🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ai Đã Ăn Hết Những Cây Sing-A Ngày Ấy? - Park Wan-suh full prc pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội] Ebooks Nhóm Zalo AI ĐÃ ĂN HẾT NHỮNG CÂY SING-A NGÀY ẤY? ---❊ ❖ ❊--- Tác giả: Park Wan-suh Dịch thuật: Nguyễn Lệ Thu Nhà xuất bản TRẺ ebook©vctvegroup LỜI TÁC GIẢ Bức Chân Dung Tự Họa Bằng Chữ Viết C hẳng biết những gì tôi viết ra đây có được gọi là tiểu thuyết hay không? Bởi tôi đã viết chúng một cách hoàn toàn chỉ dựa vào ký ức. Mỗi khi đặt bút sáng tác, dù là tiểu thuyết, truyện ngắn hay tùy bút, bao giờ cũng vậy, gần như không có lần nào tôi lại không phải tự nhào nặn nội dung. Những lúc ấy, tùy thuộc vào thể loại của cuốn sách mà tôi lựa chọn những điểm để tô vẽ, chấm phá mang tính chất văn học. Thế nên lần này, dựa trên những gì đã có sẵn, tôi cũng đã lại tô vẽ và chỉnh sửa những ký ức giống như đang xây một ngôi nhà, và tự gò ép mình để hạn chế tối đa việc hư cấu. Nhưng rồi, vì cấu trúc và sự cân xứng của ngôi nhà tiểu thuyết ấy, tôi đã không thể tránh được việc chọn lọc ký ức và không thể không thêm thắt để tạo ra những sợi dây liên kết, để kết nối một cách tự nhiên các ký ức còn nhớ được và những ký ức đã bị phai mờ. Khó khăn lớn ở đây là sự không nhớ được một cách chính xác. Càng nhiều tuổi, tôi càng nhận ra rằng mình thường hay ôn lại quá khứ với gia đình, bạn bè hoặc những người đã cùng trải qua khoảng thời gian đó với mình. Mỗi lần như vậy, tôi lại rất đỗi ngạc nhiên, bởi dù cùng là một sự kiện đã từng trải qua, nhưng ký ức của mỗi người mới thật khác nhau làm sao, để rồi cuối cùng, tôi lại tự nhận ra rằng, hóa ra ký ức cũng phụ thuộc vào khả năng tưởng tượng của mỗi người. Tôi tự nhủ lòng lần này sẽ viết khác với cách viết từ trước tới nay, song điều đó không có nghĩa là tôi có ý định tạo ra một dấu mốc đột phá nào đó về phong cách sáng tác tiểu thuyết của mình. Đơn giản, đó chỉ là tâm trạng của một họa sĩ muốn thử vẽ một hoặc hai bức chân dung tự họa mà thôi. Cho đến giờ, những nhân vật tiểu thuyết của tôi hầu như chỉ phảng phất ít nhiều dáng dấp của tác giả. Song lần này, với quyết tâm tạo nên một điều mới mẻ nào đó, tôi đã cố gắng bộc lộ mình một cách toàn diện. Vì thế, quả là vô cùng khó khăn cho tôi khi phải khắc phục bằng được tham vọng mỹ hóa bản thân. Đến khi đọc lại, tôi mới nhận ra rằng so với việc miêu tả chi tiết và chân thực về gia đình cùng những người xung quanh, tôi đã đề cập sơ sài hay lược đi quá nhiều ở bức tranh của mình. Và tôi cho rằng điều đó chính là minh chứng của sự khó có thể trình bày trung thực về bản thân mình. Ở vào thời đại mà thời gian tồn tại của một cuốn tiểu thuyết càng ngày càng bị rút ngắn lại, tiểu thuyết trở thành thứ đồ dùng một lần như bây giờ, công việc viết tiểu thuyết lại càng chẳng dễ dàng hơn chút nào - dù chỉ là chút xíu bằng đầu ngón tay. Nếu thấy ấm ức thì đừng viết nữa, nhưng sao vẫn cứ thấy thật ấm ức. Lúc nhận được lời đề nghị đầy hấp dẫn về việc viết tiểu thuyết dành cho tuổi trưởng thành của nhà xuất bản Woongjin, tôi đã vô cùng hứng thú bởi ý nghĩ rằng tiểu thuyết dành cho tuổi trưởng thành sẽ bớt đi được gánh nặng về sáng tạo mới nhân vật hay nội dung tiểu thuyết, và chỉ cần viết ra giống như một cuốn tự truyện mà thôi. Đó chính là sự tưởng bở. Chẳng có công việc nào lại đòi hỏi nhiều dũng khí như việc nhìn lại đúng đắn về những điều đã xảy ra với mình cả, vì thế, tôi không khỏi xót xa, đau đớn khi nghĩ tới những người ruột thịt đã sinh ra tôi và đã ảnh hưởng đến tôi. Song, bên cạnh cảm giác day dứt vì đã viết một cách khổ sở khi phải róc đến tận xương cốt của mình như thế, thực sự, tôi còn muốn cố gắng hết khả năng của mình để đóng góp những minh chứng sâu sắc, chân thực và đầy tính nhân văn về xã hội, về phong tục và về cả nhân tâm của giai đoạn lịch sử từ những năm 40 chuyển sang những năm 50, những điều vốn chỉ được chuẩn hóa bằng tài liệu. Dường như nói ra điều này, nghe sẽ có vẻ như kiêu căng, nhưng giờ đây tôi cảm thấy vô cùng kiệt sức và rất cần được an ủi - ít nhất cũng là sự an ủi rằng không phải tôi đã róc hết xương thịt của mình cho một sản phẩm dùng một lần. Cảm ơn Woongjin đã chờ đợi tôi khá lâu. Nhờ Woongjin mà sau tác phẩm đầu tay, lần đầu tiên tôi mới có thể viết ra được một truyện dài như thế này và thoát khỏi sự lệ thuộc vào những tiểu thuyết đăng dài kỳ trên báo. Tháng 9 năm 1992 - Park Wan-suh VÀI DÒNG CÙNG BẠN ÐỌC K hi chuẩn bị tái bản tác phẩm này, một lần nữa, tôi đọc lại “Lời tác giả” và nhìn thấy ở phần kết, mình đã viết rằng: “Giờ đây tôi cảm thấy vô cùng kiệt sức và rất cần được an ủi”. Cảm giác trống rỗng tưởng như đã cạn kiệt sức lực và chỉ còn lại lớp vỏ thân xác ấy vẫn luôn luôn là cái giá không chờ mà đến sau mỗi lần tôi đặt dấu chấm hết cho một cuốn tiểu thuyết. Nhưng với tác phẩm này, tôi đặc biệt nhấn mạnh điều đó, bởi đây là cuốn tiểu thuyết được viết hoàn toàn dựa vào những ký ức của tôi. Việc làm sống lại những ký ức đó thật chẳng khác nào việc cậy bóc những lớp vảy của vết thương đã được se lành, bởi thế, điều đó đã khiến tôi cảm thấy kiệt sức và nhức nhối hơn bao giờ hết. Chính vì vậy mà trong lúc thực hiện công việc ấy, tôi đã luôn kiếm tìm sự an ủi và may sao, việc được gặp gỡ với độc giả trong suốt khoảng thời gian mười năm qua, một khoảng thời gian không hề ngắn ngủi, với tôi, quả là một sự may mắn, và chỉ với điều đó thôi cũng đã là một sự an ủi trọn vẹn nhất rồi. Hơn tất cả, tôi cảm thấy đó là một niềm hạnh phúc lớn lao và có gì đó như là một kỳ tích, bởi có rất nhiều độc giả thiếu niên đã tìm đến với tôi. Mỗi lần nhận được thư của độc giả muốn biết Sing-a là loài cây thế nào, trong miệng tôi lại tràn ngập hương vị của Sing-a, hương vị của ký ức lúc nào cũng thật trẻ trung và tươi mới. Có thể nói rằng việc được thế hệ sau đón nhận không gian chứa đầy những ký của mình, đó chính là một đặc ân dành cho người được gọi là tác giả. Tôi rất vui vì cuộc vận động văn hóa đọc sách mới mẻ lần này sẽ là cơ hội để chúng ta thêm gần với sách viết, và còn cảm thấy tự hào hơn nữa khi toàn bộ số tiền thu được qua đây sẽ được sử dụng vào những công việc mang ý nghĩa cao đẹp. Tháng 1 năm 2002 Park Wan-suh LỜI NGƯỜI DỊCH L ịch sử đi qua, không chỉ để lại dấu tích trên những trang sách, những thước phim tư liệu, những di tích, v.v...; mà còn để lại dấu ấn đậm nét trong những trang tác phẩm văn học của những con người đã từng đi qua thời đại lịch sử đó. Tác giả của tôi chính là một chứng nhân văn học như thế. Sinh ra và lớn lên giữa thời kỳ đô hộ của Nhật Bản, trưởng thành trong những năm tháng đau thương của cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam - Bắc, cuộc chiến vẫn còn kéo dài dai dẳng cho đến tận ngày hôm nay, bà là một trong số ít ỏi những nhân chứng đã trải qua một chặng đường dài thật dài trong lịch sử của dân tộc Hàn. Có lẽ với tác giả, đó là một quá khứ nhiều đau thương và đầy bất hạnh, song, đối với những độc giả yêu và muốn tìm hiểu về đất nước Hàn Quốc xinh đẹp, điều đó có khi lại là một sự may mắn chăng? Dù bắt đầu sự nghiệp văn chương một cách khá muộn màng ở tuổi 40, nhưng Park Wan-suh đã cho thấy một khả năng sáng tác sung mãn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút v.v... và hàng loạt những giải thưởng văn học cao quý của Hàn Quốc như Giải thưởng văn học Lee Sang (1981), Giải thưởng văn học Đại Hàn Dân Quốc (1990), Giải thưởng văn học Di San (1990), Giải thưởng văn học Kim Dong-in (1994), Giải thưởng văn học Daesan (1997), Giải thưởng văn học Manhe (1999), Giải thưởng văn học Hwang Sun-won (2001) v.v... Song hơn hết, đó là tình cảm mến mộ và ngôi vị cao quý của một tác giả nữ hàng đầu trong lòng mọi lứa tuổi độc giả Hàn Quốc. Có lẽ tác giả Park Wan-suh đến với người đọc không chỉ bởi nội dung hay câu chữ trong các cuốn tiểu thuyết của bà, mà hơn thế, đó là những cảm xúc chân thực nhất về cuộc sống, về lịch sử, về sự yên bình và những đau thương giằng xé day dứt trong thẳm sâu tâm hồn của những người dân Hàn Quốc. Ai đã ăn hết những cây Sing-a ngày ấy? đã gõ cửa căn phòng, nơi chôn chặt những cảm xúc sâu lắng của mỗi người dân Hàn Quốc, bằng những minh chứng mà không một di tích lịch sử, một thước phim tài liệu, hay những trang ghi chép khô khan nào có thể khắc họa một cách toàn diện được. Đó chính là nỗi buồn, niềm vui, sự âu lo, cơn tuyệt vọng và cả ý chí của con người trước dòng chảy thời gian; là những trải nghiệm chân thực của con người trước những trớ trêu của cuộc sống và hơn hết, đó là vết thương chia cắt vẫn luôn hằn sâu nhức nhối. Tất cả những điều đó chỉ có thể cảm nhận được qua những cảm xúc của người đọc khi đắm chìm vào tác phẩm của Park Wan- suh. Nếu như phần đầu của tác phẩm là tuổi thơ tuyệt vời với những ký ức vô cùng ngọt ngào của tác giả, thì những phần sau lại là những cảm xúc nghẹn ngào, rất khó diễn tả bằng lời. Càng về phần cuối, tác giả lại càng khiến người đọc nhận ra rằng ẩn sau những ký ức lung linh ấy là nỗi niềm bùi ngùi và xót xa vô hạn về số phận của một con người, một gia đình và của cả một dân tộc, khi chỉ có thể thả mình trôi theo định mệnh đã an bài. Những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống còn lại chăng chỉ là dư vị của những cây Sing-a, loài cây đã biến mất theo thời gian mà thôi. Cho đến tận lúc hoàn thành bản dịch cuối cùng, Ai đã ăn hết những cây Sing-a ngày ấy? vẫn cứ còn khắc khoải mãi trong tôi. Không phải vì tôi chẳng thể trả lời được câu hỏi ấy, mà bởi tôi cảm thấy mình chưa đủ can đảm để chạm tới từng vết đau nhức nhối được gửi gắm trong từng câu chữ ấy. Có lẽ rồi độc giả cũng sẽ giống như tôi: sẽ giữ lại câu trả lời cho riêng mình. Ai đã ăn hết những cây Sing-a ngày ấy? của tác giả Park Wan-suh không phải được đọc bằng từ, bằng chữ, mà là bằng cảm xúc. Đó cũng chính là khó khăn lớn nhất của tôi khi truyền tải tác phẩm này sang tiếng Việt. Có một điều mà cho đến giờ và có lẽ mãi mãi sau này nữa, tôi sẽ vẫn còn luôn cảm thấy day dứt mỗi khi nghĩ tới, đó là tác giả của tôi đã không thể chờ đợi thêm. Bà đã ra đi mãi mãi khi tôi còn chưa kịp trao tận tay bà bản dịch bằng tiếng Việt lần đầu tiên này. Sự ra đi của bà là một mất mát lớn lao cho văn đàn Hàn Quốc, còn với tôi, đó là một dấu chấm lửng buồn bã và sâu kín nơi khoảng lặng của riêng tôi. Tôi tự an ủi mình bằng cách ấp ủ những tia hy vọng về ngày cuốn sách được đến tay độc giả. Park Wan-suh không còn xa lạ với độc giả thế giới, nhưng lại hoàn toàn mới mẻ đối với độc giả của đất nước tôi. Song, tôi tin rằng với sự trải lòng của tác giả qua những ký ức chân thực và cảm động ấy, mặc dù sự trải lòng đó vẫn còn nhiều lúc chưa được lấp đầy cảm xúc bởi khả năng hạn chế của người dịch, cuốn sách vẫn sẽ đưa được Park Wan-suh và độc giả Việt Nam lại gần nhau hơn nữa. Cuốn sách đã trở thành nguồn an ủi lớn lao đối với tôi trong những năm tháng xa nhà. Cảm ơn người bạn đời và đứa con thân yêu đã luôn luôn ở bên tôi trong những giờ phút chinh phục tác phẩm. Và hơn hết, tôi mong được chia sẻ những cảm xúc lắng đọng và chân thành nhất của riêng tôi với độc giả qua tác phẩm văn học tuyệt vời này. Incheon, tháng 7 năm 2011 - Nguyễn Lệ Thu (Hiện là nghiên cứu sinh khoa Hàn Quốc học, Trường đại học Inha, Hàn Quốc) NHỮNG NGÀY THƠ ẤU H ai lỗ mũi lúc nào cũng thò lò. Không phải nước mũi mà là thứ keo dinh dính màu vàng, cố hít cũng chẳng hít lên được. Chẳng phải mình tôi mà tất cả lũ trẻ thời ấy đều như vậy. Chỉ cần xem cái cách người lớn vơ tất cả lũ trẻ và gọi chung là “bọn thò lò mũi xanh” thì hiểu. Sau này, khi đã trở thành một người mẹ, điều tôi luôn lấy làm lạ về những đứa con của mình, đó là trừ phi bị cảm, còn thì tuyệt nhiên chúng chẳng bao giờ thò lò mũi cả. Mà đâu chỉ những đứa con của tôi, những đứa trẻ khác cũng thế, chúng hầu như không bao giờ thò lò mũi. Ngay cả cái thói quen gài sẵn chiếc khăn mùi soa trên ngực mỗi khi đến trường cũng biến đâu mất. Giờ đây, thay vì thắc mắc tại sao lũ trẻ ngày nay không bị thò lò mũi nữa, tôi lại thấy lạ rằng tại sao ngày ấy trẻ con lại bị thò lò mũi nhiều đến như vậy nhỉ? Mẩu vải hay mẩu giấy đều quý cả. Có khi còn chẳng biết được trên đời có cái gọi là “khăn mùi soa” nữa. Mũi chảy lòng ròng, vừa chạm tới miệng, liền lập tức được quẹt ngang một cái bằng tay áo. Bởi thế mà mỗi một mùa đông buốt giá qua đi, nơi gấu tay áo lại xuất hiện một lớp gỉ đen kịt bám chặt như keo dính. Một chiếc áo nhồi bông lùm lùm cũng khá đủ để qua một mùa đông. Mỗi khi thay lớp viền áo, mẹ lại cào xoèn xoẹt phần cổ tay, cố lấy đi mảng ghét bám chặt ở đó. Bên dưới là chiếc quần bông, quấn thêm cái váy quây. Vải của váy thường là sợi bông đã được đem hồ nên thường phẳng phiu, bóng láng. Màu nhuộm ở nhà quê quý lắm. Ông nội thường phải mua về ở mãi tận Songdo. Nơi tôi sinh ra là một ngôi làng hẻo lánh với vỏn vẹn hai mươi hộ, được gọi là thôn Parkjeok, làng Muksong, xã Cheongkyo, huyện Gaepung, cách Gaeseong khoảng hai mươi ri * về phía tây nam; những người trong làng vẫn gọi Gaeseong là Songdo. Với tôi, Songdo là ngọn nguồn của những giấc mơ ngày thơ bé. Không chỉ có màu nhuộm, mà từ đôi giày da, chiếc lược bí, sợi ruy băng lấp lánh, đến con dao, cái cuốc, cái liềm, tất cả đều phải đi đến tận Songdo mới có thể mua được. 1 Đơn vị đo khoảng cách của Hàn Quốc. Một ri bằng 393m. (Toàn bộ chú thích trong truyện là của người dịch). Các bà các cô nhà khác trong làng đều đi lại Songdo. Riêng nhà chúng tôi, chỉ có ông nội và các chú mới có đặc quyền ấy. Đó chính là điểm khác biệt giữa nhà chúng tôi với các nhà khác. Ở thôn Parkjeok, ngoài nhà chúng tôi, còn có một nhà khác nữa mà phụ nữ cũng không được đi Songdo. Hai nhà đều mang họ Park và là họ hàng của nhau. Các nhà còn lại đều mang họ Hong và bọn họ cũng là họ hàng của nhau. Mặc dù vậy, tên của ngôi làng vẫn là làng Parkjeok. Ông nội tôi bảo chúng tôi là lưỡng ban *, còn bọn họ là thường dân. 2 Tầng lớp quý tộc dưới thời Korea (918-1932) và thời Choson (19321910). Tôi không rõ những người làng nhìn nhận vai trò lưỡng ban của ông tôi thế nào. Chỉ biết rằng từ xưa đến nay, quanh vùng Gaeseong, cái gọi là lưỡng ban gì gì đó, chẳng hề được mọi người quan tâm. Có lẽ vì thế mà ông tôi thành ra lập dị. Vì ông tôi không cho phép nên những người phụ nữ trong gia đình không được tự do thoải mái đi lại Songdo, song không phải tất cả bọn họ đều tuân phục ông nội tự đáy lòng. Có lúc tôi hỏi bà nội: “Lưỡng ban là gì hả bà?” Bà tôi cười mỉm, bảo rằng: “Cái đó ấy à, đem ra bán có khi được hai lượng rưỡi đấy”. Bà nội lại bắt đầu mỉa mai. Bà là người rất hay buông ra những câu chế giễu. Ấy vậy mà, khi ở trước mặt ông tôi, lúc nào bà cũng tỏ ra cung kính lễ phép. Không chỉ mỗi chuyện cấm đi Songdo, ông nội còn cấm luôn cả chuyện ra đồng làm việc. Đó lại là một điểm khác biệt nữa giữa nhà tôi và các nhà khác. Có vẻ như ông tôi cho rằng những điều đó cũng là cách hành xử của một lưỡng ban. Ở thôn Parkjeok có hai nhà lưỡng ban và khoảng mười sáu, mười bảy hộ khác không phải lưỡng ban, nhưng lại không có sự phân cấp địa chủ hay tá điền gì cả. Ngọn núi làng cao ngất với hai bên triền núi thoai thoải không có lấy một tảng đá như đang dang rộng cánh tay ôm trọn lấy ngôi làng. Ngôi làng trông như đổ dồn về phía trước với khoảng không là cánh đồng bao la. Trên cánh đồng bát ngát ấy, các con suối chảy qua thật nên thơ, hệt như câu “Rì rầm con suối kể câu chuyện ngày xưa” của nhà thơ Jeong Ji-yong. Ở nhà chúng tôi, ngay cả khi muốn đi ra nhà xí, cũng phải bước qua một con suối nhỏ. Các con suối nhỏ uốn lượn, gặp cánh đồng, bèn tụ lại thành những cái chuôm. Chúng tôi gọi đó là giếng tù để phân biệt với giếng thơi. Giờ nghĩ lại, có khi phải gọi đó là những hồ chứa nước nhỏ mới đúng. Cả một vùng đất trồng trọt rộng lớn, chưa từng biết đến mất mùa là gì ấy, đều do những người làng tôi sở hữu. Chẳng có nhà nào độc chiếm đất đai, mà cũng không có nhà nào không có đất. Mọi người đều là những nông dân tự canh tự tác, tất cả đều cần mẫn chăm chỉ, và không bao giờ biết lo đến cái ăn suốt cả năm trời. Tám năm lớn lên trên mảnh đất ấy, tôi không có cơ hội để biết được rằng trên đời này có người giàu và kẻ nghèo. Tôi cũng chẳng mấy khi có dịp cùng lũ bạn nắm tay rong ruổi sang các làng khác. Cánh đồng làng mênh mông phía trước, dù chúng tôi có đi bao xa cũng chẳng thấy có làng khác xuất hiện. Phải vượt qua dãy núi phía sau mới có làng bên cạnh và chắc rằng phong cảnh ở các làng khác cũng không có gì lạ lẫm cả. Ở hai bên cánh đồng ấy, các ngôi nhà nằm xen nhau, ôm gọn lấy chân núi. Cánh đồng làng trải rộng tựa như một tấm váy rực rỡ nhiều màu sắc. Tất cả cuộc sống đối với tôi là như thế. Tôi vẫn ngỡ rằng dù có vượt qua quả đồi, đi qua con suối thì tất cả vẫn là đất của người Triều Tiên * và chỉ có người Triều Tiên ở đó. Nhưng rồi lần đầu tiên tôi được nghe đến một cái tên lạ lẫm của một đất nước vô cùng xa xôi, đó là “Đức quốc”. Mãi sau này tôi mới biết người ta gọi nước Đức là “Đức quốc”, nhưng ngay cả khi chưa biết điều ấy, một đất nước bên ngoài mà lần đầu tiên tôi được nghe đến ấy đã đủ khiến tôi thấy thật kỳ bí. Gần đến những dịp như Chuseok * hay Tết âm lịch, ông nội thường mang màu nhuộm ở Songdo về. Ông rút ra một túi giấy hình vuông, trong đó đựng màu nhuộm và bảo: “Màu của Đức quốc đấy”. Màu đỏ được đánh dấu đỏ, màu xanh được đánh dấu xanh. Con dấu chỉ bằng con tem bưu điện được gấp chéo lại thành những hình tam giác, trơn bóng, màu cũng rất thật, y như màu tự nhiên của những cánh hoa. Tôi cũng không rành lắm nhưng lại vô cùng háo hức mỗi khi nhìn thấy màu nhuộm của Đức quốc. Có lẽ đó là hương vị của văn minh mà lần đầu tiên trong đời, tôi được nếm thử. 3 Chỉ toàn bộ bán đảo Hàn. 4 Kỳ nghỉ lễ lớn nhất trong năm của người Hàn Quốc, diễn ra vào Rằm tháng Tám Âm lịch. Đây là ngày lễ diễn ra sau khi đã thu hoạch mùa màng, để cảm ơn tổ tiên, trời đất và cũng là dịp để mọi thành viên trong gia đình đoàn tụ. Bà nội, mẹ tôi và các thím, tất cả đều mê mẩn thứ màu nhuộm của Đức quốc ấy. Mỗi lần mua về, ông nội lại hể hả hơn bao giờ hết và thái độ cung kính hết mực của các nàng dâu đối với bố chồng gần như biến thành sự phục tùng và xu nịnh. Song, không phải lúc nào các nàng dâu cũng cung kính bố chồng tự đáy lòng. Đôi khi đó còn là thái độ châm biếm, giễu cợt. Mỗi khi nổi cáu, tiếng nói nghiêm nghị của ông nội phát ra oang oang, tưởng chừng trời đất có thể sụp ngay tại chỗ, vậy mà tiếng bước chân dồn dập về phòng của ông lại là dấu hiệu của sự giảm sút uy lực. Ngay cả trong những giây phút các nàng dâu còn đang đứng ngây ra chờ đợi cơn thịnh nộ sấm sét nào đó trút xuống, vẫn có tiếng đùa cợt khe khẽ. Mẹ tôi là người chuyên buông ra những câu đùa cợt ấy. Mẹ ghé tai thím thì thầm: “Này, cơm lại bị khê rồi đấy”. Còn thím thì cố nhịn cười nên mặt mũi tái mét đi. Câu ấy không phải là cơm trong bếp bị khê thật sự, mà có liên quan đến cái biệt danh “cằm nhô” của ông nội. Râu của ông không mọc dài ra được, cứ quấn lại với nhau thành một cụm, nhô ra phía trước, làm cho cái cằm của ông trông hệt như cái muôi xúc cơm. Bởi thế, cái sự cung kính hết mực của các nàng dâu đối với bố chồng, người hay mua về cho họ màu nhuộm của Đức quốc, thật ra chẳng có gì liên quan đến sự uy nghiêm của ông nội cả. Đơn giản, theo như cách nói bây giờ, chỉ là một thói sính đồ ngoại mà thôi. Còn tôi, cả vẻ biểu hiện bên ngoài lẫn suy nghĩ bên trong, tôi đều không sợ ông nội. Tình thương của ông dành cho một đứa mất bố từ lúc mới lên ba như tôi rất đặc biệt. Mỗi khi nhìn tôi, cặp mắt phượng của ông lại khẽ cụp xuống và tôi có thể cảm nhận được ẩn sâu trong ấy có một thứ gì đó đang bừng bừng cháy. Có thể đó là thứ tình thương cồn cào đến cháy ruột cháy gan, nhưng tôi lại coi điều đó như là mình đã nắm được một điểm yếu quan trọng. Tôi tin rằng dù mình có gây ra điều gì trầm trọng đi chăng nữa thì chắc chắn ông cũng sẽ vẫn bênh vực tôi. Tôi tin thế và cũng không bao giờ cố ý gây rắc rối, nhưng quả thật mỗi khi ông vắng nhà, tôi lại thấy buồn bã và rầu rĩ hơn cả. Có lúc bà nội đay nghiến ông: “Tại ông cứ nuông chiều quá mức thành ra nó mới như thế. Ông có biết lúc ông không ở nhà, nó ngoan ngoãn, dễ bảo thế nào không?”