🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc (Song ngữ) - Sean Covey & Uyển Linh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Self Help]
Ebooks
Nhóm Zalo
7 THÓI QUEN ĐỂ TRẺ HẠNH PHÚC
First News
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng Biên tập
ĐINH THỊ THANH THỦY
Biên tập: Nguyễn Tư Tường Minh
Bìa: Bích Trâm
Trình bày: Bích Trâm
Sửa bản in: Tư Minh Khánh
Tác giả: Sean Covey
Minh họa: Stacy Curtis
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 62 Nguyễn Thị Minh Khai - Q.1 - TP.HCM
ĐT: 38225340 - 38296764 - 38247225 - Fax: 84.8.38222726 Email: [email protected]
Sách online: www.nxbhcm.com.vn / Ebook: www.sachweb.vn NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 1
62 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM - ĐT: 38 256 804 NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 2
86 - 88 Nguyễn Tất Thành, Q.4, TP.HCM - ĐT: 39 433 868 Thực hiện liên kết
Công ty TNHH Văn hóa Sáng tạo Trí Việt (First News) 11H Nguyễn Thị Minh Khai, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM
In lần thứ 1, số lượng 3.000 cuốn, khổ 19 x 26 cm tại Công ty TNHH MTV In Báo Nhân dân TP.HCM (D 20/532 P, Ấp 4, Xã Phong Phú, Huyện Bình Chánh, TP. HCM).
Xác nhận đăng ký xuất bản số 2340 - 2019/CXBIPH/01 - 176/THTPHCM ngày 28/06/2019 - QĐXB số 722/QĐ-THTPHCM - 2019 cấp ngày
05/07/2019.
ISBN: 978-604-58-9508-5. In xong và nộp lưu chiểu quý III/2019.
Ởthị trấn Bảy Cây Sồi, bạn sẽ không có một giây phút nào để ù lì. Nếu
không chơi đá banh với thỏ Jumper thì sẽ trồng vườn với chồn Lily…những người bạn này lúc nào cũng vui vẻ và không ngừng học hỏi những điều mới mẻ. 7 câu chuyện được minh họa sống động sẽ cho thấy việc luôn ghi nhớ 7 Thói quen quan trọng như thế nào. Thông qua những nhân vật đáng yêu và những câu chuyện vui nhộn, quyển sách này giúp trẻ tiếp cận với những giá trị và nguyên tắc bất hủ được đề cập trong cuốn 7 Thói Quen Để Thành Đạt – từ việc làm sao để chịu trách nhiệm với cuộc sống của chính mình đến việc khám phá vì sao trạng thái cân bằng luôn là tốt nhất. Nào, hãy cùng đến với nhóm bạn ở thị trấn Bảy Cây Sồi và tìm hiểu vì sao mỗi đứa trẻ đều có thể là một người hạnh phúc!
A PERSONAL NOTE TO PARENTS AND TEACHERS A
s adults, we disagree about a lot of things. But there is one thing we have in common: our love and concern for kids. As I write this book, I have seven kids of my own, three under the age of ten:
Nathan (age eight), Weston (age five), and Allie (age three). They’re good kids … at least most of the time. I must admit I’m frustrated by Nathan’s endless teasing rituals and Allie’s random temper tantrums. I was also horrified when Weston learned how to work a stapler and loaded my walls with staples. But all in all, I love them to death. And I’m often surprised by how smart they really are.
Years ago, I wrote a book called The 7 Habits of Highly Effective Teens, which was based on my dad’s bestselling book The 7 Habits of Highly Effective People. When I began writing the book for teens, I was afraid I would need to water down the concepts so that teens could understand the habits. I was surprised to find that I didn’t need to water down anything. They “got it.”
Even more surprising to me has been how numerous primary and elementary schools around the globe have been teaching the 7 Habits as curriculum and how much success they’ve had doing it. Who would have guessed that young children could so quickly grasp and apply the natural laws contained in the 7 Habits? Once again, I underestimated. (By the way, if you are interested in bringing the 7 Habits into your primary or elementary school, please visit www.theleaderinme.org.)
So, when Simon & Schuster asked me if I’d be interested in writing a children’s book based on the 7 Habits, I was giddy, like I had just been let out for recess!
I have come to believe that this book can help kids in three ways:
First, it will teach them about the power of living according to principles – principles such as responsibility, planning ahead, respect for others, teamwork, and balance. Principles are like gravity. They are timeless, universal, and self–evident. And they are needed today more than ever.
Second, it will equip them with a common language they can use with parents and teachers. It can be so helpful to say, “I need to put first things first,” or “Let’s find a win–win for this situation,” and for everyone to know exactly what is meant.
Third, whether they identify with Goob the Bear or Sophie Squirrel, kids will find part of themselves in one of these memorable characters. As a result, these stories will help kids apply the 7 Habits to their own lives.
As you page through this book, you’II notice that each story illustrates one habit. At the end of each story you’II find a note to parents and teachers (Parents’ Corner), which has some suggestions on how to bring out the habit in that story. It also includes a list of questions to ask kids (Up for Discussion) and a list of small steps that kids may take to start practicing the habits (Baby Steps).
At the back of the book is a diagram of the 7 Habits that shows how they work together. And don’t forget to visit the accompanying website at www.seancovey.com. It has a lot of cool activities for kids, like quizzes, games, and printable character sketches that kids can color in themselves while they read the stories or are read to.
I join hands with you in our common and noble quest to help every kid be a happy kid!
All my best,
Sean Covey
LỜI NGỎ GỬI ĐẾN PHỤ HUYNH VÀ GIÁO VIÊN N
gười lớn chúng ta bất đồng nhau đủ thứ, nhưng ta lại có một điểm chung vô cùng lớn, đó là tình yêu và sự quan tâm, lo lắng cho con trẻ. Ở thời điểm tôi viết quyển sách này, tôi đã có bảy đứa con,
trong đó có ba đứa dưới 10 tuổi: Nathan 8 tuổi, Weston 5 tuổi và Allie 3 tuổi. Chúng cũng ngoan lắm (thường là vậy). Nhưng phải nói thật là tôi khá ngán mấy trò chọc phá không hồi kết của Nathan và những trận giận lẫy không báo trước của Allie. Tôi cũng phát hoảng khi Weston khám phá ra cách dùng đồ bấm kim và thực tập ngay trên mấy bức tường nhà tôi. Nhưng sau tất cả, tôi vẫn yêu thương chúng vô cùng và tôi luôn bị bất ngờ khi thấy chúng thực sự thông minh đến thế nào.
Vài năm về trước, tôi từng viết một quyển sách với nhan đề 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt dựa theo quyển bán chạy nhất 7 Thói Quen Để Thành Đạt do bố tôi chấp bút. Khi bắt tay vào viết sách cho tuổi teen, tôi đã sợ mình sẽ phải đơn giản hóa nhiều khái niệm để độ tuổi này có thể hiểu những thói quen được đề cập đến. Thế nhưng, tôi đã rất bất ngờ vì điều đó chẳng hề cần thiết: các em ấy đã hiểu hết.
