🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc - Stefan Klein full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
THÔNG TIN EBOOK
Tên sách
Sáu Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc
Tác giả
Stefan Klein
Thể loại
Khoa Học, Cuộc Sống
Phát hành
Nhã Nam
Nhà Xuất Bản
NXB Thế Giới
Ebook
2021 kindlekobovn
—★—
Tặng Alexandra
Lời giới thiệu
M
ỗi người trải nghiệm hạnh phúc một cách khác nhau. Với người này, hạnh phúc là khi chạy chân trần trên cỏ ướt sương, với người kia hạnh phúc là lúc bế con trên tay. Một thứ đồ mới, một cái bánh mì kẹp, hay bản Concerto Số 13 dành cho piano và dàn nhạc của Mozart cũng có thể làm mọi người hạnh phúc không kém gì tình dục. Cũng Có người cảm thấy hạnh phúc khi những thứ trên hoàn toàn không còn hiện hữu, như vị thiền sư trải nghiệm niềm phúc lạc khi giải thoát mình khỏi bám chấp.
Vậy thế nào là cảm giác hạnh phúc? Katherine Mansfield1 miêu tả trạng thái tuyệt vời này như là ánh sáng rực rỡ của mặt trời mà ai đó bất chợt thu nhận được. Tất cả chúng ta đều theo đuổi cảm giác này, nhưng nó đến khi ta ít mong nó nhất - và biến mất trước khi ta có cơ hội hưởng thụ nó trọn vẹn. Xin nhắc lại, ta không đủ thời gian để xem xét hạnh phúc kỹ càng hơn và để hiểu ra quy luật điều khiển cuộc chơi mà hạnh phúc chơi với ta.
Mùa xuân năm 2000, tôi đến thăm nhà nghiên cứu não bộ Vilayanur S. Ramachandran. Nhà khoa học lập dị lỗi lạc gốc Ấn Độ này đã gây chấn động với lý thuyết của ông về một “khối Chúa” (God module) trong não bộ. Ông đã chữa cho những người chân tay bị khuyết tật khỏi nỗi đau ám ảnh bằng cách cho họ nhìn vào những tấm gương được sắp xếp khéo léo. Tờ Neosukeek tôn vinh ông là nhân vật của “Câu lạc bộ Thế kỷ”, một trong một trăm người có ảnh hưởng nhất đang dõi theo trong thế kỷ mới. Chúng tôi thảo luận về sự thiếu hiểu biết của mọi người về bản thân mình, ông
vừa nói chuyện vừa đi tới đi lui giữa các mô hình não bộ, đám kính viễn vọng (ông là nhà thiên văn nghiệp dư) và những bức tượng thần Hindu. Ramachandran là kiểu người không thể ngồi yên một chỗ dù chỉ một khắc. Bỗng nhiên ông kêu lên với thứ tiếng Anh pha Ấn du dương của mình: “Và chúng ta thậm chí chưa biết hạnh phúc là gì!”
Lời nhận xét đó chính là xúc tác cho cuốn sách này. Tôi muốn biết hạnh phúc là gì. Việc nghiên cứu những cảm giác tích cực của tôi chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong niềm hy vọng rằng chúng ta có thể tìm ra hạnh phúc nếu biết tìm nó ở đâu. Và tôi cũng bị thúc đẩy bởi tính tò mò, căn bệnh nghề nghiệp của nhà khoa học và nhà báo - mà tôi lại làm cả hai nghề ấy.
Càng đào sâu vào chủ đề này, càng đọc nhiều, càng nói chuyện nhiều với các nhà khoa học, với những người uyên bác cũng như người bình thường từ Á sang Âu, tôi càng tin chắc vào một phát hiện làm chính mình ngạc nhiên: Ramachandran đã sai. Bây giờ chúng ta đã hiểu biết nhiều về hạnh phúc. Tuy nhiên, hầu hết những cái chúng ta biết đều khó tìm ra, chúng nằm rải rác trong vô số bài viết có tính học thuật, mà nhiều bài trong đó lại khó đọc.
Cũng có những phát hiện khác còn chưa được Công bố, chưa kể đến việc những tri thức mới về hạnh phúc không được tập hợp và trình bày theo lối mọi người có thể hiểu và áp dụng. Đây là điều mà tôi hy vọng có thể làm được thông qua cuốn sách này.
Có lẽ ta sẽ ngạc nhiên khi biết rằng hạnh phúc, cái cảm giác phức tạp có vẻ siêu phàm này, lại có thể được nghiên cứu dưới góc độ khoa học. Chúng ta không xa lạ gì với những nghiên cứu về sự bất hạnh. Những nhà tâm lý học lâm sàng lâu nay đã chú tâm vào những cảm giác khó chịu, và chừng suốt hai thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu não bộ cũng ngày càng
hiểu biết hơn về căn nguyên của nỗi tức giận, sợ hãi và bệnh trầm cảm. Toàn bộ nền công nghiệp bán thuốc chống lại bệnh lý trầm cảm đã kiếm lợi từ những phát hiện của họ, và số bệnh nhân nhiều không đếm xuể cũng vậy. Nhưng trong suốt một thời gian dài, vấn đề hạnh phúc đã ít nhiều bị thờ ơ.
Gần đây điều này đã thay đổi. Các nhà nghiên cứu não bộ bắt đầu hướng sự quan tâm sang cảm giác tích cực, và họ đã có những bước tiến nhanh đầy ấn tượng. Nhiều công trình trước đây không lâu vẫn được coi là khoa học viễn tưởng thì bây giờ trở thành thực tế trong phòng thí nghiệm. Những kỹ thuật hình ảnh mới đã cho phép chúng ta quan sát bộ não khi nó nghĩ và cảm. Ví dụ, chúng cho phép chúng ta nhìn thấy niềm vui xuất hiện trong não như thế nào khi ta nghĩ về người mình yêu thương. Sinh học phân tử đã hé lộ thứ tự cái gì xảy ra trong mười nghìn tỉ tế bào não của chúng ta, và các thí nghiệm tâm lý chỉ ra những thay đổi bên trong này ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta như thế nào. Chúng ta đang dần dần có được một hiểu biết về việc các cảm giác tích cực hình thành theo những cách nào.
Chúng ta giờ đây đang bắt đầu trả lời những câu hỏi mà mọi người luôn tự hỏi mình. Có phải hạnh phúc đơn giản chỉ là đối cực của bất hạnh không? Có phải hạnh phúc Có tính di truyền? Cảm giác tức giận có biến mất khi ta đã xả hết? Có thể kéo dài khoảnh khắc dễ chịu? Tiền có làm con người hạnh phúc? Chúng ta có thể mãi yêu một người trong suốt cuộc đời? Hạnh phúc lớn nhất là gì?
Mấu chốt để trả lời được những câu hỏi này là hai nhận thức quan trọng mới đây trong nghiên cứu não bộ. Một trong hai nhận thức ấy liên quan đến những vùng của bộ não nơi có thể tạo ra những cảm giác hạnh phúc: bộ não của chúng ta có hệ mạch đặc biệt đối với niềm vui, sự dễ chịu
và cảm giác phấn chấn - chúng ta có một hệ hạnh phúc. Tương tự như việc chúng ta đi vào thế giới này với khả năng biết nói thiên bẩm, chúng ta cũng được lập trình sẵn cho những cảm giác tích cực. Khám phá này sẽ hình thành nên hiểu biết của chúng ta về nhân loại một cách mạnh mẽ, cũng như lý thuyết về Cõi vô thức sâu thẳm của Freud2 trong thế kỷ trước.
Nhận thức kia, một phát hiện còn gây ngạc nhiên hơn, đó là bộ óc người trưởng thành vẫn tiếp tục thay đổi. Cho đến tận vài năm gần đây, các nhà khoa học vẫn tin rằng bộ não, cũng như xương, sẽ phát triển đầy đủ khi hết tuổi dậy thì. Nhưng sự thật chính xác là ngược lại. Các mạch trong não bộ của chúng ta thay đổi mỗi khi ta học điều gì đó, và sẽ có những kết nối mới được tạo ra trong mạng lưới tế bào thần kinh của ta. Dùng loại kính hiển vi thích hợp, thậm chí ta có thể nhìn thấy những biến đổi này trong não bộ. Khi đọc xong quyển sách này, não của bạn trông sẽ khác so với trước khi bạn đọc.
Những thay đổi này được kích hoạt bởi những ý nghĩ, nhưng còn nhiều hơn thế là bởi những cảm xúc. Điều này có nghĩa là, với những bài tập đúng đắn, chúng ta có thể làm tăng khả năng hạnh phúc của mình. Cũng giống như khi học ngoại ngữ, chúng ta có thể luyện năng lực tự nhiên của mình hướng tới những cảm giác tích cực.
Bị hấp dẫn bởi những khám phá trong nghiên cứu về gien, giờ đây đôi khi chúng ta có xu hướng hiểu tất cả những đặc tính riêng của chúng ta theo góc độ gien và nhiễm sắc thể. Thật dễ dàng bỏ qua sự thật là chúng ta phát triển vốn di truyền của mình chỉ trong sự tương tác với cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc của chúng ta phụ thuộc vào môi trường, vào văn hóa không kém gì vào gien. Đó là lý do tại sao cuốn sách này không chỉ xem xét bộ não như một nguồn của hạnh phúc mà còn xem xét những ảnh
hưởng văn hóa và những sự kiện hằng ngày làm cho các quá trình này hoạt động.
Văn hóa đóng một vai trò hiển nhiên trong nhận thức của chúng ta về hạnh phúc, thậm chí trong sự khác nhau giữa các ngôn ngữ. Ví dụ như tiếng Sanskrit, ngôn ngữ cổ Ấn Độ, có cả chục từ để diễn tả từ “hạnh phúc”(2) trong tiếng Anh theo những cách khác nhau. Tương tự, các ngôn ngữ phương Tây khác cũng khó diễn đạt được hết những cảm giác tích cực phong phú mà ta có thể có.
Một nghiên cứu so sánh sinh viên Mỹ với cư dân một thành phố của Ấn Độ đã đưa ra dẫn chứng thuyết phục về cách thức những khác biệt này biểu lộ. Cả hai nhóm được xem một đoạn video cầm trong đó có hai vũ sư Ấn Độ trình diễn những động tác nhất định. Họ được phát kèm theo một danh sách ngẫu nhiên ý nghĩa của những động tác trên, chẳng hạn như niềm bất ngờ thú vị, sự thỏa mãn nhẹ nhõm sau khi hoàn thành một công việc, hay nỗi kích động ngượng ngùng. Đối với người Ấn danh sách này bao gồm một vài từ thích hợp). Những người Mỹ trẻ tuổi không khó khăn gì trong việc gắn sự mô tả chính xác ứng với động tác thể hiện niềm hạnh phúc, nhưng họ lại thiếu vốn từ vựng cụ thể, phải viện đến những diễn đạt dài dòng vòng vèo để xác định cảm giác mà người Ấn chỉ cần một vài từ thích hợp. Do vậy, chừng như não của chúng ta có khả năng có những cảm giác ít nhiều không được công nhận trong văn hóa phương Tây.
Chúng ta phải trả một cái giá rất nặng nề cho việc coi thường hạnh phúc. Hơn 25 phần trăm người Mỹ chịu đựng chứng rối loạn tâm lý ít nhất một lần trong đời, và trong một năm thì gần như cứ mười người lại có một người trải qua trạng thái trầm cảm kéo dài vài tuần 4) Hơn ba mươi nghìn người ở Mỹ tìm đến cái chết hằng năm. Những nước còn lại của thế giới có tỉ lệ tự tử thấp hơn rất nhiều.(5)
Tỉ lệ bệnh trầm cảm ở mức độ nghiêm trọng đang tăng lên rất nhanh trong cả nước Mỹ cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp. Trên hết, căn bệnh này ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến trẻ em và thanh thiếu niên. Hiện nay, nguy cơ bệnh trầm cảm xảy ra đối với thanh niên cao hơn ba lần so với mười năm trước đây. (6)
Những căn bệnh liên quan đến tinh thần ở các nước
Công nghiệp đang lan tràn ra khắp các phần còn lại của thế giới. Trong vòng hai mươi năm tới, bệnh trầm cảm sẽ gây ảnh hưởng đến nhiều phụ nữ trên thế giới hơn bất cứ căn bệnh về thể chất hay tinh thần nào khác. Chỉ có các bệnh liên qua đến tim mạch và tuần hoàn máu mới gây nhiều nguy hiểm hơn cho đàn ông. (8) Bệnh trầm cảm đang có nguy cơ trở thành bệnh dịch của thế kỷ 21.
Không phải tất cả những ai không hạnh phúc thì đều bị bệnh tâm thần. Nhưng dù sao, trạng thái buồn chán có quan hệ chặt chẽ với trầm cảm hơn nhiều so với người ta từng quan niệm suốt một thời gian dài trước đây, vì cả hai đều là kết quả của những quá trình tương tự trong não bộ. Chúng đáng cho ta chiến đấu đẩy lùi. Dịch bệnh trầm cảm cho thấy chúng ta cấp bách cần một nền văn hóa hạnh phúc đến thế nào.
“Niềm vui là sự chuyển hóa của tâm trí đến trạng thái hoàn hảo,” theo triết gia người Hà Lan Baruch Spinoza3. “Ngược lại, nỗi đau là sự chuyển hóa của tâm trí sang trạng thái suy nhược.”
Nhưng niềm vui ảnh hưởng đến cơ thể ít nhất cũng nhiều như đến tâm trí. Bất hạnh phá hủy cơ thể. Hạnh phúc làm cho cơ thể mạnh mẽ. Những nghiên cứu mới đã làm sáng tỏ mối liên kết giữa cơ thể và tâm trí mà bấy lâu các nhà khoa học đã không quan tâm. Chán nản và sợ hãi thường xuyên luôn gây nguy hại cho cơ thể bởi vì chúng gây trạng thái
căng thẳng. Mà căng thẳng làm tăng nguy cơ tử vong do đau tim hoặc đột quỵ, chỉ lấy hai ví dụ như vậy. Ngược lại, biết cách hóa giải tâm trạng đen tối của mình và củng cố những tâm trạng tươi sáng thì cũng chính là đang chăm sóc cơ thể mình. Những cảm giác tích cực vô hiệu hóa được căng thẳng và các hậu quả của nó đối với sức khỏe. Cảm giác tích cực thậm chí còn tăng cường hoạt động của hệ thống miễn dịch.
Chúng cũng làm cho đầu óc hoạt động hiệu quả hơn. Xét theo góc độ não bộ thì suy nghĩ và cảm giác là hai mặt của cùng một đồng xu: những người hạnh phúc thường sáng tạo hơn, và như nhiều nghiên cứu cho thấy, họ giải quyết vấn đề nhanh và tốt hơn. Hạnh phúc làm người ta thông minh, không chỉ nhất thời mà lâu dài. Cảm giác tích cực kích thích phát triển các liên kết thần kinh trong não - hạnh phúc song hành cùng những kết nối mới trong trí óc. Cuối cùng, người hạnh phúc cũng là người dễ mến hơn. Họ luôn ý thức hơn và nhìn thấy những cái tốt của người khác hơn. Họ dễ có hành động vị tha hơn, và thành công hơn trong việc làm trung gian hóa giải xung đột (10)
Do vậy, hạnh phúc có thể vừa là mục đích của đời người vừa là phương tiện để có cuộc sống tốt hơn. Trạng thái tinh thần tiêu cực sẽ hạn chế [khả năng của] con người, trong khi cảm giác tích cực lại mở rộng các khả năng ấy. Hạnh phúc mang lại sức sống.
Để mưu cầu hạnh phúc thì phải biết hạnh phúc là gì. Cuốn sách này sẽ dẫn bạn vào cuộc hành trình khám phá những cảm giác tích cực. Bạn sẽ học được nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng đây không đơn giản là một cuốn sách tự lực (self-help) theo nghĩa thông thường. Tôi muốn giải thích các căn nguyên, chứ không muốn đưa ra những câu trả lời dễ dãi, vì xét cho cùng hạnh phúc của mỗi người cũng là độc nhất vô nhị như nhân
cách của họ vậy. Não của chúng ta được hình thành theo cùng một mẫu, cho nên chúng ta đều cùng trải nghiệm sự thích thú và niềm vui, nhưng, đối với mỗi người, thứ có thể gây ra những cảm giác này thì lại khác nhau. Đó là lý do mà lời khuyên chung chung hầu như không có tác dụng. Cuối cùng, mỗi người phải tự tìm ra con đường mưu cầu hạnh phúc của riêng mình. Cuốn sách này là một kiểu sách hướng dẫn du lịch để giúp cho cuộc hành trình ấy thành ra khả thi.
Trong phần đầu cuốn sách, bạn sẽ biết hạnh phúc đến như thế nào và tại sao tự nhiên lại sáng tạo ra những cảm giác tích cực. Trọng tâm của những chương này sẽ giải thích cách bộ não có thể làm ta hạnh phúc thế nào và cách nó kiểm soát những cảm xúc tiêu cực ra sao. Hệ thống này cũng có thể được rèn luyện giống như cơ bắp vậy. Bộ não có thể tái lập trình chính nó, thay đổi cấu trúc của nó, không chỉ thông qua những trải nghiệm bên ngoài, mà còn bằng cách hiểu biết những cảm giác của nó. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều phát kiến khoa học mới đang khẳng định lại sự minh triết CỔ xưa, vì vậy mà phần đầu sách kết thúc với một so sánh ngắn về di sản những tuệ kiến được truyền lại từ Hy Lạp và La Mã cổ đại cũng như các nền văn hóa phương Đông.
Phần thứ hai của sách tìm hiểu cấu trúc của niềm đam mê. Trải nghiệm sự thích thú, niềm vui khám phá, tình yêu và tình dục đều có nhiều điểm chung, nhưng chúng xảy ra theo nhiều cách khác nhau và thỏa mãn những mục đích khác nhau. Những cảm xúc cơ bản này là bản năng bẩm sinh đã phát triển hàng triệu năm trước. Chúng ta có thể quan sát một vài bản năng này ở một số động vật bậc thấp như chuột hay ngay cả ong. Sự đam mê bám rễ vào loài người và động vật sâu đến nỗi sẽ là vô nghĩa nếu muốn thoát khỏi nó hay thậm chí muốn thay đổi nó. Điều quan trọng là chúng ta phải học để sống với nó, sống theo cách càng gặt hái được nhiều niềm vui
và càng giảm thiểu buồn đau từ những chương trình của tiến hóa càng tốt. Chương cuối cùng của phần này sẽ đưa ra những gợi ý để chúng ta có thể sống theo cách này.
Không như các loại côn trùng hay họ gặm nhấm, loài người được tiến hóa trang bị một bộ não phát triển cao. Chúng ta được tạo ra để lái những động năng, niềm thích thú và nỗi sợ bẩm sinh theo những lối mòn đã sắp xếp chỉn chu. Phần ba của cuốn sách bàn về các thành tựu này của ý thức và các phương tiện chúng ta có để áp dụng thành tựu đó. Chúng ta nhìn mà thấy một ly rượu thượng hạng là đầy một nửa hay với một nửa, điều đó ảnh hưởng đến cảm xúc của chúng ta nhiều hơn là dung dịch thực chứa trong ly. Khả năng lái những suy nghĩ và cảm giác một cách có ý thức cho ta một công cụ mạnh mẽ để chống lại nỗi buồn và thậm chí cả bệnh trầm cảm. Nhưng não bộ còn cho phép chúng ta làm nhiều hơn thế. Không như động vật, chúng ta có thể trải nghiệm cảm giác tự do, cảm giác rộng mở, đón nhận và hòa nhập với thế giới. Chúng ta có thể ở trong trạng thái đê mê dưới ánh sáng lung linh phản chiếu trên mặt biển, và chúng ta có thể hoàn toàn đắm mình vào trong một hoạt động. Nhận thức và sự tập trung có định hướng chính là chìa khóa dẫn đến những giây phút thăng hoa như thế. Thậm chí, có thể chính những trạng thái tinh thần này giải thích được những trải nghiệm huyền bí xuất hiện trong tâm trí con người.