. Lập tức ông liền nổi dóa lên: “Nó không có ai để làm nũng nên mới thế. Bà thích nhìn thấy cháu rầu rĩ lắm à?”. “À vâng, tôi thích như thế đấy”. Bà lại bắt đầu giận dỗi và gắt um lên. Biết vậy mà ông nội vẫn vắng nhà thường xuyên. Ngoài Songdo ra, tất cả mọi nơi, từ việc lớn việc nhỏ của họ hàng hay bạn bè, ông đều đại diện gia đình tham dự không bỏ buổi nào. Ông luôn mặc đồ trắng khiến những người phụ nữ trong nhà lúc nào cũng bận rộn. Khổ nhất là việc giặt những đôi vớ trắng. Có lần chợt tỉnh giấc, tôi thấy mẹ và các thím ngồi quây lại dưới ánh đèn mờ mờ, vừa chải vớ, vừa rì rầm trò chuyện. Vớ của ông rất to, mấy lần tôi còn đội thử, nó vừa cả với đầu tôi nữa. Mỗi lần ra khỏi nhà, ông nội thường đi đến vài ngày sau mới về. Với tôi, việc đứng chờ ông nội trở về nhà đã trở thành một niềm vui lớn nhất của thời thơ bé. Phần hiên trước phòng khách nhà tôi đối diện ngay với khoảng sân bên ngoài không có hàng rào che chắn. Phòng khách lại còn chia làm hai buồng, buồng trên và buồng dưới, nên phần hiên rất dài và phải có cột dựng ở giữa để chống. Chỉ cần với tay ôm lấy cây cột hay đứng tựa vào đó, là tôi có thể trông thấy cả điểm cuối cùng của con đường xe thồ mất hút nơi góc núi khuất xa xăm. Áo trắng thật kỳ diệu. Khói chiều bốc lên trên những mái nhà rơm, lan tỏa khắp một vùng như có ai đó vừa mới đổ mực, xóa nhòa ranh giới của con đường và cánh đồng, rừng cây và ngọn núi. Ngay cả khi tất cả bầu trời bị bao phủ bởi một tấm màn màu xám, thì cái bóng người mặc áo trắng trở về trên sườn núi vẫn hiện lên thật sáng rõ. Tất cả mọi người trong làng đều mặc áo trắng. Nhất là khi đi Songdo, họ đều diện những chiếc áo trắng tinh tươm. Cho dù là như thế, chưa bao giờ tôi nhầm ông nội với ai khác cả. Bước chân rất riêng của ông, tôi không thể miêu tả được bằng lời, nhưng nó hệt như một luồng sáng mạnh mẽ truyền tới tôi vậy. “Ông nội kia rồi”. Ý nghĩ đó chợt lóe lên trong đầu tôi và nhanh như tên bắn, tôi vụt chạy ra ngoài cửa ở phía Đông. Chưa khi nào, dù chỉ một lần, tôi nhầm lẫn cả. Ông đứng đó, hơi thở phập phồng nồng ấm, vạt áo durumagi * được là ủi kỹ càng, bay phất phới trong gió, tựa như một lưỡi gươm mài sắc sáng lóa. Còn có cả mùi Songdo bám ở đó nữa. Tôi đặc biệt thích thứ mùi ấy. Vừa trông thấy tôi, ông liền gọi: “Con chó con của ông, ra đón ông đấy à?”, rồi lập tức bế bổng tôi lên. Vòng tay ông nội thật rắn chắc và hơi thở thì vô cùng ấm áp. Hơi thở ấy luôn đượm nồng mùi rượu. Tôi mê vô cùng cái hơi thở ấm nồng hòa lẫn với hơi men ấy. 5 Áo choàng truyền thống của Hàn Quốc. Áo có hai vạt, dài đến tận đầu gối và thường được mặc khi đi ra ngoài. Và sau đó, không bao giờ ông quên thả tôi xuống rồi móc từ trong túi áo durumagi ra hết thứ này đến thứ nọ, đặt vào tay tôi. Khi thì là cái kẹo lạc được gói trong chiếc phong bì màu vàng, khi là chiếc bánh, hay cả những đồ ăn mà ông đã không ngại xấu hổ, lấy từ bàn tiệc gói mang về cho tôi. Ngay tức khắc, tôi buông tay ông ra và tụt xuống để nếm thử. Sau đó, tôi vừa đi vừa nhảy nhót ở phía trước một cách vô cùng hoan hỉ. Hai ông cháu vừa bước chân vào nhà thì gặp ngay ánh mắt quở trách của bà nội - ánh mắt mà như người ta vẫn thường bảo là dành cho đứa trông thật đáng ghét đang hớn hở như vừa bắt được của. Còn tôi, lúc ấy trong lòng chỉ có cảm giác hân hoan vì sự chờ đợi đã thành công. Nhưng, sự chờ đợi không phải lúc nào cũng được toại nguyện. Có khi tôi phải chờ mãi, chờ mãi mà chẳng thấy bóng dáng ai xuất hiện. Hoặc có bóng người xuất hiện trên sườn núi nhưng lại là một người khác. Lúc ấy, một nỗi buồn chợt dâng nghẹn nơi cổ họng tôi. Cũng có cả những ngày thời tiết thay đổi, tôi phải đứng chờ trong cái lạnh run lẩy bẩy chân tay. Mấy lần ở nhà dưới gọi vào, nhưng tôi nhất định không chịu nghe lời. Người lớn bảo tôi là đứa trẻ mồ côi cha bướng bỉnh. Mẹ thì chặc lưỡi than bất lực vì một mình không dạy dỗ nổi tôi. Bà nội có lúc còn bạt tai tôi: “Lại cái kiểu bướng đấy, sẽ mách ông cho mà coi”. Tôi mặc kệ tất cả, quyết làm theo ý mình và chịu đựng mọi sự mắng mỏ của người lớn. Thật ra không phải là tôi bướng bỉnh. Đó chỉ là vì tôi cảm thấy thích thú khi được chờ đợi mà thôi. Biết vậy mà ông nội vẫn vắng nhà thường xuyên. Ngoài Songdo ra, tất cả mọi nơi, từ việc lớn việc nhỏ của họ hàng hay bạn bè, ông đều đại diện gia đình tham dự không bỏ buổi nào. Ông luôn mặc đồ trắng khiến những người phụ nữ trong nhà lúc nào cũng bận rộn. Khổ nhất là việc giặt những đôi vớ trắng. Có lần chợt tỉnh giấc, tôi thấy mẹ và các thím ngồi quây lại dưới ánh đèn mờ mờ, vừa chải vớ, vừa rì rầm trò chuyện. Vớ của ông rất to, mấy lần tôi còn đội thử, nó vừa cả với đầu tôi nữa. Mỗi lần ra khỏi nhà, ông nội thường đi đến vài ngày sau mới về. Với tôi, việc đứng chờ ông nội trở về nhà đã trở thành một niềm vui lớn nhất của thời thơ bé. Phần hiên trước phòng khách nhà tôi đối diện ngay với khoảng sân bên ngoài không có hàng rào che chắn. Phòng khách lại còn chia làm hai buồng, buồng trên và buồng mùi rượu. Tôi mê vô cùng cái hơi thở ấm nồng hòa lẫn với hơi men ấy. Và sau đó, không bao giờ ông quên thả tôi xuống rồi móc từ trong túi áo durumagi ra hết thứ này đến thứ nọ, đặt vào tay tôi. Khi thì là cái kẹo lạc được gói trong chiếc phong bì màu vàng, khi là chiếc bánh, hay cả những đồ ăn mà ông đã không ngại xấu hổ, lấy từ bàn tiệc gói mang về cho tôi. Ngay tức khắc, tôi buông tay ông ra và tụt xuống để nếm thử. Sau đó, tôi vừa đi vừa nhảy nhót ở phía trước một cách vô cùng hoan hỉ. Hai ông cháu vừa bước chân vào nhà thì gặp ngay ánh mắt quở trách của bà nội - ánh mắt mà như người ta vẫn thường bảo là dành cho đứa trông thật đáng ghét đang hớn hở như vừa bắt được của. Còn tôi, lúc ấy trong lòng chỉ có cảm giác hân hoan vì sự chờ đợi đã thành công. Nhưng, sự chờ đợi không phải lúc nào cũng được toại nguyện. Có khi tôi phải chờ mãi, chờ mãi mà chẳng thấy bóng dáng ai xuất hiện. Hoặc có bóng người xuất hiện trên sườn núi nhưng lại là một người khác. Lúc ấy, một nỗi buồn chợt dâng nghẹn nơi cổ họng tôi. Cũng có cả những ngày thời tiết thay đổi, tôi phải đứng chờ trong cái lạnh run lẩy bẩy chân tay. Mấy lần ở nhà dưới gọi vào, nhưng tôi nhất định không chịu nghe lời. Người lớn bảo tôi là đứa trẻ mồ côi cha bướng bỉnh. Mẹ thì chặc lưỡi than bất lực vì một mình không dạy dỗ nổi tôi. Bà nội có lúc còn bạt tai tôi: “Lại cái kiểu bướng đấy, sẽ mách ông cho mà coi”. Tôi mặc kệ tất cả, quyết làm theo ý mình và chịu đựng mọi sự mắng mỏ của người lớn. Thật ra không phải là tôi bướng bỉnh. Đó chỉ là vì tôi cảm thấy thích thú khi được chờ đợi mà thôi. Sự chờ đợi còn có một cái thú khác. “Ngón cái dính ngón giữa, ông về đến Đồi Sorigae”. Nhưng nếu hết câu mà hai ngón chưa chạm nhau thì tôi lại đổi sang: “Ngón cái dính ngón giữa, ông về đến Đồi Nongbawi” và thể nào cũng trúng. Tôi biết rất nhiều tên đồi và tên suối, nhưng chẳng biết chúng ở đâu cả. Chỉ cần hết câu nói mà hai ngón tay dính vào nhau là được. Hai ngón dính ở địa điểm nào, tôi sẽ chạy thật nhanh qua các quả đồi, con suối để tới đó chờ sẵn, gây cho ông nội sự bất ngờ. Có những lần ông nội về trong đêm tối thăm thẳm, nhưng cũng có khi là những đêm trăng sáng vằng vặc. Và ngay cả khi trên nền trời đêm chỉ có le lói vài ánh sao ngày cuối tháng, thì cái vạt áo durumagi phấp phới vẫn sáng bừng lên, rõ mồn một, không thể lạc vào đâu được. Bước chân thoăn thoắt, chẳng mấy chốc ông đã xuất hiện ở cửa Đông. Tôi hổn hển chạy ra đón ông, trong lòng háo hức chờ đợi điều gì đó. Có lúc, chạy ra đến nơi rồi mà tôi vẫn không thấy ông xuất hiện ở khúc rẽ. Lúc ấy, tôi chỉ còn biết đứng ngây ra đó chờ ông một cách hụt hẫng, và bao nhiêu cảm giác hồi hộp liền xìu xuống. Có lần tôi thiếp đi vì chờ đợi mệt quá, những người trong nhà phải ra bế tôi vào. Còn tôi, lúc ấy mới chỉ thiu thiu nhưng vẫn giả vờ ngủ say bằng cách ngáy khe khẽ. Nhưng rồi sự chờ đợi lấp đầy những trang đầu ký ức tuổi thơ ấy đã không kéo dài được lâu. Một ngày, ông nội bị ngã ở nhà xí, ông không dậy được nên chỉ còn biết kêu to lên, gọi mọi người tới cứu. Nhà xí nằm ở mé cánh đồng, từ phòng khách phải xuống ba bậc thang kê bằng những hòn đá rộng bản, tới khoảng sân rộng phía sau, đi qua những tán cây dâu mọc bao quanh mảnh sân ấy, bước qua con suối nhỏ mới tới được. Ai đó đi ngang qua nghe thấy liền hớt hải chạy vào gọi, khiến tất cả mọi người trong nhà hoảng hốt chạy ra nhà xí và phải vất vả lắm mới bế được ông về phòng. Mọi người bảo đó là trúng gió, trúng gió là bệnh không qua được. Tất cả đều tin rằng gió ở nhà xí thì chẳng có thuốc nào chữa nổi. Giống như những nhà nho khác vào thời ấy, do có chút hiểu biết về thuốc thang hơn người nên ông nội thường tự kê đơn chữa bệnh cho con cái. Ông thường tìm hái các loại cây thuốc, tán thành viên rồi cất ở trong tủ thuốc, để mỗi khi trong làng có ai bị bệnh cần chữa gấp, thì ông lại lấy đem cho. Vậy mà với bệnh của mình, ông tôi lại sớm buông xuôi và thường xuyên nổi cáu. Mỗi khi mang bô ra ngoài, bà nội lại làu bàu chì chiết, kể ra hàng loạt những tật xấu của ông, nào là suốt ngày lang thang, nào là thích rượu, thích bạn bè, giờ nằm đấy mới thấy rõ sướng! Bầu không khí trong nhà trở nên nặng nề, nhất là tôi, tôi thật đáng thương, chẳng khác gì một con chim non bị gãy cánh. Những ký ức về việc mất bố lúc ba tuổi, tôi hoàn toàn chẳng nhớ gì cả, vậy nhưng trước sự yếu đuối của ông nội sau lần trúng gió ấy, với tôi, đó là lần thứ hai trong đời tôi mất bố. Đã vậy lại còn buồn rầu hơn khi năm ấy, mẹ dọn hẳn lên Seoul để chăm sóc anh tôi. Anh tôi đã học xong bậc tiểu học sáu năm theo chương trình cải cách mới, nghĩa là sau khi kết thúc bốn năm ở trường tiểu học sẽ học tiếp hai năm nữa ở Songdo. Mặc dù các chú của tôi đều tốt nghiệp trường tiểu học theo chế độ cũ bốn năm, nhưng ông nội lại luôn đánh giá cao việc học thêm hai năm ở Songdo của anh tôi. Việc tiếp tục học lên nữa ở Seoul của anh tôi đã khiến cho gia đình thêm khó khăn, và sự trông đợi đối với đứa cháu đích tôn bị chệch ra ngoài ý muốn. Khi ấy, hai chú tôi đều đã lấy vợ và sống chung với nhau dưới một mái nhà. Điều lạ lùng là đến tận lúc đó, cả hai đều vẫn chưa có con. Ông nội vẫn thường ví anh em chúng tôi là châu ngọc được cất kỹ ở trong rương. Đến khi đột ngột bị trúng gió, ông tôi lại muốn đứa cháu đích tôn và cũng là duy nhất ở bên cạnh, để có thể dạy bảo. Ông nội mong muốn anh tôi sớm lập gia đình, gánh vác vai trò trụ cột của cả nhà và giữ gìn hương hỏa tổ tiên, hơn là việc anh tôi trưởng thành ở bên ngoài xã hội rộng lớn. Mẹ tôi chẳng hề thương lượng một lời với người lớn trong nhà mà đã cho anh tôi theo học trường thương nghiệp ở Seoul. Ở Songdo cũng có trường thương nghiệp, nhưng việc anh tôi được đi học ở Seoul lại là mong ước lớn lao của mẹ. Chuyện này đã làm cho cả nhà được một phen ầm ĩ. Nàng dâu trưởng, chồng mất sớm, lại lấy cớ cho con đi học để không ở lại hầu hạ bố mẹ chồng; đó là một điều tuyệt đối không được phép vào thời bấy giờ. Sự phẫn nộ của người lớn trong nhà, khỏi phải nói cũng hình dung được là gay gắt đến mức nào; song điều đáng kể hơn lại chính là sự sụp đổ của một đại gia đình. Cho dù chỉ là một chốn làng quê nhỏ bé thôi, song muốn thực hiện đúng đắn vai trò lưỡng ban ấy, ông nội phải điều hành gia đình sao cho không làm mất đi thể thống của một lưỡng ban. Có ai hiểu cho hay không, điều ấy không quan trọng, ông vẫn luôn tin rằng gia đình chúng tôi phải có trách nhiệm sống một cách mẫu mực trong cái làng ấy. Ông nội đã rất giận mẹ tôi, còn mẹ tôi, người dám tự từ bỏ trách nhiệm của mình ấy, cũng đã phải từ bỏ rất nhiều thứ khác nữa. Quyết tâm dù bất kỳ giá nào cũng phải nuôi con lớn lên ở Seoul giống như một niềm tin thần thánh sâu kín của mẹ tôi, không ai có thể lay chuyển được. Mẹ đã một mực tin rằng ngày trước, nếu chúng tôi được sống ở Seoul, dù chỉ là một góc ở xó chợ nào đó thôi, thì có lẽ bố tôi đã không phải từ giã cõi đời một cách quá sớm như vậy. Sau này, khi biết suy nghĩ rồi, tôi không thể không đồng tình với suy nghĩ đó của mẹ. Trong số các anh em, bố tôi là người khỏe mạnh nhất và không bao giờ bị ốm vặt. Vậy mà, bỗng dưng một hôm, bố tôi lại lăn ra quằn quại vì một cơn đau bụng, và trong khi ông nội còn đang tự chữa cho bố tôi bằng một thứ thuốc nam nào đó, còn bà tôi thì đi đến nhà thầy cúng để cầu xin, thì bố tôi đã rơi vào tình trạng hấp hối sắp tắt thở. Đến lúc đó, mẹ mới có thể cương quyết đặt bố lên xe bò mà chở ra tận Songdo. Và phần viêm ruột thừa bị vỡ ra của bố tôi đã được phẫu thuật một cách muộn màng. Ngày ấy còn chưa có thuốc kháng sinh nên bệnh tình lại càng trầm trọng, vì thế bố tôi đã qua đời. Mẹ tôi nhất quyết cho rằng mọi chuyện không thể cứ đổ cho số phận con người, mà đó là do lỗi của cái sự ấu trĩ chốn quê mùa, và do đó, nhất định đến đời con cái, phải đưa chúng thoát ra khỏi cái chốn này. Ý định này còn liên quan tới quãng thời gian trải nghiệm Seoul ở những ngày còn là con gái của mẹ tôi nữa. Mẹ kể rằng nhà mẹ cũng ở nông thôn, nhưng họ hàng bên ngoại lại là những người giàu có sống ở Seoul. Thời còn con gái, trước khi theo chồng về thôn Parkjeok này, mẹ từng sống ở nhà một người họ hàng như thế. Khi ấy, các anh chị em họ của mẹ đều được đi học ở trường nam, trường nữ nào đó rất danh giá khiến mẹ lúc nào cũng cảm thấy rất ghen tị. Mẹ gọi các cô gái mặc váy, đi giày và được giáo dục theo kiểu mới là “những thiếu nữ tân thời năng động”, và mẹ cũng muốn biến tôi trở thành như vậy. Nhưng tôi vẫn còn nhỏ quá và bởi hoàn cảnh cũng không dư dả để nuôi cả đứa con gái, nên trước tiên, mẹ cho đứa con trai đi học ở trên Seoul, đồng thời bản thân cũng lấy cớ là đi theo để chăm sóc con trai mà trốn luôn trọng trách của nàng dâu trưởng. Còn đứa ở lại là tôi không thể không phải nghe những lời than phiền trách móc mẹ của ông bà nội và dĩ nhiên là của cả các thím tôi nữa. Mặc dù vậy, vì là cháu duy nhất nên đối với các thím, tôi vẫn thuộc hàng vai trên và việc nằm liệt giường của ông nội, cộng với sự vắng mặt của mẹ ở nhà lại khiến cho tôi cảm thấy được tự do hơn cả lúc trước. Đặc trưng nhà ở của vùng Gaeseong và khu vực lân cận đó là nhà ngoài bao giờ cũng thấp và đơn sơ, còn nhà trong thì cao và được bài trí trang trọng, đi kèm với sân vườn cầu kỳ. Sân ngoài đối diện với phòng khách mở rộng ra phía trước, hai bên được bao quanh bởi hàng cây dâu hoặc cây đậu chổi - thứ cây vẫn được lấy gỗ làm lược chải đầu, còn sân sau, tuy chỉ có vài cây hoa mẫu đơn và hoa cúc được trồng xen kẽ, nhưng sự bài trí ở đó cũng khá công phu và bắt mắt. Phía đằng sau nhà chúng tôi là một quả đồi nhỏ và cũng là một khoảng sân chơi rộng rãi, trừ mùa đông rét mướt, còn lại lúc nào cũng rộ hoa. Chum vại cũng được xếp hết ở đây. Cả nơi thờ ông thổ địa cũng thế. Hoa đầu xuân đan kín hàng rào, các loại quả mùi vị cũng bình thường, nhưng tất cả lại khá rậm rạp bởi một cây mơ dại và một cây lê dại nở hoa chi chít, thêm vào đó là một vài cây sơ ri, bên dưới là các cây dâu tự mọc quanh năm, và những cây hẹ tự mọc lên um tùm phía gần nơi thờ ông thổ địa. Bên dưới hàng rào đầu xuân là thiên đường của những cây tầm bóp, những tán cây leo bám vào những chiếc vại, đùn lên thành tầng tầng lớp lớp, hệt như cỏ dại mọc cả một năm trời. Giờ thì tôi không còn thơ thẩn chơi một mình, mà có thể tùy ý kéo lũ bạn vào sân sau hay cùng bọn chúng rong ruổi khắp làng. Chẳng ai bảo, tôi cũng có thể tự hiểu được rằng chuyện mất đi sự uy phong của ông nội đã tạo nên một lỗ hổng lớn trong nề nếp gia đình và tôi đã tận hưởng hết mức điều ấy. Thậm chí tôi còn biến luôn sân sau thành sân chơi của mình. Ban đầu, tôi cũng chợn vì chỗ này là chỗ ông tôi đã bị ngã liệt nửa người, nếu chơi ở đây mà nhỡ ra bị ngã thì làm sao? Nhưng nỗi sợ hãi đó chỉ thoáng qua bất chợt, và mảnh sân ở phía sau đã nhanh chóng trở thành sân chơi lý tưởng nhất trong tất cả các ký ức về sân chơi thời thơ ấu của tôi. Những câu chuyện liên quan đến nhà xí ở quê tôi chủ yếu là chuyện ma. Song lại không phải là những con ma rùng rợn, mà là