🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook ALFA Siêu Biệt Đội Nga - Mikhail Boltunov full prc, pdf, epub, azw3 [Quân sự]
Ebooks
Nhóm Zalo
ALFA: SIÊU BIỆT ĐỘI NGA
Tác giả: Mikhail Boltunov
Biên dịch: Trung Hiếu
Biên soạn: Nam Hồng
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Đánh máy: Ptlinh
Tạo bìa: Inno14
Trình bày: Văn.Cường
Tạo ebook: tran ngoc anh
LỜI GIỚI THIỆU
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa khủng bố lại trở thành vấn đề thời sự đặc biệt căng thẳng như hiện nay. Có người gọi nó là “Ôn dịch chính trị của thế kỷ XX” – căn bệnh trầm kha đã mở rộng mục tiêu tấn công đến cả những người dân thường vô tội. Và điều đáng sợ hơn cả của nó là khiến lây lan nỗi kinh hoàng, hoảng loạn cho rất nhiều người khác trong cộng đồng xã hội không là nạn nhân trực tiếp của hành động này. Chính vì vậy, dù theo số liệu thống kê, xác suất bị khủng bố của mỗi cá nhân không cao nhưng chính phủ các nước rất coi trọng nhiệmvụ chống khủng bố.
ALFA – đội đặc nhiệm của nước Nga đã ra đời trong bối cảnh lịch sử phức tạp như vậy. Nằm trong cơ cấu Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô cũ (KGB) và Cục An ninh Liên bang Nga (FSB) hiện nay, đội quân tinh nhuệ vào bậc nhất thế giới chuyên thực hiện nhiệm vụ chống khu vực này suốt ba thập kỷ qua ẩn mình sau tấm màn bảo mật và trở thành nguồn gốc của nhiều câu chuyện thêu dệt và huyền thoại về những chiến công lẫy lừng của họ.
ALFA – đặc nhiệm siêu mật Nga của tác giả M.Boltunov là cuốn sách giới thiệu quá trình hình thành, phát triển và chiến đấu của đội đặc nhiệm Alfa, dẫn ra nhiều tư liệu, nhiều sự kiện lịch sử ở Liên Xô cũ, nước Nga mới hiện nay và cả trên thế giới, trong đó có nhiều sự kiện mới được công bố lần đầu.
Ngoài phần chính, những người làm sách bổ sung thêm phần Phụ lục nói về cuộc chiến chống khu vực của Nga hiện nay trước những vụ tấn công liên tiếp của phiến quân Chechnya, đặc biệt là về chiến công mới giải phóng gần 1.000 con tin ở nhà hát Trung tâm Moxcova cuối năm2002.
Chúng tôi hi vọng cuốn sách đem lại cho bạn đọc nhiều hiểu biết bổ ích, nhất là trong bối cảnh cuộc chiến chống khủng bố quốc tế hiện nay.
Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân
Chương I:
RAĐỜI TRONG THỬ THÁCH
Trung tướng Alecxei Dmitrievich Bestrastnov, cục trưởng Cục VII của KGB, đang đến gặp Andropov.
Những bậc thang lát đá cẩm thạch, lối đi rải thảm êm ái, những văn phòng, rồi lại những văn phòng như những trạm gác. Bên trái, bên phải…những dãy hành lang bất tận trong trụ sở Lubianca. Tất cả có vẻ như thân thiết, quen thuộc, nhưng Bestrastnov không ưa chúng. Năm1953, cũng theo lối hành lang này ông từng vội vã đến gặp Cobulov, phó tướng của Beria. Bestrastnov lúc đó là cố vấn ở Tiệp Khắc. Một thời kỳ hỗn độn: Dân Tiệp bãi công, bạo loạn lan rộng khắp đất nước. Yên lặng nhìn xoáy vào viên đại tá đứng trước mặt, Cobulov thở phì phò, cố thu gọn cái bụng phệ xuống dưới bàn. Chiếc bàn gỗ sồi được thửa riêng có cái lỗ khoét vừa cái bụng của Cobulov rít lên cọt kẹt. Cuối cùng Cobulov lên tiếng hỏi:
- Các cuộc bãi công ở chỗ anh là quái gì thế hả, Bestrastnov?
- Thưa không phải ở chỗ tôi mà là ở Tiệp Khắc đấy ạ.
Phó chủ tịch KGB đỏ bừng mặt, răng nhe ra: - Anh quên là đang đứng trước mặt ai sao? Ta thì lột ngay chiếc huy hiệu kia của anh – ông ta trỏ ngón tay vào chiếc huy hiệu đại biểu Xô Viết của Bestrastnov – lúc ấy đang là đại biểu Xô Viết Tối cao Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết Nga – và tống anh xuống hầmgiamngay trong Lubianca này…
Bestrastnov rời phòng làm việc của Cobulov và lại thấy văn phòng nối tiếp văn phòng, như những trạm gác và một hành lang. Nó dẫn đi đâu nhỉ? Tới chỗ Beria chăng? Hay xuống tầng hầmgiam, nơi không người nào đã rơi vào mà thoát ra được?
Bestrastnov thoát nạn một cách kì diệu. Sau khi bàn giao công việc ở Praha, ông được lệnh bay ngay về Moscow. Ông biết mình sẽ bị bắt ngay chân cầu thang máy bay. Bestrastnov chống lệnh, trở về bằng tàu hoả. Trong đêm ông về tới Moscow, Beria bị bắt, phe cánh của ông ta tan tác, còn bản thân Cobulov bị giamvào tầng hầmngầmdưới Lubianca.
Bestrastnov đang đi theo lối hành lang quen thuộc. Và đây là cánh cửa căn phòng nơi trước đây Cobulov từng ngồi, nhưng giờ này ở đó là người khác – một người trẻ tuổi, có thể nói là rất trẻ.
- Anh Alecxei Dmitrievich! – Có ai đó gọi ông.
Bestrastnov quay lại: Volodia Criutrcov, chánh văn phòng của chủ tịch KGB. Ông đến gần và họ chào hỏi nhau. - Sao lại đứng rụt rè như kẻ khó vào nhà quan vậy?
- Nhớ lại thời trẻ thôi mà…Anh biết ai ngồi trong đó không?
- Tôi có nghe nói!
- Còn tôi đã gặp…Lạy Chúa, đừng trao chỗ này cho người khác.
- Thế mà anh nói: Tuổi trẻ…, – Criutrcov thở dài và khoác tay ông – Thời trẻ tôi chỉ thấy Bestrastnov ngồi trên Chủ tịch đoàn thôi.
- Thôi đi cậu – Bestrastnov vội gạt đi.
- Không, nghiêm chỉnh đấy. Tớ là gì, chỉ là một công tố viên quèn cấp huyện, còn cậu đã là thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh. Mà đâu phải bỡn. Tỉnh Stalingrad hẳn hoi. Còn nhớ, mình lúc đó giở tờ Pradva ra: Ôi trời, Stalin trúng cử đại biểu Xô Viết Tối cao Liên bang Nga tỉnh Leningrad, còn Bestrastnov ở Stalingrad…
…Mấy nămsau, Bestrastnov đã là một ông tướng về hưu, gọi điện cho chủ tịch KGB Criutrcov:
- Volodia, cậu lúc nào cũng chì chiết là chỉ thấy mình ngồi trên Chủ tịch đoàn, còn nhớ không?
Criutrcov cười thành tiếng trong ống nói:
- Nhớ chứ…
- Bây giờ mình cũng thấy cậu ngồi ở Chủ tịch đoàn đấy thôi. Cậu đố kị hơi thừa đấy…
…Chia tay với Criutrcov, đúng giờ hẹn Bestrastnov có mặt tại phòng khách của Andropov:
- Đồng chí Andropov đang đợi – người trợ lý thông báo.
Bestrastnov bước vào. Andropov ngước mắt lên trên cặp kính, từ sau bàn đứng dây. Cử động có vẻ nặng nhọc nhưng ông cố không biểu hiện ra bên ngoài. Bestrastnov biết Andropov bị đau thận. Nói chung trong uỷ ban chuyện này không giấu được ai. Andropov không than phiền nhưng cũng không giấu bệnh tật của mình. Cái bắt tay của ông mạnh mẽ, ánh mắt nhìn chămchú thoáng chút hài hước. Sau khi Andropov mất, người ta viết về ông rất nhiều. Ban đầu họ ca ngợi trí tuệ, khả năng làm việc, sự thông thái của ông, thậm chí còn dựng phim về ông, nhưng sau đó lại thi nhau bôi nhọ, gán cho ông đủ thứ tội lỗi. Bestrastnov đã đọc, đã xem tất cả và không thấy ngạc nhiên. Điều này là một nét truyền thống ở nước Nga: Bọn nịnh bợ thường có thói ưa giày xéo nấm mồ của người hôm qua còn là ông chủ của chúng. Không có ai trong số những người làmphimvà viết về Andropov quen biết riêng và hiểu rõ Andropov là ai, là người thế nào? Còn riêng Bestrastnov, ông có biết không? Ông có biết. Ông biết Andropov từ khi còn là chàng trai Alioska Bestrastnov nhìn thấy trên lễ đài đại hội Đoàn Thanh niên cộng sản Moscow bí thư tỉnh đoàn Iaroxlav – Iura Andropov. Số phận sau đó đã bao lần đưa họ đến gần nhau rồi lại chia xa. Và lúc này họ lại ở bên nhau. Chính vì vậy Bestrastnov biết rất rõ có nhiều điều người ta viết về Andropov chỉ là những chuyện vớ vẩn bịa đặt.
- Chào anh Alecxei – chủ tịch KGB gật đầu chỉ ghế bành cạnh chiếc bàn nhỏ để sách báo – mời ngồi. Chúng ta uống gì chứ nhỉ? - Nếu được quyền chọn – Bestrastnov nhếch mép – xin cho một li cô nhắc, thưa đồng chí Iuri Valadimirovich.
Đôi mắt Andropov sau cặp kính sáng lên hóm hỉnh. Có thể cấm người khác nhưng với Bestrastnov thì không. Bestrastnov là người được cả cơ quan yêu mến, một người vui nhộn, đầu trò không thể thiếu trong các buổi liên hoan. Chẳng hạn như trong buổi lễ mừng thọ Xemen Kuzmich Svigun, người phó thứ nhất của Andropov. Ban đầu không khí buồn bã đến chết người. Mọi người ngồi sau bàn thẳng đơ rất nghiêm chỉnh cứ như trong buổi họp giao ban của KGB hay trong buổi lễ viếng tang. Thế mà Bestrastnov xoay chuyển được. Ông đã khuấy động ngay cả người được mừng thọ; ông này sau một li rượu đã bắt đầu gà gật… Andropov ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh:
- Quyền thì có đấy – Alecxei ạ, nhưng chọn thì không. Hoặc là trà không hoặc là trà vớisữa.
- Có thế thôi à? – Bestrastnov ngạc nhiên. Andropov giơ tay, người ta dọn trà đặc. Nhưng đã đến lúc bắt tay vào công việc và Andropov lại trở lại là đồng chí Andropov, chủ tịch KGB, Ủy viên Bộ Chính trị và Bestrastnov là cấp dưới của ông, cục trưởng Cục VII. Chủ tịch KGB nói:
- Chuyện là thế này, Alecxei Ditrievich, nhiệmvụ trước mắt của chúng ta không dễ dàng…Cần xây dựng một đơn vị mới…
“Mới thì mới chứ sao!” – Bestrastnov nghĩ thầm. Thời gian này KGB đã lập mới không ít đơn vị, cả tạm, cả lâu dài để thực hiện những nhiệmvụ riêng biệt nào đó. Có gì lạ đâu! Andropov ngừng lời giây lát, đưa mắt nhìn Bestrastnov vẻ dò hỏi. Bestrastnov chờ đợi.
- Một đơn vị đặc biệt. Một đội “commando” (Commando: Đội biệt kích) kiểu Xô Viết. Anh thử đoán xemđể làmgì! - Nhiệmvụ có thể đủ loại…
- Tạm thời chỉ có một nhiệm vụ: Chống khủng bố. Nhìn về toàn cảnh dường như có một vòng xoáy mới bắt đầu: Cướp máy bay, giết con tin, tấn công cướp bóc. Thử nhớ lại vụ Munich, lần Thế Vận hội Olympic ấy, anh cũng biết rõ chuyện này không kém gì tôi. Hãy xem nhóm“Tháng Chín Đen” đã gây ra cái gì: Một vụ thảmsát thật sự. Còn cái cơ quan cảnh sát nức tiếng ở đó lại chẳng làmđược việc gì cả. Chúng ta đâu có phải là đang sống trên hành tinh khác? Chúng ta đã làmgì để chống lại bọn kẻ cướp ấy?
Bestrastnov muốn trả lời nhưng Andropov gạt đi:
- Tôi biết anh định nói gì rồi. Khi có vụ “nóng” xảy ra chúng ta liền triệu tập các chiến sĩ – cán bộ tác chiến giỏi nhất. Chúng ta có các vận động viên và các xạ thủ. Có đấy nhưng liệu họ có biết cách tiếp cận một chiếc máy bay và lọt vào trong không? Để giải cứu được con tin, tiêu diệt bọn khủng bố, còn bản thân mình vẫn sống không? Thế nào?
Bestrastnov im lặng. Chủ tịch Ủy ban đã nói rõ chuyện. Bản thân Bestrastnov cũng đã nghĩ đến việc này. Mà đâu chỉ có chuyện máy bay, nếu bọn khủng bố chiếm một toà nhà thì tấn công bọn chúng ra sao đây? Và tàu thuỷ, tàu hoả? Lạy Chúa vì những điều đó vẫn chưa xảy ra. Nhưng lấy gì đảmbảo rằng chúng ta sẽ tiếp tục sống yên bình được mãi.
- Tôi hỏi lại anh một lần nữa, chúng ta đã có gì để chống lại bọn chúng? – Andropov nhìn xoáy vào mặt Bestrastnov, rồi không đợi mà tự trả lời – Chưa có, Alecxei thân mến của tôi ạ, chưa có gì cả. Thế đấy, anh biết không, chưa có gì ngay cả ở mức nghiệp dư, bán chuyên nghiệp. Mà chúng ta thì cần một đội ngũ chuyên nghiệp cao cấp. Tôi muốn nói cao cấp nhất…
Ông đứng dậy lấy ở trên bàn làmviệc một cuốn tạp chí rõ ràng đã được để từ trước.
- Anh xemđi, đây là các cán bộ ở Tổng cục I mang sang theo đề nghị của tôi.
Trên trang tạp chí mở sẵn Bestrastnov nhìn thấy tấm ảnh lớn: Những chàng trai cao to lực lưỡng như vệ sĩ mặc quân phục ngụy trang loang lổ. Họ ngồi trên đầu thùng một chiếc Mercedes đen, chân vắt chữ ngũ. Những nắmtay to đặt trên đầu gối. Họ mỉmcười đầy tự tin.
- Thế nào, Alecxei Dmitrievich, liệu có phải là thủ đoạn tuyên truyền của bọn tư sản không? – Andropov cười. Bestrastnov lắc đầu – Phải đấy! Đây là đơn vị tinh nhuệ GSG-9 của Tây Đức. Họ chuyên giải quyết những vụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như giết người,
bắt cóc con tin, ăn cướp, trấn lột. Tómlại là một đội “commando” được huấn luyện tốt.
Andropov tháo kính, đưa cuốn tạp chí sát mặt, căng mắt nhìn thân hình những người lính GSG-9. Sau đó ông đóng mạnh cuốn tạp chí lại némlên bàn.
- Còn chúng ta thìsao? Kém hơn à? Không kiếm được những chàng trai thực thụ à? Kiếm được. Nói tóm lại là như vậy, Alecxei ạ, Tổng cục I sẽ giúp. Họ sẽ cho anh một số tài liệu nước ngoài. Đọc đi, suy nghĩ đi. Trước mắt chúng ta sẽ thành lập một nhóm, phát triển các đội “commandos” của mình.
Bestrastnov bắt tay vào thực hiện mệnh lệnh của chủ tịch KGB. Ông tìm được một ít tài liệu. Thực ra, cả ở Tổng cục I những tài liệu như thế này không có nhiều. Ông đọc và thầm tính toán. Đặc biệt là đừng nôn nóng, công việc mới mẻ, kinh nghiệm thực tế lại chẳng có gì. Bestrastnov có cảmgiác cấp trên sẽ không bổ sung biên chế cho các “commandos”, tiền nong cũng vậy. Nói chung, công việc rất đau đầu. Nhưng Andropov đã sớm hỏi thăm đến nhiệm vụ mà ông giao phó. Cục trưởng Cục VII chẳng có gì để báo cáo ngoài những câu chung chung: “Chúng tôi vẫn đang nghiên cứu”, “đang tiến hành”. Cặp kính của chủ tịch uỷ ban loé lên vẻ hoàn toàn khác lạ.
…Ngày hômsau thiếu tá Robert Petrovich Ivon được bổ nhiệmtạmthời làmtrưởng nhóm.
- Hãy lấy chỉ huy đội trong đám biên phòng, Andropov khuyên – Thử chọn Bubenin ở đảo Daman xem. Một anh hùng, một chàng trai dạn dày, dũng cảmđấy…
Bestrastnov gọi điện thoại nhắc lại câu chuyện với Andropov cho tướng Matroxov, Tư lệnh bộ đội biên phòng. Ông ta đồng ý: - Được, nếu lấy anh ta làmchỉ huy thì chúng tôisẽ đồng ý.
Bubenin bay về. Người ta giải thích cho anh về đội đặc nhiệm, về nhiệmvụ, mục tiêu của nó. Người ta cũng kiểmtra chàng sĩ quan biên phòng. Một sĩ quan chiến đấu thực sự, đã được tặng ngôi sao Anh hùng – thời đó là của hiếm. Cả Liên Xô biết tên, mà đâu chỉ Liên Xô, thực ra là cả thế giới. Ảnh các anh hùng biên phòng trên đảo Daman đã xuất hiện trên rất nhiều báo và tạp chí của hành tinh. Bản thân Bubenin lúc đầu còn ngần ngại, sau cũng đồng ý. Một quân nhân thực thụ có nghĩa là phải chấp hành mệnh lệnh. Thực ra mấy năm sau anh cũng viết báo cáo xin trở lại biên giới. Làm thế nào được, đây cũng như trong tình yêu vậy, không thể ép duyên. Vào đội đặc nhiệm không thể là chuyện cưỡng ép. Độisẽ như hòn namchâmtự hút mọi người đến với mình. Có rất nhiều thanh niên muốn được chiến đấu.
Cuối cùng, biên chế của đội đã được duyệt, việc tuyển chọn bắt đầu. Bestrastnov báo cáo điều đó cho chủ tịch KGB. Andropov rất hài lòng. Ông tin tưởng đội đặc nhiệm ra đời sẽ bảo vệ nhân dân trước bệnh dịch hạch đáng sợ của thế kỷ XX là chủ nghĩa khủng bố. Ngày hômđó, sau khi báo cáo với Andropov, chuẩn bị ra về Bestrastnov đặt vấn đề: Đặt tên gì cho đội vậy?
- Tên à? – Andropov hỏi lại – Gọi gì không quan trọng. Quan trọng ở chỗ nó sẽ hoạt động như thế nào, cái đội đặc nhiệmcủa chúng ta ấy. Cứ đặt tên cho nó là đội “A”.
Thế là cái tên đó đã đi vào lịch sử KGB – đội đặc nhiệm siêu mật chống khủng bố “A”. Sau vụ chính biến tháng 8-1991, báo chí gọi nó là “Alfa”.
Trích hồ sơ “ALFA”
Chủ nghĩa khủng bố là một trong những tội ác ghê tởm đáng kinh sợ nhất chống lại toàn nhân loại. Brutus (Mark Juni, 85-42 trước CN, nhà độc tài trị vì đế chế La Mã thời cổ đại) ám sát Ceasar (102 hoặc 100-44 trước CN) – giết một kẻ độc tài. Ông ta có phải là một tên khủng bố không? Chắc chắn là như vậy. Nhưng kẻ giết người biết rằng hệ thống những giá trị tồn tại trong khuôn khổ cơ cấu chính trị của đế quốc La Mã sẽ biện minh cho ông ta. Vâng, chủ nghĩa khủng bố như một hiện tượng của đời sống con người đã được biết đến từ lâu. Ngay từ thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, ở xứ Judea đã tồn tại hoạt động băng nhóm bí mật mang tên “Xikari” (Xika: Nghĩa là dao găm hay đoản kiếm) chuyên giết những đại biểu quý tộc Do Thái hợp tác với người La Mã. Còn Thomas Aquinas (1224-1274: Nhà thần học và triết học kinh viện) và các linh mục Thiên Chúa giáo rao giảng ý tưởng phải giết những kẻ cầm quyền bị họ coi là thù địch với nhân dân. Thời Trung cổ, đại diện các giáo phái Hồi giáo trong cộng đồng dân cư Athena sát hại các tổng trấn và lãnh chúa. Đó cũng là thời kì nạn khủng bố chính trị hoành hành bởi những băng đảng bí mật ở Ấn Độ và Trung Quốc.
Năm 1848 nhà tư tưởng cấp tiến người Đức Charles Heinsen chứng minh rằng lệnh cấm giết người không thể đem ra áp dụng trong các cuộc tranh giành chính trị và việc sát hại hàng trăm, hàng nghìn người có thể được biện minh nếu xuất phát từ “lợi ích tối cao” của nhân loại. Heinsen về mặt nào đó có thể coi là người đặt nên móng cho học thuyết chủ nghĩa khủng bố hiện đại. Trong các tác phẩm của ông ta có thể tìm thấy không ít tư tưởng đồng điệu với những quan điểm ý thức hệ của chủ nghĩa khủng bố hiện đại. Ông ta cho rằng để chống lạisức mạnh và kỷ luật của một đội quân phản động cần phả sử dụng thứ vũ khí mà với nó một nhómngười nhỏ có thể gieo rắc sự hỗn loạn tột độ. Heinsen đặt hi vọng vào hơi độc, tên lửa và nhấn mạnh đến việc tìmkiếmnhững phương tiện giết người mới. Đó chính là thứ “triết học quả bom” xuất hiện vào thế kỷ XIX, mặc dù cội rễ của nó xuất phát từ sự biện minh cho hoạt động ám sát những kẻ độc tài trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Học thuyết “triết học quả bom” tiếp tục được phát triển và mở rộng hơn trong “lí thuyết phá hoại” của Bacunin (Bacunin M.A. (1814-1876): Nhà cách mạng Nga, lí thuyết gia của chủ nghĩa vô chính phủ, nhà tư tưởng của phái dân tuý cách mạng). Trong tác phẩm của mình ông này khăng khăng ý tưởng thừa nhận chỉ một hành động – sự phá hoại, và đề nghị sử dụng chất độc, dao găm và dây thừng như những phương tiện đấu tranh. Các nhà cách mạng, theo Bacunin, cần như câm điếc trước tiếng rên rỉ của người bị giết hại, không chấp nhận bất cứ sự thoả hiệp nào. Ông ta nói mảnh đất Nga cần được rửa sạch bằng kiếm và lửa. Giáo điều “tuyên truyền bằng hành động” được những kẻ vô chính phủ giương lên những năm 70 của thế kỷ XIX. Bản chất của nó là không phải lời nói mà chỉ những hành động khủng bố mới có thể thức tỉnh quần chúng gây áp lực với chính phủ. Ý tưởng này sau đó cũng được Cropotkin (Cropotkin P.A (1842-1921): Nhà cách mạng Nga, lí thuyết gia của chủ nghĩa vô chính phủ, nhà tư tưởng của phái dần tuý cách mạng) nêu ra khi khẳng định tư tưởng vô chính phủ là “sự kích động liên tục bằng lời lẽ hay văn bản, bằng dao, súng và thuốc nổ”.
Cuối thế kỷ XIX, vai trò đặc biệt trong việc tuyên truyền cho chủ nghĩa khủng bố ở châu Âu và Mỹ thuộc về Johann Most, người cổ suý cho việc sử dụng “các phương tiện dã man chống chế độ dã man”. Chủ nghĩa khủng bố trở thành hiện tượng thường ngày trong đời sống xã hội từ cuối thế kỷ XIX. Đại diện cho khuynh hướng này là các phần tử dân tuý ở Nga, quốc gia cấp tiến ở Ireland, Macedonia, Serbia, vô chính phủ ở Pháp của thập kỷ 90, và các phong trào tương tự ở Italia, Tây Ban Nha và Mỹ. Trước đại chiến thế giới I, chủ nghĩa khủng bố được coi là công cụ của phe cánh tả. Nhưng sử dụng nó thực chất chỉ có những cá nhân không có cơ sở chính trị cũng như các phần tử quốc gia không thuộc phe cánh tả mang định hướng xã hội chủ nghĩa mà thôi. Chiến tranh kết thúc, phe cánh hữu, bọn quốc xã li
khai và phát xít Italia, Đức, Pháp, hung, “Đội cận vệ sắt” ở Rumani lại vũ trang bằng chủ nghĩa khủng bố. Những vụ khủng bố lớn nhất thời kì đó là vụ giết hại Kerl Liebknecht và Rosa Luxemburg (các lãnh tụ đảng Cộng sản Đức và Quốc tế cộng sản) năm 1919, vụ ám sát vua Nam Tư Alecxander và thủ tướng Barth của Pháp năm 1934. Nền tảng của các phong trào đó là những hệ tư tưởng khác nhau, nhưng thực tế thì những phe nhóm đó, dù thế này hay thế khác, đều tuân theo các luận điểm của học thuyết “triết học quả bom” hay “tuyên truyền bằng hành động”.
Bước vào thế kỷ XX bản chất của chủ nghĩa khủng bố không thay đổi. Hơn nữa chủ nghĩa khủng bố lúc này bao quát cả mộ phổ rộng các hiện tượng vô cùng đa dạng: Từ ám sát chính trị đến thảm sát hàng loạt dân lành trong các cuộc nội chiến. Nếu đối với các nhà dân tuý Nga, các chiến sĩ của phong trào “Một tháng Ba”, các đảng viên xã hội cánh tả Nga, việc thực hiện các hành động khủng bố được coi là hành động tự nguyện hisinh, tự sát vì lợi ích của xã hội thì đối với các phần tử của “Lữ đoàn đỏ” lại là hành vi tự khẳng định. Hiện nay chủ nghĩa khủng bố dù “đỏ” hay “đen”, phát xít hay phát xít mới đều không khác nhau là mấy và có rất ít điểm chung với các hành động khủng bố do những người dân tuý Nga thực hiện. Đó là vì chủ nghĩa khủng bố hiện nay chỉ có một mục tiêu dẫn dắt là cướp chính quyền. Không hề có chút gì là vì “lợi ích xã hội”.
Trong thế kỷ XX chủ nghĩa khủng bố được nâng lên cấp độ nhà nước. Điều này trước đây nhân loại chưa từng chứng kiến. Nhà nước khủng bố “đàn áp” công dân của mình bằng sự vô pháp luật trong nước, khiến họ luôn cảm thấy yếu ớt và bất lực. Nhà nước đó cũng không thay đổi hành vi cư xử cả ở ngoài biên giới của nó và trong cộng đồng quốc tế. Nước Đức phát xít đã chà đạp Ba lan ngay trước mắt mọi người. Đó là bài học cho cả châu Âu và thế giới. Mỉa mai thay nhiều quốc gia đã vội vã biểu lộ lòng trung thành của mình đối với “nhà nước láng giềng – kẻ cướp” ấy! Làmthế nào được, nếu tên kẻ cướp quá mạnh?
Ngày nay truyền thống kẻ cướp ấy đã phát huy sức mạnh ở nhiều khu vực Liên Xô cũ. Khuynh hướng dùng vũ lực đoạt cho mình, dù là với mục đích cao quý đến mấy, cũng sẽ khiến nẩy những chồi độc trên cái cây chủ nghĩa khủng bố nhà nước. Và điều đáng sợ nhất là những chồi độc đó đang lớn nhanh Armenia, Azerbaizan, Oxetia, Moldova đã bị kéo vào cuộc chiến. Thỉnh thoảng đâu đó lại vang lên những lời chỉ trích và đe dọa lẫn nhau ở cấp độ chính phủ và nhà nước. Chủ nghĩa khủng bố mang nhiều bộ mặt. Liên bang Xô Viết – “cường quốc hạt nhân” lớn nhất thế giới sụp đổ khiến vấn đề càng trở nên nóng bỏng hơn bởi sự thất thoát vũ khí hạt nhân. Điều này đồng nghĩa với khả năng tiềmtàng của khủng bố hạt nhân. Cần phải nói thêmlà bọn khủng bố hiện nay không chỉ là những kẻ nghiệp dư némbomtự tạo vào đámđông, mà là bọn được huấn luyện tốt, trình độ chuyên nghiệp rất cao.
Gần đây, trong các vụ khủng bố, những ứng dụng khoa học và kỹ thuật quân sự mới nhất như máy bay phản lực, liên lạc vệ tinh, tên lửa có đầu dẫn hồng ngoại đã được sử dụng. Sau đó sẽ là gì nữa đây? Vũ khí hạt nhân, sinh học, hoá học chăng? Hãy cứ để cho ai đó mỉmcười giễu cợt cho rằng đó chỉ là sự lo sợ hão huyền? Ngay từ thời tự xưng là các chiến sĩ xung kích của Baarder Meinhoff, bọn khủng bố đã nuôi mộng hoặc ăn cắp hoặc là chế tạo bom nguyên tử. Ở Mỹ, qua tìm hiểu tài liệu của một đơn vị đặc nhiệm chống khủng bố hạt nhân, từ mấy nămtrước đây người ta đã nhận thấy với mấy chuyên gia amhiểu công việc thì một nhómkhu vực hoàn toàn có thể chế tạo được một cơ cấu hạt nhân đơn giản (mặc dù công việc có thể gặp không ít khó khăn).
Tiện thể cũng phải nói là năm 1975 thành phố New York đã trải qua những giây phút kinh hoàng trước mối đe doạ hạt nhân khi chính quyền thành phố nhận được lời cảnh báo nặc danh viết: “Chúng tôi đã thiết kế và chế tạo được một quả bom nguyên tử. Hiện nó được
đặt tại một địa điểm bí mật ở trên đảo Manhattan. Bom sẽ nổ lúc 6 giờ chiều nế yêu cầu sau không được thực hiện: Nộp 30 triệu đôla tiền mặt, mệnh giá nhỏ, tiền không bị đánh dấu và thuộc các seri khác nhau”. Mảnh giấy đó có thể được coi là trò đùa nếu không kèm theo một bản vẽ mà người vẽ rõ ràng là nắmrất vững vật lý hạt nhân. Ơn trời là không có ai đến lấy bọc tiền giả đặt ở điểmhẹn quy định.
Nhưng câu chuyện trên khiến người ta thấy hết sức lo lắng. Tại Mỹ đã có hơn tám mươi lần xuất hiện những lời đe doạ sử dụng vũ khí hạt nhân, mặc dù đa số trường hợp chỉ là báo động giả. Vài năm trước đây tờ Washington Post cùng hãng truyền hình ABC tiến hành một cuộc điều tra xã hội nhằmxác định điều nào dưới đây được dư luận đánh giá là hiểmhoạ lớn đối với nước Mỹ: Sức mạnh quân sự của Liên Xô hay chủ nghĩa khủng bố được Liban, Iraq, Iran hậu thuẫn? Chỉ có 15% người Mỹ cho rằng đó là sức mạnh quân sự của Liên Xô, 82% người cho rằng chủ nghĩa khủng bố mới là mối đe doạ chính đối với an ninh của đất nước.
Nói về hoạ khủng bố hạt nhân, chúng ta không thể không nhớ đến các mục tiêu xa của nhà độc tài Uganda Idi Amin. Ông ta chỉ đạo triển khai một âm mưu hạt nhân bí mật mang tên “Chiến dịch Poker” với dự kiến chế tạo những quả bom hạt nhân cỡ nhỏ có thể đặt gọn trong chiếc vali bình thường để qua tay nhân viên ngoại giao – sát thủ có thể chuyển tới các đại sứ quán Uganda trên khắp thế giới. Tất nhiên để chế tạo được những quả bom nguyên tử mini ấy cần phải có những chuyên gia cực kì am hiểu khoa học và kỹ thuật. Điều này nằm ngoài khả năng của chính quyền Amin. Người ta chỉ biết rằng nhà độc tài đã cố gắng tìm kiếm họ. Chuyện đó xảy ra cách đây chưa lâu vào năm 1979. Sau khi chế độ Amin sụp đổ các tài liệu bị phát hiện ở Uganda được công bố đã khiến cả thế giới biết đến những kế hoạch tội ác của kẻ điên cuồng ấy.
Đương nhiên, khủng bố hạt nhân không phải là phát kiến duy nhất của thế kỷ XX. Các nhà bác học đã cảnh báo về sự xuất hiện trong thời gian tới những vụ khủng bố sinh thái. Các phong trào “xanh” đủ loại đang trên bờ tuyệt vọng; điều đó có thể đẩy họ tới hành động khủng bố vì họ không có các phương tiện hữu hiệu được thể chế nhà nước chấp nhận để gây tác động với chính phủ và nghị viện và không có cách nào khác để buộc chính phủ chú ý và cân nhắc đến vai trò của họ. Khó nói trước được khủng bố “xanh” sẽ mang hình thức nào, sẽ vũ trang bằng phương tiện nào, nhưng sự xuất hiện của nó trong cuộc sống thực tại của chúng ta là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Nếu những tên tội phạm hạt nhân luôn mơ có một trái bom và đe dọa bằng thứ vũ khí tưởng tượng, còn nạn khủng bố “xanh” mới hiện diện trong dự đoán của các chuyên gia thì đám không tặc đã hoạt động từ lâu. Cách thức của chúng ngày càng tinh vi, có tính toán và thành thạo hơn. Theo dự báo của các chuyên gia trong Tổ chức An toàn Hàng không thế giới, sắp tới nạn khủng bố không tặc sẽ trở thành một tai họa thực sự. Một số chuyên gia có cái nhìn bi quan nhất (hay có thể là tỉnh táo nhất?) cho rằng, sắp tới ngành vận tải hành khách hàng không sẽ trải qua một thời kì vô cùng khó khăn. Hàng không quốc gia Nga sẽ không phải là ngoại lệ Hàng chục vụ cướp máy bay chính là lời khẳng định hùng hồn nhất. Những vụ tấn công máy bay dân dụng cũng như các phương tiện vận tải khác để chiếm đoạt chúng, đưa ra nước ngoài hoặc phá hủy đã trở thành những hình thức phổ biến và nguy hiểm nhất của chủ nghĩa khủng bố ở thời điểm này.
Cuối cùng lệnh thành lập đội đặc nhiệm đã được kí duyệt. Ban chỉ huy được chỉ định. Công việc chủ yếu cần làm trước mắt là tuyển người. Bestrastnov và ban chỉ huy đội hiểu rằng: Các phương pháp tuyển chọn người truyền thống vẫn được áp dụng ở KGB không thích hợp cho việc này. Đội là đơn vị đặc biệt độc nhất nên cách tuyển người cũng phải khác biệt và độc đáo. Nói thì dễ, nhưng cụ thể thì
chàng thiếu tá Bubenin, nguyên đồn trưởng một đồn biên phòng và chàng phó chỉ huy đội Von có thể đề xuất được điều gì cụ thể đây? Thực tế là cả hai người chưa bao giờ làm một công việc nào tương tự như vậy. Kinh nghiệm ở đây chỉ là số không. Mà cũng chẳng biết học hỏi ở đâu. Thiếu tá Bubenin không thể có được điều kiện giống như Becvit – người tổ chức và chỉ huy đội đặc nhiệm “Delta” của Mỹ; ông này được cử sang thực tập ở một đơn vị trong lực lượng đặc nhiệm SAS của Anh học hỏi những kinh nghiệm tốt nhất để áp dụng tại đất nước mình. Thiếu tá Bubenin thì thậmchí không thể ra khỏi Moxcva. Andropov tuy cho phép chọn người trong biên chế của toàn bộ ủy ban an ninh, nhưng một trong những điều kiện bắt buộc đối với chiến sĩ tương lai của đội đặc nhiệm là hộ khẩu Moxcva. Đại tá Charles Becvit đã viết về việc chọn lựa người gia nhập đội “Delta” như sau: “Để tìm được những người đáp ứng đủ tiêu chuẩn, các sĩ quan chúng tôi đã đi gần khắp mọi miền đất nước. Họ đã đến Benning và Hude, Leonardwood và Carson, Bellvaar, Stuard và Teevens. Họ không bỏ qua ngay một đồn binh nhỏ nhất. Hai lần chúng tôi đã đến tập đoàn quân đóng ở châu Âu. Một công việc nặng nhọc khủng khiếp vì chúng tôi phải đi tìm những người đáng tin cậy nhất”. Chúng tôi cũng đi tìm những người đáng tin cậy nhất cho đội đặc nhiệm “A”. Việc chọn lựa tuy vậy vẫn tiến hành trong một phạm vi khá rộng. Dù có một số quy định hạn chế, tiểu ban tuyển người vẫn có khả năng chọn cho mình những cá nhân ưu tú nhất trong số hàng ngàn nhân viên KGB. Chúng tôi cũng không quên nhắc lại rằng đội đặc nhiệmđược thành lập vào năm1974. Cho đến lúc này, Andropov đã đảmnhiệmcương vị của mình támnăm. Với thời gian đó ông kịp biến KGB từ một cơ quan bị thất sủng thời Khrutsov thành một tổ chức hùng mạnh, quyền thế. Một thực tế không thể bác bỏ là các sĩ quan an ninh có vị trí đặc biệt trong thể chế nhà nước: Họ hưởng lương cao hơn nhiều, có nhiều ưu đãi, những thứ mà ít ai dám mơ, kể cả đối với cán bộ các Viện Công tố, nhân viên Bộ Nội vụ và thậm chí so với quân nhân là những người thuộc một thiết chế lớn và có nhiều ảnh hưởng.
Dù giờ đây người ta có nói gì đi nữa về KGB trong những năm 70, thì được phục vụ ở đó vẫn cứ là rất có thể diện. Người ta cố gắng che giấu chức năng đàn áp của nó và thanh niên thường được hứa hẹn một công việc lãng mạn và thú vị. Vì vậy công bằng cần phải nói khiếm khuyết, nhược điểm ở những người mong muốn trở thành nhân viên ủy ban an ninh quốc gia là không được phép có. Và tập hợp vào đây không thể là những kẻ tồi tệ. Hiện nay có một dư luận rất phổ biến được sự tán đồng và thổi phồng của một số các phương tiện thông tin đại chúng cho rằng hình như KGB bổ sung vào đội ngũ của mình cả những kẻ xấu xa, bị ép buộc làm cho ủy ban vì sợ hãi, những tên du côn chỉ giỏi đánh đấm đủ loại. Một ý kiến ngây ngô nếu xét theo quan điểm nghề nghiệp. Dân đánh đấm cần ở những nơi nào mà cần có họ, nghĩa là ở ngoài cơ quan này. Còn trong biên chế chỉ có những cán bộ có trình độ, có giáo dục, với các đầu biết nghĩ và không thể là kẻ ngu đần. Và nếu như vào thời đó các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, các trường đại học đã giới thiệu những nhân viên ưu tú nhất của mình cho lực lượng công an thì đối với KGB còn hơn thế. Người vào đây phải là có khả năng tuyệt vời. Còn sau đó có thể năng lực và trí tuệ của những chuyên gia đó được dùng đôi khi cho những công việc không thật là đẹp lắm thì lại là chuyện khác. Còn trong trường hợp này, với đội đặc nhiệm“A”, năng lực và trí tuệ của họ được sử dụng để đấu tranh với nạn khủng bố.
Bubenin khác với Charles Becvit, không có khả năng tiến hành phân tích dữ liệu máy tính của những ứng cử viên được đề cử, và anh buộc phải dựa vào kinh nghiệm của các cán bộ tổ chức trong ủy ban, và nghe thì hơi lạ, vào sự quen biết. Nhiều người được chọn vào đội đặc nhiệm nhờ sự tiến cử của thủ trưởng đơn vị – những người đã có thâm niên phục vụ lâu năm ở Cục VII và hiểu tương đối rõ năng lực phẩm chất những nhân viên trong cục của mình. Bất kì ai muốn “nâng đỡ người thân”, như một nhân vật văn học thường nói, đều hiểu rằng anh ta sẽ phải kề vai sát cánh cùng “người thân” đó dưới làn đạn của bọn khủng bố. Ai chẳng quý sinh mạng của mình? Và
còn điều thứ hai là đội đặc nhiệm“A” chắc gì đã là “nơi ấmthân”. Những căng thẳng thể lực, công việc thường xuyên nặng nhọc và cuối con đường công danh, như Vưxoski thường hát, là “lưỡi rìu trên đoạn đầu đài”. Do vậy lối tuyển chọn “tiêu cực” ở đây là không thể có.
Khi thành lập đội đặc nhiệm “Delta”, có lần Charles Becvit viết thông báo: “Cần những người tình nguyện gia nhập “Delta”. Đảm bảo sẽ có huân chương, quan tài và hoặc cái này, hoặc cái kia”. Chúng tôi cũng đưa ra đề nghị tương tự như thế cho các chiến sĩ và chỉ huy đội đặc nhiệm “A”. Họ tất nhiên cũng cố để có những đặc quyền ưu đãi nào đó, nhưng chúng quá nhỏ nhoi, không thể coi là điều kiện hấp dẫn đối với kẻ hámthích quyền lợi vật chất. Gia nhập đội là những con người dũng cảm, sẵn sàng hisinh thân mình không vì tiền mà vì lí tưởng, vì muốn cứu người khác. Sau này, qua nămtháng, ý nghĩ về sự xả thân giải cứu con tin đã trở thành một trong những điều chủ yếu và biến thành một thực tế kinh khủng. Nhưng khi Becvit hứa sẽ đem lại quan tài cho những người tình nguyện gia nhập vào đội “Delta”, ông cũng biết rõ nếu điều bất hạnh xảy ra, gia đình người hi sinh sẽ được đảm bảo mọi mặt, còn nếu bị thương hoặc tàn phế, thương binh sẽ được nhận lương hưu đảmbảo cuộc sống xứng đáng.
Còn ở Nga? Chiến sĩ đội đặc nhiệm “A” sẽ ra sao nếu chấm dứt cuộc đời phục vụ là một kẻ thương tật? Có duy nhất một khả năng: Anh sẽ được cấp đồng lương hưu còmcõi chỉ đảmbảo cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống khốn khổ. Đội trong thực tế đã phải đối mặt với vấn đề đó năm 1979. Sau cuộc tấn công vào dinh của tổng thống Amin ở Afghanistan, một số chiến sĩ bị thương nặng. May mắn cục trưởng Cục VII Bestrastnov là người từng tham gia chiến đấu, có tấm lòng nhân hậu. Ông đã đứng ra bảo vệ, vận động cho các thương binh trước Andropov. Vì vậy những người đó được giữ lại trong biên chế cán bộ của KGB. Một số người nay vẫn đang còn phục vụ; vốn kinh nghiệmphong phú của họ còn cần thiết với nhiều người. Nhưng nếu một người khác ở vào cương vị của Bestrastnov lúc đó thì chắc chắn các thương binh này sẽ lâmvào hoàn cảnh như hàng trămcựu chiến binh đã từng chiến đấu ở Afghanistan như họ: Về hưu, chuyển sang ngạch dự bị, và sống với đồng lương hưu còm cõi. Chưa có một văn bản pháp luật nào được ban hành xem xét cho họ được tiếp tục ở lại vị trí công tác. Tình cảnh đối với gia đình các liệt sĩ còn tệ hơn. Ở Afghanistan đội đặc nhiệm “A” bị mất hai chiến sĩ. Ngay trong “thời bình” công việc của chiến sĩ đặc nhiệm Alfa thường xuyên gắn với mọi hiểm nguy và chúng tôi phải cay đắng thừa nhận sự tổn thất về con người là khả năng hoàn toàn có thể bởi viên đạn của kẻ khủng bố chẳng khác gì viên đạn của một tên lính đối phương trên chiến trường. Rất tiếc vấn đề nhạy cảm và phức tạp này không được xem xét ngay từ ngày đầu thành lập đơn vị đặc nhiệm để quy định quyền lợi của họ. Tuy vậy, nói thực ra, phán xét là điều không dễ nếu biết được đơn vị đặc nhiệmđã được thành lập trong hoàn cảnh như thế nào. Bàn luận khi chuyện đã xảy ra thì ai mà chả thông minh. Mikhail Mikhailovich Romanov thừa nhận với tôi rằng lúc đó họ đã thử xem xét, dự kiến quyền lợi cho chiến sĩ đơn vị đặc nhiệm, xin mức lương cao hơn bằng cách tính niên hạn phục vụ ưu tiên hơn – tăng gấp rưỡi so với thông thường. Để hiểu chuyện đó mất công như thế nào ta phải quay về thời kì đó. Với hoàn cảnh thời ấy không thể trông đợi hơn được. Các thành viên của đội cũng không mong hơn vì nghĩ như vậy đã đủ lắm rồi. Điều quan trọng là công việc sắp tới. Họ muốn một công việc hào hứng, một cuộc sống chiến đấu thực sự. Tiểu ban tuyển chọn chỉ nói với trung úy Anatoli Xavelev duy nhất một điều là công việc đề nghị với anh ở đội đặc nhiệm “A” sẽ thú vị hơn và nói thêm, tất nhiên sẽ nguy hiểm hơn. Nhưng điều đó chẳng nghĩa lí gì và Anatoli đồng ý ngay.
