám đông bám theo sát nút. Bùm! Nó biến mất. Kể từ đó không ai thấy tăm tích con vật đâu. Nó không chui ra đầu hẻm bên kia. Cảnh sát và sở cứu hỏa đã lùng sục từ đầu đến đuôi mọi căn nhà bên trong ngõ hẻm đó vẫn không thấy bóng dáng nó đâu. Giờ thì đến lượt cô gái trẻ măng này bị xé xác ở tận khu lao động Barranca, cách đó nửa thành phố. Sao nó mò được ra đó mà không bị ai phát hiện?” Robles chỉ có thể đáp lại thế này, “Đúng là sự việc thật đáng kinh ngạc. Chẳng ai dám chắc được chuyện gì đã xảy ra? Có thể con vật lách xuống một miệng cống và bò trong đường ống thoát nước chạy ngầm bên dưới thành phố. Trong phần lớn đường ống, nước không đủ sâu để làm nó chết chìm. Còn lời đề xuất lố bịch của một người đứng xem vào cái đêm nó biến mất, có khi cũng không lố bịch đến vậy. Biết đâu con báo lại chẳng trốn vào sau một chiếc xe tải hay xe chở hàng nào đó đỗ ở Callejon, rồi người tài xế ngây thơ lái xe đi. Đến bến đỗ tiếp theo, nó lại chui tọt ra ngoài mà không bị ai phát hiện.” “Ôi trời ơi!” Manning nôn nóng vung tay. “Giờ tôi sẽ nói thế này. Đây là vấn đề mới nhé: Con báo sống dựa vào cái gì trong vòng mấy ngày mấy đêm vừa qua? Nó kiếm đồ ăn và quan trọng hơn cả là nước uống ở đâu?” “Mấy con vật hiền lành hơn, chẳng hạn như lũ chó mèo hoang, kiếm đồ ăn thức uống ở đâu? Từ các bãi rác, từ các vũng nước, từ các mép sông.” “Ừ, nhưng người ta có trông thấy chúng.” “Làm sao mà chúng ta biết được rằng con vật chưa bị người khác bắt gặp? Có thể hơn một lần, do đứng cách xa hay núp trong bóng tối, nó bị nhầm thành là một con chó đen to lớn nào đó? Còn những cách khác cho nó xoay xở kiếm ăn, những cách chúng ta không cần bàn luận quá sâu. Chó mèo vô chủ, thằn lằn leo lên leo xuống mấy bức tường nứt, chuột dưới ống cống…” Manning vô thức quay đầu đi trong một thoáng. Thế rồi anh quay lại, tiếp tục hỏi, “Tại sao trong lần thứ hai này, ta lại không thể dễ dàng theo dấu và gần như dồn con báo vào chân tường như lần đầu? Tại sao các ông vẫn để sổng mất nó? Bộ vuốt, đệm chân, lớp lông quanh bụng con báo hẳn phải thấm đẫm máu sau một vụ tấn công như thế…” “Đúng là ở gần hiện trường có vô số vết chân dính máu, thậm chí cả mấy dấu máu nhỏ. Tuy nhiên, chẳng vết nào trong số ấy dẫn đi xa được cả. Đất cát và bụi trên vỉa hè hẳn đã mau chóng khô lại và phủ kín bàn chân con vật. Sau đó lại có quá nhiều người đổ xô ra đi lại khắp nơi, xóa bỏ mọi thứ trước khi chúng tôi kịp ra đến nơi.” “Cứ mỗi lần tôi đưa ý kiến phản bác, ông lại có sẵn một câu trả lời. Nhưng cho dù là vậy, ông vẫn chưa thể loại bỏ được hoàn toàn cảm giác không hài lòng của tôi. Trong ngôn ngữ mẹ đẻ, bọn tôi gọi đây là ‘linh cảm’. Có thứ gì đó không hợp lý. Toàn bộ vụ này có một điểm đáng ngờ cơ bản mà tôi không thể dễ dàng chấp nhận như người dân ở đây.” Viên thanh tra mỉm cười chán nản, vỗ lên vai anh với vẻ thấu hiểu. “Thú thật đi, Manning! Có phải lương tâm anh đang cảm thấy tội lỗi? Anh thấy bản thân là nguyên nhân gián tiếp, tiếp tay cho con quỷ bốn chân này có dịp tác oai tác quái? Bởi thế nên anh cứ liên tục đưa ra các phản biện mơ hồ, nghi ngờ không đâu về những vấn đề đã rõ như ban ngày? Tất nhiên là thế! Anh muốn tin rằng con báo không phải là thủ phạm gây ra chuyện này để cho tâm trí được thanh thản. E là tôi không thể giúp anh vụ này được. Các ống nghiệm của chúng tôi, các thấu kính hiển vi mạnh mẽ của chúng tôi, các chất thuốc thử và phép phân tích của chúng tôi, tất cả đều đã vào cuộc và đưa ra các bằng chứng không thể chối cãi. Các báo cáo của chúng tôi được soạn thảo dựa trên đó và có thể minh chứng bằng những nghiên cứu khoa học dùng làm nền tảng. Chúng tôi không hề phỏng đoán khi nói nọ nói kia. Tất cả những điều mà anh nghĩ ra, chúng tôi cũng đã nghĩ đến rồi. Không phải lo, chúng đã được cân nhắc và… loại bỏ. Kết quả chúng tôi tìm được là: Teresa Delgado bị một con báo tấn công và cào chết bên ngoài cửa nhà mình trong ngõ hẻm Pasaje del Diablo, lúc 1 giờ 15 phút sáng thứ Năm, ngày 14 tháng Năm. Chẳng có gì cần phải thêm thắt nữa.” “Trừ khi con báo lên tiếng,” Manning lạnh lùng nói. 3 CONCHITA CONTRERAS Senora Viuda de Contreras nhấc đầu dậy khỏi gối đầy cảnh giác. Tiếng chân bước trên hành lang lát gạch bên ngoài căn phòng để cửa mở đã đánh động bà. Âm thanh nghe ngập ngừng, như thể đôi chân không rõ nên giậm hẳn xuống sàn hay nên rón rén trên hai mũi chân. “Có phải con đó không?” Bà gọi vọng ra. Senora Viuda đang nằm dài trên một cái ghế bành để dưỡng bệnh. Dạo gần đây, người phụ nữ xinh đẹp và oai nghiêm này thường xuyên rơi vào tình trạng ấy. Cặp lông mày không nhổ, rậm và đen nhánh như hai vệt than, khiến khuôn mặt bà lúc nào cũng mang dáng vẻ thanh thản. Những đường ngang thẳng tắp luôn có công dụng vậy đấy. Mái tóc huyền hãy còn dày, mới chỉ bạc đi ở bên hai thái dương, nhìn hệt như lông đuôi một con gà giò, bóng loáng và được uốn thành những lọn cong nho nhỏ. Chiếc khăn tay tẩm nước hoa gấp gọn rồi đắp ngang trên trán là thứ duy nhất giúp bà chống chọi với cơn bệnh. Bà không phải hạng người sợ sệt bệnh tật và suốt ngày rên rỉ. Đau đớn là thứ mà mỗi người nên giữ riêng cho mình và chỉ chia sẻ với Chúa. Sau khi nghe bà hỏi, bước chân kia quyết định giậm hẳn xuống sàn. Hoặc nói đúng hơn là bước tiếp theo giậm xuống, bước ban nãy là sự đã rồi. Thêm một vài bước hơi miễn cưỡng, và rồi một thiếu nữ xuất hiện bên ngưỡng cửa. Hầu hết các cô gái đều xuân sắc rực rỡ ở độ tuổi mười tám, với nàng thì điều đó lại càng đúng. Đến cả bộ tang phục tối màu phủ kín thân mình, thậm chí cả tấm mạng mỏng manh tựa làn khói cũng không thể làm lu mờ nhan sắc ấy. Nàng lặng lẽ đứng nhìn người phụ nữ hiền lành đang duỗi người trên ghế, người có khả năng nhận biết được những bước chân nhẹ nhàng nhất. Đôi khi, dường như bà còn nhìn thấu được cả những suy tư sâu kín nhất. “Con làm mẹ tỉnh giấc à, mamacita? Giờ mẹ đã thấy đỡ hơn chưa?” Senora Viuda với sang chiếc bàn bên cạnh, xòe cái quạt xếp nhỏ đen bóng, bắt đầu phe phẩy. Hành động này không liên quan gì đến nhiệt độ căn phòng mà thật ra, nó là dấu hiệu cho thấy sắp diễn ra một màn tra hỏi. Một màn tra hỏi dông dài và kỹ lưỡng. Cặp lông mày vẫn thẳng đuột như thước kẻ. “Ngồi xuống một phút đi, Conchita mia. Ra đây, ngồi cạnh mẹ nào.” Conchita tiến về phía trước, dịch một cái ghế ra, đoan trang ngồi xuống mép ghế. “Thế, đúng rồi.” Cái quạt tiếp tục phe phẩy nhẹ nhàng. Thiếu nữ dịch cả hai cổ chân xuống dưới gầm ghế. “Nói mẹ nghe đi, hija.” Một khoảng lặng xuất hiện, chỉ có cái quạt là vẫn còn chuyển động. “Con đang định ra nghĩa trang All Saints để thăm mộ ba đúng không?” Cuộc tra hỏi đã bắt đầu. Nàng ngẩng lên khỏi mấy ngón tay nãy giờ cứ vặn vẹo. “Hôm nay là ngày đặt tên của ba[15]. Mình không nên để kệ nó trôi qua. Bởi vì mẹ bị ốm, con nghĩ là có thể mình sẽ…” Senora Viuda gật đầu đầy nhân từ. “Một cô con gái ngoan ngoãn sẽ không lãng quên người ba đã mất của mình. Cô ấy sẽ thường xuyên thăm viếng người đã khuất và đặt hoa tươi lên ngôi mộ ấy. Như thế mới phải đạo.” Cái quạt đung đưa đều đều. “Lần chót con ra mộ ba là khi nào?” “Tuần trước, hình như thế… con không nhớ chính xác. Tại sao mẹ lại hỏi vậy, mamacita?” “Mẹ chỉ đang băn khoăn thôi. Mẹ không hiểu tại sao tự nhiên con lại nhiệt tình thế, tình cảm thế và có thể nói là locura đến thế.” Cái quạt khép lại, chĩa thẳng lên trời, sau đó lại hạ xuống, xòe rộng và tiếp tục phe phẩy. “Mẹ không thích chuyện này. Ở tuổi con, như thế là không ổn. Thế là trái tự nhiên. Đâu phải ba con mới rời xa chúng ta ngày hôm qua. Giờ đã là 5 năm rồi, cầu cho ông ấy được yên nghỉ. Hồi đó con mới chỉ mười ba và rất yêu quý ông ấy. Con đã đau khổ vô cùng. Bueno. Thế rồi, đúng với bản chất người trẻ, mọi chuyện qua đi. Con lại giống mọi đứa con gái khác cùng trang lứa, thích đi coi cine vào chiều Chủ nhật, thỉnh thoảng mua một helado từ hàng