những con ma rất vui tính và chỉ hơi xấu bụng một chút thôi. Người ta kể rằng con ma bị nghẹt mũi nên không ngửi được ấy thường thức suốt đêm để lấy phân nặn bánh teok kê *. Vì tưởng tro là bột đậu đen, đậu đỏ, nên nó lăn bánh qua đó một cách thật ngon lành, đến lúc chỉ còn việc đánh chén, nó lại cảm thấy tiếc đến nỗi không dám ăn thử một miếng; cho mãi tới gần sáng, nó mới bắt đầu cắn thử thì ôi thôi, “ọe ọe”, nó nôn mửa ngay ra đấy và tức quá, nó liền đạp đổ tất cả trở lại như cũ rồi biến mất. Thế nên khi đi vệ sinh, nếu không hắng lên một tiếng mà lại mở cửa đúng vào lúc con ma đang say sưa nặn bánh, thì con ma sẽ xấu hổ và sẽ đưa cho một miếng bánh to nhất, bảo: “Ăn thử một miếng teok kê đi”; ai mà không ăn, lập tức sẽ bị nó làm hại. 6 Một loại bánh bột gạo hấp làm từ bột kê, bên ngoài phủ bột đậu, muối, đường đỏ. Bánh được viên thành các viên tròn, màu nâu. Ngoài câu chuyện con ma đó, còn có câu chuyện này nữa: Vào đúng ngày Đông chí, có một nàng dâu nấu một nồi cháo đậu rất ngon, ngon đến mức nảy lòng ăn vụng và thế là chị ta liền giấu một bát, lẻn ra nhà xí để không cho ai biết. Thế nhưng, ông bố chồng lại đã ở đó từ bao giờ và lại còn đang ăn vụng cháo đậu của con dâu. Trông thấy con dâu, bố chồng hoảng hốt úp luôn cả bát cháo đậu lên đầu. Nàng dâu cũng thật nhanh trí, hai tay kính cẩn bưng bát cháo đậu và nói: “Mời bố xơi cháo đậu ạ”. Bố chồng thấy vậy, bèn bảo: “Con à, bố chẳng ăn cháo đậu mà mồ hôi cũng đổ ròng ròng như cháo đậu đây này”. Cả hai câu chuyện mà người lớn thường hay kể ấy nhằm để nhắc nhở rằng khi đứng trước cửa nhà xí, phải đánh động rồi mới được vào. Những đứa trẻ sợ hố xí thời nay chỉ thấy buồn nôn khi nghe những câu chuyện này, nhưng thực ra nhà xí của nhà chúng tôi lại vô cùng sạch sẽ, sạch đến mức có thể ngồi ăn cháo đậu ở đó được. Nhà xí được chia làm ba, bốn khoang rộng rãi, khoang của người lớn có một thớ gỗ khoét lỗ ở giữa, còn của trẻ con thì đi thẳng xuống đất. Nhà xí của trẻ con thì trống hoác như cái chuồng trâu, nền đất dốc về phía sau, nên đi xong, phân cứ tự trôi xuống dưới và ở phía dưới không sâu lắm đã có hố tro, nơi đổ than tro của nhà bếp hứng rồi. Ở đó còn có một cái sào rất dài, dài như người ta vẫn thường ví những kẻ ngu đần: “Chỉ được cái cao như cái sào chọc cứt”. Một đầu của cây sào được gắn với tấm ván hình vuông để chọc vào những cục phân không tự trôi xuống được, như phân của lũ trẻ chẳng hạn. Trẻ con có thể tự lấy sào chọc cho phân rơi xuống hố tro. Ai mà không rõ cấu tạo ấy của chuồng phân thì đương nhiên không thể hiểu được câu chuyện con ma nặn bánh teok kê kia. Sáng sáng tối tối, lúc nào cũng có người lớn dùng chổi tre quét nhà xí. Thời đó, người ta còn trộn lẫn phân người với phân rác để dùng làm phân bón. Dân cư quá thưa thớt so với cả một vùng đất nông nghiệp rộng lớn, nên lúc nào cũng thiếu phân người. Người ta thường đem tro bếp đổ vào trong nhà xí vừa là để làm tốt phân và tăng thêm lượng phân lên chút ít, nhưng ngoài ra còn có một mục đích khác, đó là để giấu đi, tránh không cho người khác thấy ở đó có phân người. Thậm chí có nhiều nhà phải đi tận Songdo để mua phân người về. Những lúc như vậy lại có người trong làng rủa mấy gã Gaeseong bịp bợm thường hay đổ thêm nước vào phân để làm cho thùng phân nặng thêm. Nhưng họ cũng chẳng khác gì mấy gã Gaeseong cả. Ngay như đến lúc mót lắm rồi, họ cũng vẫn cố nhịn để chạy bằng được về cánh đồng nhà mình, chứ nhất định không chịu đi đại tiện ở nhà khác. Với tôi, hẵng còn quá bé để biết tính toán được việc ấy, nhưng tôi vẫn thường rủ chúng bạn ra phía sau nhà xí. Sau một hồi chơi đồ hàng chán chê, giống như lúc bất chợt có đứa nào đó lên tiếng rủ chơi trốn tìm và được cả bọn hưởng ứng theo ngay ấy, rồi có đứa nào đó lên tiếng rủ đi vệ sinh, lập tức kể cả chưa mót nhưng cả lũ vẫn lũ lượt kéo nhau vào nhà xí ngồi xếp thành hàng, khoe những cái mông tròn trĩnh và bắt đầu rặn. Ngày ấy, tất cả bọn con gái đều mặc quần hở đũng bên trong váy nên mỗi lúc đi vệ sinh đều dễ dàng phơi ra được cái mông. Giữa ban ngày sáng sủa nhưng phía trong nhà xí lại tối om, bởi vậy những cái mông trẻ con để lộ ra trắng trẻo và tròn trịa như những trái bầu phơi trên mái nhà dưới ánh trăng đêm khi tỏ khi mờ. Phơi cả mông ra rồi mà cũng chẳng có cảm giác buồn ị. Điều đó cũng chẳng sao. Cả bọn cứ thế ngồi xếp hàng dài, vừa rặn vừa nói chuyện, việc ấy sao mà thích thế, chẳng còn cái thú nào hơn. Đứa nào ăn ngô thì cho ra toàn phân vàng xộm như ngô khiến cả bọn chợt nhớ đến con chó vàng của nhà Gap-sun vừa mới đẻ được những sáu con chó con, lạ là trong số ấy chẳng có con nào màu vàng, mà chỉ có màu đen, màu trắng hay là đốm, v.v... Thôi thì đủ các thứ chuyện linh tinh làm huyên náo cả cái chốn nhà xí tối tăm và biệt lập ấy. Thỉnh thoảng còn nảy ra những liên tưởng khiến cả bọn cùng cười rộn lên. Khoái nhất là việc đứa nào cho ra được những cục phân đẹp thì sẽ được bầu làm thủ lĩnh. Tất cả chúng tôi đều hiểu rằng phân không phải là thứ bẩn thỉu, mà nhà chúng tôi lại vô cùng sạch sẽ, sạch đến mức có thể ngồi ăn cháo đậu ở đó được. Nhà xí được chia làm ba, bốn khoang rộng rãi, khoang của người lớn có một thớ gỗ khoét lỗ ở giữa, còn của trẻ con thì đi thẳng xuống đất. Nhà xí của trẻ con thì trống hoác như cái chuồng trâu, nền đất dốc về phía sau, nên đi xong, phân cứ tự trôi xuống dưới và ở phía dưới không sâu lắm đã có hố tro, nơi đổ than tro của nhà bếp hứng rồi. Ở đó còn có một cái sào rất dài, dài như người ta vẫn thường ví những kẻ ngu đần: “Chỉ được cái cao như cái sào chọc cứt”. Một đầu của cây sào được gắn với tấm ván hình vuông để chọc vào những cục phân không tự trôi xuống được, như phân của lũ trẻ chẳng hạn. Trẻ con có thể tự lấy sào chọc cho phân rơi xuống hố tro. Ai mà không rõ cấu tạo ấy của chuồng phân thì đương nhiên không thể hiểu được câu chuyện con ma nặn bánh teok kê kia. Sáng sáng tối tối, lúc nào cũng có người lớn dùng chổi tre quét nhà xí. Thời đó, người ta còn trộn lẫn phân người với phân rác để dùng làm phân bón. Dân cư quá thưa thớt so với cả một vùng đất nông nghiệp rộng lớn, nên lúc nào cũng thiếu phân người. Người ta thường đem tro bếp đổ vào trong nhà xí vừa là để làm tốt phân và tăng thêm lượng phân lên chút ít, nhưng ngoài ra còn có một mục đích khác, đó là để giấu đi, tránh không cho người khác thấy ở đó có phân người. Thậm chí có nhiều nhà phải đi tận Songdo để mua phân người về. Những lúc như vậy lại có người trong làng rủa mấy gã Gaeseong bịp bợm thường hay đổ thêm nước vào phân để làm cho thùng phân nặng thêm. Nhưng họ cũng chẳng khác gì mấy gã Gaeseong cả. Ngay như đến lúc mót lắm rồi, họ cũng vẫn cố nhịn để chạy bằng được về cánh đồng nhà mình, chứ nhất định không chịu đi đại tiện ở nhà khác. Với tôi, hẵng còn quá bé để biết tính toán được việc ấy, nhưng tôi vẫn thường rủ chúng bạn ra phía sau nhà xí. Sau một hồi chơi đồ hàng chán chê, giống như lúc bất chợt có đứa nào đó lên tiếng rủ chơi trốn tìm và được cả bọn hưởng ứng theo ngay ấy, rồi có đứa nào đó lên tiếng rủ đi vệ sinh, lập tức kể cả chưa mót nhưng cả lũ vẫn lũ lượt kéo nhau vào nhà xí ngồi xếp thành hàng, khoe những cái mông tròn trĩnh và bắt đầu rặn. Ngày ấy, tất cả bọn con gái đều mặc quần hở đũng bên trong váy nên mỗi lúc đi vệ sinh đều dễ dàng phơi ra được cái mông. Giữa ban ngày sáng sủa nhưng phía trong nhà xí lại tối om, bởi vậy những cái mông trẻ con để lộ ra trắng trẻo và tròn trịa như những trái bầu phơi trên mái nhà dưới ánh trăng đêm khi tỏ khi mờ. Phơi cả mông ra rồi mà cũng chẳng có cảm giác buồn ị. Điều đó cũng chẳng sao. Cả bọn cứ thế ngồi xếp hàng dài, vừa rặn vừa nói chuyện, việc ấy sao mà thích thế, chẳng còn cái thú nào hơn. Đứa nào ăn ngô thì cho ra toàn phân vàng xộm như ngô khiến cả bọn chợt nhớ đến con chó vàng của nhà Gap-sun vừa mới đẻ được những sáu con chó con, lạ là trong số ấy chẳng có con nào màu vàng, mà chỉ có màu đen, màu trắng hay là đốm, v.v... Thôi thì đủ các thứ chuyện linh tinh làm huyên náo cả cái chốn nhà xí tối tăm và biệt lập ấy. Thỉnh thoảng còn nảy ra những liên tưởng khiến cả bọn cùng cười rộn lên. Khoái nhất là việc đứa nào cho ra được những cục phân đẹp thì sẽ được bầu làm thủ lĩnh. Tất cả chúng tôi đều hiểu rằng phân không phải là thứ bẩn thỉu, mà à thứ sẽ đi vào lòng đất, làm nảy nở sinh sôi những chùm dưa chuột, những trái bí đỏ lủng lẳng hay giúp cho mùi vị của những trái dưa lê, dưa hấu thêm ngọt và thơm. Vì thế, chúng tôi đã cảm nhận được không chỉ là sự khoan khoái theo bản năng bài tiết, mà còn là sự hãnh diện bởi bản thân đã góp phần vào việc làm sản sinh ra những thứ hữu ích phục vụ cho cuộc sống. Bên trong nhà xí thật thú vị, nhưng vẻ đẹp của thế giới bên ngoài khi bước ra từ nhà xí sau một hồi ngồi lâu ở trong đó mới thật là kỳ diệu. Ánh nắng lấp lánh trên những luống rau đầu bờ ruộng, bãi cỏ, cành cây, dòng suối, tất cả chợt óng ánh, lấp lánh và sáng lòa đến kỳ lạ, cứ như thể lần đầu tiên được trông thấy, khiến hết thảy lũ chúng tôi nhất loạt đều nheo mắt lại và hít vào một hơi thật sâu, cảm thấy thật khoan khoái như đang làm điều bị cấm đoán. Sau này, mỗi lần bước ra từ rạp chiếu bóng, sau khi xem xong những bộ phim cấm học sinh và phải gập chiếc cổ áo màu trắng của đồng phục để vào xem, rồi hòa mình vào ánh sáng và sự xa lạ của thế giới bên ngoài, tôi lại thấy mình như được ùa về với những kỷ niệm chốn nhà xí thời thơ ấu. Ít lâu sau, tôi có cơ hội được đọc bút ký mang tiêu đề Buồn chán của nhà văn Lee Sang. Đó là câu chuyện về năm, sáu đứa trẻ ở nông thôn không có trò gì để chơi, chúng bèn nhặt những hòn đá và dầm nát những ngọn cỏ. Nhưng rồi chẳng mấy chốc, chúng phát chán, bèn giơ hai tay lên trời, gào thật to và cuối cùng, tất cả ngồi dàn thành hàng, mỗi đứa tạo ra một đống phân. Lee Sang gọi đó là sự tìm thấy hứng thú cuối cùng của những đứa trẻ không còn thấy điều gì thú vị nữa hết. Nhà văn đã không giải thích thêm, nhưng với bút pháp tài tình của ông, người đọc thật sự cảm thấy đó là sự buồn chán đến tận cùng. Song, với một người sinh ra và lớn lên ở Seoul như Lee Sang, đó chỉ là cảm hứng đã được quan niệm hóa và đã được tạo nên bằng cảm nhận của Lee Sang, còn thực tế lại không phải như vậy. Cảm giác tội nghiệp dành cho những đứa trẻ nông thôn bị rơi vào buồn chán vì không có gì để chơi ấy, điều đó chỉ đến với tôi từ sau khi chuyển đến Seoul. Bởi chính sự tự do đối với những người sinh ra và lớn lên ở Seoul lại làm nảy nở ý thức về sự buồn chán nặng trĩu trong lòng. Người ta thường bảo những gì thuộc về thiên nhiên thì có ích gấp nhiều lần so với những thứ đồ chơi của bọn trẻ sống ở thành phố. Chẳng qua đó chỉ là một sự quan trọng hóa vấn đề, còn thực tế lại vô cùng đơn giản. Chúng tôi cứ như thể là một phần của thiên nhiên. Thiên nhiên quanh chúng tôi luôn chuyển động và biến đổi không ngừng, khiến chúng tôi không lúc nào cảm thấy buồn chán. Những hạt lúa, hạt cây do người nông dân gieo trồng, chúng nảy mầm, sinh sôi và đơm hoa, kết trái. Lúc ấy, con người dù chăm chỉ đến đâu cũng không thể đuổi kịp sự sinh trưởng của chúng được. Trẻ con cũng giống như vậy. Từ nhỏ, ngoài ba bữa cơm chính ra, chúng tôi tự tìm thức ăn vặt và đồ chơi ở trên núi hay trong vườn. Đó là thiên đường với những cỏ tranh, nụ hoa tầm xuân, chồi non cây hồng leo, dâu rừng, rễ củ dong, rễ cây hoa bìm bìm, lá giang, hạt dẻ, quả sồi... Tất cả vừa là những đồ ăn lạ miệng, vừa là những thứ làm hài lòng người lớn. Nhất là hai thứ: rau rừng và nấm. Đặc biệt, nấm mầm thông và nấm san hô, sao mà chúng mọc nhanh đến thế? Cứ như thể chúng tôi vừa quay đi thì liền lập tức đằng sau đã có những ngón tay từ dưới lòng đất trồi lên vậy. Tất cả các con suối trong làng, nơi đâu cũng có thể trở thành chốn vùng vẫy bơi lội được. Lúc ấy có đứa nào mà mang vợt ra là lập tức cả bọn có thể vớt được vô số các chú tôm sú nông nổi và đem về cho người lớn nấu một bữa canh đậu tương thơm lừng. Những thứ để chơi đều là những thứ biết ngọ nguậy. Khi thì ghé miệng cắn đít chú kiến chúa nào đó và rồi liền bị mấy chú kiến lửa tấn công đốt sưng cả bọng chân; lúc lại bắt mấy chú chuồn chuồn, ngắt cái đuôi nhọn hoắt của chúng rồi cắm mấy cọng rơm vào đó cho chúng bay thử. Có lúc cả bọn còn làm tóc cho cô dâu cỏ rồi tiễn về nhà chồng. Mai cua làm nồi, lá thông làm mỳ, còn cỏ chua làm kim chi. Cuối cùng thì cả lũ cùng bứt cỏ sam và hò nhau: “Bật đèn phòng chú rể lên, bật đèn phòng cô dâu lên” rồi lấy ngón tay khoắng làm cho nước đỏ au như thể vừa mới bật đèn lên vậy. Những trò để chơi là vô tận và chúng tôi chưa bao giờ phải chơi lại trò của ngày hôm qua. Cũng có những buổi trưa hè nóng như đổ lửa, chúng tôi men theo con suối ra ngoài tận cửa Đông xa tít. Những lúc ấy, nếu có trận mưa rào nào đổ xuống thì thật là một cảnh tượng tuyệt vời. Những đứa trẻ ở Seoul chỉ biết mưa rào đổ từ trên trời xuống, còn chúng tôi lại biết rằng đó là cơn mưa kéo đến từ phía xa tít của cánh đồng đằng kia. Đang chơi trên cánh đồng nắng chang chang phía bên này, song chúng tôi có thể nhìn thấy bóng mây đen và làn mưa rào từ phía đằng xa đang sắp đổ tới chỗ chúng tôi. Những lúc ấy, tất cả đều hò hét rất to và chạy thật nhanh về làng. Cả bọn điều biết rõ rằng cơn mưa ấy di chuyển nhanh lắm, nên phải mau mau mà chạy cật lực về làng. Những cây lúa, cây rau rừng và cả cỏ dại trên cánh đồng, không biết là chúng mừng vui hay bất an mà tất cả đều đồng loạt rì rào như thể vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa hè oi ả. Cơn mưa rào nhanh đến lạ, chẳng để chúng tôi kịp nép mình vào mái hiên nhà nào đó, đã ập xuống chúng tôi. Những tia nước mát lạnh như dòng nước chảy từ trên thác, quất mạnh vào chúng tôi, làm tan biến cái nóng bỏng rát. Cuối cùng, tất cả đều như phát điên. Chao ôi, đúng là cái sự sung sướng đến phát điên. Tất cả chúng tôi đều ngửa mặt lên trời, vừa hứng lấy những giọt nước mưa, vừa thi nhau gào thét. Cánh đồng rì rào ban nãy giờ cũng ùa theo chúng tôi, run rẩy một cách sung sướng. Những lúc ấy, khó mà nhận ra được lũ chúng tôi đang lẫn trong đám ngô hay đám thầu dầu. Nhưng không phải lúc nào thiên nhiên cũng mang lại cảm giác sung sướng, mà đôi khi đó còn là cảm giác bi ai nữa. Tôi còn nhớ cái cảm giác bi ai lần đầu tiên trong đời mà bản thân đã nếm trải. Không phải do một biến cố nào đó, chỉ đơn giản là bởi cảnh vật xung quanh thật quạnh quẽ. Lúc ấy, tôi đang được mẹ cõng trên lưng. Chắc lúc đó tôi khoảng năm tuổi, nhưng vì là út ít nên kể thì cũng lơn lớn rồi, vậy nhưng vẫn thường được cõng. Hôm ấy là một buổi chiều hoàng hôn đỏ rực. Nền trời rực lên một màu đỏ au, hệt như vệt máu loang lổ. Cảnh vật xung quanh chẳng sáng cũng chẳng tối, nơi chúng tôi đang đứng là một ngôi làng xa lạ nào đó. Những khuôn mặt thân quen phản chiếu qua ánh lửa bập bùng trở nên thật xa xôi. Tôi không kìm được, đã òa lên khóc nức nở. Mẹ không hiểu được tiếng khóc bất ngờ vỡ òa ấy của tôi. Tôi cũng không thể giải thích được với mẹ. Cảm giác buồn tủi đó thật ngây ngô. Sau này, tôi cũng có sự trải nghiệm giống như thế. Đó là một buổi chiều gió lạnh và vắng vẻ, chia tay với lũ bạn xong, tôi đi về nhà một mình. Cảm giác buồn tủi bất chợt ùa về khi đứng trước bóng của những ngọn cây ngô đổ dài trên mặt ruộng, trong ánh chiều hoàng hôn còn sót lại đỏ au như màu những trái hồng, phủ dọc theo triền núi. Khác với lúc được mẹ cõng trên lưng, tôi chợt cảm thấy muốn đối mặt với cảm giác buồn tủi ấy và cố làm điều đó. Làm sao để những cây ngô khiến mình thấy buồn nhỉ? Tự hỏi như vậy rồi tôi cúi thấp người xuống, ngó qua ngó lại, có lúc còn nằm luôn xuống bãi cỏ. Tôi nằm im và chờ cho những giọt nước mắt trong lòng bắt đầu rơi. Ông nội bị trúng gió khiến cho bầu không khí trong nhà trở nên căng thẳng, nhưng đó lại là thời gian thoải mái nhất của tôi. Vẫn giống như lúc ông còn khỏe mạnh và cấm phụ nữ trong nhà không được đi Songdo, tôi ghét nhất việc chạy loăng quăng quanh làng với lũ trẻ. Cũng may là ông chỉ bị liệt cánh tay trái. Thời gian đầu bị trúng gió, sự bực bội do không thể đi lại được của ông đã khiến mọi người trong nhà thật khốn khổ. Nhưng rồi ông cũng trở nên cam chịu và cố tìm ra những thú vui nho nhỏ cho riêng mình. Đó chính là việc gom những đứa trẻ trong làng lại và dạy chữ cho chúng. Phòng khách của nhà chúng tôi trở thành thư đường. Trong khi các chú của tôi đã tốt nghiệp ở trường tiểu học chế độ bốn năm và điều đó được coi là sự thay đổi theo làn sóng giáo dục mới, thì ở nơi đây, vốn là một vùng đất truyền thống, nên mọi thứ đều thay đổi rất chậm chạp và mọi người vẫn sùng bái Hán văn, coi đó là “chân thư”. Chữ Hàn vì bị gọi là “ngạn văn” nên bị coi thường, ngay cả cái sự dễ học của nó cũng bị người ta xem thường luôn. Thư đường của ông nội lúc nào cũng nhộn nhịp. Không chỉ ở thôn Parkjeok mà cả những nhà ở phía bên kia quả đồi nữa, họ cũng gửi con đến nhà chúng tôi học. Phòng khách cả ngày không lúc nào ngừng ra rả tiếng đọc bài. Bỗng dưng thái độ của người trong làng đối với nhà chúng tôi cũng thay đổi, khác với khi xưa, lúc ông nội luôn tỏ ra hơn người. Thậm chí, tôi còn cảm nhận được sự kính nể của những người già trong làng dành cho cả tôi. Rồi một hôm, ông nội gọi tôi vào thư đường. Từ hôm đó, tôi cũng bắt đầu phải học một nghìn chữ Hán. Cũng may là cuốn sách ông giao cho tôi có viết kèm chữ Hàn ở bên cạnh. Trước khi biết chữ Hàn bị coi là “ngạn văn”, tôi đã được học đến một nửa rồi. Mẹ đã dạy cho tôi và cái việc học ấy diễn ra một cách thụ động. Mẹ thức cả đêm để học, vì thế tự nhiên tôi cũng bị buộc phải học theo. Ở làng này, so với những người phụ nữ khác, mẹ tôi cũng thuộc vào hàng biết chữ ít nhiều nên thường được họ gửi gắm nhờ viết thư hộ. Họ thường đến nhờ mẹ viết thư vào những lúc đêm muộn. Nhiều khi đang ngủ, chợt tỉnh giấc, tôi trông thấy mẹ ngồi dưới ánh đèn dầu leo lắt, tay cầm bút viết, tấm giấy xổ dài ra phía trước. Lúc lúc lại thấy một người đến và hình như họ đều biết tranh thủ những lúc mẹ tôi rảnh tay. Có lần ai đó nghe mẹ đọc thư xong, họ bất ngờ kéo vạt áo lên chùi nước mắt. Có người còn khóc ngất như một người bị mất trí. Ngồi