Các chiến sĩ gia nhập đơn vị đặc nhiệm là ai? Trước tiên đó là những vận động viên. Đơn vị được thành lập hoàn toàn từ nhân viên KGB được huấn luyện thể lực tốt, có trình độ nghiệp vụ cao. Tất nhiên toàn bộ sĩ quan và hạ sĩ quan đều có học vấn đại học hoặc trung cấp về chuyên môn. Charles Becvit viết trong hồi kí rằng ông thực sự bị “sốc” khi kiểm tra trình độ của các ứng cử viên đội “Delta”. Với
những câu hỏi dạng: “Anh nghĩ thế nào về sự bất đồng giữa tổng thống Truman và đại tướng Mac Arthur trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, ai đúng và vì sao?” ông thường nhận được cái im lặng nặng nề thay cho câu trả lời. Còn các chiến sĩ của chúng ta thì không cần phải kiểm tra. Về mặt lí thuyết họ đã được đào tạo cẩn thận. Ví dụ Valeri Emưsev gia nhập đơn vị sau khi đã tốt nghiệp trường Cao đẳng Nghiệp vụ KGB và có bằng luật. Anatoli Xavelev tốt nghiệp trường Trung cấp Kĩ thuật Hàng không và Đại học Sư phạm. Ban chỉ huy quan tâm hơn đến các bài kiểm tra thể lực. Do vậy thành phần đội đặc nhiệm “A” chủ yếu gồm các vận động viên cấp 1, kiện tướng thể thao, các nhà vô địch từ các Cục thuộc KGB Moxcva, thậm chí cả các nhà vô địch quốc gia. Chẳng hạn kiện tướng thể thao Gleb Tolxticov, nhân viên đội đặc nhiệm“A” từng đoạt ngôi vô địch quốc gia môn quyền Anh, thành viên đội tuyển thi đấu trong Thế Vận hội Olympic. Tuy việc rèn luyện thể lực, hoặc các môn chuyên biệt khác như tập bắn bằng mọi loại vũ khí, lái ôtô hoặc xe bọc thép có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng tiêu chuẩn hàng đầu để tuyển người vào đội đặc nhiệm lại là “cái đầu trên cổ”. Thuật ngữ nghe có vẻ đùa bỡn này là tiêu chuẩn quyết định. Điều đó khẳng định sự cần thiết của khả năng tư duy linh hoạt, quyết định nhanh, không sai lầm, và hành động chính xác để thực hiện chúng ở mỗi chiến sĩ đặc nhiệm. Dần dần đội cũng có những đảm bảo y tế và tâm lí, các kế hoạch của riêng mình với sự nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm của nước ngoài nhưng dù có sự chỉ đạo thế nào, dù các đội viên có được đào tạo thành các chuyên gia gì đi nữa, bước vào chiến dịch anh vẫn luôn một mình đối mặt với bọn tội phạm. Và thường là khi ấy cả người chỉ huy lẫn đồng đội dày dạn kinh nghiệmcũng khó giúp được gì.
Năm 1986, tại thành phố Upha, những tên tội phạm có vũ khí đã cướp một chiếc máy bay TU-134 với bảy mươi sáu hành khách trong khoang. Bọn khủng bố là hai quân nhân. Một vụ tương tự xảy ra cách đó không lâu ở Xarapul thuộc nước Cộng hòa Xô Viết Tự trị Udmurt. Khi đó người ta tương đối dễ dàng khống chế bọn tội phạm khoác áo lính. Nhưng cuộc đời vốn nhiều bất ngờ. Giờ đây chúng không đơn giản là những thanh niên mặc áo lính và không tình cờ đi cướp máy bay. Chúng là “chuyên gia” thực thụ, đã phục vụ trong nhóm chống khủng bố của một đơn vị công an, đã được huấn luyện đặc biệt, hiểu rõ cơ cấu máy bay, biết tường tận cửa vào, cửa ra, biết rõ từng khoang, kể cả khoang nhỏ nhất. Chúng dễ dàng khống chế trên thực tế mọi hướng đột nhập vào bên trong chiếc máy bay chở khách và có trong tay những vũ khí hỏa lực mạnh như súng máy và tiểu liên. Bọn chúng gần như bất khả xâm phạm. Tình huống đó là “ngoài giáo án” theo cách nói thông thường. Hãy nghĩ đi, đội đặc nhiệm “A”, hãy nghĩ đi. Nhân đây cũng cần nói rằng suốt thời gian hoạt động của đội thực tế chưa hề có tình huống nào nằm trong giáo án. Cuộc sống đảo lộn tất cả những kế hoạch soạn thảo tỉ mỉ nhất ngay từ phút đầu của chiến dịch. Năm 1990 ở Xukhumi, trong chiến dịch đoạt lại một phòng biệt giam bị bọn tội phạm chiếm giữ, chiếc xe bus minh hiệu RAF mà bọn khủng bố ẩn trên đó lẽ ra phải dừng lại ngay lập tức sau tiếng nổ. Toàn bộ chiến dịch được tính toán dựa theo trên “nước đi” đó, nhưng chiếc RAF lại trượt thêmquãng đường khoảng 25 m. Mà mỗi giây, mỗi mét xe chạy thêmcó thể phải trả giá bằng sinh mạng con người. Vậy đấy, hãy suy nghĩ đi, đội đặc nhiệm “A”, hãy nghĩ và hành động thật chính xác không được sai lầm. Nhưng than ôi, vẫn có những sai lầm. Ngày 8 tháng 3 năm 1988 tại Leningrad, người nhà Oveskin cướp chiếc máy bay TU-134 trên tuyến bay Irkut – Kurgan – Leningrad. Những tin báo ban đầu về mặt đất cho các chỉ huy KGB và Sở Công an ở địa phương có vẻ không đáng ngại. Một phụ nữ với lũ trẻ con, một thiếu niên ôm khẩu súng cưa nòng, một trái bom có vẻ là giả… Khi cuộc thương lượng bế tắc người ta quyết định tấn công. Bằng lực lượng nào? Tất nhiên là lực lượng sẵn có. Cần gì đến đội Alfa? Người ta tự thu xếp được. Hành động của nhómtấn công hết sức không chuyên nghiệp, thiếu suy xét và vụng về…Điều đó nhắc chúng ta nhớ đến thuật ngữ “Alfa”: “cái đầu trên cổ”. Sự kiện bi thảm ở Leningrad khẳng định tính thiết yếu của điều kiện này. Cuộc tấn công khiến một số người chết và bị thương, chiếc máy bay cháy rụi. Báo chí Leningrad sau đó đã sôi nổi phân tích mọi mặt của sự kiện, cố tìmra người có lỗi, và tìmkiếmcâu trả lời cho các vấn đề đang được tất cả quan tâm: Tại sao lại xảy ra vụ đó, đâu là nguyên nhân thảm họa? Còn tôi cho rằng, ở đây không nên bàn đến các sai lầm cụ thể của ban chỉ huy chiến dịch hoặc trình độ kém cỏi của nhóm tấn công. Nguyên nhân ở chỗ khách Ngày nay một người nghiệp dư, dù tài ba nhất đi nữa, không thể đối chọi với bọn khủng bố. Không thể giải quyết những vấn đề như thế này ở trình độ kiêm nhiệm. Một người nếu theo đuổi cuộc chiến chống khủng bố phải dành trọn cuộc đời cho nó, phải là một nhà chuyên nghiệp. Bởi vì sai lầmcủa anh ta sẽ không thể bù đắp được bằng bất kì giá nào.
Khi tuyển lựa ba mươi chiến sĩ đầu tiên cho đội đặc nhiệm “A”, Bestrastnov chưa thể dự kiến, mà chỉ linh cảm rằng đội sẽ phải chuyên làm nhiệm vụ chống khủng bố. Vì vậy ông muốn tập hợp trong đội những người giỏi nhất trong số hàng vạn nhân viên KGB thời đó Ngày nay ta có thể nói chắc chắn rằng, ông và ban chỉ huy đội đã không mắc sai lầm khi tuyển người: Nhóm ba mươi người đầu tiên tập hợp được vào năm 1974 đã trở thành nòng cốt cho một đơn vị cơ động cực kì tinh nhuệ, có sức chiến đấu cao và khả năng (có thể nói mạnh dạn) hoàn thành mọi nhiệmvụ, kể cả những nhiệmvụ phức tạp nhất trong cuộc chiến chống khủng bố và tội phạmcó tổ chức. Nhờ ý chí quyết tâm của chủ tịch KGB, đội đặc nhiệm “A” đã ra đời. Biên chế đội chỉ có ba mươi thành viên nhưng là những chiến binh thực thụ, những vận động viên thể thao sung sức, nghị lực và giàu tự tin. ở vị trí công tác cũ họ là những người ưu tú nhất. Còn ở đây mọi sự bắt đầu từ số không.
Mikhail Mikhailovich Romanov, đội phó đội đặc nhiệm“A” kể:
- Chúng tôi lúc đó sống như mấy họ hàng nghèo vậy. Đội mới thành lập, tất nhiên là chưa có trụ sở. Người ta thu hẹp một ban, cố lắm mới sắp xếp đượm. Kíp trực ngủ bầng giường xếp. Không có chỗ để vũ khí. Quy trình huấn luyện vì thế cũng bị hạn chế, cắt xén. Nhưng tập thể rất tốt, anh emđều là những chiến sĩ Trekis ưu tú, có kinh nghiệmsống.
Thế giới lúc đó đang bị xáo trộn bởi các tin khủng bố cướp máy bay, bắt cóc con tin. Cần tăng tốc. Robert Von, đồng nghiệp của tôi, lúc đó cũng là đội phó, một sĩ quan chuyên nghiệp. Anh nhận trách nhiệm soạn và triển khai giáo án huấn luyện, diễn tập và thao diễn thực địa, còn tôi chịu phần việc huấn luyện thể lực và các khoa mục chuyên môn. Một đội đặc nhiệm chống khủng bố mà không biết cách vô hiệu hóa bọn khủng bố và giải thoát con tin, dù ở trên máy bay, ở trong nhà hay tàu hỏa thì còn ra gì nữa. Đầu tiên phải lên mô hình giải thoát: Dự kiến vũ khí thích hợp, khí tài quang học và các khí cụ chiến đấu đặc biệt như vũ khí hóa học, thiết bị chiếu sáng, gây nổ. Tôi còn nhớ một trong những kế hoạch đầu tiên của chúng tôi là chế tạo “xe bus bẫy”. Chúng ta thấy là bọn khủng bố thường đòi đưa chúng ra sân bay bằng xe con hoặc xe bus. Tại sao không gây mê chúng trên đường đi nhỉ? Chỉ cần một lượng khí gây ngủ đưa vào trong xe là có thể “tómsống” như cách nói thông thường, khiến chúng chưa kịp hiểu sự việc gì xảy ra. Ýtưởng có vẻ hấp dẫn đủ mọi mặt. Nhưng khi tìm cách thực hiện lại nảy sinh khá nhiều vấn đề… Chúng tôi đã gây mê mấy con vật làm thí nghiệm (ba con khỉ và hai con mèo) trong vòng 5-7 phút. Nhưng liệu khoảng thời gian ngắn ngủi ấy có đủ cho chúng tôi đuổi kịp chiếc xe bus và bắt gọn bọn chúng không? Nhóm đặc nhiệmbao giờ cũng phải đi phía sau một quãng để khỏi bị phát hiện. Nếu như họ để vuột mất chiến xe và bọn khủng bố, khi đánh hơi được chuyện gì vừa xảy ra, sẽ tàn sát con tin thì sao. Còn có những vấn đề kĩ thuật thuần túy nữa. Chẳng hạn làm thế nào để xoá tiếng động khi phun khí vào xe? Phải có thể ngụy trang bằng tiếng ồn của động cơ xe đang chạy nhưng trong thực tế điều đó hóa ra rất khó thực hiện. Và thế là ý tưởng thất bại.
Ngay từ những bước đi ban đầu đội đã vấp phải những vấn đề mang tính quan điểm pháp lí. Trong cuộc chiến chống khủng bố một số nước như Argentina, Columbia, Thổ Nhĩ Kì coi thương lượng là không cần thiết. Họ cho rằng khi xảy ra bắt cóc con tin cần lập tức đàn áp bằng sức mạnh. Chúng tôi chọn cách khác và coi thương lượng là biện pháp hiệu quả có thể giải quyết xung đột, đôi khi chúng tôi cũng sẵn sàng chấp nhận một số nhượng bộ. Đội đặc nhiệm có nhiệm vụ chỉ sử dụng vũ khí chiến đấu trong trường hợp bất khả kháng. Quan điểm này đã thay đổi cách nhìn nhận của chúng tôi về vai trò của vũ khí. Về nguyên tắc chúng tôi cần loại vũ khí mới, chẳng hạn vũ khí hơi gas có thể mua ở nước ngoài. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa có kinh nghiệm sử dụng chúng. Giải quyết sao đây – tốt nhất là thực nghiệmtrên bản thân. Còn nhớ chúng tôi đã dịch tài liệu hướng dẫn kĩ thuật sang tiếng Nga. đọc rất kĩ. Nếu trúng đạn loại đó, bản hướng dẫn nói, chất làm dịu tốt nhất là nước. Nước thì nước. Tôi và Von lột áo quần còn mỗi quần đùi và đấu súng bằng sủng bắn đạn hơi gas. Liều lượng không cao lắm. Chúng tôi bắn vào nhau rồi lao xuống nước. Thứ gas đó bắn vào da gây đau khủng khiếp như dao cắt. Có cảm giác là thôi rồi, sắp chết đến nơi, xin vĩnh biệt đời. Sau này, chúng tôi mới nhận ra rằng loại vũ khí đó không thích hợp lắm vì: Không thể dùng được khi có gió lùa hoặc gió thổi ngược. Mà dưới thân hay trên cánh máy bay ai dám đảm bảo không có gió? Vậy là phải tìm thứ khác thay cho cái “vòi phun hơi” này.
Nói chung, nguyên nhân toàn bộ nỗi khổ sở của chúng tôi là không có chỗ để luyện tập. Cứ cho là các buổi học lí thuyết có thể tiến hành trong phòng làm việc được. Thế còn các buổi tập bắn thường xuyên thì sao? Không thể không có trường bắn. Rồi còn cần nhiều
phòng tập luyện khác nữa. Làm sao có thể tập chiến đấu trong nhà? Hành động tác chiến có những quy luật đặc thù, rồi xạ kích, đột nhập vào nhà và còn nhiều vấn đề nữa cũng khác nhau. Mượn trường bắn của đơn vị khác lúc được lúc không, lúc cho sử dụng vào giờ này, lúc lại giờ khác, mọi chuyện nói chung rất trục trặc…
Lại chuyện không thể tránh là phương tiện xe cộ. Lên xe ra trường bắn là một chuyện, còn phóng xe khi có lệnh báo động chiến đấu lại là chuyện khác. Cần có xe tốc độ cao, lái xe phải là những tay lái lụa siêu hạng. Và cũng phải có chỗ nào đó để dạy họ chứ – tất nhiên không thể là trường dạy lái xe của DOXAAF (Hội dự bị tình nguyện của quân đội, không quân và hải quân). Trang phục cũng không phải là chuyện nhỏ. Nó phải thích hợp hoàn toàn với những yêu cầu khắc nghiệt của chúng tôi. Chúng tôi đã xemgần như là tất cả trang phục của chiến sĩ và sĩ quan quân đội, KGB, Bộ Nội vụ. Nhiều chi tiết chúng tôi lấy từ trang phục của phi công, thích hợp nhất là bộ quần liền áo mùa hè của nhân viên bảo dưỡng kĩ thuật máy bay, áo khoác da và ủng. Phải cám ơn quân đội luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu may trang phục, cấp giầy. Viện vũ trang không gặp khó khăn. Tất cả các loại vũ khí bộ binh đều được sử dụng trong chương trình huấn luyện xạ kích như súng lục Makarov, tiểu liên Kalasnikov (cả các loại cải tiến), súng máy, súng trường Dragurov và thậmchísúng máy nòng lớn Vladimirov. Trong cận chiến chúng tôi dùng tiểu liên Scorpion. Tất nhiên chúng tôi có cả vũ khí nước ngoài nữa, nhưng chúng kémvũ khí trong nước sản xuất và lại còn cần đạn dự trữ. Lại còn tùy loại vũ khí mà chọn bao súng và trang phục. Nói tóm lại dùng súng mác nước ngoài phiền toái nhiều hơn. Dù vậy cũng phải thú nhận là tôi thích súng trường M-16 của Mỹ. Độ chụmcủa nó chính xác. Không nói quá nhưng với khoảng cách ngắm100m, đạn của nó có thể rơi đúng vòng tròn không lớn hơn đồng nămxu là mấy.
Đó là nói về vũ khí trang bị tiêu chuẩn. Còn với vũ khí chuyên dụng, việc chế tạo và đưa vào trang bị kéo dài hàng năm. Chúng được chế tạo nhưng không phải cho chúng tôi. Đôi khi khó khăn lắm chúng tôi mới xin được vài khẩu. Nước Nga là như vậy: Nếu cần thì đặt hẳn một lô năm ngàn chiếc, chứ vài trăm thì chẳng ai muốn làm cả. Nhân tiện cũng xin nói là cán bộ các viện nghiên cứu luôn đối xử cởi mở với chúng tôi: Giúp đỡ, góp ý, tính toán – lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng cấp trên của họ nhăn mặt: “Việc của các anh không nằm
trong kế hoạch…” Có đập đầu van xin vẫn thế. Tôi còn nhớ chúng tôi đã khổ sở mất bao thì giờ để giải quyết vấn đề hết sức quan trọng là chế tạo chiếc áo gilê chống đạn bằng titan. Thứ trang phục này cần cho chúng tôi khi tiếp cận mìn hoặc khối thuốc nổ nghi ngờ để xem xét và nếu có thể thì vô hiệu hóa.
Nước Nga là một cường quốc đại dương vì vậy trong thành phần đội đặc nhiệm cũng có đơn vị chống phá hoại hoặc khủng bố dưới nước. Anh em bộ phận này được đưa đi huấn luyện tại biển Bantich và Cuba. Chúng tôi soạn chương trình huấn luyện, các đồng chí Cuba tham khảo đóng góp thêm ý kiến. Tất nhiên chúng tôi có hơi ghen tị khi so bì với các đội đặc nhiệm tương tự, ví dụ như đội GSG-9 của Đức. Nhưng mọisự so sánh đều khập khiễng. Đội chúng tôi có biên chế khác và được vũ trang khác. Ở ngoại ô thành phố bọn họ có trụ sở ban chỉ huy riêng, có căn cứ huấn luyện – những thứ chúng tôi nằm mơ cũng không được. Phương tiện xe cộ của họ tuyệt vời: Xe bus, xe hơi tốc độ cao mác “Mercedes”, những vũ khí chế tạo riêng. Điều thú vị là tôi cũng kiếm được khẩu “smaster” đời mới nhất – loại vũ khí đội GSG-9 được trang bị – trong cuộc tấn công dinh tổng thống Amin ở Afghanistan. Đó là khẩu tiểu liên thuộc về một cận vệ của Amin và nó đã trở thành chiến lợi phẩmcủa tôi. Thời kì đầu của chúng tôi là như vậy đấy.
Giữa thập kỉ 70 của thế kỉ XX có một câu đùa cửa miệng trong dân chúng là: “Nào ta đổi một tên lưu manh lấy Louis Corvalan đi!”. Câu nói đó ámchỉ vụ việc xảy ra trong thực tế hồi tháng 12 năm1976 khi Liên Xô tiến hành vụ trao đổi nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng
Vladimir Bucovxki lấy Tổng bí thư Đảng Cộng sản Chile – đồng chí Lucho. Cuộc đổi chác diễn ra ở Zurich. Nhưng cụ thể ra sao thì không mấy người tường tận. Mười lăm năm sau Bucovxki đến Moxcva, trong một buổi trả lời phỏng vấn truyền hình đã nói về những người áp giải ông ta ra khỏi nhà tù Vladimir và sau đó là ra nước ngoài, nhưng những họ là ai thì ông ta không đoán được. Bucovxki không biết tên họ những người đó và làm sao mà ông ta biết được. Đó chính là các đội viên “Alfa”. Chiến dịch trao đổi nhân vật chống đối này là một chiến tích độc đáo của đội đặc nhiệm. Thực ra trong suốt hai năm của thời đó cũng có vài vụ đội phải động tay chân: Như vụ sinh viên bao vây Sứ quán Ethiopia, tổ chức biểu tình trước cơ quan đại diện ngoại giao của Togo, một nước châu Phi. Họ đòi nâng mức học bổng. Đầu tiên chúng tôi thuyết phục họ, sau đó xông vào sứ quán tống họ ra ngoài, những người cưỡng lại bị xốc nách lôi ra tống lên xe bus. Cuộc chiến chống “bọn khủng bố” chỉ có thế. Một lần hai thành viên đội đặc nhiệm được cử bảo vệ một ông đại sứ tại Lebanon. Nhưng chẳng lẽ đó là công việc các đội viên đội đặc nhiệm chống khủng bố mong đợi hay sao? Họ muốn được chiến đấu thực sự. Suốt hai năm chỉ rèn luyện thể lực, bắn súng chạy vượt chướng ngại vạt, lái xe, nhảy dù hoặc diễn tập thực địa với tư cách là đội trinh sát phá hoại. Lần nào cũng vậy khi tướng Bestrastnov đến thăm, các chiến sĩ lại nài nỉ cục trưởng Cục VII ông gắng vỗ về: “Thôi nào, các chàng trai, đừng vội vàng, việc có đủ cho cả đời mà!”. Lúc nào ông cũng nhắc nhở tất cả phải luôn sẵn sàng để thi hành nhiệm vụ bất kể ngày đêm. Nghe vậy, anh emchiến sĩ thường reo hò và cố lôi kéo Bestrastnov đến trường bắn cho ông thấy họ là những xạ thủ thực sự tuyệt vời ra sao. Ở mọi tư thế: Đứng, quỳ hoặc khi ngã… mục tiêu đều bị tiêu diệt. Bestrastnov hài lòng gật đầu mỉm cười nhưng vẫn cương quyết giữ ý kiến của mình. Nhưng một lần ông đã bắt mọi người phải suy nghĩ khi hỏi họ nghĩ thế nào, liệu các xạ thủ của đội đặc nhiệm thống khủng bố GSG-9 của Tây Đức có biết bắn không?
- Còn nghi ngờ gì nữa, họ là một trong những đội xuất sắc nhất trên thế giới.
- Có nghĩa cá đồng chí cho rằng họ bắn rất giỏi chứ gì? Viên tướng cười.
Nghe câu trả lời khẳng định, ông hỏi tiếp:
- Vậy tại sao hồi Thế vận hội Olympic ở Munich hai xạ thủ Đức đã đưa bọn khủng bố vào tầm ngắm mà lại không bắn được. Vì sao vậy? Hóa ra biết bắn nhanh và chính xác còn chưa đủ, mà còn cần được phải chuẩn bị sẵn sàng về tâm lí nữa. Vì bọn khủng bố cũng là con người chứ không phải những robot. Có nghĩa cần có sự chuẩn bịsẵn sàng về mặt tâm lí để giết một con người, và đó là con người đã tự đặt mình ra ngoài vòng pháp luật. Có tàn ác không? Không, rất nhân đạo. Nhân đạo ở mức cao nhất. Chính vì ở đây chúng ta đang nói về một loại quái vật mang lốt con người. Chúng sẵn sàng đe dọa trẻ emnhư ở Ordjonikidza hoặc tàn sát dân chúng như ở Tbilixi.
Những câu hỏi vẫn còn nguyên giá trị, và người tướng già, người chiến sĩ tình báo đầy kinh nghiệmBestrastnov đã dạy chúng tôi cánh tìm ra câu trả lời đúng. Và lời ông nói quả không sai! Năm tháng trôi qua, các chiến sĩ của đội đặc nhiệm mỗi khi nhớ lại sự nôn nóng của mình lại mỉm cười. Nhưng đó là chuyện sau này, còn lúc này, nhiệm vụ cụ thể trước mắt của họ là trao đổi Corvalan với Bueovxki. Không một ai trong số bốn người được trao nhiệm vụ tiến hành chiến dịch – Von, Berlev, Ledenev và Colomees từng ra nước ngoài, kể cả thành phố Zurich. Và còn rất nhiều cán bộ chỉ huy đội đặc nhiệm “A” bản thân cũng không hình dung rõ phải thực hiện cuộc trao đổi như thế nào. Các chỉ thị và lời kêu gọi nâng cao cảnh giác, cảnh báo chung chung về khả năng xảy ra khiêu khích chỉ làm tăng thêm căng thẳng hồi hộp. Andropov cho máy bay riêng của ông đưa họ bay đến Zurich. Một chiếc TU-134 chờ Bucovxki và nhóm đặc nhiệm áp giải ông ta tại sân bay Skalovski. Trước đó Bucovxki đã được chuyển từ nhà tù Vladimir đến nhà tù Lephortovo. Sáng ngày 17 tháng mười hai xe
đến đón: Người đàn ông lòng khòng, xanh xao được dẫn ra khỏi xà lim. Trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn nhà tù, khuôn mặt của Bucovxki trông giống như một chiếc mặt nạ thạch cao xám xịt, chỉ riêng đôi mắt là sống động và đầy lo lắng… ông ta nghĩ gì vào giây phút này, kẻ chống đối, tên lưu manh, nỗi đau đầu luôn ám ảnh các nhà lãnh đạo Xô Viết? Về cuộc trao đổi chăng, hay về cuộc sống lưu vong sắp tới, hay về đất nước mà ông ta sắp rời bỏ – cái đất nước không thân thiện dành cho ông hết nhà tù đến trại cải tạo nhưng là Tổ quốc của ông. Mà cũng có thể ông nghĩ tới người cầmsẵn chiếc còng tay đứng chờ ông ở cuối hành lang kia? Có thể…
Bucovxki chìa tay về phía trước, đôi vòng bằng thép bật đánh tách xiết lấy cổ tay. Ông hơi nhăn mặt. Berlev thấy thương người tù: - Chặt quá phải không?
Bucovxki thầmnghĩ: “Chó sói còn làmbộ thương cừu non”, nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu.
- Chặt…
Nicolai Vaxilevich rút túi lấy chiếc khăn mùisoa, xé làmđôi đệmbên trong chiếc còng. Bucovxki khẽ nhếch mép cười: - Thoáng trông tôi biết ngay anh không phải là cảnh sát.
- Không phải cảnh sát nghĩa là thế nào? – Berlev cố tỏ vẻ ngạc nhiên thành thật, đưa mắt soát bộ quân phục cảnh sát mới toanh còn nguyên nếp gấp của mình.
- Không có gì, – Bucovxki bướng bỉnh lắc đầu, – có giáo dục hơn. Những tên kia suốt năm năm không mở miệng chào tôi lấy một lần. Dù chỉ để tôi cảmthấy…
Giọng của ông ta chợt nghẹn lại. Họ cùng nhau đi ra sân nhà tù, ngồi vào chiếc xe RAF nhỏ. Berlev và Von ngồi cạnh Bucovxki; Ledenev và Colomees ngồi đối diện. Xe lăn bánh thẳng hướng sân bay Skalovski. Dọc đường họ đón thêmmẹ và emgái và sau rốt là một đứa cháu của Bucovxki: Cậu bé sẽ bay cùng ông. Nhận được lệnh, các chiến sĩ đội đặc nhiệm “A” chuẩn bị đưa Bucovxki đến Zurich và đón Corvalan tại đó. Họ cất cánh lúc gần trưa. Qua biên giới Berlev tháo còng tay cho Bucovxki và mời ăn nhẹ. Họ ngồi đối diện, thực chất là những kẻ thù – một người xanh xao có khuôn mặt trẻ thơ bất động cứng đơ như thạch cao, cả đời chống lại cái nhà nước mà Berlev suốt đời bảo vệ. Anh biết gì về người tù mình áp giải? Hầu như không gì cả. Có chăng là người này đã ngồi tù mười hai năm, là người chống đối chính quyền Xô Viết, bất đồng chính kiến. Bucovxki muốn đạt tới điều gì, vì mục đích cao cả nào mà ông ta sẵn lòng đổi cuộc sống bình thường lấy những tấm phản gỗ cứng trong nhà tù? Lí tưởng của ông có đáng giá vớisự đánh đổi đó không? Từ trước đến nay Nicolai Berlev chưa bao giờ hoài nghi: Anh tin những điều được dạy ở trường, anh tin những gì được giáo dục trong quân đội. Và bây giờ người ta nói với Berlev rằng Bucovxki là kẻ tâmthần, không bình thường. Mai kia họ có nói khác đi không? Von nói, dứt Berlev khỏi luồng ý nghĩ.
- Sắp đến nơi rồi.
Phía đường chân trời những dãy đèn bắt đầu lung linh và lớn vụt lên ngoài cửa sổ máy bay. Máy bay chuẩn bị hạ cánh. Phi công chưa kịp tắt động cơ, một chiếc xe cấp cứu hiệu “Mercedes” sang trọng ngập trong ánh đèn nhấp nháy phanh kít ngay phân cầu thang máy bay. Người ta đưa một cậu bé bị ốmtừ trên máy bay xuống. Chiếc “Mereedes” rú còi lao vút ra cổng sân bay. Chiếc máy bay chở khách bị
bao vây bởi một hàng rào cảnh sát vũ trang của Thụy Sĩ. Ivon đếm: Có tới 70 người, không thể ít hơn.
- Có vẻ hơi đông, Dmitri ạ, – Anh nghiêng người về phía Ledenev.
- Họ tỏ lòng kính trọng đấy, thưa ông Robert Petrovieh. – Anh này uể oải đùa lại.
- Ai cơ, chúng mình hay Bucovxki?
Ledenev không trả lời. Một chiếc ôtô lớn vượt đường băng chạy về phía máy bay. Loại xe này thường chỉ thấy trên các phim nước ngoài. Chiếc xe hai bên sườn sơn đen bóng loáng đột ngột phanh lại.
- Đồng chí Corvalan đấy, – Ivon nhẹ nhõm nói khi nhận ra đồng chí tổng bí thư và vợ trong số người rời xe. Giờ chỉ còn việc tống tiễn Bucovxki thôi. Nhưng ông này lại từ chối không xuống máy bay.
- Đấy là người Mỹ! Tôi muốn đến Thụy Sĩ chứ không phải nước Mỹ. Tôi phản đối…
Corvalan và vợ đã vào hẳn khoang trước mà Bucovxki vẫn không đồng ý rời máy bay. Dưới chân cầu thang diễn ra cảnh nhốn nháo vì Corvalan lên máy bay rồi mà Bucovxki thì chưa thấy đâu. Những người đi chiếc “Limuzin” chộp tiểu liên vây lấy Dmitri Ledenev: “Ngài Bucovxki? Ngài Bucovxki”. Ledenev gạt họ ra, cố ra hiệu giải thích rằng anh không phải là người họ cần. Qua cơ trưởng máy bay, Ivon liên lạc với Trung tâm: Chúng tôi đã đón được Corvalan nhưng Bueovxki không muốn xuống; cả hai đều đang ở trên máy bay, phải làm gì bây giờ? Người ta kể lại rằng khi nghe báo cáo, Andropov đã cười rất lâu: “Các đài phát thanh chắc sẽ la ó ầm ĩ là: “Điện Kremli lật lọng đã đánh lừa người Mỹ cả tin”.
Andropov ra lệnh trấn an Bucovxki và giải thích để ông ta hiểu rằng mọi chuyện đã diễn ra đúng như thoả thuận. Các chiến sĩ vất vả lắm mới thuyết phục được. Cuối cùng Bucovxki cùng họ hàng rời khoang máy bay. Vòng vây giải tán, những người cầm vũ khí biến mất. Có lệnh cất cánh, cơ trưởng thông báo: “Chúng ta bay về Minsk!”. Bỗng Corvalan lo lắng. Đầu tiên mọi người tưởng do thay đổi lộ trình, nhưng không phải. Chính phủ Liên Xô định không ra tuyên bố nào trong vòng một ngày sau cuộc trao đổi nhưng Corvalan phản đối: “Sao lại thế được, tôi mất tích à, và đi đâu?”. Chúng tôi báo về Moxcva. Lát sau có lệnh chấp thuận và ngay trong máy bay Corvalan đã tuyên bố với báo chí. Berlev đưa Corvalan tấm ảnh thụp ông mặc trang phục dân tộc cắt từ tạp chí Điện ảnh Xô Viết và xin chữ kí. Corvalan ngạc nhiên ngắm nghía tấm hình rồi hí hoáy viết cho anh mấy dòng. Đến Minsk, các chiến sĩ đưa Corvalan về địa chỉ quy định rồi đi tàu hỏa trở về thủ đô. Tướng Bestrastnov ra đón họ ở sân ga Beloruski.
Trích hồ sơ KGB. Mật. 01 bản
“Ngày 28 tháng ba năm 1979, 14 giờ 30, một công dân không rõ danh tính đi cùng với bí thư thứ hai sứ quán Mỹ: R.Pringel bước vào phòng lãnh sự đại sứ quán Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Ba mươi lăm phút sau người ta được biết anh ta đòi cấp giấy phép để sang Mỹ, đe dọa cho nổ tung 2 kg thuốc nổ buột trong người nếu yêu cầu bị từ chối. Sau các cuộn thương lượng, đại diện chính thức của sứ quán Mỹ đã yêu cầu các nhân viên an ninh của cơ quan đại diện ngoại giao vớisự tán thành của đạisứ Tunnay bằng mọi cách đưa công dân đó ra khỏisứ quán. 15 giờ 35 phút nămnhân viên đặc nhiệmthuộc biên chế Cục VII KGB có mặt tạisứ quán Mỹ”.
… Tên khủng bố đang đọc thơ, tay trái đặt trên thắt lưng, ngón ngoắc vào khoen điểm hỏa của khối thuốc nổ. Chiến sĩ đặc nhiệm Mikhail Cartophelnikov nhìn thấy khớp ngón tay bị chiếc khoen sắt đè vào trắng bệch, nhưng tên tội phạm không bận tâm. Hắn khép hờ đôi mi mắt sưng húp, vẻ tự mãn ngâmnga:
“Những ung nhọt của thế giới này hàng đời nay không liền sẹo.
Từ xưa quyền lực của bóng đêmkhông ngừng giết hại các nhà thông thái.
Thế kỷ ánh sáng giờ này có bớt đi những tên đao phủ?
Socrat ngã xuồng bởi bàn tay những kẻ suy đồi,
Russo hisinh…bởi những người tự xưng là con chiên của Chúa.
Trong một phút bồng bột Người đã tạo ra con người…”
Vào lúc khác người ta có thể tưởng trong hành lang có một nhóm bạn bè tụ tập. Các chàng trai vây lấy một anh chàng đang cơn thi hứng cống hiến cho đời những vần thơ tuyệt đẹp. Tiếc thay sự việc không lãng mạn như vậy. Tuy yêu thơ, nhưng Iuri Vlaxenco không đến sứ quán Mỹ để mở hội thơ. Với trái bom tự tạo, hắn ta đe dọa và yêu sách một chiếc máy bay kèm theo một khoản tiền lớn. Hắn đòi được đưa ra sân bay bằng xe sứ quán, yêu cầu tại đó phải có một chiếc máy bay hành khách chờ và sẵn sàng cất cánh. Các cuộc thương lượng không ăn thua. Vlaxenco cấm mọi người lại gần và luôn miệng nhắt đi nhắc lại các yêu cầu. Kế hoạch đuổi hắn ra ngoài toà nhà đại sứ quán bằng lựu đạn hời cay không có kết quả. Hoặc hơi cay không tác động tới hắn hoặc người ta nhầm lẫn vị trí các căn phòng trên tầng và ném lựu đạn vào cửa sổ một căn phòng khác. Cuối cùng người ném lựu đạn thì cay chảy cả nước mắt còn Vlaxenco vẫn ung dung. Người ta quyết định lại thương lượng. Giống như trong mọi sự vụ, có quá nhiều cấp chỉ huy, quá nhiều mệnh lệnh và lời khuyên. Nhưng lời khuyên – vẫn chỉ là lời khuyên còn sự việc phải trong tầm kiểm soát của Chủ tịch ủy ban An ninh. Ông nôn nóng – cần giải quyết nhanh chóng. Mikhail Romanov và Sergei Golov không rời cửa sổ căn phòng tên khủng bố trấn giữ. Họ đảm bảo phải bịt chặt đường rút chạy duy nhất của hắn…
Ivon gọi ba chiến sĩ – Phihmonov, Sectacov và Cartofelmcov: “Cậu, cậu này, cậu kia nữa, theo tôi”. Bốn người cùng lên tầng. - Này anh bạn, – Ivon giả làmmột anh chàng ngờ nghệch, gọi vọng vào trong cánh cửa mở toang. – Ra đây ta nói chuyện nào…
- Thế anh là ai? – Vlaxeneo xuất hiện trên ngưỡng cửa. Hắn mặc sơ mi, bên ngoài khoác áo len, ngoài áo len là chiếc thắt lưng to bản tự tạo chứa 2 kg thuốc nổ. Không ít thuốc nổ, lạy Chúa, chỉ cần một cái giật nhẹ là trong chớp mắt họ biến ngay thành tử sĩ. Ngón tay tên khủng bố vẫn giữ chiếc khoeo. Suốt buổi nói chuyện lằng nhằng hắn không rời tay khỏi đó lấy một giây.
- Các anh ở đâu đến, – Vlaxenco hỏi.
- Chúng tôi là lính đóng quân ngay gần đây, – Ivon trả lời thay mọi người.
- Cấp bậc của anh là gì?
- Cấp bậc à? – phó chỉ huy đội đặc nhiệmngạc nhiên hỏi lại, – Tôi là chuẩn uý, còn các cậu này…
Hai người tự giới thiệu là trung sĩ, còn Cartophelnikov là binh nhì. Vlaxenco cười:
- Biết nói chuyện gì với các anh bây giờ. Các anh có quyết định được gì đâu…
Quả thật, tội gì mất thời gian vô ích với một viên chuẩn úy và hai viên trung sĩ. Tắc rồi. Chắc là hắn sẽ quay vào và hết chuyện. Nhưng Vlaxenco không đi. Hoặc hắn bị vẻ ngoài ngờ nghệch, hiền lành của mấy anh lính “gia hạn” đánh lừa, hoặc thần kinh hắn đã rêu rã, muốn chuyện trò. Hắn bảo họ:
- Tôi đã nghĩ là bọn “cá” ập đến.
- Ai cơ? – Philimonov hỏi lại.
- Bọn “cá” ấy, tôi cứ ngỡ là cảnh sát đấy. – Hắn cúi đầu xem lại chiếc thắt lưng, ngón tay đặt trên vòng khoeo, rồi chậm rãi, như sờ soạng lướt theo chân và đưa ra trước mặt:
- Nếu yêu cầu không được đáp ứng, tôisẽ đi và cho nổ tung “bọn cá” lên.
- Anh làmsao thế, Iura, – ai đó trong số chúng tôi thốt lên.
Vlaxenco imlặng nhìn vào mặt người vừa phản đốisau đó hỏi:
- Anh đã bao giờ bị bọn cảnh sát đánh chưa?
- Chưa.
- Còn tôi bị chúng đánh. Đá, như đá quả bóng ấy, lăn lông lốc.
Im lặng. Ivon và các chiến sĩ của anh hiểu rằng cuộc sống của họ, sự an toàn của sứ quán nằm trong tay con người này. Cần làm ý chí hắn dao động và biết đâu có thể thuyết phục được hắn giao nộp món “đồ chơi” của mình. Họ làm ra vẻ thông cảm. Cùng chửi bới “bọn cá”. Và bắt đầu gạ gẫm: Này Iura, bỏ chuyện này đi. Chúng ta đi đâu đó ngồi như mọi người, làmvài cốc, nói chuyện. Họ hỏi:
- Thế cậu cần gì?
- Không có gì đặc biệt cả, – mắt Vlaxenco rực sáng lên. – Tôi muốn học đại học, đã thi hai lần song không đậu. Giá mà kiếm được căn hộ ở Moxcva.
Cartofelnicov nhìn vào cặp mắt sáng long lanh của Vlaxenco, nghĩ: Đây là một tên tội phạm, chỉ nhầm lẫn chút xíu anh ta sẽ kéo theo hàng chục người xuống luyện ngục. Nhưng anh ta sinh ra đâu đã là tội phạm. Không lẽ đến bây giờ mới là lúc lắng nghe lời một con
người, khi tất cả đã ở vào tình thế không còn cách lựa chọn nào khác. Họ là ai, những người đánh, đá con người này, đã giày xéo lên pháp luật và đạo đức? Họ là ai, những người đã không nhận anh ta vào trường đại học? Có thể hoàn cảnh không thật đúng như anh ta kể, nhưng tại sao trên đường đời, anh ta không gặp một ai chịu hiểu, chịu lắng nghe và giúp đỡ mình? Và chẳng cần đến khối thuốc nổ này. Thật bất ngờ, Vlaxenco lại đọc thơ. Những vần thơ hay. Cartofelnieov khi còn học đại học cũng say mê Schiller. Nhưng anh không ngờ có thể được nghe thơ tại đây trong sứ quán Mỹ, trên cầu thang, trong hoàn cảnh gần như là con tin.
“Hãy đứng lên, những người đồng chí.
Ngựa đã hí vang, và căng lồng ngực đón xuân
Tuổi trẻ và niềmvui đang sôi trào trong huyết quản
Hãy đón lấy giây phút thiêng liêng
Hãy đặt cuộc cả cuộc đời trên lưng ngựa
Trong trận chiến, bạn sẽ giữ gìn được cuộc đời
Và chiến thắng nắmtrong tay.”
Từ tầng dưới mọi người lấy tay ra hiệu, nhanh lên, nhanh lên… Vlaxenco vẫn không bị thuyết phục; thực ra hắn đã cảm động đến mức đề nghị cùng nâng cốc. Trong phòng có một chai cô nhắc đặt trên bàn, hoặc do người Mỹ đem đến hoặc do chủ nhân căn phòng để lại. Ivon và đồng đội từ chối, Vlaxenco némchai rượu qua cửa sổ. Bên ngoài nhìn thấy ngay. Romanov gật đầu ra hiệu cho Golov.
- Cẩn thận đấy, Serega, có cái chai rơi xuống đất. Bò lại gần nhìn vào cửa sổ xemsao.
Golov vươn người đứng lên gờ dưới thành cửa sổ thận trọng ngó vào trong:
- Mikhailưs, tôi nhìn thấy bên trong rồi.
Romanov báo cáo ban chỉ huy. Có lệnh khi Ivon và đồng đội tách ra, lập tức sát thương ngay Vlaxeneo. Nhưng tách ra không đơn giản. Bây giờ đã rõ là tên khủng bố sẽ không tự nộp mình. Nhưng những vần thơ và câu chuyện tâm tình rõ ràng đã làm Vlaxenco bình tâm trở lại:
- Thôi được, – hắn nói. – Tớ thích các cậu, người anh emạ. Tớ sẽ không làmnổ tung các cậu.
Như người ta thường nói, thế cũng đủ để cảmơn rồi. Các chiến sĩ đội đặc nhiệm“A” chỉ vừa kịp chạy xuống dưới, một tiếng súng vang lên và kèmtheo nó là một tiếng nổ lớn. Tên khủng bố bị thương đã kịp giật kíp nổ. Chỉ một phần khối thuốc bị nổ nhưng cũng đủ thổi bay khung cửa sổ và dãy chấn song bằng sắt. Khi Ivon dẫn đầu nhóm đặc nhiệm xông vào phòng, Vlaxenco đa nằm bất tỉnh trên sàn, bên cạnh là chiếc đi văng bốc cháy. Họ cố dập lửa. Một người Mỹ vội giúi vào tay Cartofelnicov chiếc bình cứu hỏa. Mikhail tưởng sẽ thấy dòng bọt trắng phụt mạnh ra, nhưng chiếc bình cứu hỏa kêu xì xì và tuôn ra một luồng hơi. “Nước Mỹ mà thế đấy, – anh ngạc nhiên. – Chẳng khác gì nước ta”. Tuy vậy mấy phút sau mọi chuyện đã xong xuôi. Vlaxenco được xe cấp cứu chở vào bệnh viện. Hắn chết trên đường đi. Ngày hôm sau Mikhail Cartofelnicov đọc báo Tin tức. Một tác giả N. Volkin nào đó viết: “Ai là cái người lúc đầu đã được đón tiếp nồng nhiệt ở sứ quán Mỹ? Một anh chàng Vlaxenco K.M thất nghiệp dài dài. Vậy mà một ông đại diện sứ quán Mỹ đã đi lại với anh ta. Họ thật hồ đồ, nói thẳng là vô trách nhiệm trong các mối quan hệ của mình”. Mikhail nhớ lại những vần thơ của Schiller trong hành
lang âmu. Cặp mắt của tên khủng bố. Ngón tay trắng bệch ngoéo vào vòng khoeo của trái bom. Con người ấy thực là thế nào nhỉ?