Mà bất ngờ hơn nữa là rất nhiều trường tiểu học trên thế giới đã đưa quyển 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt vào chương trình giảng dạy – và họ đều rất thành công. Ai mà ngờ rằng các em nhỏ lại có thể nhanh chóng hiểu thấu và áp dụng những quy luật tự nhiên hàm chứa trong 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt đến thế! Lần nữa, tôi cũng lại đánh giá thấp các em mất rồi. (Mà nếu bạn muốn đưa 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt vào chương trình tiểu học của trường mình thì hãy ghé www.theleaderinme.org nhé.)
Vì thế, khi Simon & Schuster hỏi tôi có muốn viết một quyển sách thiếu nhi dựa trên nền tảng 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt không là tôi hào hứng ngay. Cứ như thể đang học mà được ra chơi vậy.
Giờ đây, tôi đã tin rằng quyển sách này sẽ hữu ích cho các em nhỏ theo ba hướng:
Đầu tiên, sách sẽ dạy các em về ưu điểm của việc sống có nguyên tắc như: có trách nhiệm, lên kế hoạch trước, tôn trọng người khác, làm việc nhóm và cân bằng mọi việc. Trong cuộc sống, các nguyên tắc cũng như lực hút Trái Đất vậy, luôn luôn tồn tại, phủ sóng khắp mọi nơi và là điều rất đỗi hiển nhiên. Và hơn bất kỳ lúc nào khác, thời buổi này đang rất cần đến chúng.
Thứ hai, sách sẽ trang bị cho các em một loại “ngôn ngữ” chung, có thể dùng cả với bố mẹ, thầy cô. Sẽ rất hữu ích khi các em biết cách nói “Con cần phải ưu tiên những việc quan trọng trước”, hoặc “Bố mẹ/Thầy cô hãy cùng con tìm ra phương án để hai ta cùng có lợi nhé”, bởi vì tất cả mọi người đều hiểu những lời này.
Thứ ba, bất kỳ em nào cũng có thể tìm thấy từ quyển sách một nhân vật khiến mình đồng cảm, dù đó là Gấu Goob hay Sóc Sophie. Chính nhờ điều này, các em sẽ dễ ghi nhớ những câu chuyện, cũng như dễ áp dụng 7 Thói Quen vào thực tế hơn.
Khi đọc, các em sẽ nhận thấy mỗi câu chuyện trong sách sẽ khắc họa một thói quen điển hình. Cuối mỗi truyện sẽ có những ghi chú dành cho phụ huynh và giáo viên (gọi là Góc Phụ Huynh), và trong đó sẽ gợi ý vài cách giúp người lớn khơi dậy thói quen vừa nhắc trong truyện nơi các bé. Trong phần này cũng sẽ có một danh sách các câu nên hỏi các bé (gọi là Cùng Con Thảo Luận), cũng như một danh sách các bước nhỏ (mục Từng Bước Dạy Con) để các bé dần làm quen với thói quen ấy.
Ngoài ra, ở cuối sách còn có một sơ đồ khắc họa 7 Thói Quen và cách chúng tác động và hỗ trợ lẫn nhau. À! Đừng quên ghé trang webwww.seancovey.com bổ trợ cho quyển sách này nhé. Trên trang web này có rất nhiều hoạt động thú vị dành cho các bé như: đố vui, trò chơi hay tranh tô màu hình các nhân vật trong truyện để các bé có thể vừa đọc, hoặc nghe đọc, vừa tô màu.
Tôi xin được sát cánh cùng bạn trong hành trình chung với sứ mệnh đầy cao cả của chúng ta: giúp tất cả các bé trở thành những cô cậu bé vui vẻ, hạnh
g g p g phúc.
Gửi đến bạn mọi điều tốt lành nhất!
Sean Covey
MEET THE KIDS OF 7 OAKS - GIỚI THIỆU LŨ NHÓC CỦA THỊ TRẤN BẢY CÂY SỒI
Goob Bear
T
his is Goob the bear. He is the biggest kid in 7 Oaks—but he’s also very friendly. He loves the outdoors and all kinds of bugs. Ants are his favorite bug.
Gấu Goob
Đây là bạn gấu tên Goob. Cậu này to xác nhất ở thị trấn Bảy Cây Sồi nhưng cũng rất thân thiện. Goob thích các hoạt động ngoài trời và các loài bọ, nhất là loài kiến.
Jumper Rabbit
Meet Jumper the rabbit. Jumper loves to play sports. He loves soccer, tennis, baseball, basketball, biking, swimming, and jumping—you name it. He also loves sneakers and owns all different kinds.
Thỏ Jumper
J p
Còn đây là thỏ Jumper. Cậu ấy rất thích chơi các môn thể thao, ví dụ như đá banh, quần vợt, bóng chày, bóng rổ, đạp xe, bơi lội, nhảy cao - nói chung là môn nào cũng thích cả nhé. Ngoài ra Jumper còn thích giày thể thao, cậu ấy có đủ loại cả đấy.
Lily Skunk
Lily is very crafty, especially for a skunk. She loves art. Lily spends most of her time drawing and painting and making all kinds of things. She also loves her little brother, Stink.
Chồn Lily
Lily rất khéo tay, nhất là với loài chồn hôi. Cô ấy rất thích nghệ thuật. Lily dành phần lớn thời gian để vẽ và sáng tác ra đủ kiểu tác phẩm. À! Cô ấy cũng rất thích cậu em trai Stink của mình nữa.
Sammy Squirrel
From the day Sammy was born, he has liked playing with gadgets and fixing things. You will never spot him without a tool or two. Sammy and his twin sister, Sophie, live in a tree house, as all squirrels do.
Sóc Sammy
Từ khi ra đời, Sammy đã thích khám phá và sửa chữa các loại thiết bị, máy móc. Cứ lúc nào bắt gặp Sammy là cậu cũng đang cầm trong tay một, hai món thiết bị. Sammy sống cùng cô em gái sinh đôi Sophie trong một ngôi nhà cây (như tất cả những con sóc khác).
Sophie Squirrel
Sophie is Sammy’s twin sister. Her very favorite thing to do in the world is read. She also loves math. Sometimes she uses really big words that she has to explain to all her friends.
Sóc Sophie
Sophie là em gái sinh đôi của Sammy. Điều cô thích nhất quả đất chính là đọc sách. Cô cũng thích cả môn Toán nữa. Đôi khi cô cứ hay dùng những từ khó, để rồi sau đó lại phải giải thích cho các bạn hiểu.
Pokey Porcupine
Pokey has lots of pointy quills that show what kind of mood he is in. When Pokey is sad, the quills are droopy. When he is excited, they stand straight up. Pokey is really laid–back. He likes to lie around in his hammock all day and play his harmonica.
Nhím Pokey
Pokey có nhiều gai nhọn trên người, và cậu thể hiện cảm xúc của mình qua những sợi gai ấy. Khi Pokey buồn, gai của cậu sẽ rũ xuống. Còn khi cậu hứng khởi, những sợi gai sẽ dựng đứng cả lên. Pokey rất thích sự nhàn hạ, cậu thích nhất là nằm dài trên võng thổi kèn harmonica cả ngày.