Một nguồn quan trọng nữa dẫn đến hạnh phúc chính là sự phát triển tối ưu tài năng và tiềm năng của ta. Nhưng không ai sống cho chỉ một mình mình. Vì lý do này mà phần bốn và phần cuối cùng của sách sẽ đề cập đến những điều kiện phải có trong xã hội để mọi công dân có thể tham gia - nói như lời bản Tuyên ngôn Độc lập - “cuộc mưu cầu hạnh phúc.” Ở đâu có ý thức về cộng đồng, về sự Công bằng và việc tự làm chủ cuộc đời mình, ở
đó cơ hội để một cá nhân có thể sống một cuộc sống hạnh phúc luôn là tốt đẹp.
Vậy thì vấn đề là làm thế nào để xã hội như là một tổng thể, cũng như từng cá nhân thành viên của nó, có thể tạo ra một văn hóa hạnh phúc. Hai nghìn năm trước, các nhà thông thái đã ý thức rằng mọi người đều có thể sống hạnh phúc hơn. Ngày nay, nhờ hiệu quả đáng ngạc nhiên của lĩnh vực khoa học thần kinh, ta không còn nghi ngờ điều này: chúng ta có thể học để có hạnh phúc.
PHẦN 1
HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
1
Bí mật của nụ cười
Năm 1967, một chàng trai trẻ tuổi là Paul Ekman ở San Francisco đã tiến hành tìm kiếm một bộ lạc sống rất xa “nền văn minh đã biết”, xa đến mức nó cứ như đang ở trên một hành tinh khác. Có thể nào có những người sống trên trái đất này mà chưa từng bao giờ liên hệ với người bên ngoài, không hề có kiến thức gì về viết hay in cũng như mù tịt về ti vi? Ekman chỉ biết rằng mình không còn nhiều thời gian, chỉ trong vòng vài năm nữa những ngôi làng xa xôi hẻo lánh nhất trong rừng sâu có thể sẽ được trang bị mọi thư điện đường trường trạm.
Tại thời điểm đó, Papua New Guinea được coi là nơi tận cùng của thế giới, một hòn đảo khiến người ta liên tưởng ngay đến những kẻ săn đầu người và ăn thịt người. Nhưng Ekman, người đàn ông ba mươi ba tuổi không biết đến sợ hãi này đã đơm thương độc mã tiến vào Thời kỳ Đồ đá. Ông không quan tâm đến tập quán kỳ lạ hay ghi chép thêm những ví dụ mới về nền văn hóa còn xa lạ này với tư cách nhà nhân chủng học. Đúng hơn là, ông muốn khám phá một lĩnh vực quen thuộc đối với cả nhân loại. Đó là bí mật của nụ cười.(1)
Không mấy ai nghĩ Ekman sẽ thành công. Các đồng sự đã cảnh báo ông rằng chẳng có gì nhiều nhặn để khám phá từ biểu hiện của khuôn mặt. Người mẹ nhìn đứa con cười, và đứa con cười lại, vậy thôi. Khi Ekman bắt đầu ba mươi năm trước, không ai dám đặt thành nghi vấn cái giả định rằng loài người đến với thế giới này như một trang giấy trắng. Một đứa trẻ
được coi như cái bình rỗng để cha mẹ nó và môi trường đổ đầy kiến thức lẫn tập quán vào. Chúng ta học biểu cảm khuôn mặt từ thời thơ ấu, cũng như ta học mọi thứ khác. Chỉ duy Ekman có suy nghĩ khác. Ông tự hỏi, liệu có thể nào các cảm giác đã hiện diện đó ngay tại thời điểm đứa trẻ sinh ra? Liệu chúng ta có một kiểu Công tắc nào đó được cài đặt sẵn cho việc cười? Và nếu như điều này là đúng thì tất cả mọi người trên thế giới đều thể hiện những biểu cảm khuôn mặt giống nhau tại những thời điểm tương đường. Không biết Charles Darwin có từng nghi ngờ như vậy hay chưa?
Những khuôn mặt của thời kỳ Đồ đá
Vác trên vai chiếc ba lô đầy những camera, máy ghi âm và những bức ảnh chụp các chân dung, nhà nghiên cứu trẻ hành quân đến vùng cao nguyên New Guinea với sự dẫn đường của một người địa phương. Sau vài tuần, họ tiến vào một vùng đất chưa từng có người châu Âu nào đặt chân đến. Đây là vùng đất bộ lạc South Fore sinh sống, bộ lạc này có tập tục đã bị cấm từ tám năm trước đó là ăn óc những người họ hàng bị bệnh. Họ sống trong những túp lều dựng bện bằng cỏ và lá cây và sử dụng công cụ đẽo gọt bằng đá. Phụ nữ mặc váy bằng cỏ đan, còn đàn ông thì mặc khố bằng da bò chưa thuộc. Nhà nghiên cứu và người dẫn đường được họ đón tiếp nồng nhiệt.
Ekman ngồi chính giữa làng và giở máy ghi âm ra. Mọi người ở đây chưa bao giờ nhìn thấy một loại hộp sáng như thế, mà trên nó lại gắn hai hình tròn quay, cứ như thể tự quay vậy. Và đột nhiên họ nghe thấy giọng nói của chính họ. Mồm họ há ra, gò má nâng cao, mắt sáng lên: họ đang cười. Rõ ràng sự ngạc nhiên làm cho họ phấn khích. Phía sau, người dẫn
đường của Ekman quay phim để làm chứng cứ đầu tiên cho thấy những người ở cực kia của thế giới cũng cười y như chúng ta.
Từ đó trở đi, người bộ lạc South Fore không rời Ekman nửa bước. Họ vây quanh Ekman háo hức chờ đón những vui thú bất ngờ của ngày mới trong khi Ekman vẫn còn chưa tỉnh ngủ. Có những ngày, ông cầm con dao cao su đuổi bọn trẻ để người hướng dẫn có thể chụp những khuôn mặt sợ hãi. Những ngày khác ông cho họ xem các chân dung của những người Mỹ cả vui lẫn buồn. Thông qua người dẫn đường, ông yêu cầu bộ lạc South Fore xác định ảnh nào là ảnh của một người có con bị chết. Họ thảy đều chỉ vào khuôn mặt buồn - rõ ràng là họ có thể hiểu được biểu cảm trên khuôn mặt của người Mỹ ngoại quốc không khó khăn gì. Sau vài tuần, Ekman nhờ người dẫn đường thu xếp cuộc gặp giữa một người làng này với một người làng khác, như thể ngẫu nhiên.
Máy quay đã ghi lại được những nụ cười vui vẻ khi họ chào hỏi nhau. Sau bốn tháng trong rừng, Ekman trở lại Mỹ và nghiên cứu những bức ảnh ông chụp được. Ông không nghi ngờ gì nữa: khuôn mặt của những người trong bộ lạc South Fore đều cho thấy những biểu cảm giống y như người thế giới phương Tây. Ngôn ngữ các dân tộc có thể khác nhau, nhưng khuôn mặt thì dù là người South Fore vùng cao nguyên New Guinea hay người San Francisco thì cũng đều diễn tả những cảm xúc theo cách giống nhau.
Các nhà khoa học rất phấn khích và hào hứng với phát hiện này. Một số người tìm cách bác bỏ lý thuyết của Ekman. Họ đã đến những nơi như rừng già Borneo, gặp những người du mục ở Iran, và tới các vùng xa xôi hẻo lánh nhất của Liên Xô [cũ] nhưng đều ra về tay trắng. Câu chuyện giống nhau ở mọi nơi: văn hóa gần như không có tác động gì đến vốn cảm xúc của con người. Một số người có thể thể hiện cảm xúc rõ ràng hơn, một
số thể hiện kín đáo hơn, nhưng niềm vui và nỗi buồn, sợ hãi và tức giận thì ai ai cũng có.
Với khám phá này, Ekman đã bác được hai lý lẽ sai lầm. Một là, từ nay trở đi khó mà tuyên bố rằng đứa trẻ học cảm xúc từ những người xung quanh nó. Nếu đúng như vậy thì chắc hẳn phải có nhiều kiểu nụ cười trên thế giới, kiểu như “vui” ở Đức là “Freude” còn ở Trung Quốc là “gaoxing”. Một khi công nhận rằng biểu cảm trên khuôn mặt ở đâu cũng giống nhau thì chúng ta biết rằng những cảm xúc cơ bản và cách cơ thể chúng ta thể hiện chúng đều là bẩm sinh.
Một đứa bé bị mù bẩm sinh không thể bắt chước cách biểu cảm khuôn mặt, nhưng nó vẫn có thể cười một cách tự nhiên nhất. Sự thật này đã dấy lên nghi ngờ cho những người đã từng tin rằng niềm vui có thể học được. Thậm chí, Charles Darwin đã khởi xướng một nghiên cứu tại một ngôi nhà cho người mù để viết cuốn sách của ông, The Expression of Emotion in Man and Animals (Biểu cảm của loài người và loài vật, 1872). Những tác phẩm của nhà sinh học tiến hóa vĩ đại này nhanh chóng rơi vào quên lãng. Niềm tin rằng người ta có thể học để có được các cảm xúc bẩm sinh là vững chắc đến mức không một nhà khoa học nào nghĩ đến việc theo đuổi gợi ý của Darwin hay nói chuyện với giáo viên của người mù. Đó là lý do Paul Ekman đã phải đến tận vùng biển phía Nam. Khoa học cũng có thể bị thành kiến.(2)
Có một vấn đề nữa mà Ekman thậm chí còn gây ảnh hưởng nhiều hơn. Quay phim những biểu cảm trên khuôn mặt của người bộ lạc South Fore, Ekman đã cho thấy rằng cảm xúc có thể trở thành đề tài cho nghiên cứu khoa học. Đó không hề là một kỳ công nhỏ, vì tất cả những ai nghiên cứu cảm xúc cuối thập niên 1960 đều bị cho nằm bên rìa của tâm lý học hàn lâm. Những chủ đề được cho là đáng nghiên cứu nghiêm túc là nhận thức,
tư duy và hành vi. Việc khảo cứu các cảm xúc làm hé lộ bản chất bên trong con người, dường như không thể nhìn thấy, được dành cho các nhà thơ và triết gia. Nhưng Ekman đã xóa bỏ mọi nghi ngờ về khả năng tiếp cận của những trải nghiệm cá nhân từ góc độ khoa học.
Người đàn ông sống ở vùng cao nguyên xa xôi thuộc Papua New Guinea này chưa bao giờ nhìn thấy một ai ở bộ lạc khác hay quốc gia khác, nhưng niềm vui tỏa ra trên khuôn mặt ông không khác gì chúng ta. Những cảm xúc cơ bản này, và cách chúng ta thể hiện chúng đều là bẩm sinh, đó là lý do tại sao ngôn ngữ của tiếng cười lại được chia sẻ trên toàn thế giới. Bức ảnh này do nhà tâm lý học Paul Ekman chụp trong hành trình nghiên cứu của mình.
Điệu cười đích thực và điệu cười hữu dụng
Được khích lệ bởi thành công của mình, nhà nghiên cứu trẻ tuổi đã sáng tạo ra cả một hệ thống chuyển đổi những biểu hiện cảm xúc sang dạng bảng biểu và con số, như thể chia ra nó thành các phần tử cấu thành. Để tạo ra những biểu cảm trên khuôn mặt, phải dùng đến bốn mươi hai cơ mặt. Ekman đã thống kê cụ thể những con số cho từng trường hợp. Ví dụ, chín cơ mặt để chun mũi, mười lăm có mặt để mắm môi. Bây giờ các nhà
nghiên cứu có thể dữ liệu hóa trên máy tính cả những biểu cảm rối rắm nhất của khuôn mặt.
Với công cụ này, Ekman đã phát hiện ra mười chín điệu cười khác nhau. Trong số này thì mười tám kiểu là không đích thực, mặc dù là chúng rất có ích, chúng được sử dụng như chiếc mặt nạ khi ta không muốn cho người khác nhìn thấy toàn bộ sự thật về cảm xúc của ta. Có điệu cười thể hiện thái độ nhã nhặn khi ta bối rối vì một câu đùa ác; có điệu cười che đậy nỗi sợ, trong khi điệu cười khác giấu đi sự khó chịu. Mặc dù tất cả các điệu cười đều liên quan đến cơ xương gò má kéo dài từ xương gò má đến môi trên và kéo lên góc miệng, song những nhóm cơ khác trên khuôn mặt làm nhiệm vụ phối hòa để tạo ra những điệu cười giả khác nhau. Những điều này giúp cho con người có khả năng tương tác, nhưng chúng hầu như không có liên quan gì đến sự vui sướng cả.
Chỉ có một điệu cười là đích thực: không chỉ hai góc miệng nhếch lên, mà hai mắt còn hơi co hẹp lại, những nếp nhăn nhỏ xuất hiện tại hai khóe mắt (“vết chân chim”), trong khi đó phần cơ trên của gò má thì đẩy lên. Chỉ khi nào cơ vòng mắt co lại thì lúc đó khuôn mặt mới thể hiện cảm giác hạnh phúc. Ekman gọi chuyển động cơ mặt này là điệu cười Duchenne để tưởng nhớ nhà tâm lý học người Pháp Guillaume-Benjamin Duchenne vào năm 1862 đã đi tiên phong trong nghiên cứu cơ vòng mắt, loại cơ thắt bao quanh toàn bộ mắt.
Với sự trợ giúp của hệ thống số hóa khuôn mặt, Ekman có thể cho ta thấy rằng duy chỉ điệu cười Duchenne là biểu lộ cảm giác mãn nguyện chân thực nhất. Khi Ekman trình chiếu những bộ phim mang chủ đề vui vẻ, thì điệu cười này - và hầu như không có kiểu nào khác - thường xuyên lướt qua khuôn mặt khán giả. Hai khóe mắt của họ càng nhắn lại nhiều hơn theo kiểu chân chim thì họ càng vui thích với bộ phim một cách mãnh liệt hơn.
Nhưng khi họ nhìn thấy những cảnh đáng sợ như nạn nhân hỏa hoạn hay bị cụt chân tay thì kiểu cười Duchenne biến mất. Do vậy, sự chuyển động cơ vòng mắt này là một tín hiệu không thể nhầm lẫn của niềm vui sướng.)
Duchenne gọi sự co lại này là “cảm xúc ngọt ngào của tâm hồn”. Ông cũng biết rằng, chúng ta rất khó mà điều khiển được cơ này bằng sức mạnh ý chí, đó là lý do tại sao hầu hết chúng ta thất bại thảm hại khi được yêu cầu “cười trước máy quay”. Cho nên Duchenne đã sử dụng một phương pháp khác để giúp cho đối tượng thí nghiệm của ông cười: ông dẫn điện vào má họ qua các sợi dây điện nhỏ gắn trên máy bằng cách đó kích thích thật mạnh cơ vòng mắt để đối tượng thí nghiệm phải nở nụ cười nhân tạo đầy vui vẻ. Bức ảnh của thí nghiệm này hiện được treo trong Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại New York.
Chỉ khoảng 10% nhân loại có thể điều khiển cơ mặt để cười kiểu Duchenne khi được yêu cầu mà không cần qua cuộc đào tạo đặc biệt nào. Khả năng này có lẽ là bẩm sinh. Hầu hết phần còn lại chúng ta đều phải học để có thể tạo ra được một nụ cười đích thực. Một câu nói đùa khôi hài hoặc nhớ lại một trạng thái đặc biệt tuyệt vời nào đó cũng có tác dụng tạo ra nụ cười này.
Ngay cả các diễn viên và đặc biệt là các chính trị gia cũng gặp khó khăn để tạo ra nụ cười kiểu này. Một bộ phim truyền hình nhiều tập rẻ tiền luôn cho ta thấy, điều khiển được các chuyển động cơ mặt cũng như cảm xúc là việc khó khăn đến thế nào. Không mất đến một giây chúng ta có thể nhận ra biểu cảm của một diễn viên là thiếu kỹ năng. Tuy nhiên, trong những diễn viên tài năng, có nhiều người được đào tạo cách điều khiển cơ mặt của họ. Ví dụ, Laurence Olivier nổi tiếng là biết cách biểu cảm mỗi loại cảm xúc như thế nào theo quan điểm của khán giả. Nhưng thậm chí một số ngôi sao Hollywood cũng chưa bao giờ học được cách điều khiển nét mặt.
Đó cũng là lý do mà Steve McQueen và John Wayne4 dùng khuôn mặt lạnh như tiền làm thương hiệu của họ.
Năm 1862, khi dùng dây điện gắn vào khuôn mặt của đối tượng thí nghiệm, nhà tâm lý học Guillaume-Benjamin Duchenne có thể kích thích một nụ cười nhân tạo. Cường độ dòng điện nhỏ kích thích có mặt của người đàn ông này vừa đủ để tạo ra một nụ cười thực thụ: các góc miệng đều kéo lên phía trên, các cơ vòng mắt thì co lại.
Hạnh phúc sinh ra từ cơ thể
Đã ai từng khen bạn, hoặc gửi hoa cho bạn, hoặc mời bạn một bữa ăn ngon tuyệt chưa? Không phải chỉ duy nhất khuôn mặt biểu hiện những cảm giác tích cực. Cơ thể bạn cũng hưởng ứng bằng sự phấn khích đối với bất cứ thứ gì khiến bạn vui sướng. Đây cũng là điều đáng để quan tâm, bởi vì khi đó ta có thể ý thức được nhiều những thay đổi từ đó mà ra.
Khi bạn hạnh phúc, máu lưu thông nhanh hơn trong tĩnh mạch. Ở hầu hết mọi người, trạng thái hạnh phúc làm tăng ba đến năm nhịp tim đập trên một phút so với trạng thái bình thường. Bởi vì tuần hoàn máu tăng lên, nhiệt độ da cũng tăng lên khoảng một phần mười độ. Sự kích thích này làm
cho da trở nên ẩm ướt hơn và độ dẫn điện của da giảm. Thậm chí các ngón tay của bạn cũng run lên, dù không phải theo cách giật cục. Bạn chỉ có thể sẽ nhận thấy sự khác biệt này - khoảng một phần mười mi li mét - nếu đang xỏ chỉ vào kim khâu. Nhưng có lẽ bạn có thể nắm được căn nguyên của sự run rẩy này: những chuyển động cực nhỏ của ngón tay mà các nhà khoa học đã đo đều được phản ánh qua sức căng hệ cơ bắp của vai, cánh tay và tay. Khi bạn cảm thấy dễ chịu, những cơ này thả lỏng và trở nên linh hoạt hơn. Thêm nữa, vì hạnh phúc cũng làm chuyển biến sự cân bằng hoóc môn của chúng ta, những thay đổi xảy ra mà chúng ta không cảm thấy trực tiếp - nhưng ta sẽ bàn kỹ hơn về chuyện này sau.
Trước khi bạn hoặc những người xung quanh bạn nhận ra được sự xuất hiện của nụ cười thì mọi thứ đã xảy ra trên khuôn mặt rồi. Cơ gò má giúp kéo miệng lên phía trên đã căng ra một chút. Cơ vòng mắt với các vết chân chim cũng đã có nhẹ lại. Mặt khác, cơ vùng lông mày, vốn làm cho lông mày rướn lên tạo ra những biểu cảm về sự căm ghét, buồn chán và sợ hãi, thì được thả lỏng ra.