Tháng mười năm 1979, đội đặc nhiệm “A” kỷ niệm năm năm ngày thành lập của mình một cách khiêm tốn. Đội đã thực hiện các nhiệm vụ khác nhau, có những hoạt động nghiệp vụ, nhưng bản thành tích chưa có gì “vang dội”. Chỉ có vụ áp giải Bucovxki đến Zurich và giải thoát cho sứ quán Mỹ khỏi tên Vlaxenco. Không lẽ có thể gọi đó là những chiến dịch tác chiến thực sự. Năm năm cho sự hình thành một đội đặc nhiệm chống khủng bố là nhiều hay là ít? Nó đã trưởng thành ở mức chuyên nghiệp chưa? Câu hỏi đó không chỉ day dứt ban lãnh đạo KGB mà cả ban chỉ huy đội đặc nhiệm. Đại tá Charles Becvit cho rằng đội “Delta” cần hai nămđể hình thành. Sau chiến dịch thất bại của đội GSG-9 Tây Đức ở Thế vận hội Olympie 1972, năm năm sau tại Mogadiso, trong một vụ bắt cóc máy bay, bọn khủng bố đã nhanh chóng bị vô hiệu hóa, tất cả con tin được an toàn. Vẫn là các đội viên “commando” ấy nhưng họ đã có thêm năm năm rèn luyện. Đội đặc nhiệm “A” cũng có năm năm như vậy. Sau đó chính là khoảng thời gian nạn dịch không tặc khủng bố của thập kỉ 70 hoành hành trên các tuyến đường hàng không Liên bang. Các vụ cướp máy bay thường kết thúc bằng những trận đấu súng, bằng con số các nạn nhân trong con tin và hành khách. Đã thấy rõ sự cách biệt giữa mức chuyên nghiệp hóa ngày càng cao của bọn khủng bố với mức nghiệp dư tài tử của cảnh sát và nhân viên KGB, những người không thường xuyên làm công việc giải thoát con tin bị bắt cóc mà chỉ động tay chân khi vụ việc đã xảy ra như “sét đánh ngang tai”.
Năm 1978 có sáu vụ âm mưu cướp máy bay chủ yếu ở các cảng hàng không phía nam đất nước. Một kẻ khủng bố tên là Aphonin yêu cầu tổ lái đổi đường bay sang Thụy Sĩ. Bị từ chối, hắn vãi mười một phát đạn vào cửa buồng lái và vách ngăn giữa các khoang máy bay. Máy bay hạ cánh xuống Piarna, hắn ta bị bắt.
Một vụ khác. Sau khi chiếc máy bay AN-24 cất cánh rời Groznưi, một hành khách tên là Makhaev dùng súng ngắn bắn anh Riadtrenco – nhân viên cơ điện trên máy bay – bị thương vào chân. Sau khi máy bay hạ cánh tại Makhatrcala, hắn đã tự sát.
Năm1979, cậu học sinh Viansac đe dọa cho nổ bomđịnh cướp chiếc máy bay YAK-40 từ Ximpheropolsang Thổ Nhĩ Kỳ. Trong vụ cướp máy bay từ Novocuznetsk và Anadưr, hai tên không tặc đã bị bắn chết…
Chương II:
CHIẾN DỊCH TUYỆT MẬT
Năm 1979, các nhà lãnh đạo đất nước thực ra không quan tâm lắm tới vấn đề chống nạn không tặc khủng bố. KGB bị cuốn hút vào tuyến biên giới phía nam. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, người ta lo lắng về “miếng mỡ bụng của Liên bang”. Trong công văn khẩn mật của các nhà ngoại giao, trong báo cáo của các điệp viên KGB và Cục Tình báo Trung ương, ở Bộ Tổng Tham mưu, và thậm chí ở Bộ chính trị, chữ “Afghanistan” trước đây không mấy quen thuộc, ngày càng được nhắc nhiều hơn. Sau đó ít lâu đã bắt đầu tháng thực sự bi thảm đối với đời sống của cả hai dân tộc: Tháng 12 năm 1979. Những ngày cuối tháng này, báo Sự thật đăng tải “Lời kêu gọi của Chính phủ Afghanistan”: “Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Afghanistan lưu ý đến tình trạng can thiệp và khiêu khích ngày càng tăng của các thế lực thù địch bên ngoài đối với Afghanistan và với mục đích bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng Tư, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc, duy trì hòa bình và an ninh, trên cơ sở Hiệp ước Hữu nghị, Láng giềng và Hợp tác kí ngày 5/12/1978, nay khẩn thiết yêu cầu Liên Bang Cộng hòa XHCN Xô Viết giúp đỡ khẩn cấp về kinh tế, chính trị, đạo đức, kể cả về mặt quân sự, điều mà Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Afghanistan trước đây đã nhiều lần đề nghị Chính phủ Liên Xô. Chính phủ Liên Xô đã chấp thuận đáp ứng yêu cầu của phía Afghanistan…”
Hiện nay có cảm tưởng chúng ta đã biết tất cả hoặc hầu như tất cả về cuộc chiến Afghanistan. Đúng, cuộc chiến Afghanistan đã là tiểu sử của chúng ta, là tiểu sử của đất nước. Dù mang tính chất một cuộc chiến tranh thế nào – anh hùng, đẫm máu hay đáng xấu hổ, nó cũng vẫn mãi mãi là như thế. Chiến tranh thường đa nghĩa hơn hòa bình. Đối với một số người, đó là chiến công, lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng – còn đối với số người khác, đó là nỗi nhục, là xương máu và cái chết của hàng nghìn người dân vô tội. Chúng ta hãy trung thực với bản thân và lịch sử, không đánh đồng trộn lẫn điều thiêng liêng với tội lỗi, điều thấp hèn với điều cao quý. Mọi thứ đều có đủ trong cuộc chiến này, cũng như trong muôn vàn cuộc chiến khác. Con người sợ chiến tranh, nguyền rủa nó nhưng vẫn đi đánh nhau. Điều bí ẩn nhất trong đó chính là ở sự khởi đầu. Chiến tranh đã bắt đầu như thế nào? Hơn nămmươi nămđã ngăn cách chúng ta với ngày 22 tháng sáu năm 1941 (Ngày phát xít Đức tấn công Liên Xô trong Thế chiến II), nhưng cho đến bây giờ chúng ta vẫn nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân phát sinh của nó, mổ xẻ sự kiện, tìm câu trả lời cho cái câu hỏi muôn đời: Ai gây ra và bằng cánh nào?… Cuộc chiến Afghanistan đã bắt đầu thế nào? Kẻ nào phát động? Hômnay điều này đã được làmsáng tỏ đó là do quân dù của tướng Van Riabchenco, “tiểu đoàn Hồi giáo” và hai nhóm đặc nhiệm bí ẩn của KGB mang mật danh “Zenit” và “Grom”. Về “tiểu đoàn Hồi giáo” người ta đã nói quá đủ, về đội quân dù thì bản thân tướng Riabcheneo cũng đã viết cả một cuốn sách, nhưng còn về các đội đặc nhiệm “Zenit” và “Grom” thì hầu như không ai biết đến, ngoại lệ có chăng là một vài tên họ của các anh hùng đầu tiên cùng những chuyện bịa đặt ngớ ngẩn, có ý bôi nhọ hoạt động của họ trên đất Afghanistan. Mark Urban, tác giả sách Cuộc chiến Afghanistan mà báo chí chúng ta thường trích đăng, khẳng định: “Ngày 27 tháng mười hai…buổi chiều, các lính dù di chuyển đến trung tâmCabul. 19 giờ 15 phút theo giờ địa phương họ đột nhập vào tòa nhà Bộ Nội vụ và tước vũ khí cá nhân viên trong đó. Một đội quân khác tiến vào lâu đài Dar-ul-aman”. Không lẽ lại dễ dàng như thế – tiến vào rồi tước vũ khí. Không, không một tên lính nào ở đó chịu giao nộp vũ khí. Phải tấn công mới chiếm được Bộ Nội vụ. Còn về “đội quân khác” quân dù đúng là đã tiến vào lâu đài và thậm chí trong cuộc chiến nóng bỏng đã lầm lẫn quân ta với quân địch, và đọ súng với “tiểu đoàn Hồi giáo” lúc đó mặc quân phục của quân đội Afghanistan. Nhưng vào thời điểmđó lâu đài đã bị chiếm. Ai chiếm? Là các nhómđặc nhiệm“Grom” và “Zenit”. “Grom” thực ra chính là đội đặc nhiệm“A”, và “Zenit” cũng vậy.
Chiếc xe “UAZ” của đại tá Boiarinov – chủ nhiệm một phân khoa thuộc trường Cao đẳng nghiệp vụ KGB bị nhồi nhét cả chục giảng viên. Họ đang di chuyển từ một điểm diễn tập này sang điểm khác. Không ai muốn đi bộ – đang là ban đêm, trời tối, đường lầy lội. Thà chen chúc trên xe còn hơn được thoải mái nhưng phải đi bộ. “Grisa”, tức chủ nhiệmphân khoa theo cách gọi thân tình của các giảng viên, ngồi ở phía trước, ở vị trí người dẫn đường. Họ đi rất lâu. Chiếc “UAZ” vòng vèo trong đêm tối qua những con đường rừng, luồng đèn pha chiếu sáng khi thì những thân cây bạch dương trắng bên đường, khi một khu rừng đen ngòmcâmlặng, hoặc một bụi cây rậmrạp giữa đường. Các sĩ quan đã liếc đồng hồ; tính thời gian lẽ ra họ phải đến nơi rồi.
- Grisa lạc đường rồi, – một giảng viên trẻ thì thầmvừa đủ nghe, – đấy, phiền toái rồi.
- Cậu cứ ngồi thử vào chỗ ông ta xem. Đồ lắm điều! – Một người khác lên tiếng bênh Boiarinov. Mọi vật lại chìm trong đêm tối, con đường vừa được cơn mưa rửa sạch hiện ra mờ mờ. Boiarinov trước đó có vẻ như thiu thiu ngủ bỗng rùng mình, nghiêng sang phía người lái xe:
- Từ từ, Vaxia, sắp tớisẽ là chỗ ngoặt nhỏ, cậu bámsát mép đường bên trái và phanh lại nhé.
- Sao thế, Grigori Ivanovich, – mọi người trong xe đùa, – có mìn à?
Đại tá không trả lời. Chiếc “UAZ” phanh gấp lại. Boiarinov mở cửa xe nhìn vào bóng đêmrồi thở dài hài lòng. - Đúng rồi – chú chimnhỏ của tôi, chú chimthân yêu ẩn mình trong tổ. Và đã đẻ trứng rồi.
Ông gật đầu với người lái xe:
- Đi tiếp đi, nhẹ nhàng thôi. Đừng rồ ga, kẻo làmnó sợ.
Chiếc xe lắc lư và bò về phía trước gần như không gây tiếng động. Trong xe mọi người im lặng. Grisa là thế đấy. Sau khi rẽ ngoặt, xe lọt vào khoảng rừng trống quen thuộc.
- Xong, các anh em xuống xe thôi, – Boiarinov nói. – Đây là điểm huấn luyện thứ ba. Đúng kế hoạch… Còn Anatoli Alecxeevich, cứ ngồi đấy cái đã, – ông nói với Nabocov, một giảng viên trong khoa. – Có việc cho anh đấy.
Nabocov quan sát mấy giáo viên trẻ chui ra khỏi xe và ngạc nhiên nhìn Boiarinov. Họ đã nghĩ là Grisa lạc đường. Thật ngốc, Grisa không thể lạc đường. Grisa là – thánh định hướng, như chim cú, nhìn cả được trong đêm. Và rừng với ông là cuốn sách thuộc nằm lòng. Làm sao ông có được khả năng như vậy? Nhờ chiến tranh. Ông đã hoạt động du kích, chiến đấu trong quân đội, chỉ huy một trường đào tạo các thiện xạ, huấn luyện biệt kích phá hoại để tung vào hậu phương địch, bản thân nhiều lần ngồi máy bay vượt qua trận tuyến. Boiarinov quay sang phía Nabocov:
- Tolia, chúng ta sẽ quay về Moxcva.
- Về Moxcva là thế nào? Còn đợt diễn tập thìsao, Grigori Ivanovich?
- Đợt diễn tập sẽ kết thúc vắng chúng ta.
- Chuyện gì xảy ra vậy?
- Biết nói cho cậu thế nào đây, – Boiarinov im lặng lấy mu bàn tay xoa xoa hàm râu lởm chởm. – Tôi cũng muốn tin là sẽ không có chuyện gì nghiêmtrọng xảy ra cả. Nói tómlại, ta phải thay đổi chương trình học tập rồi.
- Tăng thêmthời gian đào tạo?
- Không, rút ngắn đi. Khóa học này sẽ ra trường vào tháng bảy chứ không phải tháng tám.
- Còn sau đó?
- Nhiệmvụ đặc biệt. Afghanistan.
- Afghanistan ư? – Naboeov ngạc nhiên. Tên gọi đất nước xa xôi đó vang lên quá bất ngờ khiến anh khó khăn lắm mới nhớ được hình dáng nó trên bản đồ.
- Tôi chờ các đề xuất thay đổi chương trình của anh vào ngày mai…
Trở về Moxcva, họ bắt tay thiết kế lại chương trình đào tạo. Tính toán lại, soát xét, xáo trộn, tăng thêm thời lượng cho các khoa mục chiến đấu như trinh sát phục kích, đột kích. Nói tómlại là chuẩn bị truyền cho học viên những điều cần thiết trong chiến tranh.
Hai tuần huấn luyện trôi qua. Có lệnh từ trên: Tuyển người vào đội đặc nhiệm“Zenit”. Đơn vị đã được đặt một cái tên quy ước như thế. Một vị tướng đến. Ông ta không nói nhiều. Chỉ nhắc lại những gì mà ai cũng đã biết và khi kết thúc buổi nói chuyện, ông ta hỏi, ai thấy mình chưa đủ sẵn sàng để thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Cả hội trường không tiếng động. “Nghĩa là, tất cả đã sẵn sàng!” – người đại diện cho ban lãnh đạo KGB kết luận. Nhưng Boiarinov và phân khoa của ông có ý kiến riêng. Họ thành lập một tiểu ban kiểm tra tư cách và đánh giá từng học viên, cân nhắc ưu khuyết điểm rồi loại bớt mười người. Lần đầu tiên trong đời Nabocov nhìn thấy một người đàn ông, một nhân viên KGB khóc. Anh bị loại vì cho rằng chưa đủ sẵn sàng về mặt tâm lí trước những thử thách nặng nề trong chiến đấu. Cả mười người tấn công phòng làm việc của Boiarinov từ sáng sớm, đòi hỏi, van xin chứng minh, nhưng chủ nhiệm phân khoa không xiêu lòng. Thậm chí các giảng viên cũng coi sự cứng rắn của Grigori Ivanovich là nghiêm khắc quá. Họ tìm cách xin xỏ giúp mấy người. Chỉ một vài tháng sau, một bài học sống còn đau xót đã chứng tỏ Boiarinov đúng. Chuyện là đội “Zenit” đợt đầu kết thúc chuyến công tác vào tháng chín. Bắt đầu sự thay thế dần dần. Vì không đủ người, người ta quyết định bỏ qua ý kiến nhận xét của tiểu ban Boiarinov với lập luận là tất cả đều là các sĩ quan KGB được huấn luyện chu đáo và qua kiểmtra thực tế không chỉ một lần nên không cần tuyển chọn gì hết.
Kết quả là trong đợt bổ sung quân lần hai, có những học viên đã bị tiểu ban Boiarinov loại được chấp nhận. Các chiến sĩ lâm trận ngay vùng chảo lửa với cuộc tấn công vào dinh tổng thống Amin. Hai người trong số đó hi sinh, người thứ ba bị thương nặng và chết trên đường về Liên Xô. Người thứ tư sau đó cũng bị nạn ở Afghanistan, bị thương nặng. Sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng? Chưa chắc. Người ta nói đại tá Boiarinov rất giỏi nhìn người. Có nên phái những sĩ quan như vậy vào lò lửa chiến tranh không? Không, tất nhiên là không. Có thể sẽ tìm được cho họ những công việc ở hậu phương. Nhưng mọi chuyện đó sau này mới lộ rõ, khi mà Boiarinov không còn sống nữa.
Tháng bảy năm1979, đội đặc nhiệm“Zenit” được điều sang Afghanistan. Chỉ huy đội là phó tiến sĩ khoa học quân sự, phó giáo sư, đại
tá Boiarinov Grigori Ivanovich. Tháng chín, Boiarinov từ Afghanistan trở về ông cùng Nabocov đã có cuộc chuyện trò rất lâu. Nabocov nói anh sẵn lòng thay ông sang Afghanistan, thậm chí còn than phiền là các giáo viên trẻ hơn cũng đã đi cả còn anh vẫn không được đi. Boiarinov cười, đặt tay lên vai anh ân cần như người cha:
- Đừng sốt ruột Tolia. Trong lòng tôi cảm thấy Afghanistan sẽ còn hành chúng ta lâu đấy. Nghe có vẻ cay đắng, song tôi sợ sẽ còn rất lâu đấy. Rồi ông nói thêm:
- Hãy tin tôi, anh bạn…
Hàng trăm phóng viên và các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước cố tìm câu trả lời cho vấn đề mà đến nay vẫn khiến cả thế giới quan tâmlà: Bằng cách nào Babrac Carmal đã từ Tiệp Khắc trở về được Cabul? Người ta cố tìmcách khai thác điều bí mật đó ở khắp mọi nơi: Từ các nhà ngoại giao, tướng lĩnh, các nhà hoạt động Đảng và Chính phủ. Có lẽ nhiều người trong số đó rất sung sướng được tiết lộ nhưng họ lại không biết gì. Vậy là hành trình cấp tốc của nhà lãnh đạo Afghanistan từ nước này sang nước khác đã và vẫn sẽ là một bí mật. Còn Babrac thì sao? Không lẽ trong suốt ngần ấy năm mất quyền lực và sống tại Liên Xô, không ai tình cách moi điều bí mật đó sao? Có đấy, và không chỉ một lần. Người ta đã đặt câu hỏi thẳng cho chính Babrac Carmal. Dưới đây là một đoạn đối thoại:
Babrac: Tôi về nước bằng con đường nào – đó là quyết định của đảng chúng tôi…
Phóng viên: Nhưng dù sao thì điều đó đã được thực hiện ra sao thuần túy về mặt kĩ thuật thôi, cuộc trở về của ông ấy mà?
Babrac: Tất nhiên tôi không thể đi qua đường Pakistan hay Iran được. Chỉ có một con đường duy nhất: Qua Moxcva và Taskent. Còn bay như thế nào và bằng máy bay gì là những chi tiết tôi không muốn tiết lộ…
Nhà cựu lãnh đạo Afghanistan đã nóisự thật – con đường trở về của ông đì qua Moxcva và Taskent. Còn về các chi tiết chưa được tiết lộ, tôisẽ trình bày cho quý vị bạn đọc rõ.
Tháng mười hai năm 1979, Moxcva ẩm ướt, mặt đất bùn lầy. Sáu chiến sĩ đội đặc nhiệm “A” do Valentin Ivanovich Sergin chỉ huy bị lệnh báo động dựng dậy lao lên xe bus đến tòa nhà trụ sở Tổng cục I KGB. Chiếc “Paz” trượt bánh trên đường như đi ủng da trơn lao tới cửa ra chính.
- Ôi, xemkìa họ đón chúng ta mới long trọng làmsao! – Izotov ngạc nhiên.
Tất cả dán mắt vào cửa sổ xe: Trên bãi đỗ có ba chiếc “Volga” đen đứng chờ. Lập tức có hai người mặc thường phục bước xuống xe đi về phía chiếc xe bus, Sergin nhảy xuống báo cáo trình diện. Có lệnh “Vào xe!”. Các Chiến sĩ đội “Alfa” ngồi vào vị trí. Những chiếc “Volga” lao vụt đi. Những con đường Moxeva thân thuộc lướt qua. Các chủ nhân xe ngồi ghế sau im lặng như bận ngắm cảnh vật bên ngoài với vẻ thích thú đặc biệt. Các vị khách cũng imlặng; những lúc như thế này hỏi han là không thích hợp. Xe lao như bay trên đường ra khỏi Moxcva. Một chỗ ngoặt, rồi lại một chỗ ngoặt nửa, hai bên đường là những rừng cây xám xịt trơ trụi, không tuyết phủ, vẻ cau có trầmtư. Xe nhạy vòng vèo thừng nửa tiếng rồi rúc đầu vào một chiếc cổng. Ngôi biệt thự ấmcúng nằmsau dãy hàng rào thấp những con đường nhỏ dẫn vào nhà được quét tước sạch sẽ, những đống lá khô úa dồn đống dưới các gốc cây gợi nhớ mùa thu đã trôi qua. Họ được đón vào nhà. Trong một căn phòng, ngồisau chiếc bàn là một người đàn ông to béo đang uống trà trong chiếc tách nhỏ. Họ tự giới thiệu.
Cái tên Boris Siserin của ông béo không gợi điều gì. Có vẻ đó là con người tốt bụng, vui vẻ. ông ta lập tức mời khách khứa vào bàn, mời trà với bánh mì kẹp thịt. Nụ cười của – Siserin có vẻ khiến các vị khách thoải mái, an tâm hơn, xua tan không khí căng thẳng nặng nề mà các đội viên đặc nhiệm “A” cảm thấy từ sáng sớm. Không ai nói gì về lí do báo động, lí do bị gọi đến Tổng cục I và dẫn vào khu rừng ngoại ô Moxcva này. Chỉ còn cách đoán mò. Nhưng họ không phải đợi lâu. Một đại diện ban lãnh đạo Tổng cục I xuất hiện, chào hỏi và nói mấy lời ngắn gọn về nhiệm vụ. Nói tóm lại họ sẽ phải bảo vệ những người sẽ được gặp sau. Bảo vệ cả đêm lẫn ngày, giữ gìn cẩn thận như con ngươi của mắt mình. Sau một phút ngừng lời, ông ta nói thêm: “Đó là những nhân vật tầng cỡ, tạm thời thế giới chưa ai biết và cũng không cần biết đến?”. Thế giới thực ra cũng chưa biết hết những nhân vật thất sủng phải chạy trốn khỏi cơn giận dữ của AMin như Vatandiara, Anahita, Nur. Bên ngoài Afghanistan hiếm người nghe thấy cái tên Babrac Carmal mặc dù ông là bạn chiến đấu của Taraki, một trong những ngườisáng lập Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan, bí thư Trung ương Đảng và từ năm1976 là đạisứ ở Tiệp Khắc. Cái chiến sĩ của đội đặc nhiệm“A” lần đầu tiên gặp họ. Ba người đàn ông và một phụ nữ bước vào phòng, dừng lại. Đứng nhô lên phía trước chừng nửa bước là người đàn ông mặt cháy nắng đen sạm, có cái mũi khoằmlớn và đôi mắt đen thẫm. ông ta vai rộng, có khung xương to, vẻ rắn chắc, ăn mặc theo kiểu người âu với bộ veston may khéo. Boris Siserin giới thiệu: “Đây là Babrac Carmal!”. Cái tên nghe lạ tai. Izotov thầmnhắc lại cho khỏi quên.
- Còn đây là Nur, Ahmad Nur, – Siserin giới thiệu người tiếp theo. Người này còn trẻ nhưng đầu gần như hói bóng, dáng cao lớn. – ông ấy đã họe ở nước ta và biết tiếng Nga.
Nur bối rối gật đầu xác nhận, hàng rìa mảnh chớmbạc khẽ rung nở thoáng một nụ cười.
- Còn đây là bà Anahita! – Siserin tiếp tục, hướng về phía người phụ nữ da ngăm ngăm với lọn tóc đen cuốn gọn quanh đầu. Bà cũng mặc âu phục như Babrac và Nur. Cần phải nói rằng không ai thấy bà cười hay thoáng chút bối rối. Có cảm tưởng là Anahita rất kiêu hãnh và có cá tính. Về sau Siserin giải thích: Bà ta xuất thân giàu có, có học thức cao, luôn ủng hộ nhiệt thành và là người bạn trung thành nhất của Babrac. Sau này khi ông ta bị truất mọi thức vụ, Anahita là một trong số rất ít người ủng hộ tổng bí thư. Đứng cạnh Anahita là một người đàn ông trẻ, cao lớn, khuôn mặt trắng trẻo hơn những người kia. Quả là một anh chàng Afghanistan chính hiệu có mái tóc xoăn và hàng ria đen bóng trong trang phục quân nhân. Vatandjara đúng là quân nhân chuyên nghiệp, một lính tăng, anh hùng của cuộc cách mạng tháng Tư. Chiếc xe tăng chiến đấu của anh hiện được đặt ở quảng trường trước phủ tổng thống. Tháng tư năm 1978, trên chiếc xe tăng này, anh đã dẫn đầu đội xung kích từ Puli – Sarkhi tiến vào thành phố và là đơn vị đầu tiên giao tranh với đội cận vệ quốc gia bảo vệ phủ tổng thống. Còn hiện tại, ở đây, ở vùng ngoại ô Moxcva này, trong căn biệt thự bí mật, anh ta đứng với vẻ suy sụp và thất vọng. Chuyện gì đã xảy ra ở đất nước của họ, nếu các bí thư trung ương Đảng, các anh hùng phải trốn tránh cách xa quê hương hàng ngàn dặm? Gọi là cách mạng thành công nhưng người ta nóisông Cabul bây giờ ngầu đỏ máu. Không lẽ thật như vậy?
- Đấy tất cả chỉ có thế, – vị đại diện kết luận. – Còn bây giờ các anh hãy phân công trách nhiệmcho từng người rồi ở lại đây chờ lệnh. Để tiện giao tiếp và giữ bí mật, người ta đề nghị gọi các vị khách Afghanistan bằng tên người Nga. Siserin phát biểu trước: - Đây là đồng chí Vatandgia Mohamet Axlan. Chọn tên gì hợp hơn nhỉ? Misa hay Xasa?
- Xasa! – Có người đáp.
- Được vậy là Xasa.
Siserin khuyển sang nói tiếng Dari, ê a như hát. Có vẻ anh đang giải thích cho các vị khách Afghanistan về ích lợi của việc sử dụng tên người Nga làmmật danh. Họ gật đầu đồng ý. Công việc của ngày hômnay thế là xong. Dù sao vẫn không thể quen tai khi nghe cái giọng rin rít của Siserin ê a những từ lạ tai, khi nhìn thấy những tia lửa lóe lên trong cặp mắt đen sâu của Babrac, khi nghe cái giọng eo éo như đàn bà của tay lính tăng Vatandjara. Số phận của những người này rồi sẽ ra sao? Sự hiện diện bí mật của họ ở ngôi biệt thự của KGB trong rừng không hề đơn giản. Thời gian lưu lại đây hóa ra cũng ngắn. Có xe đến đón: Những thân cây trơ trụi run rẩy lại lướt qua ngoài cửa xe, rồi sân bay gió lộng. Moxcva lạnh lẽo tiễn biệt. Nhưng Taskent đã đón chào họ bằng vầng mặt trời rực rỡ hoàn toàn không phải của mùa đông, trời ấm. Sát đường băng, những mầm cỏ xanh đội đất nhô lên, mảnh dẻ như tia nắng. Và lại một ngôi nhà nghỉ ngoại ô, chỉ có điều không nhỏ bé giản dị như ngôi nhà ở ngoại ô Moxcva mà là cả một cung điện thực thụ thu nhỏ. Đó là dinh thự của bí thư thứ nhất Trung ương Đảng cộng sản Uzbekistan Rasidov. Bữa tối có rượu, bữa sáng có năm món tùy chọn, những người đẹp phục vụ bàn chu đáo, khiêm nhường. Các chiến sĩ dạo khắp ngôi biệt thự, ngạc nhiên vì điều kiện sống cao cấp ở đây. Họ ở lại biệt thự vẻn vẹn hai ngày. Hành trình tiếp theo vượt qua biên giới Liên Xô – Afghanistan trên rặng núi Ginducusa và dừng ở Bagram là đất Afghanistan. Các vị bộ trưởng thất sủng và đội bảo vệ không còn được thào đón trong các biệt thự lộng lẫy mà là căn hầm đào sẵn gần sân bay. Thời gian dừng lại Bagram của nhóm đặc nhiệm “A” hết sức ngắn ngủi. Ngày 14 tháng mười hai, tín hiệu báo động cắt ngang bữa tồi. Một chiếc máy bay vận tải không phù hiệu đỗ gần sát căn hầm. Viên phi công không tắt động cơ. Trong đám mây cát bụi, các chiến sĩ đặc nhiệm vội vã kèm Babrac Carmal, Anahita, Vatandjara và Nur lên máy bay, chuyển đồ đạc của họ, rồi ném vội tư trang của mình lên theo. Máy bay cất cánh, đột ngột lấy độ cao. Trong khoang mọi người bắt đầu khó thở vì thiếu oxy, viên chỉ huy mời khách vào ca bin của ông ta. Támchiến sĩ đội đặc nhiệm “A”, bốn vị khách Afghanistan và tổ lái chen chúc trong buồng lái. Mọi người đều im lặng. Không ai đoán được lí do của việc rời Bagram vội vã như vậy. Có lẽ đã xảy ra chuyện nằm ngoài kế hoạch. Babrac và những con người lưu vong xa tổ quốc này đang bay đi đâu? Họ có còn dịp ngắm nhìn lại những đỉnh núi thông thái bạc đầu trên rặng Ginducusa, những mái lều thưa thớt tựa đàn cừu chạy tản mát trên thung lũng dọc các triền đồi mờ sẫm, những dòng suối xanh, mỏng mảnh như mạch máu trên tay con trẻ? Vì đâu Alah trừng phạt họ như vậy? Họ đã làm cách mạng, đã ngồi tù, đâu phải cho tên khát máu Amin cai quản đất nước. Tại sao Carmal, một trong những người sáng lập Đảng, cánh tay phải của “người thầy vĩ đại” Nur Taraki, phải đơn độc phiêu bạt trên khắp nẻo đường châu Âu như khách hành hương. Theo lời khuyên của các đồng chí Nga, Babrac đọc vào băng ghi âm lời kêu gọi gửi tới nhân dân của mình. Lời kêu gọi có những câu tuyệt hay: “Sau những thống khổ và giày vò cùng cực ngày tự do và hồi sinh của tất cả các dân tộc anh em Afghanistan đã đến. Ngày hôm nay chúng ta đập tan bộ máy đàn áp của Anmin và bè lũ tay sai lũ đao phủ dã man, lũ khát máu, lũ sát nhân…”. Không ngày tự do chưa đến. Và liệu có đến không? Carmal nhìn xuống phía dưới, lướt trôi dưới đôi cánh bay là Tổ quốc ông. Còn lâu không? Có thể là mãi mãi. Tổ quốc của ông, nỗi đau và cuộc sống của ông. Ông nhìn và khóc.
Đã xảy ra chuyện gì vào các ngày 12-14 tháng mười hai ở Cabul? Tại sao mấy vị bộ trưởng bị thất sủng đứng đầu là Babrac phải cấp tốc rời Bagram? Những đánh giá về sự kiện này không giống nhau. Có hai giả thuyết. Thứ nhất người ta đoán hình như Amin biết Babrac và các chiến hữu của ông ta đã trở về nên họ buột phải sơ tán gấp. Những người ủng hộ giả thuyết thứ hai khẳng định sở dĩ như vậy vì có một chiến dịch quân sự dự định nhưng không triển khai được vào thời điểm này. Khó có thể khẳng định hay bác bỏ giả thuyết thứ nhất: Vì Amin đã chết từ lâu. Còn về chiến dịch thì quả có một chiến dịch đã được chuẩn bị…
Ngày 12 tháng mười hai, một vị tướng cho gọi thiếu tá KGB Iakov Phedorovieh Xemenov, chỉ huy đơn vị đặc nhiệm “Zenit” đồn trú ở Cabul. Ông ta ở bên quân đội, thuộc lực lượng quân dù. Cuộc họp có sự góp mặt của các sĩ quan “Tiểu đoàn Hồi giáo”. Họ thảo luận các bước một chiến dịch mà Xemenov chẳng có khái niệm gì. Viên tướng chịu trách nhiệm phối hợp hoạt động của đội “Zenit” với các đơn vị quân đội, quay sang nói với thiếu tá:
- Đơn vị của đồng chí phải tiến sát mục tiêu. Thời điểm“G”…
Thiếu tá không nén nổi, đánh bạo vi phạmquân kỷ, ngắt lời viên tướng:
- Mục tiêu nào, thưa đồng chí?
Đến lượt viên tướng ngạc nhiên:
- Sao, đồng chí không biết à?
- Tôi không biết.
“Quỷ thật, – viên tướng nghĩ, – lại có chuyện trục trặc giữa các bộ rồi!”. Ông chỉ tay lên tấmbản đồ.
- Đây nó đây, đồng chí xemđi, cái lâu đài ấy…
- Thưa rõ, thế còn sơ đồ, lực lượng, các phương tiện bảo vệ?
Viên tướng hoàn toàn không thể hiểu nổi. Các cố vấn KGB ăn ngủ ngày đêm trong lâu đài mà vào thời điểm quyết định viên thiếu tá của họ chẳng biết gì cả. Nhưng ông ta cố giữ bình tĩnh. Thiếu tá không có lỗi.
- Thôi được, – viên tướng mệt mỏi nói. – Tôi cho đồng chí hai giờ đồng hồ, đồng chí Xemenov, hãy suy nghĩ xemcó thể làmđược gì.
Cuộc họp kết thúc. Hai giờ đồng hồ không là nhiều nhưng Xemenov cũng thăm dò được đôi chút: Phía đối phương có hai nghìn quân cận vệ, mười một xe tăng, trong đó có hai thiếc chôn dưới đất chỉ lộ tháp pháo ở ngay cổng. Còn sau cổng thì có trời biết thế nào. Sân lâu đài đã hẳn không thể trống không được. Xemenov có hai xe pháo cao xạ tự hành “Silka”, sáu xe bọc thép và 25 chiến sĩ. Tỉ lệ quân là 1:100; còn về khí tài bọc thép thằng ngốc cũng có thể so sánh được: Xe tăng và xe bọc thép chở quân (BTR) cũng tương tự như con voi và con muỗi. Xemenov có cảmgiác họ đang chơi một trò trẻ con và tất cả chuyện này không nghiêmtúc chút nào. Nhưng khi thời hạn ấn định hai tiếng đồng hồ kết thúc, khẩu lệnh chiến đấu vang lên: “Vào vị trí”, vừa leo lên chiếc xe bọc thép thiếu tá vừa đột nhiên hiểu rõ lịch sử đã chẳng dạy cho chúng tôi được điều gì – và chúng tôi lại chủ quan không hiểu gì về kẻ địch của mình. Nhưng ngày hômđó hình như không chỉ Xemenov nhớ lại lịch sử. Lệnh chiến đấu được rút lại. Sau một ngày đêm nữa sẽ xuất kích. Nhưng Xemenov cảm thấy bồn chồn lo lắng, anh đến chỗ vị tướng xin phép vào thành phố tìm hiểu mục tiêu sắp tấn công. Vị tướng không phản đối. Chỉ nhắc anh cẩn thận. Nhưng việc đó thì một viên tướng chỉ huy quân đội có lẽ khỏi cần nhắc một thiếu tá cơ quan an ninh quốc gia, giảng viên chuyên khoa trường Cao đẳng KGB. Bản thân anh đã là người dạy cách cẩn trọng và bảo mật cho các sĩ quan trẻ của mình. Xemenov không để mất thời gian. Anh thay quần áo và lên đường. Anh “chạy vòng” khắp Cabul, xemxét các hướng tiếp cận và các lối xe vào. Sau đó anh để xe lại và đi bộ một vòng quanh lâu đài. Một lần nữa anh lại thấmthía câu châmngôn cũ của quân đội: Hễ có cơ hội tìmhiểu thực địa chiến trường thì phải lập tức tận dụng. Báo cáo tình báo có vẻ đầy đủ: Cả số lượng xe tăng, được khôn xuống đất, hay được bố trí ở các vị trí
khác như thế nào, cả lực lượng quân cận vệ, nhưng chỉ dừng lại ở lực lượng bảo vệ cung điện. Sát bên cạnh cung điện là Bộ Tổng tham mưu quân đội Afghanistan vậy mà không hề thấy nhắc đến. Bộ Tổng tham mưu không phải là Bộ Nông nghiệp. Đây là nơi lực lượng bảo vệ mạnh, có vũ khí phòng không, sĩ quan Bộ Tổng tham mưu đều là những người biết bắn súng. Với ý nghĩ đầy lo lắng đó, Xemenov trở về Bagram báo cáo lại với viên tướng. Ông ta nhăn nhó lắng nghe với vẻ nhẫn nại. Nhưng cuối cùng lại hỏi: “Thế đồng chí quyết định ra sao?”. Ôi, nếu như anh, thiếu tá Xemenov được quyền quyết định thì anh đã đưa các “xe bọc thép” của mình tránh cái nơi tội vạ đó càng xa càng tốt. Nhưng ai sẽ nghe anh đây? Anh cảm thấy vị tướng như cũng bế tắc; hoặc ông sợ phải báo cáo thật tình hình, hoặc bên trên cũng sẽ nghe như cách ông đang nghe viên thiếu tá này. Có thể Moxcva ép xuống mà sức viên tướng quá yếu. Thậm chí nếu huy động toàn bộ “Tiểu đoàn Hồi giáo” và toàn đội “Zenit” thì ưu thế vượt trội vẫn thuộc về đối phương. Thật thú vị nếu biết ai đó lại cần đến kịch bản đẫm máu này! Cần đưa chiến sĩ đến chân tường lâu đài sao? Việc đó quá dễ, chẳng cần phải thông minh gì lắm. Không, Xemenov hiểu rằng, không ai quan tâmtới kịch bản này cả.
Đúng vậy, chiến dịch lại một lần nữa tạm hoãn. Đội đặc nhiệm “Zenit” chuyển đến gần Cabul đóng quân cách “Tiểu đoàn Hồi giáo” không xa…
Bên dưới, giữa những khu vườn rải rác, sừng sững vươn lên lâu đài Dar-ur-aman, dinh thự mới của Haphizulla Amin. Không cần ống nhòm cũng có thể thấy rõ tòa lâu đài hùng vĩ với những bức tường kiên cố viền bởi con đường bê tông xám ngoằn ngoèo trên núi. Bây giờ ngày nào Xemenov cũng đến họp ở sứ quán. Nhiều phương án đánh chiếm dinh thự khác nhau được soạn thảo. Số tướng lĩnh tăng dần lên trong các cuộc họp. Tướng Drozdov thuộc Tổng cục I bay sang. Những sự kiện quan trọng dồn dập xảy ra…
Nabocov là người sau cùng bước lên xe bus. Anh đứng trên bậc xe ngoái nhìn lại. Không thấy Boiarinov đâu Lạ thật, anh nhớ trước đây ông không bao giờ ra xe công vụ chậm trễ cả; chuyến xe này sáng nào cũng đón họ ở địa điểm quy định. “Sao thế nhỉ – Anh lo lắng nghĩ, – Hay ông ấy ốm?”. Anh nhớ những đợt diễn tập gần đây, đến cuộc hành quân hai mươi cây số mà Grisa tham gia cùng một nhóm học viên. Khó tưởng tượng nổi viên đại tá khỏe mạnh như vậy lại ốm. Ngày hôm qua họ còn gặp nhau cơ mà. Boiarinov trông vẫn phong độ. Chỉ khi nhìn thấy ánh đèn trong phòng làm việc của trưởng phân khoa, Nabocov mới thở phào nhẹ nhõm. Anh vào phòng giáo viên. Cửa phòng làm việc của Boiarinov chỉ khép hờ, qua khe cửa anh thấy ông mặc thường phục: Một chiếc áo chui cổ, khoát áo len bên ngoài. Thấy Nabocov, Boiarinov mỉmcười niềmnở, gật đầu mời vào:
- Có chuyện gì vậy, Grigori Ivanovich?
- Không, Tolia! Tình hình thay đổi. Tôi phảisang đó.
Nabocov đưa mắt dò hỏi. Anh chưa hiểu.
- Sắp có một chiến dịch quan trọng. Hômqua tôi ở chỗ cục trưởng. Ông rời mắt khỏi mớ giấy tờ trên bàn, so vai vẻ có lỗi: - Tôisợ anh emta được đưa sang đó không phải là để chơi. Tôi đã cố tìm, phải có một lí do gì đó đúng không, Anatoli Alexeivich.
Nabocov còn biết trả lời thế nào nữa: Đúng vậy. Giá như biết được đó là chiến dịch gì. Không được hỏi, nếu cấp trên không nói. Mà có thể chính họ cũng không biết.
- Mình với cậu, cứ như trong sách giáo khoa viết: “đột kích – là cuộc tấn công bất ngờ được tổ chức chu đáo vào mục tiêu cố định của đối phương nhằm mục đích… vân vân và vân vân…”. Có phải thế không? Vậy những người chuẩn bị cuộc đột kích có biết cần có gì trong tay không?
Nabocov khoa tay:
- Có lẽ họ biết…
Boiarinov cười cay đắng.
- Lạy trời, Tolia. Lạy trời được như thế…
Boiarinov định nói gì Nabocov mãi mãi không thể biết đích xác được. Có phải ông không mấy tin tưởng vào những người sang Afghanistan chuẩn bị chiến dịch, không tin vào kinh nghiệm, kiến thức nghiệp vụ của họ hay ông lo cho học viên của mình? Tất nhiên ông cũng đã nắm tin tức chi tiết về cuộc tấn công không thành do chuẩn bị kém và ông thấy nghĩa vụ của mình là phải có lặt ở đó. Boiarinov không chỉ có kinh nghiệm của một nhân viên KGB mà còn dày dạn với cuộc đời hoạt động du kích và phá hoại. Trước khi viết luận án về chiến thuật hoạt động của các đơn vị du kích, Grisa Boiarinov đã nghiên cứu nó trong thực tế. Ông đã từng bị thương. Từng được thưởng Huân chương Cờ đỏ. Nay hơn mươi năm đã trôi qua, những người quen biết Boiarinov lại băn khoăn không hiểu liệu ở thời điểm đó ông có thể từ chối không sang Afghanistan được không? Dù sao ông cũng đã 57 tuổi, có thể không đi ra nơi mũi tên hòn đạn…
Tất cả những người đã cùng ông tấn công dinh thự của Amin chỉ đáng tuổi con, thậm chí là cháu của ông. Không, ông không thể không đi được. Không chỉ vì ý định cấp trên mà còn vì ông, Grigori Boiarinov, một cựu chiến binh, nhà giáo, một đại tá KGB – ông không thể hành động khác được.
Còn nhớ một sĩ quan đã khóc trong văn phòng của ông khi bị gạt khỏi danh sách đi Afghanistan? Trong cuộc sống hàng ngày, với chúng tôi nước mắt là một cái gì đó rất xa lạ. Nhưng đúng là như thế thật! Mọi người ở đây đều coi chuyện một nhân viên KGB bị gạt khỏi danh sách đi thực hiện nhiệm vụ đặc biệt là nhục nhã. Vậy thì làm sao Boiarinov có thể tự loại mình. Chỉ nghĩ đến thôi cũng đã nực cười rồi…
… 10 giờ sáng, cả phân khoa tập trung. Boiarinov bàn giao công việc chỉ đạo cho người phó của mình là Vladimir Mikhailovieh Xanicov. Tiệc dọn ra, mỗi người cạn một cốc rượu trăm gram rồi ra sân bay Scalov. Boiarinov bay rồi, các đồng nghiệp của ông như Nabocov, Vaxiucov, Bolotov còn đứng lại hút thuốc. Nabocov và Bolotov thỉnh thoảng trao đổi vài lời, Vaxiucov im lặng cau có. Sau đó ông nhìn hai người kia, mắt nheo vì khói:
- Có điều gì đó ở Grisa hômnay tôi không thích lắm.
Nabocov chợt nghĩ anh tán thành nhận xét này. Như có bóng đen nào đó trên khuôn mặt Boiarinov…Có phải chính là bóng tử thần đã lướt qua?