Tagalong Allie
And don’t forget Tagalong Allie. She’s a mouse. Allie likes to tag along with everyone in the gang, especially her best friend, Lily Skunk. Allie lives with her granny and loves to dress up in Granny’s shoes and jewelry. And she has lisp.
Allie–Bám–Đuôi
Và đừng quên Allie–Bám–Đuôi nữa nhé. Cô thuộc loài chuột. Allie rất thích bám đuôi các bạn khác đi đây đi đó, đặc biệt là bạn thân nhất của cô ấy – Lily. Allie sống cùng bà ngoại và cô ấy rất thích “trình diễn thời trang” bằng giày và trang sức của bà. Và cô nàng có tật nói ngọng.
This is Ernie the worm
He is very shy, so you have to go looking for him....
Còn đây là sâu Ernie
Cậu hay mắc cỡ lắm, nên các bạn phải ráng tìm mới thấy cậu được nhé.
BORED! BORED! BORED! - CHÁN! CHÁN LẮM! CHÁN ƠI LÀ CHÁN!
S
ammy Squirrel was bored, bored, BORED. “Mom,” he said, “I’m bored. There’s nothing to do.” “How about all those gadgets(*) you collect?” said Mom. “Broken toys, radios, cell phones. You love to tinker around with them.”
(*) Để trau dồi vốn tiếng Anh, con chú ý học những từ được in đậm trong sách nhé.
“But I don’t feel like it today,” said Sammy. “Maybe Sophie can think up a fun thing for me to do.”
Sammy knocked on Sophie’s door. Knock. Knock. Knock. There was no answer.
***
Sóc Sammy đang chán, chán lắm, chán ơi là CHÁN.
– Mẹ ơi – cậu nói – Con chán quá đi mất. Con chẳng có gì làm cả.
– Sao con không chơi mấy chiếc máy con sưu tập được đi? – Mẹ cậu đáp – Mấy thứ đồ chơi hỏng, máy phát thanh, điện thoại di động ấy. Con vẫn thích nghịch chúng mà?
– Nhưng hôm nay con không có hứng gì cả – Sammy trả lời – Thôi để con hỏi Sophie, có thể nó sẽ nghĩ ra trò vui gì đó cho con.
Cốc, cốc, cốc. Sammy gõ cửa phòng Sophie, nhưng chẳng hề có tiếng trả lời.
***
“Sophie’s gone to the library,” said Mom. “She’s returning all those books she checked out last week. And she’ll probably bring a hundred more back to read.”
“At least she’s not bored,” said Sammy.
“Well, you don’t have to be bored either,” said Mom. “Why don’t you see if Pokey can play?”
So off Sammy went to Pokey’s house.
***
– Em Sophie đến thư viện rồi con ơi – mẹ của Sammy nói – Con bé đi trả mấy quyển sách mượn từ tuần trước, nhưng chắc lại mang thêm về cả trăm quyển khác cho mà xem.
– Ít nhất thì nó cũng không bị chán – Sammy nói.
– Con cũng đâu cần phải cảm thấy chán. Sao con không sang chơi với Pokey đi? – Mẹ Sammy gợi ý.
Thế là Sammy lên đường sang nhà Pokey.
***
Pokey was lying in his hammock.
“Hiya, Pokey. Whatcha doin’?”
“What does it look like?” said Pokey. “I’m lying in my hammock.” “I’m bored,” said Sammy. “Can you think of something fun for me to do?” ***
Sang đến nơi, Sammy thấy Pokey đang nằm dài trên chiếc võng của mình. – “Chao xìn” (xin chào) Pokey, cậu đang làm gì thế?
– Nhìn là biết rồi – Pokey đáp – Mình đang nằm võng chứ làm gì.
– Mình chán quá đi mất – Sammy than thở – Cậu nghĩ ra trò gì vui cho mình chơi được không?
***
“Sure,” said Pokey. “Try lying in my hammock.”
‘Ugh,” said Sammy. “That sounds even more boring.”
“I don’t think it is,” said Pokey. “But if you do, why don’t you see what Lily’s doing?”
So off Sammy went to Lily’s house.
Lily was in her playroom, painting a picture.
“Hi, Lily,” said Sammy. “I’m bored. Can you think of something fun for me to do?”
“You bet!” said Lily. “You can help me paint Dottie Doll, and then we can make frames out of red paper or maybe you could paint my tail.”
***
– Được thôi – Pokey nói – Thử nằm võng của mình xem?
– Hừm – Sammy đáp – Trò đó nghe còn chán hơn.
– Mình không cho là vậy – Pokey nói – Nhưng nếu cậu đã nghĩ vậy thì cậu sang tìm Lily xem?
Thế là Sammy lên đường sang nhà Lily.
Sang đến nơi, Sammy thấy Lily đang nằm vẽ tranh trong phòng chơi.
– Chào Lily – Sammy nói – Mình chán quá. Cậu nghĩ ra trò gì vui cho mình chơi được không?
– Sao lại không chứ! – Lily nhận lời ngay – Cậu giúp mình vẽ búp bê Dottie nhé. Vẽ xong bọn mình có thể làm một cái khung tranh bằng giấy đỏ, hoặc cậu có thể tô màu cái đuôi của mình.
***
“Ugh,” said Sammy. “I don’t feel like painting. Can’t you think of something else that’s fun to do?”
“Nope,” said Lily. “I like painting. Why don’t you see what Goob’s up to?” So off Sammy went to Goob’s house.
Goob had his magnifying glass out and was looking at something in the grass.
“Hey, Goob,” said Sammy. “Whatcha doin’?”
***
– Hầy – Sammy kêu lên – Mình không có hứng vẽ vời. Cậu thử nghĩ trò vui khác được không?
– Không – Lily đáp – Mình thích vẽ mà. Sao cậu không sang hỏi Goob xem? Thế là Sammy lên đường sang nhà Goob.
Sang đến nơi, Sammy thấy Goob đang bò ra cỏ quan sát thứ gì đó với chiếc kính lúp trong tay.
– Ơi này Goob – Sammy chào lớn – Đang làm gì đấy, bạn hiền? ***
“Ants!” said Goob. “I’m looking at ants!”
Goob pulled Sammy down next to him. He shoved the magnifying glass into his paws. “Lean down and you’II see hundreds of them. They’re so cool!”
Sammy looked through the glass. “Yikes!” he said. ”I don’t want to look at ants. They’re creepy. Can’t you think of something else that’s fun for me to do?”
“Can’t,” said Goob. “I’m into ants right now. Why don’t you see what Jumper’s up to?”
***
– Kiến! – Goob đáp – Mình đang ngắm kiến!
Goob đưa tay kéo Sammy xuống cạnh mình rồi nhét cái kính lúp vào tay bạn.
– Cúi xuống đây đi, cậu sẽ thấy được cả trăm con kiến. Chúng thật thú vị quá đi mất!
Sammy ghé mắt nhìn qua chiếc kính lúp.
– Oái! – Cậu kêu lên – Mình không muốn ngắm kiến, thấy ghê quá đi. Cậu thử nghĩ trò khác vui vui được không?
– Không được đâu – Goob đáp – Hiện giờ mình đang mê loài kiến lắm. Sao cậu không sang hỏi Jumper xem?
***
So off Sammy went to Jumper’s house.