Hạnh phúc được biểu hiện theo cách như vậy. Như với mọi loại cảm giác, nó khởi phát trong não cũng ngang bằng với trong cơ thể, bởi vì cảm giác hạnh phúc chỉ xảy ra khi bộ não nhận và giải mã những tín hiệu cần thiết từ tim, da và các cơ. Không có cơ thể, chúng ta không thể hạnh phúc được.
Ban đầu điều này dường như là một ý tưởng kỳ lạ. Rõ ràng, một số cảm giác hạnh phúc - ví dụ như khi ăn uống hay ân ái - là nhờ ở một niềm vui sướng gần như thuần khiết về thể xác. Nhưng điều gì xảy ra khi chúng ta nhớ lại khoảng thời gian vui vẻ với bạn bè hay ngóng chờ một kỳ nghỉ? Trong những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy thì dường như trí tưởng tượng của ta đóng vai trò chính. Song đây là một kiểu ảo ảnh. Suy nghĩ, ký
ức và hy vọng đơn thuần không thể làm cho chúng ta trải nghiệm được cảm xúc. Chỉ khi chúng có kết nối với những tín hiệu cơ thể đúng thì chúng ta mới có thể trải nghiệm được niềm vui, bởi vì chính từ những tín hiệu cơ thể mà não bộ xây dựng nhận thức về hạnh phúc. Hãy thử hạnh phúc với cơ bắp căng cứng và trạng thái toát mồ hôi lạnh xem nào!
Do vậy, hạnh phúc sinh ra từ cơ thể - tay chân, tim và da - cũng như từ tưởng tượng và suy nghĩ của chúng ta. Vì lý do này, chúng ta nên quan tâm nghiêm túc đến cơ thể của mình hơn chúng ta vẫn quen làm. .
Tính độc lập của những cảm giác tích cực
Cảm giác tích cực được kết nối với cơ thể. Đây là lý do tại sao chúng ta cực kỳ khó cảm thấy hay thể hiện được hạnh phúc theo yêu cầu - một sự thật khó chịu có liên quan đến cấu trúc của não bộ. Có những dây thần kinh chịu trách nhiệm điều khiển cơ thể và do đó chịu trách nhiệm định hướng cảm xúc mà ý thức của ta không có chút quyền lực tác động nào. Để hiểu được điều này, chúng ta phải xem xét kỹ hơn cách thức cơ thể con người xử lý dữ liệu.
Sách giải phẫu học thường thể hiện hệ thần kinh của cơ thể như là một cái cây lộn ngược, ít nhiều bắt rễ trong não bộ. Các đường dẫn truyền tín hiệu chia thành cành nhánh càng lúc càng tinh vi hơn từ thân não đến các các cơ quan và tứ chi.
Điều này gợi nên hình ảnh một cấu trúc thống nhất đan kết tất cả những đường truyền tín hiệu này lại với nhau, nhưng không phải thế. Trên thực tế, hệ thần kinh của con người được chia ra làm hai phần làm việc độc lập với nhau: hệ thần kinh thực vật và hệ thần kinh vận động. Hệ thần kinh vận động (hệ thần kinh cơ xương) chỉ huy hầu hết các Cơ để chuyển động
xương của chúng ta. Chỉ thị điều khiển ngón tay tôi tiếp tục gõ những dòng chữ hiện giờ là tuân theo những dây thần kinh này. Những mệnh lệnh này sinh ra từ vỏ não, vùng có cấu trúc luống, hình vòm, có màu xám, nằm trực tiếp dưới đỉnh hộp sọ, nơi những mơ ước, tưởng tượng và suy nghĩ của chúng ta xuất hiện. Hệ thần kinh vận động liên kết trực tiếp với phần này của não bộ.
Hệ thần kinh thực vật thì ngược lại, bắt nguồn từ phía bên kia của não. Nó bắt đầu ở thân não, ngay trong những tế bào xám đầu tiên ở vùng cổ. Hệ thống này chứa các hệ mạch thần kinh chỉ huy những chức năng cơ bản của cơ thể. Chúng chỉ thị việc ngủ và thức, kiểm soát nhịp tim, và kích thích các cơ quan sinh dục của chúng ta. Các dây thần kinh của hệ thần kinh thực vật này hầu như hoàn toàn không chạy đến các cơ xương, mà đi đến các cơ quan nội tạng, mạch máu và cuối cùng đến những cơ dưới da nhỏ xíu có chức năng giữ từng sợi lông. Hệ thần kinh này làm đỏ mặt khi chúng ta bối rối, làm tóc dựng ngược lên khi chúng ta sợ, và làm nhịp tim đập loạn xạ khi chúng ta yêu.
Do vậy, đúng như cái tên của nó, chúng ta không điều khiển được hệ thần kinh thực vật, chúng ta không thể quyết định hạnh phúc là hạnh phúc được ngay. Hệ thần kinh này không những điều khiển cơ vòng mắt, điều kiện cần cho nụ cười đích thực, mà còn kiểm soát cả nhịp tim, sự tuần hoàn và tuyến mồ hôi, tức là tất cả các hoạt động không có ý thức của cơ thể mà bộ não nhận thức để tạo ra những cảm giác tích cực. Đây là lý do chúng ta không thể thay đổi trực tiếp được cảm xúc của mình. Chúng ta phải hành động khôn ngoan hơn.
Cơ thể biết nhiều hơn chúng ta
Có một lý do nữa cho thấy việc chúng ta cố gắng chi phối hệ thần kinh thực vật là vô nghĩa. Bởi vì nó chỉ huy những chức năng cơ thể tối quan trọng cho cuộc sống, nên một quyết định sai lầm cũng có thể dẫn đến những kết cục bi thảm. Do vậy, bộ não được lập trình để ngăn chúng ta nhịn thở quá lâu hay làm tim ngừng đập.
Hệ thần kinh thực vật thực hiện hầu hết các nhiệm vụ trong mối liên kết với các chất hóa học truyền tín hiệu gọi là hoóc môn. Điều này giúp não bộ có hai cách để kiểm soát cơ thể: tín hiệu điện thì truyền qua hệ thần kinh, còn tín hiệu hóa học thì qua hoóc môn. Não bộ cũng có thể tự sản xuất các hoóc môn trong tuyến yên và tiết chúng vào máu - một kiểu điều khiển rất thiết thực, vì nó giúp cho mạch não có thể tiếp xúc trực tiếp với các cơ quan hơn là đi đường vòng qua dây thần kinh. Các hoóc môn truyền tín hiệu này giúp cho bộ não quan sát liên tục mức độ các chất trong cơ thể vốn có tầm quan trọng thiết yếu cho sự sống, và để can thiệp khi cần thiết. Theo cách này, hệ thần kinh thực vật và các hoóc môn cùng nhau giữ cơ thể luôn hoạt động ở trạng thái tối ưu.
Chương trình sinh tồn tự động này còn có một ưu điểm khác là tránh không để chúng ta phải tốn quá nhiều tâm trí chú ý đến các chức năng đơn giản của cơ thể. Nó giúp ta rảnh rang đầu óc để đối phó với các vấn đề hiếm khi gặp phải nếu như chúng ta cần bận tâm với vấn đề chẳng hạn như liệu gan của mình có sản xuất đủ enzym để chuyển hóa lượng rượu uống tối qua không.
Chúng ta chỉ nhận biết về hệ thần kinh này khi nó mất cân bằng một cách nghiêm trọng. Khi đó các phản ứng của cơ thể ép ta phải hành động. Nếu như lượng đường trong máu quá thấp, cơn đói sẽ hành hạ chúng ta. Nếu như lượng rượu chúng ta uống tối qua ngoài phố không chuyển hóa kịp trong máu thì đầu ta sẽ đau như búa bổ, một cảnh báo cho lần tới.
Việc điều khiển cơ thể của chúng ta cũng giống như giao diện người dùng của một cái máy tính. Cả hai đều tạo ra một vỏ bọc xung quanh bảo vệ các quá trình phức tạp nội bộ trong hệ thống, ngăn không cho chúng ta gần chúng. Thông tin kỹ thuật duy nhất mà người dùng thỉnh thoảng nhìn thấy là những thông điệp báo lỗi, khi mà chính chương trình không còn tự sửa lỗi được nữa. Rất nhiều cảm giác khó chịu xuất hiện tương ứng chuẩn xác với thông điệp báo lỗi đó.
Vì lý do này, bản thân cảm xúc cũng được bảo vệ tránh khỏi ảnh hưởng trực tiếp của ý chí, chứ không chỉ riêng các quá trình chi phối cơ thể. Chúng ta chỉ có thể kiểm soát cảm xúc một cách gián tiếp bằng cách đối xử tốt với chính mình - thông qua việc thay đổi môi trường sống hoặc suy nghĩ, hay bằng cách nhớ lại những hoàn cảnh dễ chịu. Nhưng nếu trong rừng một con gấu khổng lồ bất ngờ xuất hiện tiến về phía chúng ta, chúng ta không thể chọn xem mình có muốn sợ hay không. Chúng ta sợ trước khi chúng ta có thể phản xạ. Lúc đó, tim ta đập thình thịch, hơi thở nghẹt lại, cơ thể sẵn sàng để chạy. Nếu ta đã nhìn thấy gấu mà còn phải mất vài giây suy nghĩ xem nên quyết định thế nào cho đúng thì trong vài giây ấy con thú hung hăng đã có thể xé tan xác nạn nhân của nó rồi. Cho nên, cơ thể ta đã phản ứng lại mối đe dọa trước khi chúng ta bắt đầu cảm thấy sợ.
Do vậy, chúng ta cũng cảm thấy dễ chịu ngay khi nhận ra những thứ có thể hữu dụng với mình. Đây là những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi: khi chúng ta đói và mùi bánh nướng thoảng qua mũi, nước miếng bắt đầu ứa ra. Khi gặp một người bạn, lúc chúng ta nở nụ cười chào thì cũng là lúc ta trải nghiệm niềm vui. Chúng ta trải nghiệm những cảm xúc khi nhận biết được những phản ứng không chú ý của cơ thể.
Các nhà khoa học phát hiện ra trực giác
Phản ứng của cơ thể có xảy ra trước khi cảm xúc xuất hiện, như là sóng xuất hiện trước mũi tàu không? Antonio Damasio, một người Mỹ gốc Bồ Đào Nha, đã tiến hành một cuộc thí nghiệm có tính bước ngoặt để trả lời câu hỏi trên tại phòng thí nghiệm của trường Đại học Iowa, một trong những trung tâm quan trọng nhất nghiên cứu lĩnh vực cảm xúc. Trong số những nguồn dữ liệu mà Damasio và vợ ông, Hanna, đã thu thập được có bộ sưu tập các hình ảnh não bị bệnh lớn nhất trên thế giới. Nhờ Công nghệ chụp cắt lớp vi tính CAT-scan tạo ra những bức ảnh không gian của bộ não sống, Damasio đã khảo sát được hơn 2.500 bộ não. Việc khảo sát này đem lại cái nhìn sâu hơn về những bộ não bị bệnh cùng với nghiên cứu các trường hợp bệnh nhân não, những người bị đủ thứ chứng rối loạn suy nghĩ, cảm xúc và hành vi, giúp Damasio gặt hái được những hiểu biết sâu sắc trong quá trình làm việc với trí óc của con người. Bởi bộ sưu tập hình ảnh của họ là độc nhất vô nhị, nên các thí nghiệm tại phòng thí nghiệm của Damasio được trích dẫn thường xuyên trong cuốn sách này.
Sử dụng những phương tiện tương đối đơn giản, các nhà khoa học ở Iowa đã cho ta thấy những biểu hiện trước tiên của niềm vui, ác cảm, sợ hãi và tức giận thực sự thuộc về thể xác như thế nào. Họ đưa ra cho các đối tượng thí nghiệm một trò chơi may rủi và nối đối tượng với máy phát hiện nói dối. 6 Trò chơi này trở nên nổi tiếng với tên gọi Iowa Card Test - gồm nhiều lần rút quân bài từ hai tập bài đóng kín. Tập quân bài tốt đem lại phần thưởng vừa phải và thua thiệt nhỏ; tập quân bài xấu chứa phần thưởng rất lớn, nhưng thua lỗ cũng thường nặng nề.
Sau khoảng lần rút thứ mười, đối tượng thí nghiệm bắt đầu tránh tập bài xấu, và máy phát hiện nói dối cho thấy đối tượng toát mồ hôi, tim đập thình thịch ngay khi chạm tay vào những quân bài rủi. Tuy nhiên đối tượng không biết tại sao họ lại bị như vậy, và cũng không ý thức được những
phản ứng của cơ thể. Phải sau khoảng năm mươi lần rút bài, họ mới nói được về mối ác cảm có ý thức của mình đối với tập bài mang vận rủi. Và thậm chí phải mất nhiều thời gian hơn, đến khoảng lần rút thứ tám mươi, họ mới có thể giải thích được những phản ứng này và nguyên tắc của trò chơi.
Trực giác - thỉnh thoảng chúng ta có cảm giác kỳ lạ này khi lần đầu tiên gặp mặt một người mà về sau hóa ra rất đáng ghét - là cảm giác có thật, mặc dù chúng ta không thể giải thích được những linh cảm loại này vì chúng sinh ra từ những cảm xúc vô thức. Ví như khi chúng ta lần đầu gặp ai đó mà sau trở thành kẻ thù của ta, thì có lẽ một biểu hiện đe dọa đã lướt nhanh qua khuôn mặt đó, làm lóe lên trong ta khoảnh khắc sợ hãi không thể nhận thức được [bằng lý trí].
Trực giác làm việc cho chúng ta ngay cả khi chúng ta không thể biết chuyện gì đang xảy ra. Một vài người kém thông minh không bao giờ hiểu được nguyên tắc đằng sau trò chơi rút bài, nhưng dù sao thì họ vẫn chọn đúng. Ở điểm này,niềm tin thông thường được chứng minh là khôn ngoan hơn khoa học, vốn hàng thế kỷ qua đã phủ nhận khả năng đạt được bất kỳ tri thức nào ngoại trừ những tri thức có được qua suy luận.
Nhưng - ngược lại với lối nghĩ thông thường - hiểu biết có tính cảm xúc không hề dựa trên nền tảng hiện tượng siêu cảm giác. Đúng hơn, trực giác mọc rễ rất sâu trong cơ thể chúng ta. Chúng ta có được nó bằng những trải nghiệm. Lần đầu tiên rút bài, người tham gia thí nghiệm chưa có cảm giác đối với tập bài tốt. Trước hết bộ não phải học cách dự đoán kết quả. Một linh cảm xuất hiện khi sự tính toán này - tập bài này hên tập bài kia rủi - được truyền đến cơ thể trước khi đến ý thức.
Trong ví dụ về con gấu hung hãn (do nhà tâm lý học người Mỹ William James đưa ra), chúng ta đã biết sự lợi hại của hành vi [dựa trên]
trực giác khi nó đi trước suy nghĩ có ý thức. Trực giác giúp cho cuộc sống con người dễ dàng hơn và tiết kiệm thời gian quý báu của con người mỗi khi đối diện với hiểm nguy. Đôi khi, cơ thể ta biết nhiều hơn là lý trí, hoặc nói theo cách của nhà triết học pháp Blaise Pascal, “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không hề biết được.” (8)
Hình ảnh từ thế giới bên trong ta
Giống như những đối tượng thí nghiệm lo lắng với tập bài xấu, chúng ta thường không ý thức được chiều sâu những cảm xúc của mình trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta có thể biết mình đang đỏ mặt chỉ khi một ai đó nói cho hay. Và mắt ta có thể lấp lánh niềm hân hoan khi chính chúng ta không biết mình đang hạnh phúc thế nào.
Trong những khoảnh khắc như thế, ta mới biết rõ cảm xúc và cảm giác không giống nhau và không phải là một, mặc dù trong lời ăn tiếng nói chúng ta thường dùng hai từ thay thế cho nhau. Nhưng có một sự khác biệt: cảm xúc là phản ứng tự nhiên của cơ thể trước tình huống đặc biệt - mắt ánh lên khi vui vẻ, hoặc mặt đỏ nhừ khi bị bắt quả tang nói dối. Cảm giác xuất hiện khi chúng ta tiếp nhận những cảm xúc này một cách có ý thức như niềm vui hay sự xấu hổ chẳng hạn.)
Vậy nên, cảm xúc là vô thức; còn cảm giác là có ý thức. Vì chúng ta nhận thức rằng hầu hết những cảm xúc đều là cảm giác, nên đây là lý do vì sao người bình thường không phân biệt chúng. Dù sao, chúng ta cũng không thể biết hết mọi cảm xúc được, ví dụ như chúng ta không biết mình đỏ mặt nếu như không có ai nói ra.
Cảm xúc tạo ra cảm giác như thế nào? Với trang thiết bị đầy đủ, các nhà khoa học làm việc cùng Antonio Damasio đã có thể quan sát bộ não
trong lúc nó đang suy nghĩ. Họ yêu cầu đối tượng là những người khỏe mạnh nghĩ về những thời điểm rất vui hoặc rất buồn trong cuộc sống của họ: đoàn tụ với người yêu dấu, hay cái chết của bố mẹ. Trong vài lần tiến hành thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra phản ứng của đối tượng thí nghiệm bằng máy phát hiện nói dối, và chọn ra người có những phản ứng đặc biệt mạnh. Sau đó, họ đưa các đối tượng vào máy chụp cắt lớp phóng xạ Positron (PET), một chiếc máy có kích thước choán hết diện tích phòng. Đối tượng nằm gọn trong một ống kim loại hẹp, được Cột chặt để hình ảnh không bị mờ - không phải là một không gian có thể khơi gợi những suy nghĩ về Đảo Huyền Diệu5. Một dung dịch đường glucose đã biến đổi có phóng xạ yếu (hoạt động như là chất cản quang) chảy nhỏ giọt qua một ống vào máu. Dù vậy, đối tượng được đẩy sâu vào ký ức của mình đến nỗi họ quên đi tất cả những máy móc thiết bị quanh mình. Một số thậm chí bắt đầu gào khóc. Trong khi đó, Damasio cùng cộng sự nhìn màn hình và quan sát những phần não bộ mà các cảm giác mạnh mẽ của bệnh nhân đang kích hoạt. (10)
Bên phải: Cấu trúc của não bộ giống như một tòa nhà vài tầng. Nền móng là thân não, phần tiếp nhận những tín hiệu từ cơ thể. Nó sinh ra từ tủy sống rồi đi vào não giữa. Phía trên não giữa là não trung gian, chịu trách nhiệm cho sự hưng phấn. Nó kiểm soát cơ thể bằng cách tiết ra các hooc môn thông qua tuyến yên. Ở trên cùng, dưới đỉnh sọ não là vòm đại não hình cung, giám sát toàn bộ phần còn lại của não bộ. Chức năng của nó là những nhận thức cảm quan, suy nghĩ, lập kế hoạch, và tất cả các hoạt động của ý thức.