Sáng 23 tháng mười hai, tướng Bestrastnov đến nơi đội đặc nhiệm “A” đóng quân. Chiếc “Volga” nghiến trên đường lạo xạo. Những chiếc ô tô chen chúc dừng lại nơi cột đèn tín hiệu. Đám đông người lũ lượt qua đường, người Moxcva vội vã đến công sở. Vị tướng khép hờ mi mắt, thái dương đau nhức, hậu quả của một đêm mất ngủ. Các ý nghĩ dồn dập lướt qua… Có thể ông không biết hết mọi điều. Chắc là vậy. Nhưng chỉ với những điều biết được ông đã đủ cảm thấy biên giới phía Nam đang dậy mùi thuốc súng. Lần đầu tiên sau suốt bao năm bao năm… Chính phủ có thể lo ngại về Trung Quốc, Pakistan, Iran… Bất kì nước nào cũng có thể, song không là Afghanistan. Đất nước châu Á ấy nhiều thế kỉ nay không có gì đáng ngại… Các chính trị gia, nhà ngoại giao và Bộ Tổng tham mưu đã quen nghĩ vậy. Cả KGB cũng thế. Nói chung, Afghanistan không khiến ai phải đau đầu. Đất nước ấy vẫn như thế từ hồi còn quốc vương, dưới chính thể Dauda và cả trước nữa, khi khan Emmanula chút nữa đã kết bạn với Lenin. Nay ở đó là Amin. Mới nửa năm trước thôi hắn ta còn thề thốt trung thành và yêu kính Taraki. Hắn đã nói thế nào nhỉ? “Tôi thà mất Afghanistan chứ không bao giờ đồng ý để mất người thầy, người lãnh tụ yêu quý của mình”. Vị “lãnh tụ yêu quý” đã đáp lời: “Tôi và Haphizulla Amin là anh em thân thiết như chân với – tay”. Thế mà sau đó tay chân của Amin đã dã man bóp chết Taraki. Nói tóm lại – đó là phương Đông. Sau khi Taraki bị giết, KGB đã bắt được một bức điện mật mã của người Mỹ. Bestrastnov đã được đọc nội dung: “Chính quyền Xô Viết không hào hứng nhưng hiểu rằng họ đành phải ủng hộ con người độc ác và đầy tham vọng Amin”. Các đồng nghiệp CIA là những con người thật thú vị. Amin chôn sống những người ủng hộ Taraki trong hố đổ đầy clorua canxi. Số phận hàng ngàn người tan tác như tàn tro trước gió. Amin lùa người ta lên máy bay đưa tới đỉnh Ginducusa rồi mở khoang bụng máy bay và gọi đó là “đổ bộ”. Chính quyền Xô Viết không còn cách nào khác đành phải chấp nhận. Và chờ. Họ chờ cái gì? Chờ tên quốc trưởng độc tài châu Á ấy bóp chết nửa đất nước như hắn đã bóp chết người thầy kính yêu của mình và bán mình lấy đô la của Mỹ để người Mỹ xuất hiện trên biên giới phía Nam Liên Xô? Nhưng cái gút đã thắt chặt lại rồi, và người gỡ lại là các chiến sĩ của ông. Có gỡ được không? Dễ đến phải dùng rìu mà chặt…Mà chặt củi ắt có vụn…Mong sao chỉ là vụn…
Hai đội phó – thiếu tá Ivon và Romanov ra đón ông tận cửa xe. Zaixev đang nằm bệnh viện. Ivon cũng đã mất sức chiến đấu vì trong đợt huấn luyện đổ bộ nhảy dù anh đã bị trẹo chân, đi đứng rất khó nhọc. Có nghĩa chỉ còn Romanov… ông phải thừa nhận là mình thấy mừng vì cuộc sống đã run rủi như thế. Romanov có mặt ở đơn vị ngay từ những ngày đầu, đã đích thân tổ chức tuyển người. Anh em tin tưởng ở anh. Vợ anh chắc cũng thông cảm, vì cô cũng là nhân viên KGB.
- Nào Romanov, – vị tướng thở nặng nhọc, – đã đến lúc phải làmviệc cật lực rồi.
Khi ấy trên cương vị cục trưởng ông có biết mình đang đưa người đi đâu không nhỉ? Có vẻ như biết. Còn giờ đây, năm tháng trôi qua, mới rõ là ông cũng chỉ dự cảm về những nhiệm vụ nặng nhọc mà thôi. Ông cố gắng để thiếu tá hiểu và cảm nhận được dự cảm và nỗi lo lắng đó. Qua anh, một trong những sĩ quan chỉ huy đầu tiên của cuộc chiến khốc liệt kéo dài mười năm dự cảm đó sẽ đến với lớp chiến sĩ đầu tiên, những thương binh đầu tiên và anh hùng đầu tiên. Tên họ sẽ mở ra trang đầu danh sách bi thương những liệt sĩ hi sinh trên đất Afghanistan. Những người vợ bất hạnh phủ phục bên quan tài sẽ không hiểu nổi chồng mình dâng hiến cuộc đời cho cái gì. Người ta sẽ nói với họ là cho Tổ quốc. Vậy tại sao Tổ quốc vội vã chôn thi thể liệt sĩ nhưng không cho khắc lên bia mộ nơi họ ngã xuống? Tại sao lại chỉ dành cho mức trợ cấp ít ỏi rồi bỏ bẵng cả chục năm trời? Tổ quốc ơi, Người sẽ ra sao nếu Người không quý yêu những đứa con của mình? Bạn bè của họ sẽ không quên, sẽ an ủi, giúp đỡ, khích lệ. Nhưng đó là chuyện sau này, còn bây giờ “Mikhalưs” như bạn bè quen gọi thiếu tá một cách thân mật trong đơn vị, đang đứng nghiêmtrước mặt cấp trên.
- Cậu hiểu không – vị tướng cố gắng mỉm cười, – ban chỉ huy cho rằng chỉ cậu mới hoàn thành nổi nhiệm vụ này. Hãy tập hợp người. Nhiệm vụ này hết sức quan trọng, tầm quốc gia… nên chỉ chọn những người tình nguyện, tốt nhất là chưa vợ. – Bestrastnov im lặng rất lâu và buồn rầu, nhìn thiếu tá với cái nhìn của một người cha:
- Những người xuất sắc nhất trong nhưng người xuất sắc, – ông tiếp tục, – những tay cừ khôi, Romanov ạ. Ở đó người ta sẽ bắn vào các cậu đấy. Hiểu tôi nói không?
- Rõ thưa tướng quân, – thiếu tá đáp rõ ràng theo quân lệnh. Nhưng hình như Bestrastnov không thích cách trả lời ấy lắm. Nó khô khan nhợt nhạt. Nhưng thôi, mặc kệ, đã đến lúc phải chuẩn bị quân trang, vũ khí. Chỉ một lời của vị tướng là mọi bánh xe sẽ khởi động ngay, quay tròn và sau một giờ là đội đặc nhiệm “A” đã sẵn sàng chiến đấu. Romanov đợi lời nói đó. Nhưng Bestrastnov lại nói sang chuyện khác hẳn:
- Độ hai, ba tiếng nữa đồng chí hãy cho anh em về thăm gia đình. Hãy bịa chuyện là chuẩn bị có đợt diễn tập. Người thì đi Iaroxlav, người thì đi Balasikha. Còn câu hỏi gì khác nữa không?
- Vũ khí, thưa trung tướng? – Romanov lên tiếng.
Vị tướng giơ tay ngăn anh lại:
- Vũ khí và đạn dược theo cơ số tối đa.
Ivon và Romanov tập hợp toàn đội. Họ truyền đạt mệnh lệnh. Và không quên điều chủ yếu: Ở đó người ta sẽ bắn vào họ. Các chiến sĩ tiếp nhận thông báo một cách bình thản. Bọn chúng sẽ bắn, – thì có sao, họ đã rèn luyện từng ấy năm cuối cùng cũng chỉ để đương đầu với điều đó. Đã được huấn luyện, nhưng chẳng lẽ cho điều này?
Mọi người về thăm gia đình. Romanov quyết định không bịa chuyện. Quỷ tha ma bắt cái thành phố Balasikha ấy! Không lẽ lại nói dối vợ? Họ ngồi với nhau và nói chuyện. Vợ anh tìm cánh an ủi: Không sao anh yêu chúng mình sẽ vượt qua. Đâu phải lần đầu… Khi còi xe giục giã dưới cửa sổ, Romanov lấy từ trên mắecxuống chiếu áo khoác của võ sĩ Judô gắn đầy huy chương huy hiệu, kí vào dải thắt lưng và trao cho đứa con trai để cậu nhớ đến bố. Họ ôm nhau tạm biệt. Ngay lúc đó Volodia Grisin hiện ra trên ngưỡng cửa. Trông thấy anh ta, vợ Romanov thay đổi nét mặt. Họ quen nhau, trước đây đã cùng công tác trong một đơn vị.
- Sao lại kéo Vovca vào chuyện này? Anh ấy có hai con nhỏ mà.
Romanov lạnh người. Đúng vậy, cậu ấy có đứa con đang ẵm ngửa. Công việc bề bộn gấp gáp làm anh quên mất. Mà Grisin thì ngậm tămkhông nói gì. Họ cùng nhau xuống dưới nhà ngồi vào xe:
- Volodia, ở đơn vị cậu được xếp vào diện đông con. Còn nhớ Bestrastnov nói gì không?
Grisin lặng thinh, sang số tăng tốc độ. Suốt đường đi Romanov thuyết phục anh ở lại, nhưng lại nghĩ làmsao đơn vị thiếu Vovca được? Anh ta lái xe như xiếc, bắn súng miễn chê và còn là kiện tướng thể thao. Một chàng trai đáng tin cậy. Họ đến đơn vị mà vẫn chưa thỏa thuận được gì. Ở cửa phòng làmviệc Romanov gặp Gleb Tolschicov, một người đồng chí cũ. Hiện anh ta chỉ huy một tiểu đội:
- Anh đã đến, hay quá! – Romanov vui mừng nói, – Mời vào đây xem danh sách các chiến sĩ của mình. Gleb đọc danh sách. Về cơ bản đồng ý với danh sách đề cử nhưng nhắc thêmRomanov là một trong số các chiến sĩ đó đang bị đau chân.
- Được thôi, – Romanov nói – sẽ gạch tên anh ta đi.
Nhưng bất chợt Gleb nhận ra tên của mình không có trong danh sách chiến đấu. Anh xem lại danh sách lần nữa: Không có Tolschicov thật.
- Misa, có điều gì đó mình không hiểu, đội của mình đi mà mình thì không?
- Làmthế nào được, – Romanov nói, – cũng phải có ai đó ở lại trông nomchứ. Lần sau cậu sẽ đi…
Mạch máu bên thái dương đập mạnh, đã lâu không có chuyện như thế này với Tolschicov. Là võ sĩ quyền Anh, anh biết tự kiềm chế. Nhưng lần này thì không.
- Misa, nếu không có tên trong danh sách cùng anh em, ngày mai tôi không thèmnhìn mặt anh nữa.
Rồi anh ta quay ngoắt người bước ra.
- Đợi đã Gleb, – Romanov gọi với theo nhưng Tolschicov đã đi xa. Nhưng vài phút sau anh đã quay lại.
- Đừng nóng, – Romanov phân trần. – Cơ cấu đã được duyệt. Mình biết làmgì bây giờ, lên gặp Bestrastnov ư? - Đi gặp đi, – Gleb đáp gọn.
Đành phải gọi điện cho cục trưởng và giải thích. Bestrastnov nghe xong liền tránh:
- Romanov, anh chàng Tolschicov của cậu đã già. Chúng ta đã bàn rồi mà…
- Đồng chí trung tướng đúng là anh ta phải nhường chỗ cho bọn trẻ, nhưng chúng ta có thể để anh ấy ở vị trí yểmtrợ. Nhà vô định liên bang môn quyền Anh đấy.
Bestrastnov đầu hàng. Tolsehieov được bổ sung vào danh sách. Grisin cũng đạt được nguyện vọng. Không ai thuyết phục được anh ở lại. Đất Afghanistan xa lạ đang đợi họ phía trước.
Đại úy Gennadi Zudin thích món thịt rán nhà làm. Còn nóng sốt, vừa dọn từ chảo ra. Cô vợ Nina của anh rất biết cách nấu nướng, miếng thịt thơm nức, hơi xém vàng, khi nhai giòn và ngọt. Gennadi vừa ăn vừa nhìn khuôn mặt hồng hào, ửng đỏ vì hơi nóng lò bếp của vợ. Anh lấy được Nina thực may. Họ gặp nhau tình cờ. Cưới ngay lập tức, không đắn đo. Cô là một người phụ nữ tốt bụng nhỏ nhắn, giàu tình cảm. Không cật vấn lắm lời. Anh chỉ cần nói đi công tác là xong. Đi đâu, làm gì là nhưng câu hỏi không được chấp nhận trong gia đình của họ. Mà anh có biết gì hơn đâu? Hình như là sang Afghanistan bảo vệ sứ quán. Anh không phải người đầu tiên, cũng không phải người cuối cùng. Hai tháng trước Colia Berlev đã từ đó về, còn Sergin đang ở đó cùng Cartofelnicov và nhưng người khác. Trước đây người ta cũng đưa họ sang đấy nhưng không có huấn thị gì đặc biệt, còn hômnay đích thân Bestrastnov đã đến. Dù từ trước đến giờ Bestrastnov không quên họ, nhưng câu “người ta sẽ bắn vào các anh” gây vết hằn đau đớn trong nhận thức. Zudin nhớ lại nét mặt của vị tướng. Dường như trên đó không thấy một nét lo lắng nào. Vậy tại sao ông nói câu đó? Để dọa chăng? Bestrastnov không thích dọa
dẫm. Để mọi người hiểu sang đó không phải ngon ăn chăng? Ông đâu có phải là tướng Piroscov. Ông này thường thích làm cho mọi việc trở nên căng thẳng – để không ai dám ho he gì. Mà nói chung họ nghe những lời tương tự cũng chẳng phải là ít. Đội đặc nhiệm chống khủng bố không phải đoàn múa ba lê. Nhưng dù sao trong lòng vẫn thấy bất an. Gennadi gạt đĩa ra, cám ơn vợ, rồi nhấc nhấc gói đồ ăn khá nặng vợ chuẩn bịsẵn:
- Nina, anh không được lên cân đâu. Khéo bị đuổi ra khỏi đội đấy.
- Không sao, – vợ anh cười, – đời còn nhiều người tốt lắm.
Anh ngó vào trong bọc. Đã bảo đừng bỏ chanh vào mà cô ấy cứ bỏ. Anh lôi mấy quả chanh ra.
- Cái này để cho con gái. Để emuống chè.
Vợ anh định phản đối, nhưng anh đặt ngón tay lên môi chị.
- Imnào, emyêu, imnào. Nơi anh đến cái của này vô khối. Hiểu không?
Nina chỉ nhún vai không cãi. Vô khối thì vô khối. Đã đến lúc chia tay. Đứa con gái nhỏ, cục cưng của bố chạy vào hôn anh tới tấp. Đứa lớn đã đến tuổi cập kê đang học lớp mười, chìa má: “Đừng buồn, bố nhé!”. Chị tiễn anh đến đầu hồi nhà. Những người ruột thịt, những người yêu quý, không ai trong họ biết rằng đây là lần gặp cuối, lần cuối cùng. Nina tiễn chồng xong, quay vào nhà chăm sóc đứa con gái út. Cô bé mới học lớp một, bận với nó vô cùng. Nào tập viết, tập đọc… Mãi chiều tối chị mới ngó vào nhà bếp. Ngó vào và thốt kêu lên: Bọc đồ ăn Gennadi cầmđi nhưng bọc đựng quần anh lại để quên. Chị vội đâmbổ đến máy điện thoại, gọi vào đơn vị, hóa ra họ còn ở đấy, chưa đi. Chị khoác palto chạy vội ra phố…Chiếc xe điện bánh hơi đóng ánh cửa xiêu vẹo rít lên ken két rồi buồn bã bò dọc theo đại lộ dài tít tắp. Chị sợ mình đến không kịp nhưng khi gọi điện từ ga tàu điện ngầm thì chính Gennadi lại nhấc máy. Chị giải thích. “Được, em cứ chờ ở đó, anh sẽ đến – anh nói. Gennadi không cho phép chị đến nơi làm việc của anh. Chị thú nhận rằng mình cũng không biết đơn vị của anh đóng ở chỗ nào. Họ gặp nhau ở gần sứ quán cách quảng trường Tháng Mười không xa. Từ xa, trong ánh đèn đường chị nhận ra dáng anh và chạy vội lại, chìa cho anh chiếc bọc.
- Nina! – anh nói vẻ trách móc, – sao lại thế? Emxemhết:giờ xe chạy rồi, anh đưa emvề nhà bằng cách nào đây? - Anh chỉ lo vớ vẩn, emtự về được mà.
Anh không tranh luận cũng không phản đối. Ômchị một lần nữa rồi đi. Có vẻ không có nhiều thời gian. Cuộc gặp cuối cùng này sẽ mãi mãi đọng lại trong tâm trí chị. Chị nghĩ cuộc chia tay có vẻ gấp gáp, cứ như ma đuổi. Anh cắp chiếc bọc dưới nánh đi khuất dần trong têm; còn chị, chí đứng một mình giữa thành phố lạnh giá. Nina ra đại lộ. Nó vắng tanh và câm lặng. Đôi mắt vàng thờ ơ của cột đèn tín hiệu giao thông hắt những vệt lạnh lẽo xuống mấy đống tuyết bẩn ven đường. Tuyết kêu rin rít dưới chân. Một chiết xe tải đơn độc ầmầm chạy tới. Nó phanh lại. Lái xe mở cửa:
- Này, người đẹp vào đi không đóng băng bây giờ?
Khi chị leo vào ca bin, lái xe vui vẻ cười:
- Đi chơi về hả?
Nina bực tức: “Lắmchuyện, sao anh ta dámnghĩ về chị như thế…”.
- Tôi tiễn chồng đi công tác! – Chị nói.
- Hề, đi công tác, vắng anh. Có thế mà cũng buồn.
“Có thể mình không nên thật”. – Nina nghĩ và sực nhớ rằng lúc chạy ra khỏi nhà chị quên không mang theo tiền. Chị sờ khắp các túi, lấy ra một đồng tiền lẻ.
- Anh này, tôi không có tiền để trả anh. Đây, chỉ có 50 copec. Xin lỗi.
- Không sao, – người lái xe đồng ý, – đủ một cốc bia rồi.
Anh ta phanh xe. Nina chìa đồng xu nắm chặt trong bàn tay và bỏ lên mặt bảng đồng hồ. Đồng xu kêu leng keng và biến mất vào một cái khe nào đó. Người lái xe nhổm người lên sau tay lái hi vọng nhìn thấy đồng 50 copec hợp pháp cho cốc bia của mình. Nhưng không thấy.
- Cốc bia của tôi toi rồi. Cô thật chỉ đemlại vận rủi.
Cóthật chị là người đàn bà là rủi ro không? Chị có hai đứa con gái, được chồng yêu. Hạnh phúc viên mãn, còn cần gì thêm nữa? Cánh cửa xe đóng sập lại. Số phận qua lời nói của người lái xe đêm nay đã tiên đoán cho chị một con đường rẽ. Con đường cay đắng của một góa phụ…
Chuyến bay tạm hoãn. Gió mạnh thổi xiên chéo; đài khí tượng không cho phép bay. Các chiến sĩ chất đạn dược lên máy bay và nhận khẩu phần lương khô. Những chiếc vali cá nhân, niềm tự hào của các ý tưởng thiết kế trong đội đặc nhiệm, nhồi nhét đủ các thứ: Từ bàn chải đánh răng đến khẩu tiểu liên, cũng đã được nhất vào khoang. Các chiến sĩ đứng dưới cánh máy bay chụp ảnh kỷ niệm cùng nhau. Khi họ đang đi lên máy bay, tay thợ ảnh Xerioska Ruvlin gọi giật lại. Tất cả quay mặt nhìn xuống. Con mắt dửng dưng của chiếc máy ảnh ghi hình họ lần nữa, lần này là cảnh đứng trên cầu thang máy bay. Đó là tấmảnh các cựu chiến binh đội đặc nhiệm“A” quý nhất. Nó luôn được nâng niu và treo ở những nơi trang trọng nhất trong các ngôi nhà của các chiến sĩ. Nhưng nó cũng chỉ được xuất hiện cách đây không lâu. Số phận tấm ảnh thật hẩm hiu. Gần mười lăm năm nó nằm lặng lẽ trong một cuốn album gia đình. Cơ chế buộc những người lính phải im lặng trong suốt một thời gian dài. Họ không được phép thừa nhận, dù bằng lời hay ánh mắt, là đã tham gia vào các sự kiện đó. Một quan chức KGB cấp cao nhấn mạnh: “Muốn nói gì cũng được – trừ sự thật!”. Nhưng đó là chuyện về sau khoảng mấy tháng hay nửa năm, một năm gì đó. Còn lúc này các chiến sĩ đang trên cầu thang máy bay, mỉm cười, chỉnh tề trong những chiếc áo bay mùa hè, tự tin và vui với nhiệmvụ mà họ đang dấn thân vào…
Nắp ống kính máy ảnh sập lại lần cuối cùng. Cánh cửa ráy bay cũng sập xuống. Chiếc cầu thang đơn độc tách sang bên như mang cuộc đời trước đây của họ vào quá khứ. Không ai kịp nhận thấy vệt bánh xe ẩm ướt trên mặt đường băng sân bay. Động cơ gầm lên ngắt quãng, viên cơ trưởng như cảm thấy con đường trước mặt sẽ vô cùng khó khăn gật đầu với mặt đất đang lùi xa: Xin Chúa phù hộ! Nếu được cầu nguyện họ cũng sẽ sẵn sàng. Nhưng trong những năm tháng đó chuyện này được chấp nhận. Trong khoang máy bay, mọi
người lặng lẽ lo công việc. Không ai biết mình sẽ được chào đón ra sao ở nơi ấy. Chắc không thể có bánh mì và muối được 1 (Người Nga có phong tục đón khách quý bằng bánh mì và muối). Mong sao không phải là những viên ch! Romanov chia đội đặc nhiệmra thành từng cặp như các biên đội máy bay, một tốp trưởng và một yểm hộ. Chẳng hạn anh ghép Pliuxnin và Trudexnov thành một cặp. Họ hợp nhau nhất và luôn biết phối hợp đẹp. Nhưng về thể chất lại khác nhau: Một người cao lớn và săn chắc, người kia thấp hơn và lực lưỡng. Họ đang cùng bay đến Cabul… Jenia Trudexnov là một xạ thủ tuyệt vời còn Xa sa, nếu cần sẽ yểm hộ bằng nắm đấm của một võ sĩ quyền Anh. Rõ ràng họ có thể bù đắp cho nhau. Thực tế sau này ở Afghanistan có nhiều điều thay đổi, không như ý nghĩ đã sắp đặt và chuẩn bị trước. Nhưng biết làmsao được, chiến tranh mà! Máy bay nghỉ tại Dusanbe. Romanov yêu cầu được cấp chăn đệm. Mọi chuyện diễn ra suôn sẻ. Một người nào đó nói đùa là thiếu tá Romanov đã tất bật vô ích: Bay đến nơi sẽ có người lo cho hết. Người khác có thể còn tin, riêng Romanov vốn là tay lõi đời trong hệ thống an ninh quốc gia không chỉ một năm, anh biết chỉ nên dựa vào cố gắng của bản thân chứ đừng hi vọng ở lòng tốt của mấy tay cán bộ hậu cần ăn no béo mập. Họ vượt biên giới vào ban đêm. Các chiến sĩ người thì thiu thiu ngủ, người nhai lương khô, còn thượng úy Sergei Cuvưlin nhìn qua cửa sổ. Anh không ngủ được. Dưới cánh máy bay có những đốm lửa rơi la đà cứ như máy bay gieo chúng xuống cánh đồng đêmmênh mông. Những đốmsáng chấp chới hạ xuống rồi tắt lịmtrên các sườn núi. Đèn trong khoang máy bay thình lình tắt phụt và một phút sau chuồi đốm lửa lùi lài rất xa ở phía sau. “Biên giới!”. Sergei thầm đoán và có cái gì đó làmtrái timanh nhói đau. Anh nhớ mười nămtrước, năm1969, đoàn tàu quân sự đưa các anh từ nước Đức trở về. Buổisáng có ai đó hét toáng lên: “Này các ông bạn phục viên! Biên giới đây này!”. Mọi người ầm ĩ từ các giường nằm nhảy xuống. Đoàn tàu lên chiếc cầu bắc qua sông Bug, chậm rãi và long trọng lăn bánh qua chiếc cột mốc có vạch kẻ với hình quốc huy Liên Xô. Cổ họng anh như nghẹn lại – Tổ quốc đây rồi. Đã hai năm chưa gặp lại bố mẹ, người yêu. Đến Xmolenk, anh xuống ga gửi đi bức điện “Hãy đón anh, anh đang về chuyến tàu… toa số…”. Sau đó anh mới kịp hiểu ra là mình đã làm một chuyện ngớ ngẩn. Tàu của họ đến ga Belorus lúc 4 giờ sáng. Trời còn tối om. Tàu điện ngầm chưa mở cửa, xe bus chưa chạy, đi taxi thì không có tiền. Cuvưlin bồn chồn, lo lắng. Anh nghĩ thà đừng để cô ấy ra đón và nếu cô ấy có không ra đón cũng là đúng. Như vậy anh chắc anh sẽ nhẹ người hơn và đỡ phải xin lỗi vì đã đánh một bức điện ngớ ngẩn. Nhưng cô lại ra đón. Trước mắt anh đến giờ này như vẫn còn hiện rõ cảnh sân ga buổi sớm tinh mơ, mặt trời chưa mọc, tiếng còi tàu lanh lảnh, vẻ ngạc nhiên của các đồng đội cùng ra quân… và cô gái, cửa anh hiền dịu, đáng yêu, ngượng ngùng giấu mặt vào vai anh. Họ cùng ra bến taxi đứng xếp hàng. Dòng người toàn là lính. Cả một chuyến tàu chở toàn lính phục viên mà. Cuvưlin nhìn mãi, nhìn mãi không thỏa vào đôi mắt xanh lấp lánh…Chợt có ai kéo tay áo. Anh ngoảnh lại. Một tay trung sĩ không quen.
- Này, anh bạn đồng hương, cậu đi với người yêu, cứ lên xe đi, không phải xếp hàng nữa.
Sergeisuýt thì nhảy lên ômchầmmà hôn chành trung sĩ…Chiếc taxi đỗ lại. Sergei tiễn cô gái rồi vội vã về nhà mình. Họ cưới nhau năm đó…
Màn đêmngoài cửa sổ máy bay câmlặng và tối tăm. Một đốmlửa đơn độc chợt lóe lên đâu đó rồi tắt ngấm. Đây là Biên giới. Đôi khi có những khái niệmhết sức xa lạ với những lo toan hàng ngày bỗng bất ngờ, không hiểu sao lại xen vào cuộc sống con người. Lần vượt qua biên giới trước anh những muốn hát lên, muốn nhẩy rnúa, tương lai như nắng sớm, ấm áp tuyệt đẹp như vòng tay mẹ. Còn lần này, nó câm lặng khó hiểu, đón anh bằng cái lạnh tháng chạp, không chỉ tương lai mơ hồ mà cả thực tại cũng chẳng rõ ràng gì. Động cơ rung, máy bay đang bay ngược gió. Lờ mờ hiện ra những đỉnh núi trần trụi của dãy Gindueus như con chim khổng lồ dang rộng đôi cánh mạnh mẽ là các sườn núi phủ tuyết, hung hãn lượn trên thung lũng lấp lánh sáng. Từ buồng lái Romanov bước ra.
- Sắp đến Bagramrồi. Chuẩn bị vũ khí đi.
Họ hạ cánh khẩn cấp trên đường băng không tín hiệu đèn và chỉ được chiếu sáng lờ mờ. Máy bay vừa dừng, một luồng đèn pha sáng lòa đột ngột chiếu ập tới. Các chiến sĩ nhanh nhẹn đổ bộ không một tiếng động, vũ khí sẵn sàng. Dường như sau con mắt sáng rực của ngọn đèn pha còn có một cái nhìn chăm chú của ai đó. Quân ta? Hay là quân địch? Các chiến sĩ vừa rời máy bay lập tức có tiếng hô: “Nằm xuống!” ném toàn đội dán mình xuống mặt đất. Nhưng khẩu lệnh phát ra bởi cái giọng khàn khàn như phải cảm đó lại có vẻ như lời chào dịu dàng thân ái của một người bạn tốt. Vì nó vang lên không phải bằng cấp giọng the thé trong cổ của người phương Đông mà nghe dứt khoát đầy uy quyền, bằng tiếng Nga thân thiết.
Các biện pháp đề phòng thận trọng không thừa vì các chiến sĩ đang bảo vệ những nhân vật quan trọng là Babrac Carmal, Guliabzoi, Xarvari, Vatandjara. Sau khi giết hại Taraki, Amin tìm mọi cách bắt tất cả những người này để thủ tiêu. Vất vả lắm họ mới thoát được. Bây giờ họ đã ở đây. Quả là không mấy khó khăn vẫn có thể hình dung chuyện gìsẽ xây ra nếu các nhân viên đặc vụ của Amin đánh hơi được nơi này. Nhóm của Romanov được đón ở cửa hầm bởi những chiến sĩ của nhóm đã bay sang trước là Izotov, Vinogradov, Cartofelnicov. Các chiến sĩ thân thiết ôm hôn nhau và cùng vào bàn uống thứ trà địa phương với mứt và bánh quy Pakistan. Họ cùng nhắc chuyện Moxcva. Đêmấy Cuvưlin thấy một giấc mơ kì quặc. Hình như anh đang đứng trên sân ga Belorus lúc tinh mơ, nhưng không có người yêu. Một hàng người dài đứng đợi tai. Anh lại gần và hỏi ai đứng cuối; nhìn kĩ hóa ra là thiếu tá Gennadi Zudin ở cùng đội. “Egorưs!” – Cuvưlin mừng rỡ gọi. Egorưs thậm chí không buồn ngoái đầu. Có ai đó kéo tay áo Cuvưlin. Thì ra là một trung sĩ: “Nghe này, người anh em, lên xe đi, không cần xếp hàng đâu?”. “Tôi thấy bất tiện lắm…” – Cuvưlin trả lời; anh trung sĩ vẫn khăng khăng: “Lên xe đi, có nghe không, cậu đứng nhầm hàng rồi!’. Anh đã muốn cãi nhưng chưa kịp thì bừng tỉnh dậy. Một giấc mơ thật lạ. Anh mỉm cười rồi quên ngay nó cho đến ba ngày sau, vào buổi tối ngày 27, trên bậc thềmdinh thự của Amin…
Sáng hôm sau xe sứ quán đến đón các vị khách. Thiếu tá Berlev nhận ra người ngồi đằng sau tay lái là Jenia Xemikin. Nhưng anh này đưa ngón tay lên môi ra hiệu: Đừng nói gì, hãy làm như không hề quen nhau. Họ quen nhau hồi Berlev lần đầu sang Afghanistan, khi Xemikin đang làmnhiệmvụ bảo vệ đạisứ.
Buổi tối Berlev đi tìmXemikin. Họ ômchầmlấy nhau.
- Nào Jenia, róc rượu đã, nói chuyện sau!
Xemikin lấy chai rượu rót vào hai cốc. Berlev nâng lên:
- Nếu còn gặp lại nhau thì ta sẽ uống một chầu nữa, còn nếu mình hisinh thì bỏ qua mọi chuyện cho nhau nhé. Xemikin tái mặt:
- Cậu sao thế, Colia, điên à?
- À, à, – Berlev xua tay, – uống đi không rượu nhạt mất. Rồi cậu sẽ biết hết.
Thiếu tá Berlev có vẻ biết nhiều hơn mọi người về cái chiến dịch sắp diễn ra. Anh biết đạisứ Puzanov, biết trưởng ban tình báo Ivanov, đã nhiều lần gặp gỡ Amin. Mỗi khi đại sứ đến dinh thự Amin, Berlev vẫn đứng gác bên cửa phòng hội đàm. Việc bảo vệ Puzanov, Ivanov
và các nhân viên khác của sứ quán được tăng cường sau vụ “Hận thù dân tộc” bắt cóc và giết đại sứ Mỹ Adolf Dabbs. Vụ này xây ra ngày 1 tháng ba. Dịp đó đội đặc nhiệm“A” có một số thành viên ở Cabul. Berlev là một. Và bây giờ anh lại đến, chắc chắn không phải để dạo chơi…
Trưởng ban tình báo Xô Viết tại Afghanistan là Boris Xemenonich Ivanov và phó ban đang nói chuyện với thiếu tá Romanov. Họ mở đầu rằng thiếu tá và chiến sĩ của anh đến Afghanistan hoàn toàn không phải để hít thở không khí miền núi trong lành. Romanov đồng ý. Tự anh cũng biết điều đó và chờ đợi để biết nhiệmvụ cụ thể. Mấy ngày vừa qua với Romanov trôi qua như cơn ác mộng. Anh sẽ đưa các chiến sĩ của mình lâm trận và như bất kì người chỉ huy nào, anh có hàng chục câu hỏi cần giải đáp rõ ràng. Nhưng thực tế lại chỉ có dăm ba câu chuyện trao đổi qua lại mù mờ chẳng rõ ràng gì hết. Trên ngưỡng cửa cuộc chiến tranh có nghĩa là trước ngưỡng cửa cái chết, các chiến sĩ đã được huấn luyện nhiều năm nay cho những nhiệm vụ chiến đấu phức tạp cần phải biết quyết định. Nhưng họ chưa sẵn sàng để ra một quyết định. Họ lúng túng dưới sức ép của một trách nhiệm nặng nề trút lên vai họ. Sau cuộc trao đổi, Romanov bước ra ngoài với những nỗi ám ảnh về cơn ám ảnh vẫn chưa xua tan đi được. Anh cố gạn lọc nhưng thông tin thu nhận được nhưng chẳng có gì mà “gạn”. Bên tai anh ong ong câu nói của viên trưởng ban tình báo.
- Anh có đoán được chiến dịch sẽ thế nào không?
- Tôi biết.
- Nhưng quân của anh không phải các diễn viên xiếc mà ở đây mọi chuyện sẽ diễn ra như xiếc.
Anh buộc phải trả lời:
- Rõ, thưa trung tướng, chúng tôisẽ đào tạo họ thành diễn viên xiếc. Chúng tôi còn có thời gian dự phòng là cả một đêmnữa mà!
Kể ra chuyện này thì chắc chẳng ai tin nhưng quả thật câu chuyện đã diễn ra như trong rạp xiếc. Các nhân viên tình báo ra về, để lại Romanov với những vấn đề của anh: Vũ khí, đạn dược, hậu cần, trinh sát, thông tin. Làm sao tính hết được. Chẳng hạn áo khoác chuyên dụng của các chiến sĩ đặc nhiệm chưa biết cất vào đâu: Ở sứ quán người ta ép: Thôi tặng đi, không thì bán cũng được. Mà không bán họ cũng lấy cắp. Được, phải bắt đầu từ chuyện này thôi – thiếu tá quyết định và sai mấy người vào sứ quán. Anh ra lệnh soát xét mọi ngóc ngách tìm cho bằng được một chỗ đảm bảo để cất quân trang. Nói thì dễ mà tìm thì khó. Tòa nhà sứ quán không lớn, người chen chúc trong đó như cá hộp, một cái ghế trống còn chẳng có nói gì đến một căn phòng. Dưới tầng hầm họ đụng phải một nhà vệ sinh khóa cửa. Trên cửa có treo tấm bảng: “Không sử dụng!”. Họ quyết định trưng dụng nó cho mình. Họ cẩn thận cạy cửa, xếp gọn đồ đạc, áo khoác, túi bọc vào đó, lấy đinh đóng chặt cửa lại rồi viết một tấmbiển mới treo lên. Sau trận chiến trở về, mọi thứ còn đầy đủ, nguyên vẹn. Thế là nhờ láu cá họ đã ghi được một bàn. Họ muốn ngủ trong sứ quán nhưng hoá ra không có chỗ. Thế là lại lên xe đến “Tiểu đoàn Hồi giáo”. Lần đầu tiên các chiến sĩ của đội đặc nhiệm “A” – lúc này mang mật danh là “Grom” – cùng các đội viên đội “Zenit” tới đó. Họ được cấp một căn nhà chẳng ra nhà, cửa sổ, cửa ra vào trống hoác, chỉ có bốn bức tường với mái che. Nền nhà là đất nện. Bụi bốc mù mịt sau mỗi bước đi cứ như có đàn cừu chạy qua. Anh em đến vừa đúng lúc đại đội trưởng một đại đội của “Tiểu đoàn Hồi giáo” vừa cắt gác xong. Khi nhóm tuần tra chuẩn bị đi làm nhiệmvụ, viên sĩ quan nói: “Alah phù hộ cho các bạn!”. Đội tuần tra đi ra, các chiến sĩ đặc nhiệm ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Phedo Xukhov nói đúng: “Phương Đông thật khó hiểu!”. Không ai muốn ngủ ở nơi trống hoác như ngoài trời
giữa cái lạnh tháng chạp như thế này. Họ dùng lều bạt che chắn cửa sổ, cửa ra vào, gomtất cả chăn, đệm, áo khoác…nói tómlại là những gì có thể giữ ấm được. Nhưng lạnh chưa phải là tai họa ban đêm lớn nhất. “Nhà vô địch ngáy” như Baev và Zudin mời thực sự hành hạ anh em trong đội. Cuvưlin nhớ đến cái đêm cuối cùng, khi anh không thể chợp mắt. Anh nằm đúng giữa hai anh chàng “vô địch” đó và có cảm tưởng rằng mình đang nằm trên xe tăng. Bữa sáng là món thịt lạc đà. Dù chín không kĩ nhưng cũng ngon. Trên núi cao thức ăn rất lâu chín. Họ được phát quân phục lính Afghanistan gồmáo khoác vải mềm, quần dạ dầy, mũ kê pi vải mềmcó lưỡi trai nhỏ. Mất khá nhiều thì giờ kiếm nổi áo khoác cho Alecxei Baev. Anh em đùa rằng người Afghanistan chưa kịp tính đến việc may quần áo cho những tay mugíc lực lưỡng như anh ta. Phải xẻ lưng bộ quân phục không thì Baev không thể xỏ tay được. Mọi người bắt đầu sửa chữa gia cố các túi đựng lựu đạn, băng đạn tiểu liên, cắt sửa, khâu thêm cho chắc chắn. Họ sử dụng ba lô của lính dù, suy tính cách nhét mọi thứ sao cho tiện lợi, từ đạn dược cho đến bông băng cứu thương. Cốt sao để không cần nhìn, chỉ thọc tay vào là lôi ra ngay được thứ cần – điều nhỏ này sẽ trở nên hết sức quan trọng trong cuộc giao tranh ác liệt. Họ ước lượng cân nặng của mớ tư trang rồi đem cân lên được 46 cân. Mang cái bộ giáp đó đứng yên chắc đã khó nói gì đến chạy, nhảy, bắn và ném lựu đạn. Mà lại là đánh nhau trên núi chứ không phải ở trung tâmhuấn luyện Balasikha. Vì không phải ở trung tâmhuấn luyện nên mỗi thứ dù vặt vãnh đến mấy cũng có thể ảnh hưởng ngay tới mạng sống của mỗi người và của đồng đội, do vậy không thể bỏ qua bất cứ cái gì.
Đến thời điểmđó lệnh tấn công lâu đài Amin đã được ban ra. Tòa lâu đài nằmcách vị trí đóng quân của tiểu đoàn khoảng một cây số, ở vị trí hết chê: Có một con đường từ lâu đài đi ra dẫn thẳng vào núi. Có nghĩa trong trường hợp khẩn cấp luôn có đường để rút lui. Cách tòa nhà chính của lâu đài là trụ sở hiến binh; bên trái là doanh trại của tiểu đoàn cảnh vệ I, bên phải – tiểu đoàn cảnh vệ II. Nằm giữa các doanh trại và dinh thự là ba chiếc xe tăng nửa chìmdưới đất. Cuối cùng là doanh trại đội cận vệ quốc gia bố trí ngay ở tầng dưới cùng của dinh thự. Buổi chiều hoặc có khi vào ban đêm, nếu không ngủ được, các chiến sĩ đội đặc nhiệm “A” thường rời nơi đóng quân nhìn rất lâu về phía tòa lâu đài sáng rực ánh đèn. Họ đều phục vụ lâu năm trong ủy ban an ninh nên có thể không mấy khó khăn nhẩm tính được tương quan lực lượng. Sau đó thì lo lắng vì sự chênh lệch lực lượng quá lớn. Đội “Grom” có hai mươi bốn chiến sĩ, đội “Zenit” cũng có khoảng ngần ấy. Thêm quân số của “Tiểu đoàn Hồi giáo”… Nhưng tiểu đoàn này ngay từ đầu chỉ được giao nhiệm vụ hỗ trợ. Vậy là họ chỉ có hai trung đội để tấn công một pháo đài như vậy! Còn gì nữa? Trong một buổi trinh sát thực địa, Romanov đã nêu câu hỏi này cho tướng Drozdov, người chịu trách nhiệm điều phối hoạt động của các đơn vị KGB và bên Bộ Quốc phòng. Vị tướng im lặng hồi lâu, đưa mắt nhìn con đường cái lượn quanh lưng đồi và cái dáng đồ sộ của tòa lâu đài rồi ngoảnh lại nói:
- Romanov, tôi tin cậu như con của mình. Vì danh dự của Tổ quốc tôi đã ném vào đây tất cả những gì mình có: Hai xe “Silka”, sáu xe bọc thép. Còn lại thì trông vào cậu…
Hai xe “Silka” và sáu xe bọc thép…Đó là tất cả những gì Tổ quốc thân yêu cấp cho thiếu tá Romanov. Nếu biết bên trong pháo đài của Amin có gần 200 cận vệ quân (để đối phó với hai trung đội) thì chắc thiếu tá sẽ đờ người vì sợ hãi. Bất cứ người tỉnh táo nào cũng sẽ đờ người ra như thế, bởi vì chẳng ai thích đâm đầu vào chỗ chết mười mươi như vậy. Nhưng dân gian vẫn có câu: “Không biết thì cố mà biết!”.
Romanov không biết trước được số phận của mình. Anh cùng thiếu tá Iacov Phedorovich Xemenov cùng ngồi lại xem xét và đánh giá tình hình. Mọi việc không chút sáng sủa. Từ vị trí đóng quân của “Tiểu đoàn Hồi giáo” chỉ quan sát được một phần con đường núi và dinh thự ở phía quay mặt ra con đường. Còn phía bên kia? Và trên các điểm cao lân cận? Người Afghanistan không hề nghe, họ đã theo học các học viện quân sự Nga, họ cũng biết cách bố trí lực lượng. Vậy mà chẳng có thông tin gì về các điểm cao mà từ đó chắc chắn sẽ có hoả lực trút thẳng vào lưng lực lượng tấn công của chúng ta. Để giải quyết vấn đề này chỉ còn cách duy nhất như người ta vẫn làm từ hàng nghìn nămnay là trinh sát thực địa. Cần phải tận mắt nhìn và hành động dựa trên những điều nắmđược đó.
- Thôi được, Iasa, – Romanov đề nghị, chỉnh kính ống nhòm để quan sát rõ hơn tòa dinh thự của Amin. – Chúng ta ghé qua nhà hàng kia đi!
Xemenov cười:
- Thật rõ khéo tìmlúc ăn với uống.
- Nói nghiêm túc đấy! Anh nhìn kìa, – Romanov chỉ tay về phía nhà ăn sĩ quan do Amin. – Từ đó nhìn sang mọi thứ sẽ rõ như trong lòng bàn tay: Dinh thự, con đường, phía sau tòa nhà…Vậy thì đi chứ Iasa?
- Đi cũng được, nhưng anh trông sở chỉ huy của tiểu đoàn cảnh I nằm ngay bên cạnh thế kia. Mà đó đâu phải là trở ngại duy nhất trên đường sang khách sạn. “Cũng có lí, – Romanov nghĩ thầm, – nhưng còn cách nào đâu, chẳng lẽ cứ tiến quân như thằng mờ”. – Hơn nữa, – Xemenov nheo mắt láu lỉnh, – tôi còn có giấy tờ vì dù sao cũng ở trong đội bảo vệ an ninh, còn anh thìsao?
Romanov bối rối, anh giật chiếc mũ quân Afghanistan xuống dí vào mũi Xemenov.
- Nhìn đây, phù hiệu cấp tướng đấy, hiểu không?
- Ồ thế thì lại là chuyện khác, – Xemenov tán thành. Họ nâng ống nhòm, cảnh vật quen thuộc lại hiện ra: Bờ tường dốc màu trắng, những bóng người trên tuyết, những cổng sắt trông vào núi, một khu vườn đơn lẻ… và vượt lên trên tất cả là khối dinh thự đồ sộ ba tầng…
- Thôi được Mi sa, cái nhà hàng của cậu ở đâu? – Xemenov hỏi, – Thử xem cái phù hiệu cấp tướng có tác động gì tới lực lượng vũ trang cách mạng nước Afghanistan dân chủ không nào!