Jumper was shooting baskets in the driveway.
He dribbled the ball over to Sammy. “Want to get in the game?” he asked.
“No,” said Sammy. “I don’t feel like playing basketball. Can’t you think of something fun for me to do?”
“Watch this,” said Jumper. “I’m the rabbit!” He jumped up and stuffed the ball into the basket. “A slam dunk!”
Sammy sighed. Nobody seemed to have any fun ideas. Maybe he could play with Tagalong Allie. So off he went to her house.
***
Thế là Sammy lên đường sang nhà Jumper.
Sang đến nơi, Sammy thấy Jumper đang chơi bóng rổ trong sân để xe. Cậu vừa dằn banh vừa tiến đến chỗ Sammy.
– Muốn vào chơi một ván không? – Jumper mời.
– Thôi – Sammy từ chối – Mình không có hứng chơi bóng rổ. Cậu thử nghĩ trò khác vui vui được không?
– Nhìn nè! – Jumper hào hứng kêu to – Mình là con thỏ ngầu nhất loài thỏ! Nói rồi Jumper nhảy bật lên và ném banh vào rổ. “Một cú úp rổ quá chuẩn!”
Sammy thở dài một tiếng, có vẻ chẳng ai có ý tưởng gì thú vị cả. Hay là mình sang chơi với Allie–Bám–Đuôi, Sammy nghĩ. Thế là Sammy lên đường sang nhà Allie.
Allie’s Granny was painting the front porch.
“Hi, Granny,” said Sammy. “Where’s Tagalong Allie?”
“She’s in bed with a sore throat,” said Granny.
“Bummer,” said Sammy. He paused. “I’m bored. Do you want to play?” Allie’s Granny laughed. “Can’t, Sammy Squirrel. I’m busy.” “No one will help me have fun,” complained Sammy. “I’m so bored.”
“Well, isn’t that your fault?” asked Allie’s Granny. “You’re in charge of having fun, not somebody else.”
“What do you mean?” asked Sammy.
“I mean, you can make your own fun. You don’t need others to make it happen. Just look around and think about it. You’II find something fun to do.”
Sang đến nơi, Sammy thấy bà ngoại Allie đang sơn cổng vòm trước nhà. – Cháu chào bà ạ – Sammy nói – Allie–Bám–Đuôi đâu rồi hả bà?
– Con bé bị đau họng, đang nằm trong giường đấy cháu – bà đáp.
– Chán thế ạ – Sammy nói, rồi sau một giây ngập ngừng, cậu nói tiếp – Cháu chán quá bà ạ, bà có muốn chơi cùng cháu không?
Bà của Allie bật cười.
– Không được rồi Sóc Sammy ơi, bà bận rồi.
– Chẳng có ai chịu giúp cháu vui vẻ cả – Sammy than phiền – Cháu chán quá bà ạ!
– À, nhưng đó chẳng phải là tại cháu sao? – Bà của Allie đặt câu hỏi – Cháu mới là người quyết định sự vui vẻ của mình chứ không phải ai khác.
– Ý bà là sao ạ? – Sammy hỏi.
– Nghĩa là cháu có thể tự tạo niềm vui cho mình. Cháu không cần ai khác giúp cả. Cháu cứ nhìn quanh và suy nghĩ thử xem. Kiểu gì cháu cũng sẽ phát hiện ra một trò vui thôi.
***
Sammy looked around. He saw clouds. He saw trees. He saw three garbage cans lined up against the house. One had an old radio on top, with wires sticking out in all directions.
Suddenly Sammy’s brain lit up like a flashlight.
“Do you want that old radio anymore?” he asked Allie’s Granny. “No,” she said. “It’s broken. That’s why I threw it away.”
“Can I have it?” asked Sammy. “I love radios!”
“Why, sure,” said Allie’s Granny.
Sammy picked up the radio, carried it home, and set it down on the floor of his room. Then he got started. It took him a few hours to get the radio to work again, but by lunchtime it was fixed. He tied some ribbons around it and pasted stars all over. Then he carried the radio back to Tagalong Allie’s house.
Nghe thế, Sammy liền nhìn quanh. Cậu thấy mây trời, thấy cây cối. Cậu thấy ba cái thùng rác xếp hàng bên hông nhà. Trên nắp một thùng có đặt một chiếc máy thu thanh cũ, dây điện bung ra chĩa tứ tung.
Bỗng nhiên, trong đầu Sammy lóe lên một ý tưởng.
– Bà ơi, bà còn cần chiếc đài đó nữa không ạ? – Sammy hỏi bà ngoại của Allie.
– Không cháu à – bà đáp – Nó hỏng rồi mà. Thế nên bà mới vứt nó đi chứ.
– Thế bà cho cháu nhé? – Sammy háo hức hỏi – Cháu thích máy thu thanh lắm!
– Ồ, được thôi – bà nói.
Thế là Sammy ôm cái máy thu thanh cũ về nhà và đặt nó xuống sàn. Rồi ngay sau đó, cậu bắt tay vào việc. Cậu phải mất những vài giờ mới sửa được cái máy thu thanh, nhưng vừa đến giờ ăn trưa thì nó hoạt động lại ngon lành. Sammy thắt vài sợi ruy–băng quanh chiếc đài và dán thêm nhiều hình dán ngôi sao, rồi cậu khệ nệ ôm chiếc đài sang lại nhà Allie–Bám–Đuôi.
“What do we have here?” asked Allie’s Granny.
“A get–well present for Allie!” said Sammy. “I fixed it so she can listen to the radio while she’s getting over her sore throat. I’m not bored anymore. I finally figured out how to make my own fun.”
“Great!” said Allie’s Granny. “Let’s go inside and show Allie.”
When Allie saw the radio, she broke into a smile as wide as a slice of cantaloupe.
“I wuv da wibbons!” she said.
***
– Chà, gì đây nhỉ? – Bà ngoại Allie hỏi.
– Một món quà chúc bạn Allie mau khỏe, bà ạ! – Sammy khoe – Cháu đã sửa chiếc đài để cậu ấy có thể nghe phát thanh trong khi dưỡng bệnh. Mà cháu hết chán rồi bà ơi. Cuối cùng cháu đã tìm ra cách tự tạo niềm vui cho mình rồi ạ.
– Tuyệt quá! – Bà ngoại Allie kêu lên – Ta cùng vào khoe với Allie nào.
Khi Allie trông thấy chiếc đài thắt nơ, một nụ cười to như miếng dưa gang nở bừng trên gương mặt cô bé.
– “Mìn thít” (mình thích) cái nơ lắm! – Allie ngọng nghịu reo lên.
PARENTS’ CORNER - GÓC PHỤ HUYNH
Habit I—Be Proactive • You’re in Charge
I
can’t count how many times my kids have whined, “Dad, we’re so bored. There’s nothing to do,” as if their boredom were somehow my fault. I’ll respond with something like, “So what are you going
to do about it?” This usually keeps them out of my hair—at least for a little while.
My point is: It’s vital to teach kids to take responsibility for their own lives, for their own fun or boredom, for their own happiness or unhappiness. This is Habit 1—Be Proactive. In other words, take charge of your own life and stop playing the victim.