Bên trái: Hình ảnh chụp X quang cho thấy hạnh phúc và đau buồn được hình thành như thế nào trong não bộ. Với mỗi loại cảm giác, đều có mô hình hoạt động tương ứng của não bộ. Tuy nhiên, có vài phần của não bộ hoạt động trong cả hai trường hợp cảm giác dữ liệu đi từ cơ thể qua thân não. Ở đây, não giữa hoạt động đặc biệt tích cực, có thể nhìn thấy điều này qua những phần màu tối. Tiểu não, phần treo như một cái ba lô trên thân não, xử lý những xung động từ thân não và đưa mệnh lệnh tới các cơ -
ẳ
chẳng hạn, nếu điều gì đó làm ta khoái chí, mệnh lệnh đưa ra là cười. Phía trên nó là não trung gian, phần được kích hoạt để giải phóng ra những hưng phấn xúc cảm. Ở trong đại não, nếp nhăn (nếp gấp của não) phía sau mắt, phần được gọi là thùy trước trán, hoạt động đặc biệt mạnh. Nó chuyển những xúc cảm thành kế hoạch và hành động. (Damasio, 2000)
Những hình ảnh mà các nhà khoa học giới thiệu năm 2000 thu hút được sự quan tâm của dư luận vì hai lý do. Trước hết, chúng cho thấy chi tiết cái xảy ra trong bộ não khi chúng ta cảm thấy hạnh phúc và u buồn, bực tức và cáu giận, điều chưa từng được thấy trước đây. Với máy chụp PET, ta có thể thực sự nhìn thấy cảm giác nào đang xảy ra trong một người tại thời điểm nhất định. Thứ hai, những hình ảnh này đưa ra những chứng cứ thuyết phục hơn bất cứ gì khác cho đến thời điểm hiện tại rằng, những cảm giác thực sự xuất hiện theo sau những phản ứng của cơ thể. Chính xác thì những vùng đó hiện rõ trên màn hình máy tính, điều này rất cần thiết để tạo ra một hình ảnh cơ thể trong bộ não: ở phía dưới, thân não là bộ phận kiểm soát toàn bộ cơ thể; ở giữa, một số phần tiểu não và não trung gian xử lý những dữ liệu này, và cuối cùng, phía trên cùng, đại não có nhiệm vụ tập hợp những thông tin này dưới dạng một hình ảnh mạch lạc và kết nối nó với nhận thức, suy nghĩ và trí tưởng tượng có ý thức của ta. Chúng ta chỉ có thể ý thức được cảm xúc của mình khi nó đã được đại não xử lý.
Mỗi cảm giác - gồm cả cảm giác hạnh phúc - đều phụ thuộc vào việc não tiếp nhận và xử lý các tín hiệu từ cơ thể. Thậm chí trong những thời khắc phục lạc cực điểm, khi mà chúng ta như ở một thế giới khác, thì cũng chỉ thông qua nhận thức về cơ thể mình mà ta mới trị nhận về cảm giác hân hoan đang diễn ra. Như Damasio lưu ý, trí óc, theo nghĩa đúng nhất của từ, là hiện thân của cơ thể, chứ không phải là hiện thân của não bộ. Một linh hồn đã rời khỏi xác thì không thể cảm nhận được cả hạnh phúc lẫn buồn đau. Và nếu ta mệt mỏi với những kích thích vật lý, thì cơ thể của chúng ta,
theo như Damasio, có thể bị não bộ kích thích, thậm chí một cách vô thức. Giống như con mắt bên trong của ta có thể nhìn thấy một hình ảnh tưởng tượng, hành não cũng có thể làm giả các xung động mà thực tế nó không nhận được. Damasio tin rằng điều này giúp cho cơ thể không phải nhọc công đẩy mạnh nhịp độ và trải qua toàn bộ chương trình cảm xúc tích cực trong những tình huống không mấy quan trọng, ví dụ như khi trải nghiệm một niềm vui nho nhỏ, song vẫn cho phép tạo ra một cảm giác dễ chịu trong những tình huống ấy] mà không phải tiêu hao năng lượng quá nhiều, có thể nói vậy. Rất có thể cơ chế này đã giúp những người bị bại liệt do tại nạn giữ nguyên được khả năng cảm xúc (12)
Cười có làm cho ta hạnh phúc?
Người ta thường cho rằng một người cáu bẳn chỉ cần cười một cái là tinh thần đã thay đổi hẳn. Chính vì thế mà Robert Baden-Powell, người sáng lập ra phong trào Hướng đạo sinh (Boy Scouts) luôn khuyên các hướng đạo sinh trẻ của mình phải chủ động cười khi sợ hãi hoặc trải qua những điều khó chịu, như vậy thế giới sẽ trở nên thân thiện hơn.1
Liệu chúng ta có thể thực sự làm mình hạnh phúc bằng cách dùng các cơ mặt trợ giúp? Paul Ekman đã theo đuổi câu hỏi này một cách khoa học nhằm chứng minh cho cái quan niệm rằng nụ cười quả thật làm cho ta hạnh phúc. Nếu như cảm giác bắt nguồn từ cơ thể, vậy thì kết luận theo logic là cơ thể cũng có thể làm cảm giác thay đổi. Than ôi, con đường dẫn tới hạnh phúc hóa ra không hề bằng phẳng như chúng ta thích nghĩ, bởi không thể nào mọi nụ cười đều đến được cái mục đích cuối cùng của nó. Vẻ mặt lịch thiệp mà ta cố khoác lấy khi xin sếp tăng lương có thể che giấu sự mất tự
tin của ta, nhưng nó không làm ta cảm thấy hân hoan được, bởi vì ta chỉ đang giả vờ mình đang trong tâm trạng tốt. Chúng ta chỉ thực sự cảm thấy hạnh phúc khi cười kiểu Duchenne, nâng hai góc miệng lên và đồng thời nheo khóe mắt thành dạng vết chân chim.
Bởi vì hầu hết mọi người không thể điều khiển được những chuyển động cơ kiểu này. Ekman đã dạy những người tham gia các thí nghiệm của ông luyện cơ vòng mắt, song không cho biết lý do tại sao. Sau đó ông có thể chỉ ra rằng, tín hiệu hạnh phúc không đến từ một phía. Người tham gia thí nghiệm cùng học được cách điều khiển cơ vòng mắt tốt hơn thì họ càng cảm thấy tâm trạng dễ chịu mà không biết tại sao. Nhưng điều này chưa đủ đối với Ekman. Ông cũng ghi lại sóng não của các sinh viên thí nghiệm khi họ chủ ý buộc khuôn mặt mình cười kiểu “đích thực”.(14) Và quả thật, những tín hiệu điện được tạo ra từ những nụ cười này không thể phân biệt được với những tín hiệu xuất hiện trong một phản ứng thích thú trước một câu chuyện hài hước khéo kể. Cười làm cho ta hạnh phúc, nhưng chỉ với điều kiện là cười đúng kiểu. Cần có kỹ năng để đánh lừa bộ não.
2
Cảm giác tích cực là kim chỉ nam
Tại sao chúng ta lại có cảm giác? Cảm xúc kiểm soát cơ thể nhưng cũng như các phản ứng, chúng chỉ có thể làm tốt điều đó nếu chúng ở đằng sau, trong trạng thái tĩnh lặng. Khi bác sĩ dùng búa gõ vào đầu gối bạn, chân bạn sẽ giật lên mà không có bất cứ cảm xúc đặc biệt nào xuất hiện nơi bạn. Máy móc có thể điều khiển các quá trình nội bộ của nó một cách cực kỳ tinh vi, nhưng chưa từng có cái máy hàn tự động nào nhảy cẫng lên vì vui sướng, hay khóc lóc nghẹn ngào, hay hổn hển vì nghẹt thở.
Thực tế, thậm chí có một số người không hề có cảm giác gì. Bệnh nhân nổi tiếng của Damasio, Elliot, chính là một trong số đó. Elliot đã là một luật sư thành đạt, một người chồng và người cha tốt cho đến khi một khối u to bằng quả quýt phá hủy vỏ não trước trán ngay phía trên khoang mũi. Khối u, gọi là u màng não, được phẫu thuật cắt bỏ, nhưng Elliot không còn là con người cũ nữa.
Mỗi buổi sáng thức dậy, anh ta lề mề ra khỏi giường như một đứa trẻ lười biếng phải chuẩn bị đi học. Anh phung phí cả ngày vì không có khả năng sắp xếp thời gian trong Công việc. Do không thể giải quyết nhanh đống giấy tờ trên bàn, anh lãng phí hàng giờ đồng hồ chỉ để tìm ra phương pháp sắp xếp chúng vào trật tự. Anh mất khả năng đánh giá cái gì là quan trọng cái gì không, và không thể ra nổi quyết định nữa.
Elliot bắt đầu đánh mất chỗ đứng xã hội. Anh bị đuổi việc. Bị ám bởi những tính cách u ám này, anh thường xuyên sa lầy trong những mối lợi
kinh doanh mới và những rủi ro tài chính. Dù là một doanh nhân đầy kinh nghiệm, anh vẫn thất bại và phá sản. Cuộc hôn nhân của anh tan vỡ, và mối quan hệ lần hai cũng nhanh chóng xôi hỏng bỏng không. Trước khi sang tuổi bốn mươi, Elliot đã phải sống dựa vào sự quan tâm của anh chị em ruột như một kẻ tàn phế.
Thế nhưng, như Damasio đã phát hiện ra, trí thông minh của Elliot không hề bị ảnh hưởng sau khi bộ não chịu tổn hại. Các phản ứng cũng hoạt động bình thường. Khi bị đe dọa, anh ta vẫn thể hiện các phản ứng vật lý bình thường. Các bác sĩ không thể tìm thấy bất kỳ dấu hiệu tổn hại nào khác. Elliot rất quyến rũ, chu đáo, thậm chí còn dí dỏm - và luôn luôn ở trạng thái bình tĩnh. Anh ta điềm tĩnh, không có khả năng bị kích động. Anh ta còn có thể kể về thảm kịch của mình một cách khách quan đến nỗi ai cũng nghĩ là anh ta đọc đâu đó về nó [chứ không phải đó là chuyện xảy ra với chính anh ta]. Với sự trợ giúp của hàng loạt thí nghiệm tâm lý,Damasio đã phát hiện ra bệnh nhân của mình là một người không có cảm giác. Mặc dù những cảm xúc vô thức của anh ta đôi khi xuất hiện, nhưng Elliot không thể tiếp cận được chúng nữa.
Khi cộng sự của Damasio cho Elliott xem ảnh chụp mọi người đang chạy tán loạn khỏi ngôi nhà bị cháy hoặc đang bị đe dọa trong cơn lũ lụt dâng cao, anh ta giải thích một cách bình thản rằng, anh biết rất rõ lẽ ra mình phải cảm thấy những cảnh này thật kinh hoàng, nhưng lạy Chúa, anh chẳng cảm thấy gì. Điều tương tự cũng xảy ra khi mọi người cho anh ta xem ảnh của người thân hay nghe bản nhạc mà anh ta yêu thích trước khi bị bệnh: phản ứng của anh ta không bị tác động chút nào, y như một cái máy tính.
Máy tính chỉ thích hợp cho các loại công việc lặp đi lặp lại, chứ không thể thích nghi với hoàn cảnh mới. Đối với Elliot cũng y như vậy. Mặc dù
trí thông minh của anh ta có thể sắp xếp tất cả các thông tin cần thiết thành hồ sơ theo thứ tự, nhưng anh không thể quyết định xử lý như thế nào nữa, vì anh không đánh giá được các thông tin này. Logic có thể tìm ra các khả năng thay thế và loại bỏ những thứ vô tác dụng. Nhưng khi lý trí cần phải lựa chọn giữa hai cơ hội tốt tương đương nhau, thì nó thất bại. Diễn trình hành động duy nhất của nó là suy nghĩ kỹ về tất cả các hậu quả có thể xảy ra của một quyết định để rồi đi đến kết luận cuối cùng, một quá trình thường tốn nhiều thời gian một cách bất hợp lý (cái giá mà Elliot phải trả cho công việc của mình) và bản chất là vô dụng, vì cuộc sống luôn luôn có những thứ không thể đoán trước được. Đó là lý do tại sao lý trí cần sự trợ giúp.
Cảm giác giúp ta linh hoạt
Sự trợ giúp này đến từ những cảm giác. Trong khi cái đầu tạo ra một danh sách dài những thức ăn tốt và xấu, thì cái bụng đã quyết định từ lâu thứ gì chúng ta thích, thứ gì chúng ta không thích mà chẳng đưa ra lý do nào. Các đánh giá bắt nguồn từ cảm xúc không đến từ logic mà từ hai nguồn có căn nguyên trong quá khứ xa xôi. Một mặt, việc lập trình gien quyết định trực giác của ta. Món ăn quá đắng sẽ không cho cảm giác ngon nữa: đây là cách cơ thể bảo vệ ta khỏi bị ngộ độc. Chúng ta sẽ phản ứng tiêu cực - một cách tự động - đối với nguy cơ gây nguy hiểm cho chúng ta.
Mặt khác, cảm giác của ta còn dựa trên những trải nghiệm vốn được lưu trữ dày đặc và sinh động hơn hẳn trong hệ thống cảm xúc của bộ não so với nếu như lưu trữ trong ý thức của ta. Cũng như một bức tranh có thể nói lên nhiều điều hơn cả nghìn từ ngữ, một cảm xúc có thể truyền tải tốt hơn cả nghìn suy nghĩ. Nếu bạn thấy một cái bật lửa cháy đang hướng về phía
tay bạn, bạn đâu phải trước tiên là nghĩ ngợi về những hậu quả có thể xảy ra nếu chạm vào. Một lần bị bỏng là nhớ suốt đời.
Lắng nghe cảm giác của mình là khôn ngoan, nhưng không phải lúc nào cũng nên tuân theo chúng một cách mù quáng. Hùng hổ cãi lại khi bị sếp khiển trách sẽ dẫn đến kết thúc sự nghiệp chứ không phải có sự nghiệp hứa hẹn hơn, và không phải cứ ai biết cách tâng bốc đưa ta vào tâm trạng dễ chịu là đều chiếm được niềm tin của ta. Cảm xúc phát triển trong quá trình tiến hóa để các sinh vật có thể giải quyết nhanh chóng những vấn đề tương đối đơn giản. Chúng là những phương thức đúng đắn để quyết định xem có nên chạy khi gặp rắn hay đáp lại sự tấn công bằng cú phản đòn. Như ta đã thấy, trong những tình huống như vậy cảm xúc luôn đưa cho con người, loài chuột và các động vật sống khác, những giải pháp sống còn.
Tuy nhiên, hầu hết các vấn đề hằng ngày của chúng ta thường phức tạp hơn nhiều. Hành động quá nhanh theo cảm xúc thường làm cho vấn đề giữa các cá nhân với nhau càng trầm trọng hơn. Một cơn giận bùng nổ không kiểm soát được có thể giúp loại đối thủ ngay tức khắc, nhưng cũng có thể phá tan một mối quan hệ. Con vật phải hành động theo mệnh lệnh của cảm xúc, còn chúng ta thì không. Chúng ta có thể quyết định không tuân theo cảm giác, điều này cho phép ta có nhiều lựa chọn hơn để phản ứng hợp lý.
Chỉ khi ý thức được cảm xúc của mình thì ta mới có thể tự do quyết định xem có theo nó hay không hiểu được các cảm giác của mình cho chúng ta sự linh hoạt. Chỉ khi ý thức được cơn thịnh nộ của mình thì ta mới có thể triệt được con rung trong cổ họng và quyết định nói năng một cách bình tĩnh - việc này thường đem lại hiệu quả hơn là để cho cơn thịnh nộ bùng nổ. Không muốn để cho hai đầu gối run lẩy bẩy tước đoạt mất của ta một trải nghiệm mới, ta có thể kiềm chế những cảm giác rụt rè và sợ hãi.
Lũ chó sẽ không dám nhảy bungee6 ngay cả nếu chúng có thể nhảy; cảm xúc sợ hãi vô thức đã ngăn chúng lại - chúng là nô lệ cho cảm xúc đó.
Cuộc sống không có bất hạnh thì cũng không có hạnh phúc
Trong cuộc sống thật, anh chàng Spock, người của hành tinh Vulcan vô cảm trong phim Star Trek7sẽ là một ví dụ về lòng nhân hậu. Thậm chí khi chúng ta quyết định chống lại tiếng gọi của cảm xúc, khả năng cảm giác vẫn là tối quan trọng nếu chúng ta phải hành động với sự tiên liệu, vì cảm giác là cần thiết ngay cả trong những tình huống hãn hữu mà ở đó chỉ cần lý trí cũng đủ.
(2) Khi các nhà nghiên cứu não bộ cho Elliot làm bài trắc nghiệm cơ hội, anh đã cho thấy một sự thật kinh ngạc. Anh được yêu cầu quyết định xem mình thích rút bài từ tập bài thường xuyên có thưởng 50 đô la và hiếm khi mất 100 đô la, hay tập bài có thưởng 100 đô la nhưng cũng bị mất tới 1.000 đô la.
Sau một vài lần rút, đối tượng thí nghiệm là người khỏe mạnh chỉ chọn rút bài ở tập bài thứ nhất. Tuy nhiên, người không có cảm giác lại kiên quyết thử vận may của mình với tập bài rủi ro. Sau vài vòng chơi Elliot đã hết tiền, anh đề nghị người tiến hành thí nghiệm cho mượn tiền.
Elliot, một người rất thông minh, nhanh chóng hiểu trò chơi và có thể kết nối các quy tắc chơi lại, nhưng thật kinh ngạc, anh ta rõ ràng đã không thể sử dụng kiến thức của mình. Thế mà việc lựa chọn trong trò chơi may rủi này hoàn toàn dễ hiểu, trái ngược với chẳng hạn như việc phân loại tài liệu, nơi có nhiều khả năng lựa chọn hợp lệ. Một khi đã hiểu trò chơi thì chỉ mất vài phép tính toán thống kê đơn giản là có thể đoán ra kết quả.
Thậm chí một cái máy tính được lập trình để tối đa hóa lợi nhuận cũng ngay lập tức quyết định chọn tập quân bài thưởng 50 đô la, thế mà Elliot lại đánh mất hết tiền.
Thí nghiệm cho ta thấy tại sao anh ta không thể làm tốt hơn trong cuộc sống thực. Vì như Elliot giải thích, anh ta hết sức muốn thắng cuộc, và chính mong muốn này dẫn đến thất bại của anh. Anh theo đuổi mọi cơ hội. Những bộ não lại đưa ra những đánh giá theo cảm xúc chứ không theo lý trí. Điều này xảy ra ở vùng vỏ não trước trán, vùng bị khối u của Elliot phá hủy, là nơi não bộ duyệt qua các khả năng khác nhau, hình dung xem chúng ta cảm thấy thế nào trong trường hợp này trường hợp kia để ra quyết định.
Quá trình này đã bị phá hỏng trong Elliot, người không thể phát triển mối ác cảm với những quân bài rủi ro ngày cả khi, vừa rút bài từ tập bài đen đủi xong, một lần nữa anh lại mất thêm nhiều tiền. Rõ ràng là với anh cuộc chơi này có thể dẫn đến những thua thiệt thảm hại, nhưng nỗi sợ hãi và khó chịu hoàn toàn xa lạ với anh, nên anh cảm thấy chẳng có lý do gì để làm theo nhận thức sâu sắc bên trong. Sự thất bại của Elliot cho thấy chỉ riêng lý trí không đủ hướng đạo cho hành vi của chúng ta.
Ưa thích bi kịch
Những người hướng dẫn của tự nhiên - hạnh phúc và bất hạnh - đã dạy dỗ chúng ta. Chúng ta nhận chỉ dẫn của chúng một cách trực tiếp nhất trong các khía cạnh cơ bản nhất trong cuộc sống, những mục đích chúng ta theo đuổi để duy trì sự tồn tại của ta và mang lại cho ta hạnh phúc: ăn, uống, tình dục, bạn bè.
Sự thiếu thốn lúc trước của chúng ta càng lớn thì niềm vui về sau càng mạnh. Ngụm nước đầu tiên uống khi cổ họng đã khô cháy là ngụm nước
ngon nhất. Niềm vui thú là công cụ mà tự nhiên đã dùng để thuyết phục chúng ta làm những điều có lợi nhất cho ta.
