🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 64 Mùa Valentine Đợi Em - Anne Stuart full prc pdf epub [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo cu 64 mùa Valentine đợi em Tác giả: Anne Stuart Người dịch: Dương Hậu Nhà xuất bản: Văn học Đơn vị phát hành: Amak Sách: Trần Ngọc Tuyền Chụp & tách pic: Devil Beta: Bland Land, Hạt Bồ Đào, Thiên Hương Đỗ Hiệu chỉnh: Tiểu Lãnh Ebook: Devil Giới thiệu Chương 1 Oº°‘¨ ¨‘°ºO Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Oº°‘¨ ¨‘°ºO Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Oº°‘¨ ¨‘°ºO Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Giới thiệu Valentine đối với người này có thể là hoa tươi và sô-cô-la, hạnh phúc và đầy tiếng cười, nhưng Valentine với một ai đó cũng chỉ là một ngày như bao ngày khác, họ tiếp tục chờ đợi một tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Nhưng, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều đã nghe rằng, “Tình yêu là một quá trình và chỉ đến với những ai có đủ kiên nhẫn”. Và vì thế, những tâm hồn cô đơn hãy cứ tiếp tục đi rồi sẽ gặp, cho dù năm tháng chờ đợi có dài bao lâu cũng sẽ được đền bù xứng đáng. Lại một mùa Valentine nữa sắp đến, nhưng dù là người đã may mắn tìm được một nửa của mình hay còn đang mải miết đi tìm tình yêu đích thực, có một câu chuyện của Anne Stuart mà các bạn không nên bỏ qua. Đó là 64 mùa Valentine đợi em - một cuốn tiểu thuyết nóng bỏng và hấp dẫn, hài hước và kịch tính, hứa hẹn sẽ lôi cuốn người đọc ngay từ những trang đầu tiên. Quả thật, ấm áp biết bao khi chúng ta được tận hưởng những cung bậc tình cảm của hai nhân vật J ames và Helen trong truyện, cùng họ trải quanhững cung bậc trong tình yêu với mọi sắc thái, trại huống thực tế, và biết đâu sau khi gấp cuốn sách lại, cánh cửa tình yêu mà mỗi người đang tìm kiếm cũng bắt đầu mở ra... Tóm tắt nội dung 14/2 hàng năm - ngày tuyệt vời cho mọi người bày tỏ, sẻ chia tình cảm của mình với những người thân yêu nhất. Thế nhưng, có một kẻ không háo hức trông chờ, thậm chí còn ghét ngày này nữa. Tại sao ư? Vì gã là J ames Sheridan Rafferty và đã chết tron vụ thảm sát ngày 14/2/1929 tại Chicago. Chết rồi thì sao? Thì mong được chết cho an lành, vậy màkhông hiểu sao, gã lại thấy mình sống lại vào ngày 13/2 và biến mất đi đâu đó mà gã cũng chẳng biết vào nửa đêm ngày 14/2 hàng năm. 48 giờ chả mấy vui vẻ. Đơn giản vì mấy người bạn cùng chết với gã cũng xuất hiện cùng thời gian đều tìm được nửa kia đích thực và có cuộc sống gia đình vô cùng hạnh phúc, có thể gọi là những tên găng-xtơ hoàn lương. Dĩ nhiên bọn họ thật sự sống lại, chỉ còn mỗi mình gã lẻ loi, đơn chiếc từ năm này qua năm khác suốt 64 năm. Cho đến năm nay, gã xuất hiện trở lại với sứ mệnh giúp đỡ cậu nhóc đồng bạn đang gặp rắc rối với pháp luật. Một cuộc gặp gỡ không mong chờ giữa một tay găng-xtơ và một công tố viên xuất thân từ một gia đình cảnh sát nhà nòi. Đúng là oan gia ngõ hẹp. Helen Emerson thức dậy vào một buổi sáng tháng 2 lạnhmướt. Nếu là ngày khác thì có lẽ chẳng sao cả, nhưng hôm ấy lại là thứ Sáu ngày 13, thiệt vô cùng tồi tệ, y như những năm trước. 6h30 sáng, kẻ nào lại bấm chuông cửa nhà cô? Đó là một anh chàng điển trai nhưng trông đầy vẻ đen tối, đại diện cho bị cáo của cô. Nhưng điều gì xui khiến cô để cô đồng ý đi ăn sáng với anh chàng đó, gặp gỡ anh ta và có những cảm xúc rộn ràng? Cô không biết, không hiểu nổi. 48 giờ quay lại thế giới thực ấy, J ames đã khám phá ra rất rất nhiều điều mà gã chưa từng cảm nhận trước đây. Liệu Helen cóphải là định mệnh của gã trong mùa Valentine thứ 65 này không? Liệu gã có thoát khỏi cái vòng tròn lẩn quẩn xuất hiện - biến mất - xuất hiện… đến nhàm chán này không? Có những sự trùng hợp vô tình đến lạ kỳ, và chuyện gì cũng có lý do của nó mà có khi không ai hiểu nổi tại sao, chắc chỉ có bàn tay vô hình sắp đặt những điều ấy mới biết rõ mà thôi... Không nhất thiết khi nói đến tình cảm thì người viết sẽ phải dùng đến một ngòi bút ướt át và ủy mị, cũng không cần đến những khung cảnh được miêu tả đẹp như mơ bởi đời thực luôn khiến độc giả rung động một cách sâu sắc nhất. Chính vì thế mà người đọc đã được gặp cặp đôi J ames Sheridan Rafferty - HelenEmerson trong 64 mùa Valentine đợi em, sự kết hợp giữa một tội phạm khét tiếng vô tâm và một nữ công tố nổi tiếng nghiêm minh. Sẽ là một tình yêu bi kịch nếu như anh không được phép trở lại trần gian mỗi năm hai ngày ngắn ngủi trong lễ Tình yêu... Thông tin tác giả Tác giả Anne Stuart (sinh ngày 02 tháng 05 năm 1948) tên đầyđủ: Anne Kristine Stuart, là một tiểu thuyết gia lãng mạn nổitiếng của văn học Mỹ, là một bậc thầy lớn trong giới văn học, đã sống và làm việc hơn 35 năm trong ngành xuất bản. S các tác phẩm của Anne Stuart đã lên đến con số 100 và vì những đónggóp không ngừng nghỉ của mình, bà đã vinh dự nhận được giải thưởng thành tựu trọn đời từ Hội nhà văn lãng mạn Hoa Kỳ.Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Anne được phát hành vào năm1974 và kể từ đó trở đi, các tác phẩm được giới thiệu đến công chúng của bà luôn nhận được sự yêu mến đặc biệt và mang về cho Anne nhiều giải thưởng văn học danh giá như RI TA, ARR..Một số tác phẩm tiêu biểu của Anne Stuart:Hắc băng, Thiên thần sám hối, 64 mùa Valentine đợi em... Gửi đến J ulie Kistler, người đã hỗ trợ tôi về mặt pháp lý cũngnhư cố vấn về khu vực Chicago. Bất cứ nhầm lẫn nào ở đây đều là lỗi của cô ấy. Yêu cậu, Julie. •°o.OO.o°• Cuốn tiểu thuyết này dựa trên những sự kiện có thật xảy ra vào sáng ngày 14 tháng 2 năm 1929, tại một gara cũ ở Chicago. Tên tuổi cùng thân thế của các nạn nhân đã được thay đổi; những chi tiết liên quan đến vụ thảm sát về cơ bản đều được giữ nguyên. Chương 1 Helen Emerson bật dậy trên giường và thét. Tiếng thét của côbị không khí nuốt chửng trước khi cô kịp đưa tay bịt miệng để ngăn lại âm thanh kinh hoàng. Một lát sau, cô mò mẫm bật chiếc đèn cạnh giường, xua những bóng ma trở vào nơi cư ngụ trong bóng tối. Cô rụt tay lại và nhận ra chúng đang run rẩy. Thõng chân xuống giường, cô khẽ lắc đầu. Năm rưỡi sáng, vàcô không thể nhớ nổi giấc mơ. Không thể nhớ nổi cơn ác mộng ghê rợn xé toạc cô khỏi giấc ngủ yên bình, và cô cũng không chắc mình có muốn nhớ lại không. Vài ấn tượng còn rơi rớt lại sâu trong tâm trí cô. Một âm thanh ầm ầm nào đó, loại âm thanh rất khó định hình. Và tiếng chó sủa. Cô lắc đầu, lùa bàn tay vào mái tóc nâu ngang vai. Ít nhất trong mắt mọi người cô là một phụ nữ thực tế - điều cô luôn tự hào, nên cơn ác mộng vừa qua đơn giản chỉ là một cơn ác mộng mà thôi. Nhưng đây không phải cơn ác mộng đầu tiên. Rất khó xácđịnh chúng là cùng một giấc mơ liên tục ám ảnh cô hết lần này đến lần khác, bởi lần nào cũng vậy, một khi tỉnh giấc cô không nhớ gì về chúng. Nhưng có một thứ bất biến, âm thanh như sấmrền, như hàng nghìn tiếng trống không bao giờ thay đổi. Và tiếng tru hoảng loạn của một con chó. Cố buộc bản thân rời khỏi giường, cô kéo mạnh chiếc áo phông ngoại cỡ xuống và bần thần đi vào bếp. Cô bật máy pha cà phê, rồi lơ đễnh xem cuốn lịch. Thứ Sáu ngày mười ba. Chẳngtrách sao cô lại gặp ác mộng. Helen nhìn chăm chăm ra ánh ban mai bên ngoài. Tháng Haihẳn là tháng lạnh giá nhất, đặc biệt ở một thành phố như Chicago. Ngọn gió quất mạnh lên mặt hồ, tê cóng đến tận xương, và cả thế giới cứ như phủ một màu xám xịt và hoang vắng. Một tháng nữa thôi hoa sẽ nở khắp cả nửa khu vực quanh đây. Còn giây phút này, ngay cả bóng ma ngớ ngẩn của ngày Valentine cũng không thể xua đi muộn phiền trong trái tim Helen. Cô không chờ nổi cho đến khi cà phê được pha xong. Cô rót một tách rồi thơ thẩn trở ra phòng khách. Cô yêu tòa nhà cũ này, nhất là căn hộ cô đang ở. Sau nhiều thập kỷ suy thoái, số 1322 phố Elm nằm ở phần cuối trong quá trình tái thiết thành phố, và Helen đã cố hết sức để đưa vẻ cổ kính trở lại nơi đây như lúc đầu. Tòa nhà từng là một trong những khu nhà thanh lịch nhất Chicago, nhưng hàng năm trời bị bỏ bê đã cướp đi hầu hết vẻ đẹp của nó. Rồi nó bị bỏ hoang, cứ nằm đó chờ người đủ tiền và sức lực đến cứu rỗi. Với đồng lương của một trợ lý công tố, Helen rất khó kiếm đủtiền, nhưng cô có thừa sức lực. Cô không có người đàn ông nào làm cô phân tâm, không có người ngày mai sẽ mang cho cô những lời chúc cùng sôcôl thậm chí không có người để cô gửi thiệp. Và cô lại có thể phung phí tình yêu của mình cho tòa nhà cũ kỹ, như mọi khi. Không, khỉ thật. Các anh trai của cô chắc chắn sẽ gửi thiệpchúc mừng. Họ luôn bỏ qua mục đích nguyên bản của dịp lễ. Nghĩ đến đây, cô cũng đã chuyển lời chúc đến bảy đứa cháu trai và cháu gái của cô rồi. Có lẽ cô chỉ cần quên tên gọi của ngày mười bốn tháng Hai và tập trung vào món sôcôla thôi. Ít nhất năm nay nó cũng rơi vào thứ Bảy. Thế nên cô sẽ khôngphải đối phó với tất thảy hớn hở gượng gạo, những lời bình luận bâng quơ và những trò chơi nho nhỏ ở chỗ làm. Hơn nữa công việc hiện tại cũng không khiến cô cảm thấy vui vẻ. Nếu hàng ngày đều phải đối mặt với đủ loại tội phạm thì ai phấn khởi nổi đây?! Cô uống thêm một ngụm lớn cà phê, thầm nghĩ cách trốn việc ngày hôm nay. Có thể báo ốm hoặc viện cớ sức khỏe suy nhược. Thời gian này tất cả mọi người đều cần một ngày dành cho tinh thần khỏe mạnh [1] - chắc chắn thứ Sáu ngày Mười ba sẽ hội tụđủ tiêu chuẩn cho cô xin nghỉ. Rồi cô sẽ có thêm hai ngày để ra quyết định cuối cùng về Billy Moretti. [1] Metal helth: khả năng bộ máy tâm lý hoạt động hợp lý, hiệu quả, hay trạng thái tinh thần hoàn toàn thoải mái. Nhưng cô là một phụ nữ có trách nhiệm, và hai ngày cũng đâu làm nên khác biệt. Cô là một công tố viên, mặc dù chỉ mới ở cấp khởi đầu, còn Billy Moretti là người phạm tội. Nhiệm vụ của cô là đảm bảo hình phạt dành cho cậu ta. Ngay cả khi việc ấy cho cô cảm giác mình đang đá một chú cún con không nơi nương tựa. Cô bước quanh nhà, mặc kệ hóa đơn tiền điện tăng cao để bật sáng tất cả các bóng đèn. Đây sẽ là một ngày lạnh lẽo đầy gió, ảm đạm, muộn phiền, và cô cần gom hết mọi ánh sáng trong tầm tay. Có lẽ cô nên đi làm sớm, đối mặt với vụ MoreĴi cùng vô vàn khó chịu khác rồi chuồn sớm vào đầu giờ chiều. Tự thết đãi bản thân bằng một bữa trưa muộn, tao nhã, hay thậm chí còn có thể đi mua sắm nữa. Chẳng phải “khi cảm thấy chán nản, hãy tìm niềm vui trong mua sắm” sao? Chắc chắn sẽ có thứ gì đó để cô tiêu tốn tiền bạc. Dù chẳng có việc gì để làm đến mức phải lôi các bộ phim cổ lỗ sĩ ra xem lại thì cô cũng quyết tâm tan làm sớm. Cô uống nốt cà phê, rùng mình trong bầu không khí lành lạnh, rồi đi về phía phòng tắm. Đắm mình trong vòi nước nóng thật lâu sẽ gạn rửa đầu óc, đánh thức cô dậy và cho cô thêm dũng khí đối mặt với một ngày mới. Nhưng khi cô đứng dưới dòng nước như trút, cô nghĩ mình vừa nghe thấy tiếng thình thình như sấm vọng lại từ xa. Và tiếng tru thê lương của một con chó. *** J ames Sheridan Rafferty dựa vào tòa nhà xây từ gạch cũ vànhắm mắt. Gã nhớ lần đầu tiên quay trở lại đây, và nỗi sợ hãi xâm chiếm gã. Gã nhớ lần trở về tìm cái gara tan hoang, đổ nát ở chốn cũ. Chết tiệt, gã lạnh. Hai bàn chân gã đang đóng băng, gió thì quất liên hồi vào chiếc áo khoác cũ kỹ mà đến một đôi găng tay gã cũng chẳng có. Gã xọc tay vào túi, run rẩy, và mê mải trong những cảm giác rất tự nhiên. Gã đói. Gã lạnh. Gã chai như đá. Gã mở mắt, lôi mảnh giấy nhàu nhò ra khỏi túi, đây là thứ Mary MoreĴi với đôi mắt mở to và van