bánh kẹo, đại loại như thế. “Giờ, bất chợt nỗi buồn đau bi thảm này xâm chiếm lấy con, khiến con gạt đi mọi mối quan tâm khác. Mẹ thấy con rầu rĩ hàng giờ liền, gần như phát điên. Con ra nghĩa trang All Saints bao lần cũng chưa thỏa, ở lại bao lâu vẫn không đủ. Con không ăn uống hay ngủ nghê được gì, không thể nghĩ được đến ai ngoài người đã khuất. Như thế thật không lành mạnh, thật quá sầu thảm.” Cái quạt không ngừng lại dù chỉ một giây. Bài độc thoại ấy cứ tiếp diễn, mang một vẻ kiên quyết đầy dịu dàng, không tăng âm lượng, không đe dọa, không ra lệnh gì hết. Chỉ nêu ra sự thật mà thôi. “Chuyện này phải ngừng lại ngay lập tức. Con không được ra nghĩa trang nữa. Làm thế là không bình thường. Mẹ không thể hiểu nổi. Ở độ tuổi này, con không nên nghĩ về thế giới bên kia liên miên như thế.” Thiếu nữ nhìn mẹ với ánh mắt cầu khẩn như sắp rơi lệ đến nơi. “Chỉ một lần nữa thôi, madrecita. Chỉ nốt hôm nay thôi, sau đó con sẽ không đi thăm mộ nữa, nếu mẹ ra lệnh như vậy.” “Được rồi, chỉ một lần nữa thôi. Vào ngày mai. Ngày mai, khi đã khỏe hơn, mẹ sẽ đích thân đưa con ra đó, nếu con nhất quyết muốn đi.” Conchita trông có vẻ bối rối, gần như là hoảng sợ khi nghĩ đến lời đề nghị ấy. “Nhưng hôm nay là ngày đặt tên thánh của ba! Chỉ lần này thôi mà. Mẹ nhìn xem, con đã chuẩn bị sẵn sàng để lên đường rồi. Giờ đã hơn 4 rưỡi. Con có thể chạy ào đi rồi quay lại ngay. Chỉ thêm đúng lần này nữa thôi…” Senora Viuda lắc đầu e ngại, hòa cùng điệu phất tay của cái quạt. “Chỉ cần quá một lần thôi là chuyện cũng trở nên tai hại rồi, con gái của mẹ à. Có khi lần này sẽ là giọt nước tràn ly đấy, biết đâu được? Đừng đi, hãy nghe mẹ đi con. Ban nãy mẹ vừa gặp phải một giấc mơ mà mẹ không thích chút nào.” Thiếu nữ thoáng tỏ vẻ quan tâm. “Về con sao? Mẹ mơ thấy gì vậy ạ?” “Chỉ đơn giản là mẹ nghe thấy giọng con gọi mẹ từ một nơi tối tăm nào đó, thế mà mẹ không tài nào đến được chỗ con.” Nàng khúc khích cười xòa. “Chỉ vậy thôi ạ? Hồi ở trường, các nữ xơ toàn dặn bọn con là không được tin vào những thứ như thế.” Senora Viuda không coi nhẹ tín ngưỡng, nhưng bà lẩm bẩm một câu nghe giống như “Các xơ có phải là những bà mẹ không?” Bà tiếp tục phẩy quạt, vẫn chưa chịu ưng thuận. “Ở nhà đi con,” bà nài nỉ. “Ở nhà, bên trong bốn bức tường ấm cúng, nơi con thuộc về. Hãy đọc sách hay khâu vá, ngồi cạnh mấy chấn song cửa sổ, nhìn ra ngoài đường, mơ những giấc mộng của một thiếu nữ. Hoặc ra sân hiên sau nhà, ngồi đó tắm mình trong ánh ráng chiều, ngắm nghía hình bóng của mình trong làn nước, chải một kiểu tóc tân tiến ngớ ngẩn nào đó. Ở đây thì chuyện tệ nhất có thể xảy đến với con là gì? Chỉ là thời giờ như dài hơn thôi. Thời gian trôi đi quá chậm còn hơn là quá nhanh. Ngày mai chúng ta sẽ ra ngoài chơi, mua cho con thứ gì đó ở cửa hàng, nhấm nháp chút refresco, ngồi ngắm đám đông túm tụm bên các bàn xung quanh…” Bà thở dài. Ngay cả khi con gái chưa kịp đáp lời, bà đã nhận ra những gì mình nói chẳng có tác dụng gì hết. “Nếu con thực sự mong mỏi thì cứ đi đi,” bà miễn cưỡng nhân nhượng. “Nhưng hôm nay sẽ là lần cuối cùng.” Thế rồi khi thiếu nữ vừa mới dợm đứng dậy, lòng vui sướng vì đã được phóng thích, một động tác quạt khiến nàng phải đứng sững lại. “Và mẹ muốn con hiểu một điều. Con không được ra đó cùng Rosita nữa.” Conchita sững sờ. “Nhưng con không thể đi một mình được! Còn ai có thể…?” “Mẹ không tin Rosita. Con bé ham vui đó chỉ lớn hơn con có vài tháng tuổi, không phải một người đồng hành thích hợp! Đáng ra mẹ phải cấm từ lâu rồi. Chẳng hiểu từ trước đến giờ mẹ nghĩ cái gì nữa. Nếu con muốn ra khỏi nhà, bác Marta sẽ đưa con đi.” Nghe đến đây, một vẻ kinh hãi không giấu giếm nổi hiện lên trên gương mặt thiếu nữ. Trước khi nàng kịp đáp lời, có tiếng điện thoại vọng lại khe khẽ từ một căn phòng xa xăm nào đó. “Rosita!” Bà chủ nhà gọi. Sau một lúc chờ đợi mà xem chừng là người được gọi chỉ giả vờ chạy từ chỗ khác đến, một cô giúp việc trẻ tuổi ưa nhìn xuất hiện trước ngưỡng cửa, đầu đã quấn sẵn một tấm khăn choàng. Trước đó, ngoài hành lang không vang lên bất cứ tiếng bước chân nào. “Sí, Senora?” “Vừa nãy ai gọi điện đấy?” “Hẳn nhân viên tổng đài đã nhầm lẫn. Lúc cháu nhấc ống nghe lên thì không thấy ai trả lời, chẳng có người nào ở đầu dây bên kia cả.” Cặp lông mày nằm ngang của Senora Viuda hơi cong lên, sau đó lại duỗi ra. “Thỉnh thoảng nhà mình vẫn hay nhận được mấy cuộc gọi như thế. Cháu cởi bỏ khăn choàng được rồi đấy, Rosita,” bà thờ ơ nói thêm, “cháu sẽ không phải ra ngoài đâu.” Cô giúp việc đưa tay lên chiếc khăn, các ngón tay nấn ná trên mặt vải như thể đang hi vọng mệnh lệnh ấy sẽ được hủy bỏ. “Nhưng Senorita Conchita muốn cháu cùng với cô ấy đi…” Cô ta đáp, giọng hổn hển đến kỳ lạ. “Gọi Dona Marta đi, bác ấy sẽ đi với Conchita thay cháu.” Cặp mắt đen láy của cô ta nhìn chăm chăm vào gương mặt bà chủ, như thể chúng rất muốn nhìn sang một người khác trong phòng nhưng bị giữ cứng lại. Cô ta khẽ nhún đầu gối, “Sí, Senora,” sau đó biến mất khỏi ngưỡng cửa. Senora Viuda quay lại với con gái. Bấy giờ nàng ngồi như một con chiên đang sám hối, mắt cá chân thứ hai rút hẳn vào dưới ghế và nhập bọn với bên còn lại, cả hai tay đang bận rộn hết vần vò lại vuốt phẳng phần váy phía trên đầu gối. Cảm thấy ánh mắt của mẹ đang săm soi mình, thiếu nữ ngước lên qua cặp mi dài, xác nhận, rồi cụp mắt xuống. Bà mẹ lại cất giọng nói nghiêm nghị đầy quyền uy mà hiền dịu đến lạ kỳ, “Lại đây một phút đi con gái.” Conchita đứng dậy, bước sang bên cạnh cái ghế bành, ngồi xuống ngang tầm mắt mẹ. Cái quạt cuối cùng cũng đã ngưng phe phẩy. Suốt quãng thời gian còn lại của buổi tra hỏi, nó được đặt gọn sang một bên. Senora đưa tay ra, mấy đầu ngón tay vươn về phía cằm con gái và nhẹ nhàng đỡ lấy nó. Bà ngờ vực nhìn thẳng vào mắt nàng. Cặp mắt thiếu nữ không có lấy một chút xao động, chúng như những viên pha lê tinh khiết, do sự ngây thơ kết tinh lại mà thành. “Con biết không, không phải mẹ sinh ra đã là một phụ nữ trung niên, một góa phụ như con thấy bây giờ. Mẹ cũng đã từng là một thiếu nữ trẻ trung và từ đó đến nay cũng chưa nhiều năm trôi qua đâu. Hijita de mi alma, hãy khắc cốt ghi tâm điều này. Bất cứ việc gì con nghĩ trong đầu thì mẹ cũng từng nghĩ trước con rồi. Bất cứ việc gì con làm thì mẹ cũng từng làm trước con rồi. Cả bà ngoại hay bà cố của con cũng thế. Phụ nữ chẳng có gì mới hết. Mẹ biết hết, mẹ hiểu hết.” “Biết gì vậy, madrecita?” Câu hỏi được thở ra khẽ khàng đến mức gần như không nghe thấy gì hết. Senora Viuda âu yếm hôn lên vầng trán con gái yêu như lệ thường, sau đó bà đặt lên môi nàng một nụ hôn còn trìu mến hơn. “Con là một thiếu nữ ngọt ngào. Con như ánh dương buổi sớm trên bầu trời chiều ảm đạm của mẹ. Con sẽ chẳng bao giờ gây nên những việc không thể tha thứ nổi. Chỉ là trên đời có những chuyện ngay thẳng và có những chuyện sai trái. Con hãy còn non nớt, trong khi thế giới này thì già dặn rồi. Khi con trưởng thành hơn chút nữa, mẹ không muốn con phải xấu hổ lúc nhìn lại những năm tháng tuổi trẻ, mình đã hành xử dễ dãi và lố lăng thế nào. Nếu có ai đem lòng quyến luyến con thì người ấy cần đến nhà ta, theo đúng tập tục của chúng ta. Tốt hơn là một người do mẹ, chú Felipe, hay một người họ hàng lớn tuổi nào đó, giới thiệu với con.” “Mamacita, con không hiểu ý mẹ…” Senora Viuda phẩy tay một cách khoan dung. “Mẹ chưa nói gì hết. Chỉ là tâm can mẹ đang giãi bày với tâm can con thôi. Giờ hãy đi đi nếu lòng con đã dứt khoát, đi với bác Marta và nhớ về nhà ngay. Mặt trời sắp sửa lặn rồi, thế nên đừng có nhẩn nha…” Mặc dù không hề nhảy bật dậy, nhưng chưa gì Conchita đã đến bên khung cửa đang rộng mở, hệt như vừa được giải phóng khỏi xiềng xích. Khi ra tới ngưỡng cửa, nàng quay lại trong một khắc. “Madre mía, mẹ vừa bảo gì cơ?” “Không có gì đâu. Con cứ đi đi.” Điều Senora Viuda vừa mới thốt thành