Bốn người ngồi trong chiếc GAZ-66: Romanov, Xemenov, và hai người chiến sĩ yểm trợ là Mazaev và Phedoxeev. Họ lên đường. Tại trạmgác của tiểu đoàn cảnh I, xe của họ bị chặn lại. Xemenov gật đầu ra hiệu cho Romanov.
- Cẩn thận nhé. Bắt đầu đấy!
Mấy tên lính không nhiều lời, bắt giơ cao tay, lưỡi lê dísát ngực. Giấy tờ của Xemenov và cái quân hiệu của Romanov chẳng giúp được gì. Romanov chỉ kịp thì thầm vào tai người lái xe: “Cậu cố nghe nhé, có gì cho tôi biết với!”’ Anh lái xe là lính “Tiểu đoàn Hồi giáo” nên biết nói một ít tiếng Pharxi. Sự chờ đợi thật nặng nề. Bọn lính cứ chĩa súng mà chẳng thấy báo cáo đi đâu. Hoặc cũng có thể chúng đã cử người đi rồi. Mấy người bị bắt tỏ ra hết sức hiền lành, còn mấy tên Afghanistan cũng có vẻ tử tế. Thì ra viên sĩ quan chỉ huy từng theo học trung cấp nông nghiệp ở Liên Xô. Gã nói tiếng Nga quá tồi. Romanov và Xemenov cố gợi chuyện, thuyết phục gã là họ thuộc lực lượng bảo vệ Amin, đang đi tới nhà hàng để đặt tiệc cho các sĩ quan Xô Viết đón nămmới. Viên sĩ quan Afghanistan mỉmcười gật gật đầu vẻ đồng tình, nhưng không thả. Khoảng tiếng rưỡi đồng hồ trôi qua trong chờ đợi và chuyện trò. Cuối cùng viên sĩ quan được lệnh để họ đi qua. Xe chậmrãi bò lên sườn núi, các sĩ quan chămchú quan sát địa hình. Trụ sở đội hiến binh, doanh trại tiểu đoàn cảnh vệ II, và dinh tổng thống lùi lại. Có vẻ như chỉ còn thẳng đường tới nhà hàng, các đồn bốt đã ở phía sau cả…Nhưng hoá ra không phải vậy! Ngay gần nhà hàng họ lại bị giữ và phải xuống xe. Bọn lính chĩa súng dẫn mấy người vào doanh trại. Trên đường đi những người bị bắt để ý thấy những ụ súng máy, các điểm tăng cường. Họ bị tống vào một căn phòng nhỏ. Cạnh tường có chiếc máy điện thoại dã chiến. Một tên lính ôm tiểu liên nhảy xổ đến la hét giận dữ, sùi bọt mép như sắp dùng báng súng đập vỡ đầu các vị khách. Một tên khác hét lên đuổi gã này đi rồi hỏi họ là ai bằng thứ tiếng Nga sai be bét, Romanov lại trình bày rằng họ ở trong đội bảo vệ an ninh đi đặt tiệc mừng năm mới cho các sĩ quan Xô Viết. Tên lính nghe xong cầmống nói lên chuyện trò gì đó rất lâu với ai đó. Thỉnh thoảng gã liếc mấy người bị tạmgiữ. Rồi gã lại gọi điện thoại đi đâu đó mấy lần; nhưng cuộc chuyện trò có vẻ bất tận, lê thê. Romanov hiểu tình hình rất gay: Đội đặc nhiệm có thể vắng chỉ huy trong khi chỉ mấy giờ nữa cuộc tấn công đã bắt đầu. Nhưng mọi chuyện hoá ra lại ổn. Bọn lính rót nước, bày đĩa trái cây và nho khô lên bàn. Suốt mấy tiếng đồng hồ Romanov mới thấy được nụ cười trên môi đám lính Afghanistan. Viên sĩ quan mời họ nếm bánh, nhưng các anh đồng loạt khước từ. Romanov thay mặt nhóm nói bọn họ không ưa của ngọt và đùa thêm là họ thích vodca hơn. Thời gian cứ trôi, thần kinh các anh cực kì căng thẳng, nhưng chỉ còn cách chờ. Cuối cùng có lệnh cho phép họ đến nhà hàng cùng một người dẫn đường. Tay quản lí nhà hàng được gọi ra. Lại trình bày hoàn cảnh. Gã chủ nhà hàng chẳng đi đâu vội. Gã hỏi phải dọn món thịt nướng nào. Lại kiên nhẫn trình bày. Trong khi bàn về ưu điểm của món thịt cừu nướng, Romanov hiểu anh phải lên được tầng trên và yêu cầu xem nơi sẽ đặt bàn tiện. Ở tầng trên, một tầm nhìn bao quát tuyệt vời mở ra toàn cảnh thành phố Cabul, thấy rõ cả dinh tổng thống. Anh nhận ra một điều hết sức bất lợi là vị trí đóng quân của “Tiểu đoàn Hồi giáo” nằm ở vị trí thấp nhất. Để viên quản lí dừng chân thêm mấy phút trên tầng, họ giả bộ hỏi han kĩ lưỡng chuyện bát đĩa, dao, thìa, nhắc đặt giấy ăn, đặt bia rượu. Tóm lại là thoả thuận đủ thứ. “Các vị sẽ có món thịt nướng chắc chắn đấy!”’ Hai bên chào hỏi chia tay. Trên đường về họ không thoát bị giữ lại hỏi han vặn vẹo lại điện thoại lại báo cáo trao đổi nhưng cũng dứt ra được. Lên xe cấp tốc, thời gian không còn! Con đường tan chảy dưới nắng sũng nước, không cẩn thận xe có thể lao xuống vực…nhưng tất cả đều qua, họ về đến nơi đóng quân kịp thời.
16 giờ toàn đội tập trung. Ban chỉ huy quyết định đội “Grom” sẽ xuất kích bằng xe bọc thép của bộ binh theo đường núi đến tiếp cận dinh thự. Đội “Zenit” theo đường bậc thang dành cho người đi bộ đến hiệp đồng với đội “Grom” tấn công trực diện toà nhà. Một phân đội thuộc “Tiểu đoàn Hồi giáo” được chuyển qua đặt dưới quyền chỉ huy của Gleb Tolxticov có trách nhiệm phong tỏa mặt sau dinh thự, chặn đường rút chạy và các cánh quân tiếp viện của địch. Nhóm của đại tá Boiarinov, thiếu tá Poddubnưi và thượng úy Cuvưlin chịu trách nhiệm làm nổ tung trạm thông tin trong dinh. Tín hiệu nhận quân ta là băng vải trắng trên tay áo, vì tất cả đều mặc quân phục Afghanistan. Mật hiệu nhận nhau là “Misa” và “Iasa” – theo tên hai đội trưởng các đội. Phổ biến xong, tất cả ngồi vào dùng bữa, gọi là
bữa tối thì hơisớmmà bữa trưa thì quá muộn. Bữa ăn có súp, cháo lúa mạch nấu với thịt. Berlev không ăn. Thiếu tá Zudin hỏi anh ta: - Sao vậy, anh bạn?
- Tôi không ăn đâu, nhỡ bị thương vào bụng…
- Tùy cậu, Colia, toàn chuyện vớ vẩn. Để đấy tớ ăn giúp cho, – Zudin kéo chiếc đĩa về phía mình. Berlev sực nhớ đến Xarvari và Guliabzoi liền múc hai đĩa cháo thật đầy đem ra công sự. Hai anh lính Afghanistan từ chối, chẳng có cảm giác ngon miệng. Họ biết thời điểm mở màn đã kề cận. Trước khi vào xe bọc thép, các chiến sĩ khởi động một chút cho giãn gân cốt, thỉnh thoảng lại nhìn về phía dinh thự. Tòa nhà đã sáng rực ánh đèn. Emưsev, Zudin và Volcov đứng tụmlại với nhau.
- Petrovich, làmvài hơi chứ? – Dima Volcov nói với Emưsev. – Tớ biết cậu luôn có thuốc ngon.
Emưsev mở túi. Anh thấy cạnh bao “Iava” có một bao “Dưmok”. Lúc rời nhà, anh nhét phòng xa vào túi rồi quên mất. Anh em trong đội đều biết Zudin thích hút “Dưmok” nhất.
- Này Egorưs, – Emưsev vui mừng, – khuyến mãi cho cậu này.
Anh chìa bao “Dưmok” cho Zudin. Tối qua Zudin gần như không ngủ vì phải phát vũ khí, đạn dược, quân trang cho anh em. Anh dọa họ: “Này các chàng trai, không được đánh mất đấy nhé, về Moxcva tôisẽ kiểmtra!”. Thuốc lá làmZudin sáng mắt:
- Thế này mới là sống chứ. Giờ thì chẳng có lâu đài nào đáng sợ hết!
Họ cùng hút thuốc rồi giải tán. Đó là lần trò chuyện cuối cùng của ba người. Một tràng tiểu liên sẽ xuyên qua người Volcov tại cứ điểm cạnh trung đoàn hiến binh. Zudin sẽ hi sinh cạnh dinh tổng thống. Chỉ có Enlưsev từ cuộc chiến trở về, bị thương nặng, mất một cánh tay.
Người ta viết nhiều về chiến tranh Afghanistan! Và sẽ còn viết nhiều nữa. Trong cuộc nồi da xáo thịt bi thảm kéo dài chín năm ấy, cái khởi điểmcủa nó là cuộc tấn công dinh thự của tổng thống Amin đến nay vẫn còn là bí ẩn. Người ta đã nói quá nhiều về nó, có quá nhiều điều bịa đặt và tưởng tượng hoang đường công bố trên báo chí, chỉ còn sự thật vẫn ngủ yên sau bảy lần khóa. Một người, dù chẳng hiểu gì về nghệ thuật quân sự khi đứng trước tòa dinh thự của tổng thống Amin lập tức sẽ thấy một cảm giác lạ lùng, cái cảm giác đã được kiểm nghiệm hàng chục lần, rằng công trình được gọi là lâu đài này thực ra phải được gọi là một pháo đài mới đúng! Đó là một tòa nhà ba tầng với các bức tường dày có khả năng đứng vững trước hoả lực của những loại vũ khí hiện đại nhất (vậy mà trong cuộc tấn công, chúng tôi đã dùng những cỗ pháo phòng không nhiều nòng “Silca”; đạn của chúng như những hạt dẻ trượt văng đi khi bắn vào tường). Pháo đài được xây dựng với sự thông thái đặc phương Đông. Nó nằm trên điểm cao, kiểm soát và khống chế tất cả các hướng. Trên thực tế không có cánh nào tiếp cận nó mà không bị phát hiện. Ngoài ra, dẫn vào cổng toà lâu đài là một con đường núi ngoằn ngoèo ở trong tầm quan sát liên tục của đối phương. Đội đặc nhiệm đã buộc phải đi vòng vèo trên con đường này dưới làn đạn của quân bảo vệ dinh. Thật sự là ngu ngốc nếu muốn nói đến yếu tố bất ngờ như một trong những điều kiện đem lại chiến thắng của cuộc tấn công này. Nhưng vấn đề cũng không chỉ ở vị trí đắc địa của tòa dinh thự, mà còn ở cả hệ thống phòng ngự chu đáo khiến nó trở thành một pháo đài rất kiên cố. Hệ thống đó gồm lực lượng cận vệ quốc gia với những quân nhân được tuyển chọn đặc biệt và huấn luyện chu đáo. Những kẻ
được may mắn chọn vào đội ngũ ấy đều có cái gì đó để bảo vệ đến cùng. Gia nhập đội quân bảo vệ tổng thống đồng nghĩa với việc có cuộc sống dư dật trong một đất nước bần cùng, có đồng lương cao và những bổng lộc hậu hĩnh mà ông chủ – “người cha” của chúng ban phát. Khu vực nhà hàng sang trọng có cả bể bơi mà hai đội trưởng “Zenit” và “Grom” ghé thăm ngay trước cuộc tấn công chính được xây dựng dành riêng cho quân cận vệ của tổng thống.
Romanov nhắc lại những ấn tượng đầu tiên của anh khi giáp mặt quân cận vệ: “Chúng tôi đi từ sứ quán về nơi đóng quân của mình trong doanh trại của “Tiểu đoàn Hồi giáo”. Con đường cách dinh tổng thống không xa. Tôi bảo anh lái cho xe chạy chậm. Đang là giờ đổi gác. Với chúng tôi cảnh ấy trông thật lạ lùng. Mấy tay lính gác là những anh chàng đẹp đẽ cao lớn có đến hai mét cọ má vào nhau. Nhìn những chàng trai cân đối, rám nắng, khỏe mạnh với tiểu liên trong tay như đồ chơi trẻ con, tôi nghĩ: “Những anh chàng thế đấy không dễ chơi đâu!”.
Lâu đài được phòng thủ hết sức chặt chẽ: Những chiếc xe tăng, hai tiểu đoàn bộ binh, một trung đoàn hiến binh đóng quân ngay bên cạnh…Chỉ cần ước lượng sơ qua cũng thấy khó có thể đánh chiếmnó trong vòng có bốn mươi phút. Và với thời hạn ngắn ngủi đó thì dù là một nhà quân sự chuyên nghiệp hay kẻ chẳng am hiểu gì ắt cũng phải dự tính một lực lượng gấp đôi một khối lượng phương tiện gấp đôi đối phương để tổ chức cuộc tấn công.
Ngày 27 tháng mười hai, vào lúc 19 giờ 30 cuộc tấn công vào tòa dinh thự, hoàn toàn bất ngờ đối với Amin, đã nổ ra đồng thời với cuộc tấn công vào hàng loạt các mục tiêu dân sự và quân sự ở trung tâm thành phố. Hỏa lực tàn phá của các xe “Silka” (nên nhớ chỉ có hai xe “Silka” và đạn của chúng như những hạt đậu, đã trượt văng khỏi tường dinh thự) và các hệ thống vũ khí khác (thú vị thật, vũ khí nào đây?) ban đầu tập trung vào doanh trại, nơi mà lực lượng cận vệ của Amin đang nghỉ ngơi và không hề nghi ngờ là sắp có chuyện xảy ra. Và họ đã bị đánh tan tành. Có thể coi đó là những nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến tranh không tuyên bố. Chỉ có vài chiếc xe tăng của họ là còn nguyên vẹn sau cuộc chiến không cân sức với lực lượng tấn công. Về chuyện “các binh sĩ cận vệ của Amin đang nghỉ ngơi” thì các xe bọc thép BTR và BMP của chúng tôi chưa đi được một phần ba quãng đường đã rơi vào hỏa lực súng phóng lựu và tiểu liên dầy đặc của những binh sĩ cận vệ “không hề nghi ngờ” ấy. Còn ở sân dinh thự hỏa lực chống trả dày đặc đến nỗi ngay vài phút đầu, trong số hai mươi bảy chiến sĩ của “Grom” đã có mười ba người bị thương. Để khẳng định thêm, xin dẫn lời anh hùng Liên Xô Evald Cozlov: “Quan trọng là chiếc xe đầu tiên đến được ngay sát cổng dinh. Nếu nó bị chặn lạisớm hơn, không ai biết là trận chiến sẽ kết thúc thế nào. Hỏa lực chống trả thực khủng khiếp. Ngồi trong chiếc BMP, tôi vừa mới thò chân ra phía ngoài đã bị đạn xuyên thủng. Ngay lập tức!”.
Còn thảm cảnh của “lực lượng cận vệ bị đánh tan tành” cũng không ghê gớm hơn nhưng điều các tác giả tưởng tượng. Bây giờ sang chuyện “những chiếc xe tăng của họ tham gia vào trận chiến không cân sức”. Các chuyên gia quân sự có đủ cơ sở để khẳng định rằng đối chọi cân sức với một xe tăng chỉ có thể là một xe tăng khác hoặc là một vũ khí chống tăng thích hợp với điều kiện đảm bảo đủ độ cơ động. Tất nhiên, còn có thể đối phó bằng cách némbomtừ máy bay hay phóng tên lửa.
Nhưng bên tấn công không có máy bay, tên lửa, không có pháo lớn chứ chưa nói gì đến xe tăng. Thế thì sách nói đến “trận chiến không cân sức” nào? Chúng tôi không có ý định, cũng không đặt cho mình mục đích bào chữa cho cuộc xâm lược của Liên Xô đối với Afghanistan, nhưng đổi trắng thay đen, nói dối trắng trợn để làm gì? Phải chăng muốn tạo hình ảnh của một tên xâm lược thật sự, muốn
vạch cho thế giới thấy “nanh vuốt thực sự của chủ nghĩa quân phiệt Xô Viết” hay sao? Nếu đã tự bôi bẩn mình thì bằng mọi cách phải bôi cho kì đen. Đã tấn công có nghĩa là “phải đánh tan tành”. Người Afghanistan có chống trả không? Có. Tất nhiên đó là sự chống trả “rõ ràng không cân sức” đối với họ dù rằng họ chống trả bằng xe tăng, bằng súng phóng lựu, được che chở bằng các bức tường dày hàng thước và với ưu thế hơn hẳn về người. Đúng, đó là trận chiến không cân sức. Không ai ngày nay phản đối điều đó. Nhưng nó không cân sức đối với một nhómchiến sĩ thuộc đơn vị đặc nhiệm.
Dinh thự được bảo vệ bằng lực lượng của gần hai trăm cận vệ quân được huấn luyện tốt và vũ trang đầy đủ, còn xông lên tấn công chúng chỉ có hơn bốn mươi người. Và tổn thất cũng không phải như các tác giả đã viết. Không hề có chuyện tổn thất đến ba mươi sĩ quan và chiến sĩ. Trong số những chiến sĩ trực tiếp tấn công dinh thự chỉ hi sinh có bốn người. Rất tiếc là có thể dẫn ra ở đây hàng chục ấn phẩm tương tự như trên. Tác giả của chúng không hề có ý định tìm hiểu sự thật, họ chọn con đường đơn giản là lặp lại những chuyện hoang đường giả dối mà ai đó và trong thời điểm nào đó đã cố tình sáng tác ra. Họ có thể phản đối rằng họ cũng rất vui nếu được viết đúng sự thật nhưng sự thật lại được cất giấu sau bẩy lần khóa. Đúng như thế. Nhưng lúc đó lẽ ra họ phải tuân theo các quy tắc mà ngay cả sinh viên năm thứ nhất khoa báo chí cũng nhớ: Đó là không biết thì đừng viết. Vấn đề có lẽ không phải ở chỗ có bảy cái khóa, mà ở thói ngu dốt tắc trách đối với lịch sử đất nước, ở thái độ lên gân quá trớn.
Một số người đã tô vẽ tùy ý, giờ đây những người khác lại bắt đầu tô vẽ lại. Tạp chí Thủ đô xuất bản vào tháng tám năm 1990, trong bài báo “Chúng ta đã đánh chiếmdinh tổng thống Amin ra sao?” dẫn lời nhân vật M. K. nào đó xưng là thiếu tá KGB. Người này thuật lại những lời chửi rủa man rợ của những kẻ tham gia cuộc tấn công, mô tả cái xác không đầu của Amin được tìm thấy trong tầng hầm, và nhiều chi tiết giật gân khác nữa. Lời thú nhận của viên thiếu tá kết thúc như sau: “… Cái không khí chung bao trùm suốt chiến dịch quen thuộc đến mức đau đớn và nếu các sự kiện được miêu tả thì chắc chắn chúng đã xảy ra đúng như thế”. Một quan điểm quen thuộc đến đau đớn. Chúng tôi biết sự kiện xẩy ra không giống như nhân vật M. K. xa lạ đó nhận xét. Chẳng cần bới móc hay giận dữ cũng có thể dễ dàng chứng minh điều ngược lại bằng các chứng cứ thực tế. Chúng sẽ làmtròn nhiệmvụ của mình tốt hơn nhiều bất kỳ tác giả nào khác.
Hơn nữa phần lớn các chứng cứ đó được nêu ra lần đầu tiên. Trước đây người ta nhồi vào đầu những người tham gia chiến dịch là: Có thể nói tất cả trừ sự thật. Tên họ của nhiều người trong số đó lần đầu tiên mới xuất hiện trên báo chí chúng ta. Những điều họ chứng kiến là vô giá đối với hiện tại của Tổ quốc chúng ta cũng như các nhà sử học tương lai. Cần nhớ rằng theo hiệu lệnh phát động chung, các chiến sĩ của “Zenit” và “Gom” được sự yểm trợ của lính dù tấn công không chỉ dinh tổng thống Amin, mà cả mấy mục tiêu dân sự và quân sự quan trọng nhất ở Cabul là trụ sở Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Afghanistan, trụ sở Bộ Nội vụ (Tsarandoi), Sở chỉ huy không quân, nhà tù Puli – Chaki, Sở Điện báo trung ương. Không có các chứng nhân trực tiếp tham gia không thể khôi phục bức tranh chân xác của các đêmhômđó. Nếu lãng quên họ thì lại không công bằng: Tất cả họ đã liều mạng sống, còn ai ở mục tiêu nào thì đó là số phận sắp đạt.
Thế đấy ngày 27 tháng mười hai năm 1979, cuộc chiến tranh nhín năm ở Afghanistan bắt đầu. Bài hát về sự kiện này do các chiến sĩ thamgia vào đó sáng tác, có đoạn: “Bắt đầu lúc 7h15, 46 cân trên vai. Hiệu lệnh vang lên rồi”. Hiệu lệnh nào? Bắt đầu như thế nào?
Cabul – Sở Điện báo trung ương.
Boris Plexcunov, đội viên đội “Zenit” kể chuyện:
- Mọi chuyện bắt đầu từ việc phá nổ “hầm” thông tin liên lạc. Suốt thời gian xảy ra chiến dịch, Cabul bị cô lập với thế giới bên ngoài. Tiếng nổ đồng thời là hiệu lệnh tổng tấn công. Tôi được giao chỉ huy mười một người. “Hầm” thông tin, mục tiêu mà chúng tôi phải tiêu diệt nằm ở quảng trường đông người. Bên cạnh là Sở Điện báo và một trạm gác của Bộ Nội vụ, bên kia là nhà băng, khách sạn, rạp chiếu phim. Vì vậy ở đây không thiếu những kẻ tò mò cản trở việc thực hiện nhiệmvụ. Chúng tôi quyết định hành động sau 19 giờ, vì lúc đó đã bắt đầu giờ giới nghiêm và quảng trường sẽ vắng người. Chúng tôi xuất kích trên các xe UAZ. Hai xe dừng lại cạnh khách sạn, còn xe của tôi tiến sát tới cửa dẫn xuống “hầm”. Nghe tín hiệu quy ước là tiếng cánh cửa xe ôtô đóng sầm lại chúng tôi biết bọn lính gác có ở đó. Một chiến sĩ trong nhómchúng tôi là Khaiatov biết tiếng địa phương đi ra đánh lạc hướng chúng. Ba người khác che chắn cho chúng tôi. Valeri Volokh mở nắp hầm bằng móc sắt chuẩn bị từ trước, còn tôi lấy trong ba lô ra hai quả thủ pháo, thả xuống. Trong “hầm” có nước nhưng điều đó không đáng ngại. Thời gian phát nổ được ấn định là 15 phút. Chúng tôi ngồi vào xe và gọi Khaiatov, anh ta đang nhập vai sôi nổi nói chuyện với tên linh gác, còn mời hắn thuốc lá. Sau vài phút chúng tôi đã có mặt ở nhà. Không ai ngờ chúng tôi có thể quay về nhanh đến thế, có sĩ quan chỉ huy còn nghi ngờ, không chắc chúng tôi đã kịp hoàn thành nhiệm vụ. Đồng hồ chỉ 19h15, một tiếng nổ lớn vang lên. Toàn bộ hệ thống liên lạc trong Cabul bị cắt.
Ngày 12 tháng giêng, khi trở về Moxcva tôi đọc được trên tờ Tin tức bài báo với hàng tít “Quần chúng bảo vệ cách mạng”. Phóng viên viết rằng anh ta đã làm một bài phóng sự bất thường bởi vì “bọn kẻ cướp tiến hành một vụ phá hoại và liên lạc với thủ đô của Afghanistan bị gián đoạn”.
Bộ Nội vụ (Tsarandoi).
Evgheni Chudexnoi, đội viên đội “Grom”:
- Khi tấn công Tsarandoi chúng tôi được giao nhiệm vụ bảo vệ Nur Akhmat Nur là người có dự định kêu gọi quân lính bảo vệ nơi này đầu hàng. Khoảng 18h – 18h30’, có ba xe vận tải đến nơi đóng quân của đội “Zenit”. Trên thùng xe có lính dù và mấy đội viên “Zenit”. Nur được xếp ngồi trong ca bin. Alecxandr Lopanov và tôi ngồi hai bên. Xe chạy trên đường phố Cabul. Thành phố thanh bình, dân chúng đang dạo chơi, khắp nơi mùi thịt nướng. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ cái mùi lạ lùng của thịt nướng. Còn chúng tôi đi vào trận chiến. Cả ba chiếc xe đỗ lại bên cột đèn tín hiệu. Nó nhấp nháy đổi màu nấy lần: Đã có thể đi, song xe chúng tôi vẫn đỗ, và chờ. Cuối cùng xe chạy. Đến trụ sở Bộ Nội vụ xe lại dừng lại, lính dù và các đội viên “Zenit” nhảy ra khỏi xe. Người ta đưa cho Nur chiếc loa điện. Ông ta bắt đầu kêu gọi quân lính hạ vũ khí; hét to là chính quyền mới đã thành lập. Từ cửa sổ tòa nhà trụ sở Bộ hỏa lực tiểu liên đáp lời ông ta dồn dập.
Sở chỉ huy không quân.
Anatoli Xavelev, đội viên đội “Grom“:
- Tôi cùng với Victor Blinov được giao nhiệm vụ đánh chiếm Sở chỉ huy không quân. Chúng tôi được hỗ trợ bởi trung đội lính dù do một trung úy chỉ huy. Chúng tôi đến gặp viên cố vấn Xô Viết của chúng tôi làm việc trong Sở này. Ông ta vạch kế hoạch: Không cần tấn công, cứ hai người một đi vào toà nhà, rồi bình thản, không ồn ào tập trung tại một tràng các phòng làm việc. Nửa trung đội còn lại bố trí bên ngoài chờ tín hiệu để tước vũ khí của lính bảo vệ bên ngoài, còn chúng tôi xử bọn bên trong. Quả thực đám lính Afghanistan không
buồn để ý khi lính dù của chúng ta thỉnh thoảng lại đi vào Sở chỉ huy không quân của họ.
Trạmgác trung đoàn hiến binh.
Pavel Climov, đội viên đội “Grom”:
- Tôi, Dmitri Volcov và hai đội viên “Zenit” cùng ba kíp lính tăng thuộc “Tiểu đoàn Hồi giáo”, mỗi kíp năm người, do một sĩ quan chỉ huy, nhận nhiệm vụ: Trước giờ tổng tiến công sẽ xuất kích và chiếm hai xe tăng nằm ngay phía trước dinh thự và sù dụng luôn pháo trên đó bắn vài phát vào dinh. Chúng tôi lên xe đi tới chốt gác. Theo tin báo về thì ở đó chỉ có hai lính gác nhưng thực tế có tới bốn tên khiến nhiệm vụ thêm phần khó khăn. Nhưng không thể lùi được nữa rồi. Volcov và một đội viên “Zenit” xuống xe đi về phía chốt gác, những người còn lại qua thành sau xe bí mật “nhảy dù” xuống đất nằm ép mình sau các gò đất. Mấy phút sau phía chốt gác bất ngờ vang lên tiếng súng. Tôi không biết có chuyện gì đã xảy ra ở đó. Từ doanh trại nằmgần kề, bọn lính cũng nghe thấy tiếng súng chạy ào ra. Chúng chạy lên núi chiếmđỉnh cao khống chế. Vài phút nữa thôi là đội hình của chúng tôi nằmtrên tuyết sẽ phơi trần lồ lộ trước mắt bọn chúng. Đám lính tăng tham gia vào cuộc đấu súng, hai người chúng tôi cùng với một sĩ quan đội “Zenit” vòng sang phía bên kia, bắn vào dinh thự.
Dinh tổng thống – lâu đài Dar-ur-aman.
Mikhail Romanov, chỉ huy đội “Gom”:
- Cuộc tấn công bắt đầu. Mỗi tiểu đội đi trên một xe bọc thép bộ binh, dự kiến sẽ đánh vu hồi vào khu vực dinh tổng thống từ hai hướng – đội chúng tôi sẽ “chạy vòng” theo con đường núi, còn Iacov Xemenov cùng “Zenit” của anh sẽ theo đường bậc thang dành cho người đi bộ đi lên. Hai đội gặp nhau ở mặt tiền dinh thự. Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Hướng đột kích của đội chúng tôi phải đi qua làn đạn dừ dội của địch, ruột chiếc xe bọc thép chở quân bốc cháy.
Iacov Xemenov, chỉ huy đội “Zenit”:
- Đoàn xe của chúng tôi gồm bốn chiếc BTR. Khi pháo “Silka” lên tiếng và súng máy bắn yểm trợ cho nó, chúng tôi đều hiểu trò chơi đã chấm dứt, chiến tranh thực sự bắt đầu. Tôi ngồi trên chiếc xe đi đầu. Chúng tôi đã kịp vượt lên. Chiếc xe bọc thép thứ hai bị bắn hỏng, những chiếc khác an toàn. Chúng tôi đổ quân, một địa ngục thực sự khủng khiếp. Xe “silka” bắn vào dinh thự, đạn văng khỏi các bức tường như thể chúng làm bằng cao su. Từ các cửa sổ quân địch bắn như vãi đạn… Nói tóm lại, chúng ép chúng tôi phải nằm. Chúng tôi chỉ vùng dậy được khi một chiếc “Silka” dập tắt được khẩu súng máy từ một trong các ô cửa sổ tòa dinh thự.
Sergei Cuvưlin, đội viên đội “Grom”:
- Có một sự thiếu hợp đồng chặt chẽ nào đó trong hành động. Xe chúng tôi chưa kịp chuyển bánh, tôi còn đang đóng cửa chiếc BMP thì “Silka” đã phát hỏa. Yếu tố bất ngờ không còn. Chúng tôi lên xe, chật ních người. Ai cũng trang bị đầy đủ, mặc cả áo gilê chống đạn. Tôi nhìn ra và thấy đại tá Boiarinov đang chạy tới. Tôi có biết ông khi còn học ở trường Cao đẳng An ninh. Ông kêu to: “Này các anh bạn, quên tôi à. Tôi ngồi đâu bây giờ?”. Ngồi đâu được thật, trong xe người lèn như cá hộp. Mọi người cố nhúc nhích sắp xếp lại, tôi buộc phải ngồi xuống sàn, lưng quay về phía cửa. “Đồng chí đại tá – tôi giật tay áo ông và nói, – có một cái nút, ấn vào cửa xe sẽ mở nhưng tôi
không với tới”. “Được, được!” – ông nói. Xe đang chạy đột nhiên có tiếng lộp bộp. Tôi đoán có lẽ là tiếng động cơ nhưng hóa ra là đạn và mảnh đạn bắn vào thành xe bọc thép. Càng đi, đạn giội vào càng nhiều hơn. Sau trận đánh tôi nhìn thành chiếc BMP – chẳng khác gì chiếc rây bột. Một chiếc rây bột thực sự, một cái rá lọc bột, có thể để dùng làmmỹ ống được Xe đang chạy đột nhiên dừng lại. Mọi người không biết có nên nhảy ra hay không. Chỉ huy chiếc BMP, một sĩ quan của “Tiểu đoàn Hồi giáo” có điện đài liên lạc. Anh ta hét “Tất cả ngồi yên!”.
Mikhail Romanov kể: - Xe chúng tôi phải dừng lại vì có chiếc ô tô bus bị bắn hỏng, buộc phải đi vòng qua nó. Sau đó chiếc BMP của chúng tôi cũng bị trúng đạn. Chúng tôi nhảy ra và bắt đầu bắn. Rất tiếc là những chiếc “Silka” yểm trợ, chúng tôi được rất ít. Hỏa lực của chúng chỉ khống chế được một góc hẹp của toà dinh thự. Chúng tôi nằm. Bên cạnh tôi là Evald Cozlov, xa hơn một chút là Xasa Repin và Mazaev. Tôi chọn hai khung cửa sổ và lần lượt bắn vào đó: Một loạt vào bên này rồi một loạt vào bên kia. Bắn hết băng đạn, như một người chỉ huy căn cơ, tôi némvỏ băng đạn rỗng vào khoang cửa mở rộng của chiếc BMPđỗ bên cạnh. Từ trong xe vang lên một tiếng hét man rợ! Anh em kíp lái tưởng là lựu đạn ném vào. Thế đấy, ở nơi này cái bi và cái hài vẫn song hành với nhau. Thình lình có tiếng động cơ gầm lên, xe bắt đầu chuyển bánh. Chúng tôi vội nhảy lên và tiếp tục tiến gần hơn đến cửa chính, nơi các chiến sĩ đi đầu đoàn xe đang lâmchiến.
Sở chỉ huy không quân.
Anatoli Xavelev:
- Khoảng 19h30’, chúng tôi tước vũ khí đội bảo vệ bên trong toà nhà và cắt đặt người gác của mình. Viên cố vấn cảnh báo chỗ viên tham mưu trưởng lúc nào có một khẩu súng phóng lựu đặt cạnh bàn và tất nhiên hắn còn vũ khí cá nhân nữa. Súng phóng lựu thì không đáng ngại. Ai lại bắn súng phóng lựu trong phòng cơ chứ? Nhưng súng ngắn là thứ vũ khí cá nhân hiệu quả. Chúng tôi bước vào văn phòng thammưu trưởng. Viên cố vấn nói: “Ông đã bị bắt”’. Hắn nộp vũ khí. Toàn bộ sĩ quan trong sở đều bị tước vũ khí và tống vào một căn phòng có lính gác. Chiến dịch đã diễn ra không tốn một phát súng.
Lâu đài Dar-ur-aman.
Valeri Emưsev, đội viên đội “Grom”:
- Chiếc BMP dừng ở góc lâu đài. Chúng tôi nhảy xuống. Trước mắt là tòa dinh thự được những ngọn đèn pha chiếu sáng. Đột nhiên mấy chiếc xe bọc thép lại nhả khói, cửa sau xe đóng sập lại. Chúng tôi không kịp lên. Tôi ra lệnh: “Lấy BMP làm lá chắn, tất cả xông lên!”. Chúng tôi chạy. Trời tối, không nhìn thấy gì, chỉ có tiếng đạn réo trên đầu. Hai chiếc xe đi đầu tiến lên: Chiếc thứ nhất đỗ ngay cửa chính, chiếc thứ hai đỗ gần đấy. Tôi ngoảnh lại. Chỉ còn hai người là tôi và Iacusev, Poddubnưi biến đâu mất. Tôi nói với Iacusev: “Phải xông vào cửa chính thôi!”. Bên trên cửa vào có mái hiên hình lưỡi liềm và một dãy cột tròn. Xông vào trong, Iacusev theo cầu thang lên tầng trên, còn tôi rẽ sang bên phải ngó vào phòng bảo vệ. Trống không. Hành lang cũng không một bóng người. Tôi thấy Iacusev đứng trên cầu thang quay về phía tôi hét: “Đ.m. chúng nó làmcái trò gì thế?”. Quả thật những chiếc: “Silka” đang bắn vào dinh thự, vào quân mình. Có lẽ họ chưa được lệnh ngừng bắn. Bỗng Iacusev kêu lên một tiếng rồi ngã. Anh ngã chậm chạp, vẻ không vội vã. Đầu tiên tôi nghĩ anh đang ngồi xuống hay cúi xuống. Tôi lao lại phía anh và ngay lúc đó tay đau nhói, khẩu tiểu liên rời, còn bản thân thì đổ sụp xuống. Tôi
vẫn nhớ là mình chưa bị ngất. Sau này anh em kể là bọn lính Afghanistan từ tầng hai tràn xuống ném lựu đạn vào chúng tôi. Tôi không thể nhớ chính xác được. Khi người ta bị xén đứt một cánh tay, khó mà nhớ chi tiết. Tóm lại, tôi nằm trên sàn và lết về phía cửa. Tôi nhìn thấy anh emmình tập trung ở cạnh cửa. Ai đó kéo tôi ra băng bó cho.
Nicolai Berlev, đội “Grom”:
- Chiếc BMP của chúng tôi mang số hiệu 36. Trong xe có Carpukhin, Colomees, Grisin, Pliuxnin và tôi. Chúng tôi dừng lại trước dinh thự, mở cửa quan sát. Đạn đập vào thành xe bọc thép như ruồi bay loạn xạ đập vào cửa kính. Không thể thò mũi ra được. Nhưng ngồi trong xe còn tệ hơn vì súng phóng lựu bắt đầu bắn ra từ các cửa sổ. Chúng tôi lao ra và chạy về phía cửa vào. Bên cửa, Valeri Emưsev nằm sóng sượt; cánh tay phải bị tiện gần đứt chỉ còn dính một lớp da lủng lẳng. “Sergei, – Colomees kêu lên ngay bên cạnh, – ngực mình sao bỏng cháy thế này?” – “Cậu bị thương rồi, Xerioja!”. Tôi kéo anh vào góc cửa. Từ tầng trên lựu đạn vãi xuống lăn lóc như dưa. Hỏa lực súng máy quét khắp nơi.
Sergei Cuvưlin:
- Khi chúng tôi nhảy ra khỏi xe BMP, tiếng nổ rền vang khủng khiếp. Không thể biết được chúng bắn từ đâu, dường như từ khắp các hướng. Tôi nhìn thấy Zudin hay “Egorưs!’, như chúng tôi quen gọi, chạy vọt lên và nằm xuống cạnh cái tượng đài hình khối lập phương gì đó bằng bê tông cốt thép. Tôi ngã nằm xuống phía đối diện. Dinh thự cách chúng tôi chừng hai mươi mét. Khó tưởng tượng làm sao mình lại còn nguyên vẹn trong những phút đầu tiên này. Từ phía trên nhìn xuống, chúng tôi quả là những tấm bia lí tưởng. Đạn hết rất nhanh, Zudin ném thêm cho tôi một băng. Ngay lúc đó tôi thấy một quả lựu đạn rơi vào giữa chỗ chúng tôi rồi nổ tung, Egorưs đưa tay ôm mặt, từ kẽ các ngón tay máu rỉ ra, đặc sánh như nước bột quả. Anh đập đầu xuống đất và nằm yên. Tôi kêu: “Egorưs, Egorưs!…”. Vừa nhỏm dậy, có cái gì đó đã quất vào mặt, có lẽ là mảnh đạn. Một mảnh sau đó lòi ra dưới cằm, nhỏ tí như chiếc kim máy quay đĩa. Phải thú thật rằng lúc đó tôi bị mất tinh thần. Xung quanh không có ai, đạn thì vãi trên đầu. Tôi nằmmột mình. Giá có sức tôi cũng gặmbê tông để chui xuống. Chiếc BMP gần nhất rùng mình và chuyển bánh. Thẳng tới chỗ tôi. Đèn pha vỡ nát, chiếc xe hoàn toàn “mờ’, nó húc đầu vào rào chắn rồi đi tiếp. Tôi giơ tay, vẫy vẫy khẩu súng và kêu to: “Người mình đây!”. Cuznexov ở phía sau cũng kêu: “Cậu làm gì thế?”. Nếu bắn vào xe, anh emtưởng mình là địch, sẽ tăng tốc đè nát. Mấy giây trôi qua, chiếc BMP tiến thẳng về phía tôi. Tôi không thể nhúc nhích và cảm thấy, nếu nhổm dậy thì sẽ bị mất đầu, còn nằm nguyên thì chân sẽ bị xe nghiến, bèn nghĩ tốt hơn là thử xoay người. Nếu để bánh xích lăn dọc theo chân thì cả ngườisẽ bị nghiền nát hoàn toàn, còn xoay ngang thì chân sẽ bị cắt rời đến đầu gối. Ngay lúc đó chiếc BMP đập cả thân xe vào khối bê tông hình lập phương. Tôi cầm khẩu tiểu liên trên tay định nhảy dậy nhưng chân đã lọt vào dưới bánh xích. Tôi không dám nhìn xuống cái chân của mình nứa, nhưng khẽ cựa thì nó vẫn động đậy được. Thật kì diệu, nó còn nguyên, đau khủng khiếp nhưng còn nguyên. Sau những chuyện như thế này làmsao không tin vào số được?
Gleb Tolxticov, đội “Grom”:
- Tôi chỉ huy một tiểu đội. Đi cùng với chúng tôi có bốn chiến sĩ “Tiểu đoàn Hồi giáo”. Trong xe, ngoài vũ khí, tôi còn mang theo một cái thang. Con đường dẫn lên lâu đài, một phía được bao bởi bức tường bê tông cao không thể trèo qua được nếu không có thang. Hoặc là chạy dưới làn đạn. Chúng tôi quyết định rút ngắn đoạn đường, bèn dựa thang vào tường và trèo lên. Mấy cậu lính “Tiểu đoàn Hồi giáo” giữ thang. Chúng tôi đã dặn khi cửa xe BMP vừa mở, họ phải mang thang nhảy ngay ra. Nhưng sự việc không diễn ra như vậy. Xe
vừa đến nơi, anh emvừa nhảy ra đã rơi vào tầm hỏa lực của định; bốn chiến sĩ ngã xuống và không đứng dậy nữa, như bị đóng băng vào mặt đường. Tôi làm đủ mọi cách, la hét, đá chân bắt họ đứng lên nhưng không ăn thua. Nói tóm lại bây giờ tôi cũng chẳng nhớ là đã tự mình giữ thang hay đã chạy dưới mưa đạn, chỉ biết cuối cùng cũng đến được cửa chính vào dinh thự…
Mikhail Romanov:
- Sau nhiều lần phải dừng xe, chúng tôi cũng đến được cửa chính. Tôi nhảy ra. Cảnh tượng làm tôi toát thồ hôi. Hỏa lực dày đặc đến khó tin. Evald Cozlov đứng ngay cạnh tôi mà tôi không nghe được tiếng anh ta nói vì tiếng đạn rền không ngớt xung quanh. Cozlov đang bắn bằng súng ngắn “Xteskin” rồi bất chợt thét lên với tôi: “Mikhail, súng của tôi hóc rồi”’. Tôi nhìn sang thấy khóa nòng khẩu súng của anh đã lui hẳn về đằng sau. Anh bắn hết cả băng đạn mà không biết, không nghe thấy, vì hỏa lực xung quanh thật kinh khủng. Lúc này không chỉ có bọn lính cận vệ bắn, hai tiểu đoàn bảo vệ, và mấy chiếc xe tăng chôn xuống đất ở cửa để bảo vệ dinh thự cũng đã “thức dậy”. Nói chung một cảnh tượng khó có thể tưởng tượng đang diễn ra. Bên chúng tôi có hai mươi bốn người thì mười ba đã bị thương. Mới có hai phút vào trận mà mười ba người đã nằm. Còn tình huống nào đáng sợ hơn đặt ra cho người chỉ huy. Nhưng dù thế nào, nhiệm vụ vẫn cứ phải hoàn thành. Chúng tôi tiến về phía cổng. Carpukhin và Berlev đang ở đó. Xác người la liệt, có khoảng sáu lính Afghanistan rơi từ trên cao xuống nằm ngay ở cổng. Emưsev bị thương nặng. Tôi ra lệnh đưa ngay anh vào xe BMP. Sau đó đến lượt tôi cũng phải vào xe vì bị sức ép khi đang tổ chức nhóm xung kích. Tiếng nổ hất văng tôi từ ụ đất đập vào thành xe BMP. Tai rỉ máu, đầu ong ong tôi nhỏm dậy, cố đứng lên, tỉnh lại dần. Ngay lúc đó Philimonov tiến lại, cùng với anh ta là Svasco bị thương vào mắt. Trên tầng hai, tiếng súng vẫn ầmầm. Carpukhin, Berlev, Pliuxnin, Grisin, Colomees, Boiarinov…đang ở đó…
Bộ Nội vụ (Tsarandoi).
Evgheni Trudexnov:
- Chúng tôi đứng trước tòa nhà trụ sở Tsarandoi, cách cổng chính khoảng 15-20 mét. Từ các tầng trên đạn bắn xuống ngày càng mạnh rồi lựu đạn ném xuống, chúng tôi quyết định không nên mạo hiểm với số phận. Lấy thân người che chở cho Nur, chúng tôi tiến về phía cổng và bắn trả bằng súng máy. Ở đây tôi bị sức ép, máu chảy ra từ mũi và tai, bất tỉnh mất một lúc. Khi tỉnh lại tôi thấy mọi người xung quanh há miệng nói gì đó không hiểu. Dù biết tình trạng của mình, nhưng tôi ý thức rõ là không còn thời gian nữa. Chúng tôi xông vào trụ sở, đưa Nur vào một căn phòng, bố trí người bảo vệ rồi xông ra hỗ trợ cho anh em. Trận chiến đã chuyển lên các tầng trên. Nghe thấy một tiếng kêu khủng khiếp như xé ruột, tôi lao vội tới. Một lính bảo vệ trụ sở Bộ rất trẻ bị thương vào chân. Tôi băng bó cho gã rồisau đó quay sang băng bả vai cho một lính dù cũng còn trẻ măng như một cậu bé của chúng tôi. Cậu ta lại xông vào trận, tôi buộc phải gọi giật lại và xưng quân hàmđể làmnguội nhiệt tình của cậu ta.