lơn đã đưa cho gã. Quaylại Chicago chỉ trong vài giờ và cuộc nán lại ngắn hạn của gã đang có nguy cơ bị mang ra trưng dụng. Gã không nên thấy hối tiếc. Gã luôn quý Billy MoreĴi. Tronsố tất cả bọn chúng, Billy là đứa không đáng hứng chịu số phận bi thảm đó nhất. Cậu ta chỉ là một thằng nhóc, và so với đámcùng lứa là một đứa rất được. Đủ trẻ để mắc sai lầm. Đủ lớn để đúc rút bài học từ sai lầm, và bước tiếp. Nếu có cơ hội thứ hai. Mary đang sợ hãi, điều cũng không đáng ngạc nhiên. Con bémới mười chín tuổi, bụng mang dạ chửa và chồng thì đang có nguy cơ lĩnh án phạt tối đa ở nhà tù J oliet. Người duy nhất conbé có thể trông cậy là J ames Sheridan Raffety, kẻ khiến con bé sợchết khiếp. Gã không thể trách con bé. Gã khiến rất nhiều người phát hoảng, một sự thật hiếm khi gã bận tâm. Là do cái gì đó ở vẻ im lìm của gã. Cái gì đó ở đôi mắt gã. Cái gì đó ở thân phậngã, điều bất cứ ai cũng hoài nghi nhưng không bao giờ thấu hiểu cặn kẽ. Từ đó có phản ứng sợ gã là đương nhiên. Giống cách Mary MoreĴi phản ứng với gã. Nhưng sẽ khônđáng bận tâm một khi Billy yêu dấu của con bé đang gặp nguy hiểm. Vì an nguy của Billy con bé sẵn sàng đối mặt với ác quỷnếu cần. Qua nỗi sợ hãi hiện rõ trong đôi mắt đen, gã thừa biết con bé đang cho rằng gã là ứng viên trời định cho công việc của quỷ Sa T Làm sao gã có thể từ chối đây? Nhưng nếu gã chỉ có bốn mươi tám giờ ở Chicago thì sao? Bốn mươi tám giờ để nhồi nhét toànbộ cả một năm cuộc đời gã? Gã đang dần học cách sống có trách nhiệm, dù việc này ngốn đến hàng thập kỷ. Gã đang dần học được cách quan tâm đến người khác. Còn Billy lúc nào cũng ủnghộ gã, bất cứ lúc nào. Ngoài giúp đỡ thằng nhóc, gã không còn lựa chọn nào khác. Gã liếc xuống mảnh giấy được Mary viết ngoáy. HelenEmerson. Trợ lý công tố bang. Gã lắc đầu. Gã có thể sẽ không bao giờ giải quyết trót lọt chuyện này. Một nữ công tố. Chết tiệt, có khi cô ta có cả một thư ký nam cũng nên. Cái thế giới này càng lúc càng trở nên gàn dở. Gã rút một điếu thuốc từ vỏ bao nhăn nhúm trong túi áo khoác và châm lửa, khum hai tay che que diêm gỗ khỏi ngọn gió. Điếu thuốc lá đầu tiên trong một năm, và có vị tuyệt vời. Thêmmột rắc rối khác - càng ngày càng ít người hút thuốc lá. Cho nên gã khó kiếm nổi một chỗ châm thuốc mà không bị ai đó trợn mắt, rồi diễn thuyết cả một tràng về tình trạng hai lá phổi của gã. Gã thường xuyên lịch sự và lạnh lùng lắng nghe làm nhiệt huyết của chiến binh thập tự chinh kia teo tóp, rồi hoàn toàn mất nhuệ khí trước sự tĩnh lặng toát ra từ gã. Chắc chắn nếu không xem trước có thể làm gì cho Billy, đảmbảo các kế hoạch trong bốn mươi tám giờ tới của gã cũng không thể nhanh chóng bắt đầu. Giờ là sáu giờ sáng - cô Emersonđương nhiên sẽ không đi làm cho đến chín giờ. Còn lâu gã mới chịu ở yên một chỗ chờ đợi. Quẳng ba giờ vào nhà vệ sinh thì quá lãng phí. Gã sẽ đi tìm cô Helen Emerson kia để xem cô ta có biết điềukhông, vẻ quyến rũ được thời gian tôi luyện của gã sẽ rất hữu dụng một khi gã chủ tâm dùng đến nó. Cho nên duy trì một cuộc nói chuyện ngọt ngào khiến phụ nữ quên hết trách nhiệm quá đơn giản. Hay nói cách khác, gã luôn có cách để cho cô ta một lời đề nghị không thể chối từ. Ước sao gã chỉ việc quên đi Billy. Chỉ cần tận hưởng nhữngngày lưu lại Chicago với mưu cầu lạc thú đặt lên hàng đầu, giống bao năm trước. Nhưng giờ gã đâu còn như xưa. Thời gian đã làm thay đổi gã. Gã không thể chỉ biết hưởng thụ một mình mà không b tâm đến Bill đang mắc kẹt trong tù. Nghĩ đến người vợ mang thai và đanghoảng sợ của thằng nhóc. Gã phải làm gì đó, càng sớm càng tốt. Địa chỉ trên phố Elm quen thuộc đến đáng lo ngại, sự quen thuộc gã không biết diễn tả ra sao. Nó từng là một phần của khu đô thị phồn hoa tấp nập hơn nhiều so với những gì trong trí nhớ của gã. Và rồi sau đó xuống dốc, trở thành khu ổ chuột, và dù có sống bằng đồng lương viên chức eo hẹp đi chăng nữa, gã cũng không hình dung nổi một công tố viên lại đang sống ở đây. Nhưng giờ gã nên quen với những bất ngờ, và cô Helen Emersonnày sở hữu quyền sinh sát với Billy MoreĴi. Cho nên đem sosánh với nhiều điều thiết yếu khác thì sống trên phố Elm cũng có làm sao. Gã yên tâm bắt taxi, bởi gã biết ví của gã vẫn đầy tiền. Đến khi chiếc xe dừng lại bên ngoài dãy phố thì gã chồm người về phía trước. “Này, anh bạn”, gã nói với tài xế. “Giờ là năm bao nhiêu?” “Anh đang đùa đấy à?” Người lái xe ngoái lại nhìn chằm chằm hành khách của mình. “Không đâu. Chỉ để kiểm tra thôi”. “1993. Thế anh nghĩ là năm bao nhiêu?” Raffety thoáng mỉm cười. “Nghe có vẻ phù hợp với tôi”. Gãboa cho tài xế, trèo xuống vỉa hè, và ngước nhìn tòa nhà khi trí nhớ của gã dần tập trung: 1993. Vậy là J ames Sheridan Raffety đãchết được sáu mươi tư năm. *** Helen nghe thấy chuông cửa reo. Cô ngạc nhiên đập tay lêntường, rồi chửi thề, thật mừng khi người bố Ai-Len theo đạo Thiên Chúa của cô không ở quanh đây. May thay các anh trai côcũng vậy. Mặc dù cả bố lẫn bốn ông anh trai của cô đều là cảnh sát và quá quen với ngôn từ bẩn thỉu nhất của bọn cặn bã, họ vẫn không thích nghe bất cứ thứ gì báng bổ đại loại như “chết tiệt” thoát ra từ miệng Helen bé nhỏ ngọt ngào của họ. Và Helen cũngtự hào rằng mình đã nói những từ mang nhiều màu sắc biểu cảm hơn rất nhiều. Cô học được không ít trong ba năm làm việc ở Văn phòng Công tố. Kẻ trời ơi đất hỡi nào lại đi bấm chuông cửa nhà cô vào lúc sáu rưỡi sáng thế này? Với cơn sợ hãi thoáng quét khắp người, cô lo có thể gặp phải tai họa nào đó, đến mức cô quên mất công dụng truyền tin hiệu quả của chiếc điện thoại. Nếu tai họa có giáng xuống các thành viên nhà Emerson đang sống rải rác khắp nơi thì cô đã được thông báo ngay lập tức rồi. Cô nhấp nhanh một ngụm từ cốc cà phê thứ ba, giật mạnh khóa kéo cứng đầu trên chiếc váy lửng và tập tễnh đi ra cửa với một chiếc giày cao gót xỏ ở chân, chiếc còn lại vẫn cầm trong tay. Cô có ba sợi xích cửa và một then cài nằm nguyên vị trí, và cô hé mắt qua lỗ nhìn trên cửa. “Ai đó?” Cô lo lắng hỏi. Cô không thấy rõ anh ta, bởi chiếc lỗ nhìn trầy xước, bẩn thỉu và có tuổi lắm rồi: Anh ta cao, tóc đen, và rất có thể là một tên giết người hàng loạt. “Tên tôi là Rafferty. Cô là Emerson phải không?” Cô không thích chút chế nhạo được nhấn mạnh trong từ “cô”. Cô không thích giọng nói của anh ta, vừa thô ráp vừa mượt mà, với hơi hướm trọng âm từ eo biển phía đông. “Tôi là Emerson”, cô thẳng thắn, giật chiếc giày trên chân xuống và không hề có ý định mở cửa. “Anh muốn gì?” “Tôi muốn nói chuyện với cô về Billy Moretti”. Tuyệt, cô nghĩ, khi dựa người vào cánh cửa. Buổi sáng nát bét, ảm đạm này hoàn hảo rồi đấy. “Tôi sẽ có mặt ở văn phòng lúc chín giờ”, cô vào luôn vấn đề. “Hãy gặp tôi ở đó”. “Không thể”, giọng anh ta nặng nề vọng lại qua cánh cửa. “Tôi chỉ ở lại đây hai ngày và còn rất nhiều việc cần giải quyết. Thế này đi, cô Emerson. Giờ chưa đến bảy giờ sáng, phải vài tiếngnữa mới tới giờ làm việc của cô. Hãy để tôi mời cô bữa sáng, cô có thể nghe tôi trình bày rồi tôi sẽ đi ngay”. “Và nếu tôi nói không?” Cô giật mình kinh ngạc khi nghenhững từ đó thoát ra. Ý cô là cái khỉ gì thế này, nếu cô nói không ư? Đương nhiên cô sẽ từ chối. Cô không thể đi đâu với bạn của người cô chuẩn bị khởi tố được. “Vậy tôi sẽ ở lại đây đến khi cô đổi ý”. Anh ta nghe có vẻ rất “Tôi chỉ cần một cú điện thoại là cảnh sát sẽ đến mời anh đi, anh Rafferty ạ. Tôi không muốn bị quấy rầy”. “Thưa quý cô”, anh ta kiên nhẫn, “tin tôi đi, tôi không hứng thú quấy rối cô. Tôi chỉ muốn xem có thể giải quyết chuyện của Billy với cô không thôi”. Cô thoáng nhận ra bản thân cũng đang cân nhắc. Vụ MoreĴiđã làm hao mòn tâm trí cô suốt mấy ngày nay. Nếu cô có thể thỏa hiệp thì thứ Sáu ngày mười ba sẽ trở nên dễ chịu hơn rất nhiều. “Anh làm việc với Abramowitz phải không?” “Đương nhiên rồi!”Giọng nói trả lời ngay lập tức. Câu trả lời ra quyết định giúp cô. Nếu luật sư của Billy sốtsắng tìm nơi ở của cô và đến đây ngay khi bình minh vừa ló dạng, thì đương nhiên cô có thể thảo luận vụ này với anh ta vào bữa sáng rồi. Sau cùng, bọn họ đều là người trong nghề. Thật ngớ ngẩn khi quá đặt nặng hình thức. “Đợi tôi một lát”, cô nói, đôi tay lóng ngóng với đám ổ khóa. Lúc cô mở cái khóa cuối cùng và kéo then bảo vệ, cô bắt đầu hối tiếc khi vội vã chấp nhận lời đề nghị của anh ta, song cánh cửa đã bật mở và tất cả trở nên quá muộn. Ít ra sợi dây xích vẫn còn nguyên khi cô ngó qua khoảng cách hơn mười centimet để nhìn người đàn ông đang đợi ngoài hành lang. Anh ta vẫn kiên nhẫn đứng đó, vẻ cực kỳ tĩnh lặng của anh ta khiến người đối diện có chút hoảng sợ. Anh ta là một người đàn ông cao lớn, dáng người săn chắc, và bộ vest cùng chiếc áo khoác ngoài của anh ta thật khó tả, như không bị tác động bởi thời gian. Tóc anh ta đen và ngắn, được vuốt ngược ra sau từ đường chân tóc chữ V trên đôi mắt đen đầy thách thức. Cô nhìn vào đôi mắt đó, vào sâu trong đôi mắt tĩnh mịch khó dò và cảm nhận cơn ớn lạnh chạy khắp người. Cùng luồng hơi nóng bất chợt bùng lên. “Anh không giống kiểu người Abramowiĵ thường thuê”, cô ngơ ngẩn thốt. Chắc chắn không phải kiểu sẽ bảo vệ Billy MoreĴitrước toàn thế giới. Anh ta quá đẹp trai, với cái miệng rộng và gợi cảm, gương mặt thon, gò má cao, cùng thái độ tự chủ, điềm đ Rồi anh ta mỉm cười, nụ cười đáng lẽ sẽ khiến cô cảm thấynhẹ nhõm. Đó là một nụ cười quyến rũ, theo đúng nghĩa đen, với ý đồ khiến người phụ nữ cảnh giác nhất cũng bị mê hoặc. Helen có thể cảm nhận được sự cuốn hút đột ngột cô đang phải vật lộn đấu tranh. “Không thể đặt lòng tin vào vẻ ngoài”, anh ta nói, đôi mắt đen chạy dọc theo chiều dài khe hở của cánh cửa đang mở. “Cô sẽ để tôi mời cô bữa sáng chứ?” Cô nên sập cửa thẳng vào mặt anh ta. Cô có thể giao vụMoreĴi cho J enkins, như ông ta muốn, nhưng J enkins ác ônkhông khác gì một con heo, luôn làm việc cứng nhắc, vô lối và chưa một lần mảy may xem xét các tình huống bất khả kháng cho bị cáo. Cô cứ thế nhìn chằm chằm người đàn ông tự nhận là Raffertymột lúc lâu rồi gật đầu quyết định. Cô là một phụ nữ thông minh, cẩn thận. Nhưng cô cũng là người phụ nữ học được cách lắng nghe bản năng của mình. Và bản năng mách bảo cô nên tin người đàn ông này. Cô gạt sợi xích xuống rồi mở cửa. “Mời vào”, cô vừa nói vừabước lui lại. “Tôi sẽ đi với anh ngay thôi”. Mãi cho đến khi băng qua nửa gian phòng để thu dọn giấy tờ vào cặp tài liệu, cô mới nhận ra hành vi của cô khác lạ đến chừng nào. Cô không thích để người khác, đặc biệt là đồng nghiệp, vào căn hộ của cô. Bởi cô đã quen sống vô tổ chức và luộm thuộm. Lýdo khác, những ai tham vọng không bao giờ đánh giá cao khuynh hướng trang trí hệt thập niên hai mươi của cô. Cô liếc ra sau nhìn Rafferty, cố gắng giấu đi vẻ bồn chồn, rồi chợt sững lại. Anh ta đứng giữa căn hộ của cô, một người lạ tóc đen cao lớn, người đáng lẽ phải là một kẻ xâm nhập bất hợp pháp, đang tròn mắt ngạc nhiên nhìn xung quanh, như thể nhận biết các thứ trong phòng. “Anh từng đến căn hộ này rồi sao?” Cô buột miệng. Đôi mắt đen của anh ta chạm phải cô, và anh ta mỉm cười, nụ cười thoạt nhìn có vẻ đơn giản. “Không”, anh ta đáp. Cô không tin. Rồi cô bật cười lớn trước sự vô lý của bản thân. “Đương nhiên nhỉ”. Cô nói. “Trong suốt sáu mươi năm, tòa nhànày thuộc về một cụ bà lạ lùng cùng đám mèo của bà ấy”. “Rồi bà ấy làm sao?” “Cụ bà đó hả?” Helen nói, kéo chiếc áo khoác xuống. “Bà ấqua