lời, phần nào là tự lẩm bẩm cho bản thân nghe, kèm theo một tiếng thở dài cam chịu, “Chẳng ích gì đâu. Từ thuở xa xưa đã như thế và mãi về sau cũng sẽ như vậy. Không ai có thể thay đổi thế giới.” Ngoài hành lang, Conchita đi ngang qua chỗ Rosita. Hai người bước qua nhau như thể hoàn toàn không để ý đến sự hiện diện của nhau, hay ít nhất là họ đang cố gắng ra vẻ như thế. Cô tiểu thư thì thầm, “Mẹ sẽ cho bác Marta đi cùng em, em phải làm gì bây giờ?” Cô giúp việc đưa tay trái ra sau và nắm lấy tay thiếu nữ lúc nàng đi ngang qua, như thể đang động viên tinh thần đối phương. Conchita nhìn xuống. “Cái gì đây?” “Đừng sợ, nó sẽ chỉ khiến bà ta trở nên lờ đà lờ đờ thôi.” “Em phải làm ư? Em không làm được đâu!” Cô giúp việc đưa cả hai tay ra phất lia lịa, quả quyết trấn an thiếu nữ. “Nó sẽ không gây hại cho bác ấy chứ?” Conchita thì thào đầy áy náy. “Chẳng có gì ghê gớm cả, chỉ là một loại thảo mộc mọc trên núi mà chị mua từ một tay người Ấn ở ngoài chợ. Chị đã tự dùng thử rồi. Nó chỉ khiến cho… Suỵt! Bà ta đến kìa.” Họ lại tiếp tục di chuyển. Một bà cô luống tuổi, tầm khoảng sáu mươi, đầu đội khăn sẵn sàng xuống phố, đang tiến vào hành lang. “Con đã chuẩn bị xong chưa, bông hoa của bác? Con đã chào mẹ mình chưa?” Sau đó bác ta nạt nộ đầy cáu kỉnh với Rosita, “Vào trong kia hầu hạ Senora đi, con nhỏ vô dụng! Có thể bà chủ sẽ cần nhờ mày làm việc gì đấy.” Conchita lách qua chỗ bác ta. “Bác đợi cháu ở cửa nhé. Cháu quay về phòng đúng một giây thôi.” Thiếu nữ dừng lại trước tấm gương trong phòng, bồn chồn ngắm nghía bản thân như thể muốn đảm bảo mình phải trông thật lộng lẫy để gây ấn tượng với người đang yên nghỉ trong nghĩa trang. Nàng mở tung một ngăn kéo, lôi một thỏi son từ chỗ giấu bí mật ra, vội vã quệt nó lên môi. Rồi nàng lại hạ tấm mạng xuống trước mặt, che khuất đi nét trang điểm mình vừa thực hiện, và nhanh chóng quay lại hành lang để gặp người đồng hành bây giờ. Bác gái Marta đã gọi một xe ngựa đến trước cửa và ngồi đợi sẵn trong đó. Có vẻ bác ta thấy việc dùng xe chạy xăng tới nghĩa trang thật không đúng mực. “Đến chợ hoa!” Bác ra lệnh cho ông đánh xe ngay khi thiếu nữ mảnh mai mang mạng che mặt đã leo lên ngồi cạnh mình. 10 phút sau, sau khi chạy qua một vài con phố hẹp móc nối quanh co, họ ra đến một khu chợ nhỏ nằm trước một nhà thờ khổng lồ sơn màu hồng đất, được thiết kế theo phong cách kiến trúc của thực dân Tây Ban Nha. Điểm nổi bật của nó là những bậc thềm rộng bằng đá đã mòn vẹt dẫn lên nhà thờ chính, trải kín toàn bộ chiều ngang của khu chợ. Ngoài một lối đi hẹp nằm chính giữa dẫn thẳng lên cổng nhà thờ, mấy bậc thềm thênh thang gần như chìm nghỉm dưới một thảm hoa đa sắc màu và liền mạch, chen giữa đó đây là một vài mái bạt. Phải nhìn thật kỹ thì mới thấy nó được chia thành các ô mua bán nhỏ, mỗi ô do một thương lái cai quản. Một số người dựng quầy hàng di động, cột căng vải bạt hoặc chiếu rơm để ngăn ánh nắng mặt trời chiếu vào mấy món hàng dễ héo của mình. Những người không đủ tiền làm vậy thì chỉ đơn thuần ngồi xổm trong các khung vuông trống trên bậc thềm, hàng hóa bày biện khắp xung quanh, buộc lại thành bó hoặc cụm, cắm trong mấy bình đất sét chứa đầy nước. Bầu không khí hăng hăng một thứ mùi khó tả, cấu thành từ dương xỉ, lá nát, cánh hoa và thân hoa bị bầm giập và giày xéo. Nồng đậm hơn tất cả là mùi mằn mặn kỳ quái bốc lên từ những phiến đá lát lâu đời thấm đẫm nước cả ngày mà không có thời gian khô đi. Thứ mùi này là sự pha trộn cân bằng giữa sức sống xanh tươi đang nở rộ và tình trạng héo rữa tù đọng. Nơi đây chính là chợ hoa, ngày nào cũng mở tại đúng vị trí này suốt hai trăm năm qua, từ lúc bình minh cho đến khi mặt trời xế bóng. Đến chân bậc thềm, người hộ tống của Conchita chui ra khỏi xe rồi quay đầu lại hỏi, “Bác nên mua loại hoa nào?” Thiếu nữ cũng xuống xe cùng bác ta. “Cháu sẽ đi cùng bác. Cháu muốn được tự tay lựa chọn.” Marta dợm phản đối là không cần thiết phải làm như thế, rằng mình sẽ làm hộ nàng, nhưng Conchita đã vượt lên trước. Nàng chậm rãi bước dọc lối đi chính, nhìn ngó xung quanh, bị một tràng những tiếng mời chào inh tai, ngon ngọt, hoa mỹ và nịnh nọt ập đến từ cả hai bên đường, đeo bám theo nhịp bước chân. Thế rồi chúng lại thất vọng tắt ngấm đi sau lưng thiếu nữ ngay khi nàng ra khỏi tầm với, tiến vào ô bán hàng kế bên. Mấy bàn tay rướn về phía Conchita, nài nỉ níu áo váy nàng, tất cả đều bị Marta gạt phắt đi, đành phải hạ xuống. “Ra đây nào, nina, mấy bông hồng đang vẫy gọi em đó!” “Nhìn này, chiquita, hoa cẩm chướng đang van nài được mua đấy. Chỉ 10 centavito. Thôi thì 5 centavito đi. Cháu muốn giá nào cũng được. Chỉ cần mua chúng thôi, mua đi!” Giờ đã muộn và chợ đã sắp hết phiên. Marta dừng lại, “Chỗ hoa này được không, nina?” Conchita liếc quanh, vẫn không ngừng leo tiếp. “Không, mình lên trên đỉnh này đi. Cháu luôn mua hoa từ quầy cuối.” Thực tình mà nói, quầy hàng nàng vừa chỉ tay có ít chủng loại hơn nhiều gian hàng mà họ đã đi qua. Chủ quầy là một bà lão với gương mặt hằn nhiều nếp nhăn mảnh, trông như có ai đem màn chống muỗi ra vẽ lên mặt bà vậy. “Cho cháu mấy bông này.” Conchita cầm lên một bông hồng bạch và đưa lên sát tấm mạng che mặt, hít vào một hơi khiến nó lõm nhẹ xuống. “Sí, thiên thần, si!” Bà bán hàng lắp bắp đáp, vội vã gom hoa lại. “Hoa hồng trắng, vừa xinh mà lại vừa trẻ trung như cháu vậy.” “Cả hoa dành dành nữa,” Conchita chỉ. Marta chìa tay ra đón lấy mớ hoa không thắt dây. “Để bác cầm cho, chúng cào rách váy áo con mất.” Bác ta đưa cho bà lão một đồng xu, sau đó quay người lựa chân bước xuống bậc thềm trơn trượt. Tuy nhiên, bà bán hàng vẫn chưa thấy thỏa mãn. “Nhìn này, một cụm hoa violet trắng cho cùng bộ. Chỉ còn mỗi chừng này thôi.” Bà lão đặt một ngón tay lên cạnh mũi đầy ngụ ý mấy giây, mắt liếc về phía người hộ tống của thiếu nữ. “Bà giữ lại cho cháu cả ngày hôm nay rồi. Miễn phí! Bà sẽ tặng cháu miễn phí!” Bà lão kéo váy nàng hai lần, cứ như thể nó là một sợi dây chuông. Thiếu nữ đỡ lấy chúng rồi theo chân người đồng hành của mình bước xuống thềm, ấp cụm hoa sát mặt. Chúng được bó lại bằng một thứ lá lớn. Trước khi quay vào trong xe, nàng đã kịp rút một mẩu giấy gấp nhỏ buộc quanh cuống hoa. Nàng mở nó ra bằng một bên tay, hạ thấp xuống khuất tầm mắt Marta và đọc nó trong lúc họ lắc lư băng qua các tuyến phố hẹp ngoắt ngoéo thất thường ra nghĩa trang. Mẩu giấy chỉ ghi vài chữ. Một lời nhắn nhủ đã quá xưa cũ, chẳng nói lên điều gì hết, nhưng lại nói lên tất cả. Tình yêu dịu ngọt của đời anh. Hôm nay em lại ra chỗ hẹn chứ? Anh sẽ đợi. Cả tuần nay anh đếm từng giờ rồi, kể từ lần gặp mặt trước. Tình yêu dịu ngọt của đời anh, hãy rủ lòng thương xót kẻ si tình này. Bằng cách nào đó, Conchita đã xoay xở gập được mẩu giấy lại, luồn nó vào trong găng tay chỉ bằng một ngón cái. Thế rồi nàng lại ấp mặt vào cụm hoa violet. Như Senora Viuda đã nói, không ai có thể thay đổi thế giới. Cỗ xe ngựa ra khỏi khu phố cổ với những con đường lát sỏi vòng vèo quanh co, nơi những gia đình danh giá và thủ cựu như nhà nàng cư ngụ. Họ đi vào một trong những khu bán ngoại ô mới, chỗ ở ưa thích của dân ngoại quốc và những người giàu thích phô trương, học đòi theo lối sống nước ngoài. Những người này thậm chí còn để cho con gái của mình ra khỏi nhà mà không có phụ nữ lớn tuổi đi kèm. Hai bác cháu băng qua khu này trên một con đường rải nhựa thẳng băng và rộng rãi, sau đó ra đến vùng đồng quê trống trải, rồi đi thêm một đoạn nữa. Sau đó, xa xa phía trước, một hàng bạch dương xanh thẫm mọc đều tăm tắp bắt đầu ló ra khỏi gò đất. Khi họ đã lên đến đỉnh gò, chúng như bật thẳng lên đằng sau dãy tường đá trải rộng hút tầm mắt, chập vào với con đường trước mặt. Hàng cây đổi hướng và chạy men theo con đường một đoạn. All Saints nổi danh là nghĩa trang lớn nhất thành phố, nếu không phải là lớn nhất thế giới. Người ta