bên cạnh những người phụ nữ ấy, thái độ của mẹ thật nghiêm túc và giọng nói thật cứng cỏi. Những lúc như thế, tôi thấy mẹ rất khác và có cảm giác e sợ xen lẫn với tự hào đến bồi hồi trong lồng ngực, để rồi đến sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi lại thấy mình như vừa trải qua một giấc mơ. Mẹ tôi tỏ ra hơn người vì biết đọc và viết được ngạn văn, song thực tế, hiểu biết của mẹ về chữ Hàn thực ra lại vô cùng ngây ngô, ngây ngô đến độ mông muội. Sejong Đại Đế là người tạo ra chữ Hàn, điều đó thì mẹ biết. Nhưng theo mẹ, cái việc tạo ra chữ Hàn ấy lại là do trong lúc đi vệ sinh, Ngài nhìn qua khung cửa và đã chợt nảy ra sáng kiến sáng tạo ra chữ Hàn. Có thể do chữ Hàn được gói gọn trong một ô giống như các ô trên khung cửa nên người ta đã nghĩ như vậy chăng? Mẹ luôn nhắc đi nhắc lại một điều rằng thật ngu dốt nếu phải mất quá nhiều thời gian cho việc tiếp thu thứ chữ dễ học ấy. Tôi cũng đã tưởng như vậy và phải đến sau ngày giải phóng, lúc ấy tôi mới biết chữ Hàn không phải là “ngạn văn”, mà là chữ viết Hangul đáng tự hào của dân tộc, đồng thời Sejong Đại Đế cùng với các học giả của mình đã phải lao tâm khổ tứ biết bao mới sáng tạo được ra thứ chữ ấy. Bị ám ảnh bởi câu nói chỉ có kẻ ngu dốt mới không tiếp thu được ngay ấy nên lúc nào tôi cũng học thuộc làu những chữ ka, kya, ko, kyo mà mẹ viết. Nhưng tôi không thể hiểu được nghĩa của chúng. Tôi cũng chẳng biết phải làm sao để ghép các chữ ấy lại thành một câu có nghĩa, mà trong nhà cũng chẳng có sách vở nào để có thể thực hành được. Ở phòng chúng tôi cũng có vài cuốn truyện do chính tay mẹ chép lại, nhưng từng câu từng câu trong ấy cứ ngoằn nghèo như dòng nước chảy, nó khác hẳn với những chữ ka, kya, ko, kyo mẹ viết một cách nắn nót; nên đối với tôi, nó hoàn toàn xa lạ, giống như một loại chữ viết của một đất nước nào đó xa xôi. Một chữ, tôi cũng chẳng đọc nổi, huống hồ là hiểu cả nội dung. Sau khi mẹ lên Seoul, nếu bà nội không thi thoảng nhắc chữ ga mà thêm gi-yeok ở dưới sẽ thành gak, thêm ni-un sẽ thành gan thì chắc là tôi đã quên sạch tất cả. Chẳng hiểu mẹ tự tin hay tự đắc đến cỡ nào mà dạy cho có vài chữ đã đòi tôi phải biết hết, và mặc nhiên nghĩ rằng tôi đã biết hết. Tôi chẳng còn cách nào, đành giả vờ như biết hết. Chỉ đến khi học một nghìn chữ Hán, lúc đọc theo ông nội, nào là “thiên”, “địa”, “nhân”..., thì cái vốn ngạn văn lửng lơ của tôi mới dần được vỡ ra. Hóa ra những chữ nhỏ viết bên dưới các chữ Hán chính là âm của chúng. Lúc ấy, tôi mới bắt đầu thấy thú vị với việc đọc các chữ Hàn. Thật đúng là một công đôi việc. Hai thứ chữ khác hẳn nhau, vậy mà lại có thể nhìn trộm được chữ này và đọc được chữ kia, vì thế lúc nào tôi cũng được khen là đứa chỉ cần ông dạy cho một lần là không bao giờ quên. Khi ấy, còn có cả một anh đi cày cho nhà người khác, anh này trông thật ra dáng, sắp lấy vợ đến nơi rồi mà còn không thuộc được chữ nên đã bị ông tôi phạt đánh vào bắp chân, vừa phạt ông vừa lấy tôi ra làm gương. Tôi phổng mũi đấy nhưng cũng thấy lo lo, vì khi học xong một nghìn chữ thì sẽ chuyển sang sách mới, mà sách ấy thì không có phiên âm bằng chữ Hàn ở bên cạnh. Và chắc chắn lúc đó, cái sự thông minh của tôi sẽ bị lật tẩy. Nhưng rồi thư đường của ông nội cũng không duy trì được lâu. Lại một lần nữa ông bị trúng gió. Lần trúng gió này không trớ trêu như lần ngã ở sau nhà trước đó, nhưng lại hết sức bất hạnh, bởi nó đã lấy đi tất cả mọi uy phong của ông tôi. Tưởng rằng ông gần như đã bình phục, vậy mà giờ, tay phải và chân phải của ông lại run lẩy bẩy, đến cả việc đi vệ sinh sau nhà, ông cũng không làm nổi; bàn tay cầm thìa cầm đũa cũng run rẩy làm cho nước canh cứ thể chảy ròng ròng. Cả lúc ông cất tiếng nói, nước dãi cũng chảy lòng ròng nên lúc nào trên đầu gối ông cũng luôn có sẵn một cái khăn bông để thấm. Một ngày có đến vài lần, ông nội cất tiếng gọi tôi bằng thứ giọng nói run rẩy nhưng vẫn có gì đó thật sang sảng để sai vặt hoặc kiếm người trò chuyện. Dù hẵng còn bé nhưng tôi vẫn có thể nhận thấy ông thật tội nghiệp và không đành lòng trông thấy ông như vậy. Ông ngồi lặng thinh một chỗ, rồi dường như không còn chịu đựng nổi hoặc phát cáu lên, lúc ấy, ông mới cất tiếng gọi tôi. Có lúc ông nội còn mài mực và viết thư. Ngón tay cầm bút cứ run lẩy bẩy, phải lâu lâu mới vạch xong được một chữ, nên chỉ để lại toàn những nét bút nguệch ngoạc. Không thể đọc được đó là chữ gì, thậm chí đôi khi tôi còn có ý nghĩ thầm kín rằng có khi ông cố tình làm vậy để bắt tôi ngồi bên cạnh mài mực. Ở nhà này, chỉ có ông viết thư và cũng là người duy nhất nhận thư. Thường là thư hỏi thăm của mẹ và anh tôi, bên cạnh đó cũng có nhiều thư được gửi đến từ những nơi khác nữa. Cứ bốn ngày một lần, nghiễm nhiên phòng khách nhà chúng tôi trở thành nơi dừng chân của người đưa thư. Cho dù không có thư đến thì ông ấy cũng ghé qua để xem có thư cần gửi đi hay không. Khi ấy, nếu có thư cần gửi thì chỉ cần giao cho người đưa thư là xong. Ông nội mong ngóng lắm. Mỗi khi người đưa thư đến nhà, ông đều vô cùng hớn hở, và rất thích giữ lại để trò chuyện. Lần trúng gió thứ hai này lại càng khiến ông thêm như vậy. Những câu chuyện của người đưa thư về các làng đã đi qua còn phong phú hơn nhiều so với những bức thư trong cặp của ông ấy. Vừa khi ông nội cất tiếng mời người đưa thư vào ngồi nghỉ ở thềm phòng khách, tôi đã chạy ngay xuống nhà dưới và đánh tiếng để người ở dưới bếp chuẩn bị thứ gì đó ngon ngon cho ông đãi khách. Đó cũng chính là một sự giao ước không lời giữa ông và tôi. Mỗi lần như thế, ông tôi lại âu yếm nói: “Chó con, đúng là thấu rõ cái dạ của ông”. Ấy vậy mà tôi lại thấy ghét kinh khủng cái lúc ông nội đưa cho mảnh khăn đã bị nắm lại giống như hột dẻ luộc hay mẩu bánh bột gì đó. Chiếc khăn dùng để thấm nước miếng hay nước canh nên lúc nào cũng ướt nhoẹt và còn bốc cả một thứ mùi chua lòm. Cũng có lần tôi bị ăn mắng vì không làm được việc ông nội sai bảo. Lần ấy, ông gọi gấp lắm, tôi nghe thấy, chạy đến thì thấy lửa trong lò sưởi đã bị tắt ngóm. Ông không châm thuốc được nên bảo tôi quẹt diêm, mà tôi thì từ trước đến giờ chưa bao giờ quẹt diêm cả. Vả lại, ở nhà này, dù không đến mức con dâu bị đuổi khỏi nhà vì vô ý làm lửa tắt ở bếp lò như những câu chuyện ngày xưa, nhưng lò than trong nhà lúc nào cũng đỏ lửa, kể cả khi trời nóng, nên chẳng bao giờ cần đến những thứ như diêm đuốc ấy cả. Ngay cả việc người khác đánh diêm thế nào, tôi còn chưa được chứng kiến thì làm sao có thể tự đánh diêm được? Thấy tôi phụng phịu chực khóc, ông bèn bảo tôi cầm lấy hộp diêm rồi tự mình cầm que, mấy lần định quẹt, nhưng rồi tay run nên ông đành chịu thua. Dáng vẻ của ông nội lúc đó thật tội nghiệp làm sao và đã khiến tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ. Ông chẳng để tâm đến điều gì ngoài việc phải hút bằng được điếu thuốc và lần này, ông lại cầm lấy hộp diêm và bảo tôi quẹt thử xem có được không. Cho dù tôi có cố quẹt lên được ngọn lửa đi chăng nữa thì lúc ngọn lửa tóe lên, tôi cũng sẽ vứt nó đi ngay. Mà nếu như vậy thì người phải ngồi một chỗ không đi lại được là ông nội sẽ bị lửa thiêu cháy mất. Chỉ nghĩ đến đó thôi, tôi đã thấy sởn hết da gà. Tôi sợ và òa khóc nức nở như thể mình đã gây ra việc đó rồi vụt chạy ra khỏi phòng khách. Ngày ấy, tôi quả là một đứa trẻ hay khóc nhè. Nhưng việc sợ lửa của tôi có nguyên do của nó. Tôi từng nghe mọi người kể rằng trước đây, tôi suýt nữa thì đã làm cháy nhà. Ngày ấy, anh tôi còn đang đi học ở trường tiểu học phía bắc Gaeseong. Có lần, anh về, đem theo chiếc kính lúp. Chiếc kính lúp ấy có cái gọng đen sì, lại còn gắn với tay cầm, có lẽ đó là bài tập của môn Vật lý. Tôi thấy hứng thú vô cùng, bởi lẽ mỗi khi ghé mắt nhìn qua cái mắt kính tròn vành vạnh ấy, hai mắt của anh tôi chợt mở to như hai mắt con bò vàng, còn ngón tay của tôi thì dày như ngón tay của mẹ. Thấy vậy, anh liền cho tôi xem một trò thú vị hơn thế. Đó là trò dùng kính lúp gom ánh sáng tập trung lại rồi đốt giấy, trò ấy thật thú vị. Tia sáng mặt trời xuyên qua mắt kính, được đốt nóng lên từ từ, gom lại một chỗ và chợt lóe lên tia sáng một cách kỳ quái như hai mắt mèo ẩn trong bóng đêm. Thế rồi bất chợt có một làn khói mỏng bốc lên, tạo thành lỗ nhỏ trên tờ giấy. Lỗ nhỏ mỏng như sợi ớt đỏ rực bỗng liếm lấy cả tờ giấy. Tôi nín thở theo dõi và bụng thót lại, cảm thấy mót đi tiểu một cách lạ thường. Đêm đó, tôi đã tè dầm ra giường. Cho đến giờ, tôi vẫn còn tin lời nói của người lớn rằng trẻ con nếu nghịch lửa thì sẽ bị đái dầm. Đến đó thì tôi nhớ rất rõ, còn sau đấy, việc tôi suýt nữa thì gây cháy nhà như mọi người kể lại thì tôi không tài nào nhớ nổi. Người lớn kể rằng hôm ấy, vào đúng mùa gặt, tôi đã trốn trong đống rơm chất trong nhà kho dùng để lợp mái nhà chơi trò kính lúp, nên ngọn lửa đã bén vào rơm và gây ra cháy. Đó là cái nhà kho trống hoác, không có cửa, dùng để gom ớt hay ngũ cốc phơi ở phía sân đối diện với hiên phòng khách khi bất chợt có cơn mưa rào ập tới. Lúc ấy, có ai đó ở nhà bên cạnh đi gánh nước ở cái giếng gần đấy đã phát hiện ra ngọn lửa vừa mới kịp bén nên đã lấy nước dập ngay đi. Có lẽ nào một sự kiện ghê gớm liên quan đến lửa, và suýt nữa thì làm cháy nhà ấy, lại có thể dễ dàng bị xóa nhòa trong ký ức như thế? Mặc dù luôn tin tưởng vào trí nhớ của mình, nhất là những ký ức về thời thơ ấu, nhưng cứ mỗi khi nghĩ đến điều đó, tôi chỉ biết lắc đầu hoài nghi: liệu có phải là câu chuyện người lớn tự thêu dệt ra để ngăn tôi không được nghịch lửa nữa hay chăng? Dù gì thì ý nghĩ suýt nữa gây cháy nhà cứ đeo bám trí nhớ của tôi một cách dai dẳng suốt một khoảng thời gian dài. Cho đến tận lúc học xong tiểu học, tôi vẫn còn cảm giác dè dặt với việc đánh diêm châm lửa. Nhưng có lẽ việc không châm được lửa cho ông nội hút thuốc lúc đó là ký ức buồn thảm nhất. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ sự thất vọng ê chề trong tôi khi cố thoát ra khỏi nỗi ám ảnh về lửa để gắng giúp ông tôi mà không được. Tôi tự trách mình sao lại lóng ngóng, hèn nhát đến thế...? Hàng loạt những suy nghĩ mâu thuẫn chồng chéo chợt ùa về trong tôi. SEOUL XA XÔI L ần trúng gió thứ hai của ông nội đã khiến bầu không khí trong nhà trở nên u ám như đang bị một đám mây đen bao phủ, đến cả đứa bé con như tôi cũng nhận thấy điều đó. Vợ chồng chú út cũng kéo nhau lên Seoul. Tội của mẹ tôi lại càng to hơn. Mẹ là người đầu tiên mở đường lên Seoul và quả thực mẹ cũng thật giỏi giang. Dường như cơn giận của ông bà nội cũng đã nguôi ngoai phần nào. Có lẽ đúng ra, đó là một sự chấp nhận hơn là sự nguôi ngoai. Mùa hè năm ngoái, mẹ cho anh tôi ăn diện thật ra dáng rồi dẫn về quê. Những ngày ở quê, mẹ rất vui vẻ và lúc nào cũng tỏ ra hãnh diện vì phải học giỏi lắm, anh tôi mới có thể theo được trường công lập ở trên đó. Chỉ cần có tấm bằng tốt nghiệp ở đấy thì việc xin vào Phủ toàn quyền hay bộ ngành nào đó làm việc sẽ chẳng có khó khăn gì. Thật lòng, nhà chúng tôi ở quê cũng chỉ là một gia đình nhà nho còn rất u muội. Nói ra thì hơi xấu hổ, nhưng ông nội tôi chỉ biết tỏ vẻ ta đây thuộc tầng lớp lưỡng ban, chứ chẳng ý thức được cái gọi là tinh thần tự hào dân tộc hay ý thức thời đại gì gì đó. Việc làm ra vẻ lưỡng ban của ông thật ra chỉ là sự xem thường các lưỡng ban cấp thấp hơn. Còn về trách nhiệm của một lưỡng ban, đó chỉ đơn giản là sự bảo thủ đối với việc hôn sự của con cái. Ông chỉ chấp nhận làm thông gia với gia đình lưỡng ban môn đăng hộ đối với nhà chúng tôi. Dù xem trọng hay xem thường người khác, câu kết luận ngắn gọn của ông vẫn là: “Nòi nào giống nấy, cốt cách không thể lẫn được”. Lối tư duy nửa vời của một lưỡng ban ấy đã dẫn đến suy nghĩ rằng cơ quan của Nhật Bản dù sao vẫn là một nơi quan trọng, và việc đi làm ở đó cũng giống như được làm quan vậy, hơn thế nữa, lại có thể mơ rằng mai này, đứa cháu đích tôn sẽ làm rạng danh tổ tông. Đến cả ông nội còn nghĩ như vậy thì liệu có ai trong nhà dám coi thường mẹ của đứa cháu sẽ làm rạng danh tổ tông hay không? Rồi cả việc chú út cũng dựa vào mẹ mà kéo nhau lên hết cả Seoul nữa. Đến tận khi đó, hai chú của tôi cũng vẫn chưa có con. Từ khi chú út bỏ đi, trong nhà lại càng trở nên vắng vẻ. Tôi nghe kể rằng căn nhà này là do bố tôi dựng lên trước khi tôi được sinh ra. Căn nhà rộng rãi thoáng mát đủ không gian cho cả ba anh em cùng nhau quây quần, thờ phụng cha mẹ, sinh con đàn cháu đống, sống hòa thuận cùng nhau dưới một mái nhà. Vậy mà nhân khẩu cứ giảm dần khiến cho những khoảng trống trong nhà cứ ngày một đầy lên một cách đáng sợ. Vậy mà chẳng có gì thú vị hơn việc ngồi thu mình một xó ở bên cạnh cái cột ngoài hiên và ngóng cặp mắt lơ đễnh về phía cửa Đông, giống như hành động của một đứa trẻ mồ côi. Một lát sau, sẽ bị ai đó trong nhà phát hiện và ai cũng đều nghĩ rằng hẳn tôi đang buồn bã và cô đơn lắm. Nhất là bà nội, bà sẽ kéo tôi vào lòng, thủ thỉ: “Con chó con tội nghiệp của bà”. Hình như mọi người trong nhà đều nghĩ rằng tôi ngồi đó là để đợi mẹ. Tất cả đều nói vậy thì chắc là đúng như thế. Nhưng sự chờ đợi đó lại là một cảm giác xa lạ chưa từng có trong tôi, bởi nó chẳng thi vị như những giây phút hồi hộp ngọt ngào khi ngồi đợi ông nội. “Ngón cái và ngón trỏ của mình dính vào nhau, mẹ về đến Đồi Nongbawi”. Cho dù trò này có được thực hiện đến mấy trăm lần thì cũng chẳng bao giờ đúng, và tôi lại càng cụt hứng khi nghĩ rằng mình đang làm cái việc chờ đợi mất công. Vì thế, chỉ cần ai đó bảo: “Chắc là nó đang nhớ mẹ nên mới ủ rũ ra thế”, lập tức tôi lại òa lên nức nở như bị ai chọc ghẹo đến phát hờn. Nhưng dù có gồng mình lên để phủ nhận thì dần dần tôi cũng nhận ra rằng câu nói đó có phần đúng thì phải. Một ngày, mẹ tôi bỗng chợt xuất hiện, bằng xương bằng thịt và không cần đến trò chơi dính tay của tôi. Không phải nghỉ hè mà mẹ vẫn về không báo trước. Thấy mẹ, bỗng chốc lòng tôi trở nên nhẹ nhõm vô cùng bởi ý nghĩ rằng đúng là mẹ nhớ mình quá không chịu được nên mới về đột xuất thế này. Nhưng mẹ bảo không phải chỉ là nhớ thôi, mà còn về để mang tôi lên Seoul nữa. “Con cũng phải lên Seoul đi học chứ”. Mẹ nói như vậy. Tôi cũng chẳng biết là mình thích hay ghét nữa. Seoul chẳng qua cũng chỉ giống như một sự mơ tưởng nào đó, và tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ đi học ở đó. Bà nội là người đầu tiên biết được ý định đó của mẹ, bà kêu lên thảng thốt: “Trời đất, cả con gái cũng phải cho đi học ở Seoul từ tiểu học à?”. Và rồi trong nhà lại bắt đầu xảy ra sự náo loạn. “Chị làm gì ở Seoul mà đủ tiền cho cả nó đi học ở trên đó? Ai mà hay biết thì người ta cười cho vào mặt ấy!” Bà nội buông ra cả những lời nhạy cảm như thế, vậy mà mẹ tôi vẫn không nói gì. Thấy thế, bà lại bảo: “Bố chị ốm đau thế kia, sống được cũng là nhờ niềm vui hàng ngày được trông thấy đứa con nít ngây ngô nhắng nhít, chạy ra chạy vào ở sân ngoài kia. Chị thấy chị mang nó đi mà được sao? Chị thật là quá quắt, không thể nhịn nổi nữa rồi”. Bất chấp cả những lời tuyệt tình như vậy, mẹ vẫn không hề xoay chuyển. Bà nội lại quay sang tôi: “Con thích ở với bà nội hay với mẹ hơn? Nói mau, con này. Thích bà hơn thì mau nói với mẹ là con ở với bà nội. Mau lên”. Lúc ấy, tôi chỉ thốt ra được mấy từ: “Con không biết, con không biết” và òa khóc nức nở. Đầu óc trẻ con không hiểu được tại sao người lớn lại như thế. Ngay cả sau này khi trưởng thành rồi, mỗi khi nhìn thấy ai đó hỏi con mình những câu đại loại như: “Con yêu mẹ hay yêu bố?”, tôi lại thấy khó chịu không tả được. Người dập tắt cơn hỏa hoạn chẳng có tác dụng ấy là mẹ tôi. Thật ra mẹ cũng không có thời gian để làm việc đó. Mẹ chẳng thương thảo với ai cả, ngay với chính tôi, mẹ cũng vờ như đang chải đầu, rồi cắt phăng mái tóc dài của tôi. Cho đến trước lúc bị cắt, tôi vẫn để tóc tết jongjongmeori như bao đứa con gái khác ở trong làng. Kiểu tóc jongjongmeori của lũ con gái chúng tôi là kiểu tóc trước khi có thể tết thành bím dài, vắt ra phía trước. Tóc được chia ngôi đến đỉnh đầu, tết thành các bím, rồi chập lại và thắt bằng những sợi chỉ màu hay miếng vải. Tết tóc rất mất thời gian và nếu không được chăm chút hằng ngày, mái tóc sẽ trở nên bù xù, vì vậy, chỉ cần nhìn vào đầu tóc là biết đứa trẻ đó ở nhà được chăm chút như thế nào. Tóc của tôi được cô tôi thường xuyên chăm chút cho mãi tận đến khi cô đi lấy chồng. Sau này, thím tôi tiếp tục công việc ấy và ngày nào thím cũng chải đầu, tết tóc cho tôi, bởi vậy mà lúc nào tôi cũng thấy tự hào về mái tóc của mình. Từ bé, hễ có ai khen tôi xinh xắn, dễ thương, là họ đều bảo đó là do mái tóc, vì thế, trong những thứ tôi sở hữu thì mái tóc luôn là thứ khiến tôi cảm thấy tự tin hơn cả. Vậy mà mái tóc ấy lại bị mẹ lấy kéo cắt phăng một cái, đã thế lại còn cắt phía sau cao vổng lên, để lộ ra cái gáy trắng hếu. Mẹ bảo những đứa trẻ ở trên Seoul đều như thế và không cho tôi cơ hội để cự lại. “Trời đất ơi, loạn hết cả rồi.” Bà nội kinh ngạc không thốt thêm được lời nào. Tôi thì khổ sở với cái đường xoẹt ngang trên trán và cái gáy trống huếch ở đằng sau. Tôi đánh liều ra ngoài xem phản ứng thế nào thì y như rằng, lập tức đã phải hứng ngay những lời trêu chọc của bọn trẻ: “Lêu lêu, trông khiếp quá, cứ như là có cả mặt ở đằng sau gáy ấy”. Tóc ngắn ngày đó đúng là nếu cắt quá cao sẽ trông như có mặt ở đằng sau gáy. Thế nên tôi cũng không cảm thấy bất ngờ mà cũng chẳng giận gì bọn trẻ. “Bọn trẻ ở Seoul đều để tóc ngắn như thế này đấy. Xí, cái này mà cũng không biết”. Nhưng rồi tôi cũng bị lũ trẻ “cái này mà cũng không biết” ấy xa lánh. Cái mái tóc ngắn của tôi làm cho tôi muốn rời xa bà nội, thậm chí còn muốn thoát ngay khỏi chốn quê mùa này. Tự dưng tôi muốn đi khỏi chốn này mau mau với mẹ. Cuối cùng, tôi cũng bước vào phòng khách để chào từ biệt ông nội. Ông dường như đã biết tất cả nên chẳng thèm nhìn tôi, cứ quát um lên: “Hỏng, hỏng hết cả rồi”. Rồi ông lần tay sờ cái túi con đeo bên mình, đoạn ném một vốc toàn đồng bạc năm mươi xu cho tôi. Đã cho thì cho, sao ông lại phải ném vãi ra như thế? Dù thấy thật mất thể diện nhưng tôi vẫn cúi xuống lấy tay chặn những đồng bạc đang xoay tròn dưới nền nhà, nhặt lấy chúng, rồi cúi đầu lạy ông để chào từ biệt. Có