Vì những lý do sinh học, những chỉ dẫn mà niềm vui thú hay nỗi khó chịu đưa ra, trên tất cả, phải hướng đến giữ cho cơ thể luôn ở điều kiện tối ưu. Đây là lý do tại sao đau đón luôn lấn át mọi cảm giác khác. Chúng ta được lập trình để không lờ đi những tín hiệu cho biết có gì đó bất ổn xảy ra. Chúng ta sẽ bị giày vò cho đến khi làm bất kỳ điều gì có thể giúp cho cơ thể mình, và thường không may là chúng ta vẫn còn bị giày vò tiếp.
Nói chung, chúng ta trải nghiệm các cảm giác tiêu cực một cách sẵn sàng hơn và mãnh liệt hơn so với cảm giác tích cực. Một vở kịch thống thiết dễ dàng làm ta xúc động hơn nhiều so với một vở hài kịch làm ta cười. Chúng ta có thói quen khó chịu này là do sinh học. Nếu cho đối tượng thí nghiệm tâm lý học thần kinh xem những bức ảnh vui và buồn, họ ngay lập tức sẽ phản ứng mạnh với những bức ảnh buồn, ta có thể đọc thấy điều này qua độ võng mạnh trong điện não đồ (EEG). Mọi người thường thích bi kịch hon.
Giá trị của sự ưa chuộng bi kịch này đã được thể hiện trong suốt quá trình tiến hóa. Tổ tiên chúng ta nghe những tiếng sột soạt nhẹ nhất trong bụi rậm cũng bị lay động bởi nỗi sợ hãi, buồn rầu và giận dữ, đến nỗi quên cả con mồi dù béo tốt ngon lành đến đâu, để đảm bảo an toàn cho mình. Ngày nay, chúng ta dường như hướng đến ngăn chặn rủi ro hơn là tìm kiếm hạnh phúc. Trên các tờ báo, tin xấu luôn
được giật tít to hơn tin tốt. Với một lượng tương đương thì cái mất mát gây ra đau đớn nhiều hơn so với cái mang lại niềm vui. Nếu cơ chế chịu trách nhiệm về độ lệch trong các phản ứng này bị hỏng thì số phận giống như số phận của Elliot đang sừng sững đó đợi ta.
Hệ thống của ta được thiết kế nghiêng về những trải nghiệm bất hạnh hơn là trải nghiệm về niềm vui, và chúng ta tiếp nhận sự bực mình, chán nản nhanh và mạnh hơn so với việc tiếp nhận niềm vui. Sự kế thừa này của tiến hóa là có tầm quan trọng sống còn trong những tình huống nghiêm trọng, nó giải thích cho nhiều bi kịch lớn nhỏ trong đời. Con ghen tuông điên rồ của Othello8lấn át tình yêu dành cho vợ đến nỗi anh ta đã ra tay giết vợ mình. Chỉ một con bực mình nho nhỏ khi bạn đang đi nghỉ mát cũng có thể gây ra những thiệt hại nặng nề. Khi ánh nắng mặt trời tỏa xuống, những cơn gió nhè nhẹ thổi mơn man trên da bạn, biển xinh đẹp và ấm áp, còn thức ăn thì thơm ngon không tả được, bạn và người đồng hành đều cảm thấy thời gian này thật tuyệt vời. Nhưng vào giữa cái khung cảnh yên bình thơ mộng này, thì một cái máy cẩu gầm gừ ngay trước phòng khách sạn của bạn. Suốt cả ngày, từ sáng đến tối. Chỉ là một thiếu sót nho nhỏ bám trên bề mặt những niềm vui của kỳ nghỉ, nhưng bạn không thể bỏ qua được nỗi khó chịu. Cơn tức giận của bạn đe dọa phá hỏng toàn bộ chuyến đi chơi.
Tại sao hạnh phúc không miễn phí
Bất hạnh tự nó xuất hiện, nhưng hạnh phúc thì chúng ta phải mưu cầu mới có. Trong khi sợ hãi, tức giận, đau buồn chính là các phản ứng với những nguy hiểm của thế giới bên ngoài, thì những cảm giác sung sướng của ta lại được tự nhiên nuôi dưỡng để dụ ta vào những tình huống đáng thèm muốn. Không phải chỉ có mỗi loài người là được lập trình theo cách này. Ví dụ, như những con chuột cái trong phòng thí nghiệm cứ liên tục quay đi quay lại những chỗ trong lồng mà chúng từng thích thú giao phối,
như thể chúng làm mọi thứ có thể miễn sao trải nghiệm được sự thích thú ấy một lần nữa.
Điều làm cho con người khác con chuột ở đây là khả năng nhìn thấy trước vấn đề. Không như con vật, chúng ta không nhất thiết phải trải nghiệm một tình huống để có thể rút ra những kết luận đúng cho tương lai. Chỉ cần suy nghĩ thấu đáo về một trải nghiệm là đủ. Chỉ cần một nỗi sợ hãi tình cảnh khốn đốn cũng đủ ngăn một doanh nhân không sa vào những vụ đầu cơ kinh doanh quá rủi ro. Và trong tình yêu, chỉ tưởng tượng một đêm với người yêu mà ta không thể với tới cũng đủ làm trái tim thổn thức.
Sự trải nghiệm và nỗi mong chờ hạnh phúc dẫn dắt những hành động của ta. Với sự nhận thức này, nghiên cứu não bộ hiện đại đã chứng thực được lối tư duy vốn là trung tâm đối với triết học Hy Lạp cổ đại, nhưng lại có phần xa lạ với chúng ta. Trong khi rất nhiều người ngày nay vẫn quan niệm hạnh phúc như là một vận may, như là cái gì đó đến (hoặc không đến) với chúng ta từ bên ngoài ta, thì những triết gia Hy Lạp đã biết mối liên hệ: hạnh phúc có được là do hành động đúng. Aristotle9 viết: “Hạnh phúc là kết quả của một hành động”. Hạnh phúc không phải là một món quà ngẫu nhiên hay thần thánh; nó được trao cho người biết cách sử dụng tối ưu các khả năng sẵn có để đạt được.(4) “Như một vị tướng giỏi biết chỉ huy quân của mình một cách xuất sắc nhất, hay một người đóng giày giỏi biết làm những đôi giày tốt nhất từ đống da có sẵn,” thì một người thông minh luôn luôn biết cách tận dụng mọi tài năng và cơ hội của mình. Bí mật của hạnh phúc và viên mãn chính là nằm trong những kiểu sống tích cực như thế.
Các triết gia cổ điển đã rút ra hai kết luận từ những hiểu biết này. Đầu tiên, nếu như hạnh phúc là sự phát huy hết mọi năng lực bản thân, vậy thì - bởi mọi người là giống nhau - phải có những quy tắc được áp dụng rộng
rãi để đạt được mục đích này. Thứ hai, chúng ta có thể học được cách sống hạnh phúc bằng cách tuân theo những quy tắc này. Chúng ta không thể phó mặc cho tâm trạng hay môi trường quanh ta.
Trong thời đại ngày nay,vì coi hạnh phúc không khác gì một điều kiện dễ chịu nên chúng ta thấy không dễ tuân theo kiểu suy nghĩ này. Đúng hơn, chúng ta có xu hướng ghen tị với những người được coi là không xứng đáng mà lại hưởng những khoảnh khắc hân hoan quý báu nhiều hơn chúng ta. Chúng ta cố tình lờ đi sự thật rằng, mặc dù có rất nhiều khác biệt giữa người với người, con người ta vẫn có nhiều điểm chung với nhau hơn là những khác biệt, ở cả khía cạnh sinh học lẫn trong tâm tính. Chúng ta thường có xu hướng coi hạnh phúc như là một niềm thích thú mà không cần có lịch sử, không phải trả giá, không phải một quá trình. Và điều này là phi thực tế.
Với những hiểu biết sâu sắc ngày nay về chức năng của trí não, chúng ta cũng biết rằng những cảm xúc tích cực không tự nhiên sinh ra. Khi mà các tư tưởng gia cổ đại nói về “đức hạnh” và sự “thỏa mãn tối ưu các khả năng của con người”, thì khoa học hiện đại nhấn mạnh sự đạt được “điều kiện tối ưu của cơ thể”. Những tư tưởng chủ đạo của triết học Cổ đại về hạnh phúc, dưới ánh sáng của sinh học thần kinh ngày nay, vẫn còn nguyên giá trị: những cảm giác tích cực không phải là may rủi số phận - chúng ta có thể và phải cố gắng để đạt được chúng.
3
Hệ hạnh phúc
Chúng ta có thường xuyên nhận thấy mình đang hy vọng cảm giác hạnh phúc sẽ đến với mình bởi chính ý chí của nó? Rằng rốt cuộc thì khó khăn vất vả của chúng ta cũng đi đến hồi kết? Giá như cái dự án mà chúng ta phải nghiền ngẫm hết đêm này sang đêm khác tại cơ quan kết thúc tốt đẹp! Giá như, cuối cùng, người trong mộng của ta xuất hiện và chữa lành nỗi cô đơn của ta! Vậy thì mọi thứ khác cũng sẽ tự lo cho bản thân chúng.
Đằng sau những tình cảm ủy mị này chính là tư tưởng cho rằng một cuộc sống không có khổ đau phải là một cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc là người đàn ông hay đàn bà không bị lây căn bệnh bất hạnh. Dường như theo logic thì hạnh phúc và bất hạnh phải triệt tiêu lẫn nhau, như là trẻ con chơi trò bập bênh: chỉ có một thứ xuất hiện tại một thời điểm.
Nhưng không phải như vậy. Như chúng ta biết hiện nay, cảm giác tích cực và tiêu cực được sinh ra do những hệ thống khác nhau trong bộ não. Thoát khỏi đau khổ hoàn toàn không đảm bảo có hạnh phúc. Đây là một nhận thức quan trọng, bởi vì nó sẽ dẫn đến một loạt gợi ý cho việc hướng đạo cuộc sống của ta. Đầu tiên, tôi đề nghị bạn tiến hành một thí nghiệm nho nhỏ.
Hạnh phúc không phải là mặt đối lập của bất hạnh
Hãy tưởng tượng, bạn là một nhà leo núi và bị lạc đường khi đang ở trên cao của dãy Alps. Sau khi đi lòng vòng mất vài giờ, bạn tìm lại được đường đi, nhưng đã khá muộn. Bạn biết rằng không thể trở xuống thung lũng trước khi trời tối. Gió mạnh, mây đen kéo về dày đặc, ngay sau đó là những giọt mưa đầu tiên rơi. Nhìn quanh chẳng thấy một nơi nào trú ẩn. Gió tạt mưa vào mặt, quần thì dính chặt vào chân. Bạn lạnh cóng và cảm thấy đau khổ, bạn bực tức vì đã bất cẩn và đánh mất quá nhiều thời gian. Bây giờ thì bạn không có lựa chọn nào khác là tiếp tục lê bước bất kể mưa, lạnh và trời thì đang tối dần.
Bất ngờ, bạn tìm thấy một mái che. Bạn chui vào trong. Ở đây không có gió thổi, nền đất thì khô ráo, bạn mở phích nước ra, nhấp những ngụm trà nóng, và cảm nhận hơi ấm đang lan tỏa khắp cơ thể. Bạn cảm thấy nhẹ nhõm, thư thái và dễ chịu. Sau đó bạn nhớ ra rằng mình vẫn phải quay về, và quần áo thì vẫn ướt, vẫn dính bết vào người. Nhưng chẳng lẽ bạn không cảm thấy cái gì giống như hạnh phúc sao? Hoặc có lẽ thậm chí là hạnh phúc và bất hạnh song hành cùng nhau?
Thực vậy, trong những khoảnh khắc đó, rất nhiều loại cảm giác quay cuồng trong đầu bạn, một số dễ chịu, số khác khó chịu, và tất cả cùng tồn tại. Những cảm giác tiêu cực không hề loại bỏ những cảm giác tích cực.
Chúng ta thường xuyên trải nghiệm trạng thái mâu thuẫn này, nhưng thường thì chúng ta không ý thức được những sắc thái tinh tế của nó. Nếu bạn mong chờ một khoản thưởng 500 đô la một tháng cho thành tích làm việc xuất sắc nhưng rồi chỉ nhận được có 250 đô la, bạn thấy buồn bực vì cảm thấy những cố gắng của bạn đã không được công nhận, nhưng cũng tại thời điểm đó, bạn hài lòng về khoản thu nhập thêm này. Cảm giác tích cực này hòa trộn với nỗi tức giận, một cảm giác tiêu cực. Tất cả chúng ta đều biết rằng đôi khi cảm giác thích thú là do nỗi sợ hãi mang lại, như
những phản ứng hãi hùng rất dễ chịu khi xem một bộ phim kinh dị. Vừa yêu vừa ghét - như rất nhiều cặp đôi trẻ đã trải nghiệm, dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn - không phải chỉ là một cách nói.
Dường như ở đây chúng ta đang đối mặt với một nghịch lý, nhưng đó chỉ là cái nhìn thoáng qua ban đầu. Dường như đương nhiên rằng khi ai đấy kêu rằng mình bất hạnh thì người ấy không thể hạnh phúc được. Nhưng thế thì cái gì có nghĩa là “hạnh phúc” và “bất hạnh” đây? Những cảm giác như vậy hầu như luôn có thể được nhận diện một cách chính xác hơn nhiều, và điều dường như là một mâu thuẫn khó hiểu lại trở nên có thể hiểu được khi ta coi cảm giác tích cực là sự thích thú còn cảm giác tiêu cực là sự tức giận, vì hai loại này hoàn toàn có thể song hành tồn tại.
Để hiểu rõ hơn loại mâu thuẫn này, chúng ta nên coi nó như một kiểu nhận thức cảm giác. Chúng ta đều biết rằng một số vị và mùi có vẻ như chỏi nhau lại có thể dung hòa được với nhau ra sao. Thực tế, sự hấp dẫn của món ăn hóa ra thường do sự có vẻ như mâu thuẫn về mùi vị này đem lại: sô cô la ngọt đắng và món thịt lợn chua ngọt của Trung Quốc là những ví dụ. Theo như vua đầu bếp Pháp Brillat-Savarin thì sắc thái của mùi vị là không giới hạn.
Công việc bếp núc sẽ tẻ nhạt đi bao nhiêu nếu bị giới hạn trong năm thành tố cơ bản của vị - ngọt, chua, đắng, mặn, ngọt lợ (umami) - trong dạng thuần khiết của chúng! Vậy cho nên, nghệ thuật sống với những cảm giác phức tạp hơn của cuộc sống nằm ở khả năng nhìn thấy hạnh phúc và bất hạnh hòa trộn vào nhau của chúng ta.
Mạch thần kinh của vui sướng và đau khổ
Vui sướng và đau khổ không triệt tiêu lẫn nhau. Cơ thể của ta không chứa một cái máy phát ra những cảm giác khó chịu với cường độ lúc cao lúc thấp, và tắt ngấm hoàn toàn trong những khoảnh khắc các cảm giác vui sướng nhất xuất hiện. Đúng hơn, bộ não có những hệ thống khác nhau dành cho cảm giác dễ chịu và cảm giác khó chịu, những hệ thống này có thể làm việc cùng nhau, độc lập và đối lập với nhau.
Thậm chí “ngôn ngữ của hóa học thần kinh cũng sử dụng các dấu hiệu khác nhau để thể hiện những cảm giác vui sướng và khó chịu. Những chất truyền dẫn như dopamine, oxytocin và beta-endorphine10 đều đóng vai trò quan trọng trong sự ham muốn, thỏa mãn hay hấp dẫn giới tính. Mặt khác thì sợ hãi, căng thẳng và đau buồn được kiểm soát bởi những chất khác như acetylcholin và cortisol11, một hoóc môn gây căng thẳng.
Sự thực là, ham muốn và khiếp sợ sinh ra khác nhau trong não bộ và có thể quan sát thấy được. Bức ảnh mà Damasio chụp bộ não của một người vừa hạnh phúc vừa buồn khổ cho ta thấy rằng có các mạch thần kinh khác nhau dành cho cảm giác dễ chịu và khó chịu. Và những trung tâm nhất định trong não bộ luôn hoạt động, dù ở những cấp độ khác nhau. Đây không phải điều gì gây ngạc nhiên đặc biệt, bởi vì não bộ phải điều chỉnh các trạng thái của cơ thể khi chúng ta đang cảm thấy hạnh phúc, buồn đau, sợ hãi hoặc tức giận.
Nhưng, tùy thuộc vào loại cảm giác cụ thể, các khu vực não bộ nói trên có thể bước vào hoạt động một cách rất khác nhau. Nếu hạnh phúc và bất hạnh đối lập nhau thì các vùng não bộ nào sáng lên trong những khoảnh khắc hạnh phúc sẽ mờ đi tương ứng khi tinh thần xuống thấp và ngược lại. Nhưng thực tế lại không như vậy. Những hình ảnh của não bộ lúc hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể hiện mô hình đối lập dưới bất kỳ hình
thức nào. Ở hình trang 40, các khu vực có màu tối nhạt hơn tương ứng với hoạt động ở mức thấp, các khu vực màu tối đậm hơn tương ứng với hoạt động ở mức cao. Ví dụ, chỉ nửa phần bên trái tiểu não là đang hoạt động trong khoảnh khắc hạnh phúc, nhưng khi một người thấy buồn, tức giận hay sợ hãi thì cả hai nửa đều hoạt động mạnh. Hồi đai (cingulate gyrus) với cấu trúc hình vòm phía mặt dưới đại não sáng rực lên ở bên phải phía trước tại thời khắc hạnh phúc và chuyển màu tối ở bên trái phía sau, trong khi đó lúc buồn thì sáng ở cả hai phía trước và tối cả hai phía sau.
Khi chúng ta trải nghiệm một cảm giác, thì luôn luôn có nhiều phần khác nhau của não bộ cùng hoạt động, điều này có thể xem được qua ảnh chụp não. Không có một trung tâm xử lý nào dành riêng cho niềm vui hay cho nỗi buồn. Não bộ không làm việc đơn giản như thế. Việc tạo ra cảm xúc trong bộ não có thể so sánh với những vị trí chơi bóng trong bóng đá. Mọi thành viên trong đội đều cần thiết, song không ai có thể quyết định cuộc chơi một mình, cũng như một trung tâm não bộ đơn lẻ không thể tạo ra được cảm xúc nếu chỉ dựa vào chính nó. Và hệ mạch ở giữa các vùng của não cũng thay đổi khác nhau theo mỗi loại cảm xúc, giống như đội bóng trên sân di chuyển khác nhau tùy thuộc vào tình huống cụ thể của cuộc chơi. Vị trí thành viên đội bóng khi đá phạt góc bố trí khác với khi sút phạt trực tiếp. Trong một trận chơi thiên về tấn công thì tiền đạo quan trọng hơn hậu vệ, mặc dù thế trận vẫn dựa vào hậu vệ và tiền vệ. Cuối cùng, cá nhân mỗi cầu thủ đều không quan trọng bằng việc phối hợp nhịp nhàng trong toàn đội.