đồn rằng nó đủ rộng để mai táng mọi thi hài trên đời cùng một lúc. Bên kia đường, nhà cửa đã xuất hiện trở lại, được dựng lên nhằm phục vụ những người sống thường lũ lượt kéo ra đây trong những ngày Chủ nhật và một số dịp lễ để tỏ lòng thành kính với người quá cố. Có thể nhìn thấy một cửa hàng khắc bia mộ, trên sân ngổn ngang các loại tiểu quách trang trí, những bức tượng tiểu thiên sứ, thiên thần khóc thương, cùng với thánh giá. Ngoài ra, còn một gian hàng ăn uống và nhiều hàng quán khác. Chúng nằm rời rạc, cách nhau một khoảng xa, mang trên mình vẻ tiêu điều trống vắng chứ không nhộn nhịp đông đúc. Xe đỗ lại bên cổng chính với cánh cửa đồng khổng lồ nằm dưới một vòm đá, hai vị khách lần lượt chui ra. “Quay lại đón chúng tôi sau nửa tiếng nữa, không hơn,” Marta nhắn với ông đánh xe. Cỗ xe chầm chậm chuyển bánh và đi về đâu thì chỉ có ông đánh xe mới biết, có lẽ là quán rượu gần nhất tại ngã tư trước mặt. Trong lúc xe rời đi, Conchita chần chừ chừng một phút, ra chiều do dự. “Bác Marta ơi, trước khi vào trong, mình ra cái quán bên kia đường và ngồi nghỉ một phút được không? Cháu đang khát lắm.” Marta gắt gỏng phản đối, ép bẹp bó hoa xuống để có thể nhòm qua chúng và trông rõ mặt thiếu nữ, “Không, nina. Sao mình làm thế được? Mẹ con bảo bác phải đưa con về nhà ngay. Nhìn kìa, mặt trời đã xuống thấp lắm rồi. Đêm sẽ buông trước khi chúng ta kịp về nhà mất.” “Vào ngồi có mất bao lâu đâu?” Thiếu nữ nũng nịu. “Chúng ta ra đây để thăm mộ ba con hay để giải khát?” Bác gái già bực bội nói, vẫn dứt khoát không chịu. “Chỉ một tách trà bạc hà thôi. Bác thích trà bạc hà lắm mà. Giờ này ở nhà bác toàn uống thôi.” Marta bắt đầu lung lay, hiển nhiên đang bị cám dỗ. Bác ta liếc sang bên kia đường, như thể đang ước đoán xem nếu ghé qua quán rồi quay lại thì sẽ mất bao lâu. “Nhưng vào viếng mộ trước rồi ghé quán nước sau chẳng phải sẽ hay hơn sao? Nghĩa trang đóng cửa mất.” “Cháu sắp xỉu đến nơi rồi, bác Martita à. Tại sao bác không chiều cháu vậy?” Người đồng hành của nàng lập tức lo lắng rối rít. “Ôi trời đất ơi, sao con không bảo sớm hơn? Chẳng hiểu bác nghĩ gì trong đầu nữa, cứ đứng đây tranh cãi mãi. Đi nào cưng, nắm lấy tay bác, chúng ta sẽ qua quán ngay.” Họ nhích sang đường, tốc độ lề mề kinh khủng và nói thật thì chủ yếu là do bà bác mập mạp đưa tay đưa chân chậm chạp chứ không phải là do thiếu nữ mảnh khảnh yếu đuối gì cho cam. Bác Marta thậm chí còn tận tâm dặn dò nàng chớ có bước vội, “Đừng đi nhanh thế, linda. Con bị choáng bây giờ.” Giờ này quán gần như vắng tanh. Một anh bồi bàn đang kẹp khay dưới cánh tay, ra đứng ân cần bên cửa, đợi xem họ quyết định ngồi đâu rồi mới tiếp tục bước đi. Trong dải sân lát gạch đất nung trước quán bày một dãy bàn sắt cao lêu khêu với mặt bàn bé tí, trông vô cùng thảm hại. Mỗi chiếc bàn bị vây kín bởi một đống ghế chân mảnh, nhiều hơn khoảng trống xung quanh bàn. “Mình vào bên trong cho kín đáo đi,” Conchita nhã nhặn đề nghị. Từ khoảng không sáng sủa bên ngoài, họ bước tiếp vào trong một vùng không gian tù mù như hang động, chứa đựng một biển bàn sắt khác. Chúng cũng mỏng manh hiu quạnh y hệt đồng loại ngoài sân. Một tấm biển bìa cứng ghi "Có bia el sol" được treo lỏng lẻo quệt vào đầu Marta khi bác ta bước bên dưới. Bà cáu kỉnh gạt nó sang bên. Hai người ngồi đối diện nhau trong một quầy nhỏ sát tường, bác giám hộ cùng bó hoa ở một bên, thiếu nữ đi viếng mộ một bên. Anh bồi bàn lại gần. “Buenos dias.” “Buenos dias,” bác Marta làu bàu cụt ngủn, đúng kiểu chào hỏi thường thấy giữa những người làm công. Conchita đợi đến khi anh ta đã rời đi rồi mới vén tấm mạng lên, phong thái đoan trang như một thiên thần. Không gian xung quanh bắt đầu hiện lên rõ ràng hơn một chút khi mắt họ đã bắt đầu làm quen với nơi đây, mặc dù vẫn chỉ như đang nhìn qua làn nước xanh ngọc nơi đại dương sâu thẳm. Đồng thời khi ấy, ánh sáng bên ngoài cũng đang dịu xuống rất nhanh, mất dần độ chói lọi tương phản. Họ ngồi đó một lúc. “Chúng ta sẽ không vào kịp mất,” Marta rên rỉ. “Thế là mình ra đây chỉ tổ tốn công vô ích.” Bác ta dịch đầu và vai ra ngoài ghế để quan sát khu vực yên ắng phía sau quán, khum hai bàn tay lại và đập rầm rầm xuống bàn, phá vỡ sự im lặng thành từng mảnh vụn. “Muchacho! Bọn tôi đang vội!” Bác ta giục giã. Anh bồi bàn chậm chạp quay lại, không thể nào đi nhanh hơn bởi trên cái khay đang mang là tách trà thơm ngào ngạt đầy đến miệng cùng cốc nước chanh. Marta gục xuống tách trà. Lúc ngẩng lên, bác ta chép môi đầy khoan khoái. Conchita, bấy giờ đang ngồi quay mặt ra bên ngoài, tiếp tục quan sát con đường. Trông nàng giống như đang chủ tâm chờ đợi thứ gì đó đi ngang qua và hút lấy ánh mắt mình hơn là theo dõi một thứ đã khiến mình chú ý. Đột nhiên, nàng bật ra một tiếng cười khe khẽ, chĩa một ngón tay về phía cảnh vật ngoài kia. “Bác nhìn mà xem! Vừa có một người đi ngang qua, nom buồn cười lắm. Không biết anh ta là ai nhỉ?” Marta, khi ấy ngồi quay lưng với con đường, vội vã xoay người lại và cố gắng nhìn qua mép vách ngăn quầy phía sau. Chốc sau, bác ta quay lại và nhún vai. “Bác chẳng thấy ai cả.” Một gợn sóng nhỏ đang lan tỏa trong tách trà. “Bác để hụt mất anh chàng rồi. Anh ta vừa mới đi ngang qua đây thôi.” Marta nói, “Trông con tái lắm, nina.” Quả đúng là gương mặt Conchita đang tái lại. Nàng không quen lừa lọc thành viên trong nhà một cách trắng trợn như thế này. Nói đúng hơn, nàng không quen lừa bất kỳ người nào hết. Một vài phút nữa trôi qua. Marta đặt tách trà rỗng xuống. “Nào pequena, mình phải đi thôi.” “Ngồi thêm một phút nữa đi bác. Trong này thoải mái quá. Cháu vẫn chưa uống xong cốc nước chanh.” “Mặt trời sắp lặn đến nơi rồi. Chẳng mấy chốc mà trời sẽ tối sầm lại. Mình không thể lần mò trong bóng tối được đâu…” “Trông bác có vẻ mệt mỏi thế nhỉ, bác Marta ơi.” Như thể chỉ sau khi điều ấy được nhắc đến thì bác Marta mới nhận ra. “Đúng là bác mệt thật. Sáng nay bác đi lễ lúc 6 giờ.” Bác ta thở dài thườn thượt. “Cứ đến cái tuổi của bác thì…” “Bác ngả đầu ra miếng lót da một phút đi,” thiếu nữ đề xuất. “Làm vậy ngoài nơi công cộng trông không được hay lắm.” “Ở đây làm gì có ai nữa.” Đầu bác gái già dần dà tự ngửa ra phía sau, thế rồi bác ta sung sướng nhắm mắt lại và trút ra một hơi thở sâu đầy thư giãn. Bác giữ được thẳng đầu chỉ tầm một phút, sau đó thì nghiêng dần sang một bên cho đến khi chạm vào cái góc giữa bức tường và vách ngăn, dựa hẳn vào đó. Nhịp thở của bác ta bắt đầu trở nên khò khè hơn, đôi môi hơi hé mở. Thiếu nữ im lặng ngồi thêm một lúc nữa. Từ từ dịch người ra ngoài mép ghế cho đến khi không còn bị cái bàn cản trở, nàng đứng hẳn dậy, vẫn không rời mắt khỏi gương mặt người đồng hành của mình. Giờ phần quai hàm nặng nề của bác ta đang lay động nhẹ theo từng nhịp thở. Conchita cẩn thận thò tay xuống chỗ bó hoa bên cạnh bác Marta, đỡ chúng lên khuỷu tay, cẩn thận giữ chúng không gây sột soạt quá mức. Nàng ôm được gần hết, có điều vẫn để lọt mất một bông hồng bạch cuống dài, đành để mặc nó nằm lại. Loay hoay tìm cách nhặt bông hồng lên có khi sẽ khiến nàng làm rơi hết hoa trên tay. Thiếu nữ lách người đi qua biển bàn ghế, lướt đi như một hồn ma vận đồ đen, bóng hình hằn trên ánh nắng đang dần tàn lụi bên ngoài. Sau khi đến lối ngang trống trải dẫn ra cửa trước, nàng ra dấu gọi anh bồi bàn về phía mình. Rồi nàng tiến thêm một bước, đồng thời đưa ngón tay lên môi nhắc anh ta im lặng. “Sí, senorita?” “Bác nodriza nhà em đang rất mệt. Pobrecita. Em sẽ để bác ấy nghỉ lại đây vài phút. Chừng nào em chưa quay lại thì anh đừng đánh thức bác ấy dậy nhé. Em chỉ sang bên kia đường thôi. Em sẽ quay lại đón bác ấy trong khoảng 15 phút nữa.” “Tôi sẽ làm đúng như senorita yêu cầu,” anh ta kính cẩn thì thào. Hiển nhiên một thiếu nữ thanh lịch vận tang phục với một bó hoa lớn trên tay sẽ đi thăm viếng nghĩa trang, nào ai có thể nghi