🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 48 Nguyên Tắc Chủ Chốt Của Quyền Lực - Robert Greene & Joost Elffers full prc pdf epub azw3 [Quản trị]
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Robert Greene & Joost Elffers - The 48 Laws of Power 48 NGUYÊN TẮC CHỦ CHỐT CỦA QUYỀN LỰC Dịch giả: Nguyễn Minh Hoàng
Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
LỜI NÓI ĐẦU
Nói chung, chúng ta không thể nào chịu nổi cái cảm giác rằng mình không có tí ti quyền lực nào đối với những con người và sự kiện quanh ta. Ai cũng muốn có nhiều quyền lực hơn, không ai muốn nhường bớt. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay, thật nguy hiểm khi để mọi người nhìn thấy mình quá khát khao quyền lực, hoặc quá lộ liễu trong việc mưu cầu quyền lực. Chúng ta phải tỏ ra vừa phải và biết điều. Vì vậy ta cần phải tinh vi – tỏ ra tương đắc nhưng bên trong thì láu lỉnh, bề ngoài dân chủ nhưng lòng dạ lại thủ đoạn.
Trò chơi hai mang này giống với việc mưu cầu quyền lực từng tồn tại ở các triều đình xưa kia. Điểm lại lịch sử, ta thấy một triều đình tự hình thành quanh người quyền lực – nhà vua, hoàng hậu, hoàng đế, lãnh tụ. Các quần thần trong những triều đình ấy chiếm một vị thế hết sức tế nhị: Họ phải phục vụ chủ nhân, nhưng nếu tỏ ra quá xum xoe, nếu cầu xin ân huệ một các quá lộ liễu, những triều thần khác sẽ chú ý và hãm hại. Vì vậy mọi cố gắng để lấy lòng quan thầy đều phải hết sức tinh vi. Ngay cả những triều thần tài ba nhất, tinh tế nhất cũng phải có phương cách tự vệ đối với bạn đồng triều, những người bạn ấy luôn tìm cách hất chân anh ra khỏi vị trí vốn đang được chiếu cố.
Thế mà lẽ ra triều đình phải đại diện cho đỉnh cao của văn minh và tao nhã. Mọi động thái mưu cầu quyền lực quá tàn bạo hoặc công khai sẽ bị chỉ trỏ. Các quần thần sẽ hành động âm thầm và bí mật để chống lại những đồng liêu nào dùng bạo lực. Đó chính là tình huống khó xử của một triều thần: Một mặt phải chứng minh ta là điển hình của lịch lãm, mặt khác phải khôn ngoan để đánh bại đối thủ bằng những phương cách tinh vi nhất. Qua thời gian, một triều thần thành công hiểu rằng mọi nước cờ đều phải gián tiếp, nếu muốn đâm sau lưng bạn đồng liêu thì phải mang găng nhung, mặt phải nở nụ cười ngọt lịm nhất. Thay vì phải áp bức hay phản bội, một triều thần hoàn hảo đạt đến mục đích bằng sự cám dỗ, mê hoặc, lừa bịp, và chiến lược tinh vi, luôn phải dự kiến sẵn sàng nhiều nước cờ. Cuộc sống ở triều đình là thứ trò chơi không bao giờ kết thúc, nó đòi hỏi người ta phải cảnh giác thường xuyên và tư duy chiến thuật. Đó là một cuộc chiến văn minh.
Ngày nay chúng ta chứng kiến một nghịch lý tương tự đối với cách hành xử của một triều thần: Mọi hành động đều phải có vẻ văn minh, tử tế, dân chủ, và công bằng. Nhưng nếu ngây thơ chơi đúng theo những quy tắc ấy, ta sẽ bị nghiền nát bởi những thành phần không dại dột gì tuân theo. Như nhà ngoại giao nổi tiếng thời Phục hưng là Niccolò Machiavelli nhận xét, “ Bất kỳ người nào cố gắng để luôn tử tế, thì chắc chắn sẽ tàn lụi giữa số đông không tử tế.“
Triều đình tự tạo cho mình hình ảnh của đỉnh cao tao nhã, nhưng bên dưới cái vẻ lung linh đó là một hỏa lò sục sôi những tình cảm đen tối – tham lam, ganh tỵ, dục vọng, ghen ghét. Thế giới chúng ta ngày nay tưởng tượng rằng mình là đỉnh cao công bằng, song những tình cảm xấu xa ấy vẫn khuấy động trong ta, như vẫn luôn khuấy động tự bao giờ. Cuộc chơi vẫn là một. Bề ngoài ta tỏ vẻ tuân theo lối chơi đẹp, nhưng bên trong, trừ khi quá ngây thơ khờ dại, ta nhanh chóng học bài cẩn trọng, và hành động như Napoléon từng khuyên nhủ: “Bàn tay sắt bên trong cái găng nhung“. Nếu tựa như một triều thần của thời xa xưa trước, ta có thể thành thạo nghệ thuật đánh lạc hướng, biết cách quyến rũ, mê hoặc, lừa bịp, và tinh vi đánh lừa các đối thủ, thì ta sẽ đạt đỉnh cao quyền lực. Ta sẽ có khả năng làm người khác thuận theo ý chí ta, mà họ không hề ngờ ta đang điều khiển họ. Và nếu không hề ngờ, thì họ sẽ không bao giờ cay cú hoặc kháng cự ta.
Đối với nhiều người, việc chơi trò quyền lực[1] một cách có ý thức – cho dù chỉ là gián tiếp – có vẻ như xấu xa, phi xã hội, như một di tích của quá khứ. Họ bảo là mình có thể rút chân ra khỏi cuộc chơi, bằng cách xử sự như thể họ không dính dáng gì đến quyền lực. Ta cần phải đề phòng dạng người này, bởi vì ngoài miệng nói như vậy, song thật ra thường khi họ lại là những tay chơi thứ thiệt. Đó là những chiến lược khôn ngoan để nghi trang bản chất của sự thao túng đang được sử dụng. Chăng hạn như họ muốn cho người khác thấy rằng sự yếu đuối và không có quyền lực mới là quân tử. Nhưng người thật sự không có quyền lực, nếu không vì động cơ hoặc tư lợi nào, thì sẽ không phô trương sự yếu đuối của mình, thật ra đó là một chiến lược rất hiệu quả, tinh vi và mang tính lừa đảo, trong trò chơi quyền lực (xem Nguyên tắc 22, Chiến thuật Quy hàng).
Một chiến lược khác của người mưu cầu quyền lực là đòi hỏi sự công bằng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ai ai cũng phải được đối xử bình đẳng, cho dù thân thế hay quyền lực họ như thế nào. Nhưng nếu vì
không muốn mang tiếng là trò chơi quyền lực mà ta phải đối xử bình đẳng với mọi người, thì ta xử trí như thế nào đây khi có người này giỏi hơn người khác? Đối xử bình đẳng có nghĩa là phớt lờ những dị biệt giữa mọi người, nâng người dở lên và hạ người giỏi xuống. Một lần nữa, ta cần nhớ rằng những người cổ xúy bình đẳng như thế, thật ra họ đang triển khai một chiến lược quyền lực khác, nhằm tái phân phối phúc lợi cho mọi người theo cách họ muốn.
Vậy hóa ra để tránh tham dự vào trò chơi quyền lực, ta phải tuyệt đối lương thiện và trung thực, bởi vì bọn tranh giành quyền lực thường lừa đảo và bí hiểm. Nhưng thái độ tuyệt đối lương thiện chắc chắn sẽ xúc phạm rất nhiều người, và vài người trong số đó sẽ quật lại ta. Sẽ không ai xem thái độ lương thiện của ta là hoàn toàn khách quan, hoàn toàn không có động cơ cá nhân nào. Và họ đúng: Thật ra việc sử dụng sự lương thiện chỉ là một chiến lược quyền lực, nhằm thuyết phục người khác tin rằng ta cao thượng, hảo tâm, và vô vụ lợi. Đó chỉ là một hình thức thuyết phục, thậm chí đó là một dạng thúc ép tinh vi.
Cuối cùng những ai rêu rao rằng mình không tham dự cuộc chơi có thể giả vờ ngây thơ, để mọi người không lên án họ đang tranh giành quyền lực. Tuy nhiên ta nên cảnh giác, bởi vì cái vẻ ngây thơ cụ đó lại là một phương tiện lừa đảo rất hiệu quả (xem Nguyên tắc 21, Giả điên hạ địch). Và thậm chí ngay cả người thật sự ngây thơ cũng chưa chắc là không muốn mưu cầu quyền lực. Ngây thơ nhất là trẻ em, nhưng thường khi nhiều hành động của chúng vẫn xuất phát từ nhu cầu cơ bản là điều khiển những người quanh chúng. Chúng rất đau khổ khi cảm thấy mình bất lực trong thế giới của người lớn, vì vậy chúng dùng mọi cách để có được thứ chúng muốn. Những người thật sự ngây thơ vẫn có thể mưu cầu quyền lực, và thường khi họ hành động hiệu quả một cách khủng khiếp, vì họ không bị cản trở bởi bất kỳ suy nghĩ nào cả. Vậy ta hãy nhớ rằng ai phô trương hay trình diễn vẻ thơ ngây sẽ là kẻ ít ngây thơ nhất.
Với những người rêu rao không tham quyền, ta có thể nhận ra họ qua cách họ hô hào nào là đạo đức, lương tâm, công bằng. Nhưng vì ai cũng khao khát quyền lực và hầu như mọi hành động của chúng ta đều hướng về đó, nên ta biết rằng những người vừa kể thật ra chỉ định tung hỏa mù, dùng cái bình phong đạo đức để che đậy ý đồ của họ. Nếu quan sát kỹ, ta sẽ nhận thấy rằng họ thường là một trong những bậc thầy về kỹ năng thao túng gián tiếp, thậm chí một số bậc thầy ấy lại hành động theo vô thức.
Nếu thế giới này giống như một sân chơi cho những triều thần[2] trăm mưu ngàn chước và chúng ta đang bị kẹt trong đó, thì có cố gắng rút chân ra cũng không ích gì. Làm như thế ta chỉ thêm bất lực, và càng bất lực càng khốn khổ. Thay vì vùng vẫy chống lại điều không thể tránh, thay vì tranh cãi, than vãn, và tự chuốc cảm giác tội lỗi, tốt hơn ta nên thành thạo trò chơi quyền lực đó. Trên thực tế, hễ càng giỏi tung hứng quyền lực thì ta càng trở nên một người bạn, người tình, người chồng, người vợ giỏi giang hơn. Đi theo lộ trình của một triều thần hoàn hảo (xem Nguyên tắc 24), ta giúp người xung quanh cảm thấy hài lòng hơn với bản thân họ, ta trở thành nguồn vui cho họ. Họ sẽ lệ thuộc vào khả năng của ta, luôn muốn có ta bên cạnh. Thuần thục được 48 nguyên tắc trong quyển sách này, ta giúp mọi người tránh được nỗi đau khi bất cẩn với quyền lực – chơi với lửa mà không biết tính chất của lửa. Nếu trò chơi quyền lực là điều không thể tránh, tốt hơn ta nên trở thành chuyên gia còn hơn là kẻ phủ nhận hoặc gã vụng về.
Muốn học trò chơi quyền lực, ta phải thay đổi viễn cảnh, phải có cách nhìn khác đối với thế giới. Phải mất nhiều năm nỗ lực và thực hành, bởi vì phần lớn trò này không tự nhiên hình thành. Cần phải có một số kỹ năng cơ bản, và một khi đã thành thạo những kỹ năng này rồi, ta sẽ áp dụng được các nguyên tắc quyền lực dễ dàng hơn.
Kỹ năng quan trọng nhất, đồng thời là nền tảng sinh tử của quyền lực là khả năng làm chủ cảm xúc. Phản ứng lại một tình huống bằng cảm xúc, đó là rào cản lớn nhất trên đường mưu cầu quyền lực, là lỗi lầm buộc ta phải trả cái giá đắt hơn nếu so với khoảnh khắc khoái chí khi ta biểu lộ xúc cảm. Xúc cảm làm mờ lý trí, và nếu lý trí bị che mờ, ta không thể chuẩn bị và đáp lại tình huống một cách có kiểm soát.
Sân giận là phản ứng xúc cảm tiêu cực nhất, vì nó làm cho lý trí bị che mờ nhiều nhất. Ngoài ra, sân giận còn có hiệu ứng phụ là làm cho tình thế càng thêm khó kiểm soát, và khiến kẻ thù quyết tâm hơn. Muốn tiêu diệt kẻ thù đã hại ta, tốt hơn ta nên dụ hắn hạ thấp cảnh giác, bằng cách làm bộ thân thiện, còn hơn là ra mặt giận dữ.
Tình yêu và thương mến cũng hại ta, bởi vì nó bịt mắt không cho ta phát hiện mục đích tư lợi của những kẻ mà ta không ngờ là đang chơi trò quyền lực. Nếu không thể đè nén cơn giận hoặc tình yêu, hoặc không thể cảm nhận hai thứ đó, thì bạn đừng nên thử. Nhưng bạn phải cẩn thận về cách biểu lộ những tình cảm ấy, sao cho chúng đừng ảnh hưởng đến cơ đồ và chiến lược.
Liên quan đến việc làm chủ cảm xúc là khả năng tạo ra khoảng cách với giây phút hiện tại để suy nghĩ khách quan về quá khứ và tương lai. Giống như Janus, vị thần La Mã hai mặt trông giữ mọi cánh cửa và cổng thành, ta phải có khả năng một lúc nhìn về nhiều hướng để xử lý nguồn nguy hiểm. Đó là gương mặt mà ta tạo cho mình – một mặt luôn nhìn về tương lai, mặt kia nhìn quá khứ.
Với tương lai thì khẩu hiệu là „Không có ngày nào không cảnh giác“. Đừng để bị bất ngờ vì bởi bất kỳ việc gì, vì ta luôn dự trù mọi tình huống trước khi chúng phát sinh. Thay vì phung phí thời gian mơ tưởng đến đoạn cuối có hậu của kế hoạch, ta nên suy tính mọi hỏng hóc, mọi biến thể khả dĩ. Càng nhìn xa trông rộng, càng tính trước nhiều nước cờ, ta càng thêm hùng mạnh.
Gương mặt thứ hai của Janus luôn nhìn về quá khứ - nhưng không phải để nhớ những vết thương đã qua hoặc nuôi dưỡng hận thù, vì như thế chỉ hạn chế sức mạnh. Điều quan trọng là tập cho quên những sự kiện không vui trong quá khứ, có khả năng mài mòn tinh thần và che mờ lý trí. Mục tiêu thật sự của việc nhìn lại sau lưng là luôn rút tỉa kinh nghiệm – nhìn về quá khứ là để học tập đấng tiền nhân. (Quyển sách này có nhiều ví dụ lịch sử đề bạn tham khảo.) Sau khi nhìn về quá khứ, ta xem xét những việc gần hơn, chẳng hạn như hành động của ta, của bạn bè ta. Đây là trường lớp quan trọng, vì xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân.
Ta bắt đầu với những lỗi lầm trong quá khứ, loại lỗi lầm nghiêm trọng ngăn cản bước tiến của ta. Ta phân tích chúng qua lăng kính của 48 nguyên tắc quyền lực, rồi rút ra kinh nghiệm cùng với một lời thề: „Tôi không bao giờ lặp lại những lỗi lầm ấy, tôi sẽ không bao giờ rơi vào một cái bẫy như vậy nữa.“ Nếu có thể nhận xét và đánh giá tự thân theo cách ấy, ta sẽ biết cách phá vỡ cách rập khuôn từ quá khứ.
Quyền lực đòi hỏi khả năng hí lộng với vẻ bề ngoài. Vì vậy ta phải học cách đeo nhiều loại mặt nạ và để dành một bồ mưu mô thủ đoạn. Bạn đừng xem việc giả trang và lừa dối là những trò xấu xa vô đạo đức. Mọi tương tác của con người đều đòi hỏi phải lừa dối ở nhiều cấp độ khác nhau, và nhìn dưới góc độ nào đó, thì khả năng nói dối là điều khác biệt giữa con người và con thú. Trong thần thoại Hy Lạp, trong sử thi Mahabharata Ấn Độ, trong anh hùng ca Gilgamesh Trung Đông, chính những vị thần mới có phép thuật thiên biến vạn hóa để đánh lừa. Một người được xem là vĩ đại, chẳng hạn như Odysseus, được đánh giá qua việc thi đua với những thần thánh về khả năng láu cá, vì vậy anh ta cũng được tôn vinh lên gần như là thần thánh. Lừa đảo là một nghệ thuật đã phát triển của văn minh, và là vũ khí hùng mạnh nhất trong trò chơi quyền lực.
Ta không thể lừa bịp thành công nếu không biết lùi một bước để nhìn lại chính mình – nếu không biết nhập vai kẻ khác, đeo đúng chiếc mặt nạ mà tình hình cần kíp. Nắm được cách tiếp cận linh hoạt như vậy với một vỏ bọc, kể cả vỏ bọc của chính mình, ta sẽ trút bớt gánh vụng về luộm thuộm cản trở tiến bộ. Làm sao gương mặt ta cũng linh hoạt như mặt diễn viên, tập giấu kín chủ tâm, luyện cách dụ người vào bẫy. Hí lộng với cái vỏ ngoài, và thuần thục nghệ thuật đánh lừa là một vài điều thú vị của cuộc sống. Chúng cũng là thành phần chủ chốt để đạt đến quyền lực.
Nếu lừa bịp là vũ khí hùng mạnh nhất trong kho khí tài, thì đức kiên nhẫn là tấm lá chắn cực kỳ quan trọng. Kiên nhẫn giúp ta tránh những lỗi lầm ngớ ngẩn. Tựa như việc làm chủ xúc cảm, kiên nhẫn là một kỹ năng – đức tính đó không phải tự nhiên mà có. Nhưng ở lĩnh vực quyền lực thì không có gì là tự nhiên cả. Trong thế giới thiên nhiên, quyền lực là thứ có vẻ thần thánh nhất. Và kiên nhẫn là đức tính cao tột cùng của các vị thần, vì ngoài thì giờ ra, họ không có gì khác. Ngược lại, sự nóng vội chỉ làm ta có vẻ yếu ớt hơn mà thôi. Đó là sức cản quan trọng đối với quyền lực.
Tính cốt yếu của quyền lực là phi luân lý, và một trong những kỹ năng quan trọng cần đạt tới là khả năng nhận thức tình huống, chứ không phải phân biệt tốt xấu. Quyền lực là một cuộc chơi – điều này nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần cũng không thừa – và khi chơi, ta không đánh giá đối thủ qua chủ tâm mà qua hiệu quả hành động. Ta đo lường chiến lược và sức mạnh của họ bằng giác quan trực tiếp. Thực tế đã bao lần chứng minh rằng thiện ý chỉ làm cho vấn đề rắc rối và mờ ảo thêm mà thôi. Ích lợi gì khi phe đối tác có thiện ý và muốn làm lợi cho ta, nhưng hành động của họ chỉ gây cho ta sầu đau và đổ vỡ? Cũng tự nhiên thôi, khi thiên hạ đều viện đủ lý luận để biện minh cho hành động của họ, luôn miệng bảo rằng họ chỉ muốn làm điều tốt. Bạn phải tập cười thầm mỗi khi nghe những lý lẽ như vậy, đừng để bị lôi cuốn vào việc đánh giá thiện ý và hành động của người khác qua một loạt những phán xét đạo đức vốn thật ra chỉ là lời biện hộ cho hành động thâu tóm quyền lực.
Đó là một cuộc chơi. Đối thủ ngồi đối diện với ta. Cả hai cư xử với nhau rất lịch sự, tuân thủ luật chơi và không cố chấp. Ta chơi theo chiến lược và quan sát những nước cờ của đối thủ với tất cả điềm tĩnh có thể.
Cuối cùng ta sẽ cảm kích sự lễ độ của đối thủ hơn là những hảo ý hay thiện ý của họ. Ta hãy luyện cặp mắt để theo dõi những động thái của họ, cùng lúc với tình huống bên ngoài, không để xao lãng bởi bất kỳ điều gì khác.
Trong tiến trình mưu cầu quyền lực, một nửa thành công đến từ những gì ta không làm, từ những gì ta tránh không để bị lôi kéo vào. Muốn được kỹ năng này, ta phải học cách xét đoán mọi thứ theo cái giá mà ta phải trả. Như Nietzsche từng viết, „Giá trị của một vật đôi khi không nằm trong thứ mà ta dùng để đạt vật ấy, nhưng trong thứ mà ta phải trả để có nó – cái giá mà ta phải trả.“ Có thể ta sẽ đạt đến mục đích, một mục đích đáng giá, nhưng mà với cái giá nào? Ta hãy áp dụng chuẩn mực này vào mọi thứ mọi điều, kể cả việc cộng tác với người khác hay là đến giúp đỡ họ. Rốt cuộc, đời này quá ngắn, cơ hội hiếm hoi, mà ta cần phải có biết bao sức lực. Dưới góc độ này, thì giờ là một yếu tố quan trọng không kém những yếu tố khác. Đừng bao giờ phí phạm thì giờ quý báu hoặc sự an tĩnh tinh thần cho những vụ việc của người khác, vì đó là cái giá quá cao.
Quyền lực là cuộc chơi tập thể. Muốn biết chơi và chơi thành thạo, ta phải phát triển khả năng nghiên cứu và hiểu rõ con người. Nhà tư tưởng vĩ đại Baltasar Gracián của thế kỷ XVII đã viết: „Nhiều người bỏ thời gian ra nghiên cứu thuộc tính loài thú hoặc thảo mộc; nhưng sẽ quan trọng hơn biết bao, nếu ta nghiên cứu thuộc tính con người, những người mà ta sẽ phải sống chung hoặc chết cùng!“
Muốn trở thành một tay chơi lão làng, ta cũng phải là nhà tâm lý lão luyện. Ta phải nhận ra động cơ của đối thủ và nhìn xuyên thấu màn hỏa mù mà họ phủ chụp để nghi trang hành động. Đây là bí quyết giúp ta có thêm vô số khả năng đánh lừa, quyến rũ và thao túng.
Bản chất con người vô cùng phức tạp, ta có thể bỏ ra cả đời quan sát mà không bao giờ hiểu rõ. Vì vậy điều quan trọng là ta lập tức khởi sự rèn luyện, với một nguyên tắc không quên: Không phân biệt đối tượng nghiên cứu, không phân biệt đối tượng cần tin cậy. Đừng bao giờ tin ai hoàn toàn, quan sát hết mọi người, kể cả bạn bè và người thân.
Cuối cùng, ta phải tiến tới quyền lực bằng con đường gián tiếp. Phải ngụy trang trò trí trá. Tựa như quả bi da nảy đi nảy lại mấy băng trước khi chạm bi, mọi nước cờ của ta phải được dự trù và triển khai càng ít hiển nhiên càng tốt. Khả năng hành động gián tiếp giúp ta hưng thịnh trong dạng triều đình đương đại: Bên ngoài là mẫu mực của sự tử tế đàng hoàng, nhưng bên trong ta lại là tay tổ thao túng.
Bạn hãy xem 48 Nguyên tắc chủ chốt của Quyền lực như là quyển sổ tay của nghệ thuật đánh lạc hướng. Những nguyên tắc được trình bày đều là ghi chép của những người từng nghiên cứu và thuần thục trò chơi quyền lực. Những ghi chép này trải dài suốt hơn ba ngàn năm, xuất xứ từ những nên văn minh rất khác nhau như Trung Quốc và Italia. Tuy vậy chúng cùng chia sẻ những chủ đề về mạch tư tưởng, cùng gợi ý về một cốt tủy của quyền lực chưa được diễn giải minh bạch. Bốn mươi tám nguyên tắc của quyền lực được chiết suất từ sự uyên thâm tích lũy đó, được góp nhặt từ tác phẩm của những bậc thầy về chiến lược (Tôn Tử, Clausewitz), chính trị (Bismarck, Talleyrand), triều ca (Castiglione, Gracián), quyến rũ (Ninon de Lenclos, Casanova) và lừa đảo („Yellow Kid“ Weil) lỗi lạc nhất trong lịch sử.
Những nguyên tắc này được lần lượt trình bày theo một bố cục đơn giản và tổng quát như nhau: Sẽ có những hành động làm tăng cường quyền lực (tuân thủ nguyên tắc), trong khi hành động khác lại làm suy yếu thậm chí làm ta sụp đổ (vi phạm nguyên tắc). Nhiều ví dụ lịch sử sẽ minh họa những vi phạm và tuân thủ vừa kể. Sau mỗi ví dụ là phần diễn giải để làm sáng tỏ thêm. Sau đó, ta sẽ cùng đúc kết các yếu tố cốt lõi của nguyên tắc quyền lực đang đề cập và để cho người đọc tiện ghi nhớ, tất cả những điều vừa kể sẽ được cô đọng lại thành một hình ảnh, trình bày ngắn gọn trong vài ba dòng. Để khẳng định hình ảnh ấy là ý kiến của chuyên gia, của bậc thầy ở lĩnh vực đó. Đoạn cuối rất ngắn là phần nghịch đảo để nhắc nhở ta áp dụng nguyên tắc một cách linh hoạt chứ không nên lúc nào cũng nhắm mắt làm y theo.
Bạn có thể sử dụng 48 Nguyên tắc chủ chốt của Quyền lực theo nhiều cách. Đọc một mạch từ đầu tới cuối, bạn biết về quyền lực nói chung. Mặc dù nhiều nguyên tắc có vẻ như không liên quan trực tiếp đến cuộc sống của bạn, nhưng qua thời gian bạn nhận thấy rằng tất cả các nguyên tắc đều có đất ứng dụng và chúng thực sự tương quan nhau. Có được tầm nhìn tổng quát về toàn bộ chủ đề này, bạn sẽ tăng cường khả năng đánh giá những hành động đã qua, nâng cao mức độ điều khiển những vụ việc đang diễn biến. Một thời gian lâu dài sau khi kết thúc quyển sách, nếu nghiền ngẫm kỹ lưỡng, bạn sẽ phát sinh tư duy mới, cách nhìn và cách đánh giá mới.
Quyển sách cũng được thiết kế để bạn tùy nghi lướt qua và chọn đọc nguyên tắc nào có vẻ thích hợp với tình huống gần gũi nhất. Chẳng hạn bạn đang có vấn đề cần giải quyết với cấp trên và không hiểu tại sao mình lại bỏ ra bao nhiêu công sức mà vẫn không được ghi nhận, không được đề bạt. Nhiều nguyên tắc đặc biệt nhấn mạnh đến tương quan giữa bề trên và cấp dưới, và chắc là bạn đang vi phạm một trong những nguyên tắc ấy. Bạn chỉ việc liếc qua phần liệt kê 48 nguyên tắc ở phần đầu quyển sách để nhận ra thứ mình cần.
Cuối cùng, bạn cũng có thể đọc lướt cho vui, chọn đại một chương đọc hú họa, xem như tìm hiểu các nhược điểm và thưởng ngoạn những kỳ công của bậc tiền nhân trên con đường mưu cầu quyền lực. Song chúng tôi cũng có lời cảnh báo cho thành phần độc giả này: Có lẽ bạn không nên tiến thêm nữa mà hãy quay lại đi. Quyền lực rất cám dỗ và trí trá theo cách riêng của nó. Đó là một mê cung – đầu óc bạn sẽ hao mòn vì phải giải quyết những vấn đề vô tận, và bạn sẽ sớm nhận ra rằng mình bị lạc lối một cách thú vị. Nói cách khác, sẽ thú vị hơn khi bạn nhìn quyền lực một cách nghiêm chỉnh. Đừng bông lông với một chủ đề quan trọng như vậy. Những vị thần quyền lực sẽ phật lòng với kẻ phù phiếm, các ngài chỉ thỏa mãn với những ai biết học hỏi và suy xét, trừng phạt người cưỡi ngựa xem hoa.
Những ai cố gắng để luôn làm người tốt chắc chắn sẽ thất bại giữa số đông những kẻ không tốt. Do đó đấng quân vương nào muốn giữ vững quyền lực phải biết cách để không làm người tốt, và sử dụng sự hiểu biết đó, hoặc là nén lòng không sử dụng nó,tùy theo hoàn cảnh yêu cầu.
THE PRINCE, Niccolò Machiavelli, 1469-1527
NGUYÊN TẮC 1
ĐỪNG BAO GIỜ CHƠI TRỘI QUAN THẦY
Luôn khéo léo làm cho cấp trên cảm thấy họ hơn bạn. Trong khi gây ấn tượng và thỏa mãn họ, bạn đừng quá đà, nghĩa là đừng bộc lộ tài năng, nếu không bạn sẽ bị phản tác dụng: bạn sẽ khiến họ e ngại và bất an. Hãy làm sao cho những ông thầy, ông chủ của bạn cảm thấy giỏi giang hơn là thực chất của họ, bạn sẽ đạt được tầm cao của uy quyền.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Nicolas Fouquet là bộ trưởng tài chính vào những năm đầu tiên khi vua Louis XIV của Pháp mới lên ngôi. Fouquet là người hào hoa rộng rãi, thích rượu ngon, gái đẹp, thi ca và những yến tiệc linh đình. Ông cũng thích có nhiều tiền, vì lối sống của ông rất xa hoa. Fouquet rất giỏi giang và tin rằng tài năng của mình thiết yếu đối với nhà vua. Vì vậy vào năm 1661 khi thủ tướng Jules Mazarin qua đời, Fouquet trông chờ vua bổ nhiệm mình kế vị. Nhưng nhà vua lại bất ngờ hủy bỏ cái ghế thủ tướng. Chính điều này, cộng với vài dấu hiệu khác đã khiến Fouquet nghĩ rằng mình bị thất sủng. Để lấy lòng nhà vua, Fouquet liền nảy sinh ý định tổ chức một buổi tiệc vĩ đại nhất, ngoạn mục nhất mà thế giới chưa bao giờ chứng kiến. Lấy cớ là để ăn tân gia tòa lâu đài Vaux-le-Vicomte vừa mới hoàn tất, nhưng thực ra là để tỏ lòng tôn kính đức vua, vốn là vị khách danh dự.
Đến dự là những quý tộc lừng danh nhất châu Âu, cùng với những bộ óc vĩ đại nhất thời bấy giờ, như La Fontaine, La Rochefoucauld, Madame de Sévigné. Molière soạn hẳn một vở mới cho buổi tân gia, và đích thân thủ vai ở đêm trình diễn cuối cùng. Yến tiệc bắt đầu bằng bữa tối bảy món, bao gồm nhiều sơn hào hải vị Đông phương mà nước Pháp chưa bao giờ biết đến, chưa kể nhiều món chỉ mới được sáng tạo đặc biệt cho buổi yến tiệc này. Ngay cả âm nhạc cũng được Fouquet đặt hàng riêng để tôn vinh nhà vua.
Sau bữa tối, Fouquet tổ chức cuộc đi dạo vòng quanh những khu vườn lộng lẫy của tòa lâu đài. Thiết kế vườn tược và hệ thống phun nước ở Vaux-le-Vicomte trở thành cảm hứng cho hoàng cung Versailles sau này.
Đích thân Fouquet hướng dẫn nhà vua trẻ thưởng lãm những chòm kiểng và luống hoa xếp đặt hết sức khéo léo theo hình học. Vua vừa bước đến hệ thống thủy lợi thì hàng loạt pháo bông được bắn lên rực rỡ, và ngay sau đó vở kịch của Molière bắt đầu. Yến tiệc còn tiếp diễn thật khuya và ai ai cũng gật gù tán thưởng rằng trong đời chưa bao giờ mục kích màn trình diễn nào ấn tượng đến thế.
Hôm sau, Fouquet bị thủ lĩnh ngự lâm quân là D’Artagnan đến bắt giữ. Vài tháng sau Fouquet bị xử vì tội biển thủ quốc khố. (Thật ra, hầu hết tài sản đều được Fouquet biển thủ với sự chấp thuận của nhà vua và nhân danh nhà vua.) Sau đó Fouquet bị nhốt vào lao tù đìu hiu nhất nước Pháp, gần đỉnh dãy núi Pyrénées, nơi ông đơn đọc trải qua hai mươi năm cuối cùng của đời mình.
Diễn giải
Louis XIV, vị vua Mặt trời, là người kiêu căng ngạo mạn, luôn muốn là tâm điểm chú ý của mọi thời đại. Ông không thể để cho bất kỳ ai trội hơn mình về mặt xa hoa, và càng không thể là bộ trưởng tài chính. Để có người kế nhiệm Fouquet, vua chọn Jean-Baptiste Colbert, vốn nổi tiếng về tính tằn tiện, về những buổi
tiếp tân chán chường nhất Paris. Colbert khôn khéo tính toán sao cho mỗi đồng xu giải ngân đều chui thẳng vào túi nhà vua. Với dòng chảy này, Louis XIV cho xây dựng một hoàng cung còn lộng lẫy hơn tòa lâu đài của Fouquet, đó chính là cung điện Versailles còn tồn tại đến ngày nay. Vua trưng dụng những kiến trúc sư, nghệ nhân thiết kế và trang trí vườn tược của Fouquet. Và tại hoàng cung Versailles, Louis XIV tổ chức những yến tiệc còn linh đình hơn buổi dạ hội mà Fouquet đã trả giá bằng những ngày tù tội của mình.
Chúng ta hãy xem xét tình huống. Trong buổi dạ hội, Fouquet dâng lên vua hết màn trình diễn này đến màn trình diễn khác, màn sau huy hoàng hơn màn trước, tưởng rằng như thế sẽ chứng minh được lòng trung nghĩa với quan thầy. Không chỉ hy vọng lấy lại được ân sủng của vua, Fouquet còn nghĩ rằng như thế sẽ chứng minh cho vua thấy mình biết chơi, có nhiều mối quan hệ cao quý, được lòng mọi người, và như thế mình sẽ là người không thể thiếu, sẽ xứng đáng ngồi vào ghế thủ tướng. Tuy nhiên cứ với mỗi màn
trình diễn, mỗi tiếng hoan hô của khách hướng về Fouquet lại làm cho vị vua trẻ cảm thấy rằng quần thần và bè bạn mình mê mẩn Fouquet hơn vua, và rằng thật ra Fouquet đang phô trương thanh thế và uy quyền. Thay vì tôn vinh vua, buổi dạ hội của Fouquet lại làm tổn thương sự kiêu căng của ngài. Tất nhiên là Louis XIV không thể nào công khai nhìn nhận sự việc đó, vì vậy ông tìm cớ thủ tiêu người vô tình làm cho mình cảm thấy mất tự tin.
Cho dù dưới hình thức nào thì đó cũng là số phận của tất cả những ai làm chông chênh cái Tôi của quan thầy, làm rạn nứt sự ngạo mạn và khiến cho quan thầy e sợ cho vị trí tối thượng của mình.
Vào đầu buổi dạ tiệc, Fouquet đang ở đỉnh cao của thế giới.
Đến tàn cuộc, ông ta đã rơi xuống đáy.
(Voltaire, 1694-1778)
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Vào đầu những năm 1600, nhà thiên văn và toán học người Ý tên Galileo lọt vào một tình thế gieo neo. Các công trình nghiên cứu của ông đều phụ thuộc vào những nhà lãnh đạo và vì vậy như những nhà khoa học khác của thời Phục hưng, đôi khi ông phải tặng các phát minh và sáng chế cho những gương mặt lỗi lạc nhất thời bấy giờ. Chẳng hạn như có lần ông trao tặng một la bàn quân sự cho Công tước Gongaza. Sau đó ông lại đề tặng một quyển sách hướng dẫn sử dụng la bàn cho dòng họ Medici. Những lãnh tụ vừa kể đều hài lòng và không bạc nghĩa; và qua họ, Galileo tìm thêm được học viên để dạy. Tuy nhiên cho dù phát minh sáng chế của Galileo có quan trọng cách mấy thì những gia đình quyền uy kia đều luôn thưởng công cho ông bằng quà biếu chứ không có tiền mặt. Điều này làm cho cuộc sống của Galileo luôn bấp bênh và lệ thuộc. Ông tự nhủ phải tìm ra cách sống khá hơn.