lẽ tâm trạng buồn bực của ông nội mới cần được an ủi hơn là cái sự bẽ bàng của tôi. Lúc đó, ngộ lỡ ông tôi để lộ ra sự yếu đuối của mình thì chắc tôi đã òa khóc nức nở mất rồi. Nhưng mà không, ông chỉ cáu gắt và đuổi tất cả ra ngoài. Mẹ tôi đã khiến những người lớn trong nhà hết sức thất vọng và buồn bực. Nhưng dù sao mẹ cũng vẫn là dâu trưởng và là mẹ đứa cháu đích tôn yêu quý của nhà này. Mẹ cũng là một phụ nữ can đảm khi lần đầu tiên dám vượt qua mọi rào cản, chỉ với hai bàn tay trắng, dấn thân lên Seoul, mảnh đất chỉ cần nhắm mắt vào là đã có thể cảm nhận được hơi thở gấp gáp. Người lớn trong nhà không ưa nhưng cũng không coi thường mẹ tôi được. Nhìn vào đống đồ đạc mẹ gói ghém ở ngoài sân thôi cũng đủ hiểu. Mẹ đang thồ cả người lẫn gạo, đậu, bột ớt trên cái xe kéo được ghép từ các khúc gỗ. Bà nội cũng thay quần áo để đi tiễn chúng tôi. Quãng đường hai mươi dặm đi đến Gaeseong sao mà xa đến vậy. Hết quả đồi này lại sang cánh đồng khác. Ở đâu có núi và cánh đồng thì có làng của những người sống ở đó. Có những ngôi làng rộng hơn và nhỏ hơn thôn Parkjeok. Làng nào cũng có vị trí và hình dáng như nhau, nên chẳng có gì mới mẻ và thú vị. Các ngôi làng cũng vẫn là một phần của thiên nhiên như tôi hằng trông thấy. Đến quả đồi thứ tư và cũng là quả đồi cuối cùng, được gọi là Đồi Nongbawi, dốc một cách bất thường. Cũng có thể là do tôi mỏi chân quá. Mẹ động viên tôi cố lên, chỉ cần vượt qua quả đồi này là tới Songdo. Tôi thở hổn hà hổn hển, còn mẹ thì đi đằng sau đẩy tôi lên. Mệt và miệng thì khô cong lại, nhưng cuối cùng tôi cũng đặt chân được lên đỉnh đồi. Khung cảnh sinh hoạt dưới chân tôi trải rộng trước tầm mắt. Đây chính là Songdo mà tôi vẫn hằng được nghe kể. Tôi cảm thấy ngỡ ngàng. Trước mắt tôi là một thành phố lấp lánh ánh bạc. Từ con đường đến các mái nhà, tất cả đều sáng lóa. Sau này tôi mới biết, đặc trưng của vùng Gaeseong là tất cả các tòa nhà đều được xây theo kiểu mới; ví dụ như trường cấp ba Songdo hay trường cấp ba nữ Hosudon đều được ốp đá hoa cương, nền đường lại là cát vàng nên cả mặt đường và mặt đá đều ánh lên một thứ ánh sáng trắng như vậy. Hóa ra ở đây, người ta sống như thế này. Tôi không khỏi sững sờ trước vẻ tráng lệ và uy nghiêm của những thứ do con người tạo ra và chỉ còn biết ném cái nhìn kinh ngạc về phía đó. Đúng lúc ấy, tại một góc tòa nhà hình vuông bừng lên một vừng sáng như có lửa cháy. Nó khác hẳn với bất kỳ ánh lửa nào tôi từng nhìn thấy. Ánh sáng đó không phừng phừng như ngọn lửa đang hừng hực cháy, mà chỉ ánh lên những tia sáng rực rỡ hơn tia lửa một chút xíu. Tôi thấy sợ nên túm chặt ngay lấy mẹ. Mẹ bảo tôi sao mà nhát thế, đó chỉ là hiện tượng ánh sáng mặt trời phản chiếu qua những tấm kính thôi. Ừ nhỉ, đúng là ánh sáng được tạo ra do những tia nắng mặt trời bị chặn lại. Mẹ tưởng tôi không biết cửa kính là gì nên đã phải giải thích thêm rằng ở những nơi như Songdo hay Seoul, nhà nào cũng có cửa kính như thế. Ở thôn Parkjeok cũng có một thứ được làm bằng thủy tinh. Đó là chiếc bình mà người lớn gọi là bình rượu gạo, chiếc bình đó cũng bằng thủy tinh trong suốt, được đặt ở phía dưới nền nhà, bên trong đựng ít dầu hỏa để khi cần thì lấy ra dùng cho tiện. Vậy mà nơi đây, người ta lại có thể sống được trong các ngôi nhà với những chiếc cửa sổ thủy tinh có thể nhìn thấu được bên trong ấy. Thật kỳ lạ và cũng thật đáng sợ. Cảm giác choáng ngợp khi lần đầu tiên đặt chân tới Songdo ấy có đến một nửa là sự bất an. Nơi tôi đang đứng hình như không phải là Đồi Nongbawi nữa, mà có vẻ như tôi đang chênh vênh giữa cái ranh giới chia đôi hai nửa thế giới đối lập. Trong tôi dường như có hai nửa, một nửa muốn dấn thân vào thế giới còn nhiều điều chưa biết, nhưng nửa còn lại thì chỉ muốn kéo tôi lùi về phía sau. Tôi nghe trống ngực mình đập thình thịch. Đó cũng là thứ âm thanh của thế giới yên bình và êm ả đang vỡ tan trong lồng ngực, một thứ cảm xúc hồi hộp của bản năng khi đứng trước ngã ba đường, phải lựa chọn cuộc sống thích nghi và đấu tranh để sinh tồn. Chúng tôi dừng chân nghỉ nơi sườn dốc. Ở đoạn giữa có một loạt các tảng đá to hình lập phương giống như những chiếc rương đựng đồ, chất thành khối. Chắc vì thế nên đồi mới có tên là Đồi Nongbawi * chăng? Dòng suối khoáng chảy róc rách giữa các khe đá. Chúng tôi ngồi xuống một tảng đá dài trông giống như chiếc hòm đựng tiền và làm dịu cơn khát bằng nước suối. 7 Trong tiếng Hàn có nghĩa là Đồi Đá Rương. Cuối cùng thì cũng tới Songdo. Chúng tôi băng qua đường sắt, đi qua con đường với những ngôi nhà ngói khang trang mọc san sát nhau, rồi rẽ vào một lối đi được lát gạch rắn chắc với những ngôi nhà ba bốn tầng vuông thành sát cạnh, tầng nào cũng có gắn cửa kính. Đây là lần đầu nên cái gì với tôi cũng lạ. Tôi đã tự nhủ với mình rằng đừng có ngạc nhiên và cũng đừng có tỏ vẻ ngơ ngác. Mẹ cũng đã dặn tôi trước như vậy rồi. Vẻ hoạt bát của mẹ tôi trên đường phố Songdo không hề lạc lõng, mà trái lại, còn có gì đó thật cuốn hút như một hình mẫu mà tôi cần phải noi theo. Đứa con gái nào tôi gặp ở đường cũng đều để tóc ngắn, lộ ra cái gáy trắng hếu đằng sau giống hệt tôi. Thấy vậy, tôi lại càng thêm nể phục mẹ. Thi thoảng cũng có những đứa để tóc tết bím đằng sau, song chẳng có đứa nào để bím dài cả. Thế rồi chúng tôi đến gần ga Gaeseong tráng lệ, phía trong nhà ga thật ồn ào và náo nhiệt. Ngộ nhỡ mà bị lạc mất người lớn ở những chốn như thế này thì biết làm thế nào nhỉ? Đó là điều chưa từng có trong trí tưởng tượng của tôi nên cảm giác lo lắng ấy thật mới lạ. Mẹ tôi chất từng thùng đồ xuống gần chỗ bán vé rồi tất tả chạy đi mua vé. Còn tôi, lúc ấy, chỉ biết túm chặt lấy vạt áo của mẹ, không dám rời tay. Đưa vé xong, chúng tôi đi ra bên ngoài và đập vào mắt chúng tôi là một chiếc cầu thang rộng dẫn lên không trung. Mẹ bảo đó là cầu vượt. Và mẹ cũng không quên tự hào nhắc tới chiếc cầu vượt ở Seoul, nó rộng và đông gấp nhiều lần, cầu vượt ở đây không thể so bì được. Mặc dù chúng tôi có nhiều đồ đạc nhưng lúc đó vẫn chưa phải là lúc vất vả nhất. Mẹ vừa đội vừa xách. Bà nội cũng mua vé vào cửa để vào theo, bà cũng đội đồ ở trên đầu. Tôi thì xách cái gì đó và cắm đầu cắm cổ chạy theo sau. Mẹ tôi chạy nên người khác cũng chạy. Tôi cũng chạy mệt đứt cả hơi. Rồi tự lúc nào, chúng tôi cũng leo được lên một toa của con tàu to và dài như con rắn hổ mang với thân mình gắn đầy cửa kính. Bà nội cũng lên theo chúng tôi để giúp hai mẹ con chất mọi thứ lên khoang đựng đồ ở phía trên ghế ngồi. Xong đâu đấy, bà lủi thủi một mình bước xuống khỏi toa tàu. Rồi bà nội đứng ngay chỗ cửa kính nơi tôi ngồi. Hình như bà nói gì đó với tôi mà tôi chẳng nghe được. Rất nhiều người đi tiễn đứng ở bên ngoài cửa sổ. Trong số ấy có bà tôi. Trông bà thật nhỏ bé và quê mùa. Dáng vẻ quê mùa ấy dường như đang níu tôi lại. Chiếc cửa sổ bằng kính cũng thật kỳ lạ. Nó khiến tôi có thể trông thấy những giọt nước mắt nghèn nghẹn đang dâng lên nơi khóe mắt của bà. Tôi nhớ đến vòng tay ấm áp mỗi khi bà ôm tôi vào lòng, nhớ câu nói: “Cha bố con chó con của bà”. Bất giác, tôi chợt muốn vỡ òa ra. Tôi tựa hẳn người vào cửa sổ. Lúc ấy, dù cho tôi có cố áp chặt má vào tấm cửa kính thế nào cũng không thể lại gần bà nội được. Con tàu cất lên những tiếng hú vang thăm thẳm và bắt đầu chuyển bánh. Đoàn người tiễn cũng chuyển bước theo, rồi xa dần, xa dần. Tôi không nhìn được bà tôi đang chạy theo hay đứng yên một chỗ. Tự dưng hai mắt tôi nhòa đi. Tôi vẫn thường khóc to thành tiếng mà chẳng có giọt nước mắt nào. Vậy mà lúc này, lần đầu tiên nước mắt lại trào ra thành từng giọt, lăn dài trên gò má mà tôi chẳng thể nấc lên được một tiếng. Một cảm giác khó chịu, day dứt, như đang bị xé ra làm đôi. Cuối cùng cũng đến được Seoul. Hai mẹ con chúng tôi sải những bước nặng nề nối theo đoàn người bước lên chiếc cầu vượt quả là rộng và đông đúc gấp mấy lần ở cái ga Gaeseong ấy. Cũng bởi do chúng tôi mang nhiều đồ đạc quá. Những người khác đều nhờ những người mặc đồng phục màu tím than, đầu đội mũ đỏ, khuân đồ cho. Còn mẹ tôi thì một mình kéo lê tất cả các bọc đồ như một người vừa mới tỉnh dậy sau giấc mộng chẳng lành. Phải một lúc lâu sau, chúng tôi mới qua được chỗ soát vé và bước ra ngoài phía sảnh ga rộng thênh thang. Đúng lúc ấy, mẹ tôi trút từng bọc đồ xuống rồi từ từ ngồi xuống để nghỉ. Rất nhiều người đi ngang qua, họ dừng lại trước mặt chúng tôi rồi lại đi tiếp. Tôi mệt đến mức chẳng có cảm giác nơi này là Seoul nữa. Những người phu khuân đồ trong những bộ đồ bạc màu cất tiếng rao mời như những đám ăn mày, họ thay nhau lại gần chúng tôi. Họ giành nhau khuân đồ cho chúng tôi. Có người chẳng hỏi câu nào, cứ tự ý bê đồ của chúng tôi đi. Nhưng mẹ tôi cương quyết rằng sẽ đi tàu điện và đuổi hết bọn họ đi. Bất chợt tôi trông thấy chiếc tàu điện màu xanh, ngắn hơn cả một toa tàu hỏa, trên lưng có gắn một chiếc cần, nó đang chạy tới gần chúng tôi. Chiếc cần nối với đường ray chạy trên không trung, phát ra những đốm sáng xanh lè, khiến tôi cảm thấy sợ hãi hơn là thích thú nếu phải leo lên nó. Mẹ đã cương quyết từ chối như thế mà vẫn có những người phu khuân đồ ngó qua ngó lại, bởi họ trông thấy mẹ cứ ngồi yên vị ở đấy. Rồi mẹ tôi cũng gọi một người trong số ấy và bắt đầu mặc cả. Không biết mẹ tôi dựa vào tiêu chí nào mà lựa chọn người ấy, điều đó nằm ngoài khả năng lý giải của tôi. Mẹ hất tay chỉ sang phía bên kia đường, hỏi người ấy rằng đi ra ngoài Seodaemun đằng kia thì hết bao nhiêu. Người ấy nói bao nhiêu đó, mẹ bảo không được và định dỡ hết cả đống đồ đạc không biết từ lúc nào đã được chất lên vai người phu một cách sẵn sàng ấy. Thế rồi người ấy hỏi mẹ định trả bao nhiêu. Sau một hồi trả qua trả lại, cuối cùng, mẹ con chúng tôi cũng được giải phóng khỏi đống đồ đạc và đi phía trước dẫn đường. Chúng tôi băng qua những con đường ồn ào, bụi bặm và đông đúc. Trang phục của những người qua lại trên đường cũng ám đầy màu của bụi. Mỗi khi tàu điện đi qua, dòng người bộ hành chợt rút ngắn lại và con đường cũng trở nên giống với đường ở Gaeseong hơn. Chúng tôi nhìn thấy một chiếc cổng lớn chắn ngang con đường. “Cửa Độc Lập * đấy”. 8 Công trình cổng đá lịch sử nổi tiếng của Hàn Quốc, có thiết kế giống với Khải Hoàn Môn ở Paris. Ngày 20 tháng 11 năm 1897, Hiệp hội Độc lập đứng đầu là Seo Chae-pil chủ bút tờ báo Độc lập tân văn, đã kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đóng góp và xây dựng Cửa Độc Lập như một biểu tượng cho nền độc lập vĩnh hằng của dân tộc Hàn, chấm dứt hoàn toàn sự lệ thuộc vào vương triều Mãn Thanh (Trung Quốc). Công trình được dựng lên ở phường Hyeonjeo-dong, quận Seodaemun-gu, thành phố Seoul. Đến năm 1980, cửa được di dời về phía tây bắc 70m, và hiện nằm trong công viên Độc Lập, quận Seodaemun-gu, Seoul. Mẹ chỉ cho tôi. Người phu khuân đồ thở hổn hển hỏi mẹ đã tới nơi chưa. “Đi thêm tẹo nữa thôi”. Tự dưng, tôi thấy mẹ mỉm cười một cách hết sức tự nhiên. “Hả? Tẹo là ở đâu?” “Đằng kia. Phường Hyeonjeo-dong...” Mẹ tôi chưa kịp nói hết câu thì ông ta đã dừng ngay lại rồi quắc mắt bảo mẹ đùa đấy à, ai mà lên tận đỉnh núi với vài đồng bạc ấy. Mẹ cũng không chịu thua, bảo rằng nếu mà ở chỗ đất bằng phẳng như ở dưới này thì đã đi xe điện và ung dung về tới nơi rồi, việc gì mà phải bỏ ra gấp mấy lần vé tàu điện để đi cùng về đây? Rồi mẹ bảo sẽ trả thêm ít tiền mua rượu makgeolli * và bảo ông ấy chịu khó đi thêm chút nữa. Từ lúc mẹ thốt ra ba từ “phường Hyeonjeo-dong”, trong mắt của người khuân đồ ấy chợt ánh lên một vẻ gì đó thiếu tôn trọng. Rõ ràng ông ta đang coi thường chúng tôi. Rốt cuộc, phường Hyeonjeo-dong là ở đâu mà lại khiến ông ta như vậy nhỉ? Tôi nhìn người lớn và đọc thấy tất cả những điều đó. 9 Loại rượu gạo truyền thống của Hàn Quốc, có màu trắng đục, nồng độ cồn thấp, vị ngọt hơi chua, vốn là thứ rượu giải khát ưa thích của người nông dân Hàn Quốc. Thế rồi cũng đến điểm cuối cùng của bốn làn đường tàu điện chạy theo chúng tôi. Tới đó, mẹ rẽ vào một con ngõ. Cái ngõ nhỏ ấy đột ngột biến thành một con dốc dựng thẳng đứng với những bậc thang tầng tầng lớp lớp. Đó là một con hẻm kỳ quái với những căn nhà xiêu vẹo, chúng như chực kéo nhau đổ sụp xuống và cũng gập ghềnh chẳng khác gì những bậc thang. Trước mỗi căn nhà cũng có những tấm gỗ được chắn làm cửa nhưng dường như mọi sinh hoạt trong nhà đều được phơi hết ra ngoài đường. Nước ủ từ những vũng nước tiểu trộn với cơm thừa và những cọng rau già phơi khô, rỉ xuống hai bên lối đi cầu thang làm bốc lên một thứ mùi ẩm ướt. Cuối cùng, sau bao cố gắng, chúng tôi cũng leo được lên đến đỉnh, có cả một xóm ở trên này. Chúng tôi phải lách qua con hẻm với những căn nhà chen chúc, dường như chỉ chừa lại một lối đi rất mảnh như sợi chỉ, tiếp đó lại là một lối đi dựng thẳng đứng, lần này, nó dốc hơn cả cái cầu thang lúc đầu chúng tôi đi qua. Đến đoạn giữa con dốc ấy, mẹ tôi bỗng dừng lại trước một ngôi nhà lá. Ở chỗ này không có nhiều nhà lá. Nhưng đó cũng chưa phải là nhà của chúng tôi. Mẹ tôi thuê một căn buồng bên cạnh cửa của căn nhà và trả tiền từng tháng cho họ. Tôi chợt nhớ lại căn buồng nhỏ cạnh cửa liền với phần hiên nhà ở quê. Căn buồng ấy thật nhỏ bé và đơn sơ. Đó cũng là căn buồng duy nhất có cái cửa được dán bằng thứ tranh vẽ đủ màu sắc với các hình hươu, rùa, cây trường sinh bất lão. Những người phụ nữ trong gia đình chúng tôi không phải làm việc đồng áng nên họ có nhiều thời gian để lau chùi, dọn dẹp, khiến cho những chiếc tủ đựng quần áo trong nhà thường bóng loáng một cách lạ thường. Ngay đến chiếc tủ ba ngăn mà mọi người bảo đó là đồ đạc của bà nội ngày xưa mang theo khi về nhà chồng, lớp hoa văn trang trí bằng bạc của nó đã bị bong gần hết nên chiếc tủ chỉ được kê ở đó như để làm kỷ niệm, vậy mà chất gỗ thì vẫn còn rất bóng và sáng nước. Tôi đặc biệt thích cái lọ lục bình cổ cao thân phình, nằm ở cuối góc căn phòng, nơi có chiếc tủ ấy. Cái lọ làm bằng thủy tinh xanh lục hơi mờ, rượu trong đó ngâm lâu ngày nên độc tính đã tự bay hơi, tiêu tán và để lại những vệt mờ một cách cổ kính tự nhiên. Với tôi, chiếc bình men rượu ở căn phòng ấy, với ban thờ thổ địa phía sau nhà, luôn chứa đựng một điều gì đó thật huyền bí. Mỗi khi còn thừa rượu thuốc hay rượu makgeolli, mọi người đều đổ vào chiếc bình đó để gây men, thi thoảng cũng có những chú côn trùng bay tới đậu ở đó. Bà nội bảo men rượu nhà chúng tôi ngon nhất làng và giữ cái bình men đó rất cẩn thận. Mỗi khi có ai đó đến xin một ít, bà đều từ chối, bảo rằng không cho được, vì sợ mất bí quyết vị men của gia đình. Nét mặt của bà rất nghiêm trọng nên tôi không nghĩ đó là sự keo kiệt, mà chỉ lại càng cảm thấy cái bình đó dường như có một sức mạnh huyền bí nào đó. Bỗng dưng trong tôi trào dâng một cảm xúc khó tả như mình vừa lạc bước ra khỏi xứ sở thần tiên, nơi có căn buồng yên hàn với chiếc tủ cổ kính và cái bình cổ cao ấy. Cánh cửa phòng màu gỗ tồi tàn trước mặt trở nên vô cùng xa lạ với thế giới thẩm mỹ của tôi, một thế giới vốn đã quá quen với những gì tưởng chừng như đã được an định từ nghìn năm trước. BÊN NGOÀI CỔNG THÀNH S eoul là đây hả mẹ?” Thật may là câu hỏi ẩn chứa đầy bất mãn đó của tôi đã được mẹ đáp lại là “Không”. “Ở đây, người ta gọi là ngoại thành Seoul. Sau này, anh con đi làm, kiếm được nhiều tiền, lúc ấy mình sẽ chuyển vào trong thành, sống cho đàng hoàng hơn”. Mẹ an ủi tôi bằng cách vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp ấy. Đêm hôm đó, có tiếng gọi văng vẳng, vọng tới gần cửa sổ rồi cứ thế xa dần, xa dần. “Bánh bao nóng hổi đ...