ngờ được điều gì? Nàng di chuyển một cách đài các cho tới khi ra đến sân trước và đi về con đường bên kia. Cổng nghĩa trang ở cách đó khá xa, không hẳn nằm ngay đối diện quán nước. Chưa kể lúc bấy giờ, mặt trời đang dần khuất dạng trong một bể máu nơi chân trời đằng tây, trữ lượng thời gian mà Conchita phải xoay xở mới kiếm được đang trôi tuột đi như cát lọt qua kẽ tay, nàng bắt đầu rảo chân tăng tốc. Mới đầu thì khó mà nhận ra. Nhưng chỉ một thoáng sau, thiếu nữ đã trở thành một bóng người hết sức kỳ khôi, nếu không muốn nói là bê bối, với mấy bông hoa nảy tưng tưng trên tay, đuôi mạng che mặt và tà váy bay phất ngược ra sau. Nàng cắm đầu cắm cổ phóng về phía cổng nghĩa trang, như thể người thân quá cố đang nôn nóng chờ đợi mình, như thể nàng muốn đến thật nhanh để tỏ lòng thành kính với họ. Một vài cái đầu ngoái lại ngạc nhiên khi nàng vọt qua. Lúc gần đến cánh cổng vòm trang trí thì Conchita đã thở không ra hơi nữa, đôi chân bọc trong lụa đen của nàng guồng như búa giã, nhanh đến mức chúng như nhòe cả đi. Khi con trưởng thành hơn chút nữa, mẹ không muốn con phải xấu hổ lúc nhìn lại những năm tháng tuổi trẻ, mình đã hành xử lố lăng thế nào. Đã là tình yêu thì khuyên nhủ sao được! Thiếu nữ vừa kịp nhớ ra mình cần giữ lịch sự cho phải phép. Nàng ép bản thân đi chậm lại, sải bước điềm đạm hơn, mặc dù vẫn còn di chuyển khá nhanh, khi băng qua giữa hai cánh cổng đồng nặng nề. Chúng dang rộng như một cặp cánh đang đón đợi, chờ được khép lại và ấp lấy nàng vào lòng. Là món quà do một nhân vật giàu có nào đó hiến tặng, đôi cánh cổng được khắc nổi rất xa hoa. Một bên cổng khắc dòng chữ: Cái chết hẳn phải là một đặc ân bởi nó bao trùm lên tất cả. Còn bên cổng đối diện là: Không ai là không được nó ban phước lành. Conchita băng qua chúng mà không buồn liếc mắt lấy một lần. Người sống không có thời gian ngắm nghía cái chết, có cố thì họ cũng không tài nào thấy nó được. Bên trong, cách cổng một quãng ngắn là một gian nhà nhỏ, không to hơn một chòi canh đá là bao, dùng làm chỗ trực cho ông gác cổng khi nghĩa trang còn mở. Ông ta đang đứng bên khung cửa hẹp mà nhìn ra ngoài thì bắt gặp nàng đi ngang qua. Ông gác đã cao tuổi, gương mặt phúc hậu, ngoại hình không có gì nổi bật. Theo cái cách ông ta phải nheo mắt ngờ vực nhìn Conchita, rõ là ông ta bị cận thị. Thiếu nữ dừng lại rồi tiến vài bước về phía ông ta. “Trong khoảng nửa tiếng vừa rồi, ông có thấy chàng trai trẻ nào vào đây không ạ? Tóc sẫm màu, người gầy gầy và đi một mình?” “Một cậu trai trẻ trông ưa nhìn ấy hả?” Ông ta hỏi. “Ồ, anh ấy đẹp trai lắm!” Nàng nhiệt tình tán đồng, sung sướng liếc lên trời. Ông gác khẽ mỉm cười với vẻ thấu hiểu. “Có, nina, ông có thấy một người như vậy. Suốt 10 phút vừa rồi, cậu ta lượn ra cổng đến ba lần, ngóng trông ai đó, càng lúc càng trở nên bồn chồn, hỏi ông là có thấy… một cô gái trẻ vô cùng xinh đẹp, mặc đồ đen với mái tóc đen tuyền, đưa theo một cô hầu gái đi cùng không.” Ánh mắt nàng buông xuống, sau đó lại nhanh chóng ngước lên. “Nhưng anh ấy còn ở trong này không ạ? Anh ấy chưa rời đi phải không?” Nàng hỏi, giọng nghe nhẹ nhõm hẳn. “Như ông biết thì cậu ta vẫn còn ở bên trong. Ông nhớ là chưa thấy cậu ta rời đi. Trừ khi cậu ta bỏ về trong lúc ông đi một vòng kiểm tra lần cuối.” “Không đâu,” nàng cam đoan với vẻ cả quyết rất đáng yêu, “anh ấy chưa về đâu, anh ấy vẫn còn ở trong này. Cảm ơn ông nhé.” Conchita quay lại và tiếp tục bước dọc con đường trung tâm vừa dài vừa rộng, trước khi nó bắt đầu tỏa thành vô số lối đi quanh co rải sỏi trắng. Chúng trông từa tựa như nhau và đã bắt đầu đong đầy chất tối của màn đêm, nhuốm sang sắc xanh lam. “Đừng ở trong đấy lâu quá nhé, senorita,” ông gác cổng tử tế gọi với theo nàng. “Khi cháu nghe thấy tiếng còi thì tức là ông sắp đóng cửa. Cháu chỉ còn một hay hai phút nữa thôi.” Thiếu nữ chỉ nghe lời nhắc nhở bằng một bên tai. Một dòng chảy vô hình mà ông gác không thể nhìn thấy đã cuốn lấy Conchita, lôi tuột nàng vào trong với lực kéo không thể nào cưỡng lại được. Không tiếng còi, cánh cổng hay lượng thời gian ít ỏi có thể làm suy yếu, ngăn cản hay can thiệp vào. Đây là khoảnh khắc tình yêu bừng nở, khoảnh khắc quý báu mà những kẻ si tình trân trọng, được ngóng đợi từ trước. Nàng bước vội trên con đường ảm đạm, băng qua một miền đất rờn rợn đang nhanh chóng mờ đi trong ánh chạng vạng. Nơi đây vừa phi tự nhiên lại vắng bóng người, cứ như thể thuộc về một thế giới khác. Nó mang một vẻ khắc khổ cổ điển, một vẻ u sầu lạnh lẽo. Đó đây, những cây bách, cây bạch dương, cây liễu rủ được bố trí với chủ ý nghệ thuật, cây thì đứng lẻ, cây thì mọc theo lùm. Chúng được trồng ở những nơi người đã khuất an nghỉ. Chúng chạm vào cái chết, che chở và thậm chí còn hút lấy nguồn sống từ đó. Rải rác bên dưới gốc cây, xen giữa mọi khe hở của những cành thấp là đà, trong mọi khoảng không giữa những thân cây, dọc mọi con đường và tại mọi góc quanh, là những cư dân vô hồn chết lặng, trắng lóa dưới những bóng tối lay động. Chúng như đang đợi một hiệu lệnh chiêu hồn từ sâu thẳm lòng đêm đang buông, để có thể trỗi dậy, tràn căng thứ sức sống quái dị. Chúng là những thiên thần đá, những bức tượng phượng hoàng và tượng điểu sư. Chúng là những băng ghế đá rải rác trên đường, dường như không phải nơi nghỉ chân lúc viếng mộ của người sống, mà để dành cho những bóng hình bí hiểm lặng lẽ lướt trên những con đường và lối ngõ lúc đêm khuya. Và phủ lên tất cả là miếng vải liệm tím sắc do ánh sáng đang tắt dần, crepusculo. Bản thân cái từ ấy cũng mang chút hương vị chết chóc. Cái chết của ban ngày. Trong miền tử địa này, tình yêu đang len lỏi bước đi dưới hình dạng của một thiếu nữ mười chín tuổi, nhiệt huyết tràn trề trong từng mạch đập, cặp mắt sáng long lanh, hơi thở gấp gáp, nhịp tim rộn rã. Conchita không chạy nữa. Giờ nàng đã vào đến nơi và đó mới là điều quan trọng. Dẫu sao thì nàng chỉ cần chờ thêm một hay hai phút nữa thôi, chạy trong nơi này thì thất lễ quá. Nhưng nàng vẫn hăng hái đưa chân thoăn thoắt, cứ ba hay bốn bước là lại thêm vào một bước đôi, không hẳn là chạy nhưng cũng gần như vậy. Conchita ra đến một trục tròn nàng dùng làm dấu mốc riêng. Chính giữa trục là một bình thạch cao tuyết hoa, đặt trên một trán tường thanh mảnh tao nhã. Đây là thứ luôn giúp nàng xác định phương hướng. Bốn lối đi tỏa ra từ trục tròn này. Con đường thiếu nữ băng qua từ nãy đến giờ tiếp tục dẫn sâu vào khu vực nghĩa trang nàng chưa bao giờ khám phá. Còn một con đường ngang giao thoa, phân nhánh thành hai lối đi khác. Vì đã có kinh nghiệm, nàng biết rẽ trái ở đây là sẽ ra nơi chôn cất của gia đình. Thế rồi khi quay lại, tất nhiên sẽ phải đi ngược hướng và rẽ sang bên phải, để quay lại đường chính dẫn ra cổng vào. Giờ chỉ cần đi thêm một chút nữa thôi. Thiếu nữ lần theo con đường rải sỏi nhỏ bé và ngoằn ngoèo, với những cảnh quan xung quanh mà nàng chỉ nhớ mang máng. Đầu tiên nó dẫn xuống một vùng trũng trống trải không cây cối, một bãi cỏ giữa miền đất chết. Đáy vùng trũng giờ đã thẫm xanh màu bóng tối. Thế rồi con đường lại dẫn lên và lách qua một lùm cây dày đặc như một đường hầm. Ngay đằng sau chỗ này là điểm đến của nàng. Trong những lần ghé thăm trước đây, nàng chưa bao giờ có cơ hội để ý đến những điều này, do luôn có Rosita ríu rít nói chuyện suốt chặng đường. Và trên quãng đường quay lại, khi ấy những bước chân sẽ từ tốn hơn, có một cánh tay rắn rỏi quàng quanh vòng eo thiếu nữ, giọng nói trầm ấm thủ thỉ vào tai nàng. Đây là lần đầu tiên Conchita một mình qua đây. Cuối cùng thiếu nữ cũng đã đến nơi. Nàng ra đến hàng tường cây vuông vắn cao ngang đầu người, chạy men theo lối đi chừng một mét, đánh dấu khoanh đất mộ gia đình nhà nàng. Nàng rẽ vào bên trong qua một khoảng hở trên tường cây, lần ra chỗ tấm bia mới nhất trong số các bia mộ và tấm đá nơi đây, một cột tháp trắng