In this story, you may want to point out to the kids how Sammy tries to blame everyone else—his mom, his friends, life in general—for his boredom. He wants someone to fix his problem and to help him have fun. After talking with Allie’s Granny, he finally figures out that he’s in charge of making his own fun, and he makes it happen.
***
Up for Discussion
1. Why was Sammy bored?
2. Whose fault was it that Sammy was bored? Was it Sophie’s fault? Pokey’s? Lily’s? Goob’s? Jumper’s? Granny’s? Or somebody else’s?
3. What did Allie’s Granny teach Sammy about having fun? 4. Do you ever feel bored? If so, what can you do about it?
5. Who is in charge of the choices you make: you or somebody else? Baby Steps
1. The next time you feel bored, do something nice for someone else, like Sammy did for Allie.
2. Try doing something today that you’ve always been scared to do. Make a new friend, raise your hand in class, or clean the toilet.
3. The next time you get mad and want to say something mean or rude, bite your tongue instead and don’t say it.
4. If you do something wrong, say you’re sorry before someone asks you to apologize.
***
Thói Quen thứ 1: Hãy Chủ Động • Chính con là người nắm quyền
Tôi đã hết đếm nổi số lần mấy đứa con tôi mè nheo theo kiểu “Bố ơi, bọn con chán quá, không có gì làm hết,” cứ như tại tôi mà bọn chúng chán vậy. Tôi luôn trả lời rằng “Vậy các con định giải quyết thế nào?”. Câu này thường sẽ khiến chúng để tôi yên, ít nhất là trong giây lát.
Vì vậy, điều tôi muốn nói ở đây là: việc dạy các bé chịu trách nhiệm cuộc sống của chính mình là điều rất cần thiết. Các bé cần học cách tự quản lý cả sự chán chường lẫn niềm vui, cả hạnh phúc lẫn bất hạnh của bản thân. Và đây chính là Thói Quen thứ 1: Hãy Chủ Động, hay nói cách khác, hãy tự lèo lái cuộc sống của chính mình và ngừng vào vai nạn nhân.
Trong câu chuyện vừa rồi, bạn có thể chỉ cho bé thấy ban đầu Sammy đã cố đổ lỗi cho người khác thế nào – cậu đổ lỗi cho mẹ, cho bạn bè, và nói chung là cho cuộc đời – khi bản thân cậu chán. Cậu mong chờ một ai đó giải quyết vấn đề của mình, giúp mình tìm niềm vui. Nhưng sau khi nói chuyện với bà ngoại của Allie, cậu đã nhận ra rằng cậu mới là người có trách nhiệm tạo niềm vui cho chính mình. Và cậu đã áp dụng ngay điều đó.
***
CÙNG CON THẢO LUẬN
1. Tại sao Sammy lại buồn chán?
2. Sammy chán như vậy là tại ai? Có phải là tại Sophie không? Hay tại Pokey? Lily? Goob? Jumper? Bà ngoại của Allie? Hay là tại ai khác?
3. Bà ngoại của Allie đã dạy Sammy điều gì về cách tìm niềm vui? 4. Con có bao giờ thấy chán không? Lúc đó con sẽ làm thế nào?
5. Ai là người chịu trách nhiệm với những lựa chọn của con: là bản thân con hay ai khác?
TỪNG BƯỚC DẠY CON
1. Lần sau khi con thấy chán, con hãy thử làm một điều tử tế với người khác, như Sammy đã làm với Allie.
2. Con hãy thử một việc gì mà hiện giờ con đang sợ, ví dụ như kết bạn mới, giơ tay phát biểu trong lớp hoặc dọn nhà vệ sinh.
3. Lần sau khi thấy bực mình, khi muốn nói những lời không hay, bất lịch sự, con hãy giữ trong lòng và đừng nói ra.
4. Nếu làm gì sai, con hãy chủ động xin lỗi trước khi người khác yêu cầu con phải làm thế.
GOOB AND THE BUG–COLLECTING KIT - GOOB VÀ BỘ ĐỒ NGHỀ SƯU TẬP BỌ
G
oob was walking by Tootle’s Toy Store when he saw a bug– collecting kit in the window. It was on sale for four dollars.
“Wow!” said Goob. “l’ve wanted a kit like that for a loooong time. But I don’t have four dollars. I need to earn it. I need to come up with a plan.”
Goob went home and wrote out a list.
***
Một hôm khi đang đi ngang tiệm đồ chơi của Tootle, Goob trông thấy một bộ đồ nghề sưu tập bọ bên cửa sổ. Bộ đồ nghề đang được giảm giá, chỉ còn có bốn đô–la.
– Ồ! – Goob kêu lên – Mình vẫn luôn muốn có một bộ đồ nghề như thế. Muốn từ lâuuuuu lắm rồi ấy. Nhưng mình không có bốn đô–la... Mình phải kiếm tiền mới được. Phải có kế hoạch kiếm tiền thôi.
Thế là Goob về nhà và lập một danh sách những việc mình muốn làm:
Goob’s goals
1. Save some $
2. Buy bug-collecting kit
3. Buy present for Allie’s birthday
4. Buy pizza with honey on top
5. Go to movie
***
Danh sách mục tiêu của Goob
1. Tiết kiệm tiền
2. Mua bộ đồ nghề sưu tập bọ
3. Mua quà sinh nhật cho Allie
4. Mua bánh pizza loại có rưới mật ong
5. Đi xem phim
***
Just then, Jumper stopped by.
“What’s that, Goob?”
“I’m making a list of things I want to do,” said Goob.
“Wow! Can I be part of your game plan?” asked Jumper.
“Sure,” said Goob. “I have a great idea—let’s sell lemonade. It’s really hot out and folks will want a cold drink.”
That afternoon, Goob and Jumper set up their lemonade stand. ***
Vừa lúc đó thì Jumper ghé qua.
– Giấy gì đấy Goob? – Jumper hỏi.
– Mình đang lập danh sách những việc mình muốn làm – Goob đáp.
– Chà! Cho mình tham gia vào kế hoạch của cậu với được không? – Jumper hỏi.
– Được chứ – Goob trả lời – Mình có ý này hay lắm, chúng mình bán nước chanh đi. Thời tiết nóng nực thế này, mọi người sẽ muốn uống nước mát lạnh thôi.
Thế rồi ngay chiều hôm đó, Goob và Jumper liền hì hục dựng một quầy bán nước chanh.
Sammy and Sophie were the first to stop by.
“Lemonade!” said Sammy. “I’ll buy a cup.”
“Me too,” said Sophie. “This heat is oppressive.” Goob and Jumper looked at each other.
“I have no idea what you just said,” said Jumper.
“Hot,” said Sophie. “It’s really hot!”
Những vị khách hàng đầu tiên ghé đến chính là Sammy và Sophie. – Nước chanh kìa! – Sammy reo to – Mình sẽ mua một cốc. – Mình nữa – Sophie tiếp lời – Cái nhiệt thiệt ngộp!
Goob và Jumper ngơ ngác nhìn nhau.
– Mình chẳng hiểu cậu mới nói gì cả, Sophie à – Jumper nói. – Nóng chứ gì! – Sophie kêu lên – Mình nói là nóng quá!