đời, tôi e là thế. Bà ấy khá tiếng tăm - người ta đồn bà ấy là nhân tình của một tay đàn anh từ thời AI Capone [2]. Điều ấy thìtôi tin”. [2] Hay Alphonse Gabriel “Al” Capone (17/01/1989 - 25/01/2947)là tên trùm xã hội đen khét tiếng ở Mỹ. “Cô quen bà ta?” Helen nhún vai. “Tôi gặp bà ấy vì công việc. Bà ấy bị cướp. Tôi là luật sư khởi tố kẻ nhẫn tâm đánh quỵ bà ấy. Sau đó bà quyết định nhận tôi làm con nuôi”. Cô mỉm cười hồi tưởng. “Bà là một phụ nữ tuyệt vời”. “Tên bà ấy là gì?” “Tên của bà? Anh chắc sẽ không biết đâu - tôi không nghĩ suốt ba thập kỷ bà từng đi đâu ngoài con đường này trước khi vào bệnh viện”. “Nếu quả thật bà ta từng cặp với đám găngxtơ thì rất có thể tôi đã nghe nói về bà ấy. Tôi luôn hứng thú với thời xã hội đen hoành hành ở Chicago”. “Anh và cả nửa thành phố”, Helen nói. “Tên bà là J ane Maxwell”. “Chưa nghe bao giờ!” “Tôi nghĩ nghệ danh của bà là Crystal Latour. Khó mà tưởngtượng nổi ai gọi cụ bà ấy là Crystal, nhưng bà đã kể thế với tôi”. “Crystal Latour”, giọng Rafferty khác lạ. “Phải, thật khó màtin nổi”. Cô vơ cặp tài liệu rồi hướng về phía cửa, lờ đi cốc cà phê, đống báo chí bừasofa cũ và nửa chiếc bánh vòng trên bàn ăn sứt sẹo. “Anh sẵn sàng chưa?” Anh ta như vừa sực tỉnh khỏi cõi mê nào đấy. “Hẳn rồi. Tôi chỉ đang thắc mắc sao cô lại định cư ở đây?” Cô phải thừa nhận anh ta rất nhạy bén. Chỉ trong vài phút anh ta đã mài ra mặt bất tiện nhất của tòa nhà đẹp đẽ nhưng cũ kỹ này. Cô ghét gặp phải người đàn ông nào có loại bản năng chỉ chuyên xuất hiện trong phiên tòa như thế. “Bà ấy để nó lại cho tôi, thưa anh Rafferty. Toàn bộ tòa nhà”. “Vậy sao, hiện thời hả? Chắc việc khởi tố tên cướp kia phải thành công mỹ mãn lắm”. Cô dừng lại nơi ngưỡng cửa, thờ ơ nhìn anh ta. “Hệt như với người khác thôi, anh Rafferty ạ. Tôi khởi tố tội phạm”. “Trừng phạt kẻ xấu”, anh ta giễu cợt. “Khiến chúng trả giátrước toàn xã hội”. “Tôi thường không dính vào chuyện báo thù, dù đôi khi tôi cũng phải thừa nhận từng có ý nghĩ ấy. Nhưng tôi quan tâm đến việc giữ an toàn cho các cụ bà nhỏ bé như Crystal hơn”. Anh ta cười nhăn nhó, nhưng nụ cười đó không hề chạm đến đôi mắt đen tĩnh mịch của anh ta. “Và tôi dám chắc công việc của cô rất kinh khủng”. Anh ta liếc quanh căn phòng lớn lộn xộn, và phải mất một lúc cô mới kiểm soát được cơn bực tức của bản thân. Đâu phải lỗi của cô khi Crystal để lại cho cô tòa nhà. Và nócũng đâu phải khoản thừa kế đáng giá - nơi này đang xuống cấp nghiêm trọng và ít nhất ba nhà thầu xây dựng đã bảo cô tốt hơn hết nên dỡ bỏ và xây mới hoàn toàn. Song cô không thể làm thế. Cô yêu mọi đường nét của tòa nhà, vẻ thanh nhã mang hơi thở của quá khứ và cả những gì bị vùi dưới các bức tường bao và lớp lót sàn. Bất cứ khi nào có khả năng, cô đều bắt tay tu bổ từng phần một của tòa nhà, khởi đầu với căn hộ ở tầng một của chính cô, sau đó sẽ sửa sang và cho thuê các tầng phía trên. Với cô thì nghe rất thực tế và đầy triển vọng. Nhưng các anh trai cô lại bảo cô đang mơ mộng. “Tôi nghĩ anh đến để thương lượng vụ của MoreĴi, chứ không phải về chuyện trang trí nhà tôi”, giọng cô vờ lãnh đạm. “Phải rồi. Cô biết chỗ nào lý tưởng để ăn không?” “Xa lắm. Sao chúng ta không ăn ở gần văn phòng của tôi?Như thế một khi đôi bên đi đến thống nhất, mọi việc sẽ giải quyết dễ dàng hơn. Đi xe của tôi nhé?” “Vâng, thưa quý cô”, anh ta nói. Cô ném thêm cho anh ta một cái nhìn ngờ vực, anh ta không phải đang chế nhạo cô đấy chứ? Anh ta khiến cảm xúc của cô biến hóa thật lạ lùng, đạo mạo, chỉn chu hệt một bà giáo già. Càng ở lâu với anh ta, cô càng muốn giật vạt váy xuống rồi quấn thật chặt chiếc áo choàng quanh người. Anh ta khiến cô bứt rứt không yên. “Vậy đi thôi”, cô tươi tắn nói. “Tôi còn cả đống việc đang chờ”. Cô đứng đợi ngay cạnh cửa, châm chọc nhường anh ta đi trước. “Chỗ ở của cô đẹp lắm!” Anh ta khen với giọng điệu trêu ngươi. Anh ta ngừng lại nơi khung cửa để nhìn cô, với khoảng cách quá gần. Cô ngước lên, và nhận ra đôi mắt anh ta không thẫm đen như cô nghĩ lúc đầu. Một màu nâu sâu thẳm, được thắp lên với những chấm vàng nhỏ bé, sưởi ấm cả một chiều sâu băng giá. Chúng là đôi mắt khiến ai đó sa vào, đôi mắt có thể thôi miên và bỏ bùa người đối diện. Đôi mắt đầy cám dỗ. Sau đó anh ta băng qua cô, không chạm vào cô, đi thẳng xuống những bậc thang thấp dẫn ra cửa trước. Cô nhìn theo, trong giây lát như bị xúi giục lao trở vào nhà và đóng sập cánh cửa sau lưng lại. Anh ta khiến cô bồn chồn theo cái cách cô thậm chí còn không thể bắt đầu cắt nghĩa. Nhưng hễ cứ gặp bóng tối là lao đầu bỏ chạy thì chẳng mấychốc cuộc đời cô sẽ nhanh chóng sụp đổ tan hoang. Cô nhìn lướt một vòng căn hộ, hình dung xem anh ta đã nhìn nó thế nào. Rồi cô đóng cửa, theo sau Rafferty ra ngoài giá lạnh phủ đầy buổi sớm mai. *** Crystal Latour, Rafferty nghĩ khi lách người qua HelenEmerson để đi vào một quán ăn nhỏ. Họ đến trung tâm thànhphố bằng một chiếc xe bé tẹo của Nhật, chỉ nửa cỡ con Packard[3] gã từng lái, khiến đôi chân dài đáng thương của gã phải co cứng lại. Bất tiện là thế nhưng cũng không thể làm gã nhãng ra khỏi những ký ức nhiễu loạn về Crystal Latour. [3] Loại xe cỡ lớn, được lắp đặt bằng tay lưu hành những năm 30 của thế kỷ XX, có sự tinh xảo và xa hoa vượt xa những xe hạng sangbây giờ. Thôi được, gã đã từng đến số 1322 phố Elm. Duy nhất một lần, vào ngày 13 tháng 2 năm 1929. Gã đã qua đêm trên giường của Crystal Latour, và sáng hôm sau gã chết. Gã liếc nhìn người phụ nữ ngồi bên. Thôi được, cô ta cũng làmột bất ngờ. Gã đã dần quen với những người phụ nữ hiện đại, với vẻ đẹp lạnh lùng, tự tin cùng sự độc lập và khó lấn lướt của họ. Cho nên trong mắt gã người phụ nữ nhát gan lái chiếc xe nhỏ xíu này thật cổ lỗ sĩ. Cô ta còn xa mới là kiểu người khó lấn lướt. Tất cả những gì người đối diện phải làm là nhìn vào đôi mắt nâu to tròn và sẽ dễ dàng nhìn thấu tâm trí cô ta. Tóc cô ta dài, với màu nâu ánh đỏ tráng lệ, chiếc miệng rộng và đầy đặn. Một chiếc miệng tuyệt hảo để hôn. Nhưng không phải gã muốn hôn cô ta. Cô ta hơi quá gầy sovới sở thích của gã, đã thế còn ăn mặc hệt một thằng đàn ông. Cô ta hẳn thuộc nhóm người trợn mắt hô hào đòi bình đẳng giới, không son phấn và đeo đôi kính gọng kim loại hệt cái thứ xuất hiện trên mặt một tên kế toán. Cô ta rõ ràng chỉ ngủ với đàn bà. Ngoại trừ gã không nghĩ thế. Đương nhiên không phải gã đang tưởng tượng lực hút kỳ lạ giữa hai người là phản ứng hai chiều chết tiệt giữa nam với nữ. Gã không muốn dính líu đến cái cô Helen Emerson này. Trong bốn mươi tám giờ ở lại đây, gãkhông có thời gian vướng vào ai đó giống cô ta. Gã cần người nào hào hứng và dễ dãi, người nào sẽ ngả lưng xuống giường cùng gã, cười vui vẻ với gã và cho gã cảm giác thoải mái cùng giải thoát. Gã không muốn gắn bó, đi đôi với phức tạp hay tình bạn, và với một người đàn bà giống Helen Emerson, bắt buộc phải chuẩn bị ba điều kể trên trước cả khi chạm được vào ngực cô ta. Mà rõ ràng cô ta có đáng chạm vào tí nào đâu. Nhưng mẹ kiếp, gã muốn khám phá xem có đúng thế không. “Anh làm việc cho Abramowiĵ lâu chưa?” Cô hỏi, nhìn gã chê trách khi gã châm một điếu thuốc lá. “Không lâu lắm”, gã đáp, thắc mắc Abramowiĵ là thằng trời đánh nào. “Anh trông không giống luật sư”, cô nói. “Cô cũng thế”, gã trả lời với vẻ ít quyến rũ hơn lúc thường. Gãkhông muốn quyến rũ cô ta. Bởi vài lý do phi lý, gã không muốn nói dối cô ta nhiều hơn những gì bắt buộc và cần thiết. Hồi đáp của gã là một sai lầm. Cô mỉm cười trước lời nói kháy, đôi mắt cô nhăn nhăn và chiếc miệng rộng khẽ cong lên. “Tôi luôn làm hết khả năng”, cô nói. “Vậy chúng ta sẽ làm gì với Billy MoreĴi? Cậu ta đang bị xem xét mức phạt cao nhất - chắcchắn phải bị giam từ tám đến mười năm trong nhà tù J oliet, và tôi hoàn toàn có thể lấy được phán quyết có tội”. Gã gọi món khi cô hầu bàn tốt bụng rót cho gã tách cà phê đầu tiên trong năm và dựa lưng vào ghế nhìn Helen. “Vậy tôi cònở đây làm gì?” Gã hỏi, uống một ngụm lớn cà phê và rít một hơi thuốc thật dài. “Có lẽ do tôi tò mò”, cô nói. “Anh không giống những gã bẩn thỉu Abramowiĵ thường thuê. Và có lẽ tôi không tin BillyMoreĴi đáng bị giam trong tù lâu đến thế. Có lẽ cậu ta chỉ phạmsai lầm”. “Cô muốn vạch rõ sai lầm của cậu ta với tôi?” “Anh không biết sao?” “Tôi muốn nghe quan điểm của cô hơn”, gã lãnh đạm nói. Cô dễ bị lôi kéo đến đáng nguyền rủa. Cô nhún vai, có vẻ vừa lòng. “Cậu ta được hưởng án treo. Hồ sơ phạm tội ở tuổi vị thành niên của cậu ta dài ngang cánh tay cậu ta vậy - không tội nào nghiêm trọng, nhưng gộp lại thì ra vấn đề. Cậu ta biết mình phải cực kỳ cẩn thận, rồi lại để bị tóm với súng và là đồng bọn của một tên tội phạm khét tiếng, bị tóm vì tội hình s “Tội hình sự nào?” Cô trông có vẻ bực mình khi thêm quá nhiều đường vào tách cà phê. “Anh thừa biết còn gì. Cậu ta là tài xế trong vụ cướp Carnahan. Rất nhiều kim cương đã bị đánh cắp, anh Rafferty ạ, và công ty bảo hiểm thì đang điên tiết đòi trả thù”. “Và lời khai của thằng nhóc là gì?” “Là cậu ta vô tội. Cậu ta chỉ xuất hiện sai chỗ và sai thời điểm. Thật khó tin cậu ta trẻ vậy đã bị bắt đến lần thứ hai, đã thế còn dính dáng với kẻ chủ mưu vụ cướp cùng nửa tá các vụ khác”. Rafferty dụi điếu thuốc. “Vậy sao cô lại không muốn kết tội cậu ta, hả luật sư? Sao cô lại sẵn lòng thương lượng với tôi?” Nếu gã hy vọng sẽ đe dọa được cô thì gã đã nhầm. Cô chỉ đơngiản lắc đầu. “Tôi không biết, anh Rafferty ạ. Là giác quan thứsáu đôi khi bộc lộ ở mỗi người. Khi anh biết ai đó đang cố làm lại cuộc đời. Billy ở trường hợp ấy. Tôi vẫn cho Biily ở trong trườnghợp ấy, nhưng tôi không có bằng chứng còn cậu ta lại không chịu khai. Trừ phi tôi có lý do để nhìn theo hướng khác, nếu không tôi sẽ phải đưa cậu ta ra tòa”. “Cô muốn một lý do?” Rafferty hỏi, uống cạn tách cà phê và nhanh chóng suy xét. “Tôi muốn một lý do”. “Ai là người đã lên kế hoạch cho vụ cướp?” Đó là một phát súng mù, nhưng hiệu quả. Cô ngả người ra sau, ngỡ ngàng, và gã phải dùng mọi nỗ lực để vẻ mặt vẫn còn nguyên vẻ vô cảm lẫn khó dò. “Đương nhiên rồi”, cô nói. “Sao tôi lại không nghĩ ra thế nhỉ? Hắn là một trong số những kẻ nguy hiểm nhất tôi từng gặp. Rất đơn giản nếu hắn muốn Billy cùng tham gia vụ cướp Carnahan. Chỉ cần hăm dọa vợ cậu ta”. “Và vợ cậu ta thì đang mang bầu “Vậy sao? Thế thì hợp lý. Tôi chỉ cần Billy xác nhận. Chúng tcần tận dụng mọi thứ nếu muốn có cơ hội tóm Morris”. Trongniềm hứng khởi cô vươn người về trước mà quên tự phòng vệ cho bản thân. Quên mất gã là kẻ nguy hiểm. “Cậu ấy sẽ khai chứ?” “Nếu tôi có phải bẻ gãy cổ nó”, Rafferty dứt khoát. “Khi nàotôi có thể gặp thằng nhóc?” “Chúng ta sẽ đi sau bữa sáng”. Cô nhìn gã vẻ hiếu kỳ. “Trừphi anh không đói?” Cô hầu bàn đến ngay sau đó, đặt một đĩa trứng, xúc xích, thịt lợn xông khói, thịt bò rán và khoai tây xắt sợi chiên giòn trước mặt gã. Tất cả như đang bơi trong dầu ăn, và gã buông một tiếng thở dài thỏa mãn. “Tôi đói!” Gã gầm gừ. Helen nhìn xuống món bánh mì nướng thanh đạm của bản thân. “Anh vẫn ăn nhiều cholesterol thế vào mỗi sáng à?” “Nếu có khả năng”. “Anh sẽ chết trẻ đấy!”Cô nghiêm nghị nói. Gã hơi ngả lửng, nghiền ngẫm nhìn cô qua đôi mắt sụp. “Cônói phải”, gã đáp. Và gã bắt đầu ăn. Chương 2 Rafferty chưa bao giờ hình dung ra lý do các phòng tạm giam luôn có thứ mùi nhất định nào đó. Có lẽ là mùi của mồ hôi lạnh, của sự sợ hãi, của nỗi tuyệt vọng