bệch như xương, bên trên gắn một vòng hoa đồng, bao quanh một dòng chữ khắc đơn giản. Don Rafael Contreras y galbo[20] Mong linh hồn ông được yên nghỉ Cột tháp nằm ở cuối khoanh đất. Những nấm mộ còn lại là các bà bác và những người nàng chưa gặp bao giờ. Tất nhiên anh ấy sẽ không đợi người yêu ở đây. Làm thế thì bậy quá. Họ có một chốn riêng… Nhưng trước tiên, Conchita cần bày tỏ lòng thành kính với người đã khuất trước. Nàng quỳ một bên gối xuống bên cạnh, kiên quyết tạm gạt bỏ mọi suy tư về ai đó ra khỏi tâm trí. Đầu cúi xuống, nàng rì rầm một lời câu nguyện ngắn, đồng thời cũng là một lời câu xin sự tha thứ. “Ba ơi, hãy tha thứ cho con vì đã lừa dối mẹ như vậy. Bọn con không muốn thế đâu, nhưng cả hai đứa chỉ trẻ được có một lần thôi. Tuần này con sẽ đưa anh ấy về nhà ra mắt mẹ, con hứa đấy.” Cuối cùng thiếu nữ cũng đứng lên, bỏ ra thêm mấy phút để xếp bó hoa mình mang theo quanh chân cột tháp, đi qua đi lại hết bên này đến bên kia để chỉnh trang cho đến khi nàng thấy ưng ý. Thế rồi nàng nhún gối, làm dấu thánh và rời khu mộ, lưu luyến nhìn lại sau lưng lần cuối. Người quá cố đã lo liệu xong và giờ đến phiên người sống. Chỗ hẹn không ở quá xa, chỉ cần đi thêm một chút theo con đường cũ về phía bên trái. Nó là một giàn hiên pergola[21] nhỏ xây bằng đá hoa, một mái vòm tròn chống đỡ bởi các cây cột thanh mảnh, không có tường ngăn. Nó không thuộc về ai cả, đây là một công trình "công cộng" do ban quản lý nghĩa trang tự xây, giống như mấy băng ghế và bình thạch cao tuyết hoa đằng kia. Đây là nơi họ luôn hẹn hò. Giờ anh đang đợi nàng trong đó. Khi chạy đến gần, Conchita sẽ thấy đốm lửa thuốc lá nôn nóng của anh bồn chồn dịch chuyển qua lại như một con đom đóm đỏ. Thật đáng tiếc, vì nàng đến muộn nên đôi bên sẽ chẳng ở bên nhau được lâu. Lúc thiếu nữ thoáng thấy giàn hiên thì nó đã bắt đầu đánh mất đường nét và màu sắc trắng tinh trong ánh hoàng hôn, chỉ còn là một khối xanh xanh mơ hồ ló ra qua làn sương mờ ảo. Nhưng nàng không quan tâm nó trông ra sao, quan trọng là cái người chờ trong đó. Lúc quay mình chạy qua hai cây cột khắc rãnh, nàng khẽ reo vui đầy tinh nghịch. “Raul! Có phải anh tưởng em sẽ không…” Giàn hiên trống huơ trống hoác. Đi mất rồi! Anh đã bỏ mặc nàng, rời đi mà không buồn đợi! Không, không thể có chuyện đó, ông gác cổng đã nói vừa mới thấy anh xong. Nếu anh bỏ về sau đó thì hẳn ông ấy sẽ báo rằng nàng vừa mới đến nơi và anh sẽ quay lại tìm nàng. Conchita ngẩn ra đó một lúc, không biết phải làm gì, đứng giữa phần sân trống vây quanh bởi ba băng ghế cong không lưng. Anh sẽ quay lại trong một phút thôi. Hẳn anh đã ra đến tận cổng để ngóng nàng lần cuối và chắc chắn ông gác cổng sẽ thông báo cho anh. Họ để lỡ nhau lúc nào đó, có khi trong lúc Conchita đang khuất sau tường cây chỗ khoanh đất mộ của gia đình, anh đã khẽ khàng băng qua bên ngoài. Anh không phát hiện ra người yêu ở trong đó, bởi nàng mặc toàn đồ đen mà lại đứng trong chỗ tối. Hoặc có thể anh đã ra cổng bằng lối tắt, không đi ngang qua chỗ nàng chút nào. Tốt nhất nàng nên đợi ở đây, nơi anh có thể đến tìm, nếu không họ sẽ lại hụt nhau thêm một lần nữa và không còn có cơ hội gặp mặt. Đúng tối hôm nay! Thời gian đã ngắn ngủi thì chớ, chuyện này lại xảy ra! Conchita chán nản ngồi xuống một trong ba băng ghế. Ngay cả trong thứ ánh sáng âm u ngập tràn nơi đây, thiếu nữ vẫn lập tức nhận ra trên sàn có thứ gì đó. Một điếu thuốc hút dở nằm lăn lóc dưới chân nàng. Lại một điếu nữa. Có đến nửa tá đầu lọc thuốc lá vương vãi khắp nơi. Nàng rón rén nhón điếu thuốc gần nhất lên, giơ nó ra trước mắt trong ánh sáng tù mù. Một phần tên thương hiệu chưa bị cháy mất: Exquisito. Nàng biết nhãn hiệu này, đây là thuốc của anh. Thiếu nữ mỉm cười thương cảm. Nàng có thể hình dung ra cảnh anh chàng tội nghiệp ấy đi tới đi lui, ruột nóng như lửa đốt vì phải chờ đợi. Conchita tiếp tục giữ điếu thuốc thêm một lúc, quan sát nó. Nó là một phần của anh. Đây là tất cả những gì thuộc về anh mà nàng có thể nắm giữ trong vài phút tới, cho đến khi anh quay trở lại. Nàng thì thầm với nó, “Hỡi điếu thuốc lá bé nhỏ, anh ấy có yêu ta không? Anh ấy có nhớ nhung khi ta vắng mặt không? Nói ta nghe, anh ấy hành xử thế nào? Anh ấy có thì thầm gọi tên ta khi ngậm ngươi trong miệng không? Hẳn ngươi sẽ biết, bởi ngươi từng ở rất gần bên anh.” Conchita trìu mến chạm một đầu ngón tay lên điếu thuốc. Nàng hãy còn rất trẻ. Anh tốn quá nhiều thời gian để vòng lại từ cổng. Nhưng chắc chắn là sẽ quay lại. Ông gác cổng kiểu gì cũng sẽ nói là gặp Conchita rồi. Giờ đã ra đến đây mà nàng không chịu đợi thì đúng là ngớ ngẩn. Đây là nơi duy nhất họ không bị ai soi mói, được ở một mình bên nhau trong vài khoảnh khắc ngắn ngủi. Mấy lần nàng đưa theo Rosita thì khác. Trạc tuổi cô chủ, Rosita thấu hiểu nàng, chị lại còn hỗ trợ và thông đồng với nàng nữa chứ. Có Rosita đi cùng, họ có thể nấn ná từ biệt nhau, thậm chí ở ngay ngoài cổng chính, trước mắt bàn dân thiên hạ. Chị giúp việc sẽ lịch sự đợi ở ngoài tầm tai nghe hay đi trước hai người, để họ tay trong tay, đầu ngả vào nhau trên đường đi ra xe. Nhưng giờ lại có bác Marta đi cùng! Mong là bác ấy ở yên chỗ cũ. Anh có thể đến bất cứ lúc nào. Đúng là kỳ lạ. Chỉ cần gặp được một người, bất chợt cả thế giới trở nên khác hẳn. Conchita nhớ lần đầu tiên họ gặp nhau cách đây chưa lâu, mới chỉ một vài Chủ nhật trước mà thôi. Ấy thế mà giờ nàng không tài nào nhớ nổi trước khoảnh khắc đó, trước khi anh xuất hiện, cuộc đời mình như thế nào nữa. Cuộc gặp gỡ định mệnh diễn ra vào một chiều Chủ nhật, ở rạp cine. Hôm đó mẹ nàng trở bệnh, còn bác Marta thì quá khắt khe và không muốn coi cine vào Chủ nhật, thế là Rosita đi cùng cô chủ. Nàng đã đặt trước ghế tại cine vào chiều Chủ nhật hàng tuần, thuê theo mùa và lần nào đến cũng ngồi đúng một chỗ. Chắc hẳn nhờ thế mà anh quen mặt nàng, mỗi lần đèn bật lên lúc nghỉ giải lao là lại ngắm nhìn nàng, ngắm từ rất lâu rồi. Và, phải, Conchita cũng đã để ý thấy anh, nhưng tất nhiên nàng không thể chằm chằm nhìn lại. Nàng chỉ có thể để hai đôi mắt giao nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Thế rồi chiều hôm đó, khi ra ngoài, họ bắt gặp một trận mưa xối xả đang tưới đẫm con phố. Hai chị em bất lực túm tụm bên dưới tán cây ven đường cùng với những khách bộ hành khác, không thể đi đâu, trong khi anh gác rạp cứ thổi còi huyền náo khắp dọc con phố… Đúng lúc đó, từ một nơi xa xăm, âm thanh khó chịu kia lại chen vào suy nghĩ của thiếu nữ, càng khiến nàng nhớ về ngày hôm ấy, khiến ký ức hiện lên sống động hơn hẳn. … Anh gác rạp cứ thổi còi huyên náo gọi xe ngựa, xe taxi và bất cứ phương tiện gì có bánh đến đưa khách về. Nhưng những người khác cứ đua nhau chen lên xe hết. Có trời mới biết nàng cùng Rosita sẽ mắc kẹt ở đó thêm bao lâu nữa nếu anh không bất chợt xuất hiện, mở đường cho họ rồi thản nhiên chiếm luôn một cái xe đang đỗ ở hè đường, không cần bận tâm đến… Chợt Conchita đứng bật dậy, một cơn sốc muộn màng chạy khắp người. Âm thanh vừa nãy chính là tiếng còi của ông gác cổng! Nó đã hòa mình nhẹ nhàng vào dòng hồi tưởng của nàng! Thiếu nữ chạy xuyên qua mấy cây cột, đứng im trên hai bậc tháp của giàn hiên, cứng người lắng nghe đầy hoảng sợ. Âm thanh kia lại vang lên một lần nữa, lanh lảnh trong bóng tối, cách xa muôn trùng dặm, xa đến mức nàng sẽ chẳng có cơ may chạy ra kịp. Thật là vô vọng! Đây là hồi còi cảnh báo thứ hai và cũng là cuối cùng. Sau đó thì… họ sẽ cứ thế đóng cửa mà không chờ đợi thêm nữa. Chắc hẳn ông gác cổng đã để hụt nàng, giống như nàng và Raul đã để hụt nhau. Bởi vì trong một nơi rộng lớn cỡ này, hiển nhiên người ta sẽ không chỉ thổi còi ở mỗi khu vực cổng vào. Có thể trong lần đi kiểm tra và nhắc nhở những người trong nghĩa trang, ông ta đã không đến giàn hiên pergola, không hề hay biết rằng có người đang ở đây. Và Conchita vì mải