Galileo quyết thực thi một chiến lược mới vào năm 1610, khi ông khám phá ra các vệ tinh của hành tinh Jupiter. Thay vì san sẻ khám phá này cho những bảo trợ - tặng viễn vọng kính mà ông đã sử dụng cho nhà này, đề tặng quyển sách cho nhà kia, vân vân – như từng làm trong quá khứ, Galileo quyết định tập trung vào gia đình Medici. Lý do: Ngay sau khi thiết lập triều Medici vào năm 1540, Cosimo I tuyên bố Jupiter là hùng mạnh nhất trong thiên vương và lấy Jupiter làm biểu tượng cho họ Medici – một biểu tượng quyền uy vượt trên cả sức mạnh của chính trị và tài chính, biểu tượng tìm về đế chế La Mã cổ xưa cùng với những vị thần linh thời ấy.
Galileo biến việc khám phá các vệ tinh của hành tinh Jupiter thành một sự kiện thiên văn để tôn vinh sự vĩ đại của dòng họ Medici. Không lâu sau cuộc khám phá, ông tuyên bố rằng „những vì sao sáng [các vệ tinh của Jupiter] tự xuất hiện trên nền trời“ ngay trong tầm ngắm kính viễn vọng của ông vào lúc Cosimo II lên ngôi. Galileo mắm muối thêm rằng số lượng bốn vệ tinh hợp với gia đình Medici (Cosimo II có ba người
em), và vệ tinh xoay quanh Jupiter như bốn người con sum vậy quanh Cosimo I, kẻ khai sáng triều Medici. Còn hơn là một sự trùng hợp, khám phá đó chứng tỏ các thiên vương cũng cho thấy uy lực của họ Medici, Galileo cho thiết kế huy hiệu có hình thần Jupiter đang ngồi trên đám mây có bốn ngôi sao vây quanh và tặng cho Cosimo II như muốn nhắn nhủ rằng đó làm mệnh trời.
Vào năm 1610, Cosimo II bổ nhiệm Galileo làm triết gia và nhà toán học chính thức của triều đình, kèm lương bổng đầy đủ. Với một khoa học gia, đó là vận may của cả một đời. Chuỗi ngày van xin bảo trợ đã qua rồi.
Diễn giải
Chỉ với một phát, chiến lược mới giúp Galileo thu hoạch còn nhiều hơn là bao năm tháng phải đi nài nỉ được đỡ đầu. Lý do rất đơn giản: Tất cả các vị chủ nhân đều muốn mình sáng chói hơn người khác.
Họ không quan tâm đến khoa học hoặc sự thật trực quan hay phát minh mới nhất. Họ chỉ quan tâm đến vinh quang và tên tuổi. Galileo đã mang đến cho dòng Medici sự vinh quang bao la, bằng cách liên hệ dòng họ này với sức mạnh của trời đất, còn hơn là khi ông ta tuyên bố dòng Medici đã bảo trợ cho một thiết bị hay khám phá khoa học mới lạ.
Nhà khoa học cũng không thoát khỏi những thăng trầm của đời sống triều thần và việc bảo trợ. Họ cũng
phải phục vụ cho giới chủ cảm thấy mất tự tin, như thể vai trò của mình chỉ là đứng ra chi tiền – một vai trò rất khó chịu và đáng ghét. Người sản xuất ra một công trình lớn muốn cảm thấy mình còn là gì đó hơn là cái vai tài trợ. Hắn muốn mọi người cảm thấy quyền uy và sức sáng tạo của mình, và còn quan trọng hơn là cái công trình mang tên hắn. Thay vì làm cho hắn bất an, bạn phải mang đến vinh quang cho hắn. Với khám phá của mình, Galileo không thách thức uy quyền trí thức của dòng Medici, mà cũng không làm cho họ cảm thấy thua kém chút nào về mặt hiểu biết. Khi tôn họ lên hàng „sao“, Galileo đã giúp họ chói sáng giữa các triều đình ở Ý. Galileo đã không chơi trội sư phụ mà còn giúp sư phụ chói sáng hơn tất cả những người khác.
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Ai cũng có những mối bất an riêng. Khi chơi nổi và trưng ra tài năng của mình, đương nhiên bạn đã khuấy lên đủ loại đố kỵ, ganh tỵ và những biểu hiện bất an khác. Điều đó ắt phải xảy ra. Mặc dù không phải lúc nào cũng ra sức làm vừa lòng người khác, song với những người trên mình, bạn phải có cách tiếp cận đặc biệt hơn: Với những gì liên quan đến uy quyền, có lẽ lỗi lầm lớn nhất là làm lu mờ „đấng bề trên“.
Đừng ngu ngơ nghĩ rằng cuộc đời đã thay đổi nhiều từ thời Louis XIV và Medici. Người nào đã đạt đến những mức thành tựu cao ngất trong đời này cũng đều giống như vua chúa: Họ muốn được tự tin khi ngồi vào vị trí của mình, và khi so với những người xung quanh, họ phải thông minh hơn, khôn ngoan hơn và duyên dáng hơn. Có một sự hiểu lầm rất phổ biến nhưng thật chết người, rằng ta phải phô trương hết tài nghệ và năng khiếu để lấy lòng sư phụ. Có thể sư phụ sẽ làm bộ gật gù vừa ý, song ngay khi có dịp, sư phụ sẽ thay thế bạn bằng một gã ít thông minh hơn, ít duyên dáng hơn, ít có vẻ nguy hiểm hơn, cũng như Louis XIV thay thế Fouquet sáng chói bằng Colbert nhạt nhẽo. Và cũng như Louis, tuy không thừa nhận sự thật, nhưng sư phụ bạn sẽ nại ra một cái cớ để đẩy bạn đi cho khuất mắt.
Nguyên tắc này có hai quy luật mà bạn phải ý thức. Thứ nhất, bạn có thể vô tình chơi trội sư phụ khi sống thực với con người mình. Trên đời này có những đấng bề trên rất dễ cảm thấy bất an, mất tự tin một cách khủng hoảng. Chỉ với nét duyên dáng và tao nhã tự nhiên của mình, bạn có thể vô tình làm lu mờ sư phụ.
Ít ai có nhiều tài năng tự nhiên như Astorre Manfredi, quận công xứ Faenza. Là người đẹp trai nhất trong số các vương tôn Ý, quận công này luôn mê hoặc quần thần bằng sự hào phóng và cởi mở.
Năm 1500, Cesare Borgia bao vây Faenza. Khi thành phố đầu hang, dân chúng trông chờ Borgia giáng cho họ những điều tệ hại nhất, vì Borgia nổi tiếng tàn ác. Nhưng không, lần này Borgia chỉ chiếm lấy thành lũy nhưng không giết dân mà lại còn cho phép vương tôn trẻ Manfredi, lúc ấy vừa 18 tuổi, được hoàn toàn tự do ở lại triều đình.
Tuy nhiên vài tuần sau đó binh lính đưa Astorre Mafredi đến một ngục thất La Mã xa xôi. Một năm sau, người ta vớt được xác Manfredi từ dòng song Tiber với một khối đá cột vào cổ. Borgia biện minh hành động dã man này bằng cách vu cáo Manfredi âm mưu tạo phản, nhưng sự thật là Borgia vẫn nổi tiếng kiêu ngạo và đa nghi. Ngay cả khi không cố ý, Manfredi cũng làm cho Borgia bị lu mờ. Vì những tài năng tự nhiên, vị vương tôn trẻ chỉ cần xuất hiện là Borgia có vẻ bớt lôi cuốn và hấp dẫn. Bài học ở đây thật đơn giản: Nếu không thể nào ngăn chăn tinh hoa của mình phát tiết ra ngoài, bạn nên tránh gặp những con quỷ kiêu ngạo như thế. Hoặc là tránh xa chúng, hoặc bạn phải tìm ra cách che giấu những đức tính của mình khi ở gần bên một Cesare Borgia.
Thứ hai, đừng bao giờ nghĩ rằng vì được sư phụ tin yêu nên mình muốn làm gì thì làm. Biết bao giấy mực đã kể lại trường hợp những bầy tôi từng được thương yêu nhất nhưng lại đột nhiên thất sủng vì nghĩ rằng chức vụ, vị trí của mình là tất yếu, rồi từ đó chơi trội quan thầy. Sen no Rikyu là một sủng thần của thiên hoàng Hideyoshi vào những năm cuối thế tỷ XVI ở Nhật. Là nghệ nhân bậc nhất về trà đạo, Sen no Rikyu trở thành một trong các cố vấn được tin cẩn nhất của Hideyoshi. Thiên hoàng ban phòng ốc riêng trong hoàng cung cho ông và ông được trọng vọng khắp nước Nhật. Thế mà vào năm 1591, Hideyoshi lại xử ông tội chết. Rikyu tự tử. Sau này người ta mới khám phá ra nguyên nhân khiến ông ta bị thất sủng: Hình như vì xuất thân là nông dân và sau này mới được vào cung, Rikyu lại cho tạc tượng chính mình đang mang dép quai (một dấu hiệu của giai cấp quý tộc) trong tư thế ngạo nghễ. Ấy vậy mà Rikyu lại còn cho đặt tượng trong ngôi đền quan trọng nhất ở các cổng hoàng cung, trơ trơ trước nơi qua lại của hoàng tộc. Với Hideyoshi, điều này có nghĩa là Rikyu đã quá quắt lắm. Giả định Rikyu có được ban cho những quyền thế của quan nhất phẩm thì ông ta cũng phải nhớ rằng mình được thế là nhờ thiên hoàng, nhưng trái lại ông những tưởng tất cả đều do mình đạt được. Đây làm một tính toán sai lầm không thể tha thứ, do đó Rikyu đã
phải trả giá bằng chính mạng sống. Bạn hãy nhớ điều sau đây: Đừng bao giờ nghĩ rằng mình được vị trí này là tất nhiên, và đừng bao giờ để cho quyền thế bổng lộc bốc mình lên quá đà.
Biết được những mối nguy của việc chơi trội sư phụ, bạn có thể làm ngược lại để được lợi lạc. Trước tiên phải thổi phồng và xu nịnh sư phụ. Xu nịnh một cách lộ liễu cũng được, nhưng hiệu quả rất hạn chế. Hơn nữa những quần thần khác sẽ đố kỵ. Ta nên xu nịnh kín đáo thôi. Chẳng hạn nếu “chẳng may” lại thông minh hơn sư phụ, bạn hãy tỏ vẻ ngược lại, làm cho sư phụ thấy thông minh hơn bạn. Vờ hành động ngây ngô. Làm cho sư phụ thấy là bạn cần đến sự tinh thông của hắn ta. Làm bộ gây ra một vài lỗi nhỏ vô hại, mục đích là để cầu cứu sư phụ. Sư phụ nào cũng khoái những loại cầu xin như thế. Nếu không có cơ hội gia ân cho bạn, sư phụ sẽ tìm cách đổ lên đầu bạn nhiều ý ác.
Nếu bạn nảy sinh nhiều ý hay hơn ý của sư phụ thì cứ hô hoán lên rằng đó là “thánh ý anh minh”, và để cho càng nhiều người biết càng tốt. Nếu ý của bạn có hiệu quả tốt thì cứ tung hô rằng đó chỉ phản ánh ý của sư phụ.
Nếu bạn hóm hỉnh hơn sư phụ và muốn đóng vai thằng hề trong hoàng cung thì cũng tốt thôi, nhưng nhớ đừng để mọi người thấy ngược lại rằng sư phụ quá lạnh lùng và cáu kỉnh. Nếu cần, bạn nên hạ bớt ngọn lửa dí dỏm xuống và tìm cách cho mọi người thấy chính sư phụ là suối nguồn của niềm vui và sự phấn khởi. Nếu bản tính tự nhiên của bạn lại chan hòa và hào phóng hơn sư phụ, hãy cẩn thận đừng để vô tình mình trở thành đám mây che khuất sự tỏa sáng của hắn ta. Phải làm cho sư phụ an tâm với cái vị trí của Mặt trời với tất cả những người khác xoay quanh, một Mặt trời quyền uy và sáng chói, một cái rốn của vũ trụ. Nếu bị đặt vào thế phải giải khuây sư phụ, thỉnh thoảng bạn nên lù khù một chút để được sư phụ thương hại. Mọi nỗ lực gây ấn tượng bằng sự duyên dáng và hào phóng có thể chí tử: nếu không thuộc long bài học của Fouquet, bạn sẽ trả giá đắt.
Trong tất cả những trường hợp trên, việc giấu giếm sở trường của mình không phải là biểu hiện của sự yếu đuối, nếu cuối cùng việc giấu giếm ấy đưa bạn đến uy quyền. Cứ để cho người khác sáng chói, như thế bạn có khả năng kiểm soát tình hình, vậy còn hơn là trở thành nạn nhân khi họ trở nên bất an. Tất cả những mưu kế ấy sẽ có ích vào ngày mà bạn quyết định vượt lên trên thân phận thấp hèn. Nếu làm được như Galileo, tức là để cho sư phụ càng sáng chói hơn trong cái nhìn của mọi người thì bạn sẽ được sư phụ xem như của trời cho và lập tức được thăng quan tiến chức.
Hình ảnh cần ghi nhớ:
Những vì sao trên bầu trời. Mặt trời chỉ có một mà thôi. Đừng bao giờ che khuất ánh dương, đừng bao giờ cạnh tranh với những tia sáng ấy. Thay vào đó bạn nên ẩn mình và tìm cách gia tăng sự chói lọi của sư phụ.
Ý kiến chuyên gia:
Tránh đừng sáng chói hơn quan thầy. Mọi thế thượng phong đều khả ố, nhưng khi bầy tôi mà đứng cao hơn chúa công thì không chỉ là ngu xuẩn mà còn chí tử. Đó là bài học mà ta học từ những vì sao trên trời – chúng có thể có họ hàng với Mặt trời, cũng có thể sáng chói không kém, nhưng không bao giờ xuất hiện bên cạnh Mặt trời.
(Baltasar Gracián, 1601-1658).
NGHỊCH ĐẢO
Không phải gặp bất kỳ ai thì mình cũng sợ mất lòng, nhưng bạn phải học cách trở nên tàn nhẫn một cách có chọn lọc. Nếu sư phụ bạn là vì sao đang rơi, thì bạn không ngần ngại gì khi phải chơi trội hắn. Không nên thương hại – khi chòi đạp để vươn lên đỉnh cao, bản thân sư phụ bạn cũng không hề áy náy gì đâu. Hãy chứng minh sức mạnh với hắn ta. Nếu hắn yếu, bạn kín đáo làm cho hắn rớt đài nhanh hơn nữa: chờ đến thời điểm then chốt, bạn chứng tỏ mình không hơn, giỏi hơn, duyên hơn hắn. Nhưng nếu hắn đã quá yếu và sập tiệm đến nơi, cứ để dòng đời lo liệu. Lúc này bạn không nên chơi trội một sư phụ suy thế, vì có thể mọi người đánh giá bạn là tàn nhẫn và thù vặt. Khi vị trí sư phụ còn vững nhưng bạn biết mình giỏi giang hơn, bạn hãy ẩn nhẫn chờ thời. Tự nhiên uy quyền của sư phụ sẽ mai một và suy nhược dần. Sẽ đến lúc sư phụ sụp đổ và nếu tính toán kỹ lưỡng đúng đắn, bạn sẽ sống còn và ngày nào đó vượt trội hắn.
NGUYÊN TẮC 2
ĐỪNG QUÁ TIN CẬY BẠN BÈ,HÃY HỌC CÁCH SỬ DỤNG KẺ THÙ
Hãy thận trọng với bạn bè – họ dễ dàng phản bội bạn, vì họ dễ bị lòng đố kỵ khuấy động. Ngoài ra họ cũng dễ hư hỏng và có khuynh hướng nắm quyền. Hãy thu nhận một kẻ thù cũ và hắn sẽ trung kiên hơn bạn bè, vì hắn cần phải chứng minh nhiều hơn. Thật ra bạn có nhiều điều phải e sợ từ bạn bè hơn là từ kẻ thù. Nếu bạn chưa có, hãy tìm cách tạo ra kẻ thù.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Hồi giữa thế kỷ thứ IX, một thanh niên trẻ tên Michael III tiếp nhận ngai vàng đế chế Byzantium. Mẹ của Michael III là Hoàng thái hậu Theodora bị nhốt vào tu viện và người tình của bà là Theoctistus bị ám sát. Người đứng đầu mưu toan hạ bệ Theodora và đưa Michael lên ngôi chính là Bardas, chú ruột của Michael, một người đầy khôn ngoan và tham vọng. Còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm, Michael bị đặt trong vòng vây của những kẻ sát nhân hiểm độc và ngông cuồng. Trong cơn nguy biến này, Michael cần có một vị cố vấn tin cậy nên nhắm vào Basilius, người bạn thân nhất. Basilius hoàn toàn không có chút kinh nghiệm vào về chính trị và việc cai trị - thực tế anh chỉ là quan bật mã ông – nhưng trong quá khứ anh từng có cơ hội chứng tỏ tấm lòng của mình với Michael.
Hai người quen nhau cách đó vài năm. Khi Michael đang viếng chuồng ngựa bỗng dưng có một con xổng chuồng. Basilius, một người phục vụ xuất thân từ giới nông dân vùng Macedonia đã cứu mạng Michael. Sức khỏe và lòng dung cảm của người phục vụ trẻ này đã tạo ấn tượng tốt cho Michael; vì thế, từ một kẻ dạy ngựa, Basilius được thăng tiến thành quan bật mã ôn hang đầu của hoàng gia. Michael ban cho Basilius biết bao là bổng lộc và chẳng mấy chốc hai người trở thành bạn tâm giao. Basilius được gửi đi học tại ngôi trường khá nhất ở Byzantium, và từ đó gã nông dân cục mịch trở thành một triều thần văn minh và sành điệu.
Giờ thì Michael đã lên ngôi hoàng đế và đang cần người tin cẩn. Vậy Michael biết tìm ai xứng đáng hơn để đưa vào vị trí cố vấn hàng đầu ngoài Basilius ra, kẻ vốn đã hàm ân?
Nếu chưa có kinh nghiệm thì chỉ cần huấn luyện, hơn nữa Michael thương Basilius như em ruột mình. Bỏ ngoài tai việc quần thần khuyên chọn Bardas giỏi giang và bản lĩnh hơn, Michael nhất định chọn bạn.
Basilius cũng sáng dạ nên học hỏi rất nhanh và chẳng mấy chốc đã có thể cố vấn hoàng đế về đủ mọi lĩnh vực. Vấn đề tồn tại duy nhất có vẻ là tiền bạc – với Basilius bao nhiêu cũng không đủ. Đắm mình trong lối sống xa hoa của triều đình Byzantium tráng lệ, quan cố vấn rất hám danh lợi uy quyền. Michael tăng gấp đôi, rồi gấp ba lương bổng của Basilius, ban cho chức tước quý tộc, lại còn tác hợp cho Basilius với chính cung phi của mình là Eudoxia Ingerina. Michael không tiếc bất kỳ thứ gì để làm hài lòng một người bạn quý, một quân sư như thế. Nhưng bất ổn sắp diễn ra. Hiện Bardas giữ chức nguyên soái đang nuôi tham vọng cao hơn nữa: Những tưởng sẽ kiểm soát được cháu mình, Bardas lập mưa đưa Michael lên ngôi, sau đó tìm cách thủ tiêu Michael để chiếm ngai vàng. Basilius cứ rù rì bao nhiêu lời thâm độc vào tai cho đến khi Michael bằng lòng cho ám sát ông chú. Trong một buổi xem đua ngựa, Basilius lẩn vào đám đông, tiến đến gần Bardas và đâm chết ông ta. Sau đó Basilius yêu cầu Michael cho mình thay vào vị trí của Bardas để giữ yên bờ cõi và dập tắt mọi cuộc nổi loạn. Tất nhiên là Michael ưng thuận.
Từ thời điểm này trở đi, quyền uy cùng của cải của Basilius tăng lên vùn vụt. Vài năm sau đó khi quốc khố trống rỗng vì lối sống xa hoa, Michael đề nghị Basilius trả lại bớt một phần tiền mà anh ta đã mượn suốt bao năm tháng. Michael cảm thấy hết sức kinh ngạc và bất ngờ khi Basilius thẳng thừng từ chối với tia nhìn láo xược, khiến Michael nhận được ngay tình thế nguy nan của mình: Tên hầu ngựa ngày nào giờ đã giàu có hơn mình, có nhiều đồng minh hơn trong quân đội và triều đình và kết quả là có nhiều uy quyền hơn chính hoàng đế. Vài tuần sau đó, qua một đêm bí tỉ, Michael giật mình tỉnh giấc khi bị binh sĩ bao vây. Đích thân Basilius đứng đó chứng kiến bọn tay sai hạ sát Michael. Sau khi tự phong hoàng đế, Basilius cưỡi ngựa đi khắp kinh thành, giương cao ngọn giáo có cắm thủ cấp của Michael, người từng là ân nhân và bạn thân nhất của mình.
Diễn giải
Michael III đặt cược tương lai vào niềm tin là Basilius sẽ hàm ân mình. Tất nhiên Basilius sẽ cúc cung tận tụy với Michael, vì có được sự vinh hoa phú quý và học thức như vậy là nhờ Michael. Đến khi Basilius có được chức quyền, Michael lại tiếp tục ban thưởng những gì tốt đẹp nhất để làm khăng khít thêm quan hệ giữ hai người. Chỉ khi đến cái ngày định mệnh kia, lúc nhìn thấy nụ cười ngạo mạn của Basilius thì Michael mới nhận ra lỗi lầm chết người của mình.
Michael đã tạo ra một quái vật. Vị hoàng đế trẻ đã để cho một người tiếp cận quá gần với uy quyền – kẻ lúc ấy lại yêu sách thêm nữa, kẻ muốn gì được nấy, kẻ cảm thấy vướng bận bởi những ân sủng đã nhận được và đơn giản làm cái điều mà nhiều người làm trong tình huống đó: Họ quên hết những ân tình đã nhận và nghĩ rằng thành công của mình đến là do tự lực mà có.
Khi vừa ý thức được việc này, lẽ ra Michael đã có thể cứu được mạng sống của chính mình, song tình bạn và tình yêu đã ngăn cản tầm nhìn của con người. Không ai có thể tin vào khả năng phản bội của người bạn chí cốt. Và Michael cũng vậy, cho đến ngày thủ cấp của mình bị ghim trên ngọn giáo.
Thượng đế, xin người hãy bảo vệ con chống lại bạn bè con, còn kẻ thù thì cứ để mặc con lo liệu. (Voltaire, 1694-1778)
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Nhiều thế kỷ sau khi nhà Hán cáo chung (năm 222), lịch sử Trung Quốc vẫn tiếp diễn những vụ bạo loạn đẫm máu, vụ này theo sau vụ khác. Quân đội âm mưu sát hại một hoàng đế suy yếu, rồi tôn một vị tướng hùng mạnh lên ngôi thiên tử. Vị tướng tự xưng hoàng đế và bắt đầu một triều đại mới. Để bảo đảm sự sống còn, tân hoàng đế cho hành quyết tất cả những vị tướng đồng liêu. Tuy nhiên những năm sau đó, thông lệ cũ vẫn tiếp diễn: Các vị tướng mới nổi dậy giết vua hoặc các hoàng tử. Ai muốn làm hoàng đế Trung Quốc, người đó phải cô độc và sống giữa một đám thù địch – đó là vị trí mong manh và bấp bênh nhất toàn cõi thiên triều.
Vào năm 959, tướng Triệu Khuông Dận lên ngôi hoàng đế nhà Bắc Tống. Ông ta biết rõ thế cờ rằng chỉ trong một vài năm mình sẽ bị mưu sát, vậy làm sao phá vỡ cái lệ đó? Ngay sau khi lên ngôi, Triệu tổ chức yến tiệc và mời những chỉ huy hùng mạnh nhất quân đội đến dự. Khi rượu đã mềm môi, hoàng đế đuổi hết mọi người ra ngoài, chỉ còn mình ông với các vị tướng. Những vị ngày nghĩ rằng phen này sẽ bị hoàng đế tiêu diệt một loạt. Nhưng không, hoàng đế nói với họ rằng ngày đêm gì cũng là nỗi sợ hãi, ăn cũng sợ mà ngủ cũng sợ, bởi vì “Có ai trong các khanh mà không mơ đến ngai vàng? Ta không nghi ngờ lòng trung của các khanh, nhưng nếu lỡ xảy ra việc tùy tướng các khanh, vốn ham danh lợi lại thúc ép các khanh khoác lên mình tấm long bào, thì làm sao các khanh dám từ chối?”. Vì say và vì sợ, tất cả các tướng đều thề thốt trung nghĩa. Nhưng hoàng đế nghĩ khác: “Cách hưởng thụ tốt nhất cuộc đời này là sống trong vinh hoa phú quý. Nếu các khanh tùy thuận giao lại tất cả những quân quyền, ta sẵn sang ban bổng lộc thái ấp trù phú nhất, để phần còn lại của cuộc đời, các khanh tha hồ hưởng lạc với đàn hát xướng ca.”[3]
Chư tướng nhận ra rằng thay vì phải sống cả đời trong niềm lo sợ và bon chen, giờ họ được hoàng đế hứa hẹn sự an nhàn yên ổn. Ngay hôm sau, cả bọn đều trao lại quyền bính, đổi quân ấn lấy chức tước công hầu ở những vùng đất mà Triệu đã ban cho họ.
Chỉ một phát, Triệu đã biến nguyên cả bầy sói “bằng hữu”, vốn trước sau gì cũng phản bội ông ta thành một đám cừu non ngoan ngoãn, xa rời uy quyền.
Những năm sau đó, Triệu tiếp tục chinh phạt để củng cố bờ cõi. Vào năm 971, vua Liêu nhà Nam Hán cuối cùng đầu hàng nhà Bắc Tống. Liêu hết sức ngạc nhiên khi được Triệu lưu dụng trong triều và mời mình vào cung để nâng chén hữu nghị. Cầm chén rượu Triệu trao, Liêu e rằng trong đó có thuốc độc nên òa khóc: “Tội thần đáng muôn chết, nhưng thần van xin bệ hạ tha cho cái mạng này. Thần thật không dám uống.” Hoàng đế cả cười, nhón lấy chén rượu từ tay Liêu và uống cạn. Không hề có thuốc độc. Từ đó về sau Liêu trở thành cận thần trung thành và tín cẩn nhất.
Lúc ấy Trung Quốc chia thành những vương triều nhỏ. Khi một trong những vị vương đó là Tiền Sở Ngô Việt Vương thua trận bị bắt, các quân sư nhà Tống đề nghị hoàng đế giam ông ta vào ngục thất. Họ trưng
ra các hồ sơ mật chứng minh Tiền Sở Ngô Việt Vương vẫn còn mưu toan tạo phản. Tuy nhiên tới lúc được binh sĩ dẫn đến diện kiến hoàng đế, Tiền Sở chẳng những không bị bắt giam mà còn được trọng vọng. Hoàng đế trao cho ông ta một gói nhỏ, dặn chỉ mở ra khi đang trên đường về cố quận. Khi mở ra, Tiền Sở mới biết đó là tất cả những giấy má hồ sơ chứng minh sự tạo phản của mình: Hoàng đế đã am tường việc này, vậy mà còn tha tội chết. Sự khoan dung này đã khuất phục Tiền Sở và từ đó về sau ông trở thành chư hầu trung thành nhất của nhà Tống.
Diễn giải
Một tục ngữ Trung Quốc so sánh bạn bè như là hàm và răng của con thú nguy hiểm: Nếu không cẩn trọng chúng sẽ nhai mình tan xác. Tống Thái tổ biết loại hàm nào mình đang phải luồn qua khi lên ngai vàng: Các “bè bạn” trong quân đội sẽ nhai ông không thương tiếc và nếu may mắn thoát được ải này, những “bạn bè” khác trong triều cũng làm thịt ông. Tống Thái tổ sẽ không giở trò gì với “bạn bè” cả - ông chỉ lo lót các tướng bằng những thái ấp trù phú và giữ chân họ ở xa kinh thành. Thay vì cho giết họ, Thái tổ làm họ suy yếu bằng phương cách khác, như thế hay hơn và tránh được sự hiềm thù của các tướng lãnh. Và Thái tổ cũng chẳng cần làm gì với các thượng quan trong triều. Thường thì cuối cùng họ cũng sẽ uống phải ly rượu độc của hoàng đế.
Thay vì dựa vào bè bạn, Triệu sử dụng kẻ thù, hết người này đến người khác, biến họ trở thành quần thần đáng tin cậy hơn. Trong khi bạn bè càng lúc càng nhiều tham vọng và đố kỵ, những kẻ thù cũ đó không trông chờ điều gì cả mà lại được rất nhiều. Một người đột nhiên thoát được tội trảm sẽ vô vàn biết ơn và sẽ kết cỏ ngậm vành cho người đã tha tội chết. Rốt cuộc, những kẻ thù cũ đó trở thành người tin cẩn nhất của Tống Thái tổ. Và cuối cùng Triệu đã phá vỡ được cái thông lệ tạo phản, bạo lực và nội chiến – nhà Tống trị vì Trung Quốc suốt hơn ba trăm năm.
Trong bài diễn văn đọc ở đỉnh cao thời kỳ nội chiến,
Abraham Lincoln xem cư dân miền Nam nước Mỹ như là
những người lỡ lầm lạc lối. Một bà lão phản đối vì
Lincoln không chịu gọi họ là những kẻ thù không đội trời
chung và phải bị tiêu diệt. Lincoln bình tĩnh đáp lại:
“Nhưng thưa bà, há tôi đã chẳng tiêu diệt kẻ thù
khi biến họ thành bạn bè đó sao?”
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Khi hữu sự, tự nhiên ta nghĩ đến sự giúp đỡ của bạn bè. Thế giới rất khắc nghiệt và bạn bè mang đến cho ta chút dịu êm. Hơn nữa ta cũng biết họ. Vậy tại sao phải tùy thuộc vào người lạ một khi sẵn có bạn bè?
Vấn đề là thường khi ta không hiểu thấu bạn bè như ta vẫn tưởng. Bạn bè hay ậm ừ cho qua chuyện để tránh phải cãi lý. Họ che đậy nhiều nét tính tình không mấy đẹp để khỏi mất lòng nhau. Người này pha trò thì người kia ráng cười cho to vào. Vì tính trung thực ít khi nào củng cố tình bằng hữu, ta có thể không bao giờ biết đích xác bạn ta thực sự nghĩ gì. Bạn bè sẵn sàng tán thành thị hiếu của ta về ăn mặc, ca tụng bản nhạc do ta sáng tác, khen ngợi bài thơ ta làm – có thể họ thực lòng, nhưng cũng có thể không.
Khi quyết định tuyển dụng một người bạn, ta sẽ dần khám phá những đặc tính mà người ấy che đậy. Thật éo le thay chính lòng tốt của ta đã làm đảo lộn mọi thứ. Người ta ai cũng muốn cho rằng mình là kẻ xứng đáng với cơ đồ. Việc hàm ân có thể làm cho họ ngột ngạt vì điều đó làm họ mặc cảm rằng sở dĩ họ được
chọn bởi vì họ là bạn bè, chứ không phải vì họ đáng đồng tiền bát gạo. Hầu như hành động tuyển dụng bạn bè có chút gì đó cao ngạo, làm phiền lòng họ một cách thầm kín. Vết thương lòng này dần dà rồi cũng bộc lộ ra: Thêm một chút thẳng thắn, một thoáng oán hờn ganh tị nọ kia và tình bạn đã chóng nhạt phai trước khi ta kịp nhận ra. Càng thêm nhiều chiếu cố, càng tặng thêm nhiều quà cáp nhằm cứu vãn tình bạn, ta càng nhận được ít đi sự tri ân.
Sự bạc nghĩa đã xưa như trái đất. Nó từng chứng minh sức mạnh trong hàng bao thế kỷ, nhưng thật quái lạ
tại sao mọi người vẫn đánh giá thấp sức mạnh ấy. Tốt hơn là nên đề phòng. Nếu thi ân bất cầu báo, ta sẽ được ngạc nhiên thích thú khi bạn bè tỏ lòng biết ơn.
Cái khó khi sử dụng hoặc tuyển mộ bạn bè là ta khó tránh khỏi việc uy quyền mình bị hạn chế. Ít khi nào bạn bè là người có năng lực nhất trong tình huống nhất định; và cuối cùng, năng lực và kỹ xảo lại bị tình bạn át mất. (Michael III từng có sờ sờ ra đó một kẻ có khả năng lèo lái và cứu mạng mình, đó là Bardas.)
Tình huống hành sự nào cũng cần có khoảng cách giữa các cá thể. Ta đang cố làm việc chứ không phải cố kết bạn. Tình bằng hữu, cho dù là thật hay giả, đều che khuất sự thật đó. Như vậy, mấu chốt để nắm uy quyền là khả năng đánh giá xem ai là người tốt nhất để xúc tiến quyền lợi của ta trong mọi tình huống. Hãy giữ bạn bè cho lĩnh vực bạn bè, còn khi làm việc thì ta phải chọn người tốt nhất, giỏi giang nhất.
Mặt khác, kẻ thù của ta là mỏ vàng nguyên sơ mà ta phải học cách khai thác. Vào năm 1807 khi Talleyrand, bộ trưởng ngoại giao của Hoàng đế Napoléon, đã khẳng định chắc chắn rằng sư phụ mình đang đưa nước Pháp đến chỗ suy vong và đã đến lúc quay lưng lại với hoàng đế. Ý thức được những hiểm nguy và rủi ro trong mưu đồ tạo phản, Talleyrand cần có một đồng minh. Sau khi đắn đo suy nghĩ, ông ta chọn Joseph Fouché, người đứng đầu cơ quan an ninh chìm mà cũng là kẻ thù mà ông ta căm ghét nhất, bởi vì Fouché đã nhiều phen tìm cách ám sát Talleyrand. Viên ngoại trưởng biết rằng mối đố kỵ trước nay sẽ là cơ hội giảng hòa về mặt tình cảm. Ông biết rằng Fouché không trông mong gì từ phía mình mà ngược lại sẽ tận tụy chứng minh xứng đáng với sự chọn mặt gửi vàng ấy. Người nào có cái để chứng minh, họ sẽ dời non lấp biển để minh chứng. Cuối cùng, Telleyrand biết rằng quan hệ giữa hai người được đặt trên nền móng tư lợi tương hỗ, do đó sẽ không bị chi phối bởi cảm xúc cá nhân. Thực tế cho thấy sự lựa chọn của Talleyrand là đúng đắn, và mặc dù âm mưu của hai người chưa lật đổ được Napoléon song sự hợp tác đó đã khiến nhiều người khác quan tâm đến đại nghĩa và tinh thần chống đối hoàng đế dần lan rộng. Và từ đó về sau giữa Talleyrand và Fouché nảy nở quan hệ cộng tác hiệu quả. Mỗi khi có thể, bạn hãy làm hòa với kẻ thù và có kế hoạch đưa hắn vào thế phục vụ cho mình.