Lâu đài Dar-ur-aman.
Victor Carpukhin, Anh hùng Liên Xô, đội “Grom”:
- Rơi vào lưới đạn dày đặc của bọn lính cận vệ, chúng tôi chiếm lĩnh vị trí và đáp trả hoả lực địch. Bắt đầu một cuộc đụng độ đẫm máu giữa những người lính chuyên nghiệp. Phải nói là về mặt tâmlí chúng tôi cũng chưa vững vàng cho lắm. Mà làmsao có được điều đó? Có lẽ chỉ có thể học chiến đấu ở trong chiến tranh, dù rằng điều này nghe có vẻ khắc nghiệt. Chúng tôi quen thấy chiến tranh trong phim ảnh và cũng tiếp nhận nó theo “kiểu phimảnh”. Nhưng phải nhìn nó tận mắt. Đây, một đồng đội của anh ngã xuống, đạn tiện đứt tay, tiện đứt chân, đây là bản thân anh cũng bị thương, mà phải hành động, không được một giây ngơi nghỉ. Người ta sẽ giết anh ngay. Những phút đầu của cuộc chiến là nặng nề nhất. Lực lượng bảo vệ dinh thự rất mạnh, được huấn luyện chu đáo và vũ trang tốt. Điều chủ yếu là chúng đông gấp bốn lần chúng tôi. Lí thuyết khoa học quân sự cho rằng để giành thắng lợi, phe tấn công phải đảo ngược tỉ lệ này. Vậy là chúng tôi đã làmđảo lộn cả khoa học. Chính sự kiên trì gan góc và hoàn cảnh không lối thoát đã giúp chúng tôi, dù điều đó nghe có vẻ lạ lùng. Chúng tôi không có sự hậu thuẫn nào, không có hậu phương. Anh em đã bị thương gần hết. Phe địch tuyệt vọng, chúng tôi cũng tuyệt vọng và cùng xông lên.
Sergei Cuvưlin:
- Tôi chỉ còn một khẩu súng ngắn. Làmgì được với nó đây? Tôi bò tới chỗ Zudin. Anh nằmbất tỉnh nhưng trông như vẫn còn sống chỉ đang ngủ. Tôi động vào, không thấy anh động đậy gì. “Egorưs, – tôi gọi, – nếu còn nghe được tôi nói thì cố lên, súng lục cho anh đây; tôi để lên bao súng nhé!”. Tôi nhấc tay anh đặt lên bao súng rồi cầm tiểu liên của anh, bụng nghĩ: Cứ nằm dưới làn đạn thế này rồi cũng chết. Tôi nhổm dậy, nhảy lò cò một chân về phía cổng chính. Đến được đó như thế nào thì bây giờ chẳng nhớ nổi. Trước cửa, tôi thấy Emưsev. Anh đang ngồi, tay đầy máu, áp chặt vào bụng, cuộn băng xổ ra bên cạnh, vết thương ở bụng có vẻ nặng, ruột lòi cả ra. Tôi tỉnh lại trong tiền sảnh trước cửa chính. Anh em kể lại rằng họ nhìn thấy tôi, tưởng đã chết. Romanov đưa tay sờ lên mặt tôi và nói: Còn sống. Carpukhin kể anh đã bước qua tôi như qua cái xác. Nhưng tôi đã tỉnh lại và lết trên nền nhà. Phía trên tiền sảnh có một cầu thang xoáy trôn ốc dẫn lên tầng trên. Từ đó lựu đạn quăng xuống, đạn súng máy cũng vãi xuống không ngớt. Tôi bò sang một bên, nhỏm dậy và thấy bên phải là một hành lang, đồng đồi của tôi từ đó xông ra, tay áo đeo mảnh vải trắng. Họ không nhìn thấy tôi, hay là trong lúc đánh nhau ác liệt này không kịp nhìn nữa; một người xả về phía tôi một loạt đạn và némthêmmột quả lựu đạn. Tôi nhìn nó và nghĩ, thế là xong. Tôi ngã xuống sau chiếc đi văng nhỏ bọc lụa. Nó không phải để dành cho chiến tranh, không cứu được ta khỏi chết. Lựu đạn nổ. Tôi cảm thấy hình như mình còn sống. Tôi nhảy chồm dậy gào lên: “Đ.m!”. Cũng không có thì giờ để làm rõ quan hệ nữa, súng đạn không chờ ai cả. Ngay lúc đó Boiarinov chạy đến. Trên đầu ông là chiếc mũ sắt, mặt đầy máu. Hai tay đều băng bó và cũng đầy máu. Một tay cầmkhẩu súng ngắn. Ông nói với tôi: “Nào, phải phá nổ trạm thông tin đi thôi!”. “Bên ta chẳng còn ai, – tôi đáp, – có mỗi mình tôi!”. “Bây giờ là hai rồi. Hai người chúng ta sẽ đi”. Chống khẩu tiểu liên, tôi lần đi. May mà cái trạmđó không xa, chúng tôi tới được. Ở đó có gì? Như bình thường: Dây cáp, máy thóc. Chúng tôi giật đứt dây, đập nát các máy điện thoại. Boiarinov nói: “Không, Xerioja, làmvậy không xong. Cho nó quả lựu đạn thôi”. Chúng tôi ném lựu đạn vào rồi sập cửa. Nổ ra trò. Boiarinov chạy lên tầng trên. Tôi ở lại chốt chặn hành lang. Mấy phút sau Boiarinov hisinh.
Trạmgác trung đoàn hiến binh.
Pavel Climov:
- Trời tối hẳn. Chúng tôi cùng anh em “Zenit” chiến đấu cách cánh lính tăng không xa cho đến khi một trái lựu đạn bay đến. Có lẽ một tên địch nấp sau gò đất ném. Tôi vẫn nhớ tiếng nổ và trạng thái đờ đẫn không biết mình còn sống hay đã chết. Trái lựu đạn ở cách chân tôi chỉ chừng một mét. Người bên cạnh tôi bị thương vào cổ, còn tôi mảnh găm vào chân, tay, ngực, bụng. Thương tích rất nặng, đầu ong ong, không cảm thấy chân tay mình đâu nữa, lúc tỉnh lúc mê. Theo kế hoạch, khi cuộc tấn công bắt đầu, các xe BTR đến tiếp ứng cho chúng tôi. Các xe đã đến, anh em chạy tới hỏi: “Cậu thế nào?”. Không biết mình bị thương, tôi đáp: “Người bên cạnh bị thương, tôi chỉ bị sức ép thôi”, nhưng tay chân cứ như đi mượn, không thể cử động được. Tôi nói với người lính: “Cầm lấy súng của tôi!”. Anh ta cầm lên, xoay xoay khẩu súng ngắn câm lặng, ngạc nhiên xem xét. Sau đó một người khác, hình như là sĩ quan, bước tới hỏi tôi thấy trong người ra sao. Tôi đáp là không sao. Nhưng họ không tin nữa và bắt đầu băng bó cho tôi, ngay lúc đó tôi lại ngất đi.
Lâu đài Dar-ur-aman.
Valeri Emưsev:
- Tôi không nhớ bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Tôi đang ở trong xe BMP thì một cậu mở cửa bảo: “Đi thôi, trạm cứu thương ở đó hoạt động rồi”. Anh ta đỡ tôi dậy, xách nánh kéo lê đi. Trạm cứu thương được đặt trong một phòng ở góc tòa dinh thự, hình như là phòng của một người hầu gái, nhưng anh bạn dìu tôi lại lạc đường nên kéo tôi đến cổng chính. Chúng tôi rẽ vào phía trong, tối omvà lại thấy cái cầu thang nơi Iacusev hi sinh. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ bùm bụp. “Ê, chàng trai, – tôi nói, – cậu dẫn tôi đi đâu đây, tôi đã ở chỗ này rồi mà”. Anh ta kéo tôi quay lại và tìmthấy trạmcứu thương. Cô bác sĩ lập tức đặt tôi nằmxuống và truyền dịch. Tôi uống hết một bình nước. Nằm dưới giá truyền dịch, tôi thấy người dễ chịu đôi chút. “Giá mà được hút thuốc nhỉ?”. Cô bác sĩ bảo: “Cứ chờ chút rồi tha hồ hút”. Nhưng sau đấy tôi chẳng còn tâm trạng nào mà hút nữa. Tôi nhìn ra, người ta đang khiêng Boiarinov vào. Tôi quen ông vì đã học tại trường Cao đẳng An ninh KGB. Giường tôi đặt cạnh giường ông. Mặt Boiarinov đầy máu. Bác sĩ bước lại, đưa tay sờ mạch, đứng lặng rồi kéo tấmga trùmlên…Thế là hết. Một chiến sĩ đã hisinh…
Lâu đài Dar-ur-aman.
Mikhail Romanov:
- Iasa và mấy đội viên “Zenit” của anh xuất hiện. Chúng tôi tập trung lại: Evald Cozlov, Sergei Golov, Misa Xobolev, Pliuxnin, Grisin, Philimonov. Họ đột nhập dinh thự qua các cửa sổ. Không biết là hỏa lực bắn ra từ đâu. Trong dinh có rất nhiều cửa kính dày không có khung. Có bóng người thấp thoáng chúng tôi quàng lựu đạn dọn đường nhưng nó văng ngược lại ngay dưới chân mình… Làm thế nào được? Phải gập người, ép mình xuống sàn nhà, hoặc nấp vào hốc tường…Nhómchúng tôi đánh thốc lên tầng hai. Tung lựu đạn – và tiến lên. Nghe tiếng nổ có thể biết đâu là tiếng tiểu liên của ta, đâu là của đối phương. Có lần tôi đọc một tờ tạp chí, thấy viết là đầu cầu thang tầng hai, nơi chúng tôi đánh lên, máu chảy lênh láng. Tôi không hiểu sao họ biết được – đám phóng viên đâu có mặt ở đó – chắc họ tưởng tượng ra. Nhưng đó là sự thật.
Evald Cozlov, Anh hùng Liên Xô:
- Nói chung, trong chiến tranh và thời bình, ấn tượng về các biến cố, cách nhìn nhận thực tế rất khác nhau. Khoảng hai năm sau, một
lần tôi cùng tướng Gromov dạo quanh lâu đài trong bầu không khí tĩnh lặng. Quang cảnh trông khác hẳn. Vào cái tháng mười hai năm 1979 đó, có cảm giác chúng tôi đã phải vượt qua những bậc cầu thang tối tăm có vẻ như dài vô tận, nhưng thực ra, nó cũng nhỏ hẹp, giống một chiếc cầu thang trong những tòa nhà bình thường. Không hiểu làm sao mà bảy người chúng tôi chen chân được trên đó. Điều quan trọng là chúng tôi còn sống. Điều đó đã xảy ra, mà tôi lâm trận chẳng với mũ sắt và áo chống đạn. Nghĩ lại thật ghê sợ. Mà ngày hôm đó tôi thậm chí không nhớ ra. Con người tôi như trống rỗng, mọi ý nghĩ biến sạch, chỉ mong điều duy nhất là hoàn thành nhiệm vụ. Thậm chí tiếng ồn của trận đánh, những tiếng la hét của con người được cảm nhận một cách khác thường. Cả con người tôi căng ra cho trận đánh, và trong trận chiến này tôi phải chiến thắng.
Sergei Cuvưlin:
- Tôi chốt chặn ở hành lang, phía cuối có chiếc cầu thang bằng sắt xoáy trôn ốc, quân ta không tiến theo lối đó, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, tôi hô: “Misa”. Đó là mật hiệu nhận nhau của chúng tôi. Một lúc sau Carpukhin và Berlev chạy đến. Berlev ở lại với tôi nằmchắn ở đầu hành lang bên kia, còn Carpukhin chạy lên tầng hai; ở đó vẫn còn đánh nhau.
Nicôlai Berlev:
- Các chiến sĩ của ta lên tầng hai đạp tung các cửa phòng và ném lựu đạn vào. Họ sắp đi hết hành lang thì đột nhiên từ phía sau, Amin mặc quần sóc, áo thể thao Adidas lao ra. Tôi nghĩ, có lẽ hắn đã bị thương nặng. Khi trận đánh kết thúc, Xarvari chạy lại, người run cầm cập, bảo tôi: “Đi với tôi, xem Amin thế nào!”. Chúng tôi lên tầng trên, nhìn thấy đúng là Amin đã chết. Xarvari sung sướng hoa chân múa tay, chạy về phía đámtù binh Afghanistan, phấn khích nói liến thoắng cái gì đó. Mọi chuyện đã chấmdứt, anh ta đã làmđảo chính, đã trở thành anh hùng. Thực ra cả Xarvari và cả Guliabzoi đều không tham gia trận đánh, họ ngồi trong xe BMP và không làm cách nào lôi họ ra được. Tôi và Carpukhin còn phải lùng khắp lâu đài tìm tên đội trưởng đội cận vệ là thiếu tá Dgiandat, kẻ đã phản bội Taraki. Chính gã này ra lệnh giết vị lãnh tụ. Còn nhớ tôi đã nhìn vào một phòng, rồi đến phòng sau. Hình như bức rèmlay động. Tôi đưa nòng súng gạt rèmra, tên chỉ huy đội cận vệ đứng đó: - “Vitia! – Tôi gọi Carpukhin, – Dgiandat ở đây!”. “Không, tôi là bác sĩ, là bác sĩ mà!”. Người giống Dgiandat hoảng hốt gào lên. Đúng là bác sĩ thật, lát sau ông ta xuống tầng dưới cấp cứu cho thương binh. Hầu như tất cả mọi người đều bị thương. Emưsev cụt một cánh tay, Alecxei Baev bị đạn bắn xuyên cổ, Cuznexov bị thương nặng vào chân. Colia Svasco bị mảnh đạn văng vào mắt. Sergei Golov bị chín vết đạn bắn và mảnh lựu đạn văng. Khi rời Moxcva tôi đã thủ trong ba lô hai chai vodka. Trận đánh kết thúc, tôi bảo với Carpukhin: “Victor, chúng ta đi uống rượu đi!” Carpukhin thậm chí không tin. Anh hỏi lại: “Cậu nói gì?”. Tôi mở ba lô, nhưng hai chai rượu đã biến mất. Đoán ngay ra, tôi tóm mấy anh chàng “Tiểu đoàn Hồi giáo” tra hỏi. Họ trả vodka lại. Chúng tôi uống mừng trận đánh kết thúc, rót rượu cho cả bọn lính Afghanistan, cho cả ông bác sĩ bị chúng tôi nhìn nhầm ra Dgiandat. Chúng tôi ngồi uống rượu, nói chuyện, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng “tạch”. Trong không khí tênh lặng sau trận đánh tiếng động nghe rất rõ. Cảm giác có ai đó bóp cò súng không đạn. Chúng tôi lao đến mở cửa thang máy, một tên linh Afghanistan bị thương ở bên trong. Chúng tôi nhặt khẩu tiểu liên của hắn, súng hết đạn vì thế mà tôi và Victor sống sót – nếu không chúng tôi đã lính trọn cả băng. Số phận đã mỉm cười với tôi, không chỉ một lần. Khi tôi đang chạy trong hành lang, một viên đạn đã bắn vỡ tan hộp đạn. Các viên đạn rơi tung toé. Coi như bị tước vũ khí. Tôi quỳ xuống nhặt đạn rơi vãi. Rất may Xenoja Cuvưlin chạy lại đưa một băng đạn dự trữ của mình. Tôi vừa lắp vào thì thấy một gã lính cận vệ từ trong cửa lao ra. Tôi chỉ nhanh hơn hắn một phần mười giây. Về sau, khi thành lập viện bảo tàng, người ta
đã mang băng đạn bị bắn vỡ của tôi trưng bày trên giá. Cứ coi như tôi hết đisống lại hai lần với nó.
Iacov Xemenov:
- Trận đánh thật ác liệt. Đêm sau cũng trôi đi trong tiếng súng giao tranh. Trong số các đồng đội của tôi, nổi bật nhất có Volodia Riazanev người Xmolenxk, có Drozdov, Bucovxki. Nhiều người bị thương, bị sức ép. Tôi không thể nói tất cả các chiến sĩ đều là những người quả cảm, anh hùng. Người thì xông lên phía trước, cũng có người nấp lại đằng sau.
Trạmgác trung đoàn hiến binh.
Pavel Climov:
- Tôi tỉnh lại không biết là lần thứ mấy. Trận đánh đang diễn ra, tôi nằm trên mặt đất, xung quanh chẳng có ai, mọi người đã đi đâu hết. Tôi đứng dậy, may mà còn đứng dậy được. Tôi đoán quanh đây chắc phải có xe thiết giáp của phe mình nên lần đến đó. Đột nhiên tôi cảm thấy rét kinh khủng. Sau này bác sĩ nói tôi đã mất ba lít máu. Vất vả lắmmới lê được đến chỗ mấy chiếc xe bọc thép và nói: “Tớ rét quá các cậu ạ!”. Anh em đưa tôi vào khoang, ở đây có một đường ống gì đó nóng rực, tôi gác chân lên, còn đôi tay lạnh cóng được một chiến sĩ hà hơi cho ấm lên. Anh ta ngồi suốt bên cạnh, liên tục hà hơi vào đôi tay lạnh buốt của tôi. Sau đấy tôi thiếp đi rất lâu. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang ở trạm cứu thương, có người hỏi: “Anh có khát nước không? Có muốn ăn cháo không?”. “Có?”. Vừa nuốt một miếng, ruột gan như lộn nhào, tôi lại bị sốc và lịm đi. Sau khi về đại sứ quán, được tiếp máu tôi mới tỉnh lại một lát. Khi được đưa đến Taskent, vì không thể lôi cáng ra, tôi còn cố đứng dậy…
Sở chỉ huy không quân.
Anatoli Xavelev:
- Đã hơn một giờ trôi qua. Trời tối sập, xung quanh tĩnh lặng, chúng tôi nghĩ chẳng còn ai để mà bắn nữa, quân địch đã bị bắt hết. Nhưng không phải. Gần Sở chỉ huy có một doanh trại của học viện sĩ quan, địch bắn ra từ đó. Một phát đạn cối làmthủng vỏ chiếc xe bọc thép của chúng tôi đỗ gần Sở chỉ huy. Một lính dù trẻ măng hi sinh. Lần đầu tiên tôi thấy cái chết trên chiến trường. Tấm thẻ đoàn viên thanh niên cộng sản của anh lính đẫm máu. Chúng tôi cố gắng kiềm chế không bắn trả và yêu cầu viên tham mưu trưởng không quân ra hiệu cho bên kia ngừng bắn. Trong thời gian đàm phán, chúng tôi đã suýt chết vì một quả đạn cối bay vào phòng tham mưu trưởng, nhưng Chúa đã phù hộ. Mấy phút sau đámhọc viên sĩ quan thôi không bắn nữa.
Lâu đài Dar-ur-aman.
Sergei Cuvulin:
- Khi mọi chuyện kết thúc, chúng tôi ra khỏi lâu đài. Mikhail Mikhailovich nhìn tôi chằm chằm như thể tôi vừa mới từ cõi chết trở về: “Ôi, Xerioja, cậu vẫn còn sống đó sao!”. Sau đó chúng tôi được đến trạm cứu thương đặt ở doanh trại trước đây. Người ta đặt tôi lên giường: Một chân tôi sưng tấy lên, phải rạch ủng. Pasa Climov cũng được đưa đến. Anh nằm, hai chân ép vào bụng và kêu: Nước, nước…Tôi liếc thấy một cậu mang cốc nước lại bèn hỏi xemanh bị thương ở đâu. Vết thương ở bụng. Vậy mà cậu ta định cho uống nước, anh ấy chết mất. Nghe tôi cản, anh chàng hiểu ra, thấmướt miếng bông dấp lên môi Pasa.
Valeri Emưsev:
- Lúc ở trong lâu đài, bác sĩ đã thắt ga rô tay cho tôi. Trên đường đến trạm y tế tôi nghiến răng chịu đựng, sau đấy lấy con dao, cắt dây cao su ra. Trong phòng mổ của trạm người ta căng miếng vải che để tôi khỏi sợ. Bác sĩ khám, gật đầu với anh y tá. Rõ rồi, tôi nghĩ họ sẽ cắt nốt phần sót lại đây. Họ cắt của tôi một cánh tay và ném vào chậu. Đến chiều, người ta lại chuyển chúng tôi đến đại sứ quán. Tôi uống liền một hơi hết ba chai Pepsi Cola và thiếp đi. Sáng hômsau tỉnh dậy, thấy mọi người đang chuẩn bị đưa chúng tôi về Liên Xô.
Sở chỉ huy không quân.
Anatoli Xavelev:
- Nửa đêm chúng tôi nhận được tin báo: Xe tăng đang tiến về phía sở chỉ huy. Tôi hỏi cậu trung úy quân đội: “Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?”. Anh ta suy nghĩ một lát rồi nói: “Anh biết đấy, nếu xe tăng xông vào sân, chúng ta không thể chặn được. Ở đó ta chỉ có ba chiếc BMP. Hãy mang xe tiến đứng chặn đầu phố. Đường hẹp có lợi cho ta. Chúng đến thì đánh”. Viên thiếu tá cố vấn nghe lí lẽ của chúng tôi, rồi nói: “Lấy đâu ra xe tăng ở đây? Xe tăng của Afghanistan không thể có ở đây được”. Chúng tôi cùng với ông ta lên xe và tiến lên phía trước. Trời tối. Đang đêm. Chúng tôi nhìn thấy xe tăng đang chạy. Nhưng ai phân biệt được xe tăng của chúng ta hay của Afghanistan đây? Thiếu tá nhảy ra, tiến đến chặn đầu đoàn xe tăng. Viên chỉ huy đứng trên tháp chiếc đi đầu. Đoàn xe dừng lại. Thiếu tá hỏi: “Này anh lính, lái xe đi đâu đấy?”. Anh ta nói địa điểm. Thiếu tá bật cười: “Sao lại đi ngược về phía này?”. Thì ra họ không có bản đồ Cabul, mà cũng không biết đường. Nhận lệnh và cứ thế là đi. Thế là lạc đường, làmmọi người hết vía. Nhưng các anh thấy đấy, rồi tất cả cũng đã kết thúc tất đẹp. Cảmơn thiếu tá.
Mikhail Romanov:
- Nói thật là niềm vui chiến thắng chưa trọn đã ngay lập tức phải thực hiện một việc kinh khủng nhất trong đời, nhận dạng thi thể của các đồng đội hi sinh. Tôi đi cùng với Iasa Xemenov và Evald Cozlov. Khó khăn lắm tôi mới nhận ra được thi thể của Voleov, Zudin… Sau khi nhìn thấy, tôi chẳng còn muốn sống nữa, chứ không phải là sợ lại phải cầm súng. Chúng tôi phải quay trở lại lâu đài, việc phòng thủ đã được sắp xếp xong. Điều này tỏ ra không vô ích vì đêm hôm sau xe tăng địch bắn thẳng vào chúng tôi suốt đêm. Gần sáng tướng Drozdov đánh thức chúng tôi với lệnh: “Chuẩn bị phản công!”. “Lữ đoàn xanh” của Amin đóng cách chỗ chúng tôi hơn chục cây số. Chính đơn vị này đã mở màn cuộc tấn công. Chống trả sao đây? Đạn của chúng tôi còn rất ít, người thì đều kiệt sức. Máy bay lên thẳng không bay đêmđược. Nói tómlại, không trông vào đâu được, tình cảnh đúng là nghìn cân treo sợi tóc. Mấy chiếc ắc quy ở trạmthông tin của chúng tôi đều hỏng cả. Không liên lạc được với chỉ huy sở. Một đêm trôi qua. Sáng hôm sau nghe có tiếng ầm ầm trên bầu trời trong xanh, chúng tôi nhìn lên thấy mấy chiếc máy bay. Sư đoàn dù “Vitel” đổ quân xuống Bagram. Chúng tôi đã cầu nguyện để họ đến kịp. Tất nhiên, sau tất cả những gian nan vất vả chúng tôi được nghe thỏa thích những lời hứa tốt đẹp. Ngay tại lâu đài người ta đề nghị phong cho tôi danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Tướng quân Iuri Ivanovich Drozdov, cục trưởng Cục đặc biệt của Tổng cục I qua máy bộ đàm đã liên lạc ngay với Moxcva, và nhận được sự chấp thuận của thủ trưởng cấp cao nhất. Anh hùng thì anh hùng, nhưng sang ngày hôm sau tình trạng sức khoẻ của tôi trở nên xấu đi. Cú đập khi tôi bị văng vào thành chiếc xe thiết giáp, mạnh đến nỗi những sỏi thận cũng “bật ra”. Đau khủng khiếp, lạy trời đừng ai phải đau như tôi. Song tôi cũng thừa biết và không thể đoán được rằng còn có những nỗi đau khác đang chờ tôi ở phía trước.
Sergei Cuvưlin:
- Ở đại sứ quán chúng tôi được băng bó, chụp X quang. Nhiều mảnh đạn ở chân ở tay, trong cổ họng tôi. Máu từ miệng chảy ra. Nhưng tôi cứ nghĩ là bình thường vì tưởng đã cắn phải cái gì. Sau mới biết tuyến giáp trạng thủng, một mảnh đạn nhỏ kẹt trong khí quản. Sau mười hai năm, nó mới được lấy ra. Tại đại sứ quán, người ta cho chúng tôi nằm ngoài hành lang, đối xử rất tử tế. Những người phụ nữ – vợ các nhân viên sứ quán đã chăm sóc chúng tôi. Họ cho ăn, cho thuốc lá hút. Đến khi trời sáng một số anh em bị thương nặng không qua khỏi – hết người này đến người khác được đưa đi. Còn vào buổi sáng, tất cả lên xe bus ra sân bay. Ngoài phố chúng tôi thấy những chiếc xe tăng chạy, trên có nhiều binh lính, người vẫy cờ Afghanistan, người cầm cờ trắng. Đâu là xe tăng của chúng ta, đâu là của đối phương? Chúng sẽ bắn hay không bắn? Những người Afghanistan mang súng tiểu liên ở khắp nơi trong thành phố. Anh lái xe của chúng tôi thỉnh thoảng thò tay ra vẫy khăn trắng. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được sân bay, lên máy bay và bay thẳng về Taskent.
Bộ Nội vụ. Epghenhi Trudexnov:
- Chúng tôi ngủ đêmtrong một tòa nhà chiếmđược. Gần sáng, khoảng từ hai đến bốn giờ, Babrac Carmal phát biểu trên đài phát thanh. Nur chăm chú nghe bài phát biểu của người mới được tuyên bố chính thức là Tổng bí thư Ban chấp hành Đảng dân chủ nhân dân Afghanistan. Buổisáng tôi đi cùng Nur đến trạmthông tin và lần đầu tiên biết tin dữ Gena Zudin và Volcov đã hisinh.
Lâu đài Dar-ur-aman.
Gleb Tolxticov:
- Sau khi chiếm được dinh tổng thống, Amin và những người chết bị thương đã được chuyển hết đi rồi, đêm đến chúng tôi vẫn còn phải chiến đấu. Buổisáng xung quanh yên tĩnh, quang cảnh tuyệt vời, bầu trời tươisáng, không khí trong lành, mát mẻ khiến tôi cứ muốn hít thở mãi. Điều chủ yếu là mọi người đều tin rằng cơn ác mộng đã chấm dứt. Tôi bước ra khỏi tòa lâu đài, đứng bên hàng cột, nheo mắt vì nắng. Bỗng nghe một tràng súng bắn. Dữ dội, chói tai: Pằng – pằng – pằng! Một sĩ quan trẻ, không rõ là lính dù hay thuộc “Tiểu đoàn Hồi giáo” – ôm bụng đổ vật xuống và lịm dần. Không biết đạn bắn ra từ đâu. Tôi xốc anh dậy, mọi người băng bó và đưa anh về trạm cứu thương. Tôi không biết số phận về sau của anh thế nào, chỉ hi vọng là anh sẽ sống. Đấy, tôi vẫn nhớ buổi sáng hôm ấy – buổi sáng đầu tiên của cuộn chiến tranh Afghanistan…
Ở tầng dưới lâu đài, đám lính cận vệ bị bắt làm tù binh đứng túm tụm. Chúng không có vũ khí, trong tay đều ôm áo gối trắng. Berlev cầm lấy một chiếc, hoá ra nó bọc có đến khoảng hai chục băng đạn bên trong. Anh sực nhớ tới những hòm lựu đạn ở các ô cửa sổ trên tầng hai: “Bọn này được vũ trang quá đầy đủ, chẳng qua chúng đã không kịp trở tay”.
Người ta đang chuyển thi thể anh em hi sinh đi: Genadi Zudin, Boiarinov, Iacusev và Xuvorov thuộc đội “Zenit”. Victor Carpukhin đi đến: “Nicolai, phải đưa các con gái của Amin đến trạmcứu thương”. Berlev đánh xe lại. Một cô bé bị thương ở đầu gối, cô kia bị mảnh đạn găm vào bắp chân. Họ đi ngược lại, vòng quanh tòa lâu đài theo con đường núi ngoằn ngoèo xuống doanh trại “Tiểu đoàn Hồi giáo”. Không thể tin được rằng từ lúc hiệu lệnh tấn công phát ra đến lúc này mới khoảng một giờ đồng hồ trôi qua. Chúng tôi mới còn ngồi bên nhau trong bữa cơm tối, có Zudin, vẫn cười đùa, vậy mà bây giờ chẳng còn Zudin, chẳng còn Dima Volcov nữa. Pasa Climov bị thương vào bụng. Không biết có sống được hay không? Nghe nói là đêmnay thương binh sẽ được đưa về Liên Xô. Nhưng không rõ chính xác là
Moxcva hay Taskent? Tốt nhất là Moxcva, dù sao cũng là thủ đô, nhiều bác sĩ giỏi hơn. Giá mời được giáo sư Igor Covalenco từ viện Sclifosovski. Không phải là bác sĩ nữa, mà đúng là bậc thần y. Berlev từng điều trị ở chỗ ông và còn cậy quen biết để thu xếp đưa các anh emkhác đến đó. Đó là trường hợp của Ivon khi anh này gãy chân vì nhảy dù.
Berlev liếc nhìn khuôn mặt tái nhợt, sợ hãi của cô con gái Amin, anh cố cười nhưng không sao cười được. Bên ngoài cửa xe, những khu vườn thưa thớt trải dài theo sườn núi tuyết phủ, và con đường xám xịt đơn điệu. “Lại mơ mộng rồi – Berlev cay đắng nghĩ về mình, – chúng ta đang ở đâu, còn Covalenco với cái viện “Clifo” của ông đang ở đâu? Cách xa hàng nghìn dặm”. Nếu điện thoại cho ông ấy thì sao nhỉ? – Ýnghĩ điên rồ lóe lên trong đầu. Có phải là điên không nhỉ?…
Bàn giao thương binh cho trạmy tế xong, Berlev vào xe.
- Chúng ta đi đâu bây giờ, thưa thiếu tá? – Anh lái xe hỏi rồi imlặng chờ lệnh.
- Đến đạisứ quán anh bạn ạ. Cậu có thuộc đường không?
Người lái xe gật đầu:
- Tuân lệnh!
Chiếc UAZ lao vụt đi. Tại đại sứ quán những người quen biết cũ đã giúp anh. Họ chưa quên anh sau chuyến công tác lần trước. Nhưng đường dây điện thoại bận liên tục. Cô nhân viên tổng đài chỉ còn biết thở dài, đưa ống nghe ra xa, thì thầm: “Đồng chí Andropov đang nói chuyện với đại sứ”. Nửa giờ sau Berlev lại rẽ vào, cô ta gõ ngón tay vào ống nghe, mấp máy môi. Berlev thoạt tiên không hiểu. Một lúc anh mới nghe ra: “Brejnev!”.
Mãi đến lần ghé qua thứ tư hoác thứ năm gì đó Berlev mới gặp may. Anh đọc số điện thoại ở Moxcva, một phút sau giọng nói êm ru của Covalenco vang lên trong ống nghe, cứ như ông ở ngay bên cạnh và mới bước sang phòng bên.
- Igor Leonidovich đấy à? Chào anh! Anh nghe thấy tôi nói thứ?
- Có, Colia à, sao ồn vậy?
- Igor ạ, việc gấp lắm. Anh emchúng tôi bị thương nặng rất nhiều. Anh tập hợp đồng nghiệp của anh và đến đây nhé! - Đến chỗ các anh? Là đến đâu vậy? Hãy nói rõ xemcó chuyện gì vậy?
- Tôi không thể giải thích tỉ mỉ qua điện thoại.
- Hiểu rồi. Nhưng bay đi đâu mới được chứ?
- Tôi nghĩ là đến Taskent.
- Cần một chiếc máy bay. Thôi được, Colia, tôisẽ gọi cho Ivon. Chúng tôisẽ thu xếp mọi việc.
Ông đã thu xếp thật. Nửa giờ sau chuông điện thoại reo trong phòng làmviệc ở Moxcva của đội phó đội đặc nhiệm“A”. - Chào anh, Robert Petrovich. Tôi là Covalenco. Chúng tôi đã triệu tập được một nhóm bác sĩ. Có lẽ giáo sư Canưsin sẽ phụ trách. Ông
ấy là bậc thầy về xử lý ngoại khoa vết thương nhiễmtrùng. Còn lo máy bay là việc của anh.
Ivon lặng người. Chiến dịch siêu mật của KGB đã bị lộ ở viện “Clifo”. Mồ hôi lạnh toát ướt đẫm. Anh, Ivon, hơn bất cứ ai rất hiểu tai họa gìsắp xảy ra.
- Làmsao anh biết, Igor Leomdovich?
- Anh yên tâm, tôi không biết và cũng không muốn biết gì hết. Berlev từ hiện trường gọi về bảo có nhiều người bị thương. Sao vậy Robert, anh muốn giao anh emcho cái bọn chỉ biết cưa chân tay của ủy ban an ninh sao? Cứ báo cáo cấp trên đi? Đòi cho được máy bay.
Ivon báo cáo. Phó chủ tịch Ủy ban An ninh quốc gia – tướng Piroscov rất tức giận. Bí mật quốc gia đã bị lộ! Một thiếu tá KGB đã trực tiếp báo cho bác sĩ bên ngoài về những tổn thất và thương vong.
- Ủy ban chúng ta không đủ bác sĩ hay sao? – Viên tưởng hét lên. – Không đủ thì điều ở Bộ Quốc phòng sang và bảo họ ngậm miệng cho chặt. Là quân nhân người ta sẽ hiểu: Thế mà lại nẩy nòi ra cái tay Covalenco ở viện “Clifo!”. Đợi đấy, tôi sẽ cho các anh biết! Ngôi sao sáng trên nền trời y học, vị cứu tinh cái gì chứ! – ông ta nói thêm. – Được, về đây rồi tôisẽ hỏi đến cái đámanh hùng ấy.
Piroscov nhấc điện thoại trực tuyến báo cáo tình hình với Andropov. Chủ tịch ủy ban không nói gì tới bí mật quốc gia, ông ra lệnh chuẩn bị máy bay cho đoàn cán bộ y tế, nhắc nhở phải hỗ trợ và quan tâmhọ đầy đủ.
Ngày 2 tháng giêng, hai chiếc máy bay từ Moxcva và Leningrad cất cánh gần như đồng thời về hướng Taskent. Trên chiếc thứ nhất có giáo sư Canưsin, Covalenco và các bác sĩ viện “Clifo”; chiếc thứ hai chở các chuyên gia Học viện Quân y. Trước đó vài ngày các thương binh trong trận tấn công lâu đài đã được đưa từ Cabul về Taskent. Đoàn xe đưa thương binh ra sân bay có xe thiết giáp hộ tống. Khoang trước máy bay dành cho thương binh “nặng”: Emưsev cụt tay, Phedoxeep, Cuvưlin, Cuznexov bị thương ở chân, Climov bị thương ở bụng. Trước giờ cất cánh họ được tiêmthuốc giảmđau. Sergei Cuvưlin cố nhắmmắt ngủ. Tiếng gầmcủa xe “Silka”, tiếng đạn rít, tiếng rên ở trạm cứu thương lùi lại phía sau. Cuznexov lơ mơ ngủ ở hàng ghế đối diện. Cuvưlin mơ màng cảm thấy như có người cúi xuống hỏi Cuznexov:
- Cậu thế nào rồi, Gena? Không sao, hãy cố lên, chúng tớ đã phá tan cái trung tâmthông tin ấy rồi. Ổn rồi. Nó đã nổ tung và chấmhết.
Sergei rất ngạc nhiên: Ai phá tan cái trung tâm nào vậy? Giọng nói nghe là lại người đó quay lưng lại nên anh không nhận ra ai cả. Chẳng lẽ, Boiarinov sống lại? Trừ mình và Boiarinov ở đó lúc ấy làmgì có ai.
- Nghe này, anh phá cái Trung tâmấy khi nào vậy?
Người đang cúi xuống bên Cuznexov hơi ngoảnh đầu lại:
- Buổisáng, khi trời mới hửng. Nghĩa là tới lúc đó người ta kịp xây dựng lại nó rồi đấy.
- Thế anh là ai?
- Tôi chính là một trong những người đã tiêu diệt Trung tâmấy.
Người đó liền đứng thẳng lên, không thèm ngoảnh lại, bước ra và lẩn vào khoang khác. Cuvưlin lắng nghe tiếng động cơ ù ù và ngẫm
nghĩ. Không, không phải vòng nguyệt quế anh hùng làm anh lo lắng. Lần đầu tiên anh nghĩ đến một điều sẽ xảy ra khi họ trở về Liên Xô về Moxcva. Mọi chuyện sẽ không như cũ. Cuộc đời họ sẽ thay đổi. Nhưng như thế nào đây?
Chương III:
VINH QUANG VÀ CAY ĐẮNG
Pavel Climov đã may mắn rơi vào tay giáo sư Cansin, đúng là ông đã kéo chàng trai từ thế giới bên kia trở về. Emưsev và Phedoxeev phải mổ. Trong buổi khám, Emưsev thấy dưới chiếc áo blu bác sĩ lộ ra đường nẹp của chiếc quần cấp tướng, anh rất ngạc nhiên. Sau cuộc hội chẩn chuyên môn kéo dài, anh hất hàmchỉ cánh tay cụt của mình, dằn giọng, rõ ràng là muốn chọc tức các bác sĩ:
- Thế nào, các vị, các ông viết luận án đấy à?
Các bác sĩ imlặng, vị tướng nhíu mày:
- Chúng tôi không đến đây để viết luận án, mà chữa bệnh.
Có lẽ họ cũng chẳng hơi đâu mếch lòng, bởi vì chính mỏm tay cụt của anh đã là bài học thực hành đầu tiên với các bác sĩ tương lai của cuộc chiến tranh Afghanistan. Hồi đó, vào năm1979, họ đâu có thường xuyên thấy những vết thương do hỏa khí tương tự như thế. Chiến tranh Vệ quốc kết thúc đã gần ba mươi lămnăm– có rất nhiều thế hệ thầy thuốc ngoại khoa dã chiến chỉ được học qua sách vở, đột nhiên lại chiến tranh. Emưsev không muốn làm mếch lòng viên tướng, nhưng mọi việc lại xảy ra ngoài ý muốn. Mặc dù, có thể, ai đó đã bảo vệ thành công luận án nhờ những vết thương của họ – những vết thương đầu tiên của cuộn chiến tranh Afghanistan. Chỉ là nói đùa, nhưng bản thân anh lại dằn vặt suy nghĩ về chuyện sẽ sống tiếp thế nào. Cánh tay phải đã bị cắt bỏ: Không thể viết, không thể cầmbao diêmtự châm thuốc hút. Tự dưng anh nhớ đến cả Marexev, cả thầy Larin ở trường Cao đẳng An ninh KGB của mình – ông mất hai chân và một tay nhưng vẫn lái xe. Có một tấm gương – cũng tốt, nhưng mỗi người vẫn phải gặm nhấm nỗi đau riêng trong sự cô đơn, không ai giúp được; trước mắt anh phải tự mình vượt qua con đường này thôi…
Họ đón năm mới 1980 ở Taskent. Suốt từ sáng bạn bè ở Ủy ban An ninh nước cộng hòa đến quân y viện mang theo bánh kẹo và chia sẻ với họ những tin đồn. Nghe nói, tất cả những người bị thương sẽ được phong Anh hùng, còn lại đều được tặng thưởng huân chương Lenin. Đến chiều tối lại có tin mới hơn, sốt dẻo hơn do người đứng đầu vui tính của ban an ninh Taskent thuộc Ủy ban An ninh Quốc gia Uzbekistan mang đến cùng rượu sâm banh và hoa quả. Ông ta thề rằng đã biết tin này từ các nhân vật đứng đầu của Uzbekistan, còn họ biết được từ Moxcva. “Các chàng trai ạ, nói chung là, – vị khách Uzbekistan vừa cười vừa bỏ lê, táo, hồng vào các ngăn tủ ở đầu giường bệnh nhân, – phải đến nămhoặc sáu người được phong Anh hùng Liên Xô, còn lại là huân chương Lenin và Cờ đỏ”.
Thật bất ngờ đối với chính bản thân nhưng người trở thành Anh hùng. Ở Moxcva họ được đón tiếp thu đáo ân cần nhưng ban lãnh đạo lúng túng. Họ được phái đi làm nhiệm vụ bình thường là bảo vệ đại sứ quán, thế mà lại xảy ra chuyện khi đó là hoàn toàn không thể hiểu nổi: Tất cả mọi người đều được thưởng huân chương cao nhất! Một cán bộ an ninh làm việc cần mẫn hàng chục năm cũng không dám mơ đến huân chương Cờ đỏ và huân chương Lenin. Đợt công tác vẻn vẹn có một tuần. Đối với các liệt sĩ thì không có gì đáng bàn – nhất định phải khen thưởng. Không ai ghen tị với người chết cả. Nhưng với người sống thì phức tạp hơn. Phải lập hồ sơ đề nghị khen thưởng lấy chữ kí, gửi công văn qua lại. Sau đó tất cả được chuyển lên trên và mọi sự rơi vào im lặng. Cứ như là không có ngày 27 tháng mười hai ấy, không có Cabul, không có lâu đài Dar – ul – aman.
Đã hé mở, có vẻ như vậy một trang sử bí ẩn được cất giấu, giữ gìn cẩn mật – trang sử về cuộc tấn công lâu đài tổng thống và các mục
tiêu khác ở Cabul.
Hạ sĩ Zudin nói:
- Nhưng chúng ta vẫn chưa trả lời câu hỏi mà tôi nghĩ không kém phần thú vị: Babrac đã ở đâu đêm hôm đó? Ông ta và cán bộ trưởng tương lai của mình đã làmgì trong những ngày sau đó, vì đến tận ngày 7 tháng giêng, tức là hai tuần sau khi giành chính quyền, nhà lãnh đạo mới của đất nước mới xuất hiện trong dinh của mình ở lâu đài Arc. Để hiểu thêm tình hình, chúng ta hãy quay trở lại với ngày 14 tháng mười hai năm 1979, khi Babrac và các chiến hữu của ông phải cấp tốc rời khỏi Bagram. Valentin Ivanovieh Sergin, người phụ trách đội bảo vệ Babrac, nhớ rằng máy bay đã đột ngột lấy độ cao sau khi mới cất cánh. Viên phi công lo lắng nhìn xuống thành phố ở bên dưới và nói: “Nếu không bị bắn rơi lúc này chúng ta sẽ sống”. Số phận mỉm cười. Mấy giờ sau đã là Taskent chào đón họ, và lại là ngôi biệt thự sang trọng quen thuộc của Rasidov. Bốn đội viên “Alfa” do Iuri Izotov chỉ huy ở lại, những người khác được gọi về Moxcva. Hài ngày sau họ trở lại Taskent và ngày 23 tháng mười hai tất cả các chiến sĩ đặc nhiệm cùng các vị khách lên máy bay đến Bagram. Chuyện là khi máy bay hạ cánh xuống Bagram, theo lệnh của giámđốc sân bay, đèn tín hiệu trên đường băng bị tắt cả. May nhờ có tài nghệ tuyệt vời của phi công! Thậm chí anh ta cũng đã tưởng máy bay vậy là đi đời. Máy bay hạ cánh, các đội viên “Zenit” bắt giữ luôn viên giám đốc. Lại những căn nhà hầm quen thuộc. Một căn dành cho Babrac và Anahita cùng đội bảo vệ, căn hầm thứ hai cho Vatandjara, Nur, Xarvari, Guliabzoi và mấy nhân viên đặc nhiệm “A”. Chúng tôi sống với nhau, chia sẻ từng mẩu bánh mì, từng hộp thịt dự trữ mang theo từ Moxcva và Taskent. Một chế độ bảo mật nghiêm ngặt được áp dụng tại đây. Anh em dưới sự chỉ huy của Sergin không được gặp bất cứ ai, thậmchí cả với các bạn bên đội Romanov khi họ bay đến Bagram. Chiều tối ngày 27 tháng mười hai, Boris Siserin gọi Izotov:
- Iuri Antonovich này đi với tôi, chúng ta sẽ chứng kiến một sự kiện lịch sử.