â...y.” Tiếng gọi giống như tiếng rao bán gì đó, nhưng tôi cũng chẳng hỏi mẹ tiếng rao ấy có nghĩa là gì. Tôi không thấy tò mò cho lắm. Ở quê, cũng có lúc nửa đêm, tôi choàng tỉnh bởi tiếng hú của thú rừng ở bên ngoài hàng rào. Và lúc ấy, người lớn trong nhà cũng đã tỉnh dậy hết cả. “Lũ chó sói lại mò về rồi.” Bà nội lẩm bẩm một mình. Bà đã thức dậy, ngồi ở đó từ bao giờ. Hình như bà tôi lo đàn gà sẽ bị bọn sói tha đi mất. Tôi đã từng nghe tiếng hú của chó sói nhưng chưa bao giờ được tận mắt nhìn thấy chúng. Bất chợt, tôi thèm đến lạ cái cảm giác khi cố dỗ mình vào giấc ngủ trong tiếng chó sói ấy. Kể từ hôm sau đó, tôi không thể không tập làm quen với những luật lệ của cuộc sống ở Seoul. Thật ra đó không hẳn là luật lệ khi sống ở Seoul mà là luật lệ của một căn nhà ba phòng. Vừa mở mắt, tôi liền hỏi ngay mẹ tôi chỗ đi vệ sinh ở đâu, lập tức liền được mẹ nhắc nhở rằng việc đi vệ sinh ở đây là buổi sáng, phải đợi tất cả mọi người ở nhà trên đi xong thì mình mới được đi. “Nhà xí” được gọi là “nhà vệ sinh”, điều này tôi đã được học ở trên tàu. Ngày hôm qua, tôi cũng đã vào thử cái nhà vệ sinh mà mỗi lần chỉ một người vào được của nhà chủ rồi. Còn cái sự mót lắm rồi cũng phải cố mà nhịn để nhường cho những người nhà chủ đi trước ấy, hôm đó là lần đầu tiên tôi được biết. Đã thế, mẹ lại còn bồi thêm: “Con có biết lúc đem con lên đây, người trong nhà họ khó chịu thế nào không? Vì lúc đầu thuê phòng, mẹ bảo họ là chỉ có hai người thôi. Mẹ sợ nhà đó cũng có đứa con gái bằng tuổi con nên họ sẽ không thích”. Trời ạ, chuyện gì thì có thể dối trá được chứ còn chuyện con cái, tại sao mẹ lại có thể nói dối được cơ chứ? Ôi, người mẹ lúc nào cũng nghĩ mình khôn ngoan hơn người của tôi! Ban nãy, còn vừa mới được cưng nựng này nọ, giờ thì tôi như bị ngã bổ nhào từ trên tận mấy tầng không xuống đất. Tôi chợt thấy mẹ thật đáng ghét. Chính tôi mới là đứa bị lừa. Bất giác tôi muốn chạy đi tìm ông nội và bà nội để mách hay cầu cứu, nhưng hai người giờ đã ở quá xa tôi rồi. Luật lệ sống của căn nhà ba phòng không chỉ dừng lại ở cái sự nhịn đi vệ sinh. “Con không được chơi với đứa con gái nhà chủ. Trẻ con dễ làm mất lòng người lớn, nghe chưa?” “Con gái chủ nhà ăn gì, con không được nhìn nó.” “Con đừng có thích đồ chơi của nó rồi sờ mó vào đó.” “Con đừng có lên nhà trên.” Thà rằng mẹ lấy dây thừng mà trói ngoéo cổ chân tôi vào cái cột nhà còn hơn. Rốt cuộc, chẳng hiểu mẹ muốn tôi phải thế nào? Mẹ đang muốn tôi phải hành xử như đang không có mặt ở đây. Mẹ không chịu hiểu một điều rằng điều đó khó khăn thế nào với một đứa trẻ tám tuổi, vốn luôn luôn cảm thấy bị bó hẹp trong cái thôn Parkjeok chật chội, nên lúc nào cũng tung tăng chạy nhảy khắp nơi như một chú ngựa non dạn dĩ. Thích nghi với cuộc sống ở trọ đã mệt muốn chết, vậy mà tất cả chưa dừng lại ở đó. Ngày phải đến trường của tôi đã không còn bao lâu nữa. Mẹ tôi bảo vì nghèo nên chúng tôi không còn cách nào khác, phải sống ở ngoài thành, nhưng việc đi học thì nhất định phải học ở một trường tốt trong thành. Điều đó đã được mẹ tôi định đoạt từ trước. Chẳng cần phải nghe qua ý kiến hay đại loại những điều tương tự như thế của tôi. Ngày đó, trường học công lập không nằm trong hệ thống giáo dục phổ cập nên phải thi đậu mới vào được. Mà không phải muốn thi trường nào thì thi, trường nào trường nấy đã được quy định như chế độ học đúng tuyến bây giờ. Mẹ tôi chắc hẳn không thể không biết tới điều đó. Nhưng mẹ đã kịp chuyển giấy tờ ký lưu, một thứ giống như đăng ký thường trú bây giờ, về nhà họ hàng ở phường Sajik-dong. Trường học trong thành mà mẹ tôi thấy ưng hơn hết và chọn được sau khi đã tính đến cả quãng đường đi học của tôi nữa chính là trường quốc lập Maedong. Từ phường Hyeonjeo-dong đến trường phải vượt qua một quả núi. Đó là một nhánh của dãy núi Inwang. Ở lưng chừng phường Hyeonjeo-dong, leo thêm một đoạn nữa, tới bãi đất ngày xưa vốn có thành trì, sẽ gặp một con đường khá bằng phẳng thông với công viên Sajik-dong. Con đường không hiểm trở nhưng lại vắng ngắt, không một bóng người qua lại và người ta bảo ra khỏi con đường đó thì sẽ gặp khu rừng của những người bị bệnh hủi thường tụ tập ồn ào. Ngày thi tới gần, mẹ dẫn tôi đi thử con đường ấy. Vừa đi, mẹ vừa buông ra những lời mỉa mai đối với những tin đồn rợn người của thiên hạ về những người bị hủi. “Đừng có tin việc người ta nói người hủi bắt cóc trẻ con để moi gan ăn. Những người đó họ cũng là con người giống như chúng ta. Cái gì con người không làm được thì họ cũng không làm được. Chẳng có gì ngu ngốc hơn cái việc tự tưởng tượng ra những cái chẳng có thật rồi lại đi sợ chúng. Nhỡ ra gặp phải người hủi thì đừng có thất kinh bỏ trốn, hãy cứ thản nhiên đi tiếp. Đừng có ngó ngang ngó dọc, cứ thẳng đường mà đi”. Cách nói của mẹ lúc nào cũng tỏ ra chắc chắn là mình đúng đắn nên dù cho những lời ấy có đúng thật đi chăng nữa thì cũng vẫn như là đang áp đặt người khác vậy. Tôi ghét điều đó. Song, lúc mẹ nhắc đến những người hủi, tôi biết rằng trong lòng mẹ cũng không thực sự chắc chắn lắm. Mặc dù vậy, đó lại là điều tôi cảm thấy tâm đắc nhất trong tất cả những gì mẹ dạy. Bỗng chốc, việc phải đối mặt với những người hủi ấy, với tôi, chẳng còn gì đáng sợ. Kết thúc việc đi trinh sát con đường đến trường là bắt tay vào ôn thi một cách chính thức. “Rồi con sẽ làm tốt cả ấy mà”. Nói thì vậy nhưng hàng ngày, mẹ vẫn hỏi như thi thử và làm cho tôi cảm thấy khổ sở vô cùng. Viết tên, làm toán, xem đồng hồ, phép cộng, phép trừ, đại loại là những bài tập như thế. Tất cả, tôi đều làm được, nhưng việc tôi thấy ghét hơn hết đó là học thuộc lòng hai địa chỉ. Địa chỉ lúc đầu mẹ dạy cho tôi là địa chỉ phường Sajik-dong, đúng với địa chỉ mẹ đã đăng ký tạm trú. Địa chỉ đó thì tôi thuộc lòng được ngay. Nhưng nếu chỉ có vậy thì đã tốt, đằng này, hình như mẹ sợ tôi biết đâu lại có lúc lạc đường mà khai ra địa chỉ đó rồi xảy ra rắc rối. Mẹ lại tập cho tôi học thuộc lòng địa chỉ phường Hyeonjeo-dong. Địa chỉ khá dài, cả số cụm, số nhà, nhưng dù sao tôi cũng đang ở cái tuổi giỏi bô lô ba la và nhớ được bất cứ thứ gì bằng cách ám thị nên không khó lắm để học thuộc được, vậy mà mẹ lại lo lắng một cách thái quá. Chắc chắn đó là sự bứt rứt vì cái sự khai man địa chỉ khi nộp Bên ngoài cổng thành 67 hồ sơ nhập học cho tôi, nhưng rồi sau đó, thấy tôi làu làu luôn cả hai địa chỉ, mẹ lại bắt đầu thấy lo, sợ tôi sẽ viết nhầm lúc làm bài thi. Và như để làm cho bản thân mình thấy yên tâm, mẹ đã hành hạ tôi một cách vô cớ. Đang yên đang lành, mẹ bỗng nổi hứng: “Con sống ở đâu? Nhà con ở đâu? Giả sử như lúc này con đang bị lạc đường.” Lúc ấy, tôi phải trả lời bằng địa chỉ phường Hyeonjeo-dong. Có lúc mẹ lại hỏi ngược lại: “Nhà con ở đâu? Bây giờ con đang ở trong phòng thi và trả lời cô giáo.” Nếu mẹ hỏi như thế, lập tức tôi phải đọc địa chỉ giả là phường Sajik-dong. Mẹ sốt ruột vì sợ nhỡ đâu tôi lại lẫn lộn cả hai cái địa chỉ. Còn tôi thì vốn chẳng có vấn đề gì và cũng chẳng lo mình sẽ bị nhầm lẫn. Nhưng rồi đến lúc cứ bị mẹ căn vặn liên tục, đầu óc tôi thành ra mụ mẫm, thỉnh thoảng lại hồi hộp như sắp sửa trả lời sai vậy. Mọi chuyện bắt đầu rối tung cả lên. Và kết quả là tôi bắt đầu trả lời sai những câu hỏi thi thử của mẹ một cách thường xuyên. Mẹ thấy hối hận vì không dưng lại đi dạy cho một đứa ngớ ngẩn như tôi cùng một lúc hai cái địa chỉ, nên lại bắt tôi từ giờ đến lúc thi, phải quên địa chỉ phường Hyeonjeo-dong đi. Nhưng đâu phải bắt quên là có thể quên ngay được cơ chứ. Mẹ càng làm như vậy thì cái địa chỉ ấy lại càng khắc sâu thêm vào đầu óc của tôi. Sau này, địa chỉ phường Sajik-dong, rồi còn vô số địa chỉ khác ở Seoul mà tôi nhớ được ấy, tất cả hầu như đều bị lãng quên, chỉ duy nhất địa chỉ phường Hyeonjeo-dong là cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in. Rồi ngày thi tới vào giữa lúc đầu óc tôi bị lộn xộn bởi cái câu hỏi về địa chỉ chẳng biết liệu có xuất hiện hay không ở trong đề thi. Tôi mặc chiếc áo khoác in hoa màu vàng chanh, như lúc rời khỏi thôn Parkjeok, ra tiệm cắt tóc rồi mới lên đường đi thi. Mẹ cũng chẳng hỏi gì về địa chỉ này nọ nữa, thay vào đó, chỉ lấy ra ba bốn quân cờ vây, hỏi có mấy quân tất cả; sau đó, mẹ lại cho tôi xem hai bức tranh, một bức vẽ hai người là thầy giáo và học sinh, bức kia vẽ một chiếc mũ phớt và một chiếc mũ học sinh. Mẹ bảo tôi chọn chiếc mũ thích hợp cho mỗi người. Rồi mẹ lại đưa ra bức vẽ một cái ống khói có khói đang thoát ra và hỏi gió thổi từ hướng nào đến. Tôi chỉ trả lời được hai trong ba câu. Câu hỏi về hướng gió, tôi đã trả lời rằng gió thổi theo hướng ngược lại của hướng khói bay ra. Không có câu hỏi địa chỉ nên phần nào tôi cũng đã vững tâm hơn một chút, vậy mà lúc tôi vừa mới trả lời sai, lập tức mẹ đã tỏ vẻ thất vọng ghê gớm. Thà mẹ cho luôn một câu ngắn gọn là thi trượt đi cho xong. Đằng này, mẹ liên tiếp chỉ vào mái tóc, vạt áo choàng đang bay, rồi cả lá cờ Nhật phấp phới ở sân vận động, và gắt gỏng: “Gió đang thổi hướng nào hả? Hướng nào? Trời đất ơi, cái đó mà không biết thì hỏng, hỏng thật rồi”. Mẹ đã cáu kỉnh như thế đấy. Chẳng hiểu sao ngày hôm đó, ở cái sân vận động mênh mông và không một bóng dáng nhà cửa ở gần trường Maedong ấy, gió lại thổi mạnh đến vậy. Ngay tối hôm đó, mẹ cứ than vãn chì chiết với anh tôi về chuyện tôi thi trượt là chắc rồi.Bên ngoài cổng thành 69 “Phải đợi mở vung ra mới biết thức ăn trong nồi thế nào chứ.” Người anh của tôi, dù hơn tôi khá nhiều tuổi nhưng mãi đến năm lên mười tuổi mới bắt đầu đi học, nên giờ, anh tôi vẫn đang ở cấp hai; anh lúc nào cũng kiệm lời và tỏ ra chín chắn. Người ta sẽ gửi giấy báo đỗ hay trượt về nhà. Tất nhiên tờ giấy đó có được gửi hay không cũng sẽ đến địa chỉ giả là phường Sajik-dong. Giấy báo đến rồi mà mẹ tôi cũng vẫn chờ thêm vài ngày nữa cho chắc, sau đó mẹ mới mặc cho tôi chiếc áo khoác có in hoa như hôm đi thi và dắt tôi đến nhà họ hàng ở phường Sajik-dong. Đó là lần đầu tiên tôi được đặt chân đến ngôi nhà mà tôi đã phải khốn khổ để nhớ cái địa chỉ của nó. Vừa đi mẹ vừa nhắc mấy lần rằng đây mới là ở trong thành. Đây đúng là một nơi mà mọi thứ đều quy củ và yên tĩnh hơn nhiều so với phường Hyeonjeo-dong. Nhất là các ngôi nhà không dựa dẫm vào nhau một cách xiêu vẹo, tất cả đều ở trên một mặt đất bằng phẳng. Nhà họ hàng của mẹ có phòng ngoài kéo dài ra tận ngoài mặt đường, nhà trong được tách biệt bằng một cửa giữa. Phòng ngoài cũng được lợp ngói nhưng lại rất khác phòng khách ở quê. Ở đó lại còn có mùi ẩm mốc và nhếch nhác bốc lên. Sau này, tôi mới biết đó không phải là phòng khách mà là phòng của người giúp việc. Bà giúp việc đang ngồi giặt ở cái sân dài như một con ngõ, ở ngay bên cạnh gian phòng ấy. Nhìn thấy mẹ tôi, bà ta liền đứng ngay dậy, đon đả: “Mợ à, mợ có tin vui nhé. Cô nhà đậu rồi.” Nói xong, bà ta cúi đầu chào mẹ tôi một cách vồn vã. Lần đầu tiên trong đời, chúng tôi được người khác gọi một cách lễ phép là mợ, là cô. Và đó cũng là lần đầu tiên tôi thấy mẹ tỏ ra tự cao tự đại như thế. “Làm gì mà chị rối cả lên như vậy. Có mỗi việc đậu vào cái trường tiểu học thôi mà.” Bỗng nhiên, mẹ tôi lại làm ra vẻ kiêu kỳ. Vừa bước qua cái cửa giữa, lập tức ở trước mắt chúng tôi là một thế giới hoàn toàn khác lạ. Sảnh phòng khách với những tấm cửa kính lung linh hiện ra sừng sững trên bậc thềm đá hoa cương sạch sẽ. Sừng sững nơi cái sân được quét dọn sạch sẽ là một bể nước xi măng có gắn chiếc vòi nước. Bà giúp việc hứng nước vào xô từ trong cái bể tràn trề ấy. Tôi thấy hiếu kỳ và ghen tị với cái vòi nước đang tuôn chảy xối xả. Ở phường Hyeonjeo-dong, chẳng có nhà nào có nước máy. Nhà nào cũng phải mua nước hoặc tự gánh lấy nước để dùng. Bên dưới dốc thang cao chót vót ấy là phần đất bằng, ở đó có vòi nước công cộng, lúc nào cũng có hai hàng thùng gánh nước xếp dài dằng dặc. Các thùng nước đều được làm bằng tôn, có tay cầm bằng gỗ và được khoét lỗ để móc vào cái móc sắt ở đòn gánh cho chắc, nhưng thùng của người gánh nước bán với thùng của những nhà tự gánh nước lại khác nhau. Thùng của người gánh nước bán là chiếc thùng hình vuông to như can đựng dầu, còn thùng của những nhà tự gánh nước thì lại có hình trụ bằng nửa chiếc thùng của người bán nước. Mỗi gánh nước giá một jeon *, không kể thùng to hay bé. Mỗi buổi sáng, người gánh nước phải cung cấp cho mấy chục nhà nên có lẽ với gánh nước của nhà khác thì họ thường gánh vơi cho đỡ mệt, còn với gánh nước nhà mình, dĩ nhiên là họ muốn gánh đầy rồi. 10 Đơn vị tiền tệ cũ của Hàn Quốc. Một jeon bằng một phần một trăm won ngày đó.Bên ngoài cổng thành 71 Mẹ tôi không gánh được nước nên chúng tôi phải mua nước của người bán nước mỗi ngày một gánh; không chỉ mỗi nước ăn mà cả nước tắm, nước giặt, tất cả đều trông cả vào hai cái thùng nước ấy. Điều mà tôi hay bị càu nhàu nhất, ngoài cái luật lệ nhà ba phòng trong thời gian hơn một tháng ở Seoul, là việc tiết kiệm nước. Nước rửa mặt không được đổ đi, mà phải để đấy để còn rửa chân. Nước rửa chân cũng không được đổ đi mà phải để đấy để mà giặt giẻ lau. Nước giặt giẻ lau cũng không được đổ đi mà cứ để nguyên đấy. Lát nữa quét sân còn dùng để vẩy sân. Đại loại như vậy. Mặt ngõ trước cửa nhà chúng tôi được mẹ gọi là sân và ngày nào mẹ cũng quét sân như để chì chiết những người trong xóm hiểu rằng đến cái sân trước cửa nhà họ, họ cũng chẳng bao giờ thèm quét. Lỡ chẳng may, chậu nước rửa mặt của tôi, mà mẹ vừa múc ra vừa tiếc rẻ ấy, không đi được đến công đoạn cuối cùng đã bị đổ ào đi mất thì lúc ấy thể nào mẹ chặc lưỡi tiếc rẻ như vừa mới bị mất món đồ cực kỳ quý giá trong nhà vậy. Chum đựng nước của chúng tôi được chôn ở dưới đất, chỗ góc quây làm bếp gần cửa lớn. Người gánh nước sáng nào cũng tới từ tờ mờ sáng. Nhà chủ cũng mua nước ăn của họ. Cái xó xỉnh chẳng bao giờ có tên trộm nào thèm lẻn vào, mà có vào cũng chẳng có gì để trộm được ấy, không lúc nào được cài then. Vì thế, người trong nhà chẳng bao giờ nghe thấy tiếng mở cửa và chỉ tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng nước trút ào ào vào chum. “Ào, ào” – hai âm thanh vang lên của hai lần trút nước vào chum ấy khiến tôi cảm nhận được rõ mồn một sự thiếu thốn không còn gì hơn thế một cách thật thảm hại. Hai thùng nước cho cuộc sống một ngày. Cái sự tiết kiệm nước ấy ở nhà quê không thể nào hình dung được. Con suối lượn qua mảnh vườn, nơi có sân phòng khách và nhà xí, sau khi đã vòng quanh hàng rào hoa đầu xuân ở sân sau nhà. Sân sau lại là đầu hồi của nhà trong, nên vào mùa mưa, tiếng nước chảy ồ ạt nghe thật vui tai. Lúc bình thường, tiếng nước lại chảy róc rách một cách khoan khoái, nghe như tiếng rì rầm, thậm chí phải lắng tai mới nghe thấy được những âm thanh rí ra rí rách. Song, chưa bao giờ nước bị tràn hay bị khô cạn cả. Vào mùa đông, chỉ có trên bề mặt suối bị đóng băng, còn ở bên dưới, dòng nước vẫn chảy miệt mài. Mặt băng hằn lên những hoa văn với đủ các hình vân kỳ lạ. Những lúc ấy, nếu bất chấp giá rét, dùng tay bẻ gãy những ván băng với những hình thù kỳ lạ rồi đem bỏ vào miệng mà nhai rau ráu, thì sẽ có cảm giác sảng khoái vô cùng, như thể từng mạch máu trong cơ thể đang được làm mát vậy. Nước ăn đã có mẹ và các thím tôi lấy về từ giếng nước ở giữa làng. Nhưng có nhiều lúc mải chơi, khát quá, chúng tôi thường chạy ào ra suối, vốc lấy những vốc nước để làm thỏa cơn khát. Quần áo cũng được đem ra suối giặt; khoai lang, khoai tây đều được rửa ở đó; cả rau rừng cũng thế. Và tất nhiên, cả sau khi đi vệ sinh xong, chúng tôi cũng rửa tay ở đó. Mỗi khi làm việc gì, chúng tôi đều không bao giờ phải tự hỏi đây là nước mới hay nước cũ, cũng chẳng có ý nghĩ đó là nước bẩn. Bước chân đi đến đâu, tiếng nước đi theo đến đó. Chúng tôi chỉ biết rằng phải tiết kiệm nước vào mùa đông khi rửa mặt bằng nước ấm. Nước lúc nào cũng được đun cả nồi to, nhưng nếu lỡ vục cả chiếc thau rửa mặt vào trong đó để múc nước thì thể nào cũng bị người lớn mắng cho một trận nên thân. Câu mắng rất nặng nề là: cái thói dùng nước lãng phí như thế, sau này chết đi, xuống âm phủ, sẽ bị phạt uống lại từng thau nước ấy. Giờ đây, mỗi ngày một lần, cơn khát lại ùa về trong tôi mỗi khi nằm trong chăn mà nghe cái tiếng nước trút “ào, ào” ấy; và mỗi lúc như vậy, tôi lại thường rơi vào nỗi sợ hãi mơ hồ như thể tôi không còn là tôi nữa, giống như những chú cá myeongtae * bị khô quắt lại thành những con cá bukeo *. Bà chủ ngôi nhà phường Sajik-dong, nơi có vòi nước chảy xối xả, gọi mẹ tôi là bà trẻ và niềm nở tiếp đón chúng tôi. Xem ra bà ấy cũng trạc tuổi mẹ tôi nhưng vẫn mặc áo màu trắng ngà có cổ viền màu tím hồng, không quên bảo tôi: “Chúc mừng bác thi đậu nhé.” Sau này tôi mới biết, chúng tôi thuộc hàng vai trên rất to và người phụ nữ đó thuộc hàng cháu dâu. Mẹ nói trống không, còn bà ấy thì dùng những lời lẽ rất lễ phép. Bà ấy gọi người giúp việc vào, bảo sửa soạn cơm nóng để mời chúng tôi, đoạn đi tìm giấy nhập học đưa cho mẹ. 11 Cá minh thái, cá pôlăc. 12 Tên gọi của cá minh thái khô trong tiếng Hàn. Mẹ chẳng buồn ngó ngàng tới, giống như khi người ta nhìn thấy chiếc bánh teok thiu: “Mong trượt thế mà lại đỗ”. Nét mặt của mẹ hết sức thản nhiên, chẳng tỏ ra một chút vui mừng. Không thể hiểu nổi tại sao mẹ tôi lại nghĩ trong bụng một đằng và biểu lộ ra ngoài một nẻo như vậy? Ngay lập tức, người phụ nữ ở phường Sajik-dong liền hết lời khen ngợi tôi, bảo rằng kể cả những đứa được đi nhà trẻ ở khu này cũng có đến mấy đứa bị thi trượt. Hình như chỉ đợi có thế, mẹ tôi liền lập tức tuôn ra một tràng. Nào là đến cái đó mà cũng chẳng đỗ nổi thì không có tướng học hành rồi; nào là thế thì còn học làm gì nữa, cho về quê để vừa nhẹ gánh mà còn vừa đỡ phải áy náy nữa; nào là đã cố tình không dạy cho gì trước thế mà cũng vẫn đỗ, vân vân và vân vân. Lại vẫn là những lời nói dối mà người khác có thể nhìn thấu cả tâm can ấy. Tôi nhìn chằm chằm bằng ánh mắt khó hiểu vào vẻ mặt sốt sắng của mẹ, giả như tôi thi trượt thì có khi còn làm cả lễ gosa * không biết chừng. Bà giúp việc hai tay bưng mâm cơm trưa xinh xắn bước vào. Những cái bát trắng được bày la liệt trên bàn ăn, cái nào cũng có nắp đậy. Mở nắp ra, trong bát chỉ có chút xíu thức ăn. Món đậu đen xào chỉ có vỏn vẹn hơn chục hạt. Mắm sò, cá ướp cũng chỉ được một gắp đũa. Bụng đói cồn cào mà tôi ăn chẳng thấy ngon. Bà chủ nhà đưa cho mẹ tôi một cái túi đựng toàn đồ cần khâu vá. Ngoài đồ của nhà đó ra, còn lại là đồ bà ấy nhận được sau khi đã đi hỏi han hết nơi này đến nơi khác và quảng bá về tài khâu vá của mẹ tôi. “Đúng là đã nợ chị nhiều quá”. 