Bất hạnh bên phải, hạnh phúc bên trái
Thường thì hai phần của vỏ não dường như được phân chia chức năng rõ ràng, mặc dù không phải theo cách như báo chí truyền hình hay nói. Nó không phải như kiểu một nửa của não bộ cảm nhận, nửa còn lại suy nghĩ và phân tích các tình huống khó khăn. Đúng hơn, cả hai nửa của não bộ đều xử lý cảm xúc, mặc dù phần bên phải có xu hướng hoạt
động mạnh hơn với những cảm giác tiêu cực, còn phần bên trái sẽ hoạt động mạnh hơn với cảm giác tích cực. Sự khác biệt này có thể nhận ra rõ ràng nhất ở mặt bên của não, ví dụ khi ta so sánh những hình ảnh chụp khoảnh khắc hạnh phúc với hình ảnh chụp khi đối tượng đang sợ hãi. Dường như là nửa bộ não của ta điều khiển hạnh phúc, nửa còn lại kiểm soát bất hạnh.(1)
Thêm dẫn chứng mới: cuộc sống cảm xúc của ta sẽ đảo lộn nếu như một nửa não bộ của ta bị hỏng. Ví dụ, bệnh nhân đột quỵ đôi khi cư xử rất kỳ lạ. Những người có thùy trước trán bị ảnh hưởng thì thường xuyên chìm đắm trong trạng thái trầm cảm nặng nề; rõ ràng hệ thống tinh chỉnh các cảm giác tích cực đã bị hỏng. Mặt khác, chỉ một cục máu đọng trong thùy trước trán cũng có thể gây tác động ngược lại, đẩy bệnh nhân vào trạng thái hưng phấn suốt đời. Điều này không hẳn là tồi tệ nếu như cảm giác về thực tại của họ không bị mất nốt, dẫn đến việc họ mất khả năng nhìn thấy bất cứ điều gì có thể làm suy giảm niềm tin của họ rằng đây là thứ tốt nhất trên thế giới rồi.
Thậm chí họ phủ nhận cả tình trạng bệnh tật của mình. Nhà thần kinh học người Mỹ gốc Ấn Ramachandran lấy ví dụ một bệnh nhân, bà Dodds, đang chịu chứng liệt nửa người sau khi bị một cơn đột quỵ bên não phải.” (Các mối liên kết giữa hai nửa cơ thể và não bộ là kiểu kết nối chéo nhau). Không những bà không muốn nghe bất kỳ điều gì liên quan đến chứng bại liệt, bà còn thực sự không hề biết gì về nó. Khi Ramachandran hỏi bà vỗ
tay được không, bà ta trả lời,“Tất nhiên rồi”, sau đó là chuyển động tay phải trong không khí và tuyên bố rất nghiêm túc rằng mình đã vỗ tay rồi. Rõ ràng là não bộ của bà đã mất đi sự đối trọng lẽ ra phải chặn được cái ý niệm tích cực quá mạnh của não trái và kéo bà trở về với thế giới thực.
Một phát hiện của phòng thí nghiệm Damasio cho thấy những phần nhất định của não bộ phản ứng lại với hạnh phúc hay bất hạnh một cách chính xác ra sao. Một số tế bào thần kinh đặc biệt trong phần bên phải của thùy trước trán chỉ phản ứng với những điều bất hạnh. Những tế bào não xử lý bất hạnh này phản ứng nhanh hơn nhiều So với khả năng của ý chí hữu thức và quyết định trong vài phần trăm giây xem một tình huống là tốt hay xấu.(3)
Khi một người vốn sợ nói trước công chúng bị chứng sợ sân khấu làm cho tê liệt trong khi chờ đến lượt mình phát biểu, phần thùy trước trán của anh ta thực tế cũng đang lộn tùng phèo rồi.” Thậm chí trẻ sơ sinh cũng phản ứng với axit chua gắt trong nước chanh với những sóng não hoạt động mạnh bên não phải. Nhưng khi chúng được uống nước ngọt thì phần não trái lại hoạt động mạnh. 5) Vì vậy, dường như có khả năng cao là chúng ta được sinh ra với não trái chịu trách nhiệm chính cho việc tạo ra cảm giác tích cực, còn cảm giác tiêu cực chủ yếu là do não phải kiểm soát. 6)
Việc những cảm giác dễ chịu hay khó chịu đó được phân chia không đồng đều giữa hai nửa bán cầu não có liên quan đến cách thùy trước trán xử lý dữ liệu. Phần não bộ này hoạt động như trung tâm chỉ huy hành vi, và như chúng ta đã biết, cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền mệnh lệnh đến hành vi: cảm giác tích cực nói cho ta biết nên làm gì, trong khi cảm giác tiêu cực nói không nên làm gì. Bộ não được chỉ dẫn bởi
cả những khuynh hướng bẩm sinh - ví dụ, ta không thích loại thức ăn quá chua - và bởi kho trải nghiệm.
Đây là lý do tại sao cả hai nửa thùy trước trán, nơi trí nhớ cư trú, thường xuyên kiểm duyệt mọi thứ trải nghiệm tùy theo mức độ hữu ích của chúng cho cơ thể. Theo cách này một cơ sở dữ liệu được tạo ra để lưu trữ những điều ta thích và những điều ta không thích. Tổ chức một khối lượng thông tin lớn như vậy và triệu hồi thông tin từ trí nhớ là cả một công việc khổng lồ - thùy trước trán làm cho việc này trở nên dễ dàng hơn bằng cách phân chia trách nhiệm. Nửa phải chịu trách nhiệm cho những vấn đề khó chịu trong cuộc sống, trong khi nửa trái giải quyết những việc dễ chịu hơn.
Các tế bào xám của não trái xử lý kỳ nghỉ sắp tới của ta, còn vé phạt vi phạm tốc độ do những tế bào thần kinh não phải lo. Thời điểm xuất hiện nụ cười đích thực, như Paul Ekman phát hiện ra, cũng trùng với cường độ hoạt động mạnh của nửa bên trái thùy trước trán. (8)
Cặp đôi kỳ dị
Cả hạnh phúc lẫn bất hạnh đều có mạch thần kinh và hệ hóa học riêng của nó. Nhưng điều này không có nghĩa là cảm xúc khó chịu và dễ chịu độc lập với nhau. Dù chúng ta có thể vừa buồn vừa vui, nhưng thường thì chỉ là một trong hai. Các hệ não bộ dành cho cảm giác tích cực và tiêu cực được phối hợp chặt chẽ đến nỗi cảm giác tích cực có thể chặn được cảm giác tiêu cực và ngược lại. Bực tức về một điều gì đấy mà bọn trẻ gây ra buổi tối có thể phá hỏng cảm giác thỏa mãn do một ngày làm việc hiệu quả đem lại.
Và chỉ một chút vui vẻ cũng có thể xua tan được những cơn buồn chán - như ta có thể thấy trên gương mặt cư dân thành phố khi mặt trời rốt cuộc
cũng rọi những tia nắng đầu tiên sau chuỗi ngày mưa triền miên. Trong não bộ, những cảm xúc mâu thuẫn luôn luôn đối mặt với nhau, một nguyên lý được thực hiện trong từng tế bào thần kinh. Bạn có 100 triệu khớp thần kinh nhỏ này trong não, nhiều hơn tổng các sao trong toàn dải Ngân Hà. Mỗi một tế bào thần kinh đều tiếp xúc với những tế bào thần kinh khác, một vài trong số chúng đưa ra tín hiệu để kích hoạt các hoạt động của tế bào, số khác tạo ra các xung động ức chế, gây ra một cuộc đua sức mạnh giữa các kích thích. Cũng như một chiếc máy vi tính nhỏ, tế bào thần kinh rút ra kết luận cho mình từ các tín hiệu trái ngược rồi đến lượt mình liên lạc với các tế bào khác.
Mối tương tác của “cặp đôi kỳ dị” này không chỉ xảy ra ở cấp độ hiển vi. Hầu hết các quá trình trong não bộ đều được quyết định bởi sự tác động lẫn nhau của hai kẻ chơi đối lập, và mạng thần kinh cảm xúc cũng hoạt động tương tự. Cảm giác tích cực có thể loại bỏ cảm giác tiêu cực và ngược lại.
Bánh sừng bò chống lại sự căng thẳng
Nguyên tắc hai kẻ chơi đối nghịch cho chúng ta một đòn bẩy kép để chi phối tâm trạng ta. Montaigne12, một quý tộc Pháp thích triết lý, đã rất đúng khi bắt đầu các bài luận của ông về cách sống khôn ngoan với lời đề từ “Par divers moyens on arrive à pareille fin”, nghĩa là “Bằng những phương tiện khác nhau, chúng ta đến cùng một đích”. Và những người biết cách kết hợp nhiều phương tiện sẽ gặt hái được thành công lớn lao nhất. Hiểu được hệ thống phản hồi của trí não sẽ giúp ta có khả năng này.
Bị kẹt xe trên đường đi làm mỗi buổi sáng là một sự đau khổ nỗi sợ bị nhốt lâu trong xe, tiếng ồn động cơ xung quanh, lo lắng bị lỡ buổi hẹn, và
tệ nhất là trải nghiệm bị kẹt trong một chuỗi xe nối đuôi nhau, cản xóc chiếc này sát sạt vào cản Xóc chiếc kia - tất cả điều này tạo ra một phản ứng sinh học để thoát ra, hoặc để chiến đấu, và phản ứng tự động của cơ thể là một kiểu căng thẳng. Sau đó là tức giận, sốt ruột, kích động không mục đích, và kiệt sức, khi cuối cùng chúng ta đến được đích.
Đương nhiên, thuốc giải dễ dàng nhất cho nỗi đau khổ này là tránh hoàn toàn các vụ kẹt xe hằng ngày. Nhưng thường điều này là không thể. Tuy nhiên, nếu hiểu biết về cảm xúc, ta lại có những lựa chọn khác, dùng những phương tiện đơn giản để nâng cao tinh thần, bất chấp sự căng thẳng.
Trước tiên, chúng ta có thể cố gắng thoát khỏi các cảm giác tiêu cực ngay lập tức bằng cách sử dụng thời gian trên xe để nghe đài, hay học ngoại ngữ, do đó làm dịu cảm giác bất lực khi đối mặt với một hoàn cảnh khó chịu. Hoặc chúng ta có thể cố gắng đánh thức những cảm giác tích cực. Ví dụ chúng ta có thể tạo thói quen uống một cốc cà phê cappuccino và ăn một cái bánh sừng bò có bơ trước khi làm việc, thay vì vùi đầu ngay vào nhiệm vụ của một ngày mới. Việc thấy trước hành động sắp xảy ra này sẽ nâng tinh thần ta khi kẹt trong xe, vì khi chúng ta đang mong chờ điều gì đó thích thú, não bộ tiết ra những chất truyền dẫn cho phép ta trải nghiệm cảm giác dễ chịu. Và bởi vì các hệ thống phản hồi niềm vui và căng thẳng được kết nối với nhau, nên sự mong ngóng niềm vui có thể trực tiếp hóa giải được điều đang làm chúng ta buồn bực (9)
Chúng ta sẽ học những cách khác để sử dụng các chức năng sinh lý thần kinh của não bộ nhằm đem lại cảm giác hạnh phúc lớn hơn. Rất nhiều cách trong các cách đó, như ví dụ đơn giản về người lái xe bị tắc đường, bắt nguồn từ hai điều chúng ta đã biết. Thứ nhất, thường thì ta có nhiều lựa chọn hơn ta nghĩ để cải thiện nhận thức của ta về tình huống - ngay cả
khi ta không thể trực tiếp tác động đến tình huống đó. Thứ hai, ta có thể học cách ngăn cảm giác tiêu cực lại bằng những trải nghiệm tích cực. Kể từ thời Hy Lạp cổ đại, các triết gia đã luôn trăn trở với câu hỏi, con đường đi đến hạnh phúc nằm ở việc tối đa hóa niềm vui hay ở việc hạn chế tối thiểu nỗi buồn.(10) Bây giờ ta đã biết rằng chọn một trong hai đều sai lầm. Chúng ta có thể làm cả hai cách.
Công tắc ngắt phiền toái và giận dữ
Vui sướng và đau khổ là hai địch thủ vĩnh viễn. Hai nửa của thùy trước trận luôn cạnh tranh nhau không ngừng để chiếm đoạt tâm trí ta. Bán cầu não trái có thể khuyến khích các cảm giác tích cực, hẳn bằng cách tiết chế những vùng não bộ được gắn sâu hơn trong sọ não, có lẽ thông qua một dây thần kinh đi từ thùy trước trận đến hạch hạnh (amygdala). Những trung tâm thần kinh hình hạnh nhân nằm dưới vỏ não này có thể gây ra sợ hãi, tức giận và căm ghét. Chúng ta vẫn chưa biết chính xác bằng cách nào mà phần trái của thùy trước trán chống lại những cảm xúc này, nhưng hầu hết các nhà tâm lý học thần kinh đều cho rằng nó gửi các xung động ức chế đến hạch hạnh. Tự nhiên có thể tạo ra những tín hiệu kiểu như một cuộc gọi lại để thông báo rằng cảm xúc tiêu cực, cuộc gọi cảnh báo, đã xuất hiện ở thùy trước trán và không còn cần thiết nữa. Cơ thể và trí não có thể trở lại trạng thái nghỉ ngơi.
Cho nên, chúng ta dường như có một công tắc ngắt tự nhiên đối với các cảm giác tiêu cực. Và, với đôi chút luyện tập, chúng ta có thể khởi động công tắc này một cách có thức (11)
Nhà tâm lý học thần kinh Richard Davidson ở Đại học Wisconsin Madison đã làm việc trong nhiều năm để làm sáng tỏ vấn đề này. Ông và
các cộng sự đã cho đối tượng thí nghiệm xem một loạt ảnh gây cảm xúc như ảnh phụ nữ và đàn ông khỏa thân khêu gợi, song cũng có ảnh bệnh nhân đang bị phẫu thuật tim, người đứng trên mái nhà xung quanh lũ lụt bủa vây, hay ảnh nạn nhân tai nạn ô tô. Sau đó các nhà khoa học bảo đối tượng thí nghiệm hãy chủ động tăng hay giảm cường độ cảm giác của họ.
Để tìm hiểu xem mình thành công đến đâu, ông gây một tiếng động lớn và bất ngờ ngay sau đó. Các đối tượng thí nghiệm vẫn còn bị bối rối bởi các bức ảnh liền phản ứng thậm chí còn mạnh hơn trước, còn mắt họ thì tự nhiên có rúm lại - một biểu hiện chắc chắn của nỗi sợ hãi.
Trong khi đó, các đối tượng thí nghiệm đã được gắn
128 điện cực vào đầu để đo các hoạt động của thùy trước trán. Nửa trái của não càng hoạt động mạnh thì đối tượng càng ít bị bối rối. Ngay sau khi họ xem những bức ảnh gây sợ hãi, ông làm họ giật mình bằng tiếng động, nhưng chỉ sau một giây họ đã hiểu rằng cảnh sợ hãi đấy chỉ là những bức ảnh và không việc gì phải kinh động lên. Cảm xúc đã biến mất. Và khi Davidson lặp lại tín hiệu, họ không có phản ứng gì.
Nhưng đối tượng nào có thùy trước trán hoạt động đặc biệt mạnh ở phía bên phải thì phản ứng khác hẳn. Sau khi xem một bức ảnh ảm đạm, họ bị âm thanh chói tai kia gây khó chịu thêm vài giây nữa. Mi mắt họ chớp dữ dội. Rõ ràng họ không thể làm dịu được nỗi đau khổ của mình. Một số tiếp tục cảm thấy đau đớn bởi các bức ảnh và bắt đầu khóc lóc (12)
Kiểm soát cảm xúc ở đây thường là chuyện chỉ diễn ra trong vòng vài phần mười giây. Nếu trong khoảng thời gian ngắn ngủi này đối tượng không thể nhận ra rằng cảm giác sợ hãi hay buồn đau là không thích đáng, thì các cảm giác tiêu cực cứ tiếp tục phát triển không thể dừng lại được, như tuyết bắt đầu lở. Bị sức mạnh cảm giác của chính mình lấn át, một
người như thế phải vất vả hơn nhiều mới tự trấn tĩnh được mà quay lại trạng thái minh mẫn.
Xả cơn giận không ích gì
Việc giải phóng cảm xúc một cách đơn giản là một cơ chế có thể khiến chúng ta gặp nhiều khó khăn trong vô số tình huống hằng ngày. Nếu, ví dụ như, chúng ta dập máy kết thúc một cuộc điện thoại trong tâm trạng thất vọng, hoặc nếu chúng ta đóng sầm cửa lại bỏ đi ngay khi người đối diện đưa ra một nhận xét vô tâm, ấy là chúng ta không chỉ giày vò mình bằng cách bỏ lại đằng sau cái có thể chẳng qua chỉ là một hiểu lầm chưa được giải quyết, mà chúng ta còn kéo dài cảm giác tiêu cực lâu hơn cần thiết. Và giờ đây chúng ta đang thực sự bị cơn giận hành hạ.
Nhưng thí nghiệm của Davidson cho thấy, rõ ràng ta có thể kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực ngay khi nó xuất hiện. Điều này chỉ xảy ra nếu chúng ta ý thức được tức thì cảm giác của mình, và gạt chúng sang một bên để tiếp tục cuộc sống. Đối với một số người điều này giống như thách thức dành cho siêu nhân, nhưng chúng ta có thể học cách để làm được vậy.
Ý tưởng rằng chúng ta nên kiểm soát cảm giác của mình mâu thuẫn với một niềm tin phổ biến rộng rãi hơn nhiều của tâm lý học. Nhiều người tin rằng họ sẽ thoát khỏi cơn giận dữ nếu xả nó ra, rằng nước mắt sẽ giải tỏa được nỗi đau. Điều này dựa vào một quan niệm tai hại đã được chứng minh là hoàn toàn sai lầm. Nó xuất phát từ kiến thức về cảm xúc thế kỷ 19, và sai cũng như quan niệm về trái đất phẳng vậy. Nó xem bộ não như một cái ấm đun nước mà cảm giác tiêu cực tạo nên áp suất bên trong. Để tránh phản ứng thái quá gây nguy hiểm, kiểu “tức nước vỡ bờ - lý thuyết này bảo vậy - những cảm giác này phải được xả ra. “Nào, hãy cứ khóc to lên và
tống khứ nó ra”, một người bạn chân tình thường khuyên nhủ bạn mình như thế.
Tất nhiên, cũng không thể phủ nhận tác dụng việc nói ra trải nghiệm của mình và chia sẻ cảm giác với ai đó thân thiết. Như một câu thành ngữ, có người tâm tình thì
“niềm vui nhân đôi, nỗi buồn xẻ nửa”. Còn đẩy mình chìm đắm trong hố sâu những cảm giác tiêu cực thì không giúp gì được. Chưa từng có nhà tâm lý học nào chứng minh được hiệu quả xoa dịu của những chiếc van kìm giữ nước mắt và giận dữ được cho là an toàn. Ngược lại, cách đây hơn bốn mươi năm, các nghiên cứu được kiểm nghiệm đã chỉ ra rằng những cơn giận có khả năng càng đổ thêm dầu vào lửa, và nước mắt càng dìm chúng ta sâu hơn vào phiền muộn.(13) Đầu ta không đơn giản như cái ấm đun nước, não ta gồm những hệ thống phức tạp hơn nhiều so với cái được thấy qua những bức ảnh chụp bởi Công nghệ thế kỷ 19.
Tính khí vui vẻ
Kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực là một trong những bí quyết của hạnh phúc. Cách chúng ta phản ứng lại những điều khó chịu liên quan mật thiết với trạng thái tinh thần khỏe mạnh tổng thể của ta. Khi Davidson khảo sát trạng thái tâm lý của đối tượng thí nghiệm, ông phát hiện ra rằng sự chiếm ưu thế vượt trội của phần bên trái hay phần bên phải trong thùy trước trán cũng được phản ảnh trong cuộc sống hằng ngày. Những người có não phải hoạt động mạnh hơn, ít kiểm soát cảm xúc tiêu cực hơn thường có xu hướng sống nội tâm, bi quan và hay nghi ngờ. Họ hay trầm trọng hóa những vấn đề nhỏ, có tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm tương đối cao và nói chung có xu hướng bất hạnh.
Ngược lại, những người có thùy trước trán bên trái hoạt động mạnh hơn thường tỏ ra vui vẻ, hướng ngoại. Họ luôn tự tin, lạc quan, tinh thần phấn chấn. Họ thấy dễ dàng gần gũi mọi người và dường như được sinh ra với khả năng luôn nhìn thấy phía tươi đẹp của cuộc sống.