trộn lẫn trong phản kháng yếu ớt. Văn phòng của cô Helen Emerson nằm ở tầng ba của một tòaán trông có vẻ vô danh, nhưng đâu đó trong tòa nhà này là những xà lim và giam giữ cả những cỗ xe tăng. Gã hiểu rõ cũng như biết chính cái tên của gã vậy. Văn phòng trông cũng lộn xộn và bừa bộn hệt căn hộ của cô, tuy nhỏ nhưng có vẻ hiện đại hơn một chút, với thứ gã nhớ là máy vi tính và một chiếc điện thoại lạ lùng. Gã thả người xuống một cái ghế nhỏ xíu bất tiện và trút một hơi nhẹ nhõm. Gã đã sợ chết khiếp ngay giây đầu tiên bước vào căn hộ của cô. Khi xuống taxi gã đã thoáng nhận ra nơi đó, nhưng việc chứng kiến những thứ từng thân thuộc dần thay đổi đâu còn mới mẻ với gã nữa. Điều khiến gã giật nảy là nội thất bên trong y hệt với những gì gã ghi nhớ trong đầu. Cái cô Emerson đức hạnh, và đảm bảo vẫncòn trong trắng này có nhiều điểm chung với Crystal Latour tuyệt vời trước đây hơn những gì cô mường tượng. Chẳng hiểu sao gã lại biết Helen Emerson là trinh nữ. Chúchứng giám quan niệm về sự trong trắng đã bị coi là lỗi thời từ ba mươi năm trước, nhưng cô Emerson này cũng là kiểu người hoài cổ. Và dán nhãn cấm kị như các nữ tu từng cố gắng ném cả đống giáo lý vào gã khi gã là một đứa trẻ. “Tôi sẽ bảo họ đưa Billy lên đây”, cô nói. “Có lẽ anh muốn nói chuyện riêng với cậu ta”. Cô gạt mái tóc nâu ngang vai ra sau. Nó buông xõa quanh gương mặt cô, và gã tự hỏi với mái tóc xoăn gợn sóng trông cô sẽ ra sao. Họ không làm tóc thế nữa, phải không? Bên cạnh đó, có lẽ gã thích mái tóc dài và suôn thẳng hơn. “Chắc rồi!” Gã nói, với tay tìm những điếu thuốc của gã. “Côluôn đeo cặp kính đó à?” Cô thảng thốt đưa tay lên mặt, gần như thể đã quên sự hiện diện của cặp kính. “Chỉ khi tôi muốn nhìn rõ thôi”, cô trả lời giật cục. “Thế kính áp tròng thì sao?” “Thế chuyên tâm vào công việc của anh thì sao, anh Rafferty?” Cô đáp trả. “Và tòa nhà này cấm hút thuốc”. Gã ngừng lại, gói thuốc nhăn nhúm trong tay. “Tòa nhà cấmhút thuốc?” Gã lặp lại vẻ ghê tởm. “Lần đầu tiên nghe luôn. Tiếptheo là gì nữa - thành phố cấm hút thuốc chắc?” “Giá tôi nghe nói về luật ấy”, Helen lẩm bẩm. Gã nhét bao thuốc vào áo khoác. “Có luật nào cấm nhai kẹocao su không vậy?” Gã lè nhè, rút một gói nhỏ còn nguyên vẫn luôn nằm yên trong túi áo mỗi khi gã quay lại Chic “Giờ thì chưa”. Cô chăm chăm nhìn gã vẻ hiếu kỳ. “Là loại kẹo cao su nào thế?” Gã liếc xuống gói kẹo. Họ không còn bán loại Black Clove tnhững năm đầu thập niên ba mươi - gã không được quên nếu còn muốn được miễn khỏi những câu hỏi không thể trả lời. “Cô không thích đâu, luật sư”, gã nói, nhét gói kẹo vào túi áo khoác. Ít nhất trong những năm qua thời trang đàn ông cũng không thay đổi nhiều. Một bộ comple đen là một bộ comple đen, may chăng chỉ có kích cỡ ve áo thay đổi, và cũng hiếm người dám hỏi thăm về bộ quần áo, hay thắc mắc về gã. “Tôi sẽ đưa Billy đến”, cô lặp lại, bỏ gã một mình trong văn phòng. Gã ngồi thật bất động, ánh mắt tập trung vào đường chân trời Chicago ảm đạm mỗi năm lại bị đứt quãng bởi những tòa nhà mới xây bên ngoài khung cửa sổ cáu bẩn. Gã ghét tòa cao ốc Sears Tower nhất. Đến giờ vẫn còn ghét, như một điều hiểnnhiên. Nhưng gã không muốn ngó nghiêng văn phòng của HelenEmerson, rồi khám phá thêm quá nhiều điều về cô. Bởi gã càngbiết nhiều, gã lại càng bị hút về phía cô. Dù vô lý, nhưng gã phải thừa nhận bản thân đang bị cô lôi cuốn. Cô có quá khẳng khiu, ngực quá phẳng và quá ngây thơ đối với gã dường như cũng không thành vấn đề. Chưa kể quá thông minh và xấc xược. Gã luôn tự nhủ phải lánh xa những người đàn bà như Helen, nhưng định mệnh luôn mưu toan chống lại gã. Chết tiệt, quá bất công. Bốn mươi tám giờ ở lại Chicago, và gãphải phí phạm chúng vào thứ chẳng đâu đến đâu như Helen Emerson. Gã kéo ánh mắt khỏi cái thành phố đã trở nên xa lạ với gã để liếc nhìn bàn làm việc của Helen. Có một tấm ảnh đặt ở vị trí trang trọng nhất, nơi tầm mắt gã không sao tránh khỏi. Là cô Emerson này, lại tròng đồ đàn ông, nhưng ít nhất chiếc váy cô đang mặc cũng đủ ngắn để trưng ra một đôi chân khá đẹp mắt. Hai bên vây quanh không dưới năm tên cớm - một già và bốn trẻ, và giống nhau đến mức chỉ có thể xuất thân từ một gia đình. Song cũng không thể phủ nhận vẻ tương đồng với Helen - đươngnhiên cô xinh đẹp hơn năm gã đàn ông kia nhiều, dẫu vậy chắc chắn gã đang nhìn ảnh cha và các anh trai của cô. May mắn thật đấy, gã chán nản nghĩ. Gã bị buộc phải ồn vãvới một luật sư, chỉ để phát hiện có tới nửa lực lượng cảnh sát Chicago trong gia đình cô ấy. “Rafferty?” Giọng non nớt sợ sệt của Billy phá vỡ vẻ lơ đãngnơi gã. Tức khắc Rafferty quay lại, rà soát khắp gương mặt Billy đểtìm những vết thâm tím, hay ngược đãi. Nhưng ngoài sự kinh hoảng, thằng nhóc vẫn bình thường. Gã băng qua căn phòng và ôm thằng nhóc thật chặt, trước khi thả nó ra. “Chú trông ổn lắm, nhóc”, gã thô lỗ nói. “Họ khônglàm chú bị thương chứ?” Billy nhún vai. “Cảnh sát khác xưa rồi, Rafferty. Họ khôngđộng tay chân với ai nếu không có lý do chính đáng. Trừ khi anh tình cờ sống ở L.A [1]”. [1] Los Angeles. “Là sao?” Billy lắc đầu. “Không quan trọng. Anh Rafferty à, chúng ta córắc rối...” “Ý chú là chú gặp rắc rối chứ hả?” Rafferty sửa lại. “Làm thế quái nào lại để bị tóm? Chú thừa thông minh để tránh mấy vụ thế này”. Billy thở dài, ngồi sụm trên chiếc ghế Rafferty vừa bỏ trống. Cậu ta vẫn chưa đầy hai mươi lăm tuổi, vẫn là thằng nhóc gầy gò dễ thương năm nào phải hứng chịu quá nhiều phiền muộn không đáng có. Rafferty cứ tưởng đã lo lắng chu toàn mọi thứ từ lần ra đi trước. Nhưng có vẻ gã đã sai. “Không phải lỗi của em”, Billy bắt đầu. “Ai cũng nói thế hết!” Rafferty đáp trả. Gã đã giáo huấn cậu ta cùng nhiều người khác không biết bao lần, nhờ các trải nghiệm sâu sắc gã thấu hiểu bằng cả trái tim. “Chú có biết vợ chú sợ muốn chết không?” Billy tái mặt nhảy dựng khỏi ghế. “Có chuyện gì sao? Cóngười động tay với cô ấy? Cô ấy có ổn không, còn đứa bé...?” “Bình tĩnh, Billy!” Rafferty ấn cậu ta ngồi xuống. “Vợ chú ổn.Chú nghĩ làm sao aìm được chú hả? Con bé đã đến chỗ anh”. Billy lắc đầu. “Anh nói đúng, hẳn cô ấy phải sợ lắm nên mới dồn quyết tâm đi tìm anh”. “Anh không biết chú bảo gì với con bé để nó hãi anh đến mức ấy…” Rafferty chán chường nói. “Em có nói gì đâu. Cô ấy vừa mới gặp anh”. “Tuyệt thật!” Rafferty lầu bầu. “Con bé cần chú về nhà, Billy ạ. Con bé cần chú thôi dính líu với đám tội phạm khi đã có sẵn án treo. Mũi chú không chõ vào đâu trong suốt hai năm qua - vì cái quái gì chú lại ném số phận vào tay thằng Morris lén lút nào thế hả? Chú lo không có đủ tiền cho con à?” Trong chốc lát Billy chỉ nhìn gã. Rồi cậu ta lắc đầu. “Khônphải vậy, Rafferty. Thề có Chúa, em sẵn sàng làm mọi thứ để vợvà con em có cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng em cũng biết có người chồng và người cha bên cạnh tốt hơn mạo hiểm vì tiền rất nhiều”. “Thế sao chú còn dính đến thằng Morris nào kia?” Billy liếc quanh căn phòng. “Nơi này có bị nghe lén không?” “Đứa chết tiệt nào quan tâm?” “Em quan tâm. Nếu em hở ra với cảnh sát chắc chắn hắn sẽcắt họng cả em lẫn Mary”. “Cho nên chú đồng ý lái xe? Dù sao đó cũng là giả thuyết củacô Emerson. Còn anh chưa vội kết luận”. Billy cho phép mình bật tiếng cười khan. “Quả là cô Emerson.Cô ấy bám lấy từng từ em thốt ra. Cô ấy thông minh đến chết tiệt. Nhưng em có kể với cô ấy đâu”. “Không kể cái gì?” “Về Morris”. “Morri?” Billy quay ra nhìn không chớp vào phong cảnh thảm đạm bên ngoài. “Hắn bảo sẽ giết Mary nếu em không giúp hắn” cậu ta bất lực lầm bầm. “Và hắn sẽ làm thế. Anh cũng biết cảm giác đó ra sao mà Rafferty. Chúng quấy nhiễu cả thế giới, và thế là xong. Chẳng có nơi nào lẩn trốn”. “Đây không phải Chicago thập niên hai mươi, Billy à”, Rafferty nói, lờ đi nỗi e sợ lạnh lẽo trườn dọc xương sống. “Giờ chả ai có gan làm loại chuyện giống bọn xã hội đen thời đó nữa rồi”. “Trừ Morris. Hắn sẽ giết chết cô ấy. Một cách thống khoái”.Cậu ta đón luồng mắt Rafferty. “Và anh biết vì sao không, Rafferty?” Gã không chắc có muốn biết không nữa. “Sao chú không nói anh nghe?” Gã hỏi, mẹ kiếp, gã cần một điếu thuốc ngay lúc này. “Bởi Willie Morris không phải lúc nào cũng là Willie Morris.Từ rất lâu trước đây hắn từng được biết với cái tên khác. Hắn làDrago, Rafferty à. Ricky Drago. Hắn cũng hoàn toàn mất trí rồi”. Trong một khắc Rafferty không cử động. Và rồi gã bình tĩnhthò tay vào túi áo khoác, rút gói thuốc lá và châm một điếu. “Mẹ kiếp!” Gã gắt, rít một hơi sâu. “Tổ cha nhà nó!” *** Với một gã đàn ông như J amey Rafferty việc này luôn vô nghĩa. Có lẽ cũng là lý do gã tiếp tục quay trở lại, năm này qua năm khác, vì gã không thể dễ dàng từ bỏ và thử chấp nhận quy luật diễn ra mọi thứ. Gã có nhiều chất xám hơn sáu tên kia gộp lại, sáu tên cũng chết trong gara ô tô đó ở Chicago vào ngày lễ Thánh Valentinehơn sáu mươi năm về trước. Trí tuệ của gã từng là thứ đáng giá với Moran, chứ không phải cơ bắp của gã. Moran là kẻ biết dùngngười - anh em ScazzeĴi đơn giản là nhóm thực thi vũ lực, do đầu óc có hạn và nắm đấm vô biên. Bọn họ phụ trách thu nợ, bảo vệ Moran và đảm bảo không cho ai trốn thoát. Rồi còn có Richstein và Von Trebbenhoff, hai tay trùm hạntrung đến từ các vùng xa xôi hẻo lánh, những kẻ tình cờ xuất hiện ở Chicago vào đúng cái ngày định mệnh ấy. Không ai trong sốchúng là người phức tạp, chúng tự động làm theo lệnh mà không thắc mắc. Billy MoreĴi chỉ là một đứa trẻ, một thằng nhóc đưa tin sống bên lề các băng nhóm tội phạm và được trả một khoản kha khá. Có người mẹ góa cùng ba đứa em gái sống nương tựa nên Billy sẵn sàng liều mình vì họ. Và đương nhiên, có cả Ricky Drago. Hắn là một tên sát thủthuần túy và rõ ràng, kẻ luôn tìm thấy sung sướng từ máu và nỗi khiếp đảm của người khác. Ngày nay người ta đặt rất nhiều cái tên mỹ miều cho những kẻ như hắn: biến thái, giết người hàng loạt, quái vật. Thế hệ nào cũng có những kẻ như Drago được sinh ra. Bất hạnh ở chỗ, có vẻ Drago cũng nhận được cơ hội thứ hai làm lại cuộc đời. Không mang nhiều thắc mắc, sáu tên kia đều chấp nhận số phận của bản thân. Một sáng tháng Hai lạnh lẽo, chúng đã đối mặt với cái chết trong cái gara đó ở Chicago, giữa một cuộc nã súng đẫm máu rồi tất cả tan biến vào hư vô trong ánh sáng trắng chói lòa. Và đột nhiên chúng trở lại, cả bảy người, bước quanh con phố và trừng mắt kinh ngạc nhìn nhau. Hôm đó chỉ một ngày nữa là đến Valentine, chính là ngày mười ba tháng Hai. Nhưng tại một năm sau: 1930. Không mất quá lâu để các quy tắc cơ bản trở nên rõ ràng. Trong vòng bốn mươi tám giờ bọn chúng quay lại Chicago, cảthảy bảy tên đột ngột xuất hiện trong gian gara cũ. Drago là kẻ đầu tiên phát hiện bọn chúng không thể gây hại cho bất cứ ai khi thử đánh cướp một tài xế taxi. Bọn chúng đơn giản chỉ lang thang trong thành phố hai ngày rồi biến mất trở vào khoảng không. Cho đến khi Valentine lại đến. Nhiều năm qua đi, chúng mới nhận ra có một lối thoát khỏi vòng luẩn quẩn bất tận đó. Một trong hai anh em ScazzeĴi phải lòng cô hàng xóm cũ. Và lần này, lúc chúng quay trở lại, ScazzeĴi vẫn ở đó với cuộc hôn nhân hạnh phúc. Từng tên, từng tên một quỵ ngã trước lưới tình, tìm kiếm ai đó yêu chúng, tìm kiếm ai đó để yêu, sống những cuộc đời mới và vui vầy trong hạnh phúc gia đình. Cho đến giữa những nămtám mươi chỉ còn sót lại Billy, Drago và Rafferty. Rafferty chorằng không