Như Lincoln đã nói, ta tiêu diệt được một kẻ thù khi biến hắn thành đồng minh. Năm 1971 trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Henry Kissinger từng bị bắt cóc hụt nhiều lần. Trong số những bộ óc sắp đặt mưu đồ có anh em nhà Berrigan, vốn là các tu sĩ nổi tiếng phản chiến, ngoài ra còn bốn tu sĩ Công giáo và bốn nữ tu. Theo kế hoạch riêng không được thông báo đến cảnh sát mật lẫn bộ Tư pháp, Kissinger dàn xếp một cuộc gặp gỡ với ba người chủ mưu. Trong cuộc nói chuyện để làm rõ nhiều vấn đề, Kissinger chinh phục được đối thủ khi cho họ biết rằng ông sẽ đưa hầu hết quân nhân Mỹ ra khỏi Việt Nam vào giữa năm 1972. Họ tặng ông cái nút áo huy hiệu với dòng chữ cổ xúy “Bắt cóc Kissinger”, và một người trong bọn họ trở thành bạn bè ông suốt nhiều năm liền, nhiều lần đến viếng thăm ông. Hành động của Kissinger không chỉ là kế sách cổ điển: chủ trương của ông là hợp tác với những người không cùng chính kiến. Các đồng liêu của ông nói hình như ông làm việc với kẻ thù còn suôn sẻ hơn với bạn bè.
Nếu quanh ta không có kẻ thù ta sẽ dễ lười nhác. Biết có kẻ thù, trí não ta sẽ được mài giũa, tập trung và cảnh giác. Trong những hoàn cảnh thích hợp hơn, ta sẽ sử dụng kẻ thù như là kẻ thù chứ không phải là đồng minh hay bè bạn.
Để tiến lên nấc thang uy quyền, Mao Trạch Đông chủ yếu lợi dụng xung đột. Năm 1937 Nhật xâm lược Trung Quốc, làm gián đoạn cuộc chiến giữa phe Cộng sản và phe Dân quốc.
E rằng quân Nhật sẽ đánh tan quân ta, một vài vị chỉ huy phe Cộng sản muốn để cho phe Dân quốc đánh với Nhật, trong khi đó phe Cộng sản sẽ phục hồi lực lượng. Mao có ý kiến ngược lại: Quân Nhật không thể nào đánh bại và chiếm đóng lâu dài một đất nước quá rộng lớn như Trung Quốc. Đến khi Nhật rút quân, phe Cộng sản sẽ lụt nghề nếu không chiến đấu trong suốt nhiều năm và lúc đó sẽ không sẵn sang tiếp tục chiến đấu với phe Dân quốc. Trái lại, cuộc chiến với một kẻ thù to lớn như bọn Nhật sẽ là cơ hội huấn luyện tuyệt vời cho đội quân ô hợp của phe Cộng sản. Kế hoạch của Mao được nhất trí và được chứng minh là hợp lý: Sau khi Nhật rút quân, phe Cộng sản đã tiếp thu rất nhiều kinh nghiệm trận mạc, giúp họ đánh bại phe Dân quốc.
Chiến lược xung đột thường trực của Mao có nhiều mấu chốt. Thứ nhất, ta phải chắc chắn rằng cuối cùng mình sẽ chiến thắng. Đừng bao giờ lâm chiến với đối thủ nào ta không thể đánh bại, cũng như Mao biết chắc rằng qua năm tháng quân Nhật sẽ đại bại. Thứ hai, nếu chưa có kẻ thù rõ ràng, đôi khi ta phải dựng nên một mục tiêu tiện lơi, thậm chí biến bạn thành thù. Thỉnh thoảng Mao vẫn dùng chiến thuật này trên chính trường. Thứ ba, lợi dụng loại kẻ thù đó để cho công luận nhận rõ đại nghĩa của ta hơn nữa, thậm chí
tuyên truyền đó là cuộc chiến đấu giữa thiện và ác. Mao cổ xúy sự bất đồng giữa Trung Quốc với Liên bang Xô-viết và Mỹ. Mao tin rằng nếu không có một kẻ thù rõ ràng, nhân dân sẽ dần dà lãng quên ý nghĩa của Cộng sản Trung Quốc. Một kẻ thù được chỉ mặt đặt tên là một luận cứ có ích cho ta nhiều hơn là tất cả mọi ngôn từ gom góp lại.
Đừng bao giờ lúng túng vì sự hiện diện của kẻ thù – với một hai đối thủ công khai, ta sẽ dễ chịu hơn là kẻ thù giấu mặt. Người tài ba hoan nghênh xung đột, sử dụng kẻ thù để tăng cường uy tín của mình, để mọi người cảm thấy có thể nương tựa mình như nương tựa một chiến binh vững chãi khi họ lâm nguy.
Hình ảnh ghi nhớ:
Móng vuốt của sự Vô ơn. Biết trước mọi rủi ro, ta sẽ chẳng dại gì đút tay vào miệng cá sấu. Với bạn bè, ta sẽ chẳng cảnh giác như thế; và nếu tuyển dụng họ, sự vô ơn sẽ phập ngay vào cổ ta.
Ý kiến chuyên gia:
Biết cách sử dụng kẻ thù để làm lợi cho mình. Học cách nắm dao đàng chuôi chứ không đàng lưỡi. Người khôn ngoan khai thác từ kẻ thù nhiều hơn là đứa ngu si sử dụng bạn bè.
(Baltasar Gracián, 1601-1658)
NGHỊCH ĐẢO
Mặc dù nhìn chung thì tốt hơn ta không nên để tình bạn chen vào công việc, nhưng vẫn có lúc bạn bè hữu hiệu hơn kẻ thù. Chẳng hạn như một người quyền bính luôn có những việc bẩn cần người khác làm thế. Và những lúc này bạn bè sẽ thực hiện tốt hơn, vì tình cảm với ta. Ngoài ra vì lý do nào đó nếu kế hoạch bị hỏng, ta vẫn có thể sử dụng bạn bè làm vật bung xung. Sự “thất sủng của bề tôi yêu quý” là một kế sách mà các bậc quân vương hay dùng: Họ sẽ để cho người thân thiết nhất trong triều đứng ra lãnh búa, bởi vì công chúng sẽ không tin rằng họ đang hy sinh bằng hữu vì tư lợi. Tất nhiên, sau nước cờ này rồi thì xem như ta vĩnh viễn mất đi người bạn. Vì vậy tốt hơn ta nên dành vị trí bung xung cho một kẻ thân thiết vừa phải chứ đừng quá thân.
Cuối cùng, vấn đề nảy sinh khi cộng tác với bạn bè là ta không xác định khoảng cách và ranh giới chính xác cần phải có. Nếu cả hai phe trong cuộc đều ý thức rõ những hiểm nguy tiềm tàng thì một người bạn thường sẽ rất hữu hiệu. Tuy nhiên trong sự lựa chọn này bạn không được lơi lỏng cảnh giác, luôn sẵn sàng nhận ra mọi biểu hiện xáo trộn cảm xúc, chẳng hạn như lòng đố kỵ. Trong lĩnh vực uy quyền, không có gì bền vững hết, ngay cả người bạn chí cốt nhất cũng có khả năng trở thành kẻ thù độc địa nhất.
NGUYÊN TẮC 3
CHE ĐẬY CHỦ TÂM
Đặt người khác vào thế bấp bênh và mù mịt, ta không bao giờ hé mở ý đồ. Một khi không thể biết đầu dây mối nhợ việc ta sắp làm họ sẽ không thể phòng xa. Dẫn dụ họ bước sâu vào cuộc nghi binh, bao phủ họ bằng hỏa mù, và đến khi họ nhận ra chủ định của ta thì đã quá trễ.
PHẦN I:
SỬ DỤNG VẬT GIẢ TRANG KHƠI GỢI SỰ THÈM MUỐN CÙNG VỚI NHỮNG NGHI TRANG KHÁC ĐỂ ĐÁNH LẠC HƯỚNG
Trong khi dựng kế đánh lừa, chỉ cần đối tượng nảy sinh chút nghi ngờ là xem như kế hoạch của bạn bị đổ bể. Đừng để cho họ có bất kỳ cơ hội nào đoán ra chủ tâm của bạn: Người ta kéo kê những con cá trên đường để đánh lạc hướng bầy chó như thế nào thì bây giờ bạn cũng làm như thế đó. Hãy làm bộ thật thà, phát tín hiệu mập mờ, dựng lên những nghi trang khơi gợi sự thèm muốn. Vì không phân biệt được thực hư, đối tượng sẽ không thể phát hiện mục đích của bạn.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Suốt nhiều tuần liền, Ninon de Lenclos – ả kỹ nữ tai tiếng nhất nước Pháp thế kỷ XVII – kiên nhẫn lắng nghe hầu tước De Sévigné kể lại những cam go khổ ải hòng chiếm được trái tim của một nữ bá tước trẻ đẹp nhưng khó tính. Lúc ấy Ninon đã 62 tuổi và dày dạn kinh nghiệm tình trường, trong khi hầu tước mới 22, đẹp trai, hăng tiết vịt nhưng ngây thơ một cách nản lòng về chuyện yêu đương. Thoạt tiên Ninon cảm thấy tiếu lâm khi nghe hầu tước kể lại những vấp ngã đầu đời, nhưng cuối cùng bà ta bực ra mặt. Không chịu được sự kém cỏi, nhất là ở lĩnh vực bẫy tình, bà quyết định bảo trợ cậu trai tơ này. Thứ nhất, cậu ta phải biết rằng đây thực sự là cuộc chiến và nữ bá tước xinh đẹp kia chính là một thành trì mà cậu ta phải bao vây thật cẩn thận như chiến thuật của bất kỳ một vị tướng ở chiến trường. Mỗi một bước phải được lên kế hoạch và thực thi kỹ lưỡng với đầy đủ các chi tiết cần thiết.
Ninon yêu cầu vị hầu tước làm lại từ đầu, lần này tạo ra một khoảng cách, một chút thờ ơ nhất định. Bà ta dặn lần sau nếu được gặp riêng nữ bá tước, cậu ta phải tâm sự với nàng như một người bạn chứ không phải như một người tình tiềm năng. Như thế là để đánh lạc hướng nàng. Nàng sẽ không còn nghĩ rằng việc chàng quan tâm đến mình là lẽ đương nhiên – có lẽ chỉ hơi để ý như thể bạn bè với nhau thôi.
Kế hoạch của Ninon là một khi nàng bị lâm vào cảnh hư hư thực thực thì bước tiếp theo sẽ làm cho nàng ghen tỵ. Đến lần gặp kế tiếp tại một lễ hội quan trọng ở Paris, hầu tước sẽ xuất hiện với một thiếu nữ trẻ đẹp. Và thiếu nữ này lại có nhiều bạn gái trẻ đẹp không kém, sao cho nữ bá tước kia mỗi khi gặp chàng đều nhìn thấy chàng được vây quanh bởi những cô gái đẹp nhất Paris. Ngoài việc hoang mang vì ganh tỵ, nữ bá tước còn ý thức rằng chàng là người được những phụ nữ khác thèm muốn. Ninon kiên nhẫn giải thích cho chàng biết rằng phụ nữ thường quan tâm đến người đàn ông nào được những phụ nữ khác đeo đuổi. Như thế trước mắt chàng được tăng giá trị mà nàng cũng hả dạ khi chiếm đoạt chàng từ những nanh vuốt khác.
Một khi nàng đã ganh tỵ và hoang mang rồi, chàng sẽ vờn nàng thêm nữa. Theo lệnh Ninon, hầu tước sẽ không hiện diện ở những cuộc hội họp mà nàng chắc mẩm rằng chàng sẽ dự. Rồi chàng sẽ đột nhiên xuất hiện tại nơi mà trước nay chàng chưa từng đến nhưng nàng lại có mặt thường xuyên. Nàng sẽ không tài nào đoán được nước cờ của chàng. Tất cả những điều này sẽ đặt nàng vào trạng thái cảm xúc bối rối, làm tiền đề cho chàng chiêu dụ thành công.
Những bước vừa kể được chàng hầu tước răm rắp thực hiện trong suốt nhiều tuần lễ. Ninon theo dõi bước tiến của học trò: Qua mạng lưới tình báo, bà ta biết bây giờ nàng đã cười giòn hơn khi nghe chàng pha trò, lắng nghe chăm chú hơn khi chàng kể chuyện. Bà biết giờ đây bỗng dưng nàng hỏi những người xung quanh để hiểu thêm về chàng. Bạn bè bà ta cho biết hiện nay ở những buổi gặp gỡ đông người, nàng hay dõi mắt tìm chàng và nhìn theo lối chàng đi. Ninon biết rằng nàng đang bị chàng mê hoặc. Chỉ cần vài tuần, lâu lắm là một hai tháng nữa thôi thì thành trì này sẽ quy hàng.
Vài ngày sau đó, hầu tước có việc phải đến nhà nàng. Chỉ có đôi lứa. Bỗng dưng chàng như biến thành một người khác hẳn: Lần này nghe theo sự giục giã của con tim thay vì tuân thủ kế hoạch của Ninon, chàng vồ lấy bàn tay người đẹp và thú nhận tình yêu dành cho nàng. Nữ bá tước trẻ đẹp có vẻ bối rối trước một phản
ứng không dự trù. Nàng trở nên lịch sự rồi xin phép cáo lui. Suốt thời gian còn lại của buổi tối hôm ấy, nàng tránh không nhìn chàng, ngay cả khi đứng ở thềm để tiễn khách. Vài lần sau khi đến thăm, chàng chỉ được gia nhân ra báo là nàng đi vắng. Mãi đến lâu sau này khi gặp lại, cả hai cảm thấy sượng sùng và không thoải mái. Bùa mê đã mất linh.
Diễn giải
Ninon de Lenclos biết tường tận mọi đường tơ kẽ tóc của tình trường. Những thi văn hào, chính trị gia, những bộ óc lỗi lạc thời ấy đều từng là tình nhân của bà – chẳng hạn như La Rouchefoucald, Molière và Richelieu. Quyến rũ là trò vui mà bà đã đạt đến mức tuyệt kỹ. Sau này khi bà đã lớn tuổi và vang danh hơn nữa, nhiều gia đình quyền quý ở Pháp có khuynh hướng gửi con trai họ đến cho bà rèn luyện.
Ninon biết rằng tuy nam nữ rất khác nhau, song họ đều cảm thấy như nhau trước sự quyến rũ: Trong thâm tâm, tuy biết tỏng là mình đang bị quyến rũ, song họ sẵn sàng chịu thua vì họ thích cảm giác bị tình yêu xỏ mũi. Thật thích thú khi để mọi chuyện tự do tiến triển, để cho người kia dẫn dắt mình vào một xứ sở lạ kỳ. Tuy nhiên mọi thứ trên lĩnh vực quyến rũ đều tùy vào sự gợi ý. Ta không thể tuyên bố hoặc nói rõ ý định
của mình bằng lời. Ngược lại, ta phải đánh lạc hướng đối tượng. Muốn họ buông lơi theo sự dẫn dắt của ta, ta phải đưa họ vào trạng thái mập mờ thích hợp. Ta phải phát ra những tín hiệu khá rối rắm – chẳng hạn như làm bộ quan tâm đến người khác (giả trang), vờ cho đối tượng biết là ta để ý đến người kia, ra vẻ thờ ơ với mục tiêu thật, liên tục như thế. Những mánh như vậy không chỉ làm cho đối tượng hoang mang mà còn bị kích động.
Chúng ta hãy tưởng tượng diễn biến từ góc độ của nữ bá tước: Sau vài động tác của chàng, nàng biết là chàng đang bày trò nhưng rõ ràng là trò này làm nàng khoái chí. Nàng không biết chàng đưa mình đến đâu, nhưng như thế cũng tốt thôi. Mỗi nước cờ của chàng đều làm nàng thắc mắc, làm nàng thấp thỏm đợi nước đi kế tiếp – thậm chí nàng thích thú ngay cả cảm giác ghen tỵ và rối bời, bởi vì đôi khi chẳng thà có cảm xúc còn hơn là yên tâm trong buồn chán. Biết đâu chàng có hậu ý gì chăng, bởi vì hầu hết đàn ông đều như thế. Nhưng nàng chủ động chờ đợi động thái tiếp theo, và có khả năng là nếu được để chờ đợi đủ lâu, thì với nàng, cuối cùng mục tiêu của chàng là gì cũng được.
Tuy nhiên ngay giây phút sinh tử mà chàng thốt ra tiếng “yêu” thì mọi thứ thay đổi hoàn toàn. Những gì chàng làm trước nay không còn là một ván cờ nhiều bước mà đơn thuần chỉ là một cách biểu hiện đam mê thô thiển. Chủ tâm của chàng đã bị phát hiện: chàng đang quyến rũ ta. Chính việc này đã phô hết tất cả các hành động của chàng ra một ánh sáng mới. Những gì trước đây có vẻ duyên dáng giờ trở thành xấu xa và quỷ quyệt. Nữ bá tước cảm thấy mình bị xui khiến. Cánh cửa lòng đã khép và không bao giờ hé mở.
Đừng để người khác biết mình là tên lừa dối,
mặc dù ngày nay thật khó sống mà không lừa dối.
Hãy để cho những mánh khóe thâm độc nhất của bạn
ẩn mình dưới lớp ngụy trang không phải là mánh khóe.
(Baltasar Gracián, 1601-1658)
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Vào năm 1850, Otto von Bismarck, lúc ấy là một thành viên 35 tuổi của nghị viện nước Phổ, đang đứng tại khúc quanh của sự nghiệp. Chủ đề nghị luận trong ngày là việc thống nhất nhiều Nhà nước (kể cả Phổ) thành nước Đức (lúc ấy đang bị chia cắt), và vấn đề chiến tranh chống nước Áo. Nước láng giềng hùng mạnh này muốn duy trì một nước Đức yếu ớt và trong tình trạng xung đột triền miên, thậm chí Áo còn hăm dọa can thiệp nếu nước Đức dự định thống nhất. Hoàng tử William, người sẽ kế vị vua Phổ, thuộc phe chủ chiến cùng với nghị viện, sẵn sàng ủng hộ việc động viên toàn quân. Phe chủ hòa chỉ có nhà vua Frederick William IV và một số bộ trưởng, có khuynh hướng vỗ an nước Áo hùng mạnh.
Suốt một đời sự nghiệp, Bismarck luôn là người cổ vũ trung kiên, thậm chí cuồng nhiệt cho uy quyền và sức mạnh nước Phổ. Ông ta mong ước nước Đức thống nhất, muốn tuyên chiến với Áo đề làm bẽ mặt cái đất nước từ lâu xui khiến Đức quốc phải phân ly. Là cựu chiến binh, ông ta xem đấu tranh vũ trang như là sự nghiệp vinh quang.
Nói cho cùng thì Bismarck là người mà vài năm sau đó đã nói: “Những vấn đề thời sự sẽ được quyết định, không phải bằng diễn văn và nghị quyết, mà bằng sắt máu.”
Vào đỉnh cao của cơn sốt chiến tranh, là một nhà ái quốc cuồng nhiệt và là kẻ ham thích vinh quang quân sự, ông làm cả nghị viện sửng sốt với bài diễn văn, trong đó có đoạn: “Thương thay những nhà chính trị, những người muốn lâm chiến mà không có một lý do vững chắc nào cho đến khi chiến tranh kết thúc! Sau cuộc chiến, các vị sẽ nhìn các vấn đề này khác đi. Lúc ấy liệu các vị có đủ can đảm quay nhìn người nông dân đang thẫn thờ trước đống tro tàn của trang trại, người đã bị què quặt, người cha đã mất những đứa con mình hay không?”. Bismarck không chỉ tiếp tục nói về những điên rồ của cuộc chiến đó, mà điều lạ hơn cả là ông ta còn ca ngợi và bênh vực hành động của nước Áo. Việc này đi ngược lại tất cả những gì ông từng bảo vệ. Hiệu quả tức thì. Bismarck phản chiến – việc này còn có thể có ý nghĩa nào khác nữa? Những nghị viên khác rất hoang mang và nhiều người trong số họ thay đổi ý kiến lúc trưng cầu. Cuối cùng nhà vua và các bộ trưởng thắng thế và tránh được chiến tranh.
Nhiều tuần sau khi Bismarck đọc bài diễn văn tai tiếng, nhà vua cảm thấy biết ơn vì Bismarck đã biện hộ cho hòa bình nên bổ nhiệm ông làm bộ trưởng. Vài năm sau đó Bismarck lên chức thủ tướng nước Phổ. Trong vai trò này, ông đã dẫn dắt đất nước và một nhà vua yêu mến hòa bình vào cuộc chiến chống lại nước Áo, đạp tan đế chế này và thiết lập một Nhà nước Đức hùng mạnh, mà đứng đầu là nước Phổ.
Diễn giải
Vào thời điểm bài diễn văn năm 1850, Bismarck đã có nhiều suy nghĩ chiến lược. Thứ nhất, ông ta cảm thấy quân đội Phổ, vốn chưa theo kịp đà phát triển của quân đội các nước Âu châu khác, sẽ không sẵn sàng cho cuộc chiến – có nghĩa là thực tế nước Áo có cơ may thắng trận và nước Phổ sẽ gặp đại họa. Thứ nhì, nếu Bismarck ủng hộ phe chủ chiến và sau đó Phổ thua thì xem như sự nghiệp của Bismarck cũng thua luôn. Nhà vua và các bộ trưởng bảo thủ muốn có hòa bình, trong khi Bismarck lại muốn được uy quyền. Kế sách là phải đánh lạc hướng nhân dân bằng cách ủng hộ một đường lối mà ông ta căm ghét, đưa ra những lời lẽ mà nếu do người khác nói ra, Bismarck sẽ cười chê. Cả một quốc gia bị đánh lừa. Chính nhờ bài diễn văn chủ hòa đó mà Bismarck được nhà vua cho làm bộ trưởng, từ đó ông ta nhanh chóng tiến lên ghế thủ tướng, đạt được uy quyền nhằm củng cố quân đội Phổ và thực hiện điều mà ông luôn ấp ủ: làm nhục nước Áo, cùng với việc thống nhất Nhà nước Đức dưới sự lãnh đạo của nước Phổ.
Chắc chắn Bismarck là một trong những chính khách khôn ngoan nhất trên cõi đời này, một bậc thầy về chiến lược và lừa bịp. Không ai ngờ được thực tâm của ông trong trường hợp kể trên. Nếu nói rõ ý định của mình rằng nên ẩn nhẫn chờ thời, đợi sau này mới xuất quân, hẳn ông đã không được số đông ủng hộ,
bởi vì hầu hết người Phổ lúc ấy đều nóng lòng chiến đấu và lầm tưởng rằng quân đội mình giỏi hơn người Áo. Còn nếu mặc cả với nhà vua một ghế bộ trưởng đổi lấy sự hòa bình, có lẽ Bismarck cũng chẳng được gì: Nhà vua sẽ nghi ngờ “thiện ý” của ông ta.
Tuy nhiên khi hoàn toàn giả dối và phát ra tín hiệu sai lạc, Bismarck đã lừa gạt hết mọi người, che đậy mục tiêu của mình và đạt được tất cả những gì mà mình nhắm đến. Đó là sức mạnh của việc giấu kín ý đồ.
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Hầu hết thiên hạ đều là những quyển sách mở. Họ cảm thấy như thế nào thì nói như thế đó, nêu lên ý kiến mình trong mọi tình huống và thường xuyên tiết lộ kế hoạch lẫn ý định. Họ làm như vậy vì nhiều lý do. Thứ nhất, khuynh hướng tự nhiên là luôn muốn nói về cảm xúc và dự định của mình. Còn nếu muốn giữ mồm giữ miệng thì ta phải tốn công sức. Thứ hai, nhiều người tin rằng thật thà cởi mở sẽ dễ làm kẻ đối diện có cảm tình, vì họ thấy được bản chất tốt của mình. Họ lầm to. Thật ra tính trung thực là một lưỡi dao cùn, cắt thì không ngọt, nhưng lại làm chảy nhiều máu. Khi trung thực, ta có thể làm mất lòng nhiều người. Ta nên cẩn thận gọt giũa chữ nghĩa, cho mọi người nghe những gì họ muốn nghe hơn là nói ra sự thật thô thiển và xấu xa vốn là những gì ta cảm và nghĩ trong lòng. Quan trọng hơn, khi trâng tráo cởi mở cõi lòng, ta để cho mọi người biết rõ mình rồi họ lờn mặt, từ đó rất khó tôn trọng hay e sợ ta, và uy quyền sẽ không đổ dồn về một kẻ không làm người khác tôn trọng hay e sợ.
Muốn nắm quyền, bạn nên nhanh chóng tạm gác tính trung thực sang một bên và tự rèn luyện nghệ thuật ngụy trang ý đồ. Một khi đã nhuần nhuyễn rồi, bạn sẽ luôn nắm thế thượng phong. Một nét cơ bản có lợi cho khả năng che đậy ý đồ, đó là sự thật đơn giản về bản chất loài người: Bản năng đầu tiên của ta là luôn tin vào dáng vẻ bề ngoài. Chúng ta không muốn mất thì giờ nghi ngờ cái thực tế sờ sờ mắt thấy tai nghe, bởi vì nếu cứ luôn tưởng tượng ra những gì ẩn nấp sau cái bề ngoài đó, ta sẽ kiệt sức và kinh hãi. Sự việc này giúp ta che đậy ý đồ không mấy khó khăn. Chỉ cần nhử ra trước mắt mọi người một đồ vật ta bảo là thèm muốn, một mục tiêu mà ta bảo đang vươn tới thì họ sẽ tin rằng đấy là thực tế. Một khi dán mắt vào mồi nhử, họ sẽ không thể phát hiện ra chủ tâm của ta. Muốn mê hoặc, ta nên phát đi nhiều tín hiệu trái ngược, chẳng hạn như sự khao khát và vẻ thờ ơ, như thế ta không chỉ đánh lạc hướng được đối tượng mà còn đổ thêm dầu vào đống lửa lòng của họ khiến họ càng muốn điều khiển ta.
Một chiến thuật thường khá hữu hiệu để nghi trang là tỏ vẻ ủng hộ một ý tưởng hoặc đường lối thực ra ngược lại với lòng mình. (Bismarck đã sử dụng rất hiệu quả điều này trong diễn văn đọc vào năm 1850.) Hầu hết mọi người sẽ tin là bạn đã thay lòng đổi dạ, bởi vì ít khi nào người ta lại bỡn cợt với những gì thân thiết như quan điểm và nguyên tắc. Ta nên áp dụng chiến thuật này cho bất kỳ điều gì đã ngụy trang thành đối tượng được thèm khát: Làm bộ thèm muốn điều gì đó mà thực ra ta không muốn, và địch thủ sẽ bị đánh lạc hướng, sẽ mắc đủ loại sai lầm khi suy tính.
Trong cuộc chiến Thừa kế Tây Ban Nha vào năm 1711, Công tước Marlborough, tổng tư lệnh quân đội Anh, muốn tiêu diệt một công sự Pháp vì công sự này bảo vệ một tuyến huyết mạch dẫn vào đất Pháp. Nhưng ông ta hiểu là nếu phá hủy công sự, quân Pháp sẽ biết ra ý đồ của mình - dẫn quân qua lối đó. Vì vậy công tước chỉ quyết định đơn thuần chiếm lấy công sự rồi đưa ít quân vào đồn trú, làm cho phe địch lầm tưởng rằng ông ta muốn chiếm trại với mục đích nào khác. Quân Pháp tiến chiếm và công tước cứ để họ chiếm lại. Tuy nhiên khi đã tái chiếm rồi thì chính quân Pháp lại phá hủy công sự, vì cho rằng công tước Marlborough muốn giữ nó bởi một lý do quan trọng. Và khi công sự đã không còn thì đạo lộ lại trơ vơ không ai bảo vệ và Marlborough dễ dàng hành quân vào đất Pháp.
Hãy sử dụng chiến thuật này theo cách sau: Che đậy ý đồ, nhưng đừng ngậm miệng im bặt (vì như thế người khác sẽ nghi ngờ là bạn đang… che đậy ý đồ), mà phải luôn nói về mong ước và mục tiêu của mình, nhưng không phải mục tiêu thật. Với một hòn đá bạn sẽ ném trúng ba con chim: Bạn có vẻ cởi mở hữu nghị và tin người; bạn che đậy được ý đồ; và bạn đánh lạc hướng được địch thủ, khiến họ mất thêm thì giờ suy tìm những thứ viển vông.
Một trò hữu hiệu khác để đánh lạc hướng là sự trung thực giả tạo. Mọi người thường lầm sự trung thực với tính lương thiện. Bạn hãy nhớ - bản năng đầu tiên của họ là tin vào vẻ bề ngoài, và vì họ đánh giá cao tính lương thiện cũng như muốn tin vào sự lương thiện của những người xung quanh, ít khi nào họ nghi ngờ hoặc nhận chân thực chất của bạn. Cứ giả vờ tin như thật vào những gì mình nói, thì luận cứ của bạn sẽ tăng thêm trọng lượng. Đó là cách mà Iago đánh lừa và tiêu diệt Othello: Nhìn thấy niềm cảm xúc cao độ của Iago, thấy mối quan ngại của hắn đối với sự bất trung của Desdemona, làm sao mà Othello nghi ngờ hắn cho được? Đó cũng là cách mà Yellow Kid Weil, bậc thầy về lừa đảo, đã làm mờ mắt kẻ cả tin: Ra vẻ tin tưởng đậm đà vào cái bã mà hắn nhử trước mắt mọi người (đó có thể là một loại chứng khoán dởm, một trận đấu đã bán độ), hắn càng làm mọi người khó ngờ vào sự thật. Tất nhiên, điều quan trọng là bạn không nên phiêu lưu quá xa ở lĩnh vực này. Sự trung thực là thứ dụng cụ rắc rối: Mọi người sẽ nghi ngờ nếu bạn quá cao hứng. Bạn phải biết chừng mực đủ để người ta tin, nếu không sẽ lộ tẩy.
Để cho sự trung thực giả tạo trở thành vũ khí hữu hiệu trong việc che đậy ý đồ, bạn hãy rêu rao rằng sự lương thiện và tính bộc trực là giá trị đạo đức xã hội. Càng công khai điều này càng tốt. Nhấn mạnh lập trường của bạn bằng cách thỉnh thoảng giãi bày vài cảm nghĩ chân thành – tất nhiên chỉ là thứ cảm nghĩ không có ý nghĩa hoặc giá trị gì cả. Talleyrand, tay trợ thủ của Napoléon là bậc thầy về việc thổ lộ tâm tư
bằng cách tiết lộ vài chuyện có vẻ bí mật. Sự giả vờ này là mồi nhử cho phía bên kia nói lên những tâm tư thật.
Hãy nhớ: Bậc thầy lừa đảo sẽ làm tất cả những gì có thể để che đậy sự đểu càng của hắn. Hắn luôn chăm chút một vẻ bề ngoài lương thiện ở lĩnh vực này để ngụy trang sự bất lương trên lĩnh vực khác. Vẻ lương thiện chỉ là một cái bã nữa trong kho vũ khí của hắn.
PHẦN II:
TUNG HỎA MÙ ĐỂ NGỤY TRANG HÀNH ĐỘNG
Dối trá luôn là chiến lược tốt nhất, nhưng những màn dối trá tuyệt nhất luôn cần có đòn hỏa mù để mọi người không chú ý đến chủ tâm của ta. Một bề ngoài vô cảm – như gương mặt kẻ chơi bài xì phé – thường là bức bình phong lý tưởng, che giấu chủ tâm mình sau dáng vẻ ung dung và quen thuộc. Nếu ta dẫn dụ kẻ ngây ngô trên một lối đi quen thuộc, hắn sẽ không mảy may nghi ngờ cho đến khi sụp bẫy.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Vào năm 1910, một cư dân thành phố Chicago tên là Sam Geezil bán lại dịch vụ kinh doanh kho bãi được xấp xỉ một triệu đôla. Ông sắp xếp lui về tư thế bán hưu trí để quán lý nhiều thứ nhà cửa đất đai mà trước nay ông chưa đủ thời gian để chuyên tâm. Song tận đáy lòng ông vẫn ngứa ngáy nhớ lại những ngày thương lượng kinh doanh. Ngày kia có chàng trai trẻ tên Joseph Weil đến gặp ông để đòi mua một căn hộ mà ông rao bán. Geezil nói rõ thể thức: Giá căn hộ là 8.000 đô nhưng ông chỉ cần ứng trước 2.000. Weil bảo để suy nghĩ, nhưng hôm sau anh ta trở lại đề nghị trả một lần 8.000 đô tiền mặt, nếu Geezil bằng lòng chờ vài ngày nữa, vì Weil đang chờ nhận tiền từ một thương vụ sắp hoàn thành. Mặc dù gần như đã về hưu song một doanh nhân khôn khéo như Geezil tò mò vì đâu Weil có khả năng tìm được số tiền mặt khá lớn (khoảng 150.000 đô hiện nay) trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó. Weil tỏ vẻ không muốn nói và đổi chủ đề đối thoại, song Geezil gặng hỏi mãi. Cuối cùng sau khi dặn dò ông già phải kín miệng, Weil kể Geezil nghe câu chuyện sau đây.
Chú của Weil là viên thư ký một nhóm nhà tài phiệt tỷ phú. Cách nay mười năm, bọn giàu tiền lắm của này đã vớ được một nhà nghỉ trong khi săn bắn với giá rẻ. Nhưng nhiều năm gần đây bọn họ không sử dụng ngôi nhà và nhờ chú của Weil bán giúp với giá nào cũng được. Vì một số lý do riêng – hẳn nhiên phải là lý do chấp nhận được – chú của Weil có ác cảm với bọn nhà giàu đó và việc mua bán này sẽ là cơ hội trả oán. Ông chú sẽ bán ngôi nhà với giá 35.000 đô cho một kẻ bù nhìn (mà Weil được phân công đi tìm). Vì quá giàu nên bọn tỷ phú kia không quan tâm đến cái giá thấp ấy. Sau đó kẻ bù nhìn sẽ bán lại ngôi nhà theo giá trị đích thực là 155.000 đô. Ông chú Weil và kẻ bù nhìn kia sẽ chia đều lợi nhuận. Tất cả đều hợp pháp và chính đáng – vì chẳng qua ông chú muốn trả oán mà thôi.
Geezil nghe như thế đã đủ: ông bằng lòng đóng vai kẻ bù nhìn. Weil tỏ vẻ không muốn cho ông ta vào cuộc, nhưng Geezil cứ khăng khăng: Viễn cảnh một món quá hời, cộng với chút hương vị phiêu lưu làm ông ta phát sốt. Weil giải thích rằng Geezil phải sửa soạn sẵn khoản tiền mặt 35.000 để đúc kết thương vụ này. Bản thấy cũng là nhà triệu phú, Geezil cho biết chỉ cần búng tay là có ngay món tiền đó. Nghe xong Weil có vẻ dịu giọng và bằng lòng sắp xếp buổi gặp mặt giữa ông chú, Geezil và những nhà tài phiệt tại thị trấn Galesburg ở Illinois.
Trên xe lửa đến Galesburg, Geezil được giới thiệu với ông chú, một người thật cao to, mà Geezil phấn khởi bàn bạc phu vụ sắp diễn ra. Weil còn dẫn theo một người nữa tên là George Gross. Weil cho Geezil biết rằng mình còn là huấn luyện viên boxing, rằng Gross là tay đấm rất hứa hẹn đang theo chương trình tập luyện cao độ cho một trận đấu sắp diễn ra trong nay mai, vì vậy phải dẫn Gross theo để chương trình không bị gián đoạn. Nếu bảo Gross là tay đấm hứa hẹn thì cũng lạ, bởi vì tóc anh ta đã hoa râm, còn cái bụng thì đúng là bụng bia. Song Geezil quá hồ hởi về phi vụ nóng bỏng nên không quan tâm đến cái bề ngoài nhão nhoét đó.
Khi tới Galesburg, Weil và ông chú đi mời những nhà tài phiệt trong khi Geezil cùng Gross đợi trong phòng khách sạn. Gross thay đồ và mặc vào cặp quần thi đấu, bắt đầu tập luyện đấm không khí. Mặc dù đấm cũng có nhét, song chỉ sau vài phút là anh ta thở hổn hển, tuy nhiên Geezil không để ý, vì mải mơ tưởng đến vụ làm ăn. Một giờ đồng hồ sau, Weil và ông chú dẫn đoàn tài phiệt tới, tất cả đều ăn vận thật bảnh bao, làm cho người đối diện phải ấn tượng và e sợ. Cuộc thương lượng tiến hành suôn sẻ và nhóm tài phiệt bằng lòng bán cho Geezil cái nhà nghỉ chỉ với giá 35.000 đô mà Geezil đã chuyển sẵn về một ngân hàng địa phương.
Sau khi dứt điểm “chuyện vặt” này, nhóm tài phiệt ngồi thư giãn và bắt đầu đề cập đến các vấn đề tài chính cao cấp, thỉnh thoảng lại khè ra tên của “J. P. Morgan” như thể họ chơi thân với ông trùm tài chính này. Cuối cùng một người trong bọn họ cũng chú ý đến võ sĩ boxing ở góc phòng. Weil lại giải thích với họ như đã nói với Geezil. Nhóm tài phiệt bảo rằng họ cũng quen một tay đấm danh tiếng trong vùng. Nghe họ nói tên, Weil cười mỉa và cho rằng võ sĩ của mình sẽ dễ dàng nốc-ao tay kia. Lời qua tiếng lại trở thành cuộc tranh cãi. Trong cơn hăng máu, Weil thách thức nhóm tài phiệt cá độ. Họ liền ưng thuận và ra về để báo tay đấm địa phương chuẩn bị cho trận đấu ngày mai.
Họ vừa đi khỏi thì ông chú quát Weil trước mặt Geezil: Hai chú cháu đâu có sẵn tiền cá độ, và nếu nhóm kia biết được thì họ sẽ đuổi việc ông chú. Weil xin lỗi vì đã đưa chú vào tình thế này, nhưng anh ta bàn bạc như sau: Anh ta quen với tay đấm kia, và chỉ cần cho chút tiền là có thể sắp xếp trận đấu. Nhưng lấy đâu ra tiền cá độ? Ông chú hỏi lại. Không có tiền thì dù có sắp xếp hay cách mấy đi nữa thì ta cũng đi tong. Geezil cuối cùng phải lên tiếng. Vì không muốn để phi vụ ngon ăn của mình phải hỏng vì trục trặc nhỏ, ông bằng lòng ứng 35.000 của mình như là một phần của tiền cược. Giả dụ có thua mất món này thì ông vẫn có khả năng điện về ngân hàng trung ương bảo gửi thêm tiền và vẫn còn lời từ phi vụ mua bán nhà nghỉ. Cả hai chú cháu hết lời cảm ơn ông. Với số tiền riêng của họ lên đến 15.000 và 35.000 của Geezil coi như là đủ tiền độ. Tối hôm đó lúc xem cả hai tay đấm tập tuồng trong phòng khách sạn, Geezil khoái rân khi nghĩ đến bao nhiêu bạc sẽ thu về từ trận đấu và vụ mua bán dởm.
Ngày hôm sau trận đấu diễn ra trong một phòng tập thể dục. Tiền cược của hai phe được đặt trong cái két có khóa an toàn. Mọi việc diễn ra như đã sắp xếp tối qua. Nhóm tài phiệt có vẻ cáu khi tay đấm của họ thi đấu chẳng ra gì, trong khi Geezil đang mơ về số tiền dễ kiếm. Thình lình tay đấm lạ mặt kia móc một cú sinh tử vào quai hàm Gross khiến chàng bụng phệ ngã quỵ. Khi đo ván, Gross hộc ra một bụm máu. Gross nấc lên một tiếng rồi nằm bất động. Một trong những nhà tài phiệt, nguyên là bác sĩ, kiểm tra tim mạch và cho biết Gross đã chết. Nhóm tài phiệt hoảng hốt thấy rõ: Ai cũng muốn đua ra ngoài cho nhanh trước khi cảnh sát tới, để tránh rủi ro bị kết tội giết người.
Quá sợ hãi, Geezil chuồn khỏi phòng tập và vọt về Chicago, bỏ lại 35.000 mà ông sẵn sàng quên phắt, bởi vì cái giá đó có vẻ còn rẻ chán để tránh dính dáng vào một tội ác. Ông ta không bao giờ muốn gặp lại Weil hoặc bất kỳ người nào khác trong phòng tập hôm đó.
Sau khi Geezil chuồn rồi, Gross đứng dậy tỉnh bơ. Bụm máu mà hắn hộc ra chính là máu gà pha với nước nóng, đựng trong cái bong bóng nhỏ nhét phía trong gò má. Nguyên cả kịch bản được soạn thảo bởi Weil, kẻ được biết đến nhiều hơn với hỗn danh “Yellow Kid”, một trong những tay lừa đảo có óc sáng tạo nhất trong lịch sử. Weil chia số tiền 35.000 cho nhóm tài phiệt và hai tay đấm (tất cả đều trong băng lừa đảo) – quả thật đáng công cho một hai ngày lao động.
>
Diễn giải
Từ rất lâu trước khi dàn dựng kịch bản, Yellow Kid đã xác định rằng Geezil là con mồi hoàn hảo. Hắn ta biết màn kịch về một trận đấu boxing sẽ là mưu kế lý tưởng để tách lìa Geezil với số tiền của ông ta một cách nhanh chóng và vĩnh viễn. Nhưng trùm lừa cũng hiểu rằng nếu mình bắt đầu bằng việc dẫn dụ Geezil tập trung vào trận đấu thì sẽ không thể thành công. Hắn biết mình phải che đậy ý đồ và chuyển dịch sự chú ý của đối tượng, tạo ra màn hỏa mù – mà trong trường hợp này là việc mua bán nhà nghỉ.
Suốt hành trình xe lửa và trong phòng khách sạn, đầu óc Geezil chỉ miên man về phi vụ sắp tới, về món tiền dễ kiếm và cơ hội gặp gỡ những nhà tài phiệt. Ông ta xao lãng nên không thắc mắc về tuổi tác và phong độ của Gross. Đó là khả năng làm xao lãng của màn hỏa mù. Cũng vì quá mê mải làm ăn nên Geezil dễ bị vụ thi đấu đánh lạc hướng, nhưng lại không kịp thời nhận thấy những chi tiết lẽ ra đã làm Gross lộ tẩy. Suy cho cùng thì trận đấu lại tùy thuộc vào việc đút lót chứ không vào khả năng của Gross. Và vào thời điểm cuối, Geezil cũng bị đánh lạc hướng bởi cái chết giả tạo của tay võ sĩ, nên quên mất số tiền.
Hãy học bài này từ Yellow Kid: Bức bình phong quen thuộc và kín đáo sẽ là màn hỏa mù lý tưởng. Hãy tiếp cận mục tiêu bằng một ý tưởng có vẻ bình thường – một vụ làm ăn, một mánh khóe tài chính. Đầu óc con nai tơ sẽ mất cảnh giác và mọi nghi ngờ sẽ dần tan đi. Đó chính là lúc ta nên dịu dàng đưa đối tượng vào tử lộ, cho hắn trượt dài theo con dốc mà không thể nào gượng lại được, cho đến khi rơi vào chiếc bẫy ta giăng sẵn.
NƯỚC CỜ HIỂM HÓC CỦA HAILE SELASSIE
Vào giữa những năm 1920, các lãnh đạo vũ trang ở Ethiopia nhận ra rằng một người trẻ tuổi dòng dõi quý tộc tên là Haile Selassie, còn gọi là Ras Tafari, đang vượt trội hơn họ, gần như là có khả năng tự tuyên bố lãnh tụ của họ và thống nhất đất nước lần đầu tiên sau bao thập niên chiến tranh. Hầu hết các địch thủ của
Selassie không hiểu làm thế nào mà một người mảnh khảnh, trầm lặng, hòa nhã như thế lại có thể nắm quyền kiểm soát đất nước. Vậy mà vào năm 1927, Selassie lại mời được từng vị lãnh đạo đến Addis Ababa
để đàm đạo, sau đó họ nhìn nhận ông là lãnh tụ và tuyên bố trung thành với ông.
Một số người nhanh chóng hợp tác, một số khác còn lưỡng lự nhưng chỉ còn mỗi Dejazmach Balcha vùng Sidamo là dám hoàn toàn thách thức Selassie. Là một chiến binh dày dạn và ngạo mạn, Balcha cho rằng Selassie yếu ớt và không xứng đáng làm lãnh tụ. Ông ta khăng khăng không thèm đến kinh đô theo lời mời của Selassie. Cuối cùng, tuy hòa nhã nhưng cương quyết, Selassie lệnh cho Balcha phải tới. Vị chỉ huy này cũng chịu nghe theo, nhưng cách thức mà ông ta cho là sẽ nghiêng phần thắng về mình: Balcha hành quân thần tốc đến kinh thành, dẫn theo 10.000 chiến binh, đủ để tự bảo vệ, thậm chí có thể khơi dậy một cuộc chiến. Đóng quân trong một thung lũng cách kinh đô chừng ba dặm, ông ta chờ Selassie đến gặp, như một ông vua đợi kẻ ngang hàng.
Quả nhiên Selassie cho sứ giả tới, mời Balcha dự buổi chiêu đãi để bày tỏ sự kính trọng. Song Balcha cũng không phải kẻ thù khờ - ông biết rằng nhiều vị vua và chỉ huy quân sự Ethiopia trước đây từng sử dụng lễ lạc chiêu đãi làm cái bẫy. Ông đề phòng khả năng khi mình đã mềm môi thì Selassie sẽ cho bắt giam hoặc ám sát. Để tỏ rõ sự khôn ngoan, ông bảo sứ giả về báo lại rằng mình chỉ dự tiệc với điều kiện là dẫn theo đội ngự lâm – gồm 600 chiến sĩ giỏi nhất, tất cả đều trang bị vũ khí và sẵn sàng bảo vệ ông. Balcha rất ngạc nhiên khi Selassie lễ độ trả lời rằng mình rất vinh dự tiếp đón những chiến binh dũng cảm ấy.
Trên đường đến bữa tiệc, Balcha nhắc nhở đám cận vệ một lần nữa là không được uống rượu và phải đề cao cảnh giác. Khi đoàn quân này tới cung điện, Selassie ân cần khoản đãi. Ông ta một mực chiều chuộng Balcha và ứng xử như thể thiết tha cần được Balcha bằng lòng hợp tác. Nhưng Balcha nói cho Selassie biết rằng mình không dễ bị dụ và nếu đến nửa đêm nay mà ông chưa trở về doanh trại thì các chiến binh sẽ tấn công kinh thành. Selassie sững sờ như thể bị tổn thương vì lòng hiếu khách bị nghi ngờ. Khi buổi yến tiệc đến phần xướng hát truyền thống để vinh danh các vị lãnh đạo Ethiopia, Selassie tuyên bố chỉ cho trình bày những bài ca ngợi tướng quân vùng Sidamo. Balcha cảm thấy hình như Selassie đã biết sợ, bị ấn tượng bởi vị chỉ huy không bị mắc lừa. Ông ta tin rằng trong những ngày sắp tới, mình sẽ là người nắm quyền điều khiển.
Khi tiệc đã mãn, Balcha cùng đội ngự lâm bắt đầu ra về trong tiếng reo hò tiễn biệt và những loạt súng danh dự. Quay nhìn kinh thành, ông ta suy tính rằng chỉ vài tuần nữa thôi, mình sẽ dẫn quân tiến chiếm và đánh bại Selassie, sau đó sẽ hành quyết tên này hoặc ít nhất cũng là ngục tối. Tuy nhiên khi về đến doanh trại, hắn chứng kiến một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp: Nơi mà vừa mới sáng nay thôi còn là hàng hàng lớp lớp lều vải quân đội dài đến ngút ngàn, thì giờ chỉ còn là đống tro tàn. Bùa phép ma thuật nào đây?
Sau đó có người kể lại với Balcha rằng trong khi ông đang dự tiệc thì một đồng minh của Selassie đã bất ngờ dẫn quân tới qua một ngõ tắt. Nhưng đội quân này không đến để tấn công: Hiểu rằng nếu xảy ra đụng độ, Balcha sẽ nghe thấy và sẽ cùng đội ngự lâm 600 người rút về, nên Selassie trang bị đội quân kia với vô số giỏ đựng tiền và vàng. Quân đồng minh của Selassie vây quanh doanh trại của Balcha và đề nghị mua lại tất cả binh khí không sót thứ gì. Ai còn do dự thì bị hù dọa. Chỉ trong vài giờ, nguyên cả binh đoàn của Balcha không còn tấc sắt trong tay và bỏ đi tứ tán.
Biết mình đang lâm nguy, Balcha liền cùng đội ngự lâm rút lui về lãnh địa, nhưng lại bị chính đội quân đồng minh của Selassie kia phục kích. Chỉ còn hướng duy nhất là liều chết tấn công kinh thành, nhưng lúc đó Selassie đã dàn trận với lực lượng hết sức hùng hậu. Giống như người chơi cờ, Selassie đã tiên đoán các nước của Balcha và chiếu bí. Lần đầu tiên trong đời Balcha phải đầu hàng. Hối hận vì đã để sự ngạo mạn và tham vọng làm mờ mắt, ông ta lui về ở ẩn trong tu viện.
Diễn giải
Suốt những năm dài Selassie trị vì, chưa ai biết rõ lòng dạ ông ta. Người dân Ethiopia rất thích loại lãnh tụ hiên ngang oai vệ, nhưng dưới vẻ bề ngoài hòa nhã và yêu mến hòa bình, Selassie trị vì lâu hơn tất cả các lãnh tụ khác. Không bao giờ tỏ ra nóng giận hoặc thiếu kiên nhẫn, ông dẫn dụ con mồi bằng những nụ cười dịu ngọt, vỗ an họ bằng sự tao nhã và khiêm cung trước khi tấn công họ.
Ở trường hợp Balcha, Selassie thao túng sự cảnh giác và nghi ngờ bữa tiệc sẽ là cái bẫy – thật ra đó là cái bẫy, nhưng không phải theo kiểu mà Balcha dự đoán. Cách Selassie trấn an nỗi sợ của địch thủ - cho phép hắn dẫn theo đông đảo cận vệ quân, tôn hắn lên vị trí hàng đầu, để cho hắn cảm thấy mình đầy uy quyền – đã tạo ra bức màn hỏa mù dày đặc, che đậy hành động thực diễn ra cách đó ba dặm.
Bạn hãy nhớ: Những người hoang tưởng và thận trọng luôn dễ bị lừa nhất. Chỉ cần làm cho họ tin bạn ở một lĩnh vực này thì bạn dễ dàng tung hỏa mù ở lĩnh vực khác, từ đó âm thầm tiếp cận rồi nghiền nát họ bằng một cú đấm sinh tử. Những cử chỉ có vẻ đạo đức hay thân thiện, hoặc vẻ như tôn địch thủ lên, sẽ là mánh khóe nghi binh hoàn hảo.
Nếu được dựng lên một cách thích hợp, bức bình phong hỏa mù là một vũ khí rất hùng mạnh. Vũ khí này đã giúp cho một Selassie lịch sự tiêu diệt được kẻ thù mà không tốn một viên đạn nào.
Đừng đánh giá thấp năng lực của Tafari. Hắn bò như
một con chuột nhưng răng hắn sắc như răng sư tử.
(Những lời cuối cùng của Balcha trước khi lui vào tu viện.)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Nếu tưởng rằng bọn lừa đảo là những kẻ hoa hòe với lời ngon tiếng ngọt trau chuốt tinh vi, thì bạn lầm to. Những bậc thầy lừa đảo luôn có một bề mặt trần trụi và không có gì nổi bật, nên không ai để ý đến. Họ biết rằng các lời lẽ và hành động khoa trương luôn khơi gợi nghi ngờ. Họ luôn che mắt con mồi bằng những gì quen thuộc, tầm thường và có vẻ vô hại nhất. Trong phi vụ giữa Yellow Kid Weil và Sam Geezil, điều quen thuộc là một vụ làm ăn. Ở trường hợp Balcha, đó là sự khiêm cung của Selassie, vốn đúng như thứ mà Balcha muốn nhìn thấy nơi một kẻ chỉ huy yếu thế hơn mình.
Một khi con mồi đã bị mê hoặc vì cái vẻ quen thuộc, họ sẽ không ngờ tới việc mình bị đâm sau lưng. Sự thật này cũng đơn giản thôi: ở một thời điểm nhất định, người ta chỉ có khả năng tập trung vào một điểm duy nhất. Thật khó cho họ nghĩ ra rằng cái vẻ vô hại và tẻ ngắt kia lại có thể dàn dựng màn gì khác. Trong đòn hỏa mù, nếu màn khói của bạn càng xám xịt và đồng nhất thì ý đồ của bạn lại càng được che đậy tốt. Với các mánh khóe nghi trang và đánh lạc hướng đã bàn bạc ở Phần 1, bạn chủ động làm đối tượng xao lãng. Còn ở đòn hỏa mù, bạn dụ con mồi vào mạng nhện của mình.
Hình thức hỏa mù đơn giản nhất là vẻ mặt. Trước một vẻ mặt trơ trơ và không thể dò được, bạn tha hồ xếp đặt đủ loại mưu kế mà địch thủ không thể phát hiện. Đây là loại vũ khí mà những nhân vật uy quyền nhất lịch sử đã tìm cách hoàn chỉnh. Người ta đồn là không ai diễn giải được vẻ mặt của Franklin D. Roosevelt. Suốt đời mình, Nam tước James Rothschild luôn thực hành việc ngụy trang những suy nghĩ thực sự đàng sau những nụ cười vô thưởng vô phạt và vẻ mặt khó tả. Henry Kissinger làm cho những đối tác khác tại bàn đàm phán chán đến phát ốm vì giọng nói đều đều, vẻ mặt trơ trơ và việc cà kê dê ngỗng các chi tiết nhỏ nhoi. Và khi tia nhìn của họ đã lờ đờ, ông ta thình lình phang họ bằng một loạt những từ quan trọng. Bị tấn công ngang sườn như vậy, họ dễ bị hớp hồn. Như một quyển hướng dẫn chơi bài xì phé có viết, “Trong khi thao tác tụ của mình, ta chơi giỏi ít khi đóng kịch. Ngược lại anh ta sắm một vẻ mặt trơ lì và giảm thiểu khả năng suy đoán của đối phương, làm đối phương thất vọng và bối rối, giúp cho anh ta tập trung nhiều hơn.”
Là một khái niệm mềm dẻo dễ thích ứng, màn hỏa mù có thể ứng dụng ở nhiều cấp độ khác nhau, nhưng đều đặt trên nền móng các nguyên tắc tâm lý học về nghi binh và đánh lạc hướng. Một trong những dạng hữu hiệu nhất của đòn hỏa mù là những hành động cao thượng. Mọi người có khuynh hướng tin rằng những hành động cao thượng xuất phát từ thực tâm, vì việc tin tưởng như thế thật dễ chịu. Họ ít khi nhận thấy sự hư ngụy của những hành động ấy.
Một nhà buôn tác phẩm mỹ thuật tên Joseph Duveen có lần phải đối mặt với một vấn đề kinh khủng. Có nhiều nhà triệu phú từng bỏ thật nhiều tiền để mua tranh của ông ta, nhưng giờ đây họ không có một khoảng tường nào còn trống để treo tranh. Mặc khác, vì thuế má đánh vào tài sản thừa kế ngày một cao thêm, nên sẽ có khả năng là họ không mua nữa. Theo Duveen, giải pháp nằm tại National Gallery of Art ở thủ đô Washington, mà ông ta đã góp sức thành lập vào năm 1937 khi thuyết phục Andrew Mellon tặng bộ sưu tập cho Nhà triển lãm. Chính cái National Gallery này sẽ là bức bình phong lý tưởng cho Duveen. Chỉ bằng một hành động duy nhất, các khách hàng của Duveen sẽ tránh được thuế má, giải tỏa được mấy bức vách để lấy chỗ treo tranh mới mua, giảm thiểu được số lượng tranh đang lưu hành trên thị trường và như thế duy trì được sức ép trên giá bán tranh. Ngoài ra, giới triệu phú tự tạo được cái thanh danh là nhà mạnh thường quân cho công chúng.
Một màn hỏa mù hữu hiệu khác là kiểu mẫu, nghĩa là lập ra một chuỗi hành động để làm cho nạn nhân tưởng rằng bạn sẽ tiếp tục theo cùng một phương thức. Đòn này căn cứ trên tâm lý của con người thường có thói quen tiên liệu: Thiên hạ thích ứng xử rập theo kiểu mẫu, hoặc họ thích nghĩ rằng lối ứng xử của mình rập theo một kiểu mẫu nhất định.
Vào năm 1978, tay trùm lừa đảo Jay Gould thành lập một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh sức mạnh độc quyền của công ty điện tín Western Union. Các giám đốc của Western Union quyết định mua đứt luôn cái doanh nghiệp mới mở của Gould. Mặc dù phải bỏ ra món tiền khá lớn, song họ nghĩ rằng như thế sẽ thanh toán được một mối cạnh tranh dễ khiến bực mình. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau thì Gould lại lù lù xuất hiện và than phiền rằng mình bị đối xử không đẹp. Anh ta lại thành lập công ty mới để cạnh tranh cả với Western Union và với cái công ty vừa bị mua lại. Và kịch bản trước đó lại tái diễn: Western Union cũng mua phắt cái công ty cạnh tranh thứ nhì này cho nó dẹp tiệm. Rồi cái mô hình này bắt đầu lần thứ ba, nhưng lần này Gould tấn công vào nhược điểm của địch thủ: Anh ta đột nhiên gây ra một cuộc chiến tàn khốc về việc giành lấy đa số cổ phiếu rồi xoay xở đoạt được quyền kiểm soát Western Union. Trước đó Gould đã dựng lên một mô hình đánh lừa các giám đốc công ty, làm họ lầm tưởng rằng mục đích của anh ta chỉ là lập ra công ty mới để được họ mua lại. Một khi mua xong rồi thì họ buông lỏng cảnh giác, không ngờ rằng Gould đang tính nước cờ cao hơn. Mô hình, hay còn gọi là kiểu mẫu, mạnh ở chỗ nó làm cho địch thủ tin vào điều ngược lại với cái ta đang thực sự tiến hành.
Một nhược điểm tâm lý khác để ta lợi dụng chơi đòn hỏa mù là khuynh hướng tin vẻ bề ngoài là sự thật – thiên hạ cảm giác rằng nếu người nào thuộc về nhóm của mình thì sự thuộc về đó là thật tâm. Thói quen này làm cho kế hòa đồng nhất quán được hữu hiệu. Kế này khá đơn giản: Bạn chỉ cần hòa mình vào những người xung quanh. Hòa mình càng khéo thì mọi người càng ít nghi ngờ. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa thập niên 1950 và 1960, hàng tá công chức Anh Quốc chuyển nhiều bí mật quốc gia cho Liên Xô. Suốt nhiều năm liền họ không bị phát hiện là nhờ cái vẻ bề ngoài đàng hoàng, từng tốt nghiệp những trường đứng đắn và sinh hoạt hội ái hữu cựu học sinh đều đặn. Hòa mình chính là màn hỏa mù hoàn hảo để do thám. Như đã nói, hễ hòa mình càng khéo thì bạn càng che đậy ý đồ của mình càng tốt.
Bạn hãy nhớ: Phải chịu khó kiên nhẫn và nhún nhường để làm mờ những nét sáng chói của mình, từ đó mới ẩn nấp được sau chiếc mặt nạ kín đáo. Bạn đừng nản lòng khi phải mang chiếc mặt nạ trơ trẽn ấy – thường khi cái vẻ khó giải đoán đó lại lôi cuốn người khác đến với bạn và giúp cho bạn có dáng vẻ của một người quyền lực.
Hình ảnh cần ghi nhớ:
Bộ da cừu. Một con cừu không bao giờ cướp bóc, con cừu không bao giờ lừa bịp, cừu luôn ngu ngơ và ngoan ngoãn. Chỉ cần khoác lên lưng tấm da cừu là con cáo ung dung tiến vào chuồng gà.
Ý kiến chuyên gia:
Có bao giờ bạn nghe việc một vị tướng muốn đánh úp thành nhưng lại loan báo ý định đó cho đối phương biết trước? Hãy giấu kín mục đích và che đậy tiến trình, không bao giờ để địch thủ biết quy mô kế hoạch của mình cho đến khi nước đến chân chúng, cho đến khi trận đánh đã ngã ngũ. Hãy thắng trận trước khi tuyên chiến. Nói tóm lại, bạn hãy bắt chước những quân sư thiện chiến kia, không ai biết được mục tiêu của họ, trừ những đất nước điêu tàn mà đoàn quân mã họ đã đi qua. (Ninon de Lenclos, 1623-1706)
NGHỊCH ĐẢO
Sẽ không có màn hỏa mù nào, không đòn nghi binh nào, không vẻ trung thực làm màu hoặc kế sách đánh lạc hướng nào giúp bạn che đậy ý đồ nếu một khi bạn đã mang tiếng là kẻ lừa đảo. Khi bạn càng lõi đời và càng thành công nhiều thì sẽ càng khó cho bạn ngụy trang sự xảo trá. Ai ai cũng đã biết bạn là tay đại bịp,
vì vậy nếu cứ tiếp tục ra vẻ ngây thơ, bạn sẽ bị người khác xem là kẻ đạo đức giả đáng tởm nhất và điều đó sẽ thu hẹp không gian tác chiến của bạn. Trong trường hợp này bạn nên thú nhận tất cả, đóng vai thằng đểu hoàn lương, thậm chí một tên đại bịp đang ăn năn hối cải. Như thế bạn không chỉ được mọi người khen là ngay thẳng, nhưng điều lạ lùng và kỳ diệu nhất là bạn sẽ có khả năng tiếp tục những quỷ kế.
P. T. Barnum là tay trùm lừa đảo hồi thế kỷ XIX. Khi già đi, hắn phải tập cho quen dần với tai tiếng đại bịp mà mọi người gán cho. Có lần hắn tổ chức một buổi đi săn bò rừng tại New Jersey với đầy đủ bộ lễ, kể cả những người Da đỏ và vài con bò nhập khẩu. Barnum ra sức quảng cáo rằng đó là buổi đi săn thực sự,
nhưng về sau mọi chuyện đổ bể tèm lem đến độ thay vì nổi giận và đòi tiền lại, khách hàng lại cảm thấy buồn cười và vui thú. Họ đã biết lúc nào Barnum cũng tính chuyện bịp bợm, rằng đó là chìa khóa thành công của ông ta, vì vậy họ đâm ra yêu mến ông ta. Học được bài quý giá về vụ săn bò, Barnum thôi không che đậy ý đồ nữa, thậm chí còn khai hết những cú lừa trong một quyển tự truyện. Như Kierkegaard đã viết, “Thế giới này thích bị lừa”.
Điều cuối cùng: Mặc dù ta nên khôn ngoan đánh lạc hướng bằng vẻ bề ngoài trơ trơ và quen thuộc, nhưng cũng có những lúc mà hành động màu mè khoa trương lại là chiến thuật nghi binh thích hợp. Những tay đại lang băm hồi thế kỷ XVII và XVIII ở châu Âu luôn dùng tấu hài và văn nghệ để lừa bịp công chúng. Lóa mắt bởi những màn biểu diễn, họ không để ý đến ý đồ thực sự của lang băm. Đích thân tay này sẽ dàn cảnh tiến vào thị trấn trong một chiếc xe ngựa đen tuyền kéo bởi cặp ngựa ô. Theo sau là đoàn hề, xiếc tung hứng, đu dây, lôi kéo công chúng đến xem trình diễn hiệu quả thần kỳ của những phương cao đơn hoàn tán. Bọn lang băm làm cho công chúng thấy rằng các màn biểu diễn là phần quan trọng nhất. Nhưng thật ra màn quan trọng nhất chính là việc bán ba thứ thuốc bá vơ.
Rõ ràng những màn trình diễn giải trí là phương tiện khéo léo để che đậy ý đồ, nhưng bạn không thể dùng chúng mãi được. Công chúng sẽ mau chán và nghi ngờ, cuối cùng sẽ phát hiện trò lừa của bạn. Dĩ nhiên bọn lang băm phải nhanh chóng rời khỏi thị trấn trước khi mọi người kháo nhau rằng màn trình diễn chỉ là trò bịp và phương thần dược chỉ là thuốc dỏm. Nhưng những người với bề ngoài trơ trơ – như những Talleyrand, Rothschild, Selassie của mọi thời – có thể thực hiện những cú lừa suốt cả đời họ mà không phải chuồn đi đâu cả. Họ có tài giữ cho mưu kế mình không bao giờ cũ và ít khi gieo mối nghi ngờ. Vì vậy bạn nên sử dụng màn hỏa mù một cách thận trọng và khi có cơ hội thích hợp.
NGUYÊN TẮC 4
LUÔN NÓI ÍT HƠN MỨC CẦN THIẾT
Bạn định tạo ấn tượng với mọi người bằng lời nói, nhưng hễ nói càng nhiều thì bạn càng có vẻ tầm thường và mất đi khả năng kiểm soát. Dù cần nói một điều gì đó thật bình thường thì bạn cũng nên diễn tả thật mơ hồ, bí ẩn và để ngỏ. Người uy quyền khiến cho kẻ khác phải rụt rè và e sợ vì họ nói ít hơn mức cần thiết. Càng nói nhiều thì bạn càng có xác suất nói ra điều không nói cao hơn.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Gaius Marcius, còn gọi là Coriolanus, là vị anh hùng quân sự vĩ đại của La Mã thời thượng cổ. Hồi đầu thế kỷ thứ V trước công nguyên, ông ta đã thắng nhiều trận đánh, nhiều phen cứu thành phố La Mã thoát khỏi tai ương. Vì phần lớn thời gian ông xông pha trận mạc nên ít cư dân La Mã nào quen biết riêng ông ta, khiến ông trở thành một gương mặt huyền thoại.
Đến năm 454 TCN, Coriolanus tự nhủ đây là lúc mình khai thác tiếng tăm và quyết định dấn thân vào chính trị. Ông ta ứng cử vào chức vụ chấp chính tối cao. Những ứng viên vào vị trí này thường diễn thuyết vào đầu cuộc tranh cử, và khi Coriolanus đứng trước thị dân, ông ta bắt đầu bằng cách khoe ra hàng tá vết sẹo trên người, kết quả của mười bảy năm chiến đấu vì sự an bình cho La Mã. Những vết sẹo oai hùng này khiến mọi người không mấy quan tâm đến những gì ông phát biểu ngay sau đó vì chúng là chứng cớ hùng hồn cho tình yêu nước và lòng dũng cảm của ông, làm cho dân chúng xúc động đến rơi lệ. Coriolanus xem như đã thắng cử.
Tuy nhiên đến ngày đầu phiếu, Coriolanus lại hiên ngay tiến vào nơi diễn đàn, tháp tùng ông ta là cả hội đồng nguyên lão và các danh gia vọng tộc. Những người thường dân hết sức xôn xao về cách diễu võ giương oai như thế vào ngày bầu cử.
Rồi Coriolanus lại đăng đàn diễn thuyết nữa, nhưng lần này hầu như chỉ hướng về thành phần giàu sang thế lực tháp tùng ông. Lời lẽ ông ta ngạo mạn và xấc xược. Tuyên bố mình sẽ thắng cử, ông khoe khoang các chiến tích, pha trò chua ngoa, chỉ trích các địch thủ khác nặng nề và nhấn mạnh đến những của cải mà ông ta sẽ mang về cho La Mã. Nếu lần trước các vết sẹo đã làm dân chúng xao lãng không nghe, thì lần này họ thực sự đã nghe: Họ hoàn toàn không ngờ rằng người chiến binh huyền thoại này cũng chỉ là tên khua môi múa mỏ.
Tin về bài diễn văn thứ nhì của Coriolanus nhanh chóng loan truyền khắp thành phố và đông đảo nhân dân đổi ý và làm ông ta thất cử. Thất bại chua cay, Coriolanus chỉ còn nước là trở về với sa trường, chua chát thề rằng sẽ báo thù những thường dân nào đã chống lại mình. Vài tuần sau, một chiếc tàu thủy to lớn chở ngũ cốc tới La Mã. Viện nguyên lão sẵn sàng phát miễn phí số lúa thóc này cho dân, nhưng khi họ đang chuẩn bị biểu quyết thì Coriolanus xuất hiện và chiếm diễn đàn. Ông ta lý luận rằng việc phân phối miễn phí như thế sẽ phương hại đến tầm vĩ mô của thành phố. Nhiều nguyên lão bị Coriolanus thuyết phục và vụ biểu quyết bị sa lầy. Coriolanus không dừng ở đó: Ông tiến thêm một bước để lên án bản thân ý niệm về dân chủ. Coriolanus đề nghị dẹp bỏ các đại biểu nhân dân và giao quyền cai trị cho giới quý tộc.
Khi tin này lan truyền ra dân chúng thì cơn phẫn nộ của họ đã lên đến đỉnh điểm. Dân chúng yêu cầu đại biểu của họ đến viện nguyên lão để buộc Coriolanus phải ra đối thoại với họ. Ông ta từ chối. Khắp thành phố đều xuống đường. Sợ sẽ diễn ra nhiều cuộc nổi loạn, cuối cùng các nguyên lão phải phân phối ngũ cốc. Các đại biểu tạm hài lòng nhưng nhân dân vẫn cương quyết đòi Coriolanus gặp gỡ và xin lỗi họ. Nếu ông ta hối lỗi và rút lại những gì đã nói thì nhân dân sẽ cho phép ông ta trở ra chiến trường.
Coriolanus xuất hiện lần cuối trước nhân dân và họ chăm chú yên lặng lắng nghe ông ta. Khi bắt đầu, Coriolanus nói chậm rãi mềm mỏng, song càng nói nhiều thì ông ta càng lỗ mãng. Rồi ông ta lại buông ra lời thóa mạ. Giọng điệu vẫn kiêu căng, vẻ mặt thì khinh khỉnh. Coriolanus càng nói thì nhân dân càng phẫn uất. Cuối cùng họ la ó buộc ông xuống không cho nói tiếp.
Các đại biểu nhân dân bàn bạc rồi tuyên án tử hình Coriolanus, truyền lệnh lập tức hành quyết. Đám đông hả dạ ủng hộ quyết định đó. Tuy nhiên giới quý tộc can thiệp và thương lượng giảm án còn lưu đày chung
thân. Khi dân chúng La Mã biết rằng bị anh hùng quân sự vĩ đại kia không bao giờ được trở về thành phố nữa, họ ùa ra đường ăn mừng. Trước nay chưa ai từng ăn mừng như vậy, ngay cả sau khi đại thắng ngoại bang.
Diễn giải
Trước khi bước vào chính trường, chỉ bằng tên tuổi mình thôi Coriolanus cũng đã làm kẻ khác khiếp sợ. Chiến công lừng lẫy ngoài trận mạc đã chứng tỏ ông dũng cảm phi thường. Vì ít ai biết rõ về ông nên tên tuổi ông được gắn liền với đủ loại truyền thuyết. Nhưng khi xuất hiện trước dân chúng và bộc bạch những suy nghĩ, tất cả những gì bí ẩn và vĩ đại đều tan biến. Hóa ra vị anh hùng này cũng khoác lác khoe khoang như tên lính quèn. Ông ta lại còn xúc phạm và phỉ báng nhân dân, chừng như ông ta cảm thấy bị đe dọa và bất an. Bỗng dưng người dân khám phá ra rằng Coriolanus không phải như mình tưởng. Truyền thuyết và thực tế khác nhau xa quá, khiến cho ngay cả những người muốn tin vào vị anh hùng của mình cũng phải thất vọng. Coriolanus càng nói nhiều thì càng tỏ ra ít có uy – người nào không kiểm soát được lời nói của mình thì cũng sẽ không thể kiểm soát được bản thân và không xứng đáng được tôn trọng.