Trong một thí nghiệm, Davidson đã lọc những cảnh từ cả phim vui lẫn phim gây căng thẳng, ví dụ như phim về lũ khỉ con chơi trong bồn tắm, hay một ca phẫu thuật khó khăn. Phản ứng của đối tượng thí nghiệm phụ thuộc vào ưu thế tương đối của não trái hay phải. Những người có não phải hoạt động mạnh hơn phản ứng với những phim khó chịu với nhiều ác cảm hơn và sợ hãi hơn những người thiên về não trái, trong khi những đối tượng thiên về não trái lại cười nhiều hơn và vui thích hơn khi xem những đoạn phim vui vẻ.(14) Vậy dường như não bộ của ta được tính cách hóa bằng một tâm trạng chiếm ưu thế, nó quyết định việc chúng ta phản ứng mạnh hay yếu đối với các kích thích khác nhau. Tùy vào tính khí, ta sẽ sống trong thế giới cơ bản là màu hồng hay màu xám.
Những khuynh hướng tâm trạng này không những ảnh hưởng trí não mà còn cả thể trạng. Davidson quan sát thấy những người có não trái chiếm ưu thế thường đề kháng bệnh tật tốt hơn. Họ có nhiều tế bào đề kháng trong máu hơn để tiêu diệt các vi rút và vi khuẩn. Các nhà khoa học đã chứng minh sự tác động của khuynh hướng cảm xúc đối với hệ thống miễn dịch bằng cách tiêm một lượng nhỏ vi rút cúm vào đối tượng thí nghiệm. Người có não trái tập trung càng nhiều hoạt động mạnh thì càng phản ứng tốt hơn với sự miễn dịch (để xác định vài tuần sau đó bởi số lượng kháng thể trong hệ thống miễn dịch của họ).(15)
Chúng ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu được hết những mối quan hệ này, nhưng có lẽ sự kiểm soát cảm giác hữu hiệu tạo ra một loại phản ứng dây chuyền. Những người có thùy trước trán bên trái hoạt động mạnh hơn thì ít
thiên về những cảm xúc tiêu cực, nếu có cũng không kéo dài, nên cơ thể của họ ít sản sinh ra hoóc môn gây căng thẳng hơn. Và chúng ta biết rằng, hoóc môn gây căng thẳng như cortisol trong một thời gian đủ dài có thể làm hệ thống miễn dịch yếu đi.
Davidson cho rằng khi chúng ta kiểm soát những cảm giác tiêu cực, đấy là chúng ta đang tăng hoạt động của nửa trái thùy trước trán. Những người cố gắng làm điều này không những sống hạnh phúc hơn mà còn đang làm lợi cho sức khỏe của mình.
Liệu có gien hạnh phúc?
Davidson ước tính rằng, tỉ lệ người thiên về hạnh phúc, bất hạnh và trung tính ít nhiều ngang nhau, phát hiện này đã được khẳng định bằng nhiều cuộc khảo sát khác. Khoảng một phần ba số đối tượng trong nghiên cứu của ông có hoạt động mạnh ở phần bên trái thùy trước trán, trong khi đó, một phần ba thiên về bên phải, một phần ba còn lại trung tính. Làm lại khảo sát vài tháng sau đều cho kết quả tương tự. Việc bên nào của thùy trước trận chiếm ưu thế hơn không phụ thuộc vào tình huống tại bất kỳ thời điểm cụ thể nào, mà là một hình vẻ của tính cách ta.
Tình trạng mất cân bằng giữa hai nửa bán cầu não này còn được chứng minh là tồn tại ở cả những đứa bé chưa đầy tuổi. Davidson nghiên cứu những đứa bé mười tháng tuổi và cũng quan sát thấy ở chúng mối quan hệ trực tiếp giữa ưu thế của bán cầu não và tính khí của đứa bé. Những bé mà não phải hoạt động mạnh hơn thì khóc tức thì ngay khi mẹ chúng vắng mặt, và dễ bị lo lắng bứt rứt hơn. Còn những bé mà não trái chiếm ưu thế thì khóc nhè ít hơn, và khi bị bỏ lại một mình, chúng có vẻ hào hứng bò đi khám phá khắp căn phòng (16)
Khuynh hướng cảm xúc tiêu cực hay tích cực này từ đâu ra? Bởi vì nó xuất hiện rất sớm trong đời, nên dường như các khuynh hướng hoạt động của não ít nhất cũng có phần là bẩm sinh. Vậy, hạnh phúc có di truyền không? Hay có gien hạnh phúc không?
11 (17) Chưa có ai phát triển ý tưởng về tính di truyền của hạnh phúc một cách đầy đủ như David Lykken, giáo sư tâm lý danh dự của Đại học Minnesota, người đã từng viết, “Việc cố gắng sao cho hạnh phúc hơn cũng vô ích không kém việc cố gắng tăng chiều cao... Công trình của Lykken đặt cơ sở trên nghiên cứu so sánh sâu rộng nhất từng được tiến hành trên các cặp song sinh. Ông đã thực hiện một cuộc khảo sát điều tra xem 1.500 cặp sinh đội trưởng thành hài lòng đến mức độ nào đối với cuộc sống của mình. 700 cặp trong số đó là sinh đôi cùng trứng, nghĩa là vật liệu di truyền của họ giống hệt nhau. Dù người này không biết câu trả lời của người kia, những người anh em sinh đôi cùng trứng thường trả lời giống nhau hơn nhiều so với những cặp anh em sinh đôi khác trứng (bộ gien khác nhau). Đối với Lykken, đây là bằng chứng cho thấy rằng hạnh phúc có thể bị ảnh hưởng bởi di truyền.
Sau đó, ông tiến hành nghiên cứu sâu hơn. Trong kho dữ liệu ông có về các cặp song sinh - tất cả họ đều Minnesota - có 69 cặp song sinh cùng trứng bị tách ra ngay sau khi sinh và được nuôi dưỡng trong những gia đình khác nhau. Liệu họ cũng trả lời câu hỏi về hạnh phúc giống nhau? Nếu đúng vậy, thì hạnh phúc khó có thể là kết quả của giáo dục và hoàn cảnh sống.
Thực tế, câu trả lời của các cặp đôi này cũng gần tương tự như các cặp đôi được lớn lên cùng nhau, từ đó Lykken đi đến kết luận, trạng thái vui vẻ và hạnh phúc ít nhất 50% là do di truyền.(18) Các phương tiện truyền thông của Mỹ và châu Âu, vốn bị mê hoặc bởi những cơ hội mới trong
nghiên cứu gien đem lại, đã nồng nhiệt nắm ngay lấy thông tin này. Điển hình của những phản ứng này là một bức tranh biếm họa xuất hiện trong một ấn bản năm 1996 của tờ The New Yorker, ngay sau khi Lykken công bố Công trình của mình. Nó miêu tả một người đàn ông trung niên đứng trước chiếc xe Rolls-Royce và một lâu đài có vườn tược xinh đẹp bao quanh, phàn nàn rằng, “Tôi phát khóc khi nghĩ đến những năm tháng phung phí để tích lũy của cải, chỉ để hiểu ra rằng tính khí vui vẻ của tôi là do di truyền.”
Chúng ta phải nghĩ về điều này như thế nào? Ngoài mối quan hệ đáng ngờ giữa tiền bạc và hạnh phúc, thì chắc chắn gien của ta có ảnh hưởng đến tính cách và theo đó, hướng ta theo chiều vui vẻ hay buồn bã. Điều này đã được chỉ ra một cách thuyết phục, ví dụ như, bệnh trầm cảm ít nhất một phần có nguồn gốc từ gien. Những người có người thân trực hệ bị trầm cảm có nguy cơ bị mắc bệnh trầm cảm cao gấp bốn lần so với người không kế thừa di truyền gian này. Nhiều loại bệnh tâm thần như tâm thần phân liệt cũng tương tự. Với các loại bệnh mà Lykken đã khảo sát, rõ ràng di truyền tác động vào khả năng hạnh phúc của mọi người. Và vì gien ảnh hưởng đến nguyên nhân gây bệnh và quá trình của bệnh tật, nên chúng có thể mang lại bất hạnh cho ta.
Gien không phải là định mệnh
Nhưng sẽ là quá võ đoán nếu ngoại suy từ những trường hợp cực đoan như vậy ra toàn xã hội, vì gien không hoạt động như một chương trình máy tính luôn làm các việc giống hệt nhau. Sự ảnh hưởng của một gien cụ thể đối với cơ thể phụ thuộc phần lớn vào những tương tác của nó với thế giới bên ngoài. Và không có phần nào của cơ thể mà những kích thích của môi
trường lại ảnh hưởng đến chức năng của gien nhiều như ở trong não bộ và hệ thần kinh, những phần cơ thể này, phân tích đến kỳ cùng, sẽ quyết định hạnh phúc hay bất hạnh.
Michael Meaney, nhà sinh học thần kinh của Đại học McGill, đã chứng minh được tầm quan trọng cốt tủy của thời kỳ ấu thơ đối với khả năng của những con chuột, ví dụ như khả năng đối phó với các tình huống khó khăn khi chúng trưởng thành. Lũ chuột con được mẹ liếm láp vuốt ve thì sau này sẽ chịu đựng áp lực tốt hơn nhiều so với những con không được mẹ chăm sóc chu đáo. Sự quan tâm mà bọn chuột con nhận được chính là nhân tố cốt yếu, chứ không phải là gian của chúng. Điều này được Meaney chứng minh rõ hơn bằng cách hoán đổi mẹ của những con chuột con. Bây giờ chuột mẹ chu đáo sẽ nuôi con của chuột mẹ cẩu thả, sau này chúng trở thành những con chuột trưởng thành cứng cáp và kiên cường. Còn lũ con của chuột mẹ chu đáo được hoán đổi cho chuột mẹ cẩu thả thì ngược lại, sau này tỏ ra yếu đuối khi chịu đựng áp lực.
Do vậy, gien không phải là định mệnh. Thêm nữa, không như những con chuột, loài người không phải được định hình trong thời thơ ấu một lần là xong. Davidson đã phát hiện ra điều gì đó khi ông phỏng vấn những người mà ông đã đo sóng não khi họ còn bé tí, quay lại phòng thí nghiệm của ông sau mười năm. Những đứa bé hồi ấy nay đã là học sinh, và mô hình sóng não của chúng cho thấy chẳng có mấy liên quan đến các sóng não mười năm trước. Rất nhiều trong số bọn trẻ mà trước đây nửa trái thùy trước trán chiếm ưu thế thì bây giờ lại thể hiện hoạt động mạnh nhất bên nửa phải. Và ngược lại. Điều này cho thấy kinh nghiệm của những năm tháng trải qua đã ảnh hưởng đến tính khí của chúng mạnh thế nào.
Não bộ có thể thay đổi khi con người trưởng thành. Đôi khi nguyên nhân đến từ bên ngoài: những trải nghiệm mới thường thay đổi nhận thức
của ta. Nhưng não bộ thì có khả năng làm những thứ thậm chí đáng kinh ngạc hơn nhiều. Nó có thể tái lập trình chính nó.
Sự rèn luyện tâm trí của chính ta có thể giải thích cho hoạt động mạnh nhất của thùy trước trán bên trái mà Richard Davidson đã đo được trong suốt hai thập kỷ nghiên cứu. Đối tượng trong nghiên cứu ấy là một nhà sư Tây Tạng, ông bay đến từ châu Á, và trải qua trên mười nghìn giờ ngồi thiền.
4
Bộ não có thể rèn luyện
Bạn có thích ăn ớt hạt tiêu không? Nếu có, thì chắc là chỉ cắn từng miếng nhỏ, và theo quan điểm của cơ thể, bạn đã hành động đúng. Theo như lời tác giả Ấn Độ Amal Nai, ớt là “quả ăn được duy nhất trên trái đất biết cắn lại”.1 Cùi ớt có chứa capsaicin, một hợp chất nitơ kích thích màng nhầy và tấn công dây thần kinh cảm thụ có phản ứng với nhiệt, khiến ta cảm thấy nó như cơn đau cháy bỏng. Người Trung Hoa cổ đại đã biết dùng bom ớt để chiến đấu, và ngày nay cảnh sát dùng bình xịt hơi cay có chất capsaicin. Thậm chí chỉ nghĩ đến việc cắn vào quả ớt và để cho cảm giác cay từ hạt của nó lan truyền khắp lưỡi cũng đủ khiến ta rùng mình.
Nhưng có hơn một tỉ người thích thú cảm giác này. Bởi vì người Mexico, người Ấn, người Thái xài ớt không phải bằng nhúm nhỏ mà bằng cả muỗng, ớt được dùng trên khắp thế giới ngày nay nhiều hơn bất kỳ gia vị nào khác. Ớt là linh hồn món ăn của nhiều quốc gia, và rất nhiều người chỉ có thể thưởng thức được món ăn khi mà miệng họ như đang cháy, vì ớt làm thay đổi thói quen ăn uống của chúng ta. Vị trái cây và vị ngọt thì khác - những người nghiện ớt sẽ nói chúng có vị ngon hơn - khi được nhìn nhận như một thứ phụ thêm cho đồ ăn nhiều gia vị. “Nó có vị như tờ giấy ấy!”, đấy là phản ứng của một người Ấn khi gặp món rau mà theo tiêu chuẩn của người Âu đã là quá nhiều gia vị.
Người sống ở những vùng nóng hơn trên thế giới có gien khác chăng? Hay các món cà ri và món thịt bò hầm đậu đỏ ớt cay đã giết hết các nụ vị
giác của họ? Không lý do nào trong cả hai đúng cả. Chất capsaicin kích thích màng nhầy của những người thường xuyên tiếp xúc với nó không ít hơn so với những người khác. Ví dụ, người Ấn chữa cay bằng sữa chua. Tuy nhiên có một thứ khác nữa giúp làm dịu bớt vị cay. Việc đó không xảy ra ở miệng mà là ở não. Những người thích ớt đã học được cách yêu loại cảm giác đau đớn khiến người khác sợ hãi này.
Hầu hết những người thích gia vị đều quen với nó từ hồi trẻ con, chủ yếu là giữa tầm bốn đến bảy tuổi, đôi khi sớm hơn. Hồi ở Ấn Độ, tôi đã chứng kiến một bà mẹ nhét một mẩu hành vào mồm đứa bé đang gào lên vì mọc răng, và đứa bé nín ngay. Nhưng người lớn cũng có thể học cách để thích nghi. Thậm chí cả người Mỹ luôn ăn đồ ăn có gia vị trung tính cũng có thể học cách thưởng thức món ớt như đã được chứng minh qua các thí nghiệm ở Đại học Pennsylvania. Điều đáng chú ý là người tiến hành thí nghiệm tăng dần lượng ớt lên và không tiếc lời khen món ăn ngon. Đầu tiên đối tượng thí nghiệm còn ngập ngừng vì không muốn lộ ra cảm giác thật của họ trước mặt mọi người, nhưng càng quen với gia vị thì họ càng thấy nó ngon hơn.(2)
Việc người ta ăn ớt tự nguyện rất đáng chú ý, bởi vì việc thích hay ghét vị đặc biệt nào đó rất khó được lập trình sâu đến vậy trong não bộ của ta. Chúng ta rất khoái vị ngọt, nhưng lại nhăn mặt lại khi nếm cái gì quá đắng. Những khuynh hướng này là di sản của tiến hóa và chúng ta cũng chia sẻ nó với những động vật khác như chuột, mèo và khỉ. Nhưng không một loại động vật nào dám thử món khiến chúng đau. Chuột ở Mexico thà chết đói chứ không chịu ăn những thức ăn cay thừa lại trong thùng rác. Và những thí nghiệm Cố gắng làm cho loài vật có thể thay đổi ác cảm với món ăn cay đều thất bại. 3)
Cảm giác của loài người, ngược lại, rất linh hoạt, chúng ta có thể học để thích thú với những thứ mà bẩm sinh hoàn toàn không quan tâm, thậm chí cả những thứ chúng ta thấy rất kinh tởm.
Hành trình đến những cảm giác mới
Khi chúng ta trải nghiệm những thay đổi loại này, não bộ của ta được lập trình lại - điều mà cho đến gần đây các nhà khoa học vẫn còn nghĩ là không thể. Thay vào đó, họ cho rằng mô tế bào chất xám và các đuôi gai (dendrite) dưới đỉnh sọ não kia là một cấu trúc rất phức tạp, được thiết định xong xuôi tại một thời điểm nào đó trước hoặc ngay sau khi ta ra đời và hầu như không thay đổi trong suốt quá trình sống. Chúng ta mới chỉ biết được quan điểm này là sai như thế nào trong vài năm gần đây. Không một hệ thống tự nhiên nào lại có khả năng thay đổi như bộ não con người.
Để thưởng thức được quả ớt, cần biết rằng nó liên quan đến cái đau, nhưng cũng có thể có những cách nhẹ nhàng hơn làm tăng sự thích thú của ta. Chúng ta có thể học cách phân biệt các vị khác nhau của rượu vang, học cách đánh giá một mối quen biết sau này có thể trở thành bạn, và học tạo thói quen biết ngỡ ngàng đôi chút trước ánh ban mai rồi mới vùi đầu đọc báo.
Chúng ta học được ở từng dịp như thế, là bởi chúng ta đã đạt được một cách trải nghiệm mới hay cách mới để làm gì đó. Và cũng như sự khởi đầu một tình bạn mới khác với việc nếm một chai vang Bordeaux hảo hạng - một việc vốn còn tinh tế hơn - các quá trình cơ bản trong não cũng khác nhau như vậy: Có cái gì đó hoạt động khác trước đây. Những kết nối mới được tạo thành trong mạng tế bào thần kinh của ta.
Cảm xúc là phản ứng của cơ thể ta đối với các kích thích. Khi có một tiếng động lớn bất ngờ phía sau, chúng ta hoảng sợ, khi nhìn thấy một khuôn mặt thân thuộc, chúng ta hạnh phúc. Có hai cách thay đổi cảm giác của ta. Chúng ta có thể thay đổi những kích thích bên ngoài mà ta đang phải đối mặt, hoặc chúng ta học nhận thức các kích thích này khác đi, tức là thay đổi cách não ta phản ứng với chúng. Nếu không muốn chịu đựng miếng ớt cay xè trong miệng, ta có thể tránh các món cay, hoặc có thể học thưởng thức cảm giác cháy bỏng trên đầu lưỡi.
Thế giới được tạo ra trong đầu ta
Nhà văn Đức Heinrich von Kleist13 từng viết rằng nghệ thuật sống nằm ở việc hút mật từ mỗi bông hoa.” Nhưng đấy mới chỉ là một phần của sự thật. Điều đó chưa đủ để có được mật hoa trọn vẹn: chúng ta còn phải biết cách thưởng thức nó.
Thế giới chúng ta trải nghiệm về cơ bản được tạo ra trong trí não ta. Thậm chí cả những quá trình nhận thức đơn giản nhất cũng khiến bộ não mất nhiều bước để xử lý dữ liệu thô mà các cơ quan thụ cảm truyền đến. Khi xem một bộ phim, não bộ ta tự động tạo ra những ảo ảnh về chuyển động, dù chỉ có những hình ảnh đơn lẻ lập lòe trên màn hình. Khi ăn một quả táo, ta cảm được vị ngon của táo trên đầu lưỡi, mặc dù cảm nhận về mùi góp phần ít nhất cũng tương đương với cảm nhận về vị cho sự lĩnh hội của ta về quả táo. Nếu như cả mũi lẫn mắt đều bị bịt lại, ta khó lòng phân biệt được đâu là quả táo, đâu là củ khoai tây sống
Qua thực hành, ít nhất chúng ta cũng có khả năng nào đó để tác động lên quá trình xử lý dữ liệu nhiều bước nằm giữa một kích thích và sự phản ứng lại kích thích đó của ta. Ví dụ, chúng ta có khả năng phát triển giác
quan ngửi và nếm một cách chính xác đến nỗi chỉ cần ngửi là có thể phân biệt được các dòng rượu vang Bordeaux khác nhau. Nhưng chúng ta cũng có thể học cách ít bận tâm hơn đến con nóng giận của một cộng sự nóng nảy. Đây cũng chính là phần thưởng mà khả năng thích nghi của bộ não con người mang lại cho ta.