sức mạnh nào từ thiên đường hay trái đất có thể thay đổi bản tính tàn bạo của Drago, nhưng một người phụ nữ có khuôn mặt ngọt ngào tên Lizzie đã làm nên điều kỳ diệu. Billy cũng theo sau vào năm kế tiếp, và phải đến khi cậu ta thành đôi với Mary O’Hanahan MoreĴi, Rafferty mới nhận rthằng nhóc dùng dằng chưa dám đi vì sợ bỏ gã lại một mình với Drago. Cái ý nghĩ ấy khiến gã buồn cười. Quá quen với những kẻrối loạn nhân cách như Drago nên gã hoàn toàn có khả năng tự chăm sóc bản thân. Bên cạnh đó, Drago không thể tổn hại đến ai một khi còn vạ vật dưới lời nguyền của ngày lễ Thánh Valentine như những tên còn lại. Đã ba năm trôi qua kể từ khi Billy ra đi. Ba năm Rafferty đơnđộc quay lại mỗi sáng tháng Hai giá rét để tận hưởng bốn mươi tám giờ của cuộc đời. Anh em ScazzeĴi đã chết ở thập niên nămmươi. Richstein và Von Trebbenhoff cũng qua đời từ lâu. Dragothì chuyển ra ngoại ô cùng vợ, và Billy thì thận trọng giữ khoảng cách với gã. Tình yêu đích thực đã chuyển biến Drago, nhưng quá khứ khổng lồ vẫn nằm đấy, rất khó để quên đi hết thảy. Rafferty quan sát toàn bộ quá trình với thái độ hoài nghi. Có vài năm gã trở lại và đối mặt với nhiều thảm họa. Tình trạng suythoái xảy ra rất nghiêm trọng ở Chicago lúc bấy giờ, khiến dự luật mới thông qua được tự do mua rượu ở nơi công cộng cũng không đủ bù đắp cho cơn tuyệt vọng lan tràn cả thành phố. Chiến tranh rõ ràng là điều tồi tệ nhất. Ba năm đó giày vò bọnchúng khi biết chẳng thể làm được gì trong khi mọi người đang hy sinh vì đất nước. Drago đã ghi danh ra chiến trường, đương nhiên là thế, nhằm mục đích giết bọn phát xít Đức hơn thể hiện lòng yêu nước, nhưng không có ngoại lệ, hắn vẫn biến mất sau bốn mươi tám giờ. Chỉ có anh em ScazzeĴi nhờ ổn định kịp thời cuộc sống mới thu xếp được phục vụ trong quân ngũ. Rafferty căm ghét quãng thời gian cuối thập niên bốn mươi và đầu những năm năm mươi. Gã dành hầu hết thời gian để ngồi trong một quán bar, nốc rượu và hút thuốc. Những năm sáu mươi lại điên cuồng - quá điên cuồng để ýđịnh thử đi lĩnh hội guồng quay cuộc sống lúc ấy nảy ra trong đầu gã. Hai ngày mỗi năm không đủ cho gã bắt kịp với thế giới dần thay đổi, nên những năm sáu mươi gã thậm chí không buồn cố gắng. Sang thập niên bảy mươi gã bị cuốn vào chủ nghĩa khoái lạc. Đi tìm một người đàn bà sẵn sàng ở suốt hai ngày trên giường là một vấn đề khá đơn giản. Cũng chính là điều gã đã làm. Gãkhông tin vào tình yêu, hay cơ hội thứ hai, cũng chưa có gì gã nhìn thấy trong những lần nán lại chóng vánh cho gã lý do thay đổi. Chưa một thứ gì, cả niềm hạnh phúc từ đồng bọn của gã, hay hứa h được sống vòng đời bình thường theo quy luật của tự nhiên, có thể khiến phần cốt lõi bi quan trong gã sứt mẻ. Và giờ đây gã đang ở những năm của thập niên chín mươi. Nơi tất cả mọi thứ đều chuyển động quá mau lẹ nên gã càng không quan tâm. Gã đơn giản chỉ đến, nhìn quanh và cố gắng thỏa mãn các nhu cầu thường tình của cơ thể: thuốc, rượu, tình dục và thức ăn. Sau đó gã lại ra đi. Cho đến khi Billy bắt đầu khơi gợi những cảm xúc trong gã. Gã cứ tưởng mọi thứ đã được an bài: Billy có cuộc sống thoải mái của riêng mình và những kẻ khác đều đã chết từ lâu. Cho nên gã có thể sử dụng tùy thích hai ngày dư dả vào mưu cầu khoái lạc mà không sợ bị khó khăn của ai đó quấy rối, để rồi gã lại bắt đầu phải lo nghĩ. Nhưng thời gian đã làm thay đổi gã. Vào những thập kỷ trướccó thể gã đã quay lưng lại với Billy và vợ của thằng nhóc. Vàonhững thập kỷ trước gã có thể đã tảng lờ mối nguy hiểm mà Ricky Drago gây ra cho những người vô tội. Sau cùng, nhờ làmviệc sát cánh với Drago trong suốt bao năm qua, gã đã có cơ hội chứng kiến từ xa nỗi kinh sợ mà loại tắm máu như Drago có thể gây nên. Gã đã thay đổi, và điều ấy khiến gã cáu giận. Bốn giờ của gãvừa bị thổi bay vì các rắc rối của Billy lẫn một người phụ nữ khó nhằn, và gã cũng không có hứng lãng phí thêm thời gian nhằm cố gắng cứu rỗi thế giới từ tay những kẻ như Ricky Drago nữa. Đó là chuyên môn của cô Emerson. Hãy để cương vị của một vị thánh cho cô ta. Còn gã ư, gã cần rượu. Tuy các cáo buộc đã được gỡ bỏ nhưng phải gần hai giờ nữa Billy mới được thả. Hồi tưởng lại quá khứ, Rafferty thắc mắckhông biết đầu óc gã bị làm sao mà lại đi mắc mứu với đám tội phạm có tổ chức trong khi nghề luật sư có vẻ nhàn nhã hơn rất nhiều. Gã vừa kinh hãi vừa thán phục khi nhìn Helen Emerson đigặp các cấp trên, ngọt ngào với người này, tranh luận với người kia, trở nên khiêm tốn và kính trọng với người tiếp nữa, trong khi tìm cách thuyết phục người đàn ông rằng tha cho BillyMoretti là ý tưởng của ông ta ngay từ đầu. “Cậu sẽ phải nhận một án treo thử thách hơn”, cô nói với Billykhi đợi thang máy. “Đấy là tất cả những gì tôi có thể làm cho cậu”. Billy trông vẫn tái nhợt một cách đáng lo. “Tôi rất cảm kích”. Cậu ta ném cái nhìn cầu kh Rafferty. “Lần tới chú sẽ không may mắn thế đâu”, Rafferty nói bằngcái giọng luật gia nhất của mình khi cửa thang máy trượt mở. “Tôi sẽ để mắt đến nó, cô Emerson ạ”. Cô chỉ nhìn gã. Thật hài hước, sao người ta lại nghĩ cặp kínhsẽ phá hỏng khuôn mặt của một người phụ nữ cho được? Gã bắt đầu thích ánh mắt cô rồi đấy. Có lẽ trước tiên bởi cô có một đôi mắt nâu ấm áp đến tan chảy. “Đảm bảo những gì anh nói, anh Rafferty. Nếu không lần sau cậu ta sẽ không may mắn vậy đâu”. “Sẽ không có lần tiếp theo…” Billy đáp. Còn Rafferty thì nghđến Ricky Drago và phân vân. Khi họ bước vào chiếc thang máy cũ cọt kẹt, Rafferty nhét hai tay vào túi quần. Gã muốn chạm vào cô, bắt tay cô, và chết tiệt, hôn tạm biệt cô. Gã sẽ không gặp lại cô nữa, lần đầu tiên trong quãng thời gian lêu lổng, bất tận của gã ở trái đất gã chợt nhận ra gã lấy làm tiếc vì điều đó. Gã tựa lưng vào thang máy, trao cho cô một nụ cười gượng gạo. “Gặp sau!” Gã nói, đã dùng quen một chút cụm tiếng lóng học lỏm từ thập niên bảy mươi, dù thừa biết sẽ không còn gặp lại cô nữa. Gã thừa biết cô không muốn gã đi, cứ như thể cô đã truyền ýnghĩ ấy cho gã vậy. “Cảm ơn vì bữa sáng”, cô gọi với theo, ngaytrước khi cánh cửa đóng lại. “Anh mời cô Emerson bữa sáng á?” Billy lẩm bẩm ngạc nhiên. “Thật khó tin”. “Khó tin anh có thể trở thành một quý ông thế cơ à?” Raffertyphản pháo. “Lúc nào anh chẳng mời phụ nữ ăn sáng”. “Phải, nhưng họ luôn trả cho bữa sáng đó đêm hôm trước rồi”. “Cái gì khiến chú nghĩ cô Emerson là ngoại lệ?” Ngay cả khiđã phát biểu, gã cũng có chút cảm giác bực bội. Helen Emersonkhông phải kiểu phụ nữ dễ dãi lăn lộn trên giường với ai và được trả công bằng một bữa sáng thịnh soạn vào hôm sau. Gã biết điều đó ngay giây phút gã nhìn thấy cô, cũng là một trong những lý do khiến cảm giác của gã cực kỳ không dễ dàng. “Cô ấy không ph kiểu phụ nữ ấy”, Billy mở miệng. “Billy ơi, Billy à”, gã khiển trách. “Tất cả đàn bà đều là kiểuphụ nữ ấy. Một khi bọn họ gặp đúng người”. “Anh có đúng là người ấy với cô Emerson không?” “Anh á? Quên đi. Anh đã bảo với chú cả triệu lần, tình yêu đích thực vớ vẩn gì đó không dành cho thằng con J amey của bà Rafferty. Anh thích cuộc sống như bây giờ. Bốn mươi tám tiếngmỗi năm và không hóa đơn, không hối tiếc, không trách nhiệm. Vừa hay thỏa mãn anh”. “Hẳn rồi, Rafferty”, Billy hoài nghi. “Giờ chúng ta xử lý Dragsao đây?” Họ bước ra ngoài bầu không khí lạnh buốt của tháng Hai. Dùkhông đáng kể nhưng trời đã sáng hơn, cơn gió vẫn quất liên hồi trên những con đường làm Rafferty rùng mình, kéo chiếc áo khoác ngoài cũ kỹ sát hơn vào người. “Ý chú là gì, chúng ta sẽ làm gì với Drago à? Kể từ giờ hắn sẽtránh xa chú đấy. Điều chú nên cảm ơn cô Emerson. Ngay khi chú bị tóm vì liên quan đến vụ cướp Carnahan, Drago sẽ lọt vàodiện tình nghi nếu hắn bị phát hiện lảng vảng gần chú. Hắn có thể điên đấy nhưng hắn chưa bao giờ ngu cả. Hắn sẽ nằm yên, và tìm ai đó khác để khủng bố”. “Đấy là vấn đề. Em không chỉ lo cho Mary và em”, Billnghiêm túc nói. “Chú lo cho vận mệnh cả thế giới, Billy ạ”, gã vừa đáp vừachâm một điếu thuốc khác, khum hai bàn tay lại để chắn ngọn lửa khỏi cơn gió bấc lồng lộng. “Sau từng ấy năm chú vẫn chưa học được còn rất nhiều điều khốn kiếp chú không thể thay đổi sao?” “Em sẽ chẳng ở đây nếu em tin vào điều đó”. Rafferty nhún vai, rồi phẩy tay để dập que diêm và ném nó xuống vỉa hè. “Chú không ngăn Drago được đâu, Billy”. “Nhưng em cũng không thể cứ thế đứng nhìn hắn thích làmgì thì làm “Làm sao?” “Em đã bảo anh còn gì, hắn bị điên. Lúc vợ hắn chết hắn đại loại cũng mất trí luôn rồi”. Rafferty thở dài. Gã không muốn nghe, không muốn dính líu, nhưng Billy lúc nào cũng cứng đầu đến không tin nổi. “Sao chị talại chết?” “Tai nạn ô tô. Drago là người lái xe”. Rafferty chửi thề. “Mẹ kiếp!” “Công nhận. Em nghĩ Drago đã có hai lựa chọn. Đổ lỗi chobản thân, hoặc đổ lỗi cho người khác”. “Anh có thể đoán cách Drago chọn. Ai là người bị hắn quytrách nhiệm? Có lái xe khác liên quan à?” “Không. Tại Drago bất cẩn, và chiếc xe mất đà đâm thẳng vàomột cây cầu xi măng. Hắn phát điên vì bị mang đi thẩm vấn”. Gã biết điều gì sắp đến. Gã chưa bao giờ có khả năng tiên tri, nhưng ngay lúc này gã biết loại trò chơi nào của định mệnh đang vờn lấy gã. “Và?” “Và hắn quy tội cho công tố viên đã lôi hắn vào. Hắn bảo sẽgiết cô ấy, chỉ còn là vấn đề thời gian lẫn địa điểm thôi. Em tin hắn, Rafferty ạ. Hắn làm thật đấy”. “Anh không phải hỏi vị công tố đó là ai, đúng chứ?” Gã rít một hơi thuốc dài. Nó không mang vị tuyệt vời thêm nữa. Khôngcó gì ngạc nhiên - những điếu thuốc sáu mươi tư năm tuổi đã mất đi phần nào ma lực của chúng. “Cô Emerson”. “Cô ta có biết không?” “Em không nghĩ thế”, Billy nói. “Chuyện cũng xảy ra được vàinăm rồi. Drago vẫn đang đợi thời cơ. Nhưng lần này cô ấy đã cảntrở hắn, cũng như có đủ manh mối để lần theo hắn, dù em không chịu hợp tác. Hắn chẳng còn gì để mất nữa cả. Lần này hắn sẽbám theo cô ấy, và kẻ như Drago sẽ không để vuột con mồi”. “Mẹ kiếp!” Rafferty lặp lại. “Đó là những gì chú muốn từ anh hả Billy? Chú nghĩ anh có thể giáp mặt với Drago, rồi bảo ‘Này có lương tri tí đi mày’ à? Thằng đấy mà có cả lương tri cơ à?” Billy lắc đầu. “Em đã bảo hắn mất trí rồi mà. Em không biếtanh có thể làm gì, hay cả hai chúng ta có thể làm gì, kiểu như đến chỗ cô Emerson giải thích chẳng hạn. Vấn đề ở chỗ em sẽ phải trình bày sao em lại lảng vảng gần một kẻ như Drago, và anh biết thừa em nói dối dở thế nào rồi đấy”. “Lúc nào chả thế”. Gã cố che giấu vẻ cảm thông. Gã khôngmuốn bị vây trong trường hợp này. Bị kìm kẹp với nhiệm vụ cứu Helen Emerson. “Em phải về với Mary. Cô ấy chắc chắn đang phát ốm vì lolắng, còn chuyện bầu bí không dễ dàng với cô ấy chút nào. Trong một hai ngày tới em cần dành chút thời gian cho cô ấy. Khi anh phải... ừm... đi, em sẽ đảm nhận từ đó. Trong lúc ấy, có khi chúng ta sẽ nghĩ ra một câu chuyện đáng tin để cảnh báo cô Emerson”. Rafferty trừng mắt nhìn cậu ta một lúc lâu trước khi thả điếu thuốc xuống vệ đường và gi nát nó dưới đế giày. “Không được”. “Thôi nào, Rafferty, chỉ vài ngày thôi...” “Vài ngàyduy nhất của anh đấy. Anh sẽ không đi lãng phí để làm bảo mẫu cho một trinh nữ cứng nhắc đâu”. “Anh Rafferty…” “Không!” Gã cao giọng. “Anh không thể giúp chú. Dù sao chúcũng thừa biết anh không ngăn được Drago, một khi anh ở đâyvì mấy giờ đồng hồ đi mượn này. Đi xem Mary thế nào đi, rồi làmmột cú điện thoại nặc danh hay gì đó để cảnh báo người đàn bà kia. Drago chờ từ lâu rồi chứ gì, một hay hai ngày nữa hắn vẫn đợi thêm được thôi”. “Em không nghĩ thế”, Billy nói. “Không liên quan đến anh. Chú thừa biết anh sẽ không nguđể giơ đầu chịu chém vì bất cứ ai. Anh phí phạm quá nhiều thời gian để giải quyết mớ rắc rối của chú nên trễ hẹn với một quý cô rồi đây này”. “Quý cô nào?” “Anh không biết, đã gặp đâu mà biết. Nhưng cô ấy sẽ là người đầy đặn, tóc vàng và sẵn sàng. Thêm một chút may mắn là anh sẽ không phải bước chân ra khỏi phòng khách sạn trong ba mươi sáu tiếng nữa”. Gã liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay và chửi thề. “Mẹ kiếp, anh phí mất nửa ngày rồi thấy không!” Billy chỉ nhìn gã. Rafferty thường xuyên thấy vẻ mặt ấy trên gương mặt mẹ mình từ khi gã bắt đầu trưởng thành. Gã đã làmBilly thất vọng. Thất vọng cái con khỉ. Gã phát ốm và mệt mỏi khicứ phải làm một thằng tốt bụng đây này. Gã sẽ không cảm thấytội lỗi. “Mẹ nó chứ!” Gã lớn tiếng. “Chú sẽ không làm thế với anh,Billy. Anh không quan tâm”. Và gã nghênh ngang đi xuống vỉahè mặc cơn gió lạnh băng ở Chicago vần vò qua mái tóc, gã kéo cổ áo choàng lên cao hơn. Gã không đi quá ba tòa nhà. Ba tòa nhà để nghĩ về vẻ mặt củaBilly, như thể một con cún bị bạo hành. Ba khu phố để nghĩ vềMary MoreĴi, cái bụng căng phồng với nỗi nhọc nhằn của việc mang thai, ngơ ngác, sợ hãi và cần chồng mình bên cạnh. Ba khu phố để nghĩ về cô Emerson, với đôi mắt to và căn hộ bộn bừa, chiếc miệng để hôn và đôi chân tuyệt hảo. Và sự trong trắng của cô, gã không thể quên điều đó. Chưa kể một gia đình đầy cớm. Chẳng nhẽ cha và các anh trai của cô không bảo vệ nổi cô à? Những bông tuyết bắt đầu lưa thưa rơi khi gã đột ngột xoayngười và quay trở lại, lầm bầm chửi rủa. Gã thậm chí không hề biết sẽ thuyết phục Helen Emerson nên chấp nhận việc có gã bêncạnh thế nào. Ngay phút đầu tiên cô không hề chắc được gì về gã, và gã cũng không thể cứ đi lên trên kia và bảo với cô rằng cô đang là mục tiêu của một thằng điên được. Khi nào cô thắc mắc gã sẽ lo sau. Gã luôn có tài thuyết phụcphụ nữ rằng gã bị họ thu hút, còn với cô nàng Emerson cận thị đóng bộ nghiêm chỉnh và quen luộm thuộm này thì lời thuyết phục ấy có vẻ cũng hơi phóng đại và vô lý mất rồi. Vấn đề ở ch đã bị hút về phía cô - nửa rắc rối của gã rồi đấy. Cô chỉ vừa bước xuống bậc thang rộng trước cửa khi gã nhìn thấy cô. Cô lại mặc chiếc áo khoác phồng phềnh lố bịch kia, một chồng hồ sơ ôm chặt trước ngực. Cơn gió lùa mái tóc vào mắt, và cô gạt nó ra khi bước xuống vỉa hè. Gã đang đứng đó nhìn cô và không biết giải thích lý do đột ngột quay lại thế nào, thì chợt nghe được âm thanh của chiếc xe. Một âm thanh gã đã quá quen thuộc, cách đây rất nhiều năm, tiếng chiếc xe gầm rú tăng tốc trên đường để lao qua thành phố đông đúc, hăm hở tìm kiếm sự hủy diệt. Gã quay phắt lại, vừa kịp nhìn thấy một chiếc xe bốn chỗ vô danh màu đen cào qua góc phố. Hướng thẳng về phía Helen Emerson. Chương 3 Trong giây lát Rafferty không thể cử động, như bị cắm rễ tại chỗ trên vỉa hè khi thảm họa bày ra trước mắt. Gã đã làm nhân chứng quá nhiều lần, đứng lặng thinh khi các băng nhóm tàn bạo ở Chicago phải trả giá cho tội ác của chúng. Cũng là cách gãgặp gỡ định mệnh đời mình, nơi cuối họng súng máy. Gã không thể trơ mắt nhìn nó xảy ra thêm lần nữa. Rồi gã lao thục mạng về phía cô Emerson, xô cả hai người ngãnhào xuống đất giữa đống tài liệu văng tung tóe. Từ xa gã có thể nghe tiếng lốp xe rít lại rồi phóng vọt đi, gã lẳng lặng nhắm mắt tạ ơn Chúa. “Anh vui lòng buông tôi ra được không?” Helen Emerson vừa thở hổn hển vừa gay gắt nói. Gã nhìn xuống cô. Cặp kính của cô bị văng ra ngoài, và khuônmặt tái nhợt vì sốc. Hơi thở cô gấp gáp, trái tim đập thình thịch trên ngực gã, và gã nhận ra tốt nhất nên khẩn trương buông cô trước khi cô phát hiện chỗ nào đó của gã đã cứng như đá. Đương nhiên do cô Emerson đã gây ấn tượng là người chưa nếm sự đời, nên chắc chắn giờ c thậm chí còn chưa hình dung nổi tình trạng của gã. Gã thả cô, đứng dậy và chìa tay để kéo cô lên. Mất một lúc cô cứ ngồi yên, và vẻ mặt của cô vừa mê mụ lại vừa thù địch, cuối cùng cô cũng chịu nhét bàn tay nhỏ xinh của mình vào tay gã và để gã kéo cô đứng dậy. “Sao anh lại làm thế?” Giọng cô nghe có vẻ khản và bàng hoàng. “Tôi nghĩ cô sắp bị xe đâm”. Gương mặt cô xanh mét, và cô hơi run rẩy. “Ý anh là ai đó đang cố giết tôi?” Cô kêu lên. Gã dùng hai tay tóm lấy tay cô, kháng cự cơn bốc đồng muốn kéo cô vào lòng, dùng hơi ấm của bản thân ủ ấm cô, dùng tất thảy sức lực bao bọc lấy cô. Gã nhẹ nhàng giữ cô đứng yên, sẵn sàng siết chặt gọng kìm nếu cô dám vùng ra. “Dĩ nhiên là không rồi”, gã thuyết phục. “Tôi chỉ thấy ai đó vào cua quá nhanh và quyết định cứ hành động trước cho yên tâm. Người kia không lao đến chỗ nào gần cô, nhưng tôi không biết trước những gì sắp xảy ra. Tên đó hẳn đã uống quá nhiều”. Hiển nhiên chiếc xe xém chút nữa đâm hai người khi Raffertycó thể cảm nhận vạt áo choàng quất lên mui xe, nhưng Helen đang quá chấn động để nhận ra sự thật. “Anh không nhìn thấy biển số xe phải không?” Cô bước lui lại, lùa bàn tay qua mái tóc dài sẫm màu. Bàn tay cô đang run rẩy. “Quá nhiều số”, gã lắc đầu đáp. Thời của gã mọi thứ đơn giảnhơn rất nhiều, và không cần trình độ tiến sĩ mới ghi nhớ được biển số xe. Tất nhiên, có biết số xe cũng không ăn thua. Chắcchắn Ricky Drago sẽ dùng xe ăn cắp cho cuộc dạo chơi nguy hiểm của hắn. “Anh chạy nhanh thật đấy”, cô nói. “Anh có lẽ đã cứu sống tôi. Tôi... cảm ơn anh”. Gã có thể nhận ra cô không muốn bị ôm. Và trong khi một phần của gã muốn nói dối rằng cô tuyệt đối an toàn gã vẫn muốn dính lấy cô như keo. Có thứ gì đó đã mau lẹ len vào quyết định thay cho gã. Hai ngày này sẽ được dùng cho phân vai vị thánh của gã. Gã sẽ canh chừng Helen Emerson và giữ cô cách mộtkhoảng an toàn với Ricky Drago. Nhiệm vụ sẽ được chuyển giaocho người khác vào ngày mười lă “Không có gì”, gã nói, thật thích cái cụm từ đặc thù đó. “Tôi được đặt biệt danh Jamey Tốc Độ khi chơi bóng thời sinh viên”. “Anh học ở đâu?” Thực tế, gã thuộc số ít thành viên nơi đáy xã hội Chicago tốt nghiệp một trường trong nhóm I vy League [1]. Harvard chưatừng đặc biệt tự hào về những sinh viên cá biệt này, nhưng Bugs Moran nhận ra có gã bên cạnh cũng thú vị ra trò. “Harvard”, gã đáp. [1] Nhóm gồm 8 trường đại học lâu đời và trứ danh ở miền Đông nước Mỹ, bao gồm: Brown, Colombia, Cornell, Dartmouth,Harvard, Princeton, Pennsylvania, Yale. “Anh trông không giống một cựu sinh viên I vy League lắm”, cô vừa nói vừa nhích ra xa khỏi gã một chút. “Ừ, tôi biết. Trông cũng không giống luật sư. Chính xác thì tôi trông giống ai, thưa cô Emerson?” Gã thản nhiên giễu cợt. “Humphrey Bogart [2]“. [2] Hay Humphrey DeForest Bogart (25/2/1899 - 14/01/1957) diễn viên huyền thoại của Mỹ, một trong những bộ phim nổi tiếng nhất của ông là Casablanca. “Ai?” Cô đã tìm được cách để ném cho gã một mớ bòng bong. Chút sắc hồng ửng trở lại trên gò má xanh xao, và đôi mắt cô dần trở nên lấp lánh. “Pha với một chút của J ohn Garfiel tại đỉnh cao sự nghiệp. Vàcó lẽ thêm vài nét của Cary Grant [3] mỗi khi trở nên xấu tính”. [3] Hay Archibald Alec Leach (18/01/1904 - 29/11/1986)diễn viên Mỹ gốc Anh được xem như là sự kết hợp hài hòa giữa sự tự tin, ngoại hình, sự nam tính và sức lôi cuốn quyến rũ. “Cô đang bảo tôi giống ngôi sao điện ảnh đấy à?” Gã gặng hỏi. Cô lắc đầu. “Không đâu, anh Rafferty. Tô đang bảo anh y xìđúc một gã găngxtơ”. *** Thật vô nghĩa, và Helen Emerson luôn tự hào mình là người lýtrí, ít nhất là trong mối quan hệ với người khác giới. Chẳng có lýdo nào để ngồi đối diện với người hệt một tên xã hội đen vượt thời gian trong một quán ăn đông đúc, dù người đó lôi cuốn đến hút hồn và đầy nguy hiểm và nhìn anh ta nghiến ngấu lượng cholesterol cô chỉ dám ăn trong cả tháng, hút thuốc lá và chăm sóc cô. Dẫu vậy, cô cũng đã cảm nhận được sự chăm sóc từ trước rồi, và cũng chính là lý do để cô có mặt ở đây. Anh ta kéo phắt cô khỏi vỉa hè đông đúc, mang cô vào quán Murphy's Diner, dồn dập đưa cho cô trà và một hộp aspirin con con bằng thiếc trông có niên đại đến nửa thế kỷ. Anh ta nhặt đống giấy tờ vung vãi của cô lên, cuốn chiếc áo choàng chặt hơn quanh người cô, đỡ lấy cánh tay cô và dẫn cô đến một thiên đường nhỏ tĩnh lặng và an toàn, lờ đi những lời phản đối yếu ớt rằng cô có thể tự lo cho mình. Đương nhiên cô có thể tự chăm sóc bản thân. Cô chỉ không chắc có muốn thế không thôi. Cô hoàn toàn biết anh ta đang cố mê hoặc cô, giống như khi cô phát hiện đâu là lúc một luật sư bào chữa đang cố phỉnh nịnh cô vậy. Nếu không phát hiện thì há ba năm trong nghề của cô đều vứt đi? Tất nhiên Rafferty không có động cơ. Cô đã để Bill MoreĴi đi, và dù có ân hận chăng nữa, bản năng vẫn đang khẳng định rằng cô đã đúng. Bản năng cũng bảo J ames Rafferty sẽ không gây tổn hại đếncô. Ngay cả khi anh ta chớp mắt và các nét hấp dẫn lồ lộ hết ra bên ngoài, từ tận thâm tâm cô cũng biết anh ta không phải mối đe dọa của cô. Ngoại trừ với chốn bình yên trong tâm trí. Có lẽ cô là một con ngốc khi lắng nghe bản năng của mình. Chúng không phải luôn đúng, dẫu cho chúng đóng vai trò rất lớn trong phần lớn cuộc đời cô. Nếu cô còn chút sáng suốt như gia đình cô tin tưởng, cô sẽ tống cổ Rafferty lẫn tác động của anh ta đi. Nhưng cô sẽ không để điều đó xảy ra. Cô đã báo cáo sẽ nghỉ sớm hôm nay, giờ mà quay lại còn quái lạ hơn. Và trong lúc cô nên rũ bỏ Rafferty, cô lại không sao làm cho được. Anh ta sẽ từ giã cô sớm thôi, một khi anh ta chắc chắn cô đã vượt qua sợ hãi. Thật buồn cô còn chẳng nhìn thấy chiếc xe nào lao thẳng về phía cô. Cô vẫn không chắc có nên tin anh ta hay không - sau cùng, nếu bị xe đâm người ta đã chẳng ngã lăn xuống đất nhẹ nhàng như thế rồi. Nhưng nếu chuyện chiếc xe là bịa đặt, thì anh ta muốn gì ở cô? Và liệu cô có sẵn lòng trao nó cho anh ta haykhông? Anh ta ngả lưng và tự ý châm một điếu thuốc, rít một hơi dài thứ thuốc lá không có đầu lọc. “Anh không biết chúng tai hại thế nào với bản thân à?” Cô hỏi với giọng chê trách. “Tôi chờ nghe cô nói đây”, anh ta đáp, phả một vòng khói lười biếng về phía cô. Cô mê hoặc nhìn theo khi làn khói lơ lửng trôi qua chiếc bàn, rồi tản ra ngay trước mắt như vòng hoa của những nàng tiên. Thật ngớ ngẩn, khi chính thứ sản phẩm độc hại kia đang nhảymúa trước mắt cô. “Nó sẽ giết chết anh”, cô thẳng thừng nói. Rồi anh ta gượng gạo mỉm cười, một nụ cười tự giễu vừa quyến rũ lại vừa nhức nhối. “Không đâu”. “Người phát ngôn của Bộ Y tế...” “Bác sỹ chẳng biết cái đếch gì cả”, Rafferty nói, thư giãn dựa lưng và nhìn cô qua đôi mắt lim dim. “Tôi sẽ không chết vì ung thư phổi”. “Giãn phế quản [4]”. [4] Emphysema: các nang trong phổi bị phồng to, mất khả năng hấp thụ dưỡng khí. “Cũng không phải cái đó nốt. Tôi đảm bảo sẽ toi đời giữa một cơn mưa đạn, như trong phim Gương mặt sẹo [5]”. [5] Scarface: bộ phim tội phạm nổi tiếng của Mỹ sản xuất năm1983. “Anh xem quá nhiều phim rồi đấy!” “Cô cũng vậy”, anh ta đáp. “Hiển nhiên tôi thích các bộ phimsản xuất từ hồi xưa hơn. Với lại tôi cũng nhiều tuổi hơn cô “Không nhiều lắm”. “Cô hẳn sẽ ngạc nhiên cho xem”, anh ta lầm bầm, giụi tắt điếu thuốc. “Cô sẵn sàng để đi chưa?” “Đi đâu?” “Tôi sẽ lái xe đưa cô về”. “Tôi hoàn toàn có thể tự lái xe”, cô nói. “Không được. Dù thấy ổn cô vẫn là một tay lái tồi. Cô đi quáchậm và cẩn thận. Nếu chúng ta ra đường mà còn