Phải chi Coriolanus nói ít thôi, nhân dân sẽ không có dịp bị ông ta xúc phạm, không có dịp biết rõ thực tâm của ông ta. Như thế ông ta sẽ duy trì được vầng hào quang sáng chói, sẽ có cơ may thắng cử, từ đó có cơ hội thực hiện các mục tiêu phản dân chủ của mình. Nhưng cái lưỡi người ta là một con thú mà ít ai kiềm chế nổi. Nó luôn cố gắng thoát khỏi cũi xổ lồng, và nếu không được thuần hóa thì sẽ lồng lộn lên và tọa ra tai họa. Uy quyền không thể tập trung vào những ai hoang phí lời nói.
Nghêu sò hoàn toàn há to miệng lúc trăng tròn.
Khi bắt gặp cảnh này, con cua liền cho một hòn đá hay
cọng rong vào, để cho sò không thể ngậm hết miệng,
sau đó cua tha hồ đánh chén. Đó là số phận những ai mở
miệng quá nhiều, từ đó đặt mình vào tay của người nghe.
(Leonardo da Vinci, 1452-1519)
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Tại triều đình Vua Louis XIV, giới quý tộc và quan lại ngày đêm bàn luận chuyện quốc gia. Họ tham khảo, bàn bạc, thiết lập và phá vỡ liên minh rồi lại bàn bạc cho tới thời điểm quan trọng: Hai người trong số họ sẽ đại diện hai chính kiến và đến gặp Vua Louis để xin quyết định. Sau khi chọn xong người, cả bọn lại bàn tiếp xong nên trình bày vấn đề như thế nào đây? Góc độ nào làm vua hài lòng, góc độ nào khiến ông phật ý? Hai quan đại diện đó sẽ gặp vua vào lúc nào trong ngày và ở chỗ nào trong hoàng cung Versailles? Khi bệ kiến, họ sẽ sắm vẻ mặt ra sao?
Cuối cùng khi sắp xếp xong thì giây phút sinh tử kia cũng đến. Hai quan sẽ tiếp cận vua một cách hết sức cẩn trọng và khi vua sẵn sàng nghe, họ sẽ nêu lên vấn đề và trình bày các giải pháp khả dĩ.
Louis im lặng nghe với vẻ mặt bí ẩn. Khi hai quan trình bày xong và xin ý kiến, vua nhìn họ nói “Trẫm sẽ xem xét”. Rồi vua bỏ đi.
Triều thần sẽ không bao giờ nghe vua nói thêm bất kỳ lời nào về vấn đề đó – vài tuần sau họ chỉ biết kết quả, khi vua đã quyết định và ra lệnh hành động. Louis sẽ không bao giờ thèm hỏi ý kiến quần thần về vấn đề đó lần nữa.
Diễn giải
Louis XIV là người cực kỳ ít lời. Câu nói nổi tiếng nhất của ông là “L’état, c’est moi!” (Ta là Nhà nước). Không còn gì súc tích hơn nhưng lại rõ nghĩa hơn. “Trẫm sẽ xem xét” là một trong nhiều câu cực kỳ ngắn gọn mà Louis XIV đáp lại đủ loại thỉnh cầu.
Không phải lúc nào Louis cũng như thế. Khi còn trẻ, ông ta nổi tiếng nói nhiều, thích thú với tài hùng biện
của mình. Càng trưởng thành, ông càng tự buộc vào kỷ luật ít nói, vốn là một điệu bộ, một cái mặt nạ ông dùng để làm cho quần thần không biết đường đâu mà lần. Không ai biết lập trường thực sự, không ai tiên đoán nổi phản ứng của ông. Không ai dám lừa bịp ông bằng cách nói lên những điều mà họ cho rằng ông
muốn nghe, bởi vì không ai biết đích xác ông muốn nghe điều gì. Khi tiếp tục nói cho một Louis đang lặng im, họ càng tiết lộ thêm về bản thân mình, vốn là loại thông tin mà sau này Louis sẽ sử dụng một cách hữu hiệu để triệt hạ họ khi cần thiết.
Kết quả là sự im lặng của Louis đã khiến cho những người xung quanh khiếp đảm và nằm trọn trong tầm kiểm soát của ông. Đó là một trong những trụ cột trong uy quyền của ông. Như Saint Simon viết, “Không ai không khéo bằng ông ta trong việc tăng cường giá trị từng lời nói và nụ cười, thậm chí cả những cái liếc mắt. Mọi thứ trong ông đều có giá bởi vì ông biết tạo ra cách biệt và uy nghi của ông càng được tôn cao bằng những lời nói hiếm hoi.”
Với một quần thần, việc nói ra điều không nên nói
còn nguy hại hơn là làm điều không nên làm.
(Hồng y De Retz, 1613-1679)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Dưới nhiều góc độ khác nhau, uy quyền là trò chơi của vẻ bề ngoài, và khi nói ít hơn là cần thiết, chắc chắn bạn sẽ có vẻ cao cả hơn, uy quyền hơn thực tế. Sự im lặng của bạn sẽ làm cho đối phương mất chân đứng. Con người là những cỗ máy suy diễn và giải thích. Họ phải tìm cách biết được những gì bạn đang nghĩ. Nếu bạn biết cẩn thận kiểm soát những gì mình nói ra, họ không thể nào xuyên thấu tâm can bạn được.
Những câu trả lời ngắn cũng như những khoảng lặng buộc họ phải thủ thế, và khi nóng lòng nhảy bổ vào, họ sẽ sốt ruột lấp đầy khoảng lặng ấy bằng đủ loại chú giải và như thế hé mở nhiều thông tin có giá trị về họ và những nhược điểm của họ. Sau cuộc gặp gỡ với ta, lúc ra đi họ cảm thấy như mất mát điều gì và khi
về nhà họ sẽ mổ xẻ từng lời nói của ta. Việc tập trung thêm chú ý này sẽ chỉ làm cho uy quyền của bạn tăng lên mà thôi.
Nói ít hơn cần thiết, điều này không chỉ áp dụng cho vua chúa và chính khách. Trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống, càng nói ít thì bạn càng có vẻ thâm sâu và bí hiểm. Khi còn trẻ, nghệ sĩ Andy Warhol nhận ra rằng, thường thì thiên hạ sẽ không làm theo những gì ta bảo. Họ sẽ chống lại ta, phá hỏng ước muốn của ta, cãi lại ta chỉ vì đơn giản là họ ương ngạnh. Có lần Warhol nói với người bạn: “Tôi rút ra kinh nghiệm là khi biết im lặng, mình thực sự có nhiều quyền năng hơn”.
Càng lớn tuổi, Warhol áp dụng chiến lược ấy hiệu quả hơn. Những bài trả lời phỏng vấn của ông trông giống những bài tập sấm giảng. Ông luôn nói điều gì đó mơ hồ và nước đôi để người phỏng vấn làm xiếc với trí thông minh của hắn và đoán già đoán non, nghĩ rằng phải có điều gì đó thâm sâu trong những câu nói vô thưởng vô phạt của Warhol. Ít khi nào nghệ sĩ này nói về công việc của mình, mà để cho người khác mặc tình diễn giải. Ông cho biết mình học được kỹ thuật này từ Marcel Duchamp, bậc thầy về những điều bí ẩn. Đây cũng là một nghệ sĩ ở thế kỷ XX, đã sớm nhận ra rằng hễ càng ít nói về tác phẩm của mình thì mọi người sẽ càng nói nhiều về chúng. Và càng được nhiều công luận thì chúng càng có giá trị.
Cứ nói ít hơn là cần thiết, bạn sẽ tạo được cái bề mặt súc tích và mạnh mẽ. Ngoài ra càng ít nói thì càng ít bị rủi ro nói điều càn quấy, thậm chí điều nguy hiểm. Năm 1825 Nga hoàng mới là Nicholas I lên ngôi. Ngay sau đó những người theo chủ thuyết tự do nổi loạn đòi hiện đại hóa đất nước để cho nền công nghiệp và cơ sở hạ tầng theo kịp các nước khác ở châu Âu. Nga hoàng thẳng tay dập tắt bạo loạn, bắt giữ và tuyên án tử hình Kondraty Ryleyev, một trong những thủ lĩnh phe nổi loạn. Đến ngày hành quyết, Ryleyev đứng trên bục treo, cổ tròng dây. Tấm ván di động dưới chân vừa sập, Ryleyev vừa toòng-teng thì bỗng dưng dây đứt khiến hắn rơi bịch xuống đất. Vào thời đó, những sự kiện tương tự được mọi người xem là điềm trời chưa muốn cho tử tội chết, và trong hầu hết các trường hợp hắn ta được tha mạng. Nhưng khi lồm cồm đứng lên, Ryleyev lại nói to với đám đông: “Mọi người thấy chưa, ở nước Nga người ta không biết làm cái gì cho chu đáo, ngay cả một sợi dây tốt cũng không biết làm!”
Tin tức về vụ treo cổ bất thành liền đến tai Nicholas. Mặc dù không vui nhưng dù sao Nga hoàng cũng chuẩn bị ký lệnh ân xá. Vừa cầm bút, hoàng đế hỏi “ Ryleyev có nói gì sau phép lạ đó không ?” Người đưa
tin trả lời: “Thưa ngài, hắn bảo ở nước Nga, người ta không biết làm điều gì chu đáo, cho dù đó là một sợi dây.”
“Trong trường hợp này chúng ta sẽ chứng minh điều ngược lại”, và Nga hoàng xé bỏ lệnh ân xá. Sáng hôm sau Ryleyev lại lên đoạn đầu đài, và lần này sợi dây rất tốt.
Ta hãy rút ra bài học: Một khi lời nói đã phát đi rồi, ta không thể thu hồi được. Vậy ta hãy kiểm soát kỹ lời nói. Bạn đặc biệt cẩn thận với những lời châm biếm: sự hả dạ trong chốc lát không đáng với cái giá quá đắt phải trả sau đó.
Hình ảnh:
Oracle ở Delphi. Khi được tham khảo, Oracle, bà đồng bóng chuyên nói sấm ở Delphi chỉ ậm ừ vài ba từ bí ẩn, nhưng được mọi người cho là thâm sâu và cực kỳ quan trọng. Không ai dám phản bác sấm giảng của Oracle, vì cho rằng chúng nắm quyền sinh sát.
Ý kiến chuyên gia:
Nếu thuộc cấp của bạn chưa nói thì bạn chớ động đậy môi răng. Ta im lặng càng lâu thì người khác càng nóng lòng nói trước. Và khi họ khua môi múa mỏ, ta sẽ biết được chủ tâm của họ… Nếu chủ soái không hàm chứa bí ẩn, các quan sẽ tìm ra cơ hội và nắm lấy quyền bính.
(Hàn Phi Tử, triết gia Trung Quốc,
thế kỷ III trước Công nguyên.)
NGHỊCH ĐẢO
Có những lúc nếu mãi câm miệng thì lại không khôn ngoan. Có những tình huống sự im lặng sẽ làm người khác nghi ngờ và cảm thấy bất an, đặc biệt và với thượng cấp của ta. Một lời nói mơ hồ nước đôi sẽ giúp bạn thanh minh những lời đồn đãi mà bạn không ngờ tới. Vì vậy im lặng và ít nói là những chiến thuật mà bạn phải cẩn thận khi sử dụng và chỉ sử dụng đúng lúc. Thỉnh thoảng bạn cũng nên khôn ngoan bắt chước tên hề ở buổi chầu, luôn làm khùng làm điên nhưng trong thâm tâm hắn biết rõ rằng mình khôn hơn hoàng thượng. Hắn nói huyên thuyên để giải trí và chọc cười, và ít ai ngờ rằng hắn không chỉ là một tên khờ.
Ngoài ra nhiều khi ta cũng có thể dùng lời nói làm màn hỏa mù cho ngón lừa sắp thực hiện. Nói lung tung khiến tai đối thủ lùng bùng, hắn sẽ mê muội và đãng trí, và có trường hợp ta nói càng nhiều thì địch thủ càng bớt nghi ngờ. Bởi vì mọi người thường nghĩ rằng kẻ nói nhiều hiếm khi nào mưu mô và hiểm độc, mà thường là vô hại vì ruột để ngoài da. Đây là điều nghịch đảo với chủ trương im lặng của kẻ đang nắm uy quyền: Bạn càng nói nhiều trước mặt họ, họ càng thấy bạn yếu đuối và kém thông minh, nhờ đó bạn càng tăng cơ may lừa đảo.
NGUYÊN TẮC 5
BẢO VỆ THANH DANH VÀ UY TÍN
Thanh danh là hòn đá tảng của uy quyền. Chỉ cần có thanh danh là bạn đã có thể hù dọa người khác và chiến thắng họ. Tuy nhiên khi thanh danh tuột dốc thì bạn dễ bị tổn thương và bị tấn công từ mọi phía. Hãy bảo vệ thanh danh và uy tín thật kỹ lưỡng. Luôn dè chừng và triệt tiêu những đòn bôi nhọ trước khi chúng diễn ra. Trong khi đó, hãy tìm cách tiêu diệt địch thủ bằng cách bắn thủng bức tường uy tín của họ. Sau đó bạn chỉ việc đứng im chờ công luận kết liễu họ.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Vào thời kỳ Tam quốc, quân sư Gia Cát Lượng dàn quân nhà Thục ra những trận địa xa xôi, trong khi ông ở lại một làng nhỏ với số ít binh sĩ. Thình lình lính canh cho biết là Tư Mã Ý đang dẫn 150.000 quân tiến đến. Chỉ còn lại khoảng trăm binh sĩ, tình thế Gia Cát Lượng xem như hết cứu. Cuối cùng địch thủ cũng sẽ bắt được quân sư lỗi lạc.
Không nói một lời, không mất thời gian nghĩ suy nhiều về số phận mình, Gia Cát Lượng lệnh cho binh sĩ hạ cờ, mở toan cổng thành và trốn cho thật kỹ. Bản thân quân sư mặc áo đạo sĩ ngồi bảnh chọe trên cái ghế bành đặt ở nơi dễ thấy nhất phía trên tường thành. Rồi ông thắp hương, gảy đàn, ngân nga tiếng hát. Vài phút sau, quân đội đối phương tiến tới từ xa, phủ kín cả chân trời. Cứ vờ không quan tâm, ông tiếp tục đàn hát.
Chẳng bao lâu sau địch quân đã án binh trước cổng thành. Tư Mã Ý nhận ra ngay người đang xướng hát.
Ngay cả khi binh sĩ nóng lòng tấn công cái thành trì bỏ ngỏ không lính canh, Tư Mã Ý vẫn do dự, quan sát Gia Cát Lương, rồi cuối cùng ra lệnh lui quân.[4]
Diễn giải
Gia Cát Lượng được mệnh danh là “Ngọa Long”. Chiến công của ông vào thời kỳ Tam quốc thật hiển hách và đi vào truyền thuyết. Ngày kia khi có tướng địch đến xin làm hàng binh, Lượng biết ngay hắn trá hàng và ra lệnh chém đầu. Tuy nhiên đến phút chót khi đao phủ sắp vung tay, Lượng bằng lòng tha mạng tướng địch với điều kiện hắn phải làm điệp viên. Vừa mừng vừa hãi, hắn ưng thuận và bắt đầu cung cấp thông tin sai lạc cho chủ cũ. Lượng thắng liên tiếp trận này đến trận khác.
Vào lúc khác, Lượng thu được ấn khế của địch thủ và ngụy tạo nhiều quân lệnh dàn trải quân địch ra chốn xa xôi. Khi địch quân bị dàn mỏng, Lượng thừa cơ tiến chiếm nhiều dinh trấn, từ đó kiểm soát được nguyên cả hành lang trong vương quốc địch. Ngoài ra ông ta còn làm cho địch thủ lầm tưởng rằng một trong những vị tướng tài đã phản bội, khiến tướng đó phải bỏ trốn và quy hàng nhà Thục. Ngọa Long luôn bảo vệ tiếng tăm để mọi người nghĩ rằng mình là người mưu trí nhất, lúc nào cũng sẵn có kế hay. Hùng mạnh không kém gì đao kiếm, tiếng tăm đó làm cho kẻ địch run sợ.
Tư Mã Ý từng đụng độ với Gia Cát Lượng nhiều lần và biết khá nhiều về Lượng. Khi đứng trước cổng thành mở toang và thấy Lượng đàn hát, Tư Mã Ý sững sờ. Lễ phục đạo sĩ, nhang khói và đàn hát – tất cả đều là trò hù dọa. Tư Mã Ý thấy ra rằng là Lượng đang chế giễu và qua đó dụ mình vào cái rọ. Trò này lộ liễu đến mức Tư Mã Ý không thể thoáng nghĩ rằng thực sự Lượng đang thân cô thế cô và hết đường tẩu thoát. Nhưng vì Lượng nức tiếng mưu sâu nên Tư Mã Ý không dám liều lĩnh. Chỉ bằng tiếng tăm của mình, Gia Cát Lượng đã giữ chân cả 150.000 quân, thậm chí buộc họ phải lui binh mà không tốn một mũi tên nào.
Như Cicero từng nói, ngay cả những ai chống lại
việc mua danh, thì những quyển sách mà họ viết ra
để bảo vệ lập trường, họ cũng đề tên mình trên đó
và hy vọng mình sẽ nổi tiếng vì đã khinh thị tiếng tăm.
Mọi thứ khác đều có thể đổi chác: nếu cần, ta có thể
hy sinh của cải và sinh mạng cho bạn bè, nhưng việc
chia sẻ tiếng tăm và để cho ai đó thụ hưởng
thanh danh ta, thì điều đó xưa nay hiếm.
(Montaigne, 1533-1592)
TRÙM XIẾC BARNUM
Vào năm 1841, chàng trai P. T. Barnum muốn được tiếng là ông bầu số một của nước Mỹ nên quyết định mua lại nhà American Museum ở Manhattan (Mỹ) rồi chuyển nó thành nơi sưu tập những điều kỳ lạ. Vấn đề là chàng ta không có tiền. Nhà bảo tàng đòi 15.000 đôla. Tuy không sẵn có số tiền đó nhưng Barnum khéo léo trưng ra vài hồ sơ khá hấp dẫn giới sở hữu chủ nhà bảo tàng: đó là nhiều loại giấy tờ bảo đảm và chứng nhận về mặt tài chính. Mấy ông chủ ưng thuận miệng với Barnum song vào giờ phút chót lại đổi ý, bán cả nhà bảo tàng và các bộ sưu tập cho Peale’s Museum. Barnum điên tiết lên, nhưng phe đối tác bảo kinh doanh là kinh doanh – nhà bảo tàng được bán cho Peale’s là vì Peale’s nổi tiếng, còn Barnum thì không.
Barnum tự nhủ nếu mình không có tiếng tăm gì để đặt tụ thì cách duy nhất là làm hoen ố thanh danh Peale’s. Barnum liền khởi sự một chiến dịch viết thư gửi báo chí, gọi mấy ông chủ kia là “đám giám đốc ngân hàng kiệt quệ” không biết cách quản lý nhà bảo tàng hoặc tiêu khiển người dân. Barnum cảnh giác mọi người không nên mua cổ phiếu của Peale’s, vì khi mua lại nhà bảo tàng, ngân quỹ của Peale’s sẽ giảm hẳn. Chiến dịch này còn có tiếng vang, cổ phiếu rớt giá thê thảm. Vì không còn tin vào thành tích và uy tín của Peale’s, giới chủ của American Museum lại đổi ý và bán nhà bảo tàng cho Barnum.
Phải mất nhiều năm sau Peale’s mới phục hồi nổi và họ không bao giờ quên được đòn bẩn của Barnum. Bản thân ông Peale quyết định tấn công Barnum bằng cách xây dựng cho mình cái mác “nơi tiêu khiển của giới trí thức”, quảng cáo rằng các chương trình ở nhà bảo tàng của mình có trình độ khoa học hơn là của kẻ cạnh tranh tầm thường kia. Thôi miên là một trong những màn biểu diễn “khoa học” của Peale’s, và trong một thời gian, màn biểu diễn ấy thu hút được khá nhiều người xem. Để phản đòn, Barnum quyết định tấn công danh tiếng của Peale’s lần nữa.
Barnum tổ chức một màn biểu diễn thôi miên và cho biết mình sẽ đưa một bé gái vào thạng thái xuất thần. Khi cô bé có vẻ đã mê mê, Barnum lại xoay sang thôi miên vài khán giả. Nhưng dù ông có cố gắng cách mấy thì không người nào bị thôi miên, mà ngược lại họ còn cười nhạo. Rất “quê độ”, Barnum gỡ gạc bằng cách tuyên bố là mình sẽ cắt đứt một ngón tay mà cô bé không hề hay biết để chứng tỏ rằng phép thôi miên đã làm cô bé xuất thần thật. Nhưng trong khi anh ta đang mài dao thì cô bé mở mắt ra và bỏ chạy khiến nhiều khán giả một phen cười khoái chí. Barnum lặp đi lặp lại nhiều màn tương tự suốt vài tuần liên tiếp, đến khi không còn ai tin vào màn “độc” của Peale’s, và số vé bán ra giảm mạnh. Chẳng bao lâu Peale’s phải dẹp màn thôi miên. Những năm sau đó, Barnum dần dà xây dựng cho mình tiếng tăm của một ông bầu sô táo bạo và tài năng, tiếng tăm này còn tồn tại sau khi ông qua đời. Trong khi đó Peale’s không bao giờ hồi phục được thanh danh của mình.
Diễn giải
Barnum sử dụng hai chiến thuật để làm hoen ố thanh danh của Peale’s. Đòn đầu tiên khá đơn giản: Anh ta chỉ cần gieo mối nghi ngờ về sự ổn định và tình hình tài chính của nhà Peale’s. Sự hoài nghi là một vũ khí hùng mạnh: Một khi gieo mối nghi kèm theo tin đồn quỷ quyệt, ta đẩy đối phương vào thế tiến thoái lưỡng
nan. Một mặt, họ có thể phủ nhận tin đồn, thậm chí chứng minh rằng ta vu khống. Nhưng dù sao thiên hạ cũng còn ít nhiều hoài nghi: Tại sao bọn người kia lại giãy nảy phủ nhận ghê thế nhỉ? Nếu không có lửa làm sao có khói?
Mặt khác, nếu họ tự nhủ cây ngay không sợ chết đứng thì tiếng đồn không được phủ nhận kia sẽ càng củng cố. Nếu ta làm đúng cách, việc gieo rắc tiếng xấu có thể khiến địch thủ điên tiết và bất an đến nỗi, khi tự
phòng vệ, họ có khả năng lầm lỗi. Đây là vũ khí hoàn hảo cho những ai chưa có chút tiếng tăm nào để làm thuốc.
Khi đã có uy tín rồi, Barnum dùng chiến thuật thứ nhì mềm mỏng hơn, đó là việc biểu diễn thôi miên dởm: Anh ta đem tiếng tăm đối phương ra làm trò cười. Cách này cũng hết sức thành công. Một khi ta đã có uy tín vững chắc thì việc bêu riếu đối phương sẽ làm hắn bị động, trong khi đó ta tập trung được sự chú ý của mọi người và uy tín ta càng vững mạnh. Ở thời điểm này, những chiêu phỉ báng và nói xấu trực tiếp có vẻ thô bạo quá. Nhưng những câu móc họng và chế giễu nhẹ nhàng chứng tỏ ta biết rõ thực lực của mình để mỉm cười khoái chí về sự thua thiệt của đối phương. Vẻ trào phúng sẽ làm cho mọi người thấy rằng ta là kẻ pha trò vô hại, trong khi thực ra ta đang bắn phá tơi bời uy tín của đối phương.
Đương đầu với lương tâm tội lỗi
còn dễ hơn với một tiếng tăm hoen ố.
(Friedrich Nietzsche, 1844-1900)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Những người quanh ta, ngay cả bạn bè thân thiết nhất, trong chừng mực nào đó đều luôn bí ẩn và khó dò. Tính cách họ có những điều thầm kín mà họ không bao giờ để lộ ra. Việc này sẽ gây hoang mang nếu ta mãi suy nghĩ về nó, bởi vì nếu như vậy thì hầu như ta không thể đánh giá người khác. Do đó ta thường chọn giải pháp là lờ đi, chỉ đánh giá họ qua vẻ bề ngoài, qua những gì mắt ta dễ thấy nhất – quần áo, điệu bộ, lời nói, việc làm. Ngoài xã hội, vẻ bề ngoài là thước đo cho hầu hết mọi đánh giá, vì vậy ta phải hết sức cẩn thận đừng để đánh lạc hướng. Chỉ cần một sơ suất nhỏ, một thay đổi vụng về hay đột xuất ở vẻ bề ngoài cũng có thể gây nguy hại.
Đó là lý do quan trọng hàng đầu tại sao bạn phải tạo ra và gìn giữ tiếng tăm.
Tiếng tăm này sẽ bảo vệ ta trong trò chơi của dáng vẻ bề ngoài vì nó tạo thêm một thách thức đối với những cặp mắt dò xét của người khác, khiến họ khó có thể biết ta thực sự là ai, hơn nữa còn giúp ta kiểm soát được ít nhiều cách đánh giá của người khác – đặt ta vào thế mạnh. Tiếng tăm có khả năng tựa như phép thuật: Chỉ cần quơ đũa thần một phát là sức mạnh ta tăng gấp đôi. Tiếng tăm cũng có thể làm cho mọi người e sợ và tránh xa ta. Cùng một hành động đó thôi, nhưng người khác cho là đáng quý hay đáng sợ lại tùy vào tiếng tăm của người hành động.
Vào thời nhà Vệ ở Trung Quốc xưa kia có một người nổi tiếng lịch sự tao nhã. Anh ta được nhà vua sủng ái vào bậc nhất. Ở nước Vệ có luật rằng “ai lén sử dụng xa giá của vua sẽ bị chặt chân”, nhưng khi nghe tin mẹ đang lâm trọng bệnh, anh ta dùng xa giá này để về thăm, bảo rằng đã được phép vua. Khi tin đến tai, vua bảo “Y quả hiếu để! Vì quá lo cho mẹ mà anh ta quên mất mình đang phạm tội có khả năng bị chặt chân!”
Lần khác khi cùng vua bách bộ trong ngự uyển, anh ta ăn không hết một quả đào quá to nên đưa phần thừa cho vua. Vua nói “Ái khanh yêu mến trẫm đến độ quên rằng quả đào dính nước bọt của khanh, và dám đưa nó cho trẫm!”
Tuy nhiên thời gian sau nhiều người trong triều ghen ghét sàm tấu rằng anh ta bất minh và ngạo mạn. Những lời ong tiếng ve đó riết rồi cũng làm hoen ố thanh danh của anh ta, làm cho nhà vua nhìn hành động của anh ta dưới góc độ khác. “Tên này dám giả lệnh ta để sử dụng xa giá, và còn dám đưa cho ta quả đào đang ăn dở.” Những hành động đó từng làm dịu lòng nhà vua, nhưng cũng chính chúng lại đưa anh ta vào chỗ nguy nan. Số phận anh ta tùy thuộc vào độ vững chắc của uy tín.
Thoạt tiên, ta nên gắng sức tạo ra thanh danh dựa vào một đức tính nổi bật, chẳng hạn như sự rộng lượng bao dung, hoặc tính thanh liêm hay đa mưu túc trí. Đức tính này giúp ta nổi bật giữa đám đông và làm cho mọi người trầm trồ. Sau đó ta quảng bá thanh danh này càng rộng càng tốt (nhưng phải tinh vi, ta phải xây dựng chậm mà chắc), rồi tự nó sẽ lan nhanh như lửa rừng.
Uy tín vững chãi sẽ ghi đậm sự hiện diện của ta và thổi phồng sức mạnh của ta mà ta không phải tốn nhiều công sức. Uy tín cũng tạo cho ta vầng hào quang khiến mọi người nể phục, thậm chí e sợ. Trong Thế chiến
thứ hai tại Bắc Phi, tướng Đức Erwin Rommel nổi tiếng xảo quyệt trên lĩnh vực điều binh, khiến ai ai cũng kinh sợ. Ngay cả khi quân lực của ông ta đã suy yếu, khi số lượng xe tăng Anh đông gấp năm lần số xe Đức thì nhiều thành phố vẫn phải di tản sạch trước tin Rommel sắp đến.
Có người từng nói rằng tiếng tăm ta luôn đi trước ta, vì vậy nếu ta làm mọi người nể phục thì phần lớn công việc đã được thực hiện trước khi ta tới nơi, trước khi ta nói được nửa lời.
Có lẽ thành công của ta tùy thuộc vào những vinh quang trong quá khứ. Hầu hết thành công trong công việc ngoại giao con thoi của Henry Kissinger đặt trên cơ sở tiếng tăm, rằng ông ta có khả năng dung hòa những điểm bất đồng. Không ai muốn bị xem là không biết điều đến mức Kissinger không lung lạc được. Một khi có tên ông ta trong thành phần đàm phán thì xem như hòa ước là chuyện phải thành.
Hãy giữ uy tín của bạn mộc mạc đơn sơ và thiết lập trên nền tảng đức tính hàng đầu. Đức tính này sẽ là tấm danh thiếp báo trước sự xuất hiện của bạn và bao phủ những người khác trong màn sương mê hoặc. Nổi tiếng là lương thiện, bạn sẽ có cơ hội thực hiện nhiều loại lừa bịp. Lừng danh bay bướm, Casanova dùng tiếng đồn này để lót đường cho những cuộc chinh phục trong tương lai. Phụ nữ nào từng nghe về sức
quyến rũ của ông ta cũng hết sức tò mò, muốn chính mình khám phá xem điều gì giúp ông ta thành công trên tình trường đến như vậy.
Giả định thanh danh ta đã hoen ố và giờ đây ta không thể xây dựng một thanh danh mới. Muốn vậy ta phải gắn liền tên tuổi mình với một người mà hình ảnh của họ đi ngược lại hình ảnh ta, như thế ta dùng thanh danh của họ để thanh minh và tôn tạo cái của ta. Chẳng hạn như đã lỡ mang tiếng bất lương thì thật là khó gột rửa, vì vậy ta cố gắng liên đới với một mẫu mực của sự lương thiện. Khi muốn tẩy sạch cái mác mà thiên hạ gán cho mình là kẻ chuyên tổ chức trình diễn những gì hạ cấp, Barnum liền mời Jenny Lind từ châu Âu sang. Nữ ca sĩ này đang vang danh là ngôi sao cao cấp, do đó khi tài trợ cho tua lưu diễn của cô ta, Barnum đã làm cho hình ảnh của mình đẹp lên rất nhiều. Tương tự như thế, những bậc thầy lừa đảo ở Mỹ hồi thế kỷ XIX không làm sao để tẩy sạch được tiếng xấu là nhỏ nhen và tàn ác. Chỉ đến khi họ bắt đầu sưu tầm tranh tượng, để cho những cái tên như Morgan và Frick gắn liền với Da Vinci hoặc Rembrandt thì hình ảnh ghê gớm của họ mới phần nào dịu bớt.
Uy tín là một tài sản mà bạn nên gom góp và giữ gìn cẩn thận. Đặc biệt khi mới lần đầu tạo ra, bạn nên bảo vệ nó thật kỹ, luôn đi tiên liệu việc người khác bôi bẩn nó. Một khi uy tín đã vững chắc rồi, nếu địch thủ gièm pha chế giễu thì bạn đừng quá giận mất khôn – vì như thế chỉ chứng tỏ bạn không tin chắc vào uy tín ấy. Ngược lại bạn nên đóng vai quân tử và đừng bao giờ tỏ vẻ nản lòng khi tự vệ. Mặt khác, bạn nên có vũ khí tuyệt vời là tấn công ngược lại vào tuy tín địch thủ, đặc biệt là khi bạn yếu hơn hắn. Trong cuộc đọ sức như thế nếu mất thì hắn sẽ mất nhiều hơn, và cái tiếng tăm nhỏ bé của bạn sẽ là cái đích nhỏ bé mà hắn khó nhắm trúng. Barnum sử dụng những chiến dịch như vậy rất hiệu quả khi ông khởi đầu sự nghiệp. Song phải biết khéo léo áp dụng chiến thuật đó, đừng để thiên hạ bảo rằng bạn thù vặt nhỏ nhen. Nếu không biết cách đánh bại uy tín của địch thủ, bạn sẽ làm suy yếu chính thanh danh của mình.
Được mọi người xem là kẻ đã khống chế được sức mạnh dòng điện, Thomas Edison tin là hệ thống phải được đặt trên cơ sở điện một chiều (DC). Khi nhà khoa học người Serbia là Nikola Tesla thành công với hệ thống điện xoay chiều (AC), Edison tức điên lên. Ông ta quyết định đánh sập uy tín Tesla bằng cách làm cho dân chúng thấy rằng hệ AC là không an toàn, và Tesla sẽ hứng chịu mọi trách nhiệm vì đã khuếch trương nó.
Edison liền bắt các loại thú cưng và làm chúng chết bằng dòng điện xoay chiều. Liệu chừng như thế vẫn chưa đủ, ông thuyết phục giới lãnh đạo trại giam bang New York tổ chức lần tử hình đầu tiên bằng dòng điện, tất nhiên là điện AC. Song trước đó mọi thử nghiệm của Edison đều với thú nhỏ, điện tích quá yếu nên đến khi tử hình thì tội nhân chỉ ngất ngư chứ không chết hẳn. Có lẽ đó là buổi hành quyết tàn nhẫn
nhất.
Nhưng dù sao, chiến dịch của ông ta đã làm hại uy tín của chính ông nhiều hơn là hại Tesla. Edison phải lui binh. Bài học khá đơn giản – đừng bao giờ đi quá xa với những loại tiến công như vậy, bởi vì mọi người sẽ để ý nhiều vào hành động trả thù của bạn hơn là vào nạn nhân mà bạn đang bắn phá. Khi có uy tín vững chãi, bạn hãy dùng chiến thuật tinh vi hơn, chẳng hạn như châm biếm và chọc quê, như thế địch thủ vẫn bị suy yếu và thiên hạ chỉ xem bạn là thằng xỏ lá tiếu lâm mà thôi. Mãnh hổ chỉ đùa với con chuột nhắt vô tình chạy ngang qua – bất kỳ hành động nào khác sẽ làm nhơ uy danh đáng sợ của hổ.
Hình ảnh:
Hầm mỏ đầy kim cương đá quý. Bạn đào tìm, bạn phát hiện và chắc chắn là bạn giàu sang. Hãy bảo vệ hầm mỏ đó bằng mạng sống. Đạo tặc sẽ xuất hiện từ mọi phía. Đừng bao giờ cho rằng của cái đó là điều tất yếu, mà phải bảo đảm đầu vào – thời gian sẽ làm cho đá quý bớt óng ánh, và làm mọi người quên mất nó đi.
Ý kiến chuyên gia:
Vì vậy tôi mong rằng các triều thần của ta sẽ tăng cường giá trị cố hữu bằng tài năng và mưu trí, và bảo đảm rằng khi sắp sửa viếng thăm một chốn xa lạ nào, thì thanh danh của triều thần ấy sẽ đi trước… Bởi vì thứ tiếng tăm nào có vẻ như tùy thuộc vào ý kiến của số đông, thì tiếng tăm đó sẽ trưởng dưỡng một niềm tin bất dịch vào giá trị của một người, và giá trị ấy sẽ dễ dàng được củng cố trong những đầu óc đã được tác động trước.