Theo khía cạnh này, chúng ta mới hiểu loài người phi thường như thế nào khi so sánh với các loài khác. Nhà khoa học thần kinh người Đức Gerhard Roth đã cố gắng đo xem nhận thức và phản ứng của não bộ đã được nhạy cảm hóa
đến mức độ nào trong quá trình tiến hóa. Mạch thần kinh của con giun dẹp (loài có hệ thần kinh đơn giản nhất trong tất cả) phản ứng với mỗi kích thích bên ngoài bằng một xung động duy nhất. Đó là lý do tại sao hành vi của con gian hoàn toàn bị ngoại cảnh quy định: nó giống y một con rối giơ tay lên khi bị giật dây. Nhưng con kỳ nhông, cũng được Roth nghiên cứu kỹ, phản ứng đối với mỗi tín hiệu ngoại cảnh được truyền tiếp qua các cơ quan thụ cảm với vài nghìn xung động phát ra từ bộ não có kích thước bằng đầu kim. Thậm chí những loài động vật nguyên thủy cũng bị điều khiển không chỉ bởi môi trường của nó mà còn bởi một cuộc sống đơn giản bên trong. Vì lý do này, Roth không phải lúc nào cũng có thể phán đoán được các động vật lưỡng cư sẽ phản ứng lại ra sao với một kích thích cụ thể. Đôi khi chúng đón con ruồi được dâng tận miệng, mặc dù vừa ăn no xong. Nhưng một lần khác, dù đã mấy ngày không ăn, chúng vẫn từ chối thức ăn. Roth ước tính rằng, người thông minh chúng ta, với hệ thần kinh phức tạp hơn nhiều, sẽ phản ứng lại với mỗi tín hiệu ngoại cảnh bằng vài triệu xung động bên trong. Bộ não là cơ quan đầu tiên và trước hết tham gia vào những hoạt động của chính nó. Bởi vì phần lớn cảm giác đều tự ta tạo ra.)
Những kỹ thuật đã được kiểm chứng chắc chắn nhất của tâm lý trị liệu đều dựa trên nền kiến thức này. Đặc biệt, liệu pháp hành vi dạy chúng ta cách phản ứng trước những cảm giác khác với những cảm giác chúng ta vốn đã quen, cho phép chẳng hạn như một người mắc bệnh xấu hổ vượt qua được nỗi sợ chỗ đông người. Thậm chí đã từng xảy ra trường hợp sau khi trị liệu hành vi, một người sợ nhện có thể để cho một con nhện độc tarantula đầy lông lá bò trên tay mình. Mục đích của tâm lý trị liệu ở đây nhìn chung là giúp bệnh nhân kiểm soát được cảm xúc tiêu cực mà họ đã trải nghiệm như những giới hạn đáng sợ. Nó nhằm kéo mọi người thoát ra khỏi nỗi đau đớn sâu thẳm trong lòng. Nhưng những phương pháp tương tự cũng có thể được dùng để tăng cường cảm giác tích cực và giúp chúng ta trên con đường hướng đến hạnh phúc.
Có phải lòng biết ơn mới mẻ dành cho tia nắng sớm sáng nay đã nâng dậy tinh thần ta, hay là ngược lại, ta nhìn ngắm đắm đuối hơn những màu sắc của bầu trời bởi vì ta cảm thấy sảng khoái hơn? Câu trả lời là cả hai. Trong não bộ của ta, và do đó trong cách ta trải nghiệm, nguyên nhân và kết quả hiếm khi tách rời nhau. Con gà hay quả trứng có trước thường là một câu hỏi không đáng hỏi. Như chúng ta đã biết, hầu hết mạch thần kinh trong não bộ được kết nối chặt chẽ với nhau đến nỗi gần như mọi trải nghiệm đều có thể tự hoạt động ngược trở lại dựa trên chính nó - một nguyên tắc mà trong Công nghệ gọi là phản hồi. Khi sử dụng cơ chế này đúng cách, chúng ta tạo ra một vòng xoắn ốc chuyển động đi lên có tác động không ngừng tăng lên não bộ: chúng ta đang học những cảm giác tích cực.
Cuộc đào tạo của triết gia
Giống như hầu hết những ý tưởng tốt đẹp khác, ý tưởng rằng chúng ta có thể ngăn được bất hạnh và học được hạnh phúc xuất phát từ một truyền thống lâu đời. Các triết gia Hy Lạp cổ đại gọi việc cố gắng làm chủ được cảm giác của mình bằng cách tự kiểm soát là askesis. Ngày nay chúng ta thường có xu hướng liên tưởng chủ nghĩa khổ hạnh (asceticism)14 với sự diệt trừ cái tôi và nghĩ về những người nhịn ăn, tự đánh đập mình bằng roi bạch dương. Song những thứ này mới xuất hiện từ thời Trung cổ. Thời Hy Lạp cổ đại, askesis chỉ đơn giản có nghĩa là “luyện tập”. “Mọi thứ đều là luyện tập” là câu nói được cho là của Periandrosul15, một trong những tư tưởng gia sớm nhất trong lịch sử triết học.
Những triết gia về sau đã mở những nơi về bản chất là trường học hạnh phúc để rèn luyện trí óc cho học trò của họ. Sự chia tách giữa khoa học và nghệ thuật sống như ngày nay đối với họ là một điều xa lạ. Trong khi ở thời đại của chúng ta triết học thường được quan niệm là môn cung cấp một nền tảng lý thuyết cho kiến thức, thì các triết gia Hy Lạp và La Mã nghĩ rằng sự hiểu biết chỉ có tác dụng khi mọi người được đào tạo để áp dụng chúng. “Triết học bao gồm hai phần”, triết gia Khắc kỷ AristonII) đảo Chios giải thích. “Người hiểu đúng cái gì phải làm và cái gì nên tránh chưa phải là người thông thái, và sẽ không phải người thông thái chừng nào trí óc anh ta chưa hòa trộn hoàn toàn với những điều đã được nó thừa nhận là đúng và sai.” (6)
Mục đích của các triết gia là nhằm hình thành tính cách của học trò để họ có thể sống một cuộc sống hạnh phúc và cân bằng hơn. Vấn đề mấu chốt là việc lặp lại có mục đích một số trải nghiệm nhất định. Người thầy có cả kho các bài tập luyện để tạo cho học trò quen với các quy tắc của hạnh phúc. Họ gọi chuỗi hành động này - theo đó dùng lý trí để khuất phục
lòng tham lam, sự ghen tuông và nỗi sợ chết - là phương pháp trị liệu. Học trò luôn phải tự nhắc nhở mình liên tục rằng những cảm giác tiêu cực là có tính phá hoại, để dần dần có thể giải thoát đầu óc mình khỏi những cảm giác đó.
Thêm nữa, những bài tập luyện tăng độ nhạy cảm được đặt ra để giúp học trò mở rộng ý thức cho những cảm giác tích cực. Với tuyên bố rằng không ai có thể làm chủ được tương lai, Epicurus16 khuyến cáo học trò của mình không nên hoãn sự sung sướng lại. Ở đây, người thầy cũng nhấn mạnh sức mạnh của thói quen hơn là lời nói. Trước khi đi ngủ mỗi buổi tối, học trò phải tự hỏi mình xem trong suốt cả ngày họ có sống theo phương châm tận hưởng hiện tại17 không.” (7)
Cuối cùng, học trò được yêu cầu luyện những bài tập mà trong đó họ sẽ hình dung ra một góc nhìn bên ngoài mình để quan sát xem những lo lắng và nhu cầu của họ tầm thường như thế nào khi đứng từ ngoài trông vào. Trong Vườn Epicurell18- là cụm từ mà triết phái này tự gọi mình - việc hình dung ra phản ứng bình tĩnh của Thầy đối với mỗi tình huống cụ thể là chuyện bình thường. Ngày nay, các nhà khoa học thần kinh đã xác nhận giá trị của việc rèn luyện tinh thần theo cách này, bởi vì trí tưởng tượng có thể định hình não bộ đến mức độ gần bằng như trải nghiệm thực tế (8)
Trong tập thơ Metamorphoses (Biến đổi), nhà thơ Ovid19 còn làm một cuộc hành trình vào trong vũ trụ để thực hành hạnh phúc: “Tôi hân hoan trong hành trình giữa những vì sao xa; tôi hân hoan bỏ lại trái đất cùng những khoảng không u ám, để cưỡi lên những đám mây, tôi đứng trên vai Atlas khổng lồ,từ cao tít nhìn xuống loài người, rồi lang thang đâu đó, lòng rũ sạch tri thức, lo lắng và nỗi sợ chết.” (9)
Tái thiết não bộ
Hơn hai nghìn năm sau Ovid, nhà tâm lý học Ivan Pavlov đã tiến hành một loạt thí nghiệm tại bệnh viện thuộc trường đại học ở St. Perterburg. Ông nhận thấy rằng, những con chó chỉ cần nhìn thấy ông mặc áo khoác thí nghiệm vào buổi trưa là đã bắt đầu chảy nước miếng. Một người thờ ơ hơn hẳn sẽ đồ rằng lũ chó đang mong chờ bữa ăn của chúng và không nghĩ gì thêm. Nhưng Pavlov, nhà nghiên cứu đầy nhiệt huyết, thì lại muốn biết nhiều hơn thế: Làm thế nào lũ chó học được cách phản ứng tích cực này?
Đầu tiên, ông khởi động một cái máy tạo nhịp gõ. Sau đó ông rải bột thịt trước mũi lũ chó. Ông gom nước bọt và dịch tiêu hóa của chúng lại, đổ qua phễu vào ống dẫn đến một xi lanh bằng giấy có thể quay tròn được. Theo cách này, ông có thể xác định chính xác khi nào lũ chó đói. Sau một khoảng thời gian, nước bọt bắt đầu tiết ra ngay khi lũ chó nghe tiếng gõ của máy tạo nhịp,ngay cả khi ông không cho chúng tế thịt nào. Từng bước,Pavlov làm thay đổi phản ứng thèm ăn tự nhiên của lũ chó. Ông đã khám phá ra cơ sở của sự học.
Với những thí nghiệm này, Pavlov giành được giải Nobel năm 1904, và lũ chó của ông trở thành những con vật thí nghiệm nổi tiếng nhất trong lịch sử. Ông trở thành một trong những nhà khoa học đầu tiên đặt những khám phá tâm lý của mình dựa trên những chứng cứ có thể tái tạo. Nhưng tại thời điểm đó không ai có thể hiểu được bộ não của lũ chó làm việc như thế nào để giải thích cho hành vị của chúng.
Phải mất nhiều thập kỷ cho đến khi các nhà khoa học làm sáng tỏ được bí mật của quá trình học. Đầu tiên, họ phải tìm cách tiếp cận đơn vị nhỏ nhất của não bộ, các tế bào thần kinh. Để thay đổi hành vi và cảm xúc của
ta, não bộ phải thay đổi, và những thay đổi này bắt nguồn từ các tế bào thần kinh.
Mỗi tế bào chất xám này hoạt động như một cái máy tính tí hon, và mỗi tế bào thần kinh đều được kết nối với nhau sao cho các tín hiệu của chúng có thể tích hợp lại và gửi tới cả nghìn tế bào thần kinh khác. Nhưng các tế bào này có thể tự thay đổi cách thức chúng xử lý những tín hiệu đến. So sánh với các tế bào thần kinh thì máy tính để bàn thực sự là loại máy móc cứng đầu. Nếu máy tính cá nhân, với tất cả quyền năng của nó, có một khả năng tương tự, thì chúng hẳn sẽ có khả năng thích nghi - và ương ngạnh - như một con vật nuôi biết cảm nhận và tự thay đổi theo những ý thích và không thích của chủ nó.
Nhưng làm sao những tế bào nhỏ xíu ấy, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, lại có thể làm được kỳ tích như vậy? Chúng hoạt động theo kiểu “cái gì giống nhau thì cuốn hút nhau”. Mọi tế bào thần kinh đều thích nghi với môi trường xung quanh chúng, hoặc chính xác hơn là, với những tín hiệu mà chúng tiếp nhận từ “xóm giềng”. Các tế bào thần kinh không truyền tín hiệu theo kiểu dòng chảy. Chúng phát nổ hàng loạt. Khi hai tế bào cùng nổ liên tục tại một thời điểm, thì mối liên kết giữa chúng, còn gọi là khớp thần kinh, sẽ trở nên bền vững. Theo như các nhà kinh học, “Những tế bào phát nổ cùng nhau sẽ kết nối với nhau”.
Và đó chính là điều xảy ra trong não bộ những con chó thí nghiệm của Pavlov. Bởi ông đã bật máy tạo nhịp gõ trùng với lúc cho những con chó ăn, nên hai tổ hợp tế bào thần kinh trong não lũ chó phản ứng với thịt” và “tiếng gõ của máy tạo nhịp” cùng nổ tại một thời điểm. Tần suất sự việc xảy ra càng lớn thì mối liên kết giữa các tế bào thần kinh càng mạnh. Sau một khoảng thời gian, sự liên kết mạnh đến nỗi những tế bào phát nổ khi
phản ứng lại tiếng gõ đã kích hoạt luôn mạch thần kinh thèm ăn tại cùng thời điểm - hệt như quân cờ domino làm đổ quân tiếp theo. Cái nguyên tắc rằng những thứ có liên quan với nhau thì hợp lực với nhau là rất thích đáng trong sinh học, và cũng áp dụng cho cả não bộ. Nó giải thích tại sao sau bao nhiêu năm từ khi bị bỏng vì cái bếp lò, ta vẫn còn nhớ. Nhờ một số trải nghiệm đau đớn thời niên thiếu, trí óc ta vẫn ghi nhớ được mối liên kết mạnh giữa “bếp lò” và “nóng” đến mức mỗi khi tiếp xúc với bếp lò ta đều hết sức cẩn trong một cách vô thức.
Sự rèn tập tạo ra những kết nối này gọi là Luật Hebb về sự học, sau khi nhà tâm lý học người Canada Donald Hebb, ngay từ năm 1949 đã phỏng đoán chính xác rằng mỗi tế bào thần kinh đơn lẻ đều chịu trách nhiệm cho việc học. Mọi sự học đều vận hành theo nguyên tắc này, dù đấy là ghi nhớ từ vựng, luyện các bước của điệu nhảy mới, hay bắt đầu thưởng thức mùi vị của một loại quả lạ - trong môi trường hợp đó, chúng ta đều đang thay đổi hàng trăm kết nối giữa các khớp thần kinh trong não bộ của ta.
NÃO BỘ ĐANG HỌC
Não bộ bao gồm 100 tỉ tế bào thần kinh, mỗi tế bào hoạt động như một máy tính nhỏ. Thông qua một mạng gồm nhiều các nhánh, các đuôi gai, tế bào nhận xung động thần kinh từ những tế bào thần kinh khác. Nó xử lý những xung động này và gửi kết quả qua lối ra của nó, gọi là sợi trục thần kinh (axon), tới các tế bào thần kinh khác. Chỗ tiếp xúc giữa hai tế bào thần kinh gọi là khớp thần kinh (hình phóng to bên trái). Khi có một xung động thần kinh xuất hiện, chất truyền dẫn thần kinh (ví dụ như dopamine phân tử tạo cảm giác hạnh phúc) sẽ được giải phóng. Phía bên kia của khớp thần kinh là các cơ quan tiếp nhận những chất truyền dẫn đã được giải phóng này. Chúng nhận những tín hiệu hóa học này và giải phóng ra một xung động thần kinh mới. Khi ta học điều gì đó, cấu trúc của những tế bào này sẽ thay đổi. Quá trình xử lý bên trong mỗi tế bào và thậm chí cả hình dáng của các tế bào thần kinh cũng thay đổi. Ở một số chỗ, các đuôi gai có thể biến mất, và mạng mới sẽ sinh ra ở đâu đó. Như vậy, các tế bào thần kinh thay đổi liên tục, như cây cối trong một khu vườn.
Quan sát mạng dây thần kinh thay đổi
Khi bạn đọc xong cuốn sách này,não của bạn trông sẽ khác so với trước khi đọc. Những thay đổi của tín hiệu điện trong các tế bào thần kinh không những đo được qua thí nghiệm, mà còn có thể quan sát được trực tiếp trong não bộ. Phép màu nhỏ bé này trở thành hiện thực nhờ nhà sinh học thần kinh người Đức Tobias Bonhoeffer vào năm 1999. Với loại kính hiển vi mới, ông đã quan sát và ghi hình được những tế bào thần kinh sống đang thay đổi.10) Sử dụng mô thần kinh của chuột, ông đã cho những tế bào thần kinh sống lấy từ một phần của não bộ đóng vai trò quan trọng trong trí nhớ dài hạn vào một dung dịch chất nuôi dưỡng, đánh dấu từng tế bào bằng một vệt phát quang, và kết nối chúng với những dây điện siêu mỏng. Bằng cách lặp đi lặp lại những xung điện cưỡng bức hại tế bào thần kinh cùng một thời điểm, ông đã kích hoạt hai nhận thức tương ứng, như hai tín
hiệu “bếp lò” và “nóng”. Sau khoảng nửa giờ đồng hồ, các cục u xuất hiện từ đuôi gai của các tế bào thần kinh, còn gọi là các nhú lồi của đuôi gai (dendritic spine), tạo nên kết nối giữa các tế bào thần kinh. Và một kết nối mới giữa các khớp thần kinh trong não đã được hình thành.(11)
Những thước phim của Bonhoeffer không những là hình ảnh ngoạn mục về bộ não trong trạng thái biến đổi mà còn đưa ta đến tận cốt lõi của quá trình.
Trước tiên, sự lặp đi lặp lại đóng một vai trò quyết định. Tần số kích hoạt các tế bào thần kinh càng cao thì khả năng kết nối bền vững được thiết lập càng chắc chắn. Càng bấm một số điện thoại nhiều lần, ta càng nhớ số đó nhanh hơn. Việc học các phản ứng cảm xúc cũng diễn ra tương tự như vậy. Một khi các kết nối đã được tạo ra, thì sự lặp lại sẽ duy trì chúng.
Thứ hai, việc học diễn ra tự động. Những tế bào thần kinh mà Bonhoeffer thí nghiệm không hề nhận một mệnh lệnh nào rằng có cái gì đó nó phải học ngay. Xét cho cùng, chúng đã được tách hẳn ra khỏi bộ não. Dẫu sao thì việc tạo ra những kết nối mới đơn giản là bởi vì các kích thích xảy đến cùng một thời điểm. Mọi thứ chúng ta nhận biết, cảm nhận hoặc suy nghĩ đều thay đổi não bộ của ta, dù ta Có muốn hay không.
Vấn đề chỗ đỗ xe
Giống như những nếp cười in đậm trên khuôn mặt những người thường xuyên hạnh phúc, cảm giác cũng để lại những dấu ấn của nó trong não bộ. Tác dụng của việc lặp đi lặp lại cảm xúc buồn hoặc vui cũng giống như những giọt nước rơi tí tách xuống từ mái nhà. Mỗi giọt biến mất nhanh chóng, nhưng qua thời gian, hằng hà sa số hạt có thể tạo thành cả