13 Lễ cầu an diễn ra vào tháng Mười hàng năm, cầu cho gia đình an khang, xua đuổi mọi tai ương và mong một mùa màng tốt đẹp. Mẹ nhẹ nhàng cảm ơn, ánh mắt vẫn toát lên một vẻ đường hoàng. Thật lòng, tôi rất muốn tránh khỏi chỗ của người lớn, song mẹ và bà ấy vẫn còn nói thêm vài câu nữa. “Có gì đâu ạ. Bà trẻ đừng áy náy chuyện đó. Bà thử nghĩ đến việc lần trước cháu nói nhé”. “Việc khâu đồ cho kỹ nữ ấy hả? Thật lòng, tôi cũng chẳng có ý định làm cả việc đó đâu. Nhưng mà nghĩ đến cái sự nhân khẩu và học phí năm nay bỗng dưng nhiều lên như thế, tôi thực sự chẳng còn được ở cái thế chê cơm nóng cơm nguội rồi. Tiện đây, chị đã có lời như vậy thì chị thử giúp tôi liên hệ với người ta xem sao”. “Bà trẻ, bà thật là sáng suốt. Thật ra, những nhà bình thường bao giờ may vá cũng cẩn thận hơn. Đám người ấy chỉ khoác thêm lên bên ngoài lớp đồ mỏng mặc bên trong thôi, thế nên chỉ cần cái cổ vừa và thoải mái là được chứ không phân biệt được viền cổ hay vạt áo được khâu như thế nào đâu. Vừa không soi mói, vừa lại rộng rãi tiền công, còn gì hơn thế mà bà trẻ phải lưỡng lự ạ.” “Chỉ vì tôi không thích người lớn trong nhà nói ra nói vào rằng là không biết ở Seoul làm cái trò trống gì mà nuôi được cả đứa con gái, lại còn cho cả nó đi học nữa, nên tôi cứ tránh xa những lời nhiếc móc là hơn”. “Ui dào, nếu bà làm việc của kỹ nữ thì đã đành. May đồ cho kỹ nữ mà cũng bị nhiếc móc là sao?” “Thì họ vốn là lưỡng ban mà.” “Bà đừng lo. Ở nhà mà nói này nói nọ, cháu sẽ đứng ra làm chứng.” “Ai đời cả công ăn việc làm cũng lại đến một tay chị lo liệu. Đã khiến chị phải bận tâm rồi.” “Trong đống đồ may vá bà đem về hôm nay có cả đồ của mấy bà vợ lẽ ở xóm này. Bà còn lạ gì gốc gác của các bà vợ lẽ. Họ quen nhiều kỹ nữ lắm, để cháu nhờ họ hỏi hộ. Họ thích tài may vá của bà nên chắc sẽ ổn thôi. Mấy việc vặt cháu sẽ bảo bà giúp việc trong nhà làm, nên bà không phải đến tận nhà những người kỹ nữ đó đâu.” Chỉ vì nghe lỏm mấy chuyện thì thầm to nhỏ của người lớn mà ngày nhận giấy báo trúng tuyển của tôi trở nên thật u ám. Tôi hối hận vì giá như mình làm sai thêm một câu nữa thì có khi bây giờ đã không trở thành gánh nặng vất vả cho mẹ, nhưng không thể quay đầu lại được nữa rồi. Trước đó, mẹ tôi cũng đã từng khâu đồ bán cho người khác. Cái hòm đựng đồ sặc sỡ, chiếc bếp lò nhỏ cùng với cái giỏ đựng đồ khâu vá là đồ đạc quý giá nhất trong nhà. Một hai bó củi mua về đủ để thổi cơm, nhưng trước khi củi cháy hết, phải nhanh tay gắp vào trong chậu than rồi ấn thanh bàn ủi xuống thì mới có thể dùng cả ngày được. Bởi không ủi vải trước thì không thể may vá được. Ngay cả khi chưa may đồ cho kỹ nữ, những mảnh vải mà mẹ tôi nhận về là thứ vải lụa không pha, đẹp và mềm mại mà những loại vải thô được nhuộm màu ở nhà quê không thể nào sánh được. Mẹ gom những miếng vải đẹp còn thừa lại đó, cắt gọn gàng, và xếp đầy giỏ đựng đồ cũ. Những lúc buồn chán, tôi lại lôi cái giỏ vải thừa đó ra, định bắt chước mẹ khâu vá thì lập tức liền bị mẹ mắng và lấy lại cái giỏ. Bằng tuổi tôi, lũ bạn ở nhà quê hầu như đều biết khâu hoặc viền. Không hiếm đứa còn biết chiết cả eo váy. Nhưng mẹ tôi lại bảo học những cái đấy để làm gì: “Con phải học nhiều kiến thức, sau này còn trở thành thiếu nữ tân thời.” Đó là niềm tin duy nhất của mẹ tôi. Tôi không hiểu được thế nào là “thiếu nữ tân thời” và chắc là mẹ tôi cũng giống như vậy thôi. “Thiếu nữ tân thời” là cụm từ mới được sinh ra từ thời kỳ khai mộng. Nhưng cụm từ mà ngay cả bản thân mẹ cũng không thể hiểu hết được là gì ấy tại sao lại có sức hấp dẫn đối với mẹ như vậy? Tôi không thể hiểu được mẹ đã bị cuốn hút bởi điều gì từ những người phụ nữ có thể sống một cuộc đời hoàn toàn khác biệt với những gì vốn có từ xưa đến nay như thế? Dòng máu của mẹ đang tuần hoàn trong tôi và có thể tính cách của tôi cũng giống mẹ phần nào, nhưng tôi vẫn còn mới chỉ đang mấp mé ở ngưỡng cửa của cuộc sống phụ nữ. Với tôi, sự tự do trước mắt còn đáng tiếc hơn. Mẹ không chỉ cấm tôi không được chơi với đứa con gái nhà chủ, mà còn rất ghét việc tôi đàn đúm với lũ trẻ cùng xóm. “Con là con nhà dòng dõi. Chơi với lũ trẻ không được dạy dỗ tử tế ở xóm này thì chỉ có nhiễm thói hư tật xấu thôi. Đừng có ra ngoài chơi.” Mẹ đang may đồ cho kỹ nữ đấy thôi, vậy mà vẫn còn nhắc đến mấy chữ “dòng dõi”. “Dòng dõi” là gì, tôi chẳng hiểu rõ lắm, nhưng nó dễ hiểu hơn cụm từ “thiếu nữ tân thời”. Tôi chỉ láng máng hiểu được qua cung cách sống của nhà chúng tôi, những người luôn coi trọng việc thể diện và hành xử như một gia đình quyền thế ở nhà quê. Có thể tôi cảm nhận được điều đó vì tôi thấy nhớ cuộc sống cũ của mình, vì cảm giác mình khác với những đứa trẻ trong xóm. Nhưng còn mẹ, tại sao mẹ lại như thế? Câu hỏi đó đã châm ngòi cho những suy nghĩ thất vọng thầm kín về người mẹ lúc nào cũng tin mọi điều mình làm là đúng. Lúc ở Seoul thì lại đem nhà quê ra để lên mặt, còn lúc ở nhà quê thì lại lấy Seoul ra để ngạo mạn. Thái độ hai mặt ấy của mẹ khiến tôi nhiều lúc bị nhiễu loạn. Song, đó cũng chính là điểm yếu của mẹ mà chỉ có mình tôi biết thôi. Lúc nào mẹ cũng không cho phép tôi được lại gần chỗ may vá. Kể cả những lúc chưa may xong hết nhưng vẫn phải đem những đồ đã xong tới nhà người họ hàng ở phường Sajik-dong, mẹ cũng tự làm lấy. Bà giúp việc có thể giúp hộ việc tìm đến nhà của các kỹ nữ, nhưng điều đó không có nghĩa là bà ấy phải đến tận phường Hyeonjeo-dong. Nhà người họ hàng ở phường Sajik dong là nơi trung chuyển. Mẹ lúc nào cũng nhắc đi nhắc lại như đã thành câu cửa miệng rằng công lao của người họ hàng đó chẳng khác nào núi Thái Sơn. Trong những lúc mẹ vắng nhà, không thể có chuyện một đứa trẻ tám tuổi chịu bị nhốt ở xó nhà. Dần dà tôi bắt đầu biết đến hương vị của thế giới bên ngoài. Hàng xóm xung quanh có nhà làm thợ hàn; nhà có bố là phu khuân đồ, mẹ đi bán sàng rong và cả nhà chuyên lau chùi ống khói. Bà bán sàng rong có vóc người nhỏ bé. Những chiếc sàng mau có, thưa có, độ hai ba chục chiếc được tết lại với nhau thành hai vòng tròn, cuộn lấy hai vai. Cái đầu của bà ta lấp ló giữa hai vòng tròn lớn được tạo bởi vô số những vòng tròn nhỏ ấy nên có lúc thấy có lúc lại không thấy. Con gái nhà đó hơn tuổi tôi nhưng nó không đi học. Bà bán sàng ra khỏi nhà một cách yên ắng, còn ông thợ lau chùi ống khói lại khua chiêng ầm ĩ ngay từ lúc bước ra khỏi cửa. Ông ấy cũng khoác đồ nghề trên vai nhưng là một chiếc chổi tre vót dài được cuộn lại và khi cần có thể mở ra. Phần đầu chổi tre buộc một bó lá thông to bằng đầu người, không biết đã thò ra thụt vào ống khói bao nhiêu lần nên không còn trông rõ ra lá thông nữa, mà trông giống như một cục than. Ông thợ ống khói cũng có bộ ria đen ngòm như vừa véo một nhúm than dính ở đầu chổi ấy mà gắn lên ria mép, chẳng trông rõ được đâu là cái miệng. Vì thế, có vẻ rất hợp lý khi ông ta dùng chiêng để thay cho miệng. Thật lạ là không chỉ có ông hàng xóm ấy, rất nhiều thợ sửa ống khói qua lại xóm này cũng đều có miệng hẳn hoi nhưng tất cả đều dùng chiêng thay cho tiếng rao. Chiếc chiêng làm bằng đồng thau sáng chóe trên nền thân người đen ngòm của họ. Mỗi khi họ vung chiếc dùi được bọc vải bông ở đầu ấy lên là tiếng chiêng lại được bắt đầu cất vang. Chúng có chung một điểm là vừa có gì đó thật êm ái lại vừa rất ngân nga. Không có ai vội vàng, gấp gáp. Tất cả đều đợi cho đến khi tiếng chiêng chạm đến tận trời xanh rồi mới đánh tiếp một tiếng lơ đễnh. Mỗi khi lắng tai nghe tiếng chiêng ấy, trong tôi lại trào dâng một thứ cảm xúc bi ai, giống như lúc đứng ngắm nhìn những mầm lúa ở đầu bờ ruộng nhà quê đang bồng bềnh trong những làn gió thu vậy. Nhà ông thợ sửa ống khói rất đông con. Ngoài nhà đó ra, còn rất nhiều đứa trẻ tôi hay gặp ở ngoài ngõ và tôi cũng không biết nhà chúng sống bằng nghề gì. Một hôm, có đứa trêu chọc tôi: “Lêu lêu, sigol teki, golteki *” và rồi những đứa trẻ khác cũng đồng thanh hô theo. Tôi cảm thấy thật nực cười khi đem so sánh cái cớ “nhà quê” mà bọn trẻ vin vào để trêu chọc tôi với hoàn cảnh sống hiện tại của chúng. Từ lúc nào trong tôi cũng đã ngự trị thói kiêu ngạo mà người khác có thể nhìn thấu được tâm can ấy của mẹ tôi. Nhưng đúng là khi không muốn khóc và cố gắng để không bật khóc trước mặt bọn trẻ, tôi đã cần đến hai từ “dòng dõi” mà mẹ vẫn thường nhắc. Tôi đã không thể không tỏ ra vênh váo, cho dù chỉ là để giữ lấy cái “danh dự của nhà quê”. 14 Từ có nghĩa là “con mực phủ”, phát âm giống với từ “sigol deki”(có nghĩa là “đồ nhà quê”). Bọn trẻ lúc chỉ có vài đứa, chúng luôn luôn tỏ ra xa lánh và tìm cách chọc ghẹo tôi, nhưng khi chỉ còn có một, chúng lại quay sang tôi: “Mình chơi đi”. Mấy tiếng “mình chơi đi” của lũ trẻ thành phố nghe thật dễ thương. “Mình chơi đi” ở nhà quê chỉ phát âm hơi khác một chút, còn âm điệu thì gần như giống với giọng Seoul, vậy mà “mình chơi đi” của nhà quê ấy lại không thể ngọt ngào và êm ái như thế được. Nhưng rồi, đồng ý “mình chơi đi” và trở thành bạn không có nghĩa là có trò gì đó đáng để chơi. Ngay cả không gian thích hợp để chơi trò trốn tìm cũng còn chẳng có nữa là. Có lần hai đứa đang cùng nguệch ngoạc gì đó lên bờ tường của nhà người khác bằng mẩu bút chì màu nhặt được ở trên đường, đứa bạn bỗng dưng nảy ra một đề nghị lạ lùng. Nó rủ tôi cùng cởi quần ngồi xuống và vẽ lên mặt đất bộ phận sinh dục của nhau. Tại sao ngày đó chúng tôi lại có thể nghĩ ra trò chơi quái đản như thế nhỉ? Có lẽ vì quá buồn chán chăng? Sau này, khi lớn hơn một chút, mỗi khi nhìn thấy hình vẽ bộ phận sinh dục hay thứ gì đó tương tự như vậy ở những nơi như nhà xí công cộng, tôi lại chợt nhớ đến ngày đó và chẳng thấy thắc mắc hay xấu hổ, chỉ cảm thấy tội nghiệp cho những ngày tháng ấy, bởi nghĩ rằng: “Chao ôi, ngày đó mình đã thật buồn chán đến mức nào”. Chúng tôi đã vẽ bộ phận sinh dục của nhau giống như thật, rồi thể hiện cái tài điêu luyện ấy lên cả bờ tường nhà, khiến mẹ tôi phát hiện được và thế là tôi đã được một trận đòn thừa sống thiếu chết. Dù đã thề sẽ không bao giờ chơi với đứa bạn ấy nữa, vậy mà thi thoảng tôi vẫn lén mẹ đi chơi với nó. Mẹ vừa đánh tôi vừa nguyền rủa đứa trẻ đó. Nhưng rõ ràng là tôi chơi với nó chứ không phải tôi bị nó sai khiến. Thà là đòn roi chứ tôi không thể nào chịu được việc mẹ sỉ vả đứa bạn và cả bố mẹ của nó như vậy. Một hôm, nhân lúc mẹ không có nhà, tôi đã trốn mẹ cùng với nó đi ra bên ngoài xóm. Tôi đi theo nó dẫn đường, qua con ngõ ngóc ngách và cái dốc cầu thang tầng tầng lớp lớp, tới một nơi có thể nghe được tiếng tàu điện. Bất chợt, tôi cảm thấy bất an, bèn quay sang hỏi nó: “Cậu có nhớ địa chỉ nhà cậu không?” “Cái đó nhớ để làm gì?” “Tớ sợ nhỡ đâu lạc đường.” “Đừng lo. Cậu đừng để lạc tớ là được. Hiểu chưa?” Nói rồi, tôi và nó cùng khoác vai nhau. Khoác vai cũng là một trò không có ở nhà quê. Tự dưng được khoác vai một đứa cao hơn mình hẳn một gang tay khiến tôi thấy mình hoạt bát lên hẳn. Đứa bạn đó rất đáng tin. Mẹ chẳng biết gì về nó, mặc nhiên coi nó là đứa hư hỏng và thỉnh thoảng lại còn hỏi: “Dạo này còn chơi với nó không?” Chúng tôi cùng căn nhịp bước chân và hào hứng tiến lên phía trước. Vượt qua đường ray tàu điện, trước mắt chúng tôi là một khoảng sân rộng lớn và một bức tường đỏ dài phải đến hơn mười dặm ở trên mặt đường cao hơn hẳn khoảng sân rộng rãi ấy. Bức tường đó không những dài hút tầm mắt mà còn rất cao nữa, khiến chúng tôi chẳng hề có ý nghĩ tò mò muốn biết đằng sau bức tường ấy là gì. Khoảng sân nằm sát con đường lớn và ôm lấy bức tường ấy, thấp hơn hẳn so với mặt đường, vì vậy có một lối cầu thang để lên xuống. Cầu thang rộng và bằng phẳng hơn nhiều so với những bậc thang ở phường Hyeonjeo-dong, hai bên có rãnh thoát nước cho nước mưa chảy xuống. Cái rãnh được tráng xi măng bóng láng, vừa khít với bàn tọa của trẻ con. Có mấy đứa trẻ đang hò nhau chơi trò cầu trượt ở đó. Tôi cùng đứa bạn đồng hành chơi trò cầu trượt một cách hứng thú và mải vui đến mức mặt trời lặn lúc nào cũng không biết. Đó là thứ cảm giác thú vị mới lạ tới độ lần đầu tiên, tôi cảm thấy hài lòng với việc đặt chân lên Seoul, bởi vì nếu chỉ quanh quẩn ở chốn nhà quê, tôi sẽ không bao giờ có được cảm giác này. Để thân mình có thể trôi tuột xuống, chúng tôi không thể không leo lên tận trên cao, và khi leo đến nơi, chúng tôi đã nhìn thấy một cánh cổng sắt cao vút ở phía bên kia của con đường lớn bao quanh bức tường. Cánh cửa sắt ấy cũng rất cao và trông thật gớm ghiếc như thể cắt bỏ lập tức ý định trèo qua của con người. Đã thế lại còn có hai cảnh sát mang kiếm ở hông đang đứng gác. Mỗi khi trông thấy tôi rụt rè, đứa bạn đi cùng lại bảo: “Đừng sợ, họ không bắt đâu”. Mặc dù vậy, mỗi khi trượt xuống, tôi lại thấy ớn lạnh cả sống lưng, giống như mình bị những người lính gác đó bắt quả tang. Cảm giác đó lại càng khiến cho trò chơi cầu trượt thêm hứng thú. Rồi một ngày, chúng tôi đi vòng theo con đường rộng lớn chẳng có mấy bóng người đi lại ấy và trông thấy một đám người kỳ dị đang tiến về phía chúng tôi. Đoàn người có cảnh sát đeo kiếm giám sát đi ở đằng trước và đằng sau ấy, tất cả bọn họ đều mặc quần áo giống nhau, màu áo đỏ thẫm trông thật phản cảm, bởi trông chẳng khác gì những vệt máu khô đọng lại trên áo. Lúc họ lại gần, chúng tôi còn thấy cả chân họ đeo những chiếc xích sắt. Bất chợt, khi ánh mắt đập phải những chiếc xích sắt, tôi liền khựng lại như thể đã bị đóng băng tại chỗ. Tôi thấy đứa bạn đi cùng lộ rõ vẻ sợ sệt, nó giậm chân “bụp, bụp, bụp” ba cái rồi nhổ một bãi nước bọt xuống đất. Đoạn nó giục tôi mau làm theo nó, bởi nếu không làm vậy thì sẽ bị đen đủi. Tôi liền bắt chước nó mà chẳng kịp suy nghĩ gì. Lúc hai đứa trốn khỏi nơi đó và ba chân bốn cẳng chạy về nhà, bạn tôi đã giải thích với tôi rằng những người mà chúng tôi trông thấy ấy chính là những tù nhân và vì chúng tôi nhìn thấy tù nhân nên đã bị dính đen đủi, bị dính đen đủi nên phải giải trừ bằng cách đó. Tù nhân là gì, đứa bạn đó của tôi cũng chẳng biết, nó chỉ biết những người sống ở đằng sau bức tường cao đó là những kẻ xấu. Nhớ đến những chiếc xích sắt phát ra các tiếng kêu lẻng xẻng ở cổ chân, tôi chợt thấy việc mình trông thấy điều đó là một tội lỗi. Mặc dù đã giậm chân và cũng đã nhổ nước bọt theo lời của đứa bạn nhưng tôi vẫn không sao thoát khỏi cảm giác sợ hãi và hối hận, và thế là tôi đã kể chuyện nhìn thấy tù nhân cho mẹ nghe. Tôi cũng đã lường trước rằng thể nào cũng bị mẹ đánh vì mải chơi trò cầu trượt làm sờn hết chỗ mông của chiếc quần kiểu mới mẹ mới mua cho, thay vì phải mặc chiếc quần pungja *. 15 Loại quần yếm truyền thống của trẻ con, phần mông và ống rất rộng, có thắt dây ở dưới, mặc bên trong áo truyền thống Hanbok. Nhưng dường như mẹ tôi coi việc chúng tôi chơi ở sân trước nhà tù còn nghiêm trọng hơn việc tôi đã làm hỏng chiếc quần ấy. Sau một hồi mắng té tát, mẹ quay sang than vãn cái cảnh phải sống ở khu xóm trước nhà tù của chúng tôi và hình như mẹ còn khóc nữa. Mẹ cũng dọa tôi nếu còn chơi ở sân trước nhà tù, mẹ sẽ đuổi về quê ngay. Tôi đã thề với mẹ rằng sẽ không đến đó chơi nữa. Chẳng phải vì tôi sợ sẽ bị đuổi về quê mà là việc khiến mẹ đã phải khóc, đó không còn là chuyện đơn giản nữa rồi. Mẹ tôi vốn là người rất mạnh mẽ. Cùng bị mẹ chồng mắng, trong khi các thím tôi thường lẻn ra chái bếp, nước mắt ngắn nước mắt dài, thì mẹ tôi lại hay biến báo, xoay chuyển bầu không khí bằng những câu đùa tếu táo ngay tại chỗ. Tôi đã bị sốc trước việc mẹ tôi cảm thấy xấu hổ và nhục nhã bởi hoàn cảnh bắt buộc không còn cách nào khác phải để cho đứa con gái chơi ở sân trước nhà tù như vậy. Tôi đã ngoan ngoãn hứa với mẹ rằng sẽ không làm bạn với đứa bạn ấy nữa. Ông nội ở nhà quê vẫn hằng coi thường những người trong làng, gọi họ là “lũ thường dân”, nhưng mẹ tôi còn nặng nề hơn cả ông nội khi mẹ dùng đến mấy từ: “cặn bã xã hội”. Đó là một khu xóm không bao giờ ngưng tiếng cãi vã. Vợ chồng cũng đánh nhau, gọi nhau là “con này”, “thằng kia”, rồi lôi nhau ra tận ngoài đường mà chửi bới. Họ gào lên: “Trời ơi, sao tôi khổ thế này? Thằng kia nó giết tôi rồi. Làng xóm không có ai à?” để kéo cả người khác vào cuộc. Khi ấy, mẹ tôi đang cầm thanh bàn là và miết thật mạnh những nếp nhăn ở áo của các kỹ nữ trên chiếc cầu là, vừa miết mẹ vừa rủa thầm: “Đúng là cái đồ cặn bã xã hội, không biết còn phải sống ở cái xó mạt vận này đến bao giờ đây?”. Có lẽ nào đó lại là những giây lát mẹ tôi quên mất một điều rằng chúng tôi cũng đang sống nhờ vào kỹ nữ chăng? Sự mâu thuẫn của mẹ không phải chỉ có vậy. Với những người trong xóm như nhà bà bán sàng, nhà ông thợ sửa ống khói, nhà người trát vữa, nhà thợ hàn nồi, v.v..., thái độ của mẹ thường là trong bụng coi thường còn ngoài mặt vừa tỏ ra nhũn nhặn, vừa ngấm ngầm tỏ ý không định thân thiết quá mức. Vậy mà với người gánh nước thuê, một người chẳng có gì khác biệt hơn so với bọn họ, thái độ của mẹ lại rất đặc biệt. Những người gánh nước thuê thường làm việc suốt cả đêm, còn ban ngày thì họ có thể ngủ hay làm gì đó, nhưng hầu như lúc ban ngày ban mặt, tôi chưa bao giờ trông thấy họ. Bọn họ cũng lấy nước từ vòi nước công cộng nên hình như họ sắp xếp thời gian như vậy để tiện cho công việc, tránh hàng người đi lấy nước xếp dài dằng dặc. Những nhà mua nước ăn của họ có một nghĩa vụ là hàng tháng, ngoài việc trả tiền gánh nước, còn phải quay vòng thay nhau mời họ một bữa cơm tối. Hầu hết các nhà mua nước đều trở thành khách quen của họ nên cứ lần lượt, khoảng một tháng lại đến lượt nhà mình mời họ cơm tối. Hôm đó, mẹ tôi đã tiếp đón người gánh nước thuê giống như một thượng khách thực sự. Dù trước đó, mẹ cũng chưa từng dùng cụm từ “cặn bã xã hội” dành cho ông ấy, song việc mẹ tiếp đón như thượng khách thì thật lạ thường. Từ trước tới giờ vốn làm gì có lệ không được phép coi thường người bán nước. Điều đó chỉ cần nhìn vào bữa cơm nhà chủ mời họ thì biết. Bát cơm độn ngũ cốc là chính, đã vậy lại còn được cố tình xới bồng lên, mấy miếng kimchi củ cải với nồi canh đậu tương là chấm hết. Không những thế, họ không bao giờ dọn cơm ở trong nhà hay phòng khách, mà thường trải luôn tấm chiếu ở sân hoặc trong bếp cho người bán nước ngồi ăn. Người ta thế nào mặc kệ, còn mẹ tôi thì thường đi chợ hẳn hoi, nộm rau này rau kia, phi dầu mỡ thơm lừng và chuẩn bị cả những món rán. Cả thịt cũng tìm đến với cuộc sống khốn khó ấy. Một nồi cơm trắng to và cơm được xới vào một cái bát cũng thật to, trông rõ mồn một là một bát được xới chồng lên trên một bát. Đó cũng là sự khéo léo của mẹ tôi mà chẳng ai bắt chước được. Mẹ chuẩn bị chu đáo như thế nên từ sáng sớm, trong nhà đã đầy ắp không khí tiệc tùng. Mà cũng phải thôi, bởi người nhà quê vốn có thói quen mặc dù hơi một tý là ra vẻ coi thường đấy, nhưng lại ghét cay ghét đắng việc phân biệt đối xử đồ ăn thức uống với người khác. Tôi cũng đã nhiều lần được nghe ông nội nghiêm khắc nhắc nhở con cháu trong nhà rằng chưa bao giờ ông thấy nhà nào phân biệt đồ ăn thức uống với khách khứa mà lại không suy sụp cả. Nhưng còn việc mâm cơm của người gánh nước thịnh soạn hơn bữa cơm mừng sinh nhật của anh tôi, điều ấy dù chỉ là sự ví von hơi ngược một chút, song chẳng phải vẫn là một sự phân biệt đối xử ăn uống đó sao? Bữa cơm thịnh soạn như vậy chỉ cần dọn ra ở trước cửa nhà nơi chúng tôi dùng làm bếp ấy cũng đã đủ chu đáo lắm rồi, đằng này mẹ tôi còn trải tấm nệm mời người gánh nước vào tận trong phòng và tỏ ra lúng túng không biết phải tiếp đón thế nào. Có thể là mẹ cũng muốn tiếp đãi ở ngoài thềm trước cửa phòng, nhưng vì thềm nhà chúng tôi chật quá, không để nổi cả cái bàn ăn. Căn phòng trở nên hẹp lại khi có người gánh nước thuê, trông có vẻ đã nhiều tuổi nhưng còn rất khỏe mạnh ấy, bước vào. Thời đó, quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân vẫn còn khá nghiêm ngặt nên ngay cả trong mắt một đứa trẻ, việc đó trông cũng thật khó coi. Không chỉ mỗi cơm, mà cả thức ăn, đĩa nào đĩa nấy đều đầy ắp. Người gánh nước không ăn hết được và đã bỏ thừa lại. Lúc ấy, mẹ tôi liền vét sạch sẽ phần thức ăn thừa để sang một cái bát khác, rồi lấy khuôn đỡ ở dưới, gói thành từng nắm và bọc tất cả vào khăn cho người gánh nước mang về. Mẹ bảo cơm cho người gánh nước vốn phải như vậy. Hình như mẹ cố tình chuẩn bị dư dả như thế để người ta ăn no rồi mà vẫn còn thừa để đem về. Người gánh nước biết ơn chủ nhà, không biết nói sao, chỉ biết bảo rằng khi nào có việc cần dùng nhiều nước thì báo