nguyên vẹn thì tôi sẽ lấy làm kinh ngạc lắm. Sau cú chấn động chắc chắn cô sẽ đánh xe lao vào một xe đá trước khi đi được nửa đường về nhà”. “Một xe đá?” Helen bối rối. Rafferty thậm chí còn chẳng chớp mắt. “Thế ở Chicago ngườita không đi đưa đá lạnh à? Đến các quán bar, khách sạn và những nơi kiểu thế”. “Tôi nghĩ là có, nhưng…” “Đừng tranh cãi với tôi, Helen ạ. Tôi sẽ lái xe đưa cô về nhà, chấm hết”. Cô trừng trừng nhìn lên anh ta. “Tôi không thích bị bắt buộc”, cô gay gắt. “Tôi lớn lên trong gia đình toàn đàn ông, ai cũng nghĩ họ biết điều gì tốt nhất cho tôi, nhưng tất thảy đều giẫm lên tôi nếu tôi thoáng tỏ ra yếu đuối. Đời tôi thì tôi tự quyết định”. “Họ quyết định thay cô thế nào?” Anh ta vừa hỏi vừa uốngcạn tách cà phê của mình. “Họ không muốn tôi theo học trường Luật. Họ không muốntôi làm ở Viện công tố. Họ muốn tôi lấy anh bạn chơi chung từthuở bé, sinh con và trở thành vợ của một cảnh sát mẫu mực”. “Còn cô không muốn “Phải”, cô thẳng thắn. “Tôi không nghĩ mình sẽ kết hôn”. “Thôi nào, luật sư, trông cô có hơi dừ một chút nhưng không tệ đến nông nỗi ấy đâu”, anh ta lẩm bẩm. Cô tròn mắt nhìn anh ta, trước khi kịp nhận ra anh ta đang trêu chọc cô. “Kiểu người như anh mới nói thế”, cô êm ái đáp trả. “Thực tế tôi chưa gặp được ai phù hợp với tôi”. Cô tựa lưng vàoghế, thản nhiên đánh giá anh ta, và lần đầu tiên cô phát hiện lợi ích của một điếu thuốc. Cô sẽ rất hài lòng nếu được rít một hơi và nhả luồng khói mát lạnh vào đôi mắt đen thách thức kia. Anh ta nhìn cô một lúc, rồi nụ cười cong trên miệng anh ta. Nụ cười này không còn sót lại chút chế nhạo nào, và đôi mắt sẫmđen nghiền ngẫm của anh ta sáng lên trong chớp mắt. “Quá tệ, cô Emerson ạ. Có lẽ cô sẽ phải chết khi vẫn còn là một trinh nữ”. Tay cô bối rối va phải tách trà. Thật may trà không còn nhiều nên đám chất lỏng màu đen chỉ sánh một chút ra bàn, cô vừa bận rộn lấy khăn giấy lau chùi vừa hy vọng anh ta không chú ý đến màu hồng mỗi lúc một sậm trên má cô. Sao anh ta biết? Mắt anh ta có tia X-quang hay thứ gì đó sao? Anh ta đứng lên, quẳng sấp tiền xuống mặt bàn. “Đi thôi, luật sư. Cô trông vẫn lung lay lắm”. Cô trợn mắt với anh ta, nhưng không ăn thua. Anh ta vẫn tiếptục thản nhiên nhìn cô bằng cặp mắt thích thú đó, và nếu cô dám chống đối, chắc điều anh ta sẽ nói còn xúc xiểm hơn câu vừa nãy nhiều. “Anh có thể đưa tôi về”, cô chấp nhận. “Nhưng chỉ vì tôi không thích tranh cãi với anh”. “Thế cô thích làm gì với tôi nào, Helen?” “Tống khứ được anh càng nhanh càng tốt. Cách hiệu quả nhất là để anh lái xe đưa tôi về”. “Cô học nhanh đấy”, anh ta nói. “Đưa tôi chìa khóa xe”. “Thôi nào, ngay bây giờ hả, anh Rafferty”, cô oán thán, miễn cưỡng nhượng b Anh ta chỉ đơn giản đứng trước mặt cô, tay chìa ra. “Chùmchìa khóa”. Cô nhìn xuống bàn tay anh ta. Đó là một bàn tay thanh mảnh đến không ngờ, với những ngón dài, khéo léo, lòng bàn tay hẹp, cổ tay mạnh mẽ đeo một chiếc đồng hồ vàng nhỏ nhắn lỗi thời. “Đồ bắt nạt”, cô vừa lẩm bẩm vừa thò tay vào chiếc ví lộn xộn để tìm chùm chìa khóa. Helen cứ thế kinh ngạc nhìn anh ta mở cửa bên ghế phụ cho cô. Trước đây cô chưa từng được đàn ông mở hộ cửa xe, đặt hai bàn tay khỏe khoắn, rắn chắc của họ lên khuỷu tay cô, chăm chút cho cô. Cô không thích thế. Ngay cả khi cô nhận ra những điềuđó cám dỗ đến nguy hiểm. Nhưng đảm bảo anh ta chỉ mở cửa để cô khỏi nhảy vào ghế lái thôi, cô hậm hực nghĩ khi thắt dây an toàn. Cô vụng trộm thích thú khi quan sát anh ta khinh khỉnh ngồi xuống chỗ bên cạnh, co hai cái chân dài vào trong chiếc xe chật ních của cô với phong thái tao nhã của một anh hề đang trèo lên chiếc xe trong tranh với một tá chiến binh cùng một con tinh tinh theo hầu bên cạnh. Anh ta tròn mắt nhìn bảng đồng hồ điều khiển một lúc lâu, như thể nó là thứ gì đó không thua tàu con thoi, và anh ta cũng không định thắt dây an toàn. “Anh có biết cách lái xe, đúng chứ?” Helen hỏi. “Tôi từng lái xe to hơn nhiều”. Anh ta xoay chìa khóa đến khi bộ khởi động rên lên trong đau đớn, rồi bắt đầu nhìn xuống sàn. “Bàn đạp đâu rồi?” “Không cần. Đây là xe tự động. Anh chắc chắn là biết cách lái chứ hả?” “Ừ”. Anh ta vẫn không nhúc nhích để đưa chiếc xe vào trạng thái Lái. “Anh biết xe tự động là gì phải không? Anh chỉ cần ấn cái nút nhỏ có chữ D để lái xe và định hướng xe là xong. Rất đơn giản”. “Rất đơn giản”, anh ta lẩm bẩm, rồi đẩy cần số. Chiếc xe chồmlên trước, anh ta dậm phanh làm Helen đập đầu vào cửa “Kinh khủng thật!” Cô càu nhàu. “Anh tốt nhất nên thắt dâyan toàn vào. Thứ nhất, đó là luật. Thứ nữa, tôi có cảm giácchuyến đi của chúng ta sẽ không êm dịu đâu”. Không hiểu sao cái dây an toàn có vẻ cũng xa lạ với anh ta giống hộp số tự động. Anh ta khẽ chửi thề, những câu chửi đủ lịch sự mỗi khi gặp rắc rối, rồi hướng sự chú ý vào tình hình giao thông. “Cô vẫn lái xe qua mớ hỗn tạp này à?” Anh ta khiếp sợ hỏi. “Người ta làm thế quái nào sản xuất được nhiều ô tô thế?” “Có rất nhiều người ở Chicago, anh Rafferty ạ, và tất cả họđều lái xe”. “Quỷ tha ma bắt!” Anh ta thốt. Và bỏ chiếc pickup [6] cực lớnmất hút sau lưng. [6] loại xe bán tải đa năng tương tự như xe jeep rất được ưa chuộng tại Mỹ. Anh ta có thể lái xe không giỏi, nhưng lái rất nhanh. Bọn họsượt qua chiếc pickup, tránh một chiếc Mercedes, quẹt vào dải phân cách và thắng gấp trước một chiếc taxi. Trông anh ta không khác gì đến từ một không gian và thời gian khác khi khom người trên chiếc vô lăng bé tẹo trong cái xe tí hon của cô. “Anh chưa lái xe nước ngoài sản xuất bao giờ phải không?” Cô hỏi, chộp lấy tay nắm cửa và lén ép chặt hai bàn chân xuống sàn mỗi lần mong anh ta phanh lại. “Phải”. Anh ta giật mạnh vô lăng, cua vèo qua góc đường và hướng về phố Elm. Anh ta có lẽ không mấy thông thạo về chiếc xe của cô, nhưng giác quan định hướng của anh ta không tồi. Anh ta đang đi những lối đi tắt cô phải mất hàng tháng mới tìmra. “Chiếc xe đầu tiên của anh là xe gì?” Cô thử hít thở đều đặnđể giúp bản thân bình tĩnh khi anh ta phóng vào giữa hai chiếc xe chở hàng đồ sộ. “Một chiếc Packard cũ”, anh ta lẩm bẩm, rồi thò tay vào túi tìm thuốc lá. “Đừng!” Cô thét lên. Và cố nói bằng giọng điềm nhiên hơn, “Tôi mong anh không hút. “Đừng có bảo tôi đây là xe cấm thuốc lá”, anh ta nhăn nhó nói, rẽ hai bánh trước vào lối ngoặt. “Không hẳn. Tôi chỉ muốn anh đặt cả hai tay lên vô lăng”. “Cô có thể châm nó hộ tôi bất cứ lúc nào”. Cô câm nín. Cô ghét thuốc lá; chúng là những thứ xấu xa vàbốc mùi. Cô ghét ai hút thuốc cùng đám khói độc hại lẫn thái độ mặc kệ lá phổi của tất cả mọi người. Nhưng ý tưởng châm thuốc hộ J ames Rafferty, rồi chuyển từ miệng cô sang miệng anh ta, gần như kích tình không sao chịu nổi. “Không thuốc lá”, cô thẳng thừng. “Tôi biết ngay mà”. “Tôi chưa dùng xe Packard bao giờ. Chúng không phải loại hạng sang ở thập niên ba mươi sao?” “Họ cũng sản xuất vào những năm hai mươi và bốn mươi nữa. Tôi có một chiếc mẫu cuối cùng”. “Tôi cá nó hẳn rất tuyệt vời”. “To. Và rất nhanh”. Anh ta vọt lên một ngã rẽ khi đèn giaothông chuyển đỏ, chệch qua một người đi bộ chỉ trong vài centimet ngắn ngủn. “Anh có thể lái xe chậm một chút không?” Cô nghiến răng đề nghị. “Không. Tôi cần một điếu thuốc”. “Anh có biết chúng tai hại thế nào với anh không?” “Cô có biết ai hút thuốc cũng ghét phải nghe tác hại của chúng đối với họ thế nào không?” “Lái chậm lại và tôi sẽ không thuyết giáo anh nữa”. “Để tôi hút và tôi sẽ lái chậm lại”. Bế tắc. Phần còn lại chuyến đi nhường chỗ cho sự im lặng, chỉ đôi khi bị ngắt quãng bởi tiếng phanh rít lên cùng những tiếng kêu tắc nghẹn vì sợ hãi. Cô cuối cùng cũng đầu hàng và nhắmchặt mắt, siết cả hai tay lên ghế và dâng một lời cầu nguyện lên Đức Chúa như vẫn làm thời thơ ấu. Khi cô mở mắt chiếc xe đãgiật lên chuẩn bị ngừng ngay bên ngoài tòa nhà chỉ chực đổ sụp của cô. “Thứ này dừng thế nào đây?” Anh ta càu nhàu, đã đút tay vào túi để tìm những điếu thuốc của anh ta ngay rồi. “Ấn nút P để đỗ xe. Chỉ cần nghĩ đến các chữ cái của thuật ghi nhớ thôi”. Tay cô khẽ run rẩy khi tháo dây an toàn. Thế là trọn vẹn ngày hôm nay đã diễn ra kích thích một cách đáng nguyền rủa, và giờ mới vừa qua trưa. “Chỉ cần nghĩ đến cái gì?” Anh ta tắt máy, lúng túng dờ dẫmtháo dây an toàn trước khi xuống xe. “Thôi quên đi”. Cô tự mở cửa xe trước khi anh ta kịp làm thay, mà anh ta còn bận thỏa mãn bản thân bằng đám chết tiệt kia kìa. Cô chìa tay ra, khi thừa biết nên tống khứ anh ta đi. Thừa biết rằng cô không muốn thế “Tôi thực sự đánh giá cao tất cả những gì anh đã làm”. Anh ta nhìn xuống cô, và có một nét thích thú mờ nhạt ánh lên trong đôi mắt tối đen, giễu cợt ấy. “Cô đang thửphủi tôi đấy à?” Cách dùng từ kỳ quặc. “Đương nhiên không phải”, cô lắp bắp. “Tốt”, anh ta nói. “Bởi vì tôi rất thích vào trong uống một táchcà phê”. “Nhà tôi hết cà phê rồi”. “Tôi sẽ uống nước”. “Nước ở Chicago sao?” Cô lặp lại. “Anh đùa chắc”. “Ý cô là mọi người không thể uống nước nữa?” Anh ta kinh ngạc hỏi. “Chuyện quái gì xảy ra với thành phố này vậy? Khôngthể hút thuốc, không thể tự ý vượt hàng triệu chiếc xe trên đường và giờ cô đang bảo đến mấy hớp nước chết tiệt kia tôi cũng không uống được nữa? Thế mà bảo phát triển, ở thập niên hai mươi người ta sống sung sướng hơn nhiều”. “Làm sao anh biết?” Câu hỏi đó chặn anh ta lại. Anh ta nhún vai, và thêm lần nữa cái điệu cười quyến rũ, giả tạo đó rộ trên gương mặt anh ta. “Đoán vậy thôi”. Anh ta không chạm vào cô, nhưng thực tế cũng không phải làm thế. Dù đứng xa cả thước, sự hiện hữu của anh ta vẫn hiển nhiên, mãnh liệt và khuấy đảo. Thật khó lý giải, cái sức hút ấy mạnh mẽ hơn bất cứ thứ gì cô từng cảm nhận trong cuộc đời. Cô không thể bị quyến rũ bởi kẻ lạ mặt khó gần chỉ thích chế nhạo ấy được. Nhưng đã quá muộn. “Hẳn tôi vẫn còn một ít hòa tan”. Trong chốc lát anh ta ngây ra như phỗng. “Hòa tan?” Anh ta nói theo. “Cà phê hòa tan. Anh nói muốn uống cà phê, nhớ không? Tôi nghĩ cà phê hạt thì chắc hết rồi, nhưng loại hòa tan rất có thể vẫn còn một lọ dùng dở. Nếu anh không cầu kỳ”. Anh ta cứ thế nhìn cô. Những giây phút tưởng như vô cùng tận khiến cô cứ có cảm giác lạ lùng rằng mình sắp phạm phải sai lầm cực lớn, hơn việc chia sẻ một tách cà phê rất nhiều. Rằng cô sắp trao cho anh ta nhiều hơn thế nữa. “Tôi không cầu kỳ”, anh ta trầm giọng nói. Khi anh ta theo cô lên những bậc tam cấp đến trước cửa nhà, cô tự hỏi không biết đã mắc sai lầm nghiêm trọng đó hay chưa. Và cô biết mình cũng không quan tâm. *** Thôi được, cô là người luộm thuộ Rafferty nghĩ khi gã nhìn bao quát phòng khách có ba lớp giấy dán tường bong tróc, những chồng báo, đĩa đựng đồ ăn sáng, đồ ăn và quần áo la liệt khắp bàn. Mẹ gã luôn giữ ngôi nhà gọn ghẽ không một hạt bụi. Đó từng là niềm kiêu hãnh, hạnh phúc của bà lẫn nỗi thất vọng liên miên của gã. Một gã đàn ông chỉ có thể cảm giác như ở nhà trong một nơi thế này. Vượt lên tình trạng bừa bãi song rất thoải mái, ở đây có một chiếc tivi lớn nhất gã từng được trông thấy trong đời. Gã chắc chắn đây là một chiếc tivi màu, trong lúc vẫn chưa đoán được những chiếc hộp đen trên đinh tivi là gì song chúng hẳn có công dụng nào đấy. Gã là người hâm mộ cuồng nhiệt của những chiếc tivi. Yêu hết thảy những gì phát ra từ loại màn hình đen trắng mười inch đến chiếc cỡ lớn sành điệu nhiều màu sắc như chiếc của Helen. Cáctrận bóng chày, khúc côn cầu, bóng bầu dục. Quảng cáo