Bước vào căn hầm, họ nhìn thấy những người được bảo vệ, đứng đầu là Babrac bên bàn tranh luận chuyện gì đó rất sôi nổi. Izotov nhìn Siserin dò hỏi. Anh này lắng tai nghe rồi bảo:
- Họp Bộ Chính trị! Như ở ta hồi cách mạng, trước một cuộc tấn công có tính quyết định cần phân chia xemai phải đi đâu ấy mà. - Thế họ quyết định cái vì vậy? – Izotov hỏi.
- Theo tôi, Guliabzoi sẽ đến lâu đài, Nur đến Bộ Nội vụ, Vatandjara đến Sở Bưu điện. Cuộc họp kết thúc, Xarvari, Guliabzoi, Vatandjara bước ra trước, Nur bước theo sau. Trong hầmchỉ còn Babrac và Anahita. Trời bắt đầu tối. Đoàn xe bọc thép vớisự yểmtrợ của ba chiếc xe tăng rời Bagram. Đến sáng thì tới Cabul. Babrac Carman và Anahita ngồi trong một chiếc BTR chạy giữa đoàn xe. Như mọi khi, Sergin và Izotov bámsát họ. Sergin ngồi phía trên, gần cửa xe. Đột nhiên trong máy bộ đàmvang lên giọng lo lắng từ chiếc tăng đi đầu:
- Số một, số một…có xe tăng bên tay phải!
Sergin đã thấy những tháp pháo của xe tăng Afghanistan cách đường cái khoảng hai trăm mét. Các họng súng như thế đánh hơi, chĩa hết về phía họ.
- Dừng lại! – Sergin ra lệnh.
Lập tức chiếc xe tăng đi gần nhất lùi lại che cho xe thiết giáp.
- Tiến lên! – Sergin hài lòng với các chàng lính tăng: Họ thật biết việc. Những chiếc xe tăng Afghanistan im lặng bực bội tiễn đoàn xe của họ bằng những họng đại bác đen ngòm. Nhưng chúng không dámtiến theo. Trờisáng đoàn xe tiến vào Cabul. Có vẻ như đêmqua đã xảy ra kịch chiến ở đây. Mấy chiến xe tăng bị bắn hỏng nằm bên đường, những ngôi nhà đổ nát. Nhưng dân thủ đô không có vẻ hoảng sợ. Buổi sáng họ vẫn vội vã với công việc thường lệ của mình, vài người dừng chân vẫy tay chào. Không ai lẩn trốn hoặc bỏ chạy. Không có tiếng súng. Đoàn xe tăng và thiết giáp tiến về phía toàn nhà Bộ Nội vụ. Izotov và các chiến sĩ bảo vệ Carmal (lúc này đã là Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng dân chủ nhân dân Afghamstan) và các chiến hữu của ông ở lại, Sergin đến đạisứ quán. Tại đây anh gặp Mikhail Romanov và Glev. Họ cho anh biết Zudin, Volcov, Boiarinov, và hai chiến sĩ của đội “Zenit” đã hi sinh còn Emưsev, Climov, Phedoxeev bị thương nặng. Sau khi nhận được chỉ thị của trưởng lưới tình báo, Sergin quay trở lại Bộ Nội vụ. Họ quyết định ngủ đêmtại đây. Đội đặc nhiệm“A” được một đơn vị lính dù đến chi viện.
Đêm trôi qua yên tĩnh. Sáng hôm sau chúng tôi chuyển địa điểm, suốt một ngày một đêm sau đó phải lưu lại trong một trại lính Afghamstan. Sau đó chuyển đến nhà khách chính phủ nằm phía sau lâu đài Dar – ul – aman ở ngoại ô Cabul. Trước đây khu này dành cho các vị khách nước ngoài cấp cao. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A. N. Coxưgin rất thích nghỉ ở đây. Nhưng Sergin và Izotov không ưa ngôi biệt thự. Họ báo cáo sứ quán và lập tức bị quát cho một trận: Sao các anh lại khó tính thế, điều kiện hết chê như vậy mà còn kêu ca nỗi gì…Quả thực tiện nghi thì không chê được, nhưng đội bảo vệ không yên tâm vì biệt thự nằmdưới chân núi, không xa bản làng. Từ trên khu làng nhìn xuống toà biệt thự hiện rõ như trên lòng bàn tay. Mà chẳng biết đâu lại có kẻ thích nhìn qua kính ngắm của một khẩu súng! Sergin đã viện lí do đó ra để tranh cãi với các đại diện cơ quan tình báo, song nỗi lo ngại của anh chỉ khiến cấp trên bực bội: Họ nói các anh vừa chân ướt chân ráo đến đã lên mặt dạy đời. Biết làmsao, lệnh là lệnh. Đành phải tổ chức hệ thống bảo vệ, đặt trạm gác. Nhưng không thể dừng cuộc sống. Chúng tôi quyết định tổ chức đón năm mới. Mọi người kiếm chai sâm banh, bày bàn tiệc. Đồng hồ sắp chỉ mười hai giờ, mọi người chuẩn bị nâng cốc tiễn nămcũ, đột nhiên Babrac cho gọi Izotov. Izotov đi ra, mọi người đành phải chờ. Một lát anh quay về, nâng cốc lên và mỉmcười nói:
- Babrac Carmal chúc mừng nămmới.
Chưa kịp cạn chén, từ bóng tối băng giá bên ngoài cửa sổ một tràng tiểu liên vang lên khô khốc. Đội trưởng tuần tra nhạy vào: “Trong làng bắn sang!”. Chúng tôi phải lấy thêm lính dù hỗ trợ, lục soát quanh biệt thự nhưng không phát hiện thấy gì. Đêm vắng và lạnh buốt. Chúng tôi đặt thêm trạm gác cạnh tháp nước đầu làng. Tất cả lại vào bàn. Giờ giao thừa đã qua, đành uống rượu đuổi theo vậy. Lại có tiếng súng, lại báo động. Chúng tôi bố trí phòng ngự vòng tròn. Ánh lửa đầu nòng lóe lên ngay cạnh tháp nước. Ai đó nổ súng bừa bãi bắn trả, lính dù trên xe bọc thép cũng nã pháo. Về sau mới biết một lính gác bên ta bắn trả vào làng. Từ tòa biệt thự chúng tôi nhìn thấy ánh lửa đạn, nên vội tưới đạn vào đó. Rất may anh ta kịp núp nên thoát chết. Đêm năm mới ấy chúng tôi không được trở lại bàn tiệc mà phải vào làng càn quét.
Babrac Carmal và các thành viên Hội đồng Cách mạng nằm lại tòa biệt thự một tuần nữa. Gần như không ai đi khỏi đây. Thường là mọi người đến. Babrac Carmal, lúc này là Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng dân chủ nhân dân Afghanistan, Chủ tịch Hội đồng Cách mạng, Thủ tướng và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nước Cộng hòa dân chủ Afghanistan, đã chủ trì cuộc họp báo đầu tiên. Sau khi chuyển đến lâu đài Arc, các nhân viên đặc nhiệm “A” bắt đầu vất vả hàng ngày với công tác bảo vệ và giữ an ninh cho Babrac.
Họ không rời vị trí bảo vệ bên trong, túc trực phòng khách và phòng nghỉ. Xung quanh lâu đài đặt các trạm gác của lính dù, bên ngoài địa phận lâu đài là vòng bảo vệ của đội cận vệ quốc gia. Tại các cửa ra vào lâu đài đều có đội viên “Zenit” chốt. Khi có việc ra ngoài, vị lãnh đạo nhà nước tối cao được mười một vệ sĩ hộ tống. Izotov đi trước dẹp đường. Một chiếc “Mercedes” bọc thép do Anatoli Gresisnicov lái chở Babrac, các xe khác theo sau. Mỗi lần Babrac đi, lực lượng bảo vệ được huy động tối đa. Giao thông đường phố Cabul trên thực tế hoàn toàn mất kiểmsoát, cảnh sát không được biết lộ trình của đoàn xe nguyên thủ, dẫu có biết cũng chưa chắc đã giúp được gì. Thủ đô đông người, xe tăng, xe bọc thép, xe chở lính chạy đầy đường. Izotov nhớ chuyến ra ngoài đầu tiên của Babrac: “Tôi ngồi đằng trước hò hét với đám xe tăng, thò nắm đấm ra dọa dẫm. Chẳng còn cách nào khác. Người ta nhìn thấy nhưng ngoảnh mặt đi. Không lẽ lại nhảy xuống nói cho từng người biết đây là xe nguyên thủ quốc gia. Sau này chúng tôi đặt các trạm gác trên suốt lộ trình. Nhưng không nên quá hi vọng vào họ, mà chỉ nên trông vào bản thân”. Tôi muốn nhấn mạnh những chuyện này, bởi vì mấy năm sau, khi một phóng viên Liên Xô hỏi: Với tư cách nhà lãnh đạo một quốc gia có chủ quyền, ông Carmal có thấy bất tiện khi lâu đài (nghĩa là cả bản thân ông) luôn bị đội bảo vệ đặc biệt của KGB giámsát? Ông ta đã trả lời: “Tôi nhiều lần nổi giận vì chuyện này”. Nhưng các chỉ huy của đội bảo vệ đặc biệt lại có ý kiến khác.
Sergin:
- Quan hệ giữa chúng tôi và Babrac rất tốt, hoàn toàn không giống quan hệ giữa lực lượng an ninh với người được bảo vệ. Nói đúng ra, nó giống tình cảmcủa những người bạn chiến đấu. Chúng tôi luôn sát cánh bên ông những lúc gay go nhất. Ngày 14 tháng mười hai năm 1979, khi có báo động, chúng tôi gần như phải bế từng người ra khỏi hầm, đưa lên máy bay. Tháng hai năm sau, có bạo loạn trong thành phố – xe tô bị đốt cháy, đại sứ quán Liên Xô bị nã đạn, có mấy công dân ta bị bắn chết phe đối lập tập hợp được hàng nghìn người dưới cờ xanh Hồi giáo tiến về lâu đài Arc, chúng tôi đã sẵn sàng hi sinh thân mình để bảo vệ Babrac. Ngày kỉ niệm cách mạng Xaur, sau lưng Carmal trên lễ đài là Volodia Taraxenco của chúng tôi. Trường hợp có kẻ ám sát, nhiệm vụ của Taraxenco là dùng thân mình che cho Babrac. Carmal thấy, biết hết mọi chuyện và đối lại anh em bằng nhiệt tình và sự hàm ơn. Ngày 23 tháng hai là sinh nhật Izotov. Tôi nhớ cả Hội đồng Cách mạng đã đến chúc mừng: Đủ cả Babrac, Anahita, Nur và Guliabzoi. Có lần, khi Anahita ở nước ngoài trở về, Izotov thay mặt anh em ra tận sân bay đón. Anh mang theo bó hoa hồng to, nhưng không dám lại gần Anahita, đứng gần bà toàn các nhà lãnh đạo cấp nhà nước và đại sứ Tabeev. Tóm lại, đang diễn ra nghi lễ chính thức. Bỗng Anahita nhìn thấy Izotov trong đám đông, bà gạt Tabeev ra và gọi lớn: “Iura!” rồi chạy lại chỗ anh. Hômsau chúng tôi bị tướtlg Ivanov gọi lên xạc cho một trận.
- Sao anh ta dámđến đó?
Thiết nghĩ, nếu chỉ là lính cảnh vệ làmthuê, họ đã chẳng đối xử với chúng tôi nhiệt tình và nể trọng như vậy. Không nên quên là đội dự kiến bay sang đây công tác chỉ một tuần, và mang theo lương thực và quần áo cho thời hạn đó. Ở nhà chúng tôi có rất nhiều việc. Golovatov học trường Đại học Thể dục Thể thao, anh đang lo phát sốt với kì thi quốc gia; người khác thì bận rộn với bài vở ở trường Cao đẳng An ninh; và còn khối việc khác nữa… Anh em đều có gia đình, vợ con ở Moxcva. Chúng tôi không thuộc Cục IX của KGB, không là các chuyên gia bảo vệ lãnh tụ. Tôi đã gọi điện cho tướng Bestrastnov, đã viết báo cáo yêu cầu cử người sang thay thế. Ngày về đã mấy lần được ấn định. Nhưng tất cả đều bị hoãn vì yêu cầu của Babrac. Lần cuối là vào tháng hai. Anh emđã xếp vali, mua đồ lưu niệmđã chia tay nhưng tình hình lại căng thẳng. Carmal dứt khoát từ chối trả đội về Liên Xô. Người ta lại đề nghị ở lại đến tháng năm. Hết tháng
năm, chúng tôi vẫn phải thực hiện nhiệm vụ không chút dễ dàng của mình. Ngày 30 tháng sáu người ta tổ chức tiệc chia tay, có đại sứ Tabeev, tướng Ivanov tới dự cùng mười một anh em chúng tôi và gần hết ban lãnh đạo cấp cao Afghanistan. Ngày mồng 1 tháng bảy chúng tôi rời Cabul.
Iuri Izotov:
- Mười một người chúng tôi đều sẵn sàng lấy thân mình che cho Babrae. Riêng tôi có thể nói đã luôn ở vị trí dễ dàng nhảy ra chắn cho Babrac ngay trong tích tắc Trong những hoàn cảnh khẩn cấp, sử dụng vũ khí là việc phức tạp nên phải thường xuyên giữ khoảng cách gần nhất với ông. Tôi nghĩ mình đã làm được điều này. Một lần Babrac đến dự cuộc họp đảng ở nhà hát. Trước đấy đã có lời cảnh báo về một vụ khủng bố. Che anh thử tưởng tượng mà xem? Tất nhiên, đội cận vệ cũng được báo động, còn chúng tôi đích thân ngồi trong hội trường kiểmsoát tình hình. Cuộc họp bắt đầu. Babrac đang đi lên lễ đài thì đèn phụt tắt. Tôi đoán lựu đạn sẽ nổ tiếp liền. Nhưng, thật may là chuyện đó không xảy ra. Chúng tôi vây quanh che chắn và đưa ông ra sau cánh gà. Tất nhiên còn nhiều tình huống căng thẳng khác. Trong một cuộn diễu hành chào mừng ngày cách mạng ở phía đối diện lễ đài, trên nóc một ngôi nhà bỗng nhiên xuất hiện nhiều người có vũ khí. Chúng tôi vây lấy Babrac. Thần kinh căng thẳng tột độ. Hóa ra là sáng kiến của đội cận vệ quốc gia. Viên chỉ huy quên thông báo cho chúng tôi. Đội của họ vừa thành lập từ những thành viên tích cực trong đảng; nói chung chưa được đào tạo gì cả. Có lần Carmal đề nghị tôi giúp đỡ tập huấn cho đội. Ông tin chúng tôi hơn bất cứ người Afghanistan nào.
Những ý kiến trái ngược. Vậy sự thật là đâu? Chúng tôi không kết luận mà chỉ nêu vàisự kiện, bạn đọc tự sẽ có chính kiến của mình…
Khi đơn vị của Sergin trở về, có vẻ thiên anh hùng ca Afghanistan của đội đặc nhiệm “A” đã kết thúc. Công việc ở nhà bộn bề – thế vận hội Olympic Moxcva khai mạc, kí ức về vụ quân khủng bố Palestin bắt cóc và tàn sát dã man đội tuyển đấu vật Israel ở Munich còn tươi rói. Liên Xô nhất định không để xảy ra điều tương tự. Về đến Moxcva hôm trước, hôm sau tướng Bestrastnov, cục trưởng Cục VII đã gọi đội Sergin đến. Ông cảmơn họ đã hoàn thành nhiệmvụ rồi nói:
- Các con trai thân mến, hãy về nghỉ ngơi một ngày, mồng 4 tháng bảy tập trung bảo vệ an ninh thế vận hội. Bảy tháng đi xa. Một ngày với gia đình rồi vào doanh trại. Không có sự lựa chọn khác. Đội chống khủng bố lại vào trận.
Romanov ngồi lặng, choáng váng. Bức thư nặc danh. Một bức thư nặc danh bẩn thỉu. Tướng Bestrastnov đọc to từng đoạn. Trời ơi, còn tội lỗi nhớp nhúa nào mà người ta không gán cho anh nứa: Trộm cướp, ăn cắp, tội để Carpukhin và Berlev trấn lột người chết rồi chia cho anh; còn anh, tất nhiên là che đậy những chuyện xấu xa đó.
- Thế đấy, – Bestrastnov buồn rầu nhét lá thư vào phong bì.
Nếu anh bạn võ sĩ quyền Anh Glev Tolxticov nhìn thấy Romanov lúc này, hẳn anh ta sẽ nói: “Nốc ao. Misa đã đo ván”. Romanov cố trấn tĩnh, sao có thể vậy chứ. Anh luôn luôn bị đánh. Đời đã tàn bạo với anh không chỉ một lần. Nhưng lần này lại khác: Một cú đánh của kẻ cướp, đánh lén. Anh đã linh tính, đã cảm thấy từ trước, quỷ tha ma bắt… Sau chuyến công tác Afghanistan, cuộc sống đã có nhiều thay đổi. Trong đội xuất hiện những con người gắn bó bởi cuộc chiến tranh, bởi chiến trận và cái chết của các đồng đội. Thế thì sao? Họ có đòi ân huệ, đồi xử đặc biệt, hay lợi lộc gì cho bản thân đâu? Không và không bao giờ có chuyện đó. Trong huấn luyện, trong học tập họ luôn đi đầu, giữ nghiêm kí luật, những lời chỉ trích rõ ràng không đem lại niềm vui. Ai mà vui được trước cái yêu sách kì quặc bắt nộp
những bộ quần áo thể thao rách bươm và đẫm máu sau trận đánh. Họ đã quẳng sạch những bộ đồ đen đủi đó ở Cabul. Đến mức ấy nữa. Hóa ra đó là tài sản quốc gia. Vậy thì để người ta trở lại Cabul mà lấy về. Nhưng chuyện không dừng ở chỉ trích, mà nghiêm trọng hơn nhiều. Có người không thể chịu nổi ý nghĩ rằng, Mikhail Romanov đang từ thân phận một thiếu tá bình thường bỗng chốc thành Anh hùng Liên Xô. Họ đã đánh lâu đài, đã chiếm… Còn sau đó? Đấy, cái về sau mới thật thú vị – nào là lục lọi xác chết, cưỡng đoạt, trộm cướp. Một cách công khai. Và Romanov, là chí huy mà nhắmmắt làmngơ. Có nghĩa anh ta cũng là tòng phạm. Với những chuyện như vậy anh ta có còn là anh hùng nữa không? Không những không thể khen thưởng mà phải đem ra tòa ấy chứ. “Ra tòa ư? – Romanov cười khẩy với cái ý nghĩ điên rồ thoáng qua này, – Có lẽ đó là giải pháp tối ưu chăng? Romanov đã há miệng mắc quai rồi”.
- Mikhail, cậu đừng có dựng bờmlên như vậy, – Bestrastnov nói. – Tôi chẳng tin lời nào ở đây cả.
Ông gõ gõ vào phong bì khẳng định. Romanov chua chát lắc đầu.
- Andropov cũng không tin. – Vị tướng nói tiếp – ông ấy đã lệnh phải tìm cho ra tác giả bức thư. Đã chỉ định dự thẩm viên rồi. Xong việc ở đây cậu ghé qua bên họ một chút.
Romanov rời văn phòng tướng Bestrastnov. Anh không muốn gặp bất kì ai trên đời. Giá biến được khỏi đây, vào rừng tai ga hay một hoang mạc nào đó. “Kẻ nào có thể dựng chuyện này cho mình nhỉ?”. Anh điểm tên, nhớ lại những khuôn mặt. Không thể nghi cho ai. Thật kinh khủng. Cùng nhau ra trận cùng vào chỗ chết. Anh nhớ hình ảnh Valeri Emưsev ngã chúi mặt vào một góc tường, cánh tay cụt đẫm máu cuốn băng, nhờ Liosa Baiev đạn găm thủng cổ, Pasa Climov trên cáng cứu thương. Không không thể là họ, nhưng bức thư nặc danh có thật. Có người đã viết. Andropov, các phó chủ tịch, Bestrastnov đã đọc nghĩa là các đơn vị khác trong ủy ban an ninh cũng biết chuyện. Có nhiều loại người khác nhau. Những người ở cạnh anh thì hiểu sự thật còn những người khác thì sao? Một số người đã lảng tránh, không dámbắt tay. Còn phải nói: Kẻ cướp mà! Cuối cùng Romanov tìmthấy cái văn phòng đó. Nào, bây giờ sẽ là hỏi cung đây. Dù Bestrastnov nói hình như có một ban thanh tra đã được thành lập tìm tác giả bức thư nặc danh kia nhưng Romanov hiểu trước tiên anh phải tự bào chữa được. Thế còn kẻ nặc danh kia? Hắn ở đâu là ai? Có tìm ra không? Anh gõ cửa phòng bước vào. Ngồi ở bàn là một người đàn ông cau có. Ông ta gật đầu:
- Mời ngồi! – Rồi rút trong ngăn bàn ra một tập giấy, Thiếu tá Romanov Mikhail Mikhailovich…
Từ lâu không ai gọi anh trịnh trọng như vậy. Lần cuối cùng là khi tướng Drozdov từ lâu đài báo cáo về Moxcva. Ông nói thiếu tá…, đủ họ tên và phụ danh, chỉ huy đội… đã phụ trách, đã lo liệu, là tấm gương cho anh em. Quả thật tên họ anh đã vang lên trong một hoàn cảnh khác, gắn với danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết. “Ở đất nước chúng ta khoảng cách từ anh hùng đến tội phạm thật ngắn!” – Romanov nghĩ.
- Chuyện này chẳng ra làmsao cả, anh Mikhail Mikhailovich ạ, – viên dự thẩmtỏ ra thông cảm, – nhưng làmthế nào được… - Vâng, tôi hiểu, tôi làmviệc ở Ủy ban an ninh không phải nămđầu tiên.
- Thôi được, anh hãy nhớ xem làm sao trong túi Balasov lại có năm nghìn afghani (tiền Afghanistan)? Có chuyện như vậy, anh biết không? Tác giả bức thư cũng biết.
Bao nhiêu người biết nhỉ – ba, bốn… chắc chỉ năm người là cùng. Mặc dù anh không hề giấu. Anh nhận tiền ở đại sứ quán cho toàn đội, có biên nhận hẳn hoi và đưa Balasov giữ. Họ chưa dùng đến, chẳng có lúc nào mà tiều. Người ta tìm thấy chúng còn mới nguyên, cả một tập, trong bộ đồ bẩn, đẫm máu của Balasov. Balasov quên bẵng. Sau trận đánh anh quẳng áo quần và không nhớ đến món tiền. Dù đó là tiền xương máu, được cấp để chi dùng, không phải đi ăn cắp hay ăn cướp mà có. Nhưng tiếng đồn lan khắp, rằng đã phát hiện nhiều sấp tiền nhét đầy các túi bộ quân phục. Viên dự thẩmghi chép gì đó trong tập hồ sơ rồi hỏi:
- Mikhail Mikhailovich, anh bay từ Afghamstan về sân bay Vnucovo, đúng không?
- Đúng?
Điều này anh nhớ rõ. Khi máy bay sắp hạ cánh, anh tỉnh lài, cơn đau khủng khiếp đã dịu. Có lẽ nhờ mũi tiền của cô y tá khi đang bay. Đúng là anh đang nằm như vua trên đi văng thì bị cáng lên máy bay, chỗ ngồi không có nói gì đến nằm. Romanov ngạc nhiên người chật ních trong khoang máy bay, mà toàn nhân viên uỷ ban an ninh. “Ở đâu ra lắm vậy? Họ làm gì khi bốn chục chiến sĩ của anh và Xemenov tấn công hai trăm lính cận vệ của Amin?” “Xem kìa Mi sa, thế mà anh bảo không có người để huy động đi tấn công Clev Tolxticov đặt cáng xuống và nói. Những người ngồi ở đi văng inl lặng đứng lên.
- Có nghĩa là Vnucovo? – viên dự thẩmhỏi lại. Romanov xác nhận.
- Lúc ấy anh bị đau à?
- Tôi bịsỏi thận.
- Thế từ sân bay anh có rẽ về nhà không?
Lá thư viết người của anh mang đồ trang sức quí về nhà giấu…Romanov tức điên, nghẹn cả cổ.
- Có mang, – Romanov thì thầm, – mấy cái quần hôi thối, dính máu về thay. Nhà tôi cạnh sân bay. Còn vàng bạc, kim cương thì tôi quẳng đi tiệt…
Viên dự thẩm không hỏi gì thêm nữa. Ông ta thả anh đi yên lành. Thế cũng cảm ơn Romanov bỏ về nhà nghỉ ngoại ô. Cố quên mọi chuyện, anh vớ búa, rìu đinh làm mấy việc nhưng một tiếng sau đã ra hiên nhà ngồi nhớ Afghanistan, lâu đài Amin và trận đánh… Anh nhớ lúc chạy trên cầu thang, một quả lựu đạn rơi dưới anh, một phụ nữ kêu thất thanh: “Amin! Amin!”. Izotov báo cáo qua máy bộ đàm: “Nhân vật chính chết rồi!”. Anh nhớ họ bước ra ngoài lâu đài hút thuốc. Berlev và Carpukhin quyết định kéo xác chết ra khỏi thang máy. Họ đặt nó xuống sàn, lấy giấy tờ trong túi người chết ra. “Tôi đoán là thẻ đảng, – Berlev chìa cho Carpukhin quyển sổ mỏng. Carpukhin mở ra. Chữ Arập loằng viết bằng bút mực. Nửa tiếng trước, nếu còn ngoằng viên đạn, chủ nhân tấm thẻ chắc đã bắn hạ Carpukhin như con gà gô rồi. Nhưng số phận đã che chở viên đại úy Romanov thấy Berlev và Carpukhin đang ngắm nghía tấm thẻ, anh định lại gần xem nhưng có người giật áo ngăn lại. Romanov ngoảnh lại. Trước mặt anh là người đàn ông chừng năm mươi tuổi, có thể hơn, mặc quân phục hàm trung sĩ. Mặt ông đỏ bừng tức giận, còn đôi mắt, đến bây giờ anh vẫn nhớ – đôi mắt lạnh băng, lóe lên nhưng tia giận dừ. Romanov nhớ ra đó là một nhân viên ban đặc biệt của KGB. Có lần anh đã đi nhờ xe ông ta. Nhưng ông ta cần gì ở đây nhỉ?
- Đồng chí thiếu tá, người của anh đang làmgì vậy?
- Họ vừa ra khỏi trận đánh…
- Điều đó không có ý nghĩa gì? Họ đang ăn cướp. Tôi đã thấy họ lần mò túi quần áo của người chết.
Đến đây “nhân vật đặc biệt” gào vào bóng tối khi nghe giọng nói của ai đó.
- Đừng động vào, không được động vào cái gì cả? Mọi thứ ở đây đều bị tẩmđộc đấy.
- Nghe này, làm gì mà ông gào lên vậy? – Romanov mệt mỏi thì thào. – Để họ yên. Chúng tôi không cần tiền afghani. Chúng tôi còn nhặt được cả bọc nữ trang trong lâu đài. Cả một bọc, hiểu chưa? Anh muốn tôi nộp cho anh hay mang trả lại. Còn bây giờ thì biến cho nhanh kẻo mang họa đấy.
“Nhân viên đặc biệt” mắt lạnh nhìn quanh, rồi lảng.
“Không lẽ là thằng tha đê tiện đó?” – Romanov băn khoăn. – Có thể lắm nhưng cứ thử chứng minh xem!”. Anh tự giày vò suốt một ngày đêm; sáng thứ hai anh gọi điện cho tướng Bestrastnov xin gặp. Romanov bước vào và đặt trước mặt viên tướng nắm đấm cửa nhỏ bằng đồng anh đã nhặt sau trận đánh trong lâu đài. Cục trưởng ngước lên hỏi:
- Cái gì vậy?
- Đây là vật báu tôi mang ở đó về…
Romanov trở lại trụ sở đội đặc nhiệm. Bây giờ anh hiểu cần rời đơn vị. Nhưng đi đâu? Hay về cơ quan cũ? Ở đó ai cũng biết anh, nhớ anh. Thật tiếc, tất nhiên. Nhưng không tập thể nào thân thiết và gần gũi với anh hơn “Alfa”. Anh đã tốn bao công sức, đổ bao mồ hôi đào luyện các chiến sĩ. Sự thực là khắp thế giới chưa có đội đặc nhiệm chống khủng bố nào phải thực hiện những nhiệm vụ như đội của anh. Đại sứ Liên Xô ở Afghanistan Tabeev nói gì về chuyện này nhỉ? Anh còn nhớ chuyện trong bệnh viện sau trận đánh. Bên phải anh là Xerioja Golov với chín vết thương, bên trái anh là Colia Svasco. Anh nằm giữa quằn quại vì đau thận. Trong cơn đau nghe có tiếng xì xào: “Đại sứ, đại sứ…”. Anh mở mắt, Tabeev cúi bên anh hỏi: “Con có thấy ta không, con trai?” – “Có”. – “Có nghe tiếng ta nói không?” “Có” – “Cảm ơn con và các chàng trai của con. Mọi việc rất gọn ghẽ. Không cơ quan tình báo thế giới nào biết về lực lượng tiến hành chiến dịch. Các con sẽ được nhận huân chương, huy chương. Nhưng không phải điều đó là quan trọng. Điều chủ yếu trong đời các con đã có thể hoàn thành. Con hãy nhớ điều ta nói…”.
Nhiều năm trôi qua. Đã có nhiều biến cố trong số phận của thiếu tá an anh quốc gia Romanov và các đồng đội cấp dưới của anh. Đã thay đổi cả quan điểm về vấn đề Afghanistan. Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi, một điều mãi mãi thiêng liêng: Đó là máu đã đổ trên các bậc cầu thang ở lâu đài.
Lời tiên đoán của viên đại sứ về chuyện huân chương đã thành sự thật. Người ta xem xét, cân nhắc, tráo đi tráo lại danh sách cán bộ được đề nghị khen thưởng rất lâu. Lúc đầu có bảy người được đề nghị tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô là Boiarinov, Cozlov, Carpukhin, Romanov, Golov, Xemenov và Poliacov. Bức thư nặc danh đã loại Romanov ra khỏi danh sách. Ban thanh tra do Chủ tịch ủy ban An ninh Quốc gia I. V. Andropov chỉ định không tìm ra kẻ ác ý nhưng cũng đã trả lại sự trong sạch cho Romanov. Nhưng phong Anh hùng thì không. Đội trưởng “Zenit” Iacov Xemenov cũng bị bật khỏi danh sách “anh hùng” sang “Cờ đỏ”. Ngày 28 tháng tư năm 1980 Chủ tịch
Đoàn Xô Viết Tối cao Liên Xô ban hành sắc lệnh phong Anh hùng Liên Xô vì thành tích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đặc biệt của chính phủ Liên xô, vì tinh thần dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng được thể hiện trong khi làm nhiệm vụ cho Boiarinov Grigon Ivanovich (truy tặng), Victor Carpụkhin, Cozlov Evald Grigorievieh. Huân chương Sao vàng số N11431 được trao cho gia đình đại tá Boiarinov. Ông là người mãi mãi được lưu danh trong lịch sử chúng ta như vị anh hùng đầu tiên của chiến tranh Afghanistan. Carpukhin và Cozlov nhận ngôi Sao vàng ở điện Cremli ngày 21 tháng năm năm 1980 do Cuznexov, Phó chủ tịch thứ nhất Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô tự tay trao tặng. Đồng thời huân chương Lenin cũng sẽ được trao cho Romanov, Golov và Poliacov. Lễ trao cử hành ở Cremli thật cầu kỳ. Trước hết đối với những người được nhận huân chương. Anh em đội “Alfa” vẫn nói đùa là hồi hộp không kém lúc tấn công lâu đài. Họ được hướng dẫn đến mệt lả người trước buổi lễ: Không được bắt tay, không được hỏi, không được ôm hôn. Cũng còn may là người ta không cấm thở. Tại sao lại rắc rối vậy. Hóa ra là đích thân Tổng bí thư Brejznev sẽ trao huân chương. Buổi lễ đã bị hoãn đi hoãn lại mấy lần phút cuối lại có thông báo là Tổng bí thư sẽ không dự. Người thay thế là Cuznexov. Họ lại được hướng dẫn thủ tục đón tiếp kiểu khác, vì ông già hơn sếp Brejnev. Cốt để anh emkhông bắt tay quá mạnh làmđau ông cụ.
Ngày 21 tháng năm đã đến. Năm chiến sĩ ưu tú tập trung ở điện Cremli. Các anh để áo ngoài tại phòng gửi áo ở phòng chờ, một phụ nữ trung niên mỉm cười đón tiếp ân cần như bà chủ nhà. Họ nhìn quanh. Yên tĩnh, long trọng. Trên các bàn đặt nước hoa quả, thuốc lá. Họ nhìn vào hội trường, chẳng có ai. Không phải chờ lâu, đúng giờ đã định, họ được mời vào hội trường vẫn còn vắng chỉ có mấy chiếc ghế, một bàn to, bốn chân chạm trổ mạ vàng. Cạnh bàn là micro: Cuznexov chúc mừng, trao huân chương: Những ngôi Sao vàng. Người nhận theo thông lệ, ngỏ lời cám ơn Đảng và Chính phủ. Victor Carpukhin vì hồi hộp nên quên cả nói những lời đã chuẩn bị từ trước. Người ta cho anh lên phát biểu lần nữa. Khi anh bướt lên, ai đó nói đùa là chiến đấu thì giỏi thế, mà nói lại dát. Sau buổi lễ mọi người đi ra phòng nghỉ: “Chúng mình chụp ảnh chứ?” – Cozlov gợi ý “Không nên đi đâu” – Phó chủ tịch Ủy ban An ninh Lejeneeov đi cùng họ nói khẽ như ra lệnh. Nhưng dù sao, vào ngày như thế này họ đã quyết định cưỡng lời cấp trên và chụp được mấy kiểu.
Những bức ảnh Lejeneeov khuyên không nên chụp không ai trong số họ nhận được, còn những bức ảnh chụp cùng Cuznexov thì đến tay, nhưng phảisau mấy năm. Georgadze thư kí Chủ tịch Đoàn Xô Viết Tối cao trầmtrồ:
- Chà, chà, các chàng trai, quả là các tay tráng sĩ, giá được cạn với các bạn một li sâm banh nhỉ. Huân chương oách thế mà! Nhưng xin lỗi, – ông ta vung tay tỏ vẻ bối rối – Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao không có tiền. Tiền đã chi hết cho tiếp các đại sứ và những tiệc chiêu đãi khác.
- Không sao, – Golov an ủi. – Chúng tôi cũng đoán vậy nên có mang theo một ít.
Anh đã định nói: “Chúng tôi có mang theo, vì biết các người là bọn keo… rồi”. Georgadze đi rồi, chỉ còn lại toàn người của mình, hai Phó Chủ tịch ủy ban An ninh là Lejenecov và Kirpichenco cho phép mỗi người cạn một li vodca. Nhưng dặn cấm hở cho ai chuyện này: “Cứ việc bịa đủ mọi chuyện về việc được khen thưởng, trừ sự thật. Đây là bí mật quốc gia”.
Không muốn uống vụng xó nhà chén rượu đáng được hưởng, anh em đặt tiệc ở nhà hàng “Pasa”. Họ đến nơi lúc 5 giờ, đúng giờ giải lao của cửa hàng. Không được vào. Thôi thì hút thuốc đợi vậy. Khách kéo đến đông dần, đámthanh mền đứng ngoài cửa ồn ào, một đám cưới đi tới trên những chiếc “Volga” đen. Đến giờ mở cửa. Họ kéo vào gửi áo khoác. Một người đeo ngôi Sao vàng trên ve áo, người thứ hai rồi thứ ba đeo huân chương Lenin. Đám thanh niên im lặng, há miệng ngạc nhiên. Mấy ông già ở phòng gửi áo bám lấy hỏi: “Các
cháu, các cháu kiếm đâu ra huân chương mà nhiều vậy? Từ đâu ra vậy hả các con trai?”. Mọi người xúm xung quanh, chỉ trỏ, thán phục, mắt sáng lên, cô dâu mới cũng chạy đến đòisờ huân chương. Hóa ra nhân dân đón các anh hùng không như những quan chức bệ vệ mặc lễ phục đen của điện Cremli. Thật nồng nhiệt, thiện tâm, chân thành.
Các anh hùng lên tầng hai. Để không phải trả lời những câu hỏi không cần thiết của dân chúng, họ tháo huân chương ra. Anh nhân viên Colia ra đón. Họ yêu cầu một bữa tiệc không đứng ồn ào, không người ngoài, không quảng cáo. Cứ nói chúng tôi là bạn bè, những người bình thường, một người từ Angola về, người thì… tóm lại họ làm Colia mụ cả đầu. Anh này bày bàn xong đi ra. Nhưng truyền thống vẫn là truyền thống. Anh em rót rượu, thả huân, huy chương vào cốc. Tất cả đứng lên. Vừa lúc Colia mang thức ăn bước vào. Anh ta sửng sốt. Sát bên nhau, hai mươi chàng trai đang “rửa” huân chương “Vì lòng dũng cảm”, còn ở một bàn năm người với hai ngôi sao anh hùng và ba huân chương Lenin. Đất nước kỳ diệu! Họ mời Colia: “Hãy nâng cốc cùng, vì chúng tôi vừa từ cõi chết trở về”. Colia uống một hơi, im lặng úp cốc xuống bàn, không hỏi một câu. Bữa tiệc “gia đình” kết thúc ở đây. Colia kéo thêm một anh bạn. “Xin lỗi, tôi với anh bạn này làm việc ở đây đã mười lăm năm nhưng chưa bao giờ thấy cảnh như thế này”. – “Không sao bạn là bạn, hãy ngồi xuống, rót rượu ra?”. Ngay lúc ấy người phụ trách nhà hàng, một cựu nhân viên Trekis, nhẹ nhàng bước vào với ba nhân viên nữa. Họ được rỉ tai là có các anh hùng trong nhà hàng. Chỉ huy dàn nhạc xuất hiện. Muốn chơi nhạc cho các anh hùng thực thụ.
- Các bạn rất dễ thương, – nhạc công mỉmcười. – Các bạn hãy ra lệnh, vì các bạn chúng tôisẵn sàng phục vụ. - Lệnh liếc gì, nhạc trưởng! Tuỳ ý ông chọn đấy! – Romanov đáp.
Dàn nhạc mở đầu bài hát đang thịnh hành: “Ta đã nếmnhựa bạch dương trong vườn xuân…”. Các anh hùng ngồi trong nhà hàng nghe bài hát. Tự dưng họ thấy buồn và tủi thân: Việc gì phải giấu huân chương? Họ quay ra phòng lớn. Tất cả khách hàng đứng dậy bắt tay chúc mừng, mời cùng ngồi. Tâm hồn các chiến sĩ như được sưởi ấm. Dàn nhạc vẫn chơi, chơi mãi, chơi cho họ, cho các anh hùng. Một buổi tối không bao giờ quên. Cuối buổi, một người đàn ông nhỏ bé đến ngồi cạnh. Ông ta chếnh choáng say nhưng vui vẻ: “Mừng các bạn, chúc mừng! – ông nói to. – Tôi có cảm giác các anh vừa hoàn thành một công việc hệ trọng”. Ông làm một hơi cạn và bực bội ném cốc: “Còn tôi cày mãi cày mãi mà chẳng vớ được gì?”. Cozlov buồn cười hỏi lại: “Ông cày ở đâu?”. Người đàn ông tì ngực vào bàn, nhìn quanh, giọng khàn khàn bí mật: “KGB?”. Quanh bàn các anh hùng rung lên vì tiếng cười rộ.
Các anh hùng của cuộc chiến Afghanistan ở đất nước chúng ta không thiếu sự tôn trọng và luôn được quan tâm chú ý. Đất nước biết và yêu mến. Họ được lựa chọn vào các chức vụ cao của nhà nước và chính phủ, phụ trách các tổ chức xã hội. Báo chí nói đến, điện ảnh, truyền hình làm phim, trong sách của các tác giả uy tín nhất, những anh hùng từ Afghanistan luôn chiếm vị trí xứng đáng. Chỉ cần nêu ra đây một vài tên tuổi cũng đủ biết rằng, cho đến bây giờ, sau nhiều năm trôi quan tên tuổi họ vẫn được người đời nhắc đến: Alecxandr Ruxcoi, Pavel Gratrev, Boris Gromov, Ruxlan Ansev, Valeri Otrirov. Trong số hơn hai trăm nghìn cán bộ chiến sĩ được khen thưởng thuộc Lực lượng quân Liên Xô ở Afghanistan có 67 người được phong Anh hùng Liên Xô (hai mươi bốn người đã hi sinh). Bộ Nội vụ có đại tá Mikhail Ixacov được phong danh hiệu này. Có tin rằng KGB đệ trình danh sách đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng mười ba người. Nhưng có phải tất cả đều được chấp thuận hay không thì không rõ. Thậm chí về những người đã trở thành anh hùng người ta cũng im lặng suốt một thời gian rất dài. Trong hồ sơ cá nhân, bên cạnh tên họ có dòng ghi chú: “Không công bố với báo chí”. Dù vậy tên của vị anh hùng đầu tiên cũng lọt ra các trang báo. Thực ra Anh hùng Liên Xô, đại tá Boiarinov được mô tả hơi dữ dằn. Báo chí viết ông quát
tháo và chửi rủa sĩ quan dưới quyền ầm ĩ trong trận tấn công dinh thự. Có cảm giác ông không biết làm gì khác hơn ngoài việc trút lên đầu cấp dưới những lời chửi rủa bất nhã. Làmsao có thể tha thứ cho cái kẻ vô lương tâmvà ác ý tung tin nhảmnhí như vậy được.