(Baldassare Castiglione, 1478-1529)
NGHỊCH ĐẢO
Không có sự nghịch đảo khả dĩ nào hết. Tiếng tăm là sinh tử, luật này không có ngoại lệ. Có thể khi phớt lờ những gì người khác nghĩ về mình thì bạn bị lên án là xấc xược và ngạo nghễ, nhưng bản thân hình ảnh đó có thể ít nhiều lợi ích – Oscar Wilde từng sử dụng thành công hình ảnh đó. Vì chúng ta sống trong xã hội và tùy thuộc vào ý kiến người khác, bạn sẽ không được gì nếu lơ là với uy tín của mình. Nếu không quan tâm đến những gì người khác nghĩ về bạn, bạn sẽ để họ quyết định điều đó thay mình. Hãy làm chủ định mệnh và làm chủ cả tiếng tăm của mình.
NGUYÊN TẮC 6
THU HÚT CHÚ Ý BẰNG MỌI CÁCH
Mọi thứ đều được đánh giá qua vẻ bề ngoài, cái gì không được trông thấy thì xem như không có giá trị. Vì vậy đừng bao giờ để mình bị chìm ngập giữa đám đông hoặc chôn vùi trong quên lãng. Hãy nổi trội. Hãy tìm mọi cách để sừng sững ra đấy. Hãy biến mình thành thanh nam châm thu hút sự chú ý, hãy tạo một bề ngoài to lớn hơn, màu sắc hơn, bí ẩn hơn đám đông vô hồn và nhút nhát.
PHẦN I:
HÃY LÀM CHO TÊN TUỔI TA LUÔN ĐI ĐÔI VỚI
CHUYỆN GIẬT GÂN GÂY XÔN XAO DƯ LUẬN
Hãy thu hút sự chú ý bằng cách tạo ra một hình ảnh không thể nào quên, thậm chí gây tranh luận. Cứ tạo ra xì-căng-đan. Hãy làm mọi thứ để mình có vẻ to lớn hơn thực tế và chói sáng hơn những người xung quanh. Cho dù thiên hạ có để ý ta theo cách nào thì cũng mặc – cho dù với hình thức nào thì sự nổi tiếng cũng giúp ta thêm sức mạnh. Chẳng thà bị vu khống và công kích còn hơn là bị phớt lờ.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
P. T. Barnum, đệ nhất danh bầu nước Mỹ hồi thế kỷ XIX, bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cái ghế phụ tá cho ông chủ gánh xiếc Aaron Turner. Năm 1836, gánh xiếc dừng chân ở Annapolis bang Maryland. Vào sáng hôm khai diễn, Barnum mặc một áo mới đen tuyền đi bách bộ ra phố. Đám đông hiếu kỳ bắt đầu bu theo ông. Có ai đó la lên rằng Barnum chính là tu sĩ Ephraim K. Avery, người bị buộc tội giết người nhưng vừa được tòa tuyên trắng án, trong khi hầu hết dân Mỹ vẫn tin ông là thủ phạm. Đám đông phẫn nộ xé rách áo Barnum và chuẩn bị treo cổ ông. Sau nhiều lần van xin hoảng hốt, cuối cùng Barnum cũng thuyết phục được họ theo ông về tới gánh xiếc, nơi ông có cách chứng minh thực sự mình là ai.
Đến nơi, lão Turner xác nhận những điều vừa diễn ra chỉ là cú chơi khăm – rằng chính ông đã loan truyền tin đồn rằng Barnum là Avery. Đám đông giải tán, nhưng vì vừa chết hụt nên Barnum không vui tí nào. Ông ta muốn biết động cơ nào đã khiến lão chủ chơi một cú quá mạng như vậy. “Barnum thân mến ơi, “ Turner trả lời, “tất cả cũng vì lợi ích của chúng ta. Hãy nhớ rằng tiếng tăm là tất cả những gì chúng ta cần để thành công.” Và tất nhiên ai ai trên phố cũng luận bàn về cú chơi khăm, vì vậy gánh xiếc bán hết vé tối hôm đó cũng như những tối nào mà gánh còn lưu lại Annapolis. Barnum đã học được một bài không thể nào quên.
Chuyến tự thân mạo hiểm đầu tiên của Barnum là vụ American Museum – nơi sưu tập những vật kỳ, chuyện lạ trên thế giới. Ngày kia có người hành khất đến xin Barnum giúp đỡ. Thay vì cho tiền, Barnum quyết định tuyển dụng anh ta. Dẫn anh ta đến nhà bảo tàng, Barnum trao cho năm viên gạch và dặn cứ từ từ đi vòng quanh vài khu nhà. Ở vài điểm nào đó, anh ta sẽ đặt một viên ở vệ đường, nhưng luôn chừa một viên cầm tay. Khi đi đủ một vòng thì người hành khất sẽ làm chuyến ngược lại, nhưng lần này thay thế từng viên gạch ở vệ đường. Barnum dặn anh ta phải giữ vẻ nghiêm trang và không được trả lời mọi câu hỏi. Khi về đến nhà bảo tàng, anh ta phải vào ngay, đi một vòng bên trong, trở ra lối cửa sau và tái diễn màn đặt gạch.
Ở lần đầu tiên đi vòng quanh khu phố, hàng trăm người quan sát hành động lạ lùng của gã hành khất. Đến vòng thứ tư, những kẻ hiếu kỳ bu theo và bàn tán xem anh ta đang làm gì. Mỗi khi anh ta bước vào nhà bảo tàng, nhiều người liền mua vé vào theo để có thể tiếp tục theo dõi. Nhưng vì anh ta cứ đi vòng quanh bên trong nên nhiều người đâm chán, chẳng thà họ tản ra nhìn ngắm những vật lạ được trưng bày. Đến cuối ngày đầu tiên, gã hành khất đã lôi kéo hơn một ngàn người vào nhà bảo tàng. Vài ngày sau cảnh sát không cho anh ta đi vòng khu phố nữa, bởi vì đám đông gây ùn tắc giao thông. Việc đặt gạch phải ngưng nhưng hàng ngàn cư dân New York đã vào nhà bảo tàng, và sau này nhiều người đã nhiệt tình ủng hộ Barnum.
Barnum còn cho một ban nhạc chơi ở bao lơn phía tầng cao nhà bảo tàng, bên dưới có băng-rôn đề chữ trình diễn nhạc miễn phí cho công chúng. Cư dân New York khen ngợi vị mạnh thường quân và kéo đến
nghe. Nhưng trước đó Barnum đã chịu khó tuyển mộ cho bằng được những nhạc công dở nhất thành phố, và chẳng bao lâu sau khi tiếng nhạc nổi lên, đám đông huýt sáo chê bai. Nhân tiện đó, nhiều người chẳng thà mua vé vào nhà bảo tàng để tránh loại âm nhạc chói tai và những tiếng la lối của đám đông.
Một trong những “việc lạ” mà Barnum tổ chức tua giới thiệu vòng quanh nước Mỹ là Joice Heth, người phụ nữ mà ông ta rêu rao là đã 161 tuổi và từng là nô lệ làm vú nuôi của George Washington. Sau vài tháng đắt khách, người xem bắt đầu thưa dần, Barnum liền gửi nhiều thư nặc danh đến báo chí, cho biết Heth là trò lừa, “chứ thực ra Joice Heth không phải là người mà là robot, cấu tạo từ chất sừng cá voi, cao su với vô số lò xo.” Những người nào trước đây không tò mò về một bà già 161 tuổi thì bây giờ lại muốn xem thử cái robot đó là thật hay chỉ là tin đồn.
Năm 1842, Barnum mua lại một cái xác được cho là của mỹ nhân ngư. Nó trông giống như đầu con khỉ với mình con cá. Nhưng vì giữa đầu và mình không thấy vết hàn gắn gì cả nên quả là điều kỳ bí. Sau này Barnum mới biết cái xác đó được các nghệ nhân Nhật ráp lại, và ngay tại bản xứ nó cũng đã từng gây xôn xao.
Ấy vậy mà ông ta vẫn cho đăng tin quảng cáo trên báo chí cả nước rằng vừa bắt được người cá tại quần đảo Fiji. Ông còn gửi tới tòa soạn nhiều tranh khắc gỗ có hình người cá. Khi Barnum cho trưng bày xác mỹ nhân ngư trong nhà bảo tàng, cả nước Mỹ đồng tranh luận xem liệu người cá có thật hay không. Vài tháng trước khi Barnum phát động chiến dịch, ít người quan tâm, thậm chí ít ai biết chuyện về người cá. Giờ thì họ lại bàn bạc xôn xao, chừng như người cá đã là việc thật. Những đám đông kỷ lục đến nhà bảo tàng để xem người cá Fiji và nghe những cuộc tranh luận về chủ đề đó.
Vài năm sau, Barnum thực hiện một tua vòng quanh châu Âu với Đại tướng Tom Thumb, một người lùn năm tuổi ở bang Connecticut. Nhưng Barnum bảo đó là một đứa bé người Anh 11 tuổi mà ông đã dạy nhiều động tác phi thường. Vòng biểu diễn của Barnum thành công đến nỗi Nữ hoàng Victoria, một mẫu mực về sự điềm tĩnh cũng phải yêu cầu gặp riêng ông ta và gã người lùn tại cung điện Buckingham. Có thể báo chí đã chế giễu Barnum, nhưng dù sao ông ta cũng giải khuân được Nữ hoàng.
Diễn giải
Barnum nắm được chân lý cơ bản về việc thu hút sự chú ý: Một khi công luận đã quan tâm đến ta, xem như ta được “hợp pháp hóa”. Với ông ta, tạo ra sự quan tâm đồng nghĩa với tạo ra đám đông, như sau này ông nhìn nhận “Đám đông nào cũng có cái hay.” Và đám đông thường có khuynh hướng phản ứng tập thể. Chỉ cần một người đứng lại xem gã hành khất đặt gạch thì sẽ có hàng tá người bắt chước. Lúc ấy chỉ cần huých nhẹ một phát là họ bước ngay vào nhà bảo tàng hoặc theo dõi màn trình diễn. Muốn tạo ra đám đông ta phải làm điều gì đó kỳ lạ khác thường. Một vật gì đó lạ đời sẽ thích hợp, bởi vì đám đông luôn bị thu hút bởi điều kỳ dị và không thể giải thích. Và khi thu hút được đám đông rồi ráng giữ chân họ lại. Nếu họ hướng về nơi khác thì ta sẽ thiệt thòi. Barnum sẵn sàng lôi kéo không thương tiếc khán giả của những ông bầu khác, vì ông ta hiểu rằng đó là mặt hàng giá trị.
Do đó ở giai đoạn leo lên đỉnh dốc, ta đừng tiếc công sức thu hút sự chú ý. Quan trọng hơn nữa: chất lượng của sự chú ý đó không đáng kể. Cho dù những bài phê bình có chê bai những màn trình diễn, cho dù có phỉ báng bản thân ông như thế nào, Barnum không bao giờ than phiền. Nếu có nhà báo nào phê bình ông thật tồi tệ, Barnum sẽ mời người đó đến dự một buổi khai trương trò mới, cho ngồi ghế thượng khách. Thậm chí ông ta còn gửi đến báo chí những bài nặc danh để công kích những màn trình diễn của mình, mục đích chỉ để thiên hạ luôn nghe thấy tên ông. Theo ông, sự chú ý, cho dù tích cực hay tiêu cực, đều là thành phần chủ chốt của thành công. Số phận tồi tệ nhất đối với một người muốn được nổi tiếng, vinh quang, và tất nhiên cả quyền lực là không được người khác biết tới.
Nếu vị triều thần phải diễu võ dương oai nơi công cộng
chẳng hạn như cưỡi ngựa đấu thương… anh ta cần bảo
đảm rằng con ngựa của mình phải được phủ bọc đẹp đẽ,
bản thân anh ta phải ăn mặc thích hợp, y trang gắn
những huy hiệu và vật trang trí độc đáo để thu hút
con mắt của đám đông về phía mình như
chắc chắn nam châm phải hút sắt.
(Baldassare Castiglione, 1478-1529)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Nổi bật sáng chói hơn những người xung quanh là một kỹ năng mà không phải ai sinh ra cũng sẵn có. Ta phải học cách thu hút chú ý “ như chắc chắn nam châm phải hút sắt”. Khi bắt đầu sự nghiệp, ta phải gắn liền tên tuổi với một đức tính, một hình ảnh làm nổi bật mình khác với người xung quanh. Hình ảnh này có thể đại loại như một kiểu ăn mặc đặc biệt, hoặc một nét tính cách làm mọi người bàn tán vui vẻ. Một khi hình ảnh đã được thiết lập thì ta sẽ có phong thái riêng, có một chỗ trên bầu trời cho ngôi sao của mình.
Nhiều người thường cho rằng mình phải có một dáng vẻ đặc biệt nhưng đừng để người khác bàn tán xôn xao, nếu không sẽ bị chỉ trích. Hoàn toàn sai lầm. Nếu không muốn tên tuổi mình chỉ nổi bật thoáng qua, rồi sau đó bị người khác che lấp, ta không nên phân biệt giữa những loại chú ý khác nhau, bởi vì nói cho cùng thì loại nào cũng đóng góp cho công việc của ta. Chúng ta đã thấy Barnum hoan nghênh mọi công
kích và không cần phải bào chữa. Ông ta cố tình chuốc lấy hình ảnh một kẻ bịp bợm.
Triều đình Vua Louis XIV quy tụ đông đảo nghệ sĩ, nhà văn, mỹ nhân, nam thanh nữ tú, nhưng không ai được nhát đến nhiều như Công tước De Lauzun. Ông này thấp tịt, gần như là người lùn và lại thích chơi nổi đủ trò xấc láo – ngủ với ái thiếp của vua, công khai xúc phạm không chỉ các quần thần mà cả đức vua. Tuy nhiên Louis khoái chí những màn lập dị đến nỗi không thể thiếu vắng ông ta khi lâm triều. Cũng dễ hiểu thôi: Sự lập dị của vị công tước thu hút sự chú ý, và một khi đã bị mê hoặc, mọi người luôn muốn nhìn thấy ông ta.
Xã hội khao khát những gương mặt vĩ đại hơn đời thường, cần những người vượt trội mức tầm tầm bậc trung. Vì vậy bạn đừng e ngại về những đặc tính làm cho mình nổi bật và tạo sự chú ý. Hãy tạo ra xì-căng đan, hãy làm mọi người xì xào bàn tán về mình. Chẳng thà bị công kích, thậm chí bị phỉ báng còn hơn là người khác không biết gì về bạn. Chuyên môn nào cũng áp dụng quy tắc này, tất cả những tay chuyên nghiệp đều ít nhiều có máu đạo diễn.
Nhà khoa học vĩ đại Thomas Edison hiểu rằng nếu muốn vận động được tài chính thì ông phải tìm mọi cách để luôn hiện diện trong mắt công chúng. Những phát minh của ông thật quan trọng, nhưng quan trọng không kém chính là cách ông giới thiệu cho công chúng và thu hút sự chú ý của họ.
Edison dựa vào các tính năng của điện nhằm thiết kế nhiều cuộc biểu diễn thí nghiệm làm hoa mắt mọi người để trình bày những khám phá. Ông hay nói về những phát minh sắp tới mà vào thời ấy nghe rất kỳ diệu – robot và các loại máy móc có khả năng chụp ảnh ý nghĩ, những thứ mà ông thực tình không muốn đầu tư vào, song ông vẫn cứ rêu rao để công chúng nói về mình. Ông làm mọi thứ có thể để thiên hạ tập trung vào mình nhiều hơn là vào đối phương tài ba: Nikola Tesla, một người thật ra thông minh hơn Edison nhưng ít ai biết đến.
Năm 1915 có tin đồn rằng Edison và Tesla sẽ cùng được trao giải Nobel về vật lý. Cuối cùng giải được trao cho hai nhà vật lý người Anh. Sau đó người ta biết ra rằng ban giám khảo đã tiếp cận Edison nhưng ông ta từ chối vì không muốn chia sẻ giải thưởng với Tesla. Vào lúc đó danh tiếng ông ta vững chãi hơn của Tesla nên ông nghĩ rằng tốt hơn mình nên từ chối, hơn là để cho đối phương thu hút mức độ chú ý ngang bằng khi chia sẻ giải thưởng.
Nếu lỡ sa vào thế thấp kém ít có cơ hội thu hút chú ý, ta có cái mánh khá hữu hiệu là công kích người nào nổi bật nhất, nổi tiếng nhất, mạnh mẽ nhất. Khi Pietro Aretino, một người hầu nhỏ tuổi sống vào thế kỷ XVI, muốn mọi người xem mình là một nhà thơ, anh ta bèn cho xuất bản một loạt bài thơ trào phúng chọc quê đức giáo hoàng, đồng thời nói lên cảm tình của mình với con voi cưng. Sự công kích này lập tức làm công luận để ý đến Aretino. Ta cũng sẽ được hiệu quả tương tự khi công kích một người quyền thế. Tuy nhiên phải nhớ là sau khi đã thu hút được sự chú ý của quần chúng, bạn nên sử dụng chiến thuật này thật dè chừng vì càng xài thì càng mất linh.
Khi lọt được vào ánh đèn sân khấu rồi, ta nhớ thường xuyên thay đổi và điều chỉnh các phương thức thu
hút sự chú ý, nếu không công chúng sẽ lờn thuốc và chuyển sang một ngôi sao mới. Trò này đòi hỏi ta phải luôn cảnh giác và sáng tạo. Pablo Picasso không bao giờ để mình mờ nhạt và chìm vào hậu cảnh. Khi phát hiện tên tuổi mình chết dí vào một phong cách hội họa nhất định, ông chủ động làm công chúng bất ngờ bằng một loạt các bức tranh vượt mọi dự đoán hay mong đợi. Ông tin rằng chẳng thà mình tạo ra điều gì đó xấu xa hay chấn động còn hơn là để cho người xem quá quen với các tác phẩm trước đó. Nói cách khác, thiên hạ cảm thấy mình ngon lành hơn người mà họ có thể tiên đoán sắp làm gì. Nếu ta chứng tỏ cho họ thấy là ai đang kiểm soát tình hình, bằng cách đi ngược lại mọi dự đoán của họ thì ta vừa được họ kính nể, lại vừa siết lại được sự chú ý đang lơi lỏng của họ.
Hình ảnh:
Ánh đèn sân khấu. Diễn viên nào bước vào vòng tròn sáng chói ấy sẽ tôn cao được sự hiện diện của mình. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về hắn. Chỉ có một chỗ duy nhất cho một người trong luồng sáng chật hẹp ấy, vậy ta hãy làm mọi thứ có thể để duy trì vị trí đó. Hãy thực hiện những động tác thật khoa trương, ngộ nghĩnh, thậm chí khiếm nhã để giữ ánh đèn ấy lại cho mình, trong khi những diễn viên khác bị chìm trong bóng tối.
Ý kiến chuyên gia:
Hãy khoa trương cho mọi người nhìn thấy… Điều gì không được nhìn thấy sẽ bị xem là không có thật… Trước tiên, chính ánh sáng đã làm cho mọi tạo vật tỏa sáng. Sự khoa trương lấp đầy nhiều chỗ trống, che đậy được nhược điểm, và mang đến cho mọi thứ một cuộc sống thứ hai, đặc biệt khi điều đó được trợ lực bởi phẩm chất thực sự.
(Baltasar Gracián, 1610-1658)
PHẦN II:
TẠO RA MỘT VẺ BÍ ẨN
Trong một thế giới ngày càng tầm thường và quen thuộc, điều gì có vẻ bí ẩn sẽ thu hút được chú ý. Đừng bao giờ để quá lộ liễu những gì mình đang hoặc sắp thực hiện. Đừng trưng ra hết các quân bài. Một chút bí ẩn sẽ tôn cao sự hiện diện của bạn và sẽ làm mọi người đoán già đoán non – ai ai cũng chú ý xem điều gì sắp xảy ra. Hãy sử dụng vẻ bí ẩn để đánh lừa, phủ dụ, thậm chí để hù dọa.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Đầu năm 1905, khắp Paris đồn đại về một thiếu nữ Đông phương chuyên trình diễn những vũ điệu tại nhà riêng, với lối diễn độc đáo là dần dần cởi bỏ từng lớp vài trên người. Một ký giả địa phương từng xem cô ta múa viết rằng “một phụ nữ vùng Viễn Đông đã đến châu Âu, trên người đầy những nước hoa và đá quý, với mục đích giới thiệu những nét lộng lẫy của sắc màu và đời sống Đông phương cho xã hội đã bão hòa của thành phố Âu châu.” Không lâu sau ai ai cũng biết tên nàng vũ nữ: Mata Hari.
Vào mùa đông năm ấy, nhiều nhóm nhỏ các khán giả chọn lọc quy tụ trong căn phòng khách đầy những pho tượng Ấn Độ và các di tích khác, trong khi ban nhạc chơi những bài lấy cảm hứng từ các giai điệu Ấn Độ và Java. Sau khi để cho cử tọa chờ đợi và thắc mắc khá lâu, Mata Hari đột nhiên xuất hiện trong bộ trang phục kỳ lạ: một cái áo ngực đính đá quý theo kiểu Ấn Độ, những sợi vải cũng đính trang sức ngay eo để giữ chiếc xà-rông nửa kín nửa hở, tay đeo rất nhiều vòng xuyến. Rồi cô ta bắt đầu múa những vụ điệu mà ở Pháp chưa bao giờ thấy, toàn thân cô lắc lư như thể lên đồng. Mata Hari giải thích với cử tọa rằng những vũ điệu này kể về thần thoại Ấn Độ và chuyện truyền khẩu Java. Chẳng bao lâu sau, tầng lớp thượng lưu nhất của thủ đô, cùng với đại sứ những đất nước xa xôi đều cố “xoay” cho được giấy mời đến cái phòng khách đó, nơi có tin đồn rằng Mata Hari thực sự biểu diễn những vũ điệu khỏa thân linh thiêng.
Công chúng muốn có thêm thông tin về cô ta. Mata Hari nói với báo chí rằng nguồn gốc cô là Hà Lan, nhưng lại lớn lên ở đảo Java. Cô cũng kể về khoảng thời gian sống bên Ấn Độ, nơi cô học hỏi những vũ điệu linh thiêng, nơi “phụ nữ bản xứ là những tay thiện xạ trên lưng ngựa, lại còn có khả năng đặc biệt về toán học và triết học.” Đến mùa hè năm 1905 đó, cái tên Mata Hari nằm trên đầu lưỡi mọi người, mặc dù ít ai thực sự nhìn thấy nàng.
Báo chí càng phỏng vấn thì câu chuyện về nguồn gốc của nàng càng thay đổi. Đến thời điểm đó thì Mata
Hari lớn lên tại Ấn Độ, bà ngoại nàng là con gái một công chúa Java, rằng nàng sống ở đảo Sumatra và suốt ngày “trên lưng ngựa, tay cầm súng cứu khốn phò nguy.” Không ai biết điều gì đích xác về nàng, nhưng giới nhà báo không quan tâm về những thay đổi trong tiểu sử của cô gái. Họ so sánh nàng với vị nữ thần Ấn Độ, một sinh linh xuất hiện từ những vần thơ của Baudelaire – nói chung là những gì mà trí tưởng tượng của họ phác ra từ thiếu nữ bí ẩn Đông phương ấy.
Tháng Tám năm 1905 Mata Hari lần đầu tiên biểu diễn nơi công cộng. Nhiều đám đông gần như là bạo loạn để xem nàng diễn đêm khai trương. Đến lúc này Mata Hari đã trở thành một vật được sùng bái, được nhiều người bắt chước về ngoại hình. Một nhà phê bình viết “Mata Hari là hiện thân của tất cả thi ca Ấn Độ, của sự huyền bí, dục lạc, quyến rũ thôi miên của đất nước này.” Bài báo khác có đoạn: “Nếu Ấn Độ có những của quý bất ngờ như vậy, thì tất cả đàn ông sẽ di trú sang ở bên bờ sông Hằng.”
Không lâu sau tên tuổi Mata Hari cùng với những vũ điệu thần bí Ấn Độ vượt qua cả biên giới nước Pháp để bay tới những thành phố như Berlin, Vienna, Milan. Những năm sau đó cô gái đi biểu diễn khắp châu Âu, giao lưu với giới thượng lưu cao cấp nhất và có mức thu nhập đảm bảo cho nàng sự độc lập mà các phụ nữ thời đó hiếm khi có được.
Đến cuối Thế chiến thứ nhất Mata Hari bị bắt tại Pháp, bị mang ra xét xử và buộc tội, cuối cùng bị bị hành quyết dưới tội danh làm gián điệp cho Đức. Sự thật về nàng chỉ được vén lên trong tiến trình xử án: Mata Hari không hề xuất xứ từ Java hay Ấn Độ gì cả, cũng không lớn lên ở phương Đông và không có giọt máu Đông phương nào trong huyết quản. Tên thật của cô ta là Margaretha Zelle, đến từ vùng đất lạnh lẽo Friesland, một tỉnh ở phía Bắc Hà Lan.
Diễn giải
Khi tới Paris vào năm 1904, trong túi Margaretha Zelle chỉ có nửa đồng franc. Cô là một trong hàng ngàn thiếu nữ xinh đẹp đổ xô về Paris mỗi năm, sẵn sàng làm người mẫu cho họa sĩ hoặc vũ công hộp đêm, hay vũ nữ cho những sô tạp kỹ tại Folies Bergères. Vài năm sau bọn họ chắc chắn sẽ bị những cô gái trẻ đẹp hơn hất chân, và thường là phải ra đứng đường kiếm ăn hoặc phải trở về nguyên quán trong tình trạng già nua và bầm dập.
Zelle có nhiều tham vọng hơn. Tuy chưa hề có kinh nghiệm ca múa và cũng chưa từng biểu diễn trên sân khấu, nhưng hồi còn nhỏ cô bé Zelle có cùng gia đình đi du lịch và thưởng thức những vũ điệu bản xứ ở Java và Sumatra. Zelle hiểu rằng điều quan trọng không phải là bản thân bài múa hoặc vũ điệu hay gương mặt của mình, nhưng ở chỗ là có tạo ra được màn sương bí ẩn bao quanh mình hay không. Sự bí ẩn cô tạo ra được không chỉ nằm ở cách múa hay y trang, hoặc những câu chuyện thêu hoa dệt gấm, mà còn ẩn hiện trong tất cả những gì cô làm. Về Zelle, bạn không thể dám nói điều gì là chắc chắn cả - cô ta luôn thay đổi, luôn làm cử tọa ngạc nhiên với những bài múa mới, y phục mới, chuyện kể mới. Vẻ bí ẩn này luôn làm khán giả muốn biết thêm nữa, luôn thử đoán về hành động kế tiếp của cô ta. Mata Hari không đẹp hơn nhiều thiếu nữ khác đến Paris tìm sự nghiệp, mà múa cũng không giỏi giang gì. Điều làm cô ta nổi bật khỏi đám đông, điều quyến rũ và duy trì sự chú ý của thiên hạ và làm cho cô ta nổi tiếng lẫn giàu có chính là cái vẻ bí ẩn. Mọi người luôn bị cái bí ẩn nó mê hoặc, bởi màn sương bí ẩn luôn tạo điều kiện cho mọi dự đoán nên mọi người không biết chán. Không ai nắm bắt được thực chất của vẻ bí ẩn. Và điều gì không thể bị nắm bắt và làm tiêu hao, thì điều đó tạo ra quyền lực.
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Trong quá khứ, thế giới này đầy dẫy những điều khủng khiếp và không hiểu nổi – nào là bệnh tật, tai ương, những tên bạo chúa ngông cuồng và bí ẩn về bản thân cái chết. Những gì hiểu không nổi, ta thường gán cho nó là thần thoại và siêu nhiên. Tuy nhiên qua nhiều thế kỷ, nhờ khoa học và lý trí, chúng ta đã có thể soi rõ bóng tối. Những gì từng có vẻ bí ẩn và cấm kỵ giờ đã trở nên quen thuộc và không còn gây lo âu. Nhưng chúng ta cũng phải trả một cái giá nhất định cho ánh sáng soi rọi ấy: trong thế giới ngày càng tầm thường và bị vắt kiệt những thần thoại và bí ẩn, trong tận đáy lòng chúng ta lại khao khát những bí ẩn mới, muốn biết những con người và sự vật nào chưa bị nắm bắt, giải đoán và “tiêu hóa” được ngay.
Đó là sức mạnh của sự bí ẩn. Bí ẩn luôn mời gọi sự diễn giải ở những cấp độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, mê hoặc ta, làm ta tin rằng đàng sau đó còn nhiều điều kỳ lạ nữa. Thế giới đã trở nên quá quen thuộc và hành động con người khá trong suốt nên bất kỳ những gì tự bao phủ trong vỏ bọc bí ẩn đều luôn thu hút chú ý. Bạn hãy nhớ: Hầu hết mọi người đều thẳng thắn và như quyển sách mở, ít chịu khó
kiểm soát lời nói hay con người mình, những hành động của họ có thể bị biết trước. Chỉ cần ít nói, giữ im lặng, thỉnh thoảng ậm ừ vài câu khó hiểu, chủ động tỏ ra bất nhất và cư xử lạ lùng một cách thật tinh vi thì bạn sẽ tỏa ra một vầng bí ẩn. Thiên hạ quanh bạn sẽ làm cho vầng bí ẩn ấy lớn thêm lên bằng đủ loại giải đoán.
Các nghệ sĩ và những bậc thầy về lừa bịp đều hiểu rõ mối liên hệ giữa vẻ bí ẩn và sự thu hút chú ý. Bá tước Victor Lustig, kẻ lừa đảo quý tộc, thao tác vẻ bí ẩn thật hoàn hảo. Ông ta luôn làm điều gì đó đặc biệt, chừng như không có lý gì cả. Lustig đến khách sạn sang trọng bằng chiếc ô tô hạng sang do một tài xế người Nhật lái. Trước đó chưa ai thấy một tài xế người Nhật, vì vậy điều ông ta làm có vẻ lạ lùng hương xa. Lustig ăn mặc loại quần áo rất đắt tiền, luôn có kèm theo vật gì đó – một huy chương, nụ hoa, dải băng quanh cánh tay – thật trật chìa, nếu hiểu theo nghĩa quy ước. Điều đó không chỉ có vẻ khiếm nhã, nhưng còn kỳ cục và gây nhiều thắc mắc. Có lần trong khách sạn, ông ngồi nhận điện tín liên tục hết cái này đến cái khác trong suốt nhiều giờ đồng hồ - những điện tín do tay tài xế người Nhật mang tới mà ông xé nhỏ với vẻ dửng dưng tuyệt đối. (Thật ra chúng là điện tín giả, không có nội dung gì cả.) Rồi Lustig lại ngồi một mình trong phòng dạ tiệc, chăm chú đọc một quyển sách thật to và ấn tượng, sẵn sàng mỉm cười chào mọi người nhưng ra vẻ bận tâm suy nghĩ rất hung. Tất nhiên, vài ngày sau cả khách sạn đều xôn xao để ý đến gã đàn ông lạ lùng ấy.
Sự quan tâm đó giúp Lustig dễ dàng dẫn dụ người cả tin. Họ khao khát được bầu bạn và tâm sự với ông ta. Ai ai cũng muốn người khác thấy mình đi chung với gã quý tộc bí ẩn. Và khi bị bao phủ trong màn sương bí ẩn đó, họ không ngờ mình hoàn toàn bị đánh lừa.
Nét bí ẩn giúp cho người tầm thường có vẻ thông minh và thâm thúy. Nét bí ẩn giúp cho Mata Hari, một phụ nữ với ngoại hình và trí óc tầm thường trở nên giống như nữ thần, và những vũ điệu của cô ta cũng như của nữ thần. Một họa sĩ tỏ ra bí ẩn thì lập tức tác phẩm sẽ thu hút nhiều chú ý hơn, một mẹo mà Marcel Duchamp sử dụng rất hữu hiệu. Thật là dễ làm – đừng nói gì nhiều về tác phẩm, hãy trêu tức và kích động công chúng bằng những lời lẽ lôi cuốn, thậm chí mâu thuẫn, xong rồi bạn nhường sân cho thiên hạ tha hồ diễn giải.
Thiên hạ nghĩ rằng những ai có vẻ bí ẩn luôn chiếm thế thượng phong, bởi vì đã khiến người khác đoán già đoán non. Được sử dụng ở những cấp độ thích hợp, vẻ bí ẩn còn gợi lên nỗi e sợ liên quan đến những gì bất định hoặc chưa được biết rõ. Các lãnh tụ lớn đều ý thức rằng một vầng bí ẩn sẽ tập trung chú ý và làm cho người khác khiếp sợ. Mao Trạch Đông chẳng hạn, luôn luôn khéo trưởng dưỡng một hình ảnh khó lường. Ông ta không ngần ngại nói ra những điều có vẻ như bất nhất hoặc mâu thuẫn – chính sự mâu thuẫn trong lời nói và việc làm đã chững tỏ rằng ông luôn ở thế thượng phong. Không có bất kỳ ai, ngay cả vợ ông cảm thấy hoàn toàn hiểu được ông, vì vậy ông toát ra vẻ vĩ đại hơn đời thường. Điều đó cũng có nghĩa là công chúng luôn chú ý đến ông, luôn quan tâm xem chiêu thức tiếp theo là gì.
Nếu địa vị xã hội không cho phép bạn ẩn mình hoàn toàn thì bạn cũng có thể tìm cách làm cho mình bớt hiển lộ đi. Thỉnh thoảng bạn hãy xử sự không theo cách mà người khác nghĩ về bạn. Như thế bạn làm cho mọi người xung quanh bị động, tạo ra loại chú ý giúp bạn có sức mạnh. Được làm đúng cách, việc tạo tác bí ẩn có thể làm cho đối phương từ quan ngại biến thành hoảng loạn.
Trong thời kỳ chiến tranh giữa hai thành phố La Mã và Carthage (219-202 TCN), tướng quân lừng danh Hannibal của Carthage đã gây ra rất nhiều tang thương trên đường hành quân tiến vào La Mã. Ông ta nổi tiếng khôn ngoan và quỷ quyệt.
Dưới sự chỉ huy khôn ngoan đó, quân đội Carthage mặc dù ít hơn quân La Mã nhưng lại thường xuyên thắng trận. Dù vậy cũng có lần trinh sát của Hannibal sai lầm khủng khiếp, đưa cả đoàn quân vào chỗ đầm lầy và sau lưng là biển cả. Con đường đèo duy nhất dẫn vào đất liền thì đã bị quân La Mã trấn giữ. Tướng La Mã là Fabius rất khoái chí vì cuối cùng Hannibal vĩ đại cũng sa cơ. Lệnh cho những lính gác tốt nhất canh giữ độc đạo, Fabius về trại lên kế hoạch tiêu diệt Hannibal. Nhưng đến giữa khuya bỗng dưng lính canh trông thấy cảnh tượng thật lạ đời: hàng ngàn đốm lửa đang tiến lên triền núi. Nếu đó là binh lính của Hannibal thì quân số của chúng bỗng dưng tăng gấp trăm lần.
Lính La Mã sôi nổi bàn tán: Viện binh vừa tới bằng đường biển? Mai phục sẵn trong vùng? Âm binh? Không cách giải thích nào hoàn toàn có lý cả.
Họ thấy những ngọn lửa lập lòe khắp núi, cùng lúc đó một âm thanh quỷ quái trỗi dậy từ phía dưới, giống
như hàng triệu tù và đồng thổi lên. Lính La Mã chắc chắn đó là binh ma rồi. Mặc dù là những binh sĩ dũng cảm và lý trí nhất của quân đội La Mã, họ hốt hoảng rời bỏ chốt canh.