mơ mộng đã không để ý thấy ánh đèn lập lòe xa xa, nếu như ông gác có dùng đèn; hay nhận ra ý nghĩa của nó. Hoặc có thể một ai đó mặc đồ tang giống nàng đã đi ra, khiến ông ta tưởng nhầm mà không buồn quay vào tìm nàng nữa. Dù sao thì ông ta cũng bị cận thị mà. Thiếu nữ nhận ra tất cả những điều ấy chỉ trong một khoảnh khắc dừng chân đầy kinh hoàng trên bậc thang, trước cả khi tà váy phất phơ của nàng buông thõng bất động. Và như thể vậy vẫn chưa đủ, đến bây giờ nàng mới nhận ra rằng trong lúc ngồi đợi, trời đã tối mịt hoàn toàn. Đến cả thứ ánh sáng tàn dư của mặt trời cũng đã biến mất. Trên rặng cây phía tây chỉ còn sót lại một quầng đen hơi ngả lục, hệt như kim loại bị ôxy hóa, đánh dấu vị trí của mình. Những nơi khác thì rặt một màn đen, đen, đen. Đêm đã ngự trị và nàng đã nằm gọn trong cái bẫy nó giăng. Conchita chạy trên con đường rải sỏi ngoằn ngoèo. Nàng tin, cả đời mình chưa bao giờ chạy nhanh đến thế. Một cụm sỏi bay tung lên trước mũi bàn chân tí hon đang đạp mạnh, trông chẳng khác nào bọt biển. Băng qua đường hầm cây. Lao xuống bãi cỏ miền đất chết. Leo lên phía bên kia vùng trũng. Băng qua bức tường cây, nơi ba nàng cùng mấy bà bác đang yên nghỉ. Một tiếng khẩn cầu nức nở đầy bất lực bay ngược lại khi nàng chạy ngang qua, “Papacito!” Tiếng thút thít của một thiếu nữ đang sợ hãi, buột thốt ra trong lúc hộc tốc phóng qua khu mộ gia đình. Conchita cất tiếng gọi một người từng luôn bảo vệ nàng, nhưng giờ thì không thể nữa rồi. Mấy ngọn cây trở nên vô hình trên nền trời đen. Nhưng nổi bật bên dưới tán lá là màu trắng của những bia mộ và tấm đá, tạo thành các bóng ma xám tờ mờ rải rác đó đây. Một thiên thần đứng kiễng trên một ngón chân, từ nơi phục kích chực chờ nhảy ra vồ lấy thiếu nữ, siết chặt cổ nàng với đôi tay xoắn xít, kéo ngã nàng xuống. Conchita rú lên, né dạt sang và suýt nữa thì lăn quay, sau đó nàng loạng choạng chạy tiếp. Một ngọn gió như hơi thở dài của lớp đất xung quanh bốc lên, ẩm ướt và hăng hắc mùi của những thứ đã bị chôn vùi từ lâu. Nó không đứng im mà như đang đuổi theo Conchita, luồn lách qua các thân cây, vặn mình men theo con đường đằng sau thiếu nữ, ì èo rên rỉ, tìm cách bắt lấy nàng. Con đường dưới chân nàng là một dải băng xám, một miếng vải không rõ hình hài, trải dài trong đêm tối, như không bao giờ biết đến điểm dừng, không bao giờ chạm tới điểm kết thúc… Conchita biết mình đang phát hoảng. Nàng cũng hiểu nếu không chế ngự được cơn hoảng hốt thì không đời nào toàn mạng ra được đến chỗ cánh cổng. Vừa lảo đảo chạy, với buồng ngực như nổ bung và sụm xuống theo từng nhịp thở, nàng vừa vật lộn tìm cách giành lại quyền kiểm soát bản thân. Không sao đâu, Conchita, sẽ chẳng chuyện gì xảy ra đâu! Mọi chuyện sẽ ổn thôi, đừng có ngớ ngẩn. Chỉ chốc nữa thôi mình sẽ ra đến cái bình dấu mốc, sau đó mình sẽ rẽ trái, nhớ chứ? Thế rồi chỉ cần đi theo con đường trung tâm rộng lớn dẫn ra cổng, chuyện nhỏ ấy mà. Hô lên luôn đi, ngay từ đây, người ta sẽ nghe thấy tiếng mình, người ta sẽ đợi, người ta sẽ giữ cửa mở. Hô lên đi để người ta còn biết, đáng nhẽ ra ngay từ lúc mới nghe thấy tiếng còi là phải hô lên luôn rồi. Thiếu nữ không nghĩ mình vẫn còn đủ hơi, nhưng bằng cách nào đó nàng vẫn gào lên được. Giọng gào nghe the thé, yếu ớt và đứt quãng, rung bần bật vì đôi chân không ngừng chạy. “Ông gác ơi! Ông gác ơi, đợi đã! Cháu vẫn còn ở đây! Đừng đóng cửa vội! Đợi cháu ra đã…” Thế rồi nàng không thể la thêm được nữa, trong phổi không còn đủ lực. Nàng tròng trành sang hai bên, chẳng đi theo một đường thẳng nữa. Còn đám sỏi phản trắc, bình thường dễ bước lên là thế, giờ cứ lăn tròn và trườn đi dưới chân, khiến nàng mất thăng bằng. Cái bình! Ôi, đội ơn thánh thần, cuối cùng cũng ra đến chỗ cái bình! Nó đứng thẳng trước mặt nàng, cao hơn đầu người, nhìn như đang bơi trong màn đêm, không vật gì chống đỡ, cho đến khi cái bóng trắng nhờ nhờ của trán tường bên dưới hiện ra. Sang trái nào, Conchita rối rít tự nhắc bản thân, sang trái, cẩn thận vào… Thoạt tiên, nàng thậm chí còn không thể xác định được bên trái là bên nào. Trái tim. Trái tim luôn nằm bên trái. Nàng áp tay lên ngực, nhịp đập thình thịch khiến tay nàng đau buốt, chẳng khác nào những nhát búa gõ nện vào phần lõm của gan bàn tay. Conchita để trái tim đưa đường cho mình, rẽ về bên ấy. Cái bình tụt lùi ra sau, khuất tầm mắt, như thể được các sợi dây vô hình kéo đi. Con đường lát gạch rộng dẫn thẳng ra cổng giờ đã nằm trước mặt và chặng đường khó khăn nhất đã kết thúc. Mặt đường vững chãi dễ chạy hơn lớp sỏi hay xê dịch, nhưng thiếu nữ không rảo chân nhanh hơn được chút nào, bấy giờ nàng đã kiệt quệ. Nàng tiếp tục lảo đảo đưa bước, chẳng dám gục ngã. Conchita thử hô lên lần nữa, nhưng nhận ra là không thể. Một âm thanh câm nín, lào khào, không vang xa được mấy là tất cả những gì nàng có thể thốt lên. Nó như cào xé cổ họng đang nghẹt lại của nàng. “Để cổng mở, đợi cháu đã…!” Con đường trải thẳng và rộng trước mặt thiếu nữ, hai mép ranh giới dẫn vào một giao lộ tăm tối trong màn đêm trước mặt, không ngừng né tránh nàng, mãi chẳng đến gần hơn. Đằng sau nàng, cơn gió độc đầy ẩm ướt của bia mộ và mùi hơi quan tài thối rữa dường như cũng rẽ hướng giống nàng, vẫn tiếp tục rượt đuổi trên con đường thẳng băng này, chưa hề thỏa mãn và rít lên ù ù. Cứ như thể Conchita đang chạy ngược hướng trên một băng chuyền vĩnh cửu, mọi bước tiến đều bị nuốt trọn khiến nàng cứ ở nguyên một chỗ, mặc dù tay chân và tim phổi mỗi lúc một mỏi mệt. Một băng ghế bên đường chậm rãi trôi qua. Thế rồi một lúc sau, một băng ghế khác lại chậm rãi trôi qua. Conchita chỉ thèm được gục lên một băng ghế và nằm lăn ra đó, mê man đi phân nửa, nhưng nàng không dám. Tiếng còi đã vang lên từ rất lâu, liệu người ta có nghe thấy nàng kêu gào không? Liệu người ta có còn đang đợi và giữ cửa mở không? Nếu có thì sao họ không tiến về phía trước, dù chỉ một chút? Tại sao nàng không nhìn thấy ánh đèn dầu của họ ở cuối con đường bất tận này… Có chuyện gì không ổn. Khoảng cách tới cổng có vẻ xa hơn những gì thiếu nữ nhớ. Đúng là nó xa hơn thật, không nhầm đi đâu được. Không phải nỗi sợ hay bóng tối đã làm lệch lạc nhận thức, cảm nhận này dựa trên thời gian nàng chạy nãy giờ và quãng đường nàng đã đi được. Đáng ra Conchita phải vòng đi vòng lại được hai, ba lần tại cánh cổng rồi. Kể cả có cuốc bộ thì nó cũng chưa bao giờ xa xôi đến thế, từ trước đến nay không bao giờ xa như vậy. Ý nghĩ về chuyện đã xảy ra cứ như băng đá chảy trong mạch máu, khiến huyết mạch tê dại hết đi. Theo sau đó lại là hơi ấm, sẵn sàng chờ đến lượt để xâm chiếm lấy nàng. Nhưng nó không phải hơi ấm của sự tỉnh táo, của lẽ thường nữa. Nó là cơn sốt hầm hập từ cơn điên cháy bỏng, hơi nhiệt của ác mộng. Giờ Conchita gần như chẳng tiến lên được phân nào. Nàng không thể đi tiếp. Nàng lắc lư ở đó, chân tay vẫn tìm cách lôi chủ về phía trước, nhưng chỉ có thể chuyển động quay vòng trên mặt đất. Và con đường vẫn cứ trải dài vô tận, kéo về hư vô bất biến, nơi đã đưa chân nàng đi kể từ lúc ở chỗ cái bình. Thiếu nữ cố gắng động não. Sang trái. Đúng rồi, sang trái. Izquierdo. Đúng cái từ ấy rồi, đúng hướng ấy rồi. Nhưng sang trái khi nào? Lúc đi vào, khi ta muốn ra khoanh đất mộ của gia đình à? Hay là khi đi ra, lúc ta muốn quay về cổng? Sang trái là đúng rồi. Lần trước Rosita đã nói như vậy, khi họ do dự dừng lại một lúc bên cái bình. Nàng vẫn có thể nghe được cái câu nói ấy trong tâm trí. Không, sang trái, Senorita Conchita. Đoạn ấy thì đúng rồi. Nhưng sang trái khi nào? Nàng không thế nhớ nổi hồi đó họ đang đi vào hay đi ra. Đầu óc nàng chỉ toàn hình ảnh của anh. Conchita quay vòng lại và nhìn ra đằng sau. Cái bình đã mất dạng từ lâu. Lọt vào mắt nàng chỉ là một điểm hư vô khác, không hơn gì điểm trước mặt. Nàng đã quẹo sai đường, đã đi sai lối. Nàng đã đâm đầu vào sâu hơn trong miền