Chúng tôi tin những người cầm bút sau này nhắc sẽ, phải tự đặt cho mình câu hỏi tại sao mấy kẻ chỉ biết luôn mồm chửi bậy, hò hét, phét lác lại có thể hoàn thành nhiệm vụ phức tạp có một không hai chớp nhoáng chính xác và ít tổn thất về người đến như vậy. Nhưng thật tiếc phải thừa nhận rằng các hồ sơ tài liệu của chúng ta không nhắc nhiều đến vị anh hùng đầu tiên này, nếu có nói thì lại cũng là dẫn ý tay tác giả chẳng ai biết làmnhư đã tận mắt tận tai nghe Boiarinov quát tháo chửi bới trong trận đánh vậy. Làmsao chúng ta có thể không trân trọng lịch sử của chính mình, chấp nhận điều không thể là để một con người trung thực, anh hùng nhân chính bị vu khống. Trong một cuốn sách về chiến tranh Afghanistan có những dòng đọc mà ngạc nhiên: “Nếu không tính những người đã nhận Sao vàng vì có công đánh chiếm lâu đài Amin (có những người như thế) thì anh hùng kế tiếp trong số những người còn sống phải là sĩ quan quân dù Sergei Cozlov”. Những lời vô lí: Tại sao lại không tính những người đã nhận ngôi sao anh hùng do chiến công đánh phiếm dinh thự của Amin? Đúng, đã có những người như vậy. Hay đạn bắn vào họ bằng cao su? Hay máu và sinh mạng của các đội viên “Zenit” và “Grom” không có giá? Không khó nhận một điều là chỉ huy chung là cả các sĩ quan KGB và sĩ quan dù. Trong cuộc tấn công lâu đài Dar – ul – aman, họ đã sát cánh kề vai với những chiếc BMP và BTR, không ai nấp lưng ai. Vậy tạisao lại chỉ kể người này, mà bỏ qua người kia? Có lẽ vì thế mà đến nay chúng ta không biết đại tá Grigori Boiarinov thực tế là người thế nào? Nhưng điều đó cần. Đã đến lúc phải đưa tên tuổi ông vào biên niên sử cuộc chiến tranh của chúng ta. Hãy dành cho ông vị trí xứng đáng…
Grigori Boiarinov là đứa con của thời đại mình. Ông sinh năm 1922, 17 tuổi tình nguyện vào lính. Tốt nghiệp trường sĩ quan lục quân Xverdlov năm 1941, nhận hàm thiếu úy, chức vụ đầu tiên ngoài mặt trận là chỉ huy trung đội súng cối. Số phận đã đưa ông lên mặt trận Tây Bắc. Ở đây ông qua trận thử lửa đầu tiên, lần đầu được thưởng huy chương “Vì lòng dũng cảm”. Từ ngày ra đời, huy chương “Vì lòng dũng cảm” được đánh giá đặc biệt cao. Huy chương nào chả là huy chương, nhưng thật khó nói; tại sao huy chương này có uy tín như vậy, có thể vì nó có hình chữ thập Georgi vốn ở trên tấm huân chương dành cho những người lính dũng cảm từ thời Nga hoàng Sau cách mạng huân chương chữ thập Georgi không được dùng, nhưng lại ra đời huy chương “Vì lòng dũng cảm”, nó trở nên phổ biến và được yêu quý trong Hồng quân. Thiếu úy Grigori Boiarinov được tặng thưởng huy chương này do đã cùng trung đội tiêu diệt một đại đội bộ binh phát xít. Cha của anh, ông Ivan còn vui gấp đôi khi biết tin này vì dưới thời Nga hoàng ông cũng đã được thưởng huân chương chữ thập Georgi. Tháng mười hai năm 1941 Boiarinov được chuyển sang trung đoàn khu trục ở mặt trận Tây Bắc; ngày 1 tháng hai năm 1942 biệt phái sang trung đoàn biên phòng của Bộ Dân ủy Nội vụ. Không rõ vì sao Boiarinov được đưa sang biên phòng. Trên mặt trận, một người lính, một sĩ quan đặc biệt phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh, anh ta không tự mình là chủ mình – anh ta sẽ đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì để chiến đấu tiêu diệt quân phát xít. Ngày nay tên gọi đội quân của Bộ Dân uỷ thường khiến người ta nghĩ đến những đội đặc biệt chuyên tra tấn và xử bắn “kẻ thù” của chính quyền Xô Viết, đưa diện cần trấn áp đi đày. Nhưng biên chế của cơ quan này còn có các nhóm tình báo – phá hoại hoạt động sâu trong hậu phương của đối phương, họ trở thành nòng cốt của các đội du kích trong mạng lưới các tổ chức du kích, thực hiện những nhiệmvụ đặc biệt ở bên kia chiến tuyến. Đó là công việc mà Boiarinov đảmnhiệmtrong hơn hai nămrưỡi ở các mặt trận Tây Bắc, Leningrad và mặt trận thứ hai Pribaltich. ông phụ trách trường chuyên đào tạo xạ thủ bắn tỉa, huấn luyện biệt kích, bản thân nhiều lần đã chỉ huy các cuộc vượt chiến tuyến. Trong một chiến dịch, đội đặc nhiệm dưới sự chỉ huy của ông đã diệt gọn chỉ huy sở một sư đoàn quân Italia. Boiarinov được thưởng huân chương chiến công Cờ Đỏ. Các cựu chiến binh còn nhớ huân
chương này quý giá thế nào vào năm 1942. Chiến tranh kết thúc, Boiarinov giữ cương vị tham mưu trưởng ở Bộ Tư lệnh Quân quản Biên phòng. Những năm sau đó ông phục vụ ở đơn vị biên phòng 106 thuộc Quân khu biên phòng Tây – Bắc. Tại đây đã xảy ra câu chuyện mãi mãi đi vào lịch sử của quân khu. Trên một chiếc máy bay nhỏ, Boiarinov truy đuổi ba kẻ xâm phạm biên giới… Chuyện không hề đặc biệt, nếu đó không phải là loại máy bay nhỏ chỉ có một chỗ ngồi dành cho phi công. Boiarinov đã buộc phải leo lên cánh máy bay ra lệnh bay. Chiếc máy bay hạ cánh xuống mặt vịnh Phần Lan đóng băng. Ông truy đuổi bọn này thêm mấy cây số nữa. Đến bờ, chúng nấp sau các mỏm đá bắn ra. Boiarinov dùng súng trường bắn trả, không để bọn gián điệp tẩu thoát qua biên giới. Sau đó đơn vị đến kịp, mấy kẻ đột nhập đầu hàng. Năm 1948, Boiarinov được cử đi theo học Học viện Quân sự thuộc Bộ An ninh Quốc gia Liên Xô. Tốt nghiệp xuất sắc, ông được giữ lại làm giảng viên học viện. Mấy năm sau, ông bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ tại Học viện Quân sự mang tên M. V. Frunze với đề tài về chiến thuật hoạt động du kích. Đề tài nghiên cứu của Boiarinov là những điều ông biết từ thực tế và đã được kiểmnghiệmtrong điều kiện chiến đấu.
Tờ Người Phrunze của Học viện ra ngày 14 tháng mười một năm 1959 viết về luận án Boiarinov: “Điều đặc biệt đáng chú ý và có giá trị của luận án là ở chỗ nó lần đầu tiên phân tích một cách khoa học các phương pháp tiến hành công tác huấn luyện tổ chức trong các đơn vị du kích, các nhiệm vụ biện pháp và các phương tiện sử dụng trong hoạt động tình báo và chiến đấu, về tổ chức phối hợp hành động với quân chủ lực. Vấn đề trình bày có độ sâu rộng do tác giả là người đã trực tiếp thamgia hoạt động trong các đơn vị du kích những năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại định giá được toàn diện những thành công và thất bại của từng chiến dịch, nắm khá bao quát nhiều vấn đề về tổ chức và tiến hành chiến tranh du kích. Luận án có nhiều đúc kết thú vị và có cơ sở khoa học”. Sau đó Boiarinov trở thành giảng viên trường Cao đẳng Cờ đỏ mang tên Ph. E. Dzerjinski. Lúc này ông đã đủ điều kiện giảng dạy tốt là kiến thức khoa học kinh nghiệm thực tế phong phú. Boiarinov công tác ở đây mười tám năm. Suốt thời gian này ông viết nhiều công trình khoa học, phụ trách một phân khoa chuyên môn. Học trò của ông có nhiều, chính từ đó ông đã thành lập đội đặc nhiệm “Zenit” đầu tiên, là chi huy đội, sau đó sang Afghanistan năm 1979. Ông trở về vào tháng chín rồi lại quay sang đó vào tháng mười hai. ông hoàn toàn có thể ở phía sau, không ở hàng đầu xông vào lâu đài, không vào điểm lửa đó. Ông có thể, nhưng không làm vậy. Các học trò tự hào về ông. Cũng có kẻ trách ông già rồi còn xông pha nơi lửa đạn. Biết đáp lại sao đây? Câu trả lời tốt nhất có lẽ là chính cuộc đời Boiarinov. Một chiến sĩ viết thơ tưởng niệm. “Vĩnh biệt thầy, vĩnh biệt cha. Chúng con sẽ nhớ mãi về Người như một Anh hùng!” Mong kí ức tươi sáng về các anh hùng sẽ còn mãi.
Chương IV:
CUỘC CHIẾN CHỐNG KHÔNG TẶC
Trích hồ sơ “ALFA”
Những năm 70 đã đi vào lịch sử. Trong mười năm đó, theo số liệu của các tổ chức quốc tế thế giới có 8.114 vụ khủng bố. Hàng nghìn người trở thành vật hi sinh cho sự lộng hành bạo lực của lũ kẻ cướp. Nhưng hành tinh xanh của chúng ta vẫn chưa biết những năm 80 đang tới sẽ là những năm tàn khốc khôn lường. Và con tính mở màn: Chỉ năm năm đầu từ 1980 đến hết 1985 số lượng vụ khủng bố tăng gấp đôi. Những năm tiếp theo con số tiếp tục tăng: 1986-774 vụ, 1987-832 vụ, 1988-856 vụ… Năm 1980 diễn ra các chiến dịch giải phóng con tin lớn. Tháng tư năm đó đội đặc nhiệm “Deltal” của Mỹ do đại tá Charles Becvit chỉ huy thực hiện nhiệm vụ giải thoát con tin ở Teheran. Tiếp là chiến dịch thất bại hoàn toàn. Támmáy bay lên thẳng cất cánh từ hàng không mẫu hạm“Nimits” trên vịnh Peexich chỉ có sáu máy bay đến địa điểm tập kết mang mật hiệu “Sa mạc – I”. Một trong sáu chiếc bị hỏng máy. Với số máy bay còn lại Becvit không dám tiếp tục chiến dịch. Ông mô tả đoạn kết thảm kịch diễn ra trên sa mạc cách thủ đô Iran về phía đông nam 200 dặm như sau: “… Chúng tôi đang bay về nhà. Có lệnh kiểm tra trang bị và rời ngay máy bay lên thẳng. Đội “Delta” bắt đầu chất đồ lên máy bay. Tôi đi từ máy bay này sang máy bay khác, đếm số người đang lên khoang từng máy bay, rồi vội vã lên chiếc đầu đội hình. 2h40’, mấy phi công khởi động làmnóng động cơ máy bay. Lốc bụi nổi lên mù mịt, tầmnhìn gần đến 0. Giữa các đợt gió, tôi bỗng nhìn thấy một chiếc EC – 130 vừa mới cất mình đã lật nghiêng sang trái. Có tiếng nổ. Một quả cầu lửa xanh sáng trong trời đêm. Bình chứa nhiên liệu của nó nổ. Thì ra một máy bay đang lăn bánh đến tiếp nhiên liệu bị đâmbởi chiếc EC – 130 mà nhóm“Blue” vừa mới leo lên. Tôi chạy vội đến nhưng chỉ tới được rìa đường. Nóng, không thể đến gần chiếc máy bay. Lửa bốc cao khoảng 100 đến 150 mét. Vũ khí đạn dược có thể nổ bất cứ lúc nào. Tôi chợt nghĩ tới thiếu tá Fish và đội “Blue”. May quá, lát sau có báo cáo là họ kịp thoát ra được vào những phút cuối. Nhìn qua ngọn lửa có thể thấy chiếc máy bay lên thẳng đâmvào khoang chở hàng của máy bay tiếp dầu làmnó bốc cháy.
- Phải làmgì với mấy máy bay còn lại? – Kill hỏi tôi.
- Phá đi!
Tôi quay lại máy bay của mình, thấy các phi công chạy đến. Họ vừa leo lên khoang, thang đã rút, cửa sập lại. Chiếc máy bay cất mình lên đảo nửa vòng. Đây là chiếc thứ ba bay lên. Hai chiếc đang cháy nốt dữ dội. Gần 3 giờ sáng. Sau thời gian 4h46’ ở trên mặt đất, đội “Delta” rời “Sa mạc – I”. Khi mặt trời tên, chúng tôi đã đang bay trên vịnh Oman. Chiến dịch kết thúc thất bại hoàn toàn. Hao tổn rất nhiều thời gian, thần kinh, mồ hôi công sức, nhưng tất cả trở nên vô ích. Chúng tôi đã mất tám chàng trai dũng cảm tuyệt vời. Đất nước chúng tôi lâmvào một vị thế phức tạp”.
Mười hai ngày sau sự kiện trên, đội chống khủng bố “Pagoda” của lực lượng đặc biệt tinh nhuệ SAS (Anh) đột nhập đại sứ quán Iran tại Lon don. Trận đánh diễn ra chỉ mấy phút. Năm trong sáu tên khủng bố bị bắn chết, mười chín con tin được cứu, đưa ra ngoài bình yên vô sự. Về sau, trong bài phát biểu tại Hạ Nghị viện, bà Margaret Thatcher nói: “Cuộc tấn công cho người Anh niềm tự hào dân tộc”. Tất cả các sự kiện nói đây, cả các hành động khủng bố, cả hoạt động chống khủng bố nói lên một điều rằng: Thế giới đang bước vào kỉ nguyên của sự mở rộng chưa từng thấy của khủng bố, của bạo lực và cuộc chiến chống nạn dịch đó. Những biến cố thời kì đầu của thập
kí mới ấy là lời cảnh báo đặc biệt cho nhân loại. Người Xô Viết lo lắng theo dõi các sự kiện ngày dồn dập trên thế giới. Liên Xô không bao giờ có cảm tình với bọn khủng bố, không tuyên bố ủng hộ bất kì tổ chức khủng bố nào. Đó là những điều chưa xảy ra trong lịch sử quốc gia của chúng tôi. Chúng tôi kịch liệt lên án tất cả các tổ chức, các nhóm khủng bố, dù dưới tên gọi nào, “Lữ đoàn đỏ” ở Tây Âu hay “Hồng Quân” ở Nhật Bản, dù với mục tiêu nào. Hành động khủng bố luôn ở ngoài vòng pháp luật trên đất nước chúng tôi. Nhưng trong chính sách đối ngoại của Liên Xô cũng tồn tại một luật không thành văn. Bộ Ngoại giao Liên Xô thực sự không có phản ứng trước các hành động khủng bố chống lại công dân Liên Xô làm việc ở nước ngoài. Cứ như không tồn tại những hành động tương tự. Và nếu Mỹ rùm beng về vụ bắt cóc, dù chỉ một công dân Mỹ, đe dọa áp dụng sức mạnh quân sự thì ngược lại, Moxcva thường im lặng trước các sự kiện đau buồn này. Đã có những vụ bắt cóc và thậm chí là giết hại công dân của chúng tôi như vậy. Có bao người không được trở về tổ quốc hoặc trở về quan tài kẽm, có bao đồng bào của chúng tôi đã là nạn nhân của chủ nghĩa khủng bố, tiếc thay đến nay người ta không sao xác định được, bởi thời ấy k ông ai làmcái việc thống kê khủng khiếp ấy.
Chỉ đến năm1985, sự việc các công dân Liên Xô – nhân viên của sứ quán và cơ quan đại diện thương mại ở Beirut (Lebanon) bị bắt cóc nhanh chóng trở thành vụ tai tiếng khắp thế giới, Liên Xô mới lên tiếng phản đối việc bắt giữ công dân của mình và cử phái viên đặc biệt đến Lebanon và Syria để giải quyết số phận con tin. Nhưng vấn đề tất nhiên không chỉ ở phản ứng chính thức của các cấp chính quyền. Số phận các con tin đã được nhiều người biết đến, cả nước xúc động, lo lắng. Cũng trong năm 1985 còn xảy ra vài vụ khủng bố nhằm vào công dân Liên Xô và các cơ quan đại diện chính thức của Liên Xô. Bom nổ trước trụ sở cơ quan đại diện “Intourism” ở Beirut; một nhân viên sứ quán Liên Xô bị cướp xe hơi; một lái xe tên A. Levtrenco làmviệc cho công ti xây lắp bị bắt làmcon tin tại Libya; ở Cộng hòa Arập Yemen một quả lựu đạn nổ trong địa phận đại sứ quán Liên Xô khiến em bé con một nhân viên đại sứ quán bị thương; ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Yemen một kẻ khủng bố có vũ trang tấn công căn hộ của chuyên gia quân sự Liên Xô M. Xmirnov khiến ông này bị thương nặng; tại Cộng hòa Liên bang Đức – một quả bom nổ trước cửa cơ quan đại diện “Aeroflot” ở Hamburg. Danh sách các cuộc khủng bố vẫn còn dài. Phải đau xót thú nhận rằng, các cuộc khủng bố ngày càng có xu hướng tăng lên. Lối thoát nào để ra khỏi tình huống phức tạp này? Câu trả lời có vẻ như rõ ràng và đơn giản: Nhà nước đưa công dân đến nơi xa xôi trên thế giới phải có trách nhiệm bảo đảman toàn, trường hợp xảy ra điều bất trắc cần đemhết khả năng giải thoát cho họ.
Lý thuyết là vậy, nhưng chúng ta phải là người thực tế vì hành động khủng bố đôi khi xảy ra ở những đất nước xa xôi, hoặc có quan hệ thù địch với chúng ta. Không nên quên trong nhiều trường hợp các nhà ngoại giao cũng bất lực. Khi đó chỉ còn biện pháp can thiệp quân sự. Tất nhiên, chúng tôi không nói đến việc sử dụng sức mạnh quân sự với quy mô lớn, mà chỉ nói đến lực lượng đặc nhiệm chống khủng bố. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Thất bại trong chiến dịch giải phóng con tin mang tên “Móng vuốt đại bàng” ở Teheran của đội “Delta” Mỹ là một minh chứng cụ thể. Đại tá Becvit, một sĩ quan có kinh nghiệm, một chuyên gia có đẳng cấp trong lĩnh vực của mình đã phản ứng đầu tiên trước tin về việc sử dụng đội “Delta” trong một chiến dịch tương tự: “Trong đầu tôi không hề có ý nghĩ về khả năng tiến hành một chiến dịch giải cứu con tin. Hơn nữa, cứ suy luận một cách logic, thì ý định này có vẻ mạo hiểm. Khoảng cách từ nước ta đến Iran rất lớn, lại phải bay trong không phận Iran gần một nghìn dặm mới đến nơi hạ cánh, và cuối cùng tấn công vào cơ sở được bảo vệ chắc chắn như đại sứ quán nằm giữa trung tâm một thành phố bốn triệu dân có thái độ thù địch với chúng ta. Thật khó tưởng tượng một tình thế nào phức tạp hơn thế. Tại Sở chỉ huy phối hợp tôi nghe được mấy đề xuất ngu xuẩn. Một số người cho rằng quân ta có thể nhảy dù xuống, như khách du lịch, theo xe vào đại sứ quán?”. Thực tế đã chứng tỏ nỗi lo lắng của Becvit là có cơ sở. Tuy
nhiên lịch sử cuộc chiến chống khủng bố đã có nhiều chiến dịch thắng lợi, được thực hiện với trình độ nghiệp vụ rất cao. Trong đó có thể kể đến vụ giải thoát con tin ở sân bay Mogadisu do đội đặc nhiệm GSG-9 của Tây Đức thực hiện diễn ra chỉ trong bảy giây. Các nhân viên đặc nhiệm GSG-9 đã gắn vào cửa máy bay một cuộn băng gây nổ đặc biệt chuyên dùng tách các tầng tên lửa. Thiết bị nổ, cửa máy bay bật ra, đội đặc nhiệm xông vào bên trong máy bay và ném lựu đạn gây lóa mắt và chói tai. Bọn khủng bố choáng váng, tạm thời tê liệt, và khoảnh khắc đó đã đủ cho đội đặc nhiệmvô hiệu hóa chúng.
Chiến dịch giải thoát con tin do đội “Commandos” của Israel thực hiện tại sân bay Antebb (Uganda) có thể được coi là độc nhất vô nhị. Vào chiến dịch, một nhóm nhân viên tình báo MOSSAD được tung vào Uganda với trách nhiệm giữ liên lạc vô tuyến điện với cơ quan tình báo Israel. Họ hỏi han tình hình qua các con tin được bọn khủng bố phóng thích rất tỉ mỉ. Để ngụy trang cho chiến dịch, trong các cuộc điện thoại với nước Pháp, họ luôn nhấn mạnh Israel sẵn sàng đàm phán với bọn khủng bố vì tin bọn khủng bố có khả năng nghe lén thấy. Trong ngày triển khai chiến dịch, đội “Commandos” bay từ Tel – Aviv đến Kenia. Ban đêm một máy bay gắn thiết bị đặc biệt dùng vô hiệu hóa hệ thống rada sân bay hạ cánh xuống Antebb. Trong trận đánh chớp nhoáng, đội chống khủng bố đã chiếm được nhà ga để máy bay nơi bọn bắt cóc giam con tin. Chiến dịch kéo dài 53 phút, kế hoạch là 55 phút. Bọn khủng bố bị tiêu diệt hoàn toàn. Đội “Commandos” mất một người, chín mươi con tin có ba người bị chết.
Những chuyện nêu trên là vinh quang thuộc về người khác. Chúng ta ghen tị vì Israel, Đức, Anh có các đội đặc nhiệmtrình độ cao như vậy. Còn ở nước ta thìsao? Các phương tiện thông tin đại chúng quen khen ngợi phương Tây, nói rằng họ lại đi trước chúng ta. Điều này khó có thể kiểm chứng vì không ai tổ chức thi giành giải “đội đặc nhiệm siêu hành tinh”, và việc tranh ngôi xếp hạng chỉ là vô bổ. Và các chiến dịch đội chống khủng bố “Alfa” thực hiện thành công có lẽ là điều minh xác nhất cho trình độ nghiệp vụ tuyệt vời của họ không cần bất cứ cuộc thi nào.
Năm 1981. Tại Xarapul (Cộng hòa tự trị xã hội chủ nghĩa Udrmut), vô hiệu hóa hai tên khủng bố trang bị súng tiểu liên bắt cóc 25 học sinh trường trung học làmcon tin.
Năm1983. Giải thoát máy bay TU-134 với nămmươi bảy hành khách bên trong tại Tbilixi.
Năm 1986. Hai nhân viên quân sự ở Upha cướp chiến TU-134. Tính mạng bảy mươi sáu hành khách bị đe dọa. Đội đặc nhiệm tấn công, bắn chết một tên khủng bố, tên kia bị thương. Con tin bình yên vô sự.
Năm 1988. Một nhóm tội phạm do tên cầm đầu Iaksians Tbilixi dùng trẻ em để yêu sách: Con tin là các học sinh lớp 4. Suốt cuộc đấu chọi tâm lí dai dẳng, nhờ hành động khéo léo và dũng cảm của các chiến sĩ đội đặc nhiệm “A”, toàn bộ học sinh đã được cứu thoát. Nhưng tên khủng bố bay sang được Israel nhưng lại bị dẫn độ trở về.
Năm1988 (tháng tư). Vụ tấn công máy bay bị cướp ở Vag. Tên khủng bố bị vô hiệu hóa, con tin được cứu thoát. Năm1989 (tháng năm). Chiến dịch ở Saravo cứu thoát bảy con tin gồmcả trẻ nhỏ. Bọn khủng bố kháng cự bị tiêu diệt hoàn toàn.
Năm 1990 (tháng tám). Dẹp băng cướp vũ trang “Xám” ở Erevan. Sau cuộc đấu súng, ba tên cướp bị bắn chết, hai tên bị thương, sáu tên bị bắt giữ. Tại Xukhumi, giải phóng phòng biệt giambị các tội phạmcó vũ trang chiếm.
Năm1990 (cũng tháng tám). Dẹp yên vụ bắt cóc máy bay hành khách TU-134 ở Taskent.
Đó là bảng thành tích chiến đấu của đặc nhiệm “Alfa” trong mười năm qua. Điều đặc biệt láng lưu ý là các chiến dịch đều kết thúc thắng lợi. Trong số con tin vẫn có người thiệt mạng, bị thương, nhưng điều đó đều xảy ra trước khi đội chống khủng bố vào cuộc. Trong vụ ở Tbilixi, máy bay đang trên không trung thì bọn cướp đột nhiên xông vào buồng lái, xả súng bắn chết hai phi công, một nữ tiếp viên và hai hành khách. Khi đội đặc nhiệm vào cuộc, không mất thêm nạn nhân nào, bọn tội phạm bị vô hiệu hóa. Tại Upha, ngay từ phút đầu cướp máy bay, tên khủng bố đã giết một hành khách. Hắn bị bắn hạ sau đó.
Đó là tình hình Liên Xô. Còn thế giới chấn động với những con số kinh hoàng: Hàng chục, hàng trăm cái chết trong các vụ khủng bố, một phần do trình độ nghiệp vụ thấp kém của các cơ quan đặc nhiệm. Tháng mười một năm 1985, chiến dịch giải cứu con tin trên thiếc Boeing-737 của hãng hàng không Ai Cập tại sân bay “Valetta” (Manta) đã để hơn sáu mươi người hi sinh. Tháng năm năm 1986, tại phi trường Colombo một quả bom phát nổ, hai mươi người chết, bốn mươi mốt người bị thương. Tháng chín năm 1986, tại sân bay Karachi, trong cuộc tấn công một máy bay bị cướp, mười bốn hành khách và thành viên phi hành đoàn bị bắn chết, chín mươi tám người bị thương…
Nhưng chúng ta sẽ quay lại với những năm đầu thập niên 80, khi cả thế giới ngập trong làn sóng mới của nạn khủng bố toàn cầu. Liên Xô không là ngoại lệ và đã có những biện pháp kiên quyết về vấn đề này.
Ngày 17 tháng mười hai năm1981, đội đặc nhiệm“A” được lệnh báo động…
Hồ sơ đặc biệt KGB. Tuyệt mật. 01 bản
“Ngày 17 tháng mười hai năm 1981. 13h30’. Thành phố Xarapul. Nước cộng hòa Xô Viết tự trị Udmurt. Hai nhân viên quân sự đơn vị 13977, binh nhì Melinieov A.G. – nămsinh 1962, Colpacbaev A. K. – nămsinh 1960, đoàn viên thanh niên cộng sản, đã bỏ gác, mang theo hai tiểu liên Kalasnicov và 120 viên đạn đến trường trung học số 12 bắt làm con tin 25 học sinh lớp 10. Bọn này yêu cầu được cấp hộ chiếu và visa xuất cảnh, đòi được đưa sang nước Mỹ hay bất cứ nước tư bản nào khác bằng máy bay. Chúng đe dọa bắn chết con tin nếu các yêu cầu không được đáp ứng. Một đơn vị đặc nhiệm thuộc Cục VII được cử đến Xarapul. Thượng tướng Chebricov V. M., Phó chủ tịch KGB trực tiếp chỉ huy chiến dịch. Đội đặc nhiệmcó mặt ở nơi có sự cố lúc 0h30”
… “Xarapul” là chiến dịch chống khủng bố đầu tiên sau chiến tranh Afghanistan. Các nhân viên đặc nhiệm “A” thường nhớ lại chiến dịch này với cảm giác của những người đàn ông vững vàng, dày dạn kinh nghiệm hồi tưởng bước chập chững đầu đời của mình. Đội “Alfa” sẽ phát triển số lượng, sẽ tích lũy nhiều kinh nghiệm, sẽ vũ trang bằng những phương pháp và cách thức đấu tranh tiên tiến chống chủ nghĩa khủng bố học tập từ các đội đặc nhiệm xuất sắc ở nước ngoài. Nhưng đó là chuyện của mấy năm sau… Còn vào tháng mười hai năm 1986, lệnh báo động chiến đấu toàn đội. Anh em chuẩn bị và lên đường. Số đạn dược mang theo thừa đủ để đánh nhau cả tháng… Khi trở về họ lấy làm ngạc nhiên vì đã mang theo quá nhiều như vậy trong khi thực tế đã không tốn một viên đạn nào. Nhưng làmsao trước diễn biến sự việc cơ chứ! Về sau, kinh nghiệmmới làmanh emsáng mắt ra và biết rằng nhiệmvụ chủ yếu của họ không phải là bắn thật nhiều. Bọn khủng bố bao giờ cũng sử dụng con tin làm lá chắn sống cho mình, cả trong các vụ cướp máy bay hay bất kì vụ cướp nào khác. Chẳng hạn tên Iaksians và đồng bọn của hắn đã đẩy trẻ em ra trước họng súng? Có họa điên mới bắn khi ấy. Do vậy vũ khí cần nhất ở đây phải là sự tác động tâm lí và những tính toán phối hợp chính xác. Qua phương tiện thông tin đại chúng, có nhà lãnh đạo cấp cao đã phát biểu cho rằng người ta đều có thể có lúc nhầm lẫn. Đội đặc nhiệm chống khủng bố không có quyền này. Mỗisai lầm của họ có giá trả bằng máu, bằng sinh mạng con người. Sự kiện Thế vận hội Olympie năm1972 với những sai lầmcủa đội đặc nhiệmGSG 9 chính là ví dụ minh chứng cho kết luận đó Tạp chí Paris – Match viết về sự kiện này như sau:
“…Cảnh sát Đức hi vọng đêmtốisẽ là đồng minh của họ. Làng Olympic tĩnh lặng. Cái yên lặng chết chóc: Hồi cuối vở bi kịch sắp đến. Một chiếc xe bus mini hiệu “Volksvagen” xanh đen đỗ trước khu nhà của đoàn Israel. Bọn khủng bố Palestine từ chối không nhận xe, chê quá nhỏ, ngồi trong không thể tự vệ. Một chiếc xe quân sự khác được đưa đến. Tên khủng bố Palestine chăm chú xem xét. Sau đó chín con tin tay trói quặt sau lưng bị đẩy lên xe dưới họng súng. Xe lăn bánh đến địa điểm đã định ở phía tây làng Olympic, nơi có ba chiếc trực thăng nổ máy chờ sẵn. Một cái bẫy đã dăng sẵn trong sân bay. Nhân viên đặc nhiệmvới chó nghiệp vụ đi cùng đã phong toả đường băng. Những nơi khuất có các xạ thủ bắn tỉa ngón tay sẵn sàng trên cò súng. Khi có đèn tín hiệu ở máy bay lên thẳng xé màn đêm, các đèn pha xe BTR phòng không sẽ đồng thời bật sáng… Bi kịch diễn ra chớp nhoáng. Hai tên khủng bố ra khỏi máy bay lên thẳng tiến về chiếc “Boeing” để thăm dò. Đột nhiên đèn máy bay lên thẳng sáng. Có phải là tín hiệu không nhỉ? Cánh sát quét đèn pha trên đường băng. Cuộc đọ súng bắt đầu. Một quả lựu đạn nổ trong chiếc máy bay lên thẳng. Tên khủng bố đã giật kíp kết liễu đời mình và giết chết các con tin hắn đang quản. Súng bắn khắp nơi. Bốn người Israel khách chân tay bị trói nhận một loạt tiểu liên bắn gần như gí sát người. Hết sức bất ngờ, đến mức không ai trong số họ có thậm chí là một cử chỉ phản ứng tự vệ. Mọi sự kết thúc. Thất bại hoàn toàn. Mười tám giờ căng thẳng chấmdứt trong máu. Trong nỗi cămthù và cảmgiác xấu hổ”.
Tấn bi kịch làm náo động thế giới. Tại Tel – Aviv, học sinh trung học tập trung biểu tình trước tòa đại sứ quán Đức. Đại sứ Đức Giexco fon Puttcameir gọi tấn bi kịch xảy ra ở Munich là “những ngày nhục nhã” của đất nước. Nước Mỹ như lên cơn sốt. Trước hàng rào sắt của đại sứ quán Đức ở Washington, William Perl – thủ lĩnh “Liên đoàn bảo vệ người Do Thái” dẫn đầu đoàn biểu tình: “Chúng tôi buộc tội chính phủ Đức cẩu thả gây ra tội ác. Chính phủ Đức phải chịu trách nhiệm trước tấn thảm kịch này!”. Những tiếng thét giận dữ chấn động Nghị viện Đức. Nước Đức đã trả giá đắt cho một chiến dịch thất bại”.
Chúng ta thật vui mừng và tự hào mà nói rằng trong lịch sử đội đặc nhiệm “Alfa” chưa hề có những vết nhơ như vậy. Và Xarapul là thành công lớn đầu tiên của đội. Tất cả con tin đều được giải thoát, còn bọn khủng bố đầu hàng, đội đặc nhiệm không tốn một viên đạn. Nhiều năm sau một tờ báo trung ương đưa tin: “Sự kiện ở Udmurd lúc đó được nhắc đến rất nhiều…“. Hôm ấy, tại một trường phổ thông, tiết học cuối cùng sắp hết, có hai gã lính mang súng xông vào lớp 10 “B” tuyên bố: “Chúng mày là con tin chúng mày sẽ được thả nếu người ta đưa máy bay cho chúng tao bay ra nước ngoài…”. Suốt tối, suốt đêm hôm đó lặp đi lặp lại bài giảng kinh khủng đó. Hàng trăm người không thể chợp mắt: Đó là các em học sinh các cha mẹ, nhân viên cảnh sát, nhân viên KGB và bên quân đội. Một số ý kiến từ phía quân đội đề nghị chiếm lớp học xe tăng tấn công. Nhưng sức mạnh không làm nên chiến thắng, mà là trí tuệ và phép tính chính xác. Trưởng phòng an ninh quận, đại úy Vladimir Orekhov đề nghị được làm con tin thay cho các em học sinh, sau đó tìm cách dàn xếp với bọn tội phạm. Cựu chủ tịch KGB của nước Cộng hoà Tự trị Udmurd là V. Deunev kể: “Orekhov suốt đêm tìm cách tiếp xúc với bọn khủng bố để thương lượng trong khi bọn cướp ngón tay đặt sẵn trên cò súng. Điều gì giúp anh chịu đựng một áp lực căng thẳng quá sức người như vậy? Dĩ nhiên là trí tuệ. Và cả sự rèn luyện thể lực phi thường nữa”. Tất cả những điều đó đều rất đúng. Đã có một nhân viên an ninh quốc gia, đại úy Orekhov và hàng chục người khác chiến đấu để giải thoát các em học sinh. Nhưng người ta lại không nhắc tên những người đã đến hiện trường vụ bắt cóc lúc 0h30’ đêm 18 tháng mười hai, và lúc 5h28’ đã tước vũ khí của bọn tội phạm. Họ là ai vậy? Sao không có lời nào tiết lộ điều này? Cũng cần nói thêm đây là một cung cách rất vô li của giới truyền thông nước ta đối với các vấn đề liên quan đến đội đặc nhiệm “Alfa”, và nó được duy trì khá lâu mãi đến sau này. Không chỉ các nhà báo có lỗi, lỗi này chủ yếu thuộc về ban lãnh đạo KGB vì họ có chủ trương đặt đội trong vòng bí mật tuyệt đối. Điều này là có thể hiểu được vì thực ra cũng không cần quảng cáo cho đội. Nhưng dù sao cũng nên có sự dung hoà để bí mật không bị tiết lộ và cũng không để cho những anh hùng với bao chiến công như vậy không được ai biết đến. Hơn nữa, nếu biết có tồn tại một đội đặc nhiệm hùng mạnh như vậy, hẳn ý định gây tội ác của bọn tội phạm có thể chùn lại chăng? Điều ấy thật là quan trọng. Trên thực tế, đội không hề được nhắc đến. Hai tên khủng bố Melinicov và Colpaebaev bỏ trạm gác đột nhập trường học. Chúng đã sắp đặt kế hoạch điềm nhiên nói là được cử đến tìm những trái mìn chống tăng hình như các em học sinh đào được và đang cất giấu đâu đó. Người gác cổng cả tin cho phép chúng vào trường. Lên đến tầng hai, bọn chúng xông vào lớp học. Colpaebaev bắn một loạt đạn lên trần nhà, tuyên bố cả lớp bị bắt làm con tin: Hai mươi lăm học sinh và một cô giáo. Đó là lúc 13h30’. Bắt đầu cuộc chiến mười sáu tiếng đồng hồ vì mạng sống của lũ trẻ. Các chuyên gia tâm lí đánh giá khoảng thời gian nửa hay một tiếng đầu tiên rất quan trọng. Người tiếp xúc ban đầu với bọn khủng bố cần biết ổn định tình hình, thương lượng lập tức và trấn an chúng. Trong các phút đầu đó, tinh thần những tên tội phạm hết sức căng thẳng, rất dễ bị kích động nguy hiểm cho tính mạng con tin. Công lao của đại úy Vladimir Orekhov, người có đủ trình độ nghiệp vụ để mở đầu cuộc đàm phán với Melinicov và Colpacbaev là rất lớn. Anh đã tỏ ra hiểu và có sự cảm thông nhất định với bọn cướp, trò chuyện khiến chúng tin cậy, không đe dọa, không thô lỗ. Đồng thời cũng cứng rắn, không dao động khi phải quyết định. Với yêu cầu được bay sang Mỹ hoặc một nước tư bản nào
đó, anh nói ngay việc này hoàn toàn không đơn giản, cần phải chuẩn bị các giấy tờ cần thiết, làm hộ chiếu xuất cảnh. Tiếp đó, Melinicov và Colpacbaev buột phải bận bịu viết bản khai và các thứ giấy tờ khác, trả lời phỏng vấn. Bằng cách đó người ta đã tranh thủ được thời gian, tìm hiểu thêm thông tin về bọn tội phạm đang nắm trong tay các vũ khí nóng. Khu vực xảy ra vụ bắt cóc con tin được một trung đoàn quân cảnh vệ giám sát còn lớp học và các con đường dẫn tới đó bị nhân viên tác chiến KGB và Bộ Nội vụ ở địa phương bao vây. Đại úy Orekhov thuyết phục được bọn khủng bố trước hết thả các emnữ sinh và cô giáo, sau đó thả thêmmột số emkhác. Cả lớp chỉ còn bảy cậu bé trong tay bọn tội phạm. 0h30’ đội “Alfa” có mặt ở Xarapul. Họ đã làm một cuộc hành quân chớp nhoáng vào ban đêm theo con đường đóng băng trơn như mỡ từ sân bay Igiev đến. Trên đường đi họ vượt chiếc ôtô bus chở đội cảnh sát đặc biệt thuộc Bộ Nội vụ đang trên đường lao tới nơi xảy ra biến cố.
Sergei Goncharov, phó chỉ huy đội “Alfa” kể. – Khi chúng tôi đến, cảmtưởng như cả thành phố không ngủ. Dân chúng lũ lượt kéo đến ngôi trường. Một vòng người chật ních quây cổng trường, cảnh sát khó khăn lắm mới ngăn được họ. Tôi cùng đồng chí chỉ huy đội là Zaixev bước vào phòng của ban tham mưu “tình trạng khẩn cấp” nằm ở tầng một ngôi trường. Số tướng lĩnh đông đến ngạc nhiên. Có mặt thứ trưởng Bộ Nội vụ Liên xô, các tướng lĩnh từ quân khu, từ Ijevxc đến. Tất cả đều cố gắng tham gia giải quyết. Nhưng họ không có kinh nghiệm tiến hành một chiến dịch như vậy bởi vì đây là một trong những vụ bắt cóc có vũ trang đầu tiên ở nước ta. Trong lúc ban tham mưu bàn bạc tìm giải pháp, người đứng đầu cơ quan an ninh sở tại là đại úy Orekhov đàm phán với bọn khủng bố. Chúng tôi yêu cầu cung cấp tin. Đại uý kể vắn tắt, báo trong lớp học còn bảy con tin anh đang thuyết phục bọn khủng bố tin rằng chúng sẽ được cấp hộ chiếu xuất cảnh. Hai tên tội phạm không muốn nhượng bộ. Chúng tôi lên kế hoạch chốt người vào các điểm quan trọng mặc áo giáp chống đạn mũ sắt, vũ khí. Suốt gần bốn tiếng đồng hồ với mũ sắt trên đầu, đến lúc bỏ ra, có cảm giác như mình không còn đầu nữa. Trường vắng, yên lặng đi trong hành lang các mảnh titan trên áo chống đạn chạm nhau lạch cạch, giầy nghiến ken két. Đành phải cởi giầy, mang bít tất mà đi.
Đêm khuya, ai nấy đều mệt mỏi. Bỗng cánh cửa bật mở. Chúng tôi nâng súng lên. Bọn cướp cho phép một cậu bé đi vệ sinh. Chúng tôi đưa emvề ban chỉ huy hỏi vị trí ngồi của hai tên tội phạm. Chúng ngồisau bàn giáo viên, súng chĩa vào con tin. Chúng tôi yêu cầu emtrở lại lớp học và nói với bọn khủng bố là trong trường vẫn yên ắng.
Valeri Boscov, nhân viên đội đặc nhiệm“A”:
- Cuộc đàm phán khó khăn và kéo dài khá lâu đã kết thúc thắng lợi. Để đổi lấy hộ chiếu xuất cảnh, bọn khủng bố phải thả hết nốt con tin là bảy em học sinh. Kết quả chỉ còn hai tên tội phạm trong lớp. Anh em quan sát thấy một tên vung tay tuyệt vọng và hiểu chúng đã nhận ra phép tính sai lầmcủa mình. Nói tómlại chúng tôi đã qua mặt chúng trong ván bài này.
Sergei Cuvưlin, nhân viên đội đặc nhiệm“A”:
- Chúng tôi đã sẵn sàng tấn công. Bỗng cánh cửa bật mở, Melinicov tay ômsúng bước ra. Tôi tiến lại gần hỏi: - Anh cần gì?
- Tôi cần gặp đại uý Orekhov…
Tôi ngoái đầu nhìn, Zaixev đứng gần đó. Anh lắc đầu imlặng: Không gọi.
- Orekhov đi rồi.
- Không, tôi yêu cầu gặp đại úy…
Tôi bước lại gần hơn, cố nói bình tĩnh:
- Đề nghị bỏ súng xuống.
Hắn còn lầu bầu cái gì đó, tôi nhắc lại:
- Bỏ súng xuống.
Melinicov bỏ súng xuống thật rồi lủi vào lớp đóng sập cửa lại. Đúng lúc đó Gontrarov và Zotov từ chỗ ẩn nấp chạy ra lao đến cửa. Có lẽ vì hồi hộp họ lại đẩy ngược cánh cửa vào trong. Nhưng đối với bọn khủng bố thì đây cũng là một cú sốc. Khi chúng tôi lao vào, Melinicov đứng sau cánh cửa, mặt tái mét, còn Colpacbaev kề khẩu súng lên vai, cười gằn giận dữ. Không rõ hắn ta định bắn hay chỉ dọa, lập tức khẩu súng bị đánh bật văng ra xa. Trong nháy mắt gã này đã nằm úp mặt xuống sàn nhà, tay tra trong còng. Mọi việc kết thúc, không xảy ra điều đáng tiếc nào. Mặc dù lúc đó hoàn toàn có thể cho hắn xơi một viên đạn.
Trận đánh chống khủng bố đầu tiên của đội “Alfa” đã kết thúc tốt đẹp. Không máu chảy, không tiếng súng. Chúng tôi đã thành công, bọn khủng bố còn trẻ, chưa có kinh nghiệm, yếu tâm lí. Nhưng món quà như thế sau này các chiến sĩ đội đặc nhiệm không còn được số phận dâng tặng nữa. Họ sẽ phải chạmtrán mặt đối mặt với bọn tội phạmđiên cuồng sành sỏi trơ tráo.
Kĩ năng tác chiến của đội viên “Alfa” thật đáng kinh ngạc. Nhiều người đã thử kiểm tra các chiến sĩ. Nhưng hầu như họ đều phải hổ thẹn, không phải chỉ vì bố trí một cuộc kiểmtra chưa có tiền lệ rất khó khăn mà còn vì các tiêu chuẩn đánh giá áp dụng cho các nhân viên KGB bình thường không phù hợp với họ. Chẳng hạn đánh giá với việc đột nhập máy bay trong nửa phút là giỏi hay kém? Những cán bộ thâm niên trong KGB nhưng không nắm được đặc thù công tác của đội, có lẽ sẽ rất thán phục. Nhưng như vậy hoá ra không đáng thán phục chút nào. Ông Charles Becvit nhấn mạnh: “Nếu một sinh viên đại học Mỹ ngủ gật trong giờ văn học Anh, anh ta sẽ bị điểm dưới trung bình trong kì thi. Còn nếu học viên đặc nhiệm “Delta” ngủ gật trong giờ học về tác chiến tấn công, về sau chắc chắn sẽ nhận một viên đạn vào trán”. Chúng tôi không muốn kể về những chuẩn mực, những trắc nghiệm bình thường đối với nhân viên của đội. Những con số, dù rất cụ thể rõ ràng không nói hết cấp độ nghiệp vụ của họ. Các sự việc thực có sức thuyết phục hơn. Chẳng hạn, từ khoảng cách 100 mét, một tay thiện xạ “Alfa” bắn thủng đồng năm xu chắc chắn gây ấn tượng mạnh. Với những con dao phóng qua khung cửa sổ từ khoảng cách 30 mét, hay phát súng cực nhanh bắn bằng súng ngắn “Macarov”, “Steskin” và các loại khác ở mọi tư thế đứng, nằm, ngã, nằm sấp, nằm ngửa còn ấn tượng hơn nhiều. Chúng ta tất nhiên đều biết bọn khủng bố ngày nay không đơn độc trong hành vi gây tội ác, không được đào tạo, và cũng rất biết sáng tạo những cách thức tàn bạo để đạt mục đích của mình. Và một người đơn độc không thể chiến thắng, cần có cả tập thể đoàn kết, phối hợp ăn ý dù chỉ với một cái liếc mắt, cả khi không nói nửa lời. “Alfa” đã đạt đến trình độ này chưa? Đó là câu hỏi các cấp lãnh đạo nhiều lần đã đặt ra với họ. Đôi khi cố ý, đôi khi vô tình. Một lần tại sân bay, chứng kiến “Alfa” tập trên máy bay, cục trưởng KGB khu vực Moxcva đã tranh luận và đánh cuộc với chỉ huy đội: Nếu vị tướng nghe thấy hoặc qua cửa sổ máy bay nhìn thấy các chiến sĩ tiềm nhập máy bay thì “Alfa” thua cuộc. Vị tướng là người dày dạn kinh nghiệm, ông tin là mình thắng; làmsao lại không nghe được tiếng lạo xạo ngoài máy bay và không thấy thân máy bay khẽ rung chứ. Chắc chắn ngon ăn, ông sẽ bóp mũi