Sang hôm sau Hannibal đã thoát khỏi vũng lầy. Chiêu chước của ông ta là gì? Phải chăng ông đã soái đậu thành binh? Thật ra ông chỉ ra lệnh cho binh sĩ cột bùi nhùi vào sừng bò – súc vật thồ của binh đoàn. Khi được đốt lên, những bùi nhùi này tạo ra cảm tưởng một binh đoàn hùng hậu đang tiến công. Và đến khi bùi nhùi cháy tới da khiến lũ bò hốt hoảng, chúng rống lên thảm thiết giữa rừng núi đêm đen như tiếng hú của binh ma cõi âm. Mấu chốt của kế này không phải là ngọn lửa bập bùng hay âm thanh ma quái mà chính là Hannibal đã thu hút được sự chú ý của quân canh và làm cho họ khiếp vía.
Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, không ai giải thích được hiện tượng lạ lùng kia, chứ nếu giải thích được thì quân canh đã không bỏ phòng tuyến.
Khi nào lỡ bị sập bẫy, dồn vào chân tường, bị đặt vào thế chống đỡ, bạn hãy thí nghiệm thử: Hãy thực hiện điều gì đó khó hiểu, khó giải thích. Bạn chọn một động tác đơn giản thôi, nhưng lại tiến hành theo cách mà đối phương không thể giải đoán nổi, hay nói đúng hơn là có quá nhiều cách giải đoán, trùm lên ý đồ của bạn một màn bí ẩn. Bạn không chỉ làm cho đối phương lúng túng nghĩ mãi không ra. Hãy bắt chước Hannibal, dựng lên một cảnh tượng khó lường. Với sự ngông cuồng đó, hình như sẽ chẳng có phương pháp nhất định nào, chẳng có nghĩa lý hay lô-gích nào cả, sẽ chẳng có cách giải thích duy nhất nào hết. Nếu làm đúng cách, bạn sẽ khơi nguồn cho sự sợ hãi, và quân canh sẽ bỏ trống chốt gác. Hãy đặt tên cho chiến thuật này là „Hamlet giả điên“, bởi vì Hamlet sử dụng nó thật hiệu quả trong vở kịch của Shakespeare, khiến ông bố ghẻ Claudius sợ hết hồn bởi lối ứng xử bí ẩn. Sự bí ẩn sẽ làm cho sức mạnh của bạn có vẻ gấp bội, cho quyền năng của bạn khủng khiếp hơn.
Hình ảnh:
Vũ khúc màng che – những tấm màng mỏng ôm ấp cơ thể của vũ nữ. Những gì thấp thoáng lồ lộ sẽ kích thích
khán giả. Những gì được che đậy sẽ làm mọi người quan tâm hơn: tinh hoa của bí ẩn. Ý kiến chuyên gia:
Nếu không biểu lộ mình thẳng tuột ra ngay, bạn sẽ tạo điều kiện cho mọi người thử đoán… Hãy pha trộn một tí bí ẩn vào mọi chuyện, và chính tí bí ẩn đó sẽ khơi dậy sự kính nể. Khi nào phải giải thích thì cũng đừng rõ ràng quá… Như thế, bạn bắt chước đường lối của đấng Tối cao khi làm cho con người ngạc nhiên và thấp thỏm.
(Baltasar Gracián, 1601-1658)
NGHỊCH ĐẢO
Vào giai đoạn đầu tiến lên đỉnh cao sự nghiệp, bạn phải tìm mọi cách thu hút chú ý, nhưng hễ lên càng cao thì bạn phải luôn điều chỉnh cho thích hợp. Đừng bao giờ làm công chúng chán phèo vì cái mánh cũ rích. Vẻ bí ẩn cực kỳ hữu hiệu cho những ai có nhu cầu triển khai một vầng hào quang quyền lực và thu hút chú ý, nhưng bạn nhớ phải điều độ và có kiểm soát. Mata Hari đã đi quá xa khi ngụy tạp nhiều thứ. Mặc dù việc buộc tội cô ta làm gián điệp là sai, nhưng vào thời đó, lời cáo buộc ấy lại chấp nhận được bởi vì những lời dối trá đã khiến cô ta khả nghi và bất chính. Bạn hãy khéo léo đừng để vẻ bí ẩn dần dần làm bạn mang tiếng là lừa bịp. Nét bí ẩn ấy phải có vẻ là một trò hí lộng chứ không phải mối đe dọa. Hãy ý thức khi nó bắt đầu đi quá xa để kịp thời kéo nó lại.
Có những lúc bạn nên cưỡng lại nhu cầu thu hút chú ý và không nên tạo ra xì-căng-đan hoặc chơi nổi. Khi thu hút sự chú ý, bạn không được làm tổn thương hay thách thức thanh danh của thượng cấp – nhất thiết là cấm kỵ, dù bằng cách này hay cách khác, nếu thanh danh họ quá vững chãi. Nếu không, thiên hạ sẽ không chỉ thấy bạn là ti tiện, mà còn là liều mạng một cách tuyệt vọng. Biết lúc nào nên thu hút sự chú ý và lúc
nào lui vào bóng tối, đó là cả một nghệ thuật.
Lola Montez là một trong những bậc thầy về việc thu hút chú ý. Từ một cư dân Ireland tầm tầm bậc trung, cô ta đã khôn khéo dàn xếp để trở thành người yêu của Franz Liszt, rồi leo lên địa vị tình nhân và cố vấn
chính trị của Vua Ludwig vùng Bavaria. Song vào những năm cuối đời, cô ta mất hết mọi ý niệm về thời gian.
Năm 1850 tại London sắp trình diễn vở Macbeth, với sự tham gia của đệ nhất diễn viên Charles John Kean. Tất cả những người có địa vị cao trong xã hội Anh Quốc đều sẽ hiện diện đem hôm ấy, thậm chí có tin đồn rằng Nữ hoàng Victoria và Hoàng tử Albert cũng sẽ xuất hiện trước công chúng. Theo phong tục thời đó, mọi người phải vào ngồi đông đủ trước khi nữ hoàng đến. Vì vậy công chúng đến hơi sớm một chút, và khi nữ hoàng bước vào cái ô dành riêng ở ban công thì mọi người đứng dậy chào và vỗ tay. Nữ hoàng và hoàng tử nán chờ công chúng trong giây lát rồi cúi chào. Sau đó tất cả đều an tọa và những ngọn đèn mờ dần, buổi diễn sắp bắt đầu. Bỗng dưng mọi cặp mắt đều đổ dồn về khung ô đối diện ô hoàng gia: một phụ nữ trong bóng tối bước ra và ngồi xuống sau nữ hoàng. Đó là Lola Montez. Cô ta đội cái miện gắn kim cương, choàng một áo khoác dài lông thú. Mọi người ngạc nhiên xì xào khi cái áo lông rủ xuống để lộ ra bộ áo bó hở cổ bằng nhung đỏ. Công chúng đều nhận thấy rằng hai thành viên hoàng tộc cố tình tránh nhìn về phía ô của Lola. Công chúng đều noi theo hành động này và phớt lờ Lola trong suốt buổi diễn. Sau đêm hôm đó không ai trong giới thượng lưu dám xuất hiện cùng cô ta. Mọi mãnh lực quyến rũ của cô ta đều tan biến. Ai ai cũng tránh gặp. Tương lai cô ta tại Anh Quốc xem như kết thúc.
Bạn đừng bao giờ quá tham lam trong việc thu hút sự chú ý vì điều đó ít nhiều nói lên sự mất tự tin, và không tự tin thì uy quyền sẽ xa lánh. Có những lúc sẽ bất lợi cho bạn nếu bạn trở thành điểm chú ý. Chẳng hạn như khi đứng trước vua chúa hoặc các vị tương đương, bạn nên âm thầm rút lui vào bóng tối.
NGUYÊN TẮC 7
CHIẾM ĐOẠT CÔNG SỨC NGƯỜI KHÁC
Hãy lợi dụng trí thông minh, sự khôn ngoan, và công sức của người khác để vinh thân. Nhờ vậy ta sẽ không chỉ tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực, mà còn giúp ta đạt được vầng hào quang thần thánh về năng lực và tốc độ. Cuối cùng, những người giúp ta sẽ bị lãng quên còng ta thì được nhớ mãi. Đừng bao giờ tự làm điều gì mà người khác có thể làm thay ta.
VI PHẠM VÀ TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Năm 1883 một nhà khoa học trẻ người Serbia mang tên Nikola Tesla đang làm việc trong phân ban Âu châu của Continental Edison Company. Tesla là nhà phát minh tài năng, và Charles Batchelor, viên quản lý nhà máy đồng thời là bạn thân của Thomas Edison khuyên Tesla nên thử thời vận ở nước Mỹ, và trao cho ông bức thư giới thiệu với Edison. Từ lúc đó bắt đầu một đoạn đời đau buồn và khổ não, kéo dài đến khi Tesla qua đời.
Gặp Edison tại New York, Tesla được nhà khoa học này tuyển dụng ngay lập tức. Mỗi ngày Tesla làm việc 18 tiếng để tìm cách cái tiến những bộ dynamo ban đầu của Edison. Cuối cùng ông đề nghị tự mình thiết kế lại toàn bộ. Với Edison, đó có vẻ là một công việc quá đồ sộ, có thể ngốn mất nhiều năm công sức và không đẻ ra tiền, song ông cũng vỗ vai Tesla: „Nếu thành công, năm mươi ngàn đôla sẽ chờ anh trong đó.“ Tesla nhiệt tình lao động ngày đêm và chỉ sau một năm ông đưa ra được phiên bản cải tiến lớn lao của cái dynamo, với phần điều chỉnh hoàn toàn tự động. Ông đến gặp Edison để báo tin mừng và nhận số tiền thưởng. Edison rất hài lòng về tiếng bộ khoa học kỹ thuật đó vì bản thân ông và công ty sẽ hưởng lợi, nhưng khi nghe đề cập đến vấn đề tiền bạc, ông nói với chàng thanh niên người Serbia: „Tesla, rõ ràng anh không hiểu được máu khôi hài của người Mỹ chúng tôi!“.
Nỗi ám ảnh của Tesla là phải tạo cho bằng được hệ điện xoay chiều (AC). Edison lại đặt hết niềm tin vào hệ một chiều (DC), và không chỉ không ủng hộ nghiên cứu của Tesla mà sau đó còn phá hoại anh ta. Tesla bèn đầu quân cho ông trùm ở Pittsburgh là George Westinghouse, người vừa thành lập công ty điện. Westinghouse tài trợ toàn bộ nghiên cứu của Tesla và ký với anh một thỏa thuận tác quyền trên lợi nhuận phát sinh. Hệ AC do Tesla triển khai đến nay vẫn là hệ chuẩn – nhưng sau khi Tesla vừa nộp đơn xin cấp patent, các nhà khoa học khác lên tiếng nhận là đồng tác giả, cho rằng chính họ đã thiết lập những cơ sở ban đầu cho Tesla. Tên tuổi anh ta lạc mất trong cơn hỗn loạn ấy và cuối cùng công chúng lại gắn liền phát minh điện AC với bản thân Westinghouse.
Một năm sau Westinghouse bị vướng chân trong vụ J. P. Morgan mua lại cổ phiếu công ty này. Morgan buộc Westinghouse phải hủy bỏ hợp đồng chia tác quyền béo bở cho Tesla. Westinghouse giải thích cho nhà khoa học biết rằng công ty không thể sống nếu phải chi cho anh toàn bộ số tiền tác quyền, và thuyết
phục anh chỉ nhận 216.000 USD. Tất nhiên số tiền này rất lớn, nhưng ít hơn nhiều so với toàn bộ khoản 12 triệu mà lẽ ra công ty phải chi. Bọn tài phiệt đã truất của Tesla hết tiền, patent, và cơ bản nhất là cái danh tiếng và công trạng của phát minh vĩ đại nhất cả sự nghiệp.
Cái tên Guglielmo Marconi vĩnh viễn gắn liền với phát minh radio. Nhưng ít ai biết rằng khi giới thiệu phát minh – ông ta phát đi một tín hiệu qua radio băng qua eo English Channel vào năm 1899 – Marconi đã sử dụng một patent mà Tesla đã đăng ký hai năm trước đó, và rằng phần việc của Marconi đặt trên cơ sở nghiên cứu của Tesla. Một lần nữa Tesla mất cả tiếng lẫn miếng. Tesla phát minh một động cơ điện cảm ứng cũng như hệ điện AC, và ông ta thực sự là „cha đẻ của radio“. Nhưng không phát minh nào được mang tên ông. Đến tuổi già, ông sống rất nghèo khổ.
Năm 1917 trong giai đoạn nghèo khó ấy, Tesla nghe tin mình được thưởng huy chương mang tên Edison do American Institute of Electrical Engineers cấp. Tesla từ chối, nói rằng “Các ông muốn tôn vinh tôi bằng một huy chương để tôi cài lên áo và vênh váo trong vòng một giờ đồng hồ phù phiếm trước những thành viên của Viện ông. Các ông muốn trao huy chương cho thân xác tôi nhưng tiếp tục để cho trí não tôi và những sản phẩm sáng tạo của trí não đó phải chết lần mòn vì khao khát, bởi các ông bất lực trong việc công khai nhìn nhận cái trí não và sản phẩm đã tạo nên nền móng, mà nhờ đó một phần quan trọng của Viện các ông mới hiện diện.”
Diễn giải
Nhiều người lầm tưởng rằng khoa học, vì luôn xử lý những việc thật, sẽ vượt lên trên mọi sự ganh đua nhỏ nhen đang làm rối tung phần còn lại của thế giới. Nikola Tesla là một trong số người đó. Ông ta tin rằng khoa học không dính dáng gì đến chính trị và tuyên bố là mình không màng danh lợi. Tuy nhiên khi ông lớn tuổi thì thái độ này lại tổn hại đến công trình khoa học của ông. Vì tên tuổi không được gắn liền với bất kỳ khám phá khoa học nào nên các ý tưởng của ông không thể hấp dẫn giới đầu tư. Trong khi ông mải tư duy về các sáng kiến tương lai thì những người khác liền ăn cắp các patent mà ông đã triển khai, và họ nhận hết vinh quang về mình.
Tesla muốn tự tay làm hết mọi việc, nhưng cuối cùng ông chỉ kiệt sức và nghèo khổ dần.
Edison hoàn toàn khác Tesla. Thật ra ông không phải là nhà tư duy hay sáng chế khoa học xuất sắc gì cho lắm. Ông từng nói mình không phải là nhà toán học vì vẫn có thể mướn một nhà toán học khi có nhu cầu. Đó là phương pháp chính của Edison. Ông thực sự là một doanh nhân và kẻ rao hàng, nghe ngóng mọi khuynh hướng và cơ hội ngoài xã hội rồi mướn người giỏi nhất trên lĩnh vực hữu quan làm việc cho ông. Nếu cần ông sẽ đánh cắp từ các phe cạnh tranh. Vậy mà ông lại nổi tiếng hơn Tesla, và tiên tuổi được gắn liền với nhiều phát minh hơn.
Bài học rút ra ở đây có hai điểm: Thứ nhất, cái công trạng về một phát minh hay sáng chế cũng quan trọng như bản thân phát minh ấy, nếu không muốn nói là quan trọng hơn. Bạn phải giữ lấy cái công trạng ấy cho mình, không để người khác cướp phần hoặc phỗng tay trên. Muốn được vậy bạn phải luôn cảnh giác và tàn
nhẫn, giữ kín phát minh cho đến khi chắc chắn rằng không còn con kền kền nào đang lượn vòng quanh. Thứ nhì, hãy học cách lợi dụng công sức người khác để vinh thân mình. Thì giờ rất quý và cuộc sống thật ngắn ngủi. Nếu cứ muốn tự tay làm hết mọi việc, bạn sẽ phí phạm sức lực, hao tâm tổn trí và cuối cùng xơ xác tả tơi. Tốt hơn bạn bên để dành sinh lực, chờ cơ hội vồ lấy công sức người khác, rồi tìm cách biến nó thành của mình.
Trong thương mại và công nghiệp ai ai cũng đánh cắp.
Bản thân tôi từng đánh cắp nhiều thứ. Nhưng tôi
biết phải đánh cắp như thế nào.
(Thomas Edison, 1847-1931)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Nhìn ở khía cạnh động lực, thế giới quyền bính cũng giống như chốn rừng xanh: Có kẻ sống bằng cách săn mồi và giết chóc, bên cạnh đó có đông đảo kẻ khác (như kền kền, sài lang) chuyên sống nhờ vào mớ thịt thừa do bọn săn bắt bỏ đi. Bọn kền kền này không đủ trí óc và sức lực để tạo ra quyền bính. Tuy nhiên ngay từ đầu, chúng hiểu rằng nếu đủ kiên nhẫn chờ lâu thì sẽ có con khác làm việc đó cho mình. Vì vậy bạn đừng quá ngây thơ: Ngay từ lúc bạn đổ mồ hôi sôi nước mắt với một dự án nào đó thì bọn kền kền luôn lượn lờ quanh quẩn, tìm cách sống qua ngày bằng công sức của bạn, thậm chí vinh thần phì gia nhờ vào công sức ấy. Than khóc cũng không ích gì, và đừng để cho nỗi đắng cay nó nhấm nháp tả tơi mình như trường hợp Tesla. Tốt hơn bạn nên phòng thủ sẵn và chấp nhận cuộc chơi. Một khi đã thiết lập xong cơ sở quyền lực, bạn hãy biến thành con kền kền để tiết kiệm cho mình khá nhiều thời gian và sức lực.
Trò này có hai cực, và chúng ta bắt đầu bằng việc minh họa cho cực thứ nhất với trường hợp của nhà thám hiểm Vasco Núñez de Balboa. Balboa cũng có nỗi ám ảnh, đó là phải tìm cho bằng được vùng El Dorado, vốn là một thành phố truyền thuyết ngập tràn ngọc ngà châu báu.
Vào đầu thế kỷ XVI, sau bao thử thách và đối đầu với thần chết, ông ta phát hiện một đế chế vĩ đại và giàu có nằm về phía nam Mexico, thuộc đất nước Peru ngày nay. Nếu chiếm được đế chế Inca này và thu giữ của cải, Balboa sẽ trở thành một Cortéz mới. Vấn đề là khi ông ta vừa phát hiện ra thì tin tức lan truyền đến những tên âm mưu xâm chiếm khác. Balboa chưa kịp ý thức rằng quy luật quan trọng của cuộc chơi là phải giữ kín thông tin và để phòng những người xung quanh. Chỉ vài năm sau phát hiện ấy, Francisco Pizarro, một binh sĩ dưới quyền ông đã thông đồng với người khác để chém đầu ông về tội tạo phản. Pizzaro chiếm đoạt những gì Balbor đã bỏ ra hàng bao nhiêu năm để kiếm tìm ra.
Ở cực bên kia là trường hợp họa sĩ Peter Paul Rubens. Khi đã có công danh, Rubens bị tràn ngập bởi những đơn đặt hàng, và vì không vẽ kịp nên ông tạo ra hệ thống như sau: Trong xưởng vẽ mênh mông, ông tuyển mộ vài chục họa sĩ hàng đầu, người này chỉ vẽ y phục, kẻ kia lại chuyên trị bối cảnh, vân vân. Rubens đã thiết lập một dây chuyền sản xuất rộng lớn, với một số lượng lớn tranh được xử lý đồng thời. Khi có khách sộp viếng xưởng, Rubens cho tất cả họa sĩ nghỉ phép. Mời khách đứng ở bao lơn từ xa nhìn xuống, ông ta biểu diễn vẽ với tốc độ kinh hồn, bằng năng lực không thể tin nổi. Khi kiếu từ, khách nào cũng kính sợ họa sĩ phi thường ấy, người có thể thực hiện biết bao kiệt tác trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Đó chính là cái tinh túy của nguyên tắc: Tìm cách xui khiến người khác thực hiện công việc cho bạn trong khi bạn thụ hưởng mọi công lao, lúc ấy bạn sẽ toát ra vẻ hùng mạnh quyền uy phi thường. Nếu cho rằng điều quan trọng là tự tay làm lấy mọi việc thì bạn sẽ không bao giờ đi xa và sẽ chịu chung số phận với những Balbor và Tesla trên thế giới này. Hãy tìm ra những người có tài năng và óc sáng tạo mà bạn đang thiếu. Hoặc bạn thuê mướn họ và đặt tên mình trên tên họ, hoặc bạn tìm cách chiếm đoạt công sức của họ làm thành quả của mình. Tài sáng tạo của họ trở thành của bạn và mọi người sẽ xem bạn là thiên tài.
Nguyên tắc này còn một ứng dụng khác không đòi hỏi bạn phải lợi dụng công sức lao động của người đương thời: Sử dụng kho tri thức và hiền triết mênh mông của quá khứ. Isaac Newton gọi động tác này là “đứng trên vai những người khổng lồ”. Ông ám chỉ những khám phá được xây dựng trên thành tựu của kẻ khác. Ông biết rằng một phần lớn vầng hào quang thiên tài của mình đều do khả năng tận dụng những ý hay của các nhà khoa học từ thời Thượng cổ, Trung cổ và Phục hưng. Shakespeare vay mượn cốt truyện, tính cách nhân vật, thậm chí lời thoại của những tác giả khác, nhất là Plutarch, vì ông biết rằng để soạn ra những lời thoại “trí tuệ” và chi tiết tâm lý tinh tế thì không ai có thể hay hơn Plutarch. Liệu sau này đến lượt mình, có bao nhiêu soạn giả đã vay mượn – đạo văn – Shakespeare?
Tất cả chúng ta điều biết trong giới chính khách hiện nay ít ai tự soạn thảo diễn văn. Lời lẽ của họ chắc chắn sẽ không thu hút được lá phiếu nào. Cho dù có sắc sảo hay hùng biện, họ vẫn nhớ đến người viết diễn văn chuyên nghiệp. Người khác bỏ ra công sức, còn họ thừa hưởng công trạng. Mặt tốt của kho tàng vừa kể: đó là thứ sức mạnh sẵn dùng cho bất kỳ ai. Bạn hãy học cách sử dụng tri thức của quá khứ và mọi người sẽ xem bạn là thiên tài, trong khi thật ra bạn chỉ là một kẻ vay mượn khôn ngoan.
Các văn hào từng nghiên cứu sâu về bản chất con người, những bậc thầy chiến lược trong quá khứ, giới sử gia từng ghi chép những điều ngớ ngẩn và ngông cuồng của nhân loại, những ông hoàng bà chúa từng trả giá đắt để xử lý gánh nặng của quyền năng – sự hiểu biết đang nằm trong kho dưới lớp bụi mờ chờ bạn đến để leo lên vai họ. Sự minh mẫn và kỹ năng của họ sẽ trở thành của bạn, và họ sẽ chẳng bao giờ mách lẻo với ai rằng bạn đã học lỏm. Bạn có thể lê bước nặng nhọc suốt cuộc đời này, gây ra hết sai phạm này đến sai phạm khác, phí phạm bao nhiêu thời gian và công sức để tự tay thử làm việc này việc nọ. Hoặc bạn có thể tận dụng cổ học tinh hoa. Như có lần Bismarck đã nói: “ Người khờ bảo rằng mình học từ kinh nghiệm. Còn tôi thích lợi dụng kinh nghiệm của người khác.”
Hình ảnh:
Con kền kền. Trong thế giới loài thú, kền kền là thứ sống phây phây nhất. Chúng lợi dụng công sức nặng nhọc của con khác. Con nào chết đi sẽ trở thành mồi ngon cho kền kền. Hãy dè chừng bọn kền kền – chúng luôn quần đảo phía trên đầu những kẻ lao động nặng nhọc. Bạn đừng chống lại chúng, mà hãy nhập bầy với chúng.
Ý kiến chuyên gia:
Cuộc sống quá ngắn ngủi, còn tri thức thì mênh mông, và sẽ không là cuộc sống nếu không có tri thức. Vì vậy biết tiếp thu tri thức từ người khác là một kế sách tuyệt vời. Nhờ vào giọt mồ hôi trên trán kẻ khác, bạn được tiếng là thánh nhân.
(Baltasar Gracián, 1601-1658)
NGHỊCH ĐẢO
Đôi khi chiếm lấy công trạng của người khác cũng không phải là khôn ngoan: Nếu uy quyền của mình chưa được xác lập chắc chắn, bạn sẽ bị lên án là cướp cơm chim. Muốn trở thành bậc thầy bóc lột, bạn phải
có vị trí vững vàng, ngược lại thiên hạ bảo bạn là tên lừa đảo.
Bạn nên biết đâu là lúc nên để cho người khác chia sẻ công trạng của mình. Điều quan trọng là bạn không nên tham lam khi còn sư phụ ở phía trên. Chuyến viếng thăm Trung Quốc mang tính lịch sử của tổng thống Nixon có thể không bao giờ hiện thực nếu không có sự ngoại giao khéo léo của Henry Kissinger. Và cũng có lẽ sẽ không thành công nếu không nhờ tài năng của Kissinger. Tuy nhiên đến lúc ghi công thì vị ngoại trưởng khôn ngoan để cho Nixon hưởng trọn phần của chúa. Biết rằng trước sau gì thiên hạ cũng biết ra sự thật, Kissinger không muốn phương hại đến vị trí của mình bằng cách giành hết ánh đèn sân khấu. Ông đã chơi trò này thật lão luyện: Chiếm lấy công sức của nhân viên cấp dưới mình, trong khi ân cần dâng hết công trạng của mình cho sư phụ. Đó là cách mà bạn phải chơi.
NGUYÊN TẮC 8
NHỬ MỒI DỤ ĐỊCH
Khi khích được địch thủ ra tay, ta là người nắm quyền kiểm soát. Khiến cho đối phương đến với ta, và như vậy hắn phải thay đổi kế hoạch ban đầu. Dụ hắn bằng lợi lộc kếch sù – rồi tấn công. Cờ trong tay ta.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Tại hội nghị Vienna năm 1814, các cường quốc của châu Âu tụ họp về để phân chia những gì còn lại của đế chế Napoléon. Thành phố tưng bừng lễ hội, chủ nhà tổ chức những buổi khiêu vũ linh đình nhất. Tuy nhiên lởn vởn trong hội nghị vẫn là cái bóng của Napoléon. Vị cựu hoàng không bị hành quyết, cũng không bị đày ra biên địa xa xôi, mà chỉ bị quản thúc trên đảo Elba, không xa bờ biển nước Ý.
Ngay cả khi bị giam lỏng trên đảo, một kẻ gan dạ và thông minh như Napoléon Bonaparte cũng làm cho đối phương bồn chồn. Người Áo muốn mưu sát ông ngay trên đảo, vị Nga hoàng tính khí thất thường càng làm nỗi lo âu dâng thêm khi lên cơn tam bành ngay trong buổi họp vì bị một phần đất nước Ba Lan phủ nhận ông: “Coi chừng, ta sẽ cho con quái vật xổ lồng!”, ông đe dọa. Ai cũng biết ông ám chỉ Napoléon. Trong số tất cả những chính khách trong phòng, chỉ có mỗi Talleyrand, nguyên cựu ngoại trưởng của Napoléon là có vẻ bình tĩnh và không tỏ vẻ quan ngại. Chừng như ông biết việc gì đó mà người khác không biết.
Trong lúc đó trên đảo Elba, cuộc sống cựu hoàng đế được nhại lại để chế nhạo sự vinh quang đã qua. Như là “vua” đảo Elba, cựu hoàng được phép hình thành triều đình riêng – ông có một đầu bếp, một bà chuyên lo chuyện y phục, một nhạc công piano chính thức cùng với một số quần thần. Tất cả màn kịch này được dựng lên để sỉ nhục Napoléon, và chừng như nó có hiệu quả.
Nhưng mùa đông năm đó xảy ra một loạt những diễn biến lạ lùng và ngoạn mục đến nỗi có thể dựng thành kịch bản. Elba luôn bị bao vây bởi cả đội chiến thuyền Anh Quốc, với mọi họng súng đều chĩa về những nơi nào có thể làm bàn đạp cho một vụ đào thoát. Vậy mà vào ngày 26 tháng 2 năm 1815, giữa thanh thiên bạch nhật một chiếc thuyền chở theo 900 người lại có thể đón được Napoléon để đưa ông ta ra khơi. Quân Anh đuổi theo nhưng không kịp. Cái điệp vụ gần như “bất khả thi” này làm sững sờ người dân Âu châu và khiến cho các chính khách ở Hội nghị Vienna khiếp đảm.
Mặc dù sẽ an toàn hơn nếu rời khỏi châu Âu, song Napoléon không chỉ quyết định trở về Pháp mà còn đặt cược cao hơn nữa bằng cách tiếng về Paris với một đội quân ít người, với hy vọng khôi phục ngai vàng. Chiến lược này lại thành công – mọi người, mọi tầng lớp đều quỳ mọp dưới chân ông. Nguyên soái Ney dẫn quân từ Paris xuống bắt ông, nhưng khi binh sĩ gặp lại vị lãnh tụ yêu quý, họ phản phé. Một lần nữa Napoléon được tôn lên hoàng đế. Nhiều người tình nguyện gia nhập đoàn quân của ông. Cả nước như chìm vào cơn mê sảng. Tại Paris quần chúng nổi loạn. Ông vua vừa thế chỗ Napoléon chỉ còn cách là trốn khỏi đất nước.
Trong vòng trăm ngày sau đó, Napoléon trị vì nước Pháp. Nhưng chẳng bao lâu sau cơn mê say thoáng qua, nước Pháp vỡ nợ, mọi nguồn tài nguyên gần như cạn kiệt và Napoléon không thể làm gì nhiều để cứu vãn tình thế. Tháng sáu năm ấy tại trận Waterloo, hoàng đế vĩnh viễn đại bại. Lần này thì địch thủ đã tiêu hóa kỹ lưỡng bài học: Họ lưu đày ông ra hoang đảo Sainte Hélène rất xa ngoài khơi bờ biển Tây Phi. Ở đó không có cửa nào để đào thoát.
Diễn giải
Chỉ nhiều năm sau mọi người mới vỡ lẽ những bí mật về cuộc đào tẩu từ đảo Elba. Trước đó, một số vị khách đến viếng thăm “triều đình” Napoléon cho ông biết rằng dân chúng Pháp yêu ông hơn bao giờ hết và cả nước sẽ dang tay chào đón ông. Một trong những vị khách đó là tướng Koller của nước Áo, người thuyết phục rằng nếu ông thoát khỏi đảo, các thế lực Âu châu, kể cả nước ở nước Anh sẵn sàng hoan nghênh ông lên nắm quyền trở lại. Napoléon cũng được thuyết phục rằng người Anh sẽ phớt lờ để ông tẩu thoát, và bằng cớ là ông đã lên đường vào buổi trưa, giữa một rừng tai mắt Anh.
Điều duy nhất mà Napoléon không ngờ chính là có một người giật dây toàn bộ màn rối ấy, và đó chính là cựu ngoại trưởng của ông. Talleyrand làm tất cả những chuyện này không phải để phục hồi những ngày vinh quang xưa cũ, nhưng để tiêu diệt Napoléon một lần vĩnh viễn. Tin rằng tham vọng của cựu hoàng sẽ làm xáo trộn sự ổn định của châu Âu, ông ta từng quay lưng lại với cựu hoàng từ lâu rồi. Ông phản đối khi Napoléon bị đày ra đảo Elba và đề nghị nên đày đi thật xa hơn nữa, nếu không châu Âu sẽ không bao giờ có hòa bình. Nhưng không ai chịu nghe.
Thay vì tranh đấu gay gắt cho quan điểm của mình, Talleyrand chờ thời. Cứ âm thầm tác động, ông ta cuối cùng thuyết phục Castlereagh và Metternich, hai vị ngoại trưởng của Anh và Áo.
Những người này nhử mồi dụ Napoléon đào thoát. Ngay cả chuyến viếng thăm của Koller để thì thầm những lời hứa hẹn vinh quang cũng là một phần kế hoạch. Như là một thần bài, Talleyrand đã dự đoán hết mọi thứ. Ông ta biết cựu hoàng sẽ rơi ngay vào cái bẫy giăng sẵn. Ông cũng tiên đoán là Napoléon sẽ đẩy nước Pháp lâm chiến, và chiếu theo thực lực quốc gia thì Pháp chỉ có thể cầm cự được vài tháng. Một nhà ngoại giao tại Vienna biết Talleyrand đứng đằng sau tất cả những việc kể trên đã nói rằng: “Ông ta đã phóng hỏa đốt nhà để cứu nó khỏi bệnh dịch.”
Khi đặt mồi dụ nai, tôi sẽ không bắn con đầu tiên đến ngửi,
nhưng chờ cho đến khi cả đàn dẫn xác tới.
(Otto von Bismarck, 1815-1898)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Kịch bản sau đây đã lặp đi lặp lại biết bao lần trong lịch sử: Một lãnh đạo hiếu chiến thực hiện một loạt biện pháp để thâu tóm thêm quyền lực. Tuy nhiên sau đó quyền lực này dần dà tới đỉnh điểm và mọi thứ bắt đầu chống lại ông ta. Nhìn thấy những kẻ thù liên kết với nhau, ông ta vắt cạn kiệt sức mạnh để mong tiêu diệt chúng, song cuối cùng ông sụp đổ. Lý do là vì người hiếu chiến, manh động ít khi nào kiểm soát toàn bộ tình hình. Hắn không thể nhìn xa trông rộng, nhiều lắm cũng chỉ tính được một vài nước cờ, hắn không thể ước lượng được hậu quả của biện pháp này hay biện pháp khác. Vì luôn bị đưa vào thế phải phản ứng lại với những nước cờ của lực lượng địch thủ ngày càng đông, với những hậu quả bất ngờ của chính hành động nóng vội của mình, sức mạnh hiếu chiến đã quay lại vào đập lưng hắn.
Ở lĩnh vực quyền lực, bạn nên tự hỏi rằng sẽ ích lợi gì khi chạy đôn chạy đáo để giải quyết vấn đề và đánh bại địch thủ, nếu bản thân ta không bao giờ cảm thấy là mình làm chủ tình hình. Tại sao ta luôn phải đối phó với sự kiện thay vì điều khiển chúng? Câu trả lời thật đơn giản: Ý niệm của bạn về quyền lực đã sai rồi. Bạn lầm lẫn giữa hành động hiếu chiến và hành động hiệu quả. Và trong hầu hết trường hợp, hành động hiệu quả có nghĩa là lùi một bước, giữ bình tĩnh, để cho địch thủ bàng hoàng vì sập bẫy ta đã giăng sẵn, và ta đầu tư cho thứ quyền lực về lâu dài chứ không chuộng loại chiến thắng chóng vánh.
Bạn hãy nhớ: Cốt lõi của quyền lực là khả năng ra chiêu trước, làm cho địch thủ phải đối phó với đòn thế của mình là dồn kẻ khác vào thế thủ. Khi làm cho đối phương dẫn xác đến tìm thì bạn trở thành người kiểm soát tình hình. Và ai kiểm soát thì người đó nắm quyền thế. Muốn đạt được vị trí đó bạn phải thỏa mãn hai điều kiện: Bạn phải học cách làm chủ cảm xúc và đừng giận quá mất khôn. Ngược lại bạn phải tập thao túng khuynh hướng tự nhiên của người khác là dễ nổi giận khi bị khiêu khích và quấy nhiễu. Về lâu về dài, kỹ năng này trở thành thứ vũ khí lợi hại hơn bất kỳ vũ khí tiến công nào khác.