đất chết chóc, thay vì chạy thoát ra ngoài. Mấy tiếng thổn thức loạn thần bắt đầu hình thành trong cổ họng, cứ mỗi tiếng theo sau lại dâng cao hơn tiếng trước. Nàng quẫn trí thọc cả hai bàn tay vào mái tóc quăn mà Raul rất thích, làm tuột cả dải viền đen bện xoắn bao vòng quanh tóc và tấm mạng trên đầu. Chúng rơi xuống sau lưng và nàng để mặc chúng nằm im ở đó. Hẳn cổng đã đóng từ lâu rồi. Chẳng ai nghe thấy Conchita hết, không thể nào đoán được sự tình. Nàng sẽ mắc kẹt trong chốn ghê tởm này hết đêm nay mà không một ai hay biết. Họ đã rời đi và bỏ mặc nàng trong này cùng với những người chết. Nàng biết ông già cận thị kia không ngủ lại nghĩa trang. Gian nhà nhỏ giờ đã tối om và khóa chốt cài then. Chỉ nhìn vào kích thước là nàng biết ngay nó chỉ được dùng vào ban ngày. Thiếu nữ quay lại và thử đi ngược hướng mình vừa chạy. Nàng chỉ tiến được mỗi một bước run rẩy, lòng can đảm đã rời bỏ nàng. Conchita không làm được. Nàng không thể quay vào bộ hàm tăm tối đằng sau mà mình đã một lần băng qua. Đúng là trước mặt nàng cũng tối om chẳng kém, nhưng quay vào bóng tối lần hai, dù là nơi đã từng khám phá, vẫn có gì đó kinh dị hơn. Như thể nếu đi ngược lại, nàng sẽ cho những thứ ác ma náu mình trong đó một cơ hội thứ hai. Ngọn gió ồ ề u uẩn kia thổi ra từ đó. Đám cây rung lên xào xạc và rú rít như những sinh vật sống rình rập cũng ở đó nốt. Conchita nhấn chặt hai tay vào mắt để khỏi phải chứng kiến bất cứ cảnh tượng kinh hoàng nào. Dù chưa nhìn thấy gì cả, nhưng nàng sợ rằng chúng sẽ xuất đầu lộ diện bất cứ lúc nào. Nỗi khiếp đảm khiến hai hàm răng va lập cập và toàn thân buốt lạnh đến rợn người. Một lúc sau, thiếu nữ buông tay xuống. Từ nãy đến giờ, nàng đã bắt đầu di chuyển một cách vô thức mà bản thân không hay biết. Conchita bước rất chậm, chần chừ, lảo đảo, vô định và chẳng biết đi đâu. Nàng đang lang thang giữa đường, dáng đi liêu xiêu như sắp sửa ngã lăn ra đất. Nàng đang đi theo phương hướng nãy giờ vẫn đi, bởi vì nếu không muốn quay lại thì chỉ còn đường tiến tới. Bước chân cà giật và bất định như thể nàng đã đánh mất lý trí. Đúng là khi ấy không còn bất kỳ suy nghĩ nào đọng lại trong đầu nàng. Một băng ghế bên lề đường nhích lại gần Conchita, trông trắng bệch và tái nhợt như xác chết trong cảnh tù mù, nhìn mà ngỡ tưởng nó đang được một ngọn đèn vô hình chiếu lên. Nàng tiến về phía băng ghế, người như sắp gục. Thế rồi, sự hiện diện của nó không khác gì công cụ giải phóng xúc cảm, thiếu nữ úp nửa thân trên lên ghế, chân lết dưới đất và òa khóc nức nở. Nàng khóc nhiều đến mức nếu cứ tiếp tục thì chẳng bao lâu sau sẽ lăn ra bất tỉnh. Chuyện ấy không xảy ra. Conchita lại ngưng khóc vì xương sườn bị bóp siết lại và đường thở tắc nghẹt, sau đó nằm im lìm tại đấy. Nhưng nàng không hề mê man. Ngay cả khi đang nằm bất động, nỗi sợ vẫn cứ lén lút bò lên người nàng như một lớp men tráng mỏng. Rốt cuộc, nó kích thích các phản xạ tự nhiên của Conchita. Nàng bất chợt bắt tréo chân như đang bơi trên cạn, quay ngoắt đầu lại, nhìn ra đằng sau. Đó là phản ứng đầy bản năng của những người chết tắc trong bóng tối, của những người sợ bóng tối. Một tiếng hét hãi hùng luồn lách để bật ra khỏi đôi môi đơ ngắc. Nàng tìm cách rúc đầu và hai vai vào trong góc xa nhất của băng ghế, khiếp hãi đến độ trán đập vào lớp đá cứng đờ và lạnh ngắt mà chẳng cảm thấy đau. Có thứ gì đó đang rón rén tiến về phía Conchita từ một bên con đường xám mờ mờ ảo ảo. Một sinh vật màu đen, thân mình uốn éo, bụng úp sấp, đuôi ngoe nguẩy. Đôi khi khoảng tối bên lề che khuất nó, đôi khi khoảng sáng phía bên kia lại để lộ những viền cong của nó. Nhưng chỉ lộ một bên. Đầu nó có một vệt nhấp nháy, một đốm tí hon không thể gọi là sáng được vì quá xỉn màu. Thỉnh thoảng, ánh sáng từ một ngôi sao trên cao chiếu trúng thì phần hạt lóng lánh hay ướt nước này mới thoáng xuất hiện. Dáng đi của nó thất thường và hết sức kín đáo. Nó vặn mình tiến tới rất mau lẹ, rất thầm lặng, nhanh đến mức tấm thân gợn sóng trông cứ như ảo ảnh. Thế rồi nó sững lại, trông vô hồn, không hơn gì một cái bóng, chuẩn bị thực hiện lần tiến tới lén lút tiếp theo. Trong lúc tròn mắt theo dõi, đầu óc mụ mị vì sợ, Conchita nhìn thấy đuôi của nó, cái chi phụ mảnh mai như sợi dây thừng ấy hất nhẹ lên, hơi giật lên trên, sau đó lại hạ xuống phẳng lì. Nó lặng lẽ phóng thêm một bước uốn éo ngắn nữa và rồi dừng phắt lại chỉ trong tích tắc. Conchita tê liệt toàn thân, người như rã ra, mất sạch khả năng cử động. Nó cũng khiến nàng im bặt như người bắt thế[23], không thốt được lời nào khác sau tiếng rú ban nãy. Nỗi sợ có một cái ngưỡng còn thâm sâu hơn cả la hét, ấy chính là im lặng. Nàng nhấc người dậy khỏi mặt đất mà không cần chống tay, leo lên phần nối giữa lưng ghế và tay vịn chỉ nhờ chuyển động vai, đầu không quay lại. Vặn vẹo lách mình vào hõm nông của một băng ghế đá lùn tịt, lưng ưỡn như muốn gãy đôi trên nơi ngồi, đó là tất cả những gì nàng có thể làm để tránh xa nó. Mặt nàng nhăn nhúm cứng ngắc, co thắt lại vì hồi hộp. Không một dấu hiệu cảnh báo. Thất thường như thủy ngân hay tia chớp, bất chợt nó nhào đến, vồ về phía chân nàng, phóng lên trước, như thể phi quá đà. Đuôi nó quất mạnh, vụt đằng sau. Conchita chỉ biết rùng mình, như thể chấp nhận cái chết dù chưa bị nó chạm đến. Thế rồi bỗng dưng nàng xìu người đi, bất thình lình chẳng kém gì cú vồ của nó, eo sụp xuống, trườn xuống khỏi mép ghế và lừ đừ trôi xuống đất, miệng ói mửa. Nàng ói cạnh cái mũ vải đen vứt chỏng chơ, trên gắn hai miếng nữ trang đen tuyền, cùng với miếng mạng che mặt dài nhàu nhĩ quấn vòng quanh mũ, đôi ba chỗ phồng lên như bó cỏ do bị gió lén lút thổi vào từng chút, từng chút một. Vài phút quý báu lạnh lùng trôi qua và sinh lực từng rời bỏ thiếu nữ đã hồi lại. Bấy giờ, bằng cách nào đó, nàng lại đứng lên, bộ đồ đen xộc xệch hết cả, một bên vai kéo lên quá cao trong khi bên còn lại đã tuột hẳn. Đôi tất trên cặp chân trắng của nàng giờ chỉ còn là mấy dải ruy băng xám xịt. Conchita không còn là một người văn minh nữa. Nàng không phải là một thiếu nữ thành thị, cũng như không phải con gái của Viuda de Contreras nữa. Nàng không có tên, không có địa chỉ. Không phải là nữ mà cũng chẳng phải là nam. Conchita đã rơi xuống một chiều không gian vô giới tính. Nàng đã quên mất tình yêu là gì. Nước mắt hay tay nàng đã vô ý làm một vệt son đỏ xấu xí chảy từ khóe miệng xuống tận dưới cằm. Nàng chỉ còn là một con thú mù quáng bị bản năng chi phối, yếu ớt tìm cách rời vùng tối tới nơi sáng, trốn chạy khỏi sự sợ hãi để về nơi an toàn. Nỗi khiếp đảm giờ chỉ mang tính tương đối. Có lúc dâng trào, có lúc chẳng còn là bao, nhưng chẳng bao giờ biến mất hoàn toàn. Thiếu nữ lại chạy, loạng choạng tiến lên, đầu gục xuống ngực, chân vung cứng đờ ra sau, hết chân này rồi lại đến chân kia, cứ như mấy que nạng. Các vì sao chiếu xuống mái đầu nàng thứ ánh sáng vừa lạnh lẽo vừa vô nghĩa. Chúng thật xa xôi cách biệt, những đốm sáng tí hon không lòng trắc ẩn, đứng tít trên cao nhìn xuống một sinh vật đang mắc kẹt trong cái hố đen ngòm, quan sát nó đi vòng quanh rồi lại vòng quanh, cố tìm đường thoát và biết rõ rằng nó sẽ không bao giờ thoát nổi. Tự nhiên, một nỗi kinh hoàng mới lại chất đè lên tất cả những gì Conchita đang phải chống chịu. Lần này nó có màu. Màu sắc bắt đầu tràn vào nghĩa trang, ban tặng một chiều không gian mới, khiến nét rùng rợn có thêm chiều sâu, không còn thiếu hụt như màu đen xám hai chiều trước đó. Nó tựa như một ảnh phản chiếu xa xôi, mới đầu nàng không thể nhìn ra nó bắt nguồn từ đâu. Chẳng khác nào ánh lửa đỏ lóe giữa những hàng cây và các bia mộ, không bốc hẳn lên cao mà cứ từ từ lan tỏa khắp mặt đất. Một con mắt to lớn và giận dữ đang mở ra đằng sau nàng. Mặt trăng. Nhưng không phải vầng trăng mát dịu và nhẹ nhàng của các đôi tình nhân và những lời ước nguyện. Nó căng phềnh, thèm