Next, Lily Skunk and Tagalong Allie stopped by.
“I’ll buy a cup for Tagalong Allie and two cups for me,” said Lily. “And then Allie and I are going to my house to color—isn’t that right, Allie?”
“Wite,” said Allie.
After a few hours, Goob and Jumper had sold all their lemonade. They had made twenty dollars.
“Wow, we’re rich!” said Goob. “Let’s divide it up. Here’s ten dollars for you and ten dollars for me.”
Tiếp sau đó, Lily và Allie–Bám–Đuôi cũng ghé qua.
– Mình sẽ mua cho Allie một cốc, còn mình thì phải hai cốc – Lily nói – Rồi Allie và mình sẽ về nhà mình để tô màu, Allie nhỉ?
– Phoải – Allie đáp.
Chỉ sau mấy tiếng đồng hồ, Goob và Jumper đã bán hết số nước chanh hai cậu pha và thu được tận hai mươi đô–la.
– Chà, chúng ta giàu to rồi! – Goob vui mừng reo lên – Chia tiền nào. Mười đô–la cho cậu, mười đô–la cho mình.
“Home run!” said Jumper. “I know just what I’m going to spend my money on.” And off he ran to Tootle’s Toy Store.
Jumper bought two candy bars, some bubble gum, and a bag of popcorn, which he ate right away.
– Hết sảy! – Jumper nói – Mình biết mình muốn tiêu tiền vào chuyện gì rồi!
Nói rồi cậu chạy ngay đến tiệm đồ chơi của Tootle, mua ngay hai thanh kẹo, một ít kẹo sing–gum và một túi bắp rang rồi ăn hết liền tại chỗ.
He then got himself a cheap yo–yo, which broke after three tries, and a small squirt gun, which he lost on his way home.
Sau đó, cậu lại mua một cái yo–yo loại rẻ tiền, mới chơi ba lần đã hỏng. Cậu còn mua một cây súng nước nhỏ, nhưng trên đường về nhà thì cậu đánh mất nó luôn.
Meanwhile, Goob went home and read over his list. He put one dollar in a jar for savings.
Còn Goob? Cậu về nhà và kiểm tra lại danh sách của mình. Rồi cậu lấy riêng một đô–la ra, cất vào heo đất.
Next, he went to Tootle’s and bought the bug–collecting kit for four dollars.
Tiếp theo, cậu cầm tiền sang tiệm Tootle mua bộ đồ nghề sưu tập bọ giá bốn đô–la,
He spent two dollars on a little mirror for Tagalong Allie’s birthday present. Cậu mua một chiếc gương nhỏ giá hai đô–la làm quà sinh nhật cho Allie.
On his way home, he stopped at Penny’s Place and bought himself a slice of honey pizza for one dollar.
Trên đường về, cậu dừng ở quán Penny’s Place và tiêu thêm một đô–la vào một lát pizza phủ mật ong.
He still had two dollars left to go to a movie. As Goob was walking along, Jumper caught up to him.
Sau khi đã mua hết những thứ mình cần, Goob vẫn còn lại hai đô–la để đi xem phim. Khi cậu đang rảo bước đến rạp phim thì Jumper chạy lại.
“Where ya headed, Goob?” he asked.
“To the movies,” said Goob.
“I wish I could go,” said Jumper with a sigh. “But I’ve spent all my money.” “On what?” asked Goob.
“Lots of stuff,” said Jumper. “My money just kind of disappeared.”
“You should have planned ahead,” said Goob. “I was able to get everything on my list.”
Jumper’s ears and whiskers drooped. “I guess I dropped the ball,” he said.
– Đi đâu thế Goob ơi?
– Mình đi xem phim – Goob nói.
– Ước gì mình cũng đi được – Jumper thở dài – Nhưng mình tiêu hết sạch tiền rồi.
– Cậu tiêu gì mà hết nhanh vậy? – Goob hỏi.
– Tiêu vào đủ thứ cả – Jumper thú nhận – Tiền của mình cứ như không cánh mà bay hết ấy.
– Đáng lẽ cậu phải lên kế hoạch trước chứ – Goob nói – Mình đã mua được mọi thứ trong danh sách của mình đây này.
Jumper xấu hổ quá, tai và râu đều cụp cả xuống – Có lẽ mình đã sai rồi. ***
“Don’t let it bug you,” said Goob. “Now you know what to do next time.” “Aww, you’re smart,” said Jumper. “Have fun at the movie.”
“You can have fun too,” said Goob. “I have two dollars left – enough for both of us to go to the dollar movie. The Giant Spider Eats the Blob is showing. Come on, let’s go!”
***
– Đừng nghĩ quá lên như thế – Goob khuyên – Giờ thì cậu đã biết cách làm đúng cho lần sau rồi mà.
– Phải, cậu thông thái thật – Jumper nói – Thôi chúc cậu xem phim vui vẻ nhé.
– Cậu cũng có thể vui vẻ được mà – Goob đáp – Mình còn hai đô–la đây, vừa đủ hai vé cho chúng ta ở rạp phim Một đô–la. Ở đó đang chiếu Con Nhện Khổng Lồ Nuốt Chửng Cục Nhầy đấy. Ta đi thôi nào!
PARENTS’ CORNER - GÓC PHỤ HUYNH
Habit 2— Have a Plan • Begin with the End in Mind W
hen I was a boy, my mom always told my brothers and me stories about two little boys named Charles and Remus who were constantly thinking up ways to make money. After
earning money, Charles would live for the moment and blow it all, while Remus always planned ahead and spent his money wisely. (Thanks for this story idea, Mom!) I guess Mom was trying to teach us kids about Habit 2– Have a Plan. It is the habit of vision, or the habit of having a plan.
There are several fun things you can do with “Goob and the Bug–Collecting Kit.” For example, you may want to emphasize why writing down your goals is so important. As the saying goes, “A goal not written is only a wish.” Or you can let the kids practice their math skills by adding and subtracting how Goob and Jumper spend their money. Yet again, you might discuss how planning ahead–whether it be with money, in school, or in life–always leads to good things, including being better positioned to help others, like when Goob was able to invite Jumper to the movies because he had an extra buck on hand.
Up for Discussion
1. What was Goob’s plan?
2. How much money did Goob and Jumper make? How did they divide it? 3. How did Jumper spend his money? How did Goob spend his money? Who spent their money in a better way?
4. How was Goob able to help Jumper in the end?
5. Why is it important to plan ahead?
Baby Steps
1. Lay out your clothes for tomorrow before you go to bed tonight.
2. Get out a pencil and a piece of paper and write down three goals you want to do.
Put the paper in a safe place where you can see it.
3. Tell your mom or dad what you want to be when you grow up.
4. We all have something we need to get better at, like doing our homework, brushing our teeth at night, or obeying our parents. Pick one thing you need to do better. Start doing it.