trước cho ông ấy. Điều đó có nghĩa là họ sẽ gánh miễn phí một gánh nước, song họ cũng thừa hiểu mẹ tôi sẽ chẳng đời nào để cho họ làm như vậy. Ngay cả tôi cũng nhận ra rằng mẹ rất có cảm tình với người gánh nước ấy. Một người nghèo xơ xác nhưng lúc nào cũng tự cao tự đại như mẹ tôi lại đối xử một cách bình đẳng với người gánh nước, chuyện ấy thật là kỳ lạ. Dường như còn có vẻ gì đó gần như là sự cung kính nữa nên đã khiến tôi vô cùng bực bội. Vì thế mà tôi đã hiểu sai câu nói bảo ra bên ngoài chơi ấy của mẹ, và cứ ngồi yên không nhúc nhích ở xó phòng, nhìn chằm chằm vào người gánh nước đang ăn cơm. Trong tôi nảy ra ý nghĩ rằng bản thân đang đứng trước một thử thách ghê gớm nào đó, thế nên toàn bộ cơ thể tôi đã gồng lên để đối mặt với thử thách ấy. Nhưng rồi sự ngờ vực vô căn cứ ấy của tôi cũng đã mau chóng được giải tỏa. Từng câu nói của mẹ đều biểu lộ không chỉ sự kính trọng mà còn cả sự ghen tị với người gánh nước thuê ấy. Mẹ bảo rằng người đó gánh nước thuê mà cũng cho được con đi học ở tận trường cao đẳng. “Ông đó trông thế thôi, chứ chỉ cần nghĩ đến việc ông ấy được đội cái mũ cử nhân lên đầu thằng con trai là trong bụng mình đã phải kính nể rồi.” Nói xong, mẹ tôi lại thở dài. Hình như mẹ thấy nản lòng, vì tất cả những gì mẹ có thể cố gắng được với công việc khâu vá này lại chỉ có thể là trường trung học thương nghiệp mà thôi. Còn tôi thì trở nên nhẹ nhõm vì đã giải tỏa được mối ngờ vực của mình, nhưng rồi cũng lại thấy thật tội nghiệp cho mẹ vì giấc mơ của mẹ lớn quá. Đến giờ, tôi vẫn thường nghe thấy người ta bảo mâm cơm được vét sạch sẽ không chừa lại một chút thức ăn nào là mâm cơm của người gánh nước. Không hiểu sự ví von ấy bắt nguồn từ cái sự ăn khỏe của người gánh nước hay từ thói quen gói thức ăn thừa mang về nhỉ? Tự bao giờ tôi lại sinh ra cái thói quen tò mò đến cả những điều nhỏ nhặt ấy không biết. Có khi đó lại là một câu nghi vấn mang đậm dấu ấn xuất thân từ phường Hyeonjeo-dong của tôi cũng nên. ÐỨA TRẺ KHÔNG CÓ BẠN L ễ khai giảng của trường quốc lập vào tháng Tư. Tôi lại mặc chiếc áo khoác in hoa, nắm tay mẹ và vượt qua ngọn núi để tới trường. Đúng là những đứa trẻ ở các khu xóm tử tế trông thật khác với bọn trẻ xóm tôi. Chúng rất xinh xắn và hầu hết đều bận những bộ quần áo Tây ngắn cũn cỡn. Phụ huynh chỉ đi cùng con em mình đến trường trong vòng một tuần. Ròng rã suốt một tháng đầu tiên ấy, chúng tôi không vào lớp học mà chỉ học hát hoặc vui chơi gì đó ở ngoài sân trường và đi theo cô giáo để học phát âm bằng tiếng Nhật tên gọi của các tòa nhà trong trường. Từ tiếng Nhật đầu tiên mà tôi được học đó là Houanten *. Houanten có nghĩa là Phụng an điện, là một căn nhà nhỏ màu xám, nằm giữa những luống hoa lúc nào cũng được cắt tỉa, chăm sóc ở phía bên phải của sân trường. 16 Phụng an điện: Điện thờ, trong đó đặt ảnh của Nhật Hoàng và các sắc dụ của Nhật Hoàng v.v... Trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc, ở các trường học dưới sự quản lý của Nhật Bản ở Triều Tiên đều có Phụng an điện. Chúng tôi được dạy rằng khi vừa bước vào cổng trường, lập tức phải hướng về phía đó mà cúi đầu lạy và đó là nghi thức kính trọng bậc nhất, nên khi thực hiện điều đó, phải cúi đầu thấp hơn cả khi chào cô giáo, đến mức người phải gập xuống thành một góc vuông. Căn nhà đó không có cửa sổ, cửa ra vào được đóng chặt và chỉ được mở vào những ngày lễ. Vào những ngày lễ, chúng tôi không có buổi học mà chỉ thực hiện các nghi lễ và trước khi nghi lễ được bắt đầu, chúng tôi phải đứng xếp hàng chờ đợi từ chiếc bàn phủ khăn nhung đen có viền rua vàng óng đến tận Houanten. Cuối cùng, thầy hiệu trưởng, trong bộ Âu phục màu đen, mang găng tay trắng và trên ngực có cài cả huân chương, đã xuất hiện và dẫn đầu phía trước, tiến về căn nhà Houanten với nét mặt rạng rỡ. Theo sau thầy là một vài vị đại biểu. Lúc đoàn người nghiêm trang đó tiến về phía Houanten điện, chúng tôi chỉ cần đứng im là được, nhưng đến lúc họ quay về và khi khẩu lệnh “Đại kính” vang lên như sấm sét cũng là lúc chúng tôi phải cúi gằm xuống đến mức gần như chỉ trông thấy gót giày của họ. Cũng giống như khi ngó trộm vào bàn thờ thổ địa ở quê, với một chút mặc cảm tội lỗi trong lòng, tôi hơi ngẩng đầu lên nhìn trộm thầy hiệu trưởng đang bước đi, tay nâng cái hộp sơn mài đen bóng lên cao hơn cả tầm mắt của mình. Đến lúc làm lễ, thầy mở cái hộp đó ra, cất giọng đọc run run rồi mới bước xuống phía dưới. Thì ra Houanten chính là nơi cất giữ những sắc dụ của Thiên hoàng. Sắc dụ của Thiên hoàng thật dài và khó hiểu, ngay cả khi đã quen với tiếng Nhật rồi cũng không thể hiểu nổi. Những lời diễn thuyết của thầy hiệu trưởng lại còn dài hơn thế. Đó là một buổi lễ chán ngấy, đến mức chốc chốc, chỗ này chỗ kia lại có một vài đứa ngất xỉu, nhưng bù lại, khi kết thúc, họ phát cho những hai cái bánh mochi *. Vì niềm vui đó mà tất cả đều cố chịu đựng cái lễ chẳng bao giờ hiểu nổi ấy như chịu đựng gông cùm vậy. 17 Tên gọi theo tiếng Nhật của bánh làm bằng bột nếp. Sau Houanten, từ tiếng Nhật mà chúng tôi phải học đó là “nhà vệ sinh”, rồi tới “cô giáo”, “trường học”, “lớp học”, “sân trường”, “bạn”, “năm thứ mấy”, “lớp nào” v.v... Trong vòng một tháng, chúng tôi vừa làm quen với tiếng Nhật vừa lon ton theo sau cô giáo đi khắp sân trường. Ngay sau khi nhập học, chúng tôi đã không được sử dụng một từ tiếng Hàn nào, những gì nhìn thấy trước mắt và mọi hành động đều được lặp đi lặp lại bằng tiếng Nhật với mục đích nhồi nhét tiếng Nhật vào đầu chúng tôi. Mọi vật xung quanh đều được tái sinh. Đó quả là một quãng thời gian vất vả vô cùng với một đứa không hề có kiến thức về tiếng Nhật trước đó như tôi. Vậy mà mẹ tôi lại tưởng rằng chúng tôi chỉ có học chữ. Mẹ hỏi: “Hôm nay không viết chữ nào à?” rồi quay sang bất mãn, than thở tiền học thì lấy đắt vậy mà chẳng dạy dỗ gì cả. Tiền học hàng tháng là 80 jeon. Những đứa trẻ khác thì mang một tờ 1 won đến và đem theo ống tiết kiệm để bỏ 20 jeon còn thừa vào đó. Còn mẹ tôi thì chỉ cho đúng 80 jeon. Lúc thấy tôi tị với những đứa trẻ tiết kiệm được hàng tháng, mẹ bèn cho thêm vào thành 90 jeon. Quãng thời gian mà mẹ tôi ngồi than phiền về tiền học phí ấy, đối với cô giáo lại là giai đoạn quan trọng để dạy dỗ, làm sao để chúng tôi có thể giao tiếp với nhau được những điều tối thiểu mà không cần phải sử dụng một từ tiếng Hàn nào. Cô giáo rất xinh và duyên dáng. Thì ra đây chính là thiếu nữ tân thời mà mẹ đã nhắc tới đó sao? Tôi có cảm giác như đang được tận mắt trông thấy hình mẫu bằng xương bằng thịt mà mình sẽ phải noi theo. Bọn trẻ đứa nào cũng theo cô giáo. Lúc phải xếp hàng theo lớp ở ngoài sân trường, đứa nào đứa nấy đều tranh nhau nắm tay cô giáo. Cô giáo xinh đẹp nên cũng rất tốt bụng. Cô luôn cố gắng phân phát tình cảm và sự quan tâm của mình một cách công bằng cho lũ trẻ, trông chẳng khác chi một bầy gà con đang líu ríu bám theo gà mẹ. Vì thế, cô liên tục thay đổi những đứa đang nắm tay hay những đứa đang bám váy và thường gọi những đứa ở đằng xa lại gần. Chẳng hiểu sao tôi thường không chen được vào sự quan tâm tận tụy ấy của cô giáo và luôn tụt lại ở phía sau cùng. Ở vị trí sau chót ấy, tôi có thể trông thấy tất cả mọi việc xảy ra ở đoạn giữa và nhận ra rằng cho dù cô giáo có cố gắng để công bằng đến đâu thì những đứa trẻ có thể nắm được tay hay bám vào váy của cô đều đã được định sẵn. Những đứa trẻ đó nhìn chung đều xinh xắn, thông minh và thường tỏ ra kiêu ngạo. Chúng thật sự khác với những đứa bạn ở quê hay ở phường Hyeonjeo-dong. Tôi cảm thấy ghen ghét và ganh tị với những đứa trẻ ở đoạn giữa đó đến mức có lúc miệng cứ há hốc để mặc cho nước miếng trào ra, song lại không đủ tự tin để giống với bọn chúng. Đúng là có những điều mà dẫu chết đi sống lại, người ta cũng không thể bắt chước được, và với tôi, đó chính là việc chen vào giữa nhóm người ấy. Đến khi vào học, điều đầu tiên chúng tôi được học trong sách là câu tiếng Nhật: “Mùa xuân đến rồi, mùa xuân đến kìa. Xuân đến từ đâu? Từ núi, từ vườn”. Hoa anh đào trong sách giáo khoa nở rộ và chúng tôi còn được học cả bài hát. Còn hoa anh đào ở công viên Sajik-dong đã tàn từ bao giờ, ngày nào tôi cũng vượt qua ngọn núi để đến trường, vậy mà vẫn luôn cảm thấy khao khát về một ngọn núi thật sự và một mùa xuân thật sự. Một dải của dãy núi Inwang nơi tôi đi qua ấy không có lấy một ngọn lá ngải, mà chỉ có những cây keo mọc lên ngoan cố trên nền đất cằn cỗi giống như các mảnh vụn của những tảng đá vừa mới bị vỡ tan ra. Keo là loại cây mới, tôi chưa từng được trông thấy chúng ở quê nên không thể nào có cảm tình với chúng được. Đã thế, dưới những tán cây ấy lại chẳng có loài cây nào mọc lên nổi và chúng cũng chẳng khiến người ta có cảm giác bị dụ dỗ như muốn thoát ra khỏi con đường quen thuộc để lạc bước vào khu rừng, dù chỉ là trong giây lát. Mùi hương của núi cũng chẳng có gì đặc biệt, đến cả tiếng chim hót líu lo cũng không có. Cũng chẳng gặp người hủi nào cả. Những người đàn bà chặt trộm củi, không ai khác, chính là những người phụ nữ ở phường Hyeonjeo dong. Nghĩ vậy, tôi vừa thấy sợ vừa thấy xấu hổ. Con đường đến trường của tôi lúc nào cũng chỉ có một mình. Mẹ chỉ có ý nghĩ nhét cho bằng được tôi vào trong trường học ở sau cánh cổng thành, còn thì không hề có ý định hiểu rằng việc không thể làm bạn với những đứa trẻ cùng tuổi là một bất hạnh lớn lao như thế nào đối với tôi. Mỗi lúc thấy cô đơn, tôi lại nhớ da diết ngọn núi nhỏ phía sau nhà ở quê, nhớ nó còn hơn cả nhớ chúng bạn. Còn ngọn núi thưa thớt chỉ với vài loài cây chẳng có chút sinh khí, để lộ những mảnh đất trống hoác như vừa trải qua một đợt hạn hán lâu ngày ở đây, trông mới dị thường làm sao. Tôi luôn nghĩ rằng các ngọn núi, cũng giống như các khu vườn, luôn sản sinh ra những thứ ăn được một cách vô tận, và những thứ đồ ăn quen thuộc dành cho trẻ con không phải ở trên cây, mà là ở dưới bóng cây. Quả đồi ở quê tôi cũng có nhiều cây thông nhưng lại rất rậm rạp bởi những loài cây thay lá như hạt dẻ, dương tía, sồi, dẻ gai, cử,... nên mỗi độ thu về, các nhà lại chất được hàng đống lá rụng cao đến tận nóc nhà để làm củi đốt cho mùa đông. Ấy vậy mà hình như vẫn không thể cào hết được vô vàn những lớp lá cây ấy, nên mỗi năm, chúng vẫn phủ đầy và tan vào lòng đất, làm cho đất mềm và ẩm ướt, nuôi sống mọi loài cỏ cây, nấm và hoa rừng. Tất nhiên, không chỉ có những loài cây có ích mọc lên ở đó. Phủ dọc con đường từ khúc quẹo chỗ nhà vệ sinh đi ra ngọn núi nhỏ sau nhà là những cây thài lài. Nếu vô ý giẫm lên những bông hoa xanh tía đang còn ngậm hơi sương ấy, bàn chân sẽ được gột rửa sạch và niềm hoan hỉ sảng khoái sẽ truyền từ lòng đất vào tận trong cơ thể. Cảm giác vui sướng dâng trào ấy khiến người ta khó cưỡng lại được, bèn đưa tay bứt lấy lá cây thài lài làm sáo thổi và những tiếng mỏng mảnh, run rẩy cất lên. Trên lối dẫn ra ngọn núi nhỏ sau làng, bất chợt hiện ra một rừng cỏ rậm rạp cao bằng cái đầu của lũ trẻ con. Ở đó, lúc nào cũng có thể tìm thấy các tấm da của những chú rắn trút lại. Có những tấm da rắn vô dụng, nhưng cũng có những tấm da màu trắng với những vân hoa tỉ mỉ, trông mà cứ ngỡ là chiếc thắt lưng được tháo ra và bị bỏ quên đúng lúc buồn đi vệ sinh của vị thần tiên mải chơi nào đó. Tự lúc nào, tôi đã căng mắt dò dẫm xung quanh khu vực ấy xem có còn dấu vết của họ hay không. Nhưng thật ra, ngọn núi ấy cũng không hẳn là một ngọn núi hùng vĩ và diễm lệ khiến cho các thần tiên phải cư ngụ ở đấy. Khi phát hiện được tấm da rắn, việc đầu tiên là phải mang ngay về nhà. Thời đó, mọi người làng tôi đều tin rằng nhà nào có tấm da rắn cất trong tủ quần áo, nhà đó sẽ trở nên giàu có. Vì thế, với người lớn, da rắn được hoan nghênh gấp bội so với nấm và rau rừng. Nhưng thường thường, ở những nơi cỏ mọc um tùm, đương nhiên sẽ có những loài cỏ dữ dằn trốn ở trong đó và lúc nào cũng giương ra cái lưỡi sắc nhọn, thế nên nhiều khi thay vì tìm được da rắn, bắp chân lại bị cứa xước trầy trụa. Dù vậy, ngọn núi nhỏ sau làng của chúng tôi vẫn giống một đứa trẻ, vừa mũm mĩm vừa ngây ngô, lại vừa bí ẩn và tràn trề sức sống. Những đứa trẻ ở Seoul làm sao có thể biết được màu lam tím của những cánh hoa thài lài phủ đầy trên đường đi lung linh đến nhường nào? Và cả thứ âm thanh đẹp đẽ biết bao nhiêu ẩn chứa trong những cánh lá thài lài ấy? Bởi nếu dùng móng tay cào nhẹ phần thịt lá xôm xốp và óng mượt của lá thài lài thì sẽ thấy hiện ra mạch lá mỏng mảnh và rõ mồn một hơn cả những sợi voan, và khi đưa lên miệng thổi, sẽ còn phát ra được cả âm thanh nữa. Tôi chỉ biết thổi thành tiếng nhưng có những đứa bạn, chúng còn biết tạo thành cả một khúc nhạc du dương. Tôi giống như một bà già lọm khọm với hơi thở khó nhọc, đang tự mình tạo ra những ký ức và tìm cớ để coi thường bọn trẻ ở Seoul, hòng xoa dịu nỗi cô đơn cháy bỏng trên con đường hàng ngày một mình vượt qua ngọn núi cằn cỗi và không có chút sinh khí ấy. Những cánh hoa anh đào ở công viên Sajik dong đã bắt đầu héo úa, đó cũng là lúc cả ngọn núi ngập chìm trong một mùi sữa tanh tanh. Hoa keo bắt đầu nở. Hoa keo vừa rộ lên, lập tức lũ con trai liền tụ tập nhau thành từng nhóm như những kẻ đi săn bắn, chúng bẻ những cành hoa keo quyến rũ ấy và ăn một cách không thương tiếc. Có lúc bọn chúng bẻ cả các cành rất to, khi ấy, người gác rừng lập tức xuất hiện, bẻ ngoéo tay chúng lại và mắng cho một trận tơi bời. Bọn chúng thường là những đứa trẻ của phường Hyeonjeo-dong. Tất cả đều ở cái tuổi mà miệng lúc nào cũng cảm thấy nhạt nhẽo, vì ngày ngày chỉ có vỏn vẹn ba bữa cơm. Nhưng điều đó chỉ là một phần, còn lý do chủ yếu lại là cảm giác khoái chí của sự hò nhau chạy trốn hay bị ăn mắng te tát mỗi lúc bị người gác rừng phát hiện. Mỗi khi lũ trẻ ào qua, những cánh hoa lại chợt héo rũ như những mảnh giấy bị xé nát, lả tả trên những cành keo nằm ngổn ngang ở góc này, góc kia. Lần đầu tiên trong đời, tôi được biết đến hoa keo và cũng nhờ nó, tôi còn biết được rằng bọn trẻ ở Seoul cũng tìm thứ để ăn từ trong thiên nhiên. Có đứa ăn rất giỏi, nó cầm cả chùm hoa keo và nhai rau ráu một cách ngon lành như thể tay đang cầm chùm nho vậy. Tôi cũng thừa lúc không có ai trông thấy, đã lén bỏ vào miệng một bông hoa keo, nhưng chỉ thấy toàn một vị tanh lòm và lờ lợ. Cần có gì đó để đánh lừa cái miệng mới làm dịu xuống được thứ vị giác đang xộc lên ấy. Tôi chợt nhớ đến sing-a. Sing-a ở quê tôi cũng là loài cây phổ biến như thài lài. Nó mọc khắp nơi ở chân núi và vệ đường. Thân cây có nhiều đốt, mập mạp và giòn nhất vào lúc hoa tầm xuân bắt đầu nở. Với tay ngắt lấy cành cây có màu hơi tía và tước đi lớp vỏ bên ngoài sẽ thấy còn lại một lớp thịt bên trong có vị chua rôn rốt. Vị chua làm ứa nước miếng và hình như chỉ có nó mới có thể làm dịu bớt vị tanh của những cánh hoa keo. Giống như loài thú hoang đang đi tìm một thứ lá thuốc để rịt lấy vết thương, tôi mải miết lần sâu vào trong rừng đến nỗi lạc cả đường mà cũng chẳng tìm thấy đâu, dù chỉ là một ngọn sing-a. Ai đã ăn hết những cây sing-a ngày ấy? Đến tận lúc mặt trời đã ửng vàng, tôi vẫn không ngớt ợ lên liên tiếp và lẫn lộn nơi đó với ngọn núi nhỏ phía sau nhà ở quê. Những ngày đầu hè là khoảng thời gian cô giáo đến thăm gia đình. Mẹ đòi hỏi anh em chúng tôi một sự trung thực tuyệt đối và tin rằng bản thân mình cũng như vậy. Ở trường học, việc giáo dục sự trung thực cũng được đặt lên hàng đầu. Bởi thế, cách dạy học nguyên si những cuốn sách giáo khoa được cấp cho ấy cũng là một sự trung thực chỉ đứng sau sự trung thành với Thiên hoàng. Nói dối là hành vi đáng xấu hổ và bị cô giáo trách phạt nặng nề nhất. Chúng tôi thường xuyên được giáo dục rằng khi nhặt được của rơi hay tiền bạc, nếu là ở trong trường thì phải đưa lại cho cô giáo, còn nếu ở bên ngoài trường thì phải mang đến tận sở cảnh sát. Tôi đem điều đó kể lại cho mẹ, vậy mà mẹ tôi đã đáp lại điều đó bằng một giọng giống như đang mỉa mai: “Con nhìn thấy của rơi thì cứ coi như không nhìn thấy. Sao mà phải nhặt? Người nào đánh rơi sẽ tự khắc quay lại tìm, nên cứ để ở đó cho người ta thấy. Chỉ có những đứa muốn ra vẻ ta đây mới đem nộp cho cô giáo hay sở cảnh sát thôi.” Nghe thì có vẻ có lý. “Nhưng nhỡ đâu trước khi chủ nhân quay lại mà đã có người khác nhặt mất thì sao ạ?”. Tôi thể hiện sự lo lắng rất hợp lý nhưng lập tức liền bị mẹ cắt ngang: “Đó là lỗi của kẻ lượm đồ của người khác, không liên quan gì đến mình hết.” Hình như mẹ tôi đang mơ về một xã hội lý tưởng, khi đánh rơi hũ vàng vẫn có thể tìm lại được trên đường ở đúng vị trí của nó chăng? Hay đó là một thứ chủ nghĩa vị kỷ của cách hành xử lương thiện? Điều đó ở đây không quan trọng. Vấn đề là ở chỗ chủ nghĩa hoàn hảo của sự trung thực ấy đang cố làm cho hoàn hảo cả những lời dối trá. Mẹ chuyển hộ khẩu của tôi về địa chỉ giả và nhét vào trường học đúng như ý muốn của mình, như thế đã đủ lắm rồi, vậy mà vẫn còn cố tình tiếp diễn điều đó cả khi cô giáo đến thăm gia đình. Chắc có lẽ vì những ám ảnh ngây ngô quê mùa, sợ rằng nếu chuyện bị bại lộ giữa chừng, lúc ấy, có khi tôi sẽ bị đuổi học cũng nên. Còn tôi thì cảm thấy phát ngấy với việc phải a dua theo cái sự hai mặt ấy của mẹ. Tôi muốn dừng lại. Mẹ tôi quá mù mờ về cuộc sống ở trường học, nên hình như mẹ tưởng rằng chỉ cần qua được ngày hôm đó là xong chuyện. Ngày đến thăm nhà ở phường Sajik-dong đã được định trước, vì vậy, mẹ có thời gian để đến nhờ vả gia đình người họ hàng cho mẹ được đóng vai chủ nhà chỉ ngày hôm đó thôi. Hôm ấy, những đứa nhà ở cùng hướng phường Sajik-dong ở lại phòng học và cùng đi về nhà với cô giáo. Lũ bạn ấy là hàng xóm của nhau hoặc thường xuyên gặp nhau lúc đi học và lúc về nhà, vì thế chúng cũng biết sơ sơ nhà của nhau. Thứ tự đến thăm được xếp theo khoảng cách gần trường, nhưng vì tôi không lên tiếng nên được xếp ở vị trí sau cùng. Chẳng ai để ý, vì trong lớp, tôi là một đứa trẻ không tồn tại. Chợt có đứa nào đó kêu lên rằng lần đầu tiên nhìn thấy tôi ở khu này và những đứa khác cũng hùa theo: “Ừ nhỉ, ừ nhỉ”; rồi chúng liếc nhìn tôi bằng thứ ánh mắt lạ lùng. Chỉ nguyên bộ trang phục quê mùa khác một trời một vực với bọn chúng thôi cũng đủ bị coi như một kẻ dị giáo rồi.