bia, những bộ phim mì ăn liền [7] và các chương trình trò chơi. Lần đầu tiên gã phát hiện tivi là trong phòng khách sạn, gã đã dành toàn bộ thời gian để ngồi trước nó, lờ đi lời mời gọi đầy mê mẩn của một người đàn bà tuyệt đẹp đến từ Evanston. Gã đã học được cách tiết chế thời gian trong những lần trở lại tiếp theo, nhưng hình ảnh chiếc tivi cỡ lớn này đã đẩy ham muốn như chưa bao giờ căng đầy trước đây trong trái tim gã. [7] Soap opera: khái niệm này xuất hiện những năm 50 ở Mỹ, chỉ những bộ phim gia đình dài tập không mấy chất lượng do các công ty bột giặt tài trợ chủ yếu để quảng cáo xà phòng. “Tôi biết, tôi biết”, Helen nói, lại gần với một cốc cà phê nghi ngút trong khoảng thời gian ngắn đến kinh ngạc. “Những khơi gợi từ chiếc ti vi”. “Phải không?” Gã tò mò ngước lên. Gã đã xem một trongnhững kênh đó trong khách sạn, ngạc nhiên và thích thú khi thấy những điều chắc chắn không hề thay đổi trong năm mươi năm qua. “Ý tôi là kích cỡ của nó. Không kể một hộp nối cáp và hai đầu máy video. Tình cờ tôi lại thích xem ti vi”. “Tôi cũng vậy”. Cô không được xoa dịu. Có vẻ thời nay việc thích xem ti vi bị cho là đáng xấu hổ. Gã không hình dung nổi sao lại có người phản đối một thứ tuyệt vời như vậy “Tôi chỉ xem những kênh của PBS [8] thôi”, cô thủ thế nói. [8] Public Broadcasting System mạng truyền thông phi lợi nhuậncó 349 đài truyền hình làm thành viên ở Mỹ, các kênh chương trình của nó được trả một phần bởi người xem và một phần từ tài trợ của chính phủ và các công ty lớn. “Hẳn rồi”, gã hoang mang đáp. “Và những bộ phim cũ. Tất cả những phim âm nhạc, găngxtơ. Những bộ phim đen trắng kinh điển”. “Cô thích phim đen trắng hơn á?” Gã ngạc nhiên. Những bộphim màu là cả một kỳ quan với gã, phim đen trắng có gì đâu mà xem. Cô nhún vai. “Biết nói gì được nữa? Tôi là người lỗi thời mà”. Gã xém đánh đổ cốc cà phê. “Vậy sao?” Gã cẩn thận hỏi. Cô cố nặn một nụ cười chê trách. “Cha tôi nói tôi sinhnhầm thập kỷ. Tôi đáng nhẽ nên sinh vào thập niên ba mươi hoặc bốn mươi mới đúng”. “Còn những năm hai mươi?” Giọng gã ram ráp ngay cả với chính đôi tai gã. Cô không nhận ra. “Thập niên hai mươi thì không” cô thẳngthắn nói. “Chicago lúc đó quá dữ tợn”. Gã không thích cuộc nói chuyện này. Không thích ẩn ý từ lời phát biểu vô tư của cô. “Chắc rồi”, gã nói. Gã quyết định thay đổi chủ đề. “Cô pha cà phê kiểu gì nhanh thế?” “Tôi có lò vi sóng”. Không hiểu sao suốt mấy lần quay lại gần đây gã đều bỏ qua nó. Nghe cứ như thứ gì đó ngoài tầm hiểu biết của Buck Rogers[9] và có vị hệt bìa cứng hóa lỏng. Thêm một thứ khác không được cải tiến trong hơn nửa thế kỷ. “Ngon đấy”, gã nói.> [9] Nhân vật trong truyện giả tưởng của Phillip Francis Nowlan,về sau được chuyển thể thành truyện tranh và phim. Nhân vật chính Buck Rogers sau một trận nổ phóng xạ rơi vào trạng thái ngủ đôngsuốt 492 năm và thức tỉnh vào năm 2419. “Anh nói dối, anh Rafferty”. Gã không nao núng. “Rafferty thôi”, gã nói. “Sao cô lại nóithế?” “Thứ nhất, cà phê này ít nhất cũng được hai năm tuổi, các tinh thể ở đây là thứ tôi cạo được nơi đáy bình, và thực sự không ngon để uống cho lắm”. Gã trao cho cô một nụ cười thản nhiên. “Đâu phải lời nói dối kinh khủng nào cho cam. Mẹ tôi dạy tôi thành người lịch sự”. “Tôi chắc bà đã làm thế. Tôi chỉ thắc mắc về những lời nói dối khác của anh thôi”. “Những lời nói dối khác?” “Tôi không nghĩ anh là người như anh đã giới thiệu, Rafferty ạ. Và tôi tin vào bản năng”. Cô nhấp một ngụm cà phê, rồi nhănmặt. Cô trông vô cùng bình tĩnh, vô cùng tự chủ, nhưng gã có thể thấy những gợn căng thẳng bên dưới khuôn mặt ấy. “Cô muốn tôi nói thật sao?” Trong một khắc điên rồ gã đã cân nhắc chuyện đó, chỉ vì hứng khởi được trông thấy cơn sốc của cô. Gã chưa bao giờ thử tin một người phụ nữ, gã cũng không định bắt đầu thói quen ấy ngay lúc này. Gã ngả người, rút bao thuốc lá và dịu dàng mỉm cười. “Emsẽ không bao giờ tin, cục cưng ạ”. “Cứ thử xem”. Gã liếc cô qua ngọn lửa từ que diêm gỗ, trong những giâythiêu đốt, hai đôi mắt chạm nhau. Rồi cô đỏ mặt, loại đỏ mặt ngượng ngùng, ngây thơ gã không hề bắt gặp trong mấy chục năm trời. “Anh là ai, Rafferty?” Cô hỏi. “Và anh muốn gì ởtôi?” Chương 4 Helen không tin anh ta. Có vài lý do để cô làm thế bao gồm sựthật Abramowiĵ khẳng định không có ai tên Rafferty làm việc cho anh ta lúc gọi hỏi thăm về Billy Moretti. Cô chấp nhận thông tin với cảm giác muốn ốm mỗi khi đối mặt với sự sụp đổ. Cô không thường mắc những sai lầm thế này, những sai lầm về lòng tin. Cô đã nghĩ Billy MoreĴi xứng đáng cóthêm một cơ hội. Cô đã nghĩ J ames Rafferty là người tốt. Tha vào đó anh ta bỗng hóa thành một kẻ dối trá. Song vẫn không thể rũ bỏ thực tế cô đã tin anh ta. Điều anh ta nói có thể không phải sự thật, nhưng xuất phát từ ý tốt. Cô không hề nhìn thấy chiếc xe lao về phía cô như anh ta nói, rất có thể toàn bộ đều do anh ta dựng chuyện. Nhưng cũng vô nghĩa. Anh ta đã đạt được mục đích Billy MoreĴi được thả tự do, cô ngừng khởi tố và giờ không thể thay đổi quyết định, hơn nữa còn để giữ lại sự tín nhiệm của cấp trên với cô. Thế thì tại sao, khi cô có cảm giác anh ta đang chuẩn bị bước ra cuộc đời cô, anh ta lại quay đầu để cuốn cô khỏi đường theo đúng nghĩa đen? Vì sao anh ta đưa cô đến quán cà phê rồi nhồi nhét cô với trà và bánh mì nướng, vì sao anh ta lái xe đưa cô về nhà, vì sao anh ta ngồi đây trong căn hộ của cô để uống thứ cà phê tệ hại nhất với bất cứ ai và nhìn cô bằng đôi mắt cẩn trọng ấy, rõ ràng đang cân nhắc về lời nói dối tiếp theo? Và khiến cô phiền muộn hơn nữa là sao cô lại để anh ta làm thế? Lại là bản năng. Những thứ phi lý đáng nguyền rủa đó cànglúc càng gây nhiều rắc rối cho cô, chính bản năng cũng đang nói hãy tin người đàn ông này. Không phải tin lời anh ta, những lời phần lớn đều tâng bốc, rỗng tuếch và hoàn toàn sai sự thật. Mà tin con người anh ta. Và mặc những gì lý trí thông thường mách bảo, cô đã tin. “Ý cô là sao, tôi là ai ả?” Anh ta nói, lảng tránh để câu giờ khi nghịch điếu thuốc. “Tôi bảo cô rồi…” “Anh bảo tôi cả lô nói dối. Abramowiĵ chưa bao giờ nghe nói đến anh”. Anh ta trông không xấu hổ một chút nào hết. “Có lẽ anh ta bị thiếu hụt trí nhớ”. “Abramowiĵ có cả sỏi trong đầu. Anh đã nói dối tôi Rafferty. Anh không phải luật sư”. “Tôi học một năm ở trường Luật”, anh ta nói, và trước vẻ thờ ơ của anh ta, cô chết điếng cả người đến mức quên không bảo anh ta dập thuốc. “Trường Luật nào?” “Princeton”. “Princeton không có trường Luật”. Rafferty nhún vai. “Thực ra nó chỉ là khóa luật dự bị ở Harvard”. “Anh trông không giống cựu sinh viên Harvard”. Anh ta cay đắng mỉm cười với cô, đôi mắt đen nhàu nhò. “Nếu cô không định tin tôi, cô bận tâm hỏi làm gì?” Anh ta dựa vào chiếc sofa căng phồng cũ kỹ, duỗi đôi chân dài ra trước mặt. Cô cứ đứng đó nhìn anh ta đăm đăm, không sẵn lòng ngồi xuống trong khi thẩm vấn anh ta. Ngồi xuống đồng nghĩa với việc chấp nhận sự hiện diện của anh ta, và cô thì chưa sẵn sàng. Cũng chưa sẵn sàng tống anh ta ra cửa. “Tại sao anh nói dối tôi?” “Tôi thực sự không nói dối cô. Cô tự đưa ra một loạt các kết luận, và tôi chỉ men theo thôi. Nắn cô lại cho chuẩn khó hơn nhiều”. “Anh luôn chọn cách dễ hơn để làm thế sao?” Cô vừa hỏi vừa quan sát anh ta. “Tôi cố gắng”, anh ta đáp, và hương vị toát ra từ sự điềm tĩnh đó lràn cả căn hộ. “Ngồi xuống đi Helen, rồi tôi sẽ trả lời các câuhỏi của cô. Một cách thành thực”. “Trả lời xong thì mời anh đi ngay cho”, giọng cô lãnh đạm và kiềm chế, chất giọng chuyên dùng để thuyết phục hàng tá các luật sư bào chữa cùng bồi thẩm đoàn. “Và tôi thích đứng hơn”. Song không qua mặt được Rafferty. “Ngồi xuống”, anh ta bình thản nói. Helen ngồi xuống. Cô gần như ước mình cũng có một cốc cà phê kinh khủng như thế trong tay. Bất cứ thứ gì khiến cô bận rộn, khiến cô tốn thời gian trong khi bận nghiên cứu anh ta. Bởi vậy cô chẳng có chỗ nào để nhìn ngoại trừ anh ta, với đôi mắt tối đen, hơi cười cợt cùng gương mặt đẹp trai, xa cách đó. “Tôi đoán anh là bạn của Billy MoreĴi, và anh bay đến đây xem có cách giúp cậu ta được thả hay không”. Cô không thể chịu nổi cường độ trong đôi mắt anh ta. Chiếc cà vạt lụa lỗi thời có vẻ là nơi an toàn hơn để nhìn. “Cô lại làm thế”. “Làm gì?” “Tùy tiện ra kết luận. Tin tôi đi, tôi không bay vào đây. Có đôicánh nào đâu”. “Rất hài hước”, Helen đáp, tự luyện cho mình cách chống lại ánh mắt anh ta. “Vậy vì sao anh không nói cho tôi sự thật?” “Không vấn đề”, anh ta nói. “Cô có gạt tàn chứ?” Cô thậm chí còn chẳng nhận ra anh ta đã làm ô uế căn hộ cấmkhói thuốc của cô. “Dùng cái đĩa của anh ấy” cô gắt. “Cô không định cấm tôi hút thuốc à?” Anh ta đọc được ý nghĩ của cô rất dễ dàng. “Tôi nghi ngờ tính hiệu quả của nó”, cô đáp. “Tôi không biết nữa. Nếu cô yêu cầu một cách thực sự dương...” “Nhè điếu thuốc chết tiệt của anh ra ngay”, Helen quát. Anh ta mỉm cười với cô, không kèm theo chút mỉa mai nào nữa. “Tốt hơn rồi đấy. Bản thân tôi thích sự thành thực hơn”. Anh ta giụi thuốc, và cô lại để ý đến bàn tay anh ta. Những ngóndài, khéo léo, một bàn tay tuyệt đẹp, không kèm theo nhẫn. “Cô nói đúng, tôi là bạn cũ của Billy. Vợ cậu ta đã liên lạc với tôi khi cậu ta gặp rắc rối. Cô và tôi thừa biết thằng nhóc bị cho vào tròng, bản chất của Billy MoreĴi là lương thiện. Thằng nhóckhông đáng phải chịu tội thay cho một thằng thần kinh như Morris”. “Cậu ta kể thế với anh? Morris đã ép cậu ta phải không? Cậuta sẽ làm chứng chứ?” Cô hăm hở hỏi, quên đi sự ngờ vực của bản thân để nhoài người sát lại trên chiếc ghế. “Không”. “Không cái gì?” “Không với tất cả. Cô không hiểu quy tắc rồi, luật sư. Cậu ta sẽ nằm trong nhà tù J oliet, con cậu ta sẽ được sinh ra mà không có cha, vợ cậu ta và đứa nhỏ sẽ xảy ra chuyện hoặc thậm chí bị tìm thấy đang nằm trên đường trước khi cậu ta kịp cung khai. Cô làm luật sư được bao lâu rồi?” “Năm năm, và tôi hiểu...” “Cô không hiểu cái cóc khô gì hết. Cô đứng bên kia ranh giới, tiểu thư ạ. Tôi đã nhìn thấy tấm ảnh trong văn phòng của cô. Tấm ảnh gia đình của Sở cảnh sát thành phố. Chúng ta nói ngônngữ khác nhau, đến từ những thế giới khác nhau. Billy và tôi là loại người khác, từ một thời gian khác...” Anh ta để giọng nói tắt ngấm, như thể bị chính bản thân làm kinh ngạc. “Anh và Billy không cho tôi ấn tượng có nhiều điểm chung như vậy”, cô nói. Anh ta chỉ nhìn cô từ phía bên kia căn phòng. “Còn tùy mứcđộ hiểu biết của cô thế nào”. “Anh ít nhất cũng phải già hơn cậu ta mười tuổi. Anh đến từ một trường trong hệ thống I vy League, tôi tin, và tôi đã đọc bảnghi chép tiền án của Billy”. “Chúng tôi có nhiều điểm chung khác”. Cô thấy chút run rẩy trườn xuống xương sống trước giọng nói trầm đầy kiên định của anh ta. Cô không chắc có thích giọng nói đó hay không. Không cần thắc mắc vì sao giọng nói ấy tác động cô nhiều đến vậy, khiến xương của cô như hóa thạch. Anh ta không phải kiểu đàn ông cô từng quen. Cô chỉ quen với người hung dữ, cảm xúc lúc nào cũng chực bùng nổ như gia đình thô lỗ và sẵn sàng giương súng của cô. Cô chỉ quen với những lịch thiệp chủ tâm trong các buổi hẹn hò hiếm hoi. Cô chỉ quen với sự thân thiết từ các đồng nghiệp. Cô không quen với bất cứ điều gì Rafferty biểu hiện. “Tôi chỉ muốn anh giải thích cả tuyển tập...” cô bắt đầu, và bị ngắt lời bởi tiếng chuông điện thoại lanh lảnh vang lên. Cô lờ nó đi. “... giải thích cho tôi…” cô tiếp tục.