***
Thói Quen thứ 2: Lập Kế Hoạch
• Xác Định Mục Tiêu Trước Khi Làm
Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi hay kể cho tôi và anh em trai của tôi những câu chuyện về hai cậu bé Charles và Remus lúc nào cũng nghĩ cách kiếm tiền. Nhưng khi đã có tiền trong tay, Charles luôn tiêu phí hết vào những ham muốn nhất thời, còn Remus lại luôn lên kế hoạch trước và tiêu tiền rất cẩn thận. (Cảm ơn mẹ vì đã góp ý tưởng để con viết truyện nhé!) Có lẽ mẹ tôi kể câu chuyện đó là để dạy chúng tôi về Thói Quen thứ 2: Lập Kế Hoạch. Đây là thói quen tạo tầm nhìn xa, hay còn gọi là thói quen lập kế hoạch.
Với câu chuyện Goob Và Bộ Đồ Nghề Sưu Tập Bọ, có khá nhiều điều bạn có thể dạy bé, ví dụ như tại sao việc lên kế hoạch trước lại quan trọng đến thế. Có câu nói, “Mục tiêu mà không viết ra thì chỉ là một mơ ước xa vời”. Hoặc, bạn có thể cho bé tập làm toán bằng cách cộng trừ số tiền mà Goob và Jumper đã tiêu. Hoặc, bạn có thể trò chuyện với bé rằng việc lên kế hoạch
trước luôn dẫn đến kết quả tốt, dù là với tiền bạc, trường lớp hay cuộc sống. Kết quả tốt đó đôi khi chính là khả năng giúp đỡ người khác, cũng như cách Goob đã có thể mời Jumper cùng đi xem phim vì cậu ấy còn dư một đô–la.
CÙNG CON THẢO LUẬN
1. Kế hoạch của Goob là gì?
2. Goob và Jumper đã kiếm được bao nhiêu tiền? Hai bạn đã chia số tiền đó ra sao?
3. Jumper đã tiêu tiền thế nào? Còn Goob? Trong hai bạn, ai là người tiêu tiền thông minh hơn?
4. Ở đoạn cuối, Goob đã giúp gì cho Jumper?
5. Tại sao việc lên kế hoạch trước lại quan trọng?
TỪNG BƯỚC DẠY CON
1. Tối nay trước khi đi ngủ, con hãy chuẩn bị sẵn quần áo cho ngày mai.
2. Hãy lấy một cây bút chì và một tờ giấy, rồi viết ba mục tiêu con muốn thực hiện vào đó. Sau đó, con hãy cất tờ giấy ở nơi an toàn nào vừa tầm mắt mình.
3. Hãy nói cho bố mẹ biết khi lớn lên con muốn làm gì.
4. Ai cũng có những điều muốn tiến bộ hơn, ví dụ như làm bài tập, đánh răng buổi tối, nghe lời bố mẹ. Con hãy chọn một điều bản thân con muốn tiến bộ và bắt tay vào luyện tập nó.
POKEY AND THE SPELLING TEST - POKEY VÀ BÀI KIỂM TRA ĐÁNH VẦN
O
ne Monday, Pokey sat in class watching Ms. Hoot write six words on the blackboard: play fun have for you drum
“These words will be on Friday’s spelling test,” said Ms. Hoot. “Be sure you study every night, and then you’ll spell these words just right!”
After school, Pokey went home and took a nap.
Ding–dong! Someone was at the door. It was Sammy.
“Hiya, Pokey,” said Sammy. “Do you want to go to the dump and look for some gadgets?”
***
Một buổi sáng thứ Hai nọ, cô Hoot – cô giáo của Pokey – viết lên bảng sáu chữ: play (chơi), fun (vui vẻ), have (có), for (dành cho), you (bạn), drum (trống).
– Những chữ này sẽ nằm trong bài kiểm tra đánh vần thứ Sáu này nhé các con – cô Hoot nói – Nếu tối nào các con cũng chăm chỉ học thì các con sẽ đánh vần được chính xác thôi.
Sau khi tan trường, Pokey đi thẳng về nhà và ngủ một giấc. Tính–toong! Có ai đó gọi cửa – thì ra đó là Sammy.
– Chào Pokey – Sammy nói – Cậu có muốn ra bãi phế liệu tìm thiết bị với mình không?
Pokey knew he should study, but going to the dump sounded like more fun. “Sure,” said Pokey.
***
Trong lòng Pokey biết mình phải học bài, nhưng nghĩ lại thì đi bãi phế liệu vui hơn nhiều. “Được thôi,” Pokey đáp.
When they got there, Pokey saw an old drum. He thumped it lightly. Dum–dum–duuuuuum–dum.
“Awesome!” said Pokey. He carried the drum home. He played it for the rest of the afternoon.
***
Ở bãi phế liệu, Pokey tìm thấy một cái trống cũ. Cậu gõ nhẹ vào mặt trống. Thùng–thùngggg–thùngggg–thùng.
– Tuyệt cú mèo! – Pokey reo lên. Cậu mang cái trống về nhà rồi chơi với nó suốt cả buổi chiều.
On Tuesday, Lily Skunk and Tagalong Allie stopped by Pokey’s house.
“Allie and I just made some chocolate–chip cookies. They’re sooooo yummy,“ said Lily.
“Wanna twy thum?” said Allie.
“What?” said Pokey.
“Do you wanna try some?” said Lily.
“I have to study for my spelling test,” said Pokey. “But … I guess I can do that later.” So off he went to Lily’s house.
***
Ngày tiếp theo là thứ Ba. Chồn Lily và Allie–Bám–Đuôi ghé chơi nhà Pokey.
– Allie với mình vừa làm một ít bánh quy hạt sô–cô–la này. Ngooooon cực kỳ luôn – Lily khoe với Pokey.
– Cậu có mún ăng hử hông? – Allie tiếp lời.
– Cậu nói gì? – Pokey không hiểu.
– Cậu muốn ăn thử không? – Lily nói.
– Mình còn phải học bài cho kỳ kiểm tra đánh vần sắp tới – Pokey chần chừ – Nhưng mà... Chắc để sau cũng được.
Thế là cậu lên đường đến nhà Lily.
When Pokey got back, he played his drum. Then he played his harmonica. Then he fell asleep.
Khi về nhà, Pokey lại chơi trống một lúc, rồi chuyển sang nghịch kèn harmonica. Nghịch chán, cậu bèn lăn ra ngủ.
On Wednesday afternoon, Pokey went on a butterfly hunt with Goob. Đến chiều thứ Tư, Pokey lại đi bắt bướm với Goob.
And on Thursday afternoon, he took a bicycle ride with Jumper. Và chiều thứ Năm cậu đi đạp xe với Jumper.
When he got home, he remembered that the spelling test was the next day and he hadn’t studied even one word. He took out his spelling cards. He taped them to the wall.
play fun have for you drum
***
Đến khi về nhà, Pokey mới nhớ ra ngày mai chính là ngày có bài kiểm tra đánh vần, mà cậu ấy thì chưa học lấy một chữ! Khi đó Pokey mới bắt đầu lấy các thẻ học từ ra và dán lên tường.
Pokey tried to write them down, but the letters swam in front of him like fish.
Pokey cố gắng viết chúng thật chính xác, nhưng những chữ cái cứ bơi lượn trước mặt cậu ấy như cá vậy.
There were too many words to learn in just one night. The more Pokey tried to memorize them, the more confused he got. He finally gave up and went to sleep.
The next day, Pokey failed the test. He spelled every word wrong except for drum.
“ What happened?” asked Ms. Hoot. “Didn’t you study? I know you could have done better.”
***
Quá nhiều chữ phải học, trong một đêm Pokey không thể nào học xuể. Cậu càng cố nhớ thì đầu óc càng bị rối. Cuối cùng, cậu đành bỏ cuộc và lên giường đi ngủ.
Sáng hôm sau, quả nhiên Pokey đã không làm bài tốt. Cậu đánh vần sai hết tất cả các chữ, trừ chữ Trống.
– Sao vậy, Pokey? – Cô Hoot hỏi – Em không học bài sao? Vì cô biết khả năng của em hơn thế này nhiều.
“I kept finding other things to do,” said Pokey.
Sophie was standing nearby. “You shouldn’t procrastinate,” she said. “Huh?” said Pokey.
“I mean, you should have put first things first,” said Sophie. “Done your homework first, then had fun later.”
Ms. Hoot agreed. She told Pokey he could take the test again next Friday. “And this time, don’t wing it!” she said.
***
– Em cứ bị xao nhãng bởi các việc khác, thưa cô – Pokey giãi bày. Sophie đang đứng gần đó liền góp ý. – Cậu không nên trì hoãn mọi việc như thế – cô bé nói.
– Cậu bảo gì cơ? – Pokey hỏi.
– Ý mình là việc gì phải làm thì cậu nên làm – Sophie giải thích – Đáng lẽ cậu nên làm bài tập trước rồi mới chơi gì thì chơi.
Cô Hoot cũng đồng tình với lời khuyên đó. Cô nói với Pokey rằng cậu ấy có thể làm lại bài kiểm tra vào thứ Sáu tới.
– Mà lần này em đừng làm đại đấy nhé! – Cô dặn.
Pokey went home. He looked at his new drum.
Dum–dum–duuuuuuum–dum he heard in his head.
He looked at his spelling words.
***
Hôm đó khi về nhà, Pokey nhìn chiếc trống mới của mình và bên tai cậu như đang nghe thấy âm thanh náo nhiệt của nó. Thùng–thùngggg–thùngggg– thùng.
Rồi cậu nhìn sang các thẻ từ.
***
Ding–dong. Someone was at the door. It was Sophie. “I came to help you study,” she said.
They worked for a whole hour without stopping once.
***
Tính–toong. Có người gõ cửa, là Sophie. – Mình sang giúp cậu học đây – Sophie nói. Thế rồi họ cùng nhau học suốt một tiếng đồng hồ không nghỉ.
Ding–dong. Someone else was at the door. It was Jumper.
“Wanna play baseball?” he said.
“Can’t, Jumper,” said Pokey. “I’m studying.”
“You’re what?”
“Studying,” said Pokey.
“That’s cool,” said Jumper.
“Catch you another time.” And off he ran.
***
Tính–toong. Lại có người gõ cửa, là Jumper.
– Chơi bóng chày không, bạn hiền? – Cậu hào hứng rủ.
– Không được Jumper ơi – Pokey tiếc nuối đáp – Mình đang bận học. – Cậu bận làm gì cơ?
– Học – Pokey lặp lại.
– Hay nhỉ – Jumper nói – Thế lần khác chơi nhé. – Nói rồi, Jumper vội vàng chạy đi.
Pokey studied a little bit each day. On Friday, he took the test again. “Fur and feathers!” said Ms. Hoot. “You got a perfect score!”
Pokey’s quills poked out all over! He wanted to thank Sophie. He went home and got his drum. He took it to her house and left it with a note.
***
Từ đó đến thứ Sáu, mỗi ngày Pokey lại học một chút. Rồi ngày làm kiểm tra lại cũng đến.
– Ôi thần linh các loài chim ơi – cô Hoot reo lên – Em làm đúng hết rồi!
Nghe vậy, những sợi gai của Pokey liền dựng đứng cả lên! Rồi Pokey muốn cảm ơn Sophie đã giúp mình học, nên khi về nhà, cậu liền lấy cái trống của mình ra và mang sang nhà Sophie kèm theo một tấm thiệp.
PARENTS’ CORNER - GÓC PHỤ HUYNH Habit 3—Put First Things First • Work First, Then Play
I
t’s funny how kids will spend thirty minutes complaining about their chores, not realizing they could have completed them in the same amount of time they spent complaining. Go figure. Indeed, putting
first things first is hard. In fact, of all the habits, it’s the hardest one to keep. Why? Because we’re all somewhat addicted to doing the urgent thing or the easier thing first. Yet if we don’t teach our kids to delay gratification and do the hard thing (or first thing) first while they are young, they may learn too late or not at all. In this story, be sure to point out how awful it can feel when you procrastinate and put things off, like when Pokey crammed the night before the test. Contrast that with how good it feels when you are prepared. As a wise person once put it, “Do what you have to do so you can do what you want to do.”
Up for Discussion
1. Why did Pokey put off studying for his spelling test? What did he do instead?
2. How did Pokey feel the night before the first test?
3. What does procrastinate mean? What did Sophie teach Pokey about procrastination?
4. How did Pokey feel after he studied all week and aced his spelling test? 5. Why is it so important to put first things first?
Baby Steps
1. What are some of your most important jobs or responsibilities? Practicing the piano? Making your bed? Doing your homework? Taking out the garbage? Talk about them with your mom or dad.
2. Tomorrow surprise your parents and do your chores before they even ask.
3. The next time you have a lot of homework to do, do the hardest part first.
4. Think of something you’ve been putting off for a long time, like cleaning up your room, pumping up that tire on your bike, or fixing that broken dresser drawer. Go do it right now!
***
Thói Quen thứ 3: Ưu Tiên Những Thứ Cần Ưu Tiên • Làm việc trước, chơi sau
Mỗi lần phải làm việc nhà, bọn trẻ con đứa nào cũng thở ngắn than dài hết cả nửa tiếng đồng hồ mà không nhận ra rằng trong thời gian ấy, chúng đã có thể làm xong hết việc rồi. Buồn cười nhỉ, nhưng không lạ. Quả thật việc ưu tiên những điều cần ưu tiên là rất khó, nếu không nói là thói quen khó nhất để luyện thành. Đó là vì chúng ta thường bị “nghiện” làm những việc gấp hoặc dễ dàng trước.
Nhưng nếu chúng ta không tập cho con cái mình cách hoãn hứng thú lại để làm việc khó (hoặc việc ưu tiên) trước từ khi còn bé, có thể con bạn sẽ phải tự học khi đã lớn, hoặc có thể sẽ chẳng bao giờ học được. Trong câu chuyện vừa rồi, bạn nhớ chỉ cho bé thấy khi ta trì hoãn trách nhiệm của mình, hậu quả sẽ tệ thế nào. Như lúc Pokey phải học gấp ngay trước ngày kiểm tra vậy đó. Hãy chỉ cho bé thấy rằng cảm giác tồi tệ đó trái ngược thế nào với cảm giác tuyệt vời khi mình đã chuẩn bị sẵn sàng. Một nhà thông thái đã nói: “Hãy làm những việc mình cần làm trước để có thời gian làm những việc mình muốn làm”.
CÙNG CON THẢO LUẬN