Bạn nghiên cứu cách mà Talleyrand thực hiện chiêu thức ấy. Thoạt tiên ông ta nén lòng lại, thôi không thuyết phục các chính khách lưu đày Napoléon đi thật xa. Việc thuyết phục người khác làm theo ý mình, việc áp đặt ý kiến của mình bằng lời lẽ là hành động tự nhiên thôi. Nhưng thường khi mình không được toại nguyện mà còn bị phản đòn. Lúc đó nhiều chính khách không nghĩ một Napoléon bại trận sẽ còn là một mối đe dọa nên Talleyrand biết nếu bỏ ra công sức để thuyết phục họ thì quả là khờ khạo. Ngược lại ông ta kìm giữ cảm xúc và lời lẽ. Điều quan quan trọng hơn hết là ông ta giăng cho cựu hoàng một cái bẫy êm ái và khó cưỡng. Talleyrand biết nhược điểm dễ bốc đồng của Napoléon, biết nhu cầu đắm mình trong vinh quang và sự tin yêu của dân chúng, và ông ta đã lợi dụng những điểm yếu này thật hoàn hảo. Talleyrand hiểu rằng khi đã cắn câu thì Napoléon cũng sẽ không thể thành công để sau đó trả thù bởi vì ông ta biết ngân sách nước Pháp đã cạn kiệt. Và cho dù Napoléon có vượt qua được cái ải này thì xác suất thành công sẽ lớn hơn nếu cựu hoàng có cơ hội lựa chọn thời gian và địa điểm hành động. Khi giăng bẫy,
Talleyrand đã nắm thế thượng phong.
Tất cả chúng ta đều có nhiều sức mạnh, và vào lúc nào đó sức mạnh này sẽ lên đến đỉnh điểm. Khi dụ địch thủ tìm đến ta, địch sẽ bị hao mòn lực lượng vì đã tiêu phí sức mạnh suốt lộ trình di chuyển. Vào năm 1905 khi Nga và Nhật lâm chiến, đội chiến hạm của Nga mạnh hơn hẳn. Nhưng nguyên soái Nhật Togo Heihachiro tung tin tình báo dởm, dụ Nga xuất quân từ các cảng ở biển Baltic vì Nga tưởng sẽ tiêu diệt hạm đội Nhật trong cuộc tiến công chớp nhoáng duy nhất. Nhưng Nga không thể đến Nhật bằng hải trình ngắn nhất – qua eo biển Gibraltar rồi qua kênh đào Suez để vào Ấn Độ Dương – vì hải trình này bị quân Anh chiếm giữ, mà quân Nhật lại là đồng minh của Vương quốc Anh. Hạm đội Nga phải đi vòng qua mũi Hảo Vọng, kéo hải trình dài thêm sáu ngàn dặm nữa. Khi quân Nga đã vượt qua cực phía nam châu Phi rồi, Nhật lại tung thêm tin dởm rằng mình chuẩn bị xuất quân phản công. Vì vậy suốt cả hành trình quân Nga luôn trong tình trạng báo động cao độ. Khi đến nơi, quân Nga căng thẳng và kiệt sức, trong khi Nhật đang thật thoải mái sung mãn. Nhờ đó cho dù không được lợi thế về khí tài và kinh nghiệm, Nhật vẫn đập nát được hạm đội Nga.
Một lợi thế khác khi dụ địch thủ đến tìm ta, như trong trường hợp kể trên, là ta buộc đối phương phải chơi trên sân khách. Không được ở trận địa của mình, đối phương sẽ căng thẳng, hành động thiếu suy nghĩ và phạm phải sai lầm. Cho dù chỉ là hội họp hay thương lượng, người thông minh luôn dụ địch vào sân mình hoặc vào trận địa mà mình chọn trước. Bạn được lợi thế sân nhà, trong khi đối phương lạ nước lạ cái và ít nhiều cũng lâm vào thế thủ.
Thao túng là một trò nguy hiểm. Nếu đối phương biết mình đang bị thao túng thì càng lúc càng khó kiểm soát hắn hơn. Nhưng khi dụ được hắn tìm đến ta, hắn sẽ lầm tưởng là đang nắm thế chủ động. Hắn không nhận ra những sợi dây đang giật, giống như Napoléon tưởng rằng mình là người vạch kế hoạch đào thoát và trở lại nắm quyền.
Mọi thứ đều tùy thuộc vào chất lượng ngon ngọt của miếng mồi. Nếu cái bẫy của ta giăng ra quá hấp dẫn, những cảm xúc và ham muốn nháo nhào sẽ làm địch thủ mờ mắt. Càng tham lam thì chúng càng dễ bị xỏ mũi.
Bậc sư phụ về lừa đảo hồi thế kỷ XIX Daniel Drew là người am tường thị trường chứng khoán. Khi muốn mua hay bán loại cổ phiếu nào đó, khi muốn nâng hay giảm giá, ít khi nào hắn tiếp cận trực tiếp tay chơi. Một trong những mánh của hắn là ra vẻ khẩn trương chạy vào một câu lạc bộ dành riêng cho những người chuyên mục bán chứng khoán nằm gần Wall Street để cho mọi người thấy rằng mình đang hối hả trên đường đến trung tâm chứng khoán. Hắn rút cái khăn màu đỏ để thấm mồ hôi trán và “vô tình” làm rơi ra mẩu giấy nhỏ. Các thành viên câu lạc bộ luôn muốn biết trước mọi động tác của Drew, họ sẽ đổ xô xem xét mẩu giấy vốn chắc chắn có ghi một hai chi tiết mách nước về những chứng khoán nào đó. Miệng đồn miệng, họ sẽ kháo nhau mua hoặc bán chứng khoán đó, xem như rơi vào bẫy của Drew.
Nếu dụ được người khác tự đào mồ chôn thì bạn không cần phải đổ mồ hôi. Bọn móc túi áp dụng quy luật này rất nhuần nhuyễn. Trước khi móc túi, mấu chốt là biết chắc cái bóp đang nằm ở túi nào. Bọn chuyên nghiệp thường hành nghề ở bến xe hay trạm đỗ, nơi nào có gắn bảng thật to COI CHỪNG MÓC TÚI. Khách bộ hành đi ngang qua trông thấy bảng này sẽ đưa tay sờ thử xem cái bóp còn yên vị trong túi hay không. Để ý thấy động tác này, bọn chúng sẽ nhón lấy cái bóp dễ như trở bàn tay. Có tin đồn là chính bọn chúng còn gắn thêm bảng COI CHỪNG MÓC TÚI để dễ bề tác nghiệp.
Khi khiến người khác đến tìm mình, đôi lúc sẽ hiệu quả hơn nếu bạn công khai để cho họ biết là bạn chủ động xui khiến như thế. Thay vì dụ dỗ, bạn công khai thao túng. Ở đây, tác động tâm lý khá sâu xa: Người nào có khả năng khiến kẻ khác đến với mình sẽ rạng ngời quyền năng, khiến kẻ kia phải kính nể.
Filippo Brunelleschi, họa sĩ và kiến trúc sư vĩ đại thời Phục hưng, rất giỏi trong việc khiến người khác đến với mình. Ngày kia ông nhận thầu sửa chữa mái vòm nhà thờ Santa Maria del Fiore ở Florence. Đây là nhiệm vụ quan trọng mang lại thanh thế. Nhưng khi các vị chức sắc thành phố mướn thêm người thứ hai là Lorenzo Ghiberti để làm việc chung, thì Brunelleschi âm thầm bày ra mưu kế. Brunelleschi biết rõ là Ghiberti chia sẻ được gói thầu này là do quan hệ hành lang, rằng hắn sẽ không làm gì ra trò nhưng sẽ hưởng một nửa công trạng. Đến giai đoạn cao điểm của công trình bỗng dưng Brunelleschi phát bệnh thật bí ẩn. Ông ta không thể làm việc tiếp, và bảo các vị chức sắc rằng họ đã mướn Ghiberti rồi thì hắn phải có khả năng làm tiếp công việc một mình. Chẳng bao lâu sau họ thấy Ghiberti chẳng làm được gì nên đến nài nỉ Brunelleschi. Ông ta phớt lờ và nhấn mạnh rằng Ghiberti phải hoàn tất dự án, mãi cho đến khi các vị kia
nhận thức được vấn đề. Họ cho Ghiberti nghỉ việc.
Có lẽ nhờ phép lạ nên chỉ trong một hai hôm thì căn bệnh bí ẩn của Brunelleschi biến mất. Ông ta không cần nổi giận mà cũng chẳng làm điều gì ngốc nghếch, mà chỉ đơn giản áp dụng nghệ thuật “khiến kẻ khác đến với mình”.
Nếu có dịp nào đó các bạn cho rằng vì vấn đề thể diện nên phải khiến người khác đến tìm mình, và bạn làm được, thì sau này họ vẫn tiếp tục đến ngay cả khi bạn không cần sai khiến nữa.
Hình ảnh:
Bẫy gấu bằng mật ong. Thợ săn gấu không theo đuổi theo con mồi. Nếu biết mình đang bị săn đuổi, gấu sẽ láu lỉnh chuồn mất, và trở nên cực kỳ hung dữ khi bị dí vào thế bí. Ngược lại, thợ săn sẽ giăng bẫy bằng mật ong. Anh ta không cần mệt nhọc và mạo hiểm tính mạng mình để đuổi theo gấu. Anh ta giăng bẫy, rồi chờ.
Ý kiến chuyên gia:
Kẻ thiện chiến khiến địch thủ đến tìm mình, chứ không đi đến chỗ địch thủ. Đây là nguyên lý đầy và vơi giữa mình và người khác. Khi ta khích địch thủ đến tìm ta, sức lực họ luôn rỗng; nếu vậy ta không đến chỗ của họ thì sức lực ta luôn đầy. Lấy cái đầy mà tiến công cái rỗng thì cũng giống như lấy đá chọi trứng.
(Trương Vũ, thế kỷ 11, bàn về Binh pháp Tôn Tử)
NGHỊCH ĐẢO
Mặc dù nhìn chung thì ta nên làm cho đối phương tổn hao sức lực khi tìm đến ta, nhưng có những trường hợp ngược lại ta lại bất ngờ tấn công mãnh liệt để đối phương suy sụp tinh thần và sinh lực. Thay vì chờ họ đến, ta đi trước một bước, thúc ép quyết định và nắm thế chủ đạo. Tấn công thần tốc là thứ vũ khí khủng khiếp, vì nó dồn đối phương vào thế phải đối phó mà không đủ thời gian suy nghĩ hoặc lập kế hoạch. Trong những trường hợp như vậy, đối phương sẽ sai lầm về phán đoán và lui về thế bị động. Chiến thuật này ngược lại với chiêu giăng bẫy và chờ đợi, nhưng lại có cùng mục đích: Làm cho địch thủ đối phó theo điều kiện của ta.
Những người như Cesare Borgia và Napoléon dùng tốc độ để làm địch thủ sợ hãi, sau đó họ mới chiếm quyền điều khiển. Hành động chớp nhoáng và bất ngờ luôn khiến đối phương thất đảm kinh hồn. Tùy theo tình huống mà bạn chọn chiến thuật. Nếu ta chủ động về mặt thời gian và biết rằng hai phe cân sức, thì hãy dụ địch đến để làm tiêu hao lực lượng chúng. Nếu ta phải đua với thời gian – đối phương yếu hơn ta, nếu để lâu thêm thì chúng có cơ hồi phục – thì đừng chừa cho chúng cửa nào. Đánh thần tốc thì chúng không còn đường rút. Như tay đấm boxing Joe Louis đã nói: “Hắn có thể chạy quanh, nhưng không thể lẩn trốn.”
NGUYÊN TẮC 9
CHIẾN THẮNG BẰNG HÀNH ĐỘNG,CHỨ KHÔNG BẰNG LÝ LUẬN
Bất kỳ vinh quang tạm bợ nào mà bạn đạt được qua lý luận cũng chỉ là thứ chiến thắng chẳng phải trả bằng cái giá quá đắt. Sự oán giận và ác tâm mà bạn đã khuấy lên sẽ dai dẳng hơn việc đối phương tạm thời thay đổi ý kiến. Muốn người khác nhất trí với mình, bạn hãy hành động cụ thể mà không cần nói lời nào, như vậy bạn mới thực sự mạnh mẽ. Hãy chứng minh, đừng giải thích.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Vào năm 131 TCN, quan chấp chính La Mã là Publius Crassus Cives Mucianus vây hãm thị trấn Pergamus của Hy Lạp. Ông cần có một thân cây lớn để làm đòn húc sập cửa thành. Trước đó vài hôm, Mucianus trông thấy một số cột buồn của chiến thuyền to trong xưởng đóng tàu ở Athens, nên ông liền ra lệnh sung công ngay cây cột to nhất. Viên kỹ sư quân sự ở Athens nhận được lệnh, nhưng biết chắc rằng cây cột to nhất chưa phải là tốt nhất. Anh ta bảo đám binh sĩ rằng có cây nhỏ hơn, nhưng thích hợp hơn cho việc phá thành.
Binh sĩ cảnh báo rằng quan chấp chính không phải người thích lý luận, song viên kỹ sư vẫn khăng khăng rằng vây cột nhỏ sẽ là thứ duy nhất thích hợp với cái thiết bị mà anh ta đã thiết kế để phá thành. Anh vẽ hết sơ đồ này đến sơ đồ khác, thậm chí bảo với quân lính rằng anh ta là chuyên gia, rằng họ không biết ất giáp gì về những điều anh ta nói. Tuy nhiên quân lính biết rõ vị chỉ huy của họ, và cuối cùng thuyết phục viên kỹ sư rằng tốt hơn anh ta nên ngậm miệng và chấp hành.
Sau khi quân lính đi khỏi, viên kỹ sư suy nghĩ tiếp và tự hỏi liệu ích lợi gì khi tuân theo một cái lệnh trước sau gì cũng dẫn đến thất bại? Do đó anh ta cho chuyển đi cây cột nhỏ, tự tin rằng quan chấp chính sẽ thấy nó hữu hiệu hơn nhiều, từ đó sẽ khen thưởng anh xứng đáng.
Khi cây cột tới nơi, Mucianus bảo quân lính báo cáo. Họ kể lại chuyện anh kỹ sư dài dòng thuyết giảng và khuyên dùng cây cột nhỏ, nhưng cuối cùng cũng hứa là sẽ chuyển cây lớn. Mucianus nổi trận lôi đình, không còn bình tĩnh để nghĩ đến việc bao vây thị trấn, hoặc đến phá thành trước khi viện quân Hy Lạp đến. Mục tiêu duy nhất trong đầu ông ta bây giờ là viên kỹ sư hỗn xược kia.
Vài ngày sau khi bị triệu tập tới, anh ta vẫn một lần nữa hồ hởi giải thích cho Mucianus nghe tại sao phải dùng cây cột nhỏ. Anh ta cứ huyên thuyên mãi, đưa ra những lý lẽ mà anh ta đã nói với toán quân hôm trước. Với những chuyên môn hữu quan, anh ta khuyên Mucianus nên nghe theo ý kiến chuyên gia, và phải chi ông ta đã sử dụng cây cột được gửi tới để phá thành thì kết quả sẽ mỹ mãn. Mucianus để anh ta nói xong rồi ra lệnh lột hết quần áo trước toàn quân, cho lính dùng roi và gậy đánh cho đến chết.
Diễn giải
Viên kỹ sư, mà tên tuổi không được lịch sử ghi lại, đã bỏ cả đời ra để thiết kế cột nhà lẫn cột buồm. Thị trấn Pergamus nổi tiếng về sản xuất những cây cột tuyệt hảo, và viên kỹ sư kia là người giỏi giang nhất thị trấn. Chính vì vậy mà anh ta biết mình có lý. Cây cột nhỏ sẽ dễ khiêng hơn, cho tốc độ tiến công lớn hơn, do đó xung lực cũng cao hơn. Cột to không hẳn đã tốt hơn. Tất nhiên là Mucianus cũng thấy được lẽ đó và cuối cùng hiểu ra rằng khoa học rất trung lập, và lý trí sẽ chiến thắng. Vậy lẽ nào ông ta lại cứ mãi mê muội, một khi viên kỹ sư hết lời giải thích, kèm với sơ đồ minh họa?
Viên kỹ sư quân sự kia điển hình của loại Người Lý Sự, loại người trong xã hội chúng ta nhìn đâu đâu cũng có. Người Lý Sự không hiểu rằng chữ nghĩa không bao giờ trung lập, và khi cãi lý với cấp trên, anh ta đã thách thức trí thông minh của kẻ có nhiều quyền lực hơn mình. Anh ta cũng không biết người đối thoại với mình thực sự là ai. Vì mỗi người trong chúng ta đều luôn cho rằng mình đúng, và ít khi nào lời lẽ người khác thuyết phục được ta, nên những lập luận của Người Lý Sự rơi vào tai kẻ điếc. Cho dù hết đường cãi thì hắn vẫn cố cãi mà không biết rằng mình tự đào mồ chôn. Một khi đã làm cho cấp trên cảm thấy mất tự tin và kém hơn về tri thức, thì cho dù có được sự hùng biện của Socrates cũng không cứu vãn
được tình hình.
Vấn đề không chỉ đơn giản là tránh tranh luận với cấp trên. Ai trong chúng ta cũng cho rằng ý kiến và lý luận của mình là đúng nhất. Vì vậy bạn nên cẩn thận: Hãy học cách chứng minh sự đúng đắn của ý tưởng mình một cách gián tiếp.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Năm 1502 tại thành phố Florence nước Italia, một khối cẩm thạch to đùng đứng sừng sững giữa khu nhà thi công nhà thờ Santa Maria del Fiore. Trước kia, nó từng là khối cẩm thạch nguyên liệu tuyệt vời, song có một thợ điêu khắc non tay nghề đã vô tình làm thủng một lỗ to ở vị trí lẽ ra phải là cặp chân của pho tượng sắp hình thành, nên sau đó không còn chỗ để tạc cặp chân. Thị trưởng Florence là Piero Soderini đã cố cứu vãn tình thế bằng cách mời cả Leonardo da Vinci và những bậc thầy khác tận dụng khối cẩm thạch, song cuối cùng ai cũng nhìn nhận rằng không còn cách nào cứu vãn được. Vì vậy cho dù đã tốn nhiều tiền mua về, nhưng khối đá đành đứng hứng bụi trong bóng tối.
Ngày kia một nhóm bạn bè của nghệ nhân Michelangelo quyết định viết thư lên Rome để mời ông xem xét. Họ tin là chỉ mình ông mới có thể tận dụng khối cẩm thạch tuyệt vời đó. Nghệ nhân bằng lòng đến xem và cho biết ông có thể tận dụng để tạc một bức tượng khác, khéo léo tránh né cái lỗi trong khối đá. Soderini bảo chỉ tổ mất thời gian, rằng không ai có thể cứu vãn tai họa đó, song cuối cùng ông cũng bằng lòng để cho nghệ nhân thử nghiệm. Michelangelo quyết định tạc tượng David tay đang thủ dàn ná.
Vài tuần sau, khi Michelangelo đang chấm phá những nét sau cùng thì Soderini bước vào xưởng. Tự ra vẻ mình cũng là tay thưởng lãm, viên thị trưởng ngắm nghía công trình một lúc rồi bảo Michelangelo rằng bức tượng rất đẹp, nhưng tiếc là cái mũi hơi to. Nghệ nhân biết rằng Soderini đang đứng ngay phía dưới bức tượng khổng lồ nên không thể có phối cảnh thích hợp. Không nói một lời, Michelangelo ra dấu cho thị trưởng theo ông ta lên dàn giáo, chỗ gần cái mũi. Sau đó Michelangelo nhặt búa đục và một ít bụi cẩm thạch vương vãi trên sàn, rồi leo lên độ dàn cao hơn một chút, khuất mắt Soderini. Vừa khua đục, Michelangelo vừa buông tay cho rơi dần ít bụi cẩm thạch, làm cho Soderini lầm tưởng là ông có đục đẽo thực sự. Vài phút sau Michelangelo leo xuống tầng dàn giáo nơi Soderini đứng và mời ông ta ngắm lại lần nữa. “Đẹp hơn rồi đó,” Soderini gật gù, “anh làm cho bức tượng sống động hẳn lên.”
Diễn giải
Michelangelo biết chắc rằng nếu sửa cái mũi thì xem như toàn bộ pho tượng sẽ đi toong. Nhưng Soderini lại là chủ thầu, tự đắc về mỹ quan của mình. Lý luận với một người như thế, Michelangelo sẽ không được gì cả, mà còn rủi ro mất đi nhiều đơn đặt hàng trong tương lai. Nghệ nhân đã khôn khéo im mồm. Giải pháp của ông ta là thay đổi vị trí và phối cảnh (đưa thị trưởng đến gần cái mũi hơn) mà không cần giải thích rằng chính phối cảnh đã làm Soderini đánh giá sai.
May cho hậu thế, Michelagelo đã tìm được cách giữ nguyên bức tượng, đồng thời làm cho Soderini tin rằng nhờ mình mà bức tượng đẹp hơn. Đó là sức mạnh ta có được bằng hành động cụ thể chứ không qua lý luận: Không ai mất lòng và quan điểm của ta được minh chứng.
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Ở lĩnh vực quyền lực ta nên tìm cách đánh giá những động tác của mình về lâu về dài đối với người khác. Khi cố gắng chứng minh luận điểm hay chiến thắng bằng lý luận, cái khó là rốt cuộc ta không hề biết lời lẽ mình tác động đến người kia ra sao: Có thể họ bằng mặt nhưng không bằng lòng. Hoặc giả mình nói điều đó vô tình xúc phạm họ - chữ nghĩa quỷ quyệt ở chỗ có thể được hiểu theo tâm trạng người nghe. Ngay cả những lập luận tốt nhất cũng không có nền tảng vững chắc, bởi vì chúng ta thường nghi ngờ bản chất lươn lẹo của lời nó. Và chỉ vài ngày sau khi nhất trí với người khác, ta lại trở về với quan điểm của mình do thói quen.
Bạn hãy nhớ rằng chữ nghĩa rẻ như bèo. Ai cũng biết rằng trong cơn phấn khích của tranh luận, chúng ta sẽ không thừa một chữ nào nhằm bênh vực lập trường của mình. Chúng ta sẵn sàng trích dẫn Kinh thánh, hoặc tham chiếu những thống kê không thể kiểm chứng. Ai lại đi tin những chiếc máy nổ như thế? Trong khi đó, nếu ta chứng minh bằng hành động thì sẽ mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn nhiều. Hành động thì cụ thể trước mắt đó, ai cũng thấy được – “Vâng, bây giờ thì cái mũi pho tượng trông đẹp hơn hẳn.” Không có lời
lẽ nào dễ gây hiểu lầm, không có chữ nghĩa nào làm mất lòng nhau. Trước bằng chứng hiển nhiên, không ai có thể lý luận gì được nữa. Như Baltasar Grácian đã nhận xét, “Nhìn chung, mọi người chịu nhìn chứ hiếm khi chịu nghe sự thật.”
Sir Christopher Wren là mẫu người thời Phục hưng của nước Anh. Ông am tường các khoa toán học, thiên văn, vật lý, và sinh lý học. Vậy mà trong suốt sự nghiệp dài đằng đẵng, với tư cách là vị kiến trúc sư được ca tụng nhất nước Anh, ông lại bị chủ thầu bảo là phải thực hiện những thay đổi trong thiết kế, những thay đổi hoàn toàn trong thực tế. Mỗi lần như vậy, Wren không bao giờ cãi lý hoặc làm mất lòng. Ông có cách khác để chứng minh luận điểm của mình.
Năm 1688 Wren thiết kế tòa nhà thị chính cho đô thị Westminster. Kiến trúc hết sức lộng lẫy nhưng quan thị trưởng không hài lòng, mà nói đúng ra ông bị căng thẳng. Ông bảo Wren rằng tầng thứ hai có vẻ không chắc chắn, biết đâu nó sẽ sập xuống, đè bẹp phòng làm việc của ông ở tầng một. Ông yêu cầu Wren phải dựng thêm hai cột đá phụ trợ. Là một kỹ sư tinh tế, Wren biết rằng những cây cột đó sẽ không ích lợi gì, và nỗi lo sợ của thị trưởng là không có căn cứ. Nhưng ông vẫn cứ cho xây và quan thị trưởng rất hài lòng. Chỉ nhiều năm sau đó, toán thợ làm việc trên tầng cao mới nhận thấy là đầu hai cây cột không đụng trần nhà. Chúng chỉ được xây cho có, nhưng cả hai người trong cuộc đều được điều mình muốn. Quan thị trưởng được sự an tâm, và Wren cũng chắc chắn hậu thế sẽ hiểu ra rằng thiết kế ban đầu của mình thực sự hiệu quả, rằng hai cây cột kia rõ ràng chẳng cần thiết.
Việc chứng minh ý tưởng của mình (bằng hành động) mạnh hơn ở chỗ đối phương không có tâm lý thủ thế, từ đó cởi mở hơn cho ta thuyết phục. Hãy làm cho họ thấy được điều mình muốn bày tỏ, thấy được sau nghĩa đen, theo nghĩa vật chất, như thế sẽ tốt hơn là ta chỉ đưa ra lý luận suông.
Có lần Nikita Krushchev đang đọc một diễn văn kể tội Stalin thì có một người hỏi kiểu móc họng: “Lúc đó ông là đồng sự của Stalin, vậy tại sao không ngăn chặn ông ta lại?” Không nhìn thấy kẻ chất vấn giữa đám đông, Krushchev quát to “Ai hỏi vậy?”. Không cánh tay nào giơ lên. Không ai nhúc nhích. Sau vài giây im lặng căng thẳng, cuối cùng Krushchev điềm tĩnh nói: “Giờ thì các anh biết vì sao tôi không ngăn chặn rồi
chứ?”. Thay vì giải thích rằng bất kỳ ai đứng trước mặt Stalin cũng đều sợ hãi, rằng chỉ cần một chút dấu hiệu kháng cự cũng đồng nghĩa với cái chết, Krushchev làm cho cử tọa có được cái cảm giác như thế nào khi đối mặt với Stalin – làm cho họ cảm được nỗi sợ khi phải lên tiếng, sự khủng khiếp khi đối đầu với lãnh tụ, và trong trường hợp này, lãnh tụ đó là Krushchev. Cách chứng minh này đánh thẳng vào trực giác cử tọa và mọi lý luận đều không cần thiết.
Sự thuyết phục mạnh mẽ nhất vượt qua hành động để trở thành biểu tượng. Biểu tượng – một lá cờ, một truyền thuyết, một tượng đài kỷ niệm một sự kiện gây cảm xúc mạnh ở chỗ là ai ai cũng có thể hiểu mà không cần giải thích. Năm 1975 khi bắt đầu cuộc đàm phán nản lòng với Israel về việc trả lại một phần sa mạc Sinai, Henry Kissinger đột ngột đình chỉ một buổi họp căng thẳng và quyết định đi tham quan một vòng. Ông đến thăm tàn tích pháo đài Masada, nơi mà tất cả người Israel đều biết rằng bảy trăm chiến binh Do Thái đã đồng loạt tự sát vào năm 73, thay vì đầu hàng quân La Mã đang vây hãm. Có mặt với Kissinger tại pháo đài, người Israel hiểu ngay ý nghĩa chuyến viếng thăm của ông ta: Ông gián tiếp tố cáo họ đang tiến đến một cuộc tự sát tập thể. Mặc dù không làm họ thay đổi lập trường, nhưng bản thân chuyến viếng thăm đó cũng giúp họ suy nghĩ nghiêm túc hơn, nếu so với việc Kissinger trực tiếp cảnh báo. Một hành động biểu trưng như thế chuyển tải được nhiều hàm ý về mặt cảm xúc.
Khi muốn đạt quyền lực, hoặc định duy trì quyền lực đó, bạn nên thử tìm con đường gián tiếp. Và cũng nên cẩn thận lựa chọn trận địa. Nếu về lâu về dài, người khác có nhất trí với ta hay không là không còn quan trọng – hoặc nếu với thời gian và kinh nghiệm họ sẽ hiểu ra điều ta muốn nói – thì tốt hơn ta không nên mất công chứng minh gì cả. Hãy tiết kiệm sinh lực và đi chỗ khác.
Hình ảnh:
Cầu bập bênh. Lên rồi xuống, xuống rồi lên, những người cãi lý không đạt được điều gì chắc chắn cả. Đừng ngồi trên đó nữa, hãy bước xuống và chứng minh cho họ thấy cái ý của bạn. Cứ để cho họ ngồi ở phía bập bênh cao, trọng lực sẽ từ từ đưa họ xuống.
Ý kiến chuyên gia:
Đừng bao giờ cãi lý. Trong đám đông, không điều gì cần bàn cãi, bạn chỉ nên trưng ra kết quả.
(Benjamin Disraeli, 1804-1881)
NGHỊCH ĐẢO
Lời lẽ cũng có ích lợi sinh tử trong lĩnh vực quyền lực: Để làm đối phương xao lãng, để ngụy trang hành tung của ta, khi ta bịp bợm hoặc đang nói dối. Trong những trường hợp này, muốn được việc ta phải khua môi múa mỏ với tất cả… tấm lòng. Hãy lôi kéo đối phương vào cuộc tranh luận để hắn không thể phát hiện thực chất của chủ tâm ta. Muốn nói dối mà ít có vẻ nói dối, bạn nên tỏ vẻ hết sức thiết tha và trung thực.
Kỹ thuật này từng cứu nguy cho nhiều tay lừa bịp, trong đó tiếng nổi như cồn là Bá tước Victor Lustig. Ngày kia ông ta bán cho nhiều người vùng thôn quê Mỹ những chiếc hộp dởm, mà ông ta quảng cáo là sao chép được tiền giấy. Khi khám phá mình bị lừa, các khổ chủ đành ngậm bồ hòn chứ không dám báo cảnh sát. Song cảnh sát trưởng Richards của hạt Remsen bang Oklahoma lại không phải là hạng người dễ dàng chấp nhận bị lừa mất 10.000 USD. Ông ta cố công đi tìm Lustig và ngày nọ phát hiện ra sư phụ trong một khách sạn tại Chicago.
Nghe tiếng gõ, Lustig mở cửa phòng và nhìn thấy nòng súng chĩa vào bụng. “Hình như có vấn đề gì xảy ra?”, hắn ta bình tĩnh hỏi.
“Đồ chó đẻ,” cảnh sát trưởng hét to, “tao sẽ giết mày. Mày lừa tao bằng cái hộp dởm!” “Ý ông là cái hộp không hoạt động sao?”, Lustig ra vẻ ngây thơ cụ.
“Mày biết là nó dởm mà!”, cảnh sát trưởng hậm hực.
“Không thể như thế được! Làm gì có chuyện nó không hoạt động. Ông có vận hành nó đúng cách không?” “Tao làm y hệt như lời mày dặn.”
“Không, ông đã làm gì đó sai rồi”, Lustig nói.
Sau đó cuộc tranh luận cứ xoay vòng vòng. Nòng súng từ từ hạ xuống.
Lustig tiến sang giai đoạn hai của chiến thuật lý sự: Hắn tuôn ra từng tràng những kỹ thuật bá láp về cách vận hành chiếc hộp, đưa viên cảnh sát trưởng vào mê hồn trận. Đến lúc này cảnh sát trưởng có vẻ bớt tự tin và không còn cãi hăng nữa. Lustig nói: “Được rồi, tôi sẽ hoàn trả ông trọn số tiền ngay lập tức. Tôi cũng sẽ trao cho ông hồ sơ hướng dẫn sử dụng đúng cách, và tôi sẽ đến tận Oklahoma để tận mắt thấy cái máy hoạt động tốt. Bảo đảm ông không mất đồng xu nào.” Viên cảnh sát trưởng miễn cưỡng ưng thuận. Để trấn an, Lustig rút ra một xấp trăm tờ bạc trăm đô, đưa cho ông ta với lời chúc một kỳ cuối tuần vui vẻ ở Chicago. Đã bớt nóng bỏng và hơi lọng cọng, cuối cùng cảnh sát trưởng cũng ra đi. Những ngày sau đó, sáng nào Lustig cũng xăm xoi trang báo. Cuối cùng hắn cũng thấy được điều mình đang tìm: Một tin vắn về việc bắt giữ, xét xử, và buộc tội cảnh sát trưởng Richards tiêu thụ tiền giả. Lustig là người chiến thắng trong cuộc cãi vã; viên cảnh sát trưởng không bao giờ làm phiền Lustig nữa.
NGUYÊN TẮC 10
TRÁNH KẺ XẤU SỐ, ĐỂ KHỎI XUI LÂY
Bạn có thể chết vì sự khốn khổ của kẻ khác – trạng thái xúc cảm cũng truyền nhiễm như bệnh tật vậy. Bạn tưởng mình cứu giúp người sắp chết đuối, nhưng thật ra bạn đang thò một chân vào tai họa. Kẻ xấu số đôi khi run rủi điều bất hạnh đến với họ; nhưng họ cũng run rủi bất hạnh đến với bạn. Bạn chỉ nên cộng tác với người hạnh phúc và may mắn.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Ra đời năm 1818 tại Ireland, Marie Gilbert đến Paris vào thập niên 1840 để thử vận may bằng nghề biểu diễn ca múa. Lấy nghệ danh là Lola Montez (mẹ cô ta có dòng máu Tây Ban Nha xa xôi), cô ta tuyên bố mình là vũ công flamenco đến từ Tây Ban Nha. Đến năm 1845 thì nghề nghiệp xuống dốc, Lola phải chuyển sang làm gái bao hạng sang, và chẳng bao lâu sau trở thành một trong những người thành đạt nhất Paris.
Chỉ một người có thể cứu nguy cho sự nghiệp vũ công của Lola: Alexandre Dujarier, chủ tờ báo có số lượng phát hành cao nhất nước Pháp, đồng thời là người giữ nguyên mục bình luận sân khấu. Lola quyết chí gặp và chinh phục Dujarier. Quan sát thói quen mỗi ngày, cô thấy sáng nào anh ta cũng đi quần ngựa. Bản thân là kỵ sỹ giỏi, sáng ngày nọ Lola cũng cưỡi ngựa đi dạo và “tình cờ” va vào ngựa của Dujarier. Chẳng bao lâu sau hai người cùng cưỡi ngựa đi dạo mỗi sáng. Ít tuần sau nữa, Lola dọn vào ở chung với anh ta.
Cả hai sống hạnh phúc được một thời gian. Với sự giúp đỡ của Dujarier, Lola bắt đầu hồi sinh sự nghiệp múa. Bất chấp những rủi ro đối với vị trí xã hội, Dujarier báo cho bạn bè biết sang xuân anh sẽ cưới nàng. (Lola chưa cho anh ta biết rằng năm lên 19 tuổi cô từng bỏ trốn gia đình để kết hôn với một người Anh, và do đó về mặt pháp lý Lola vẫn là vợ ông ta.) Dujarier yêu say đắm, nhưng cuộc đời anh bắt đầu xuống dốc.
Trong kinh doanh anh gặp toàn rủi ro và bạn bè có thế lực bắt đầu xa lánh. Có lần Dujarier được mời dự đại tiệc, nơi quy tụ nhiều gương mặt trẻ giàu có nhất Paris. Lola đòi đi theo nhưng Dujarier không cho. Lần đầu tiên sau khi chung sống, hai người cãi vã nhau, và Dujarier đến buổi dạ tiệc trong tâm trạng nặng trĩu. Anh ta mượn rượu giải sầu rồi xúc phạm Jean-Baptiste Rosemond de Beauvallon, một nhà bình luận sân khấu nổi tiếng, có lẽ vì người này đã nói gì đó động chạm đến Lola. Beauvallon thách thức Dujarier đọ súng tay đôi ngay sáng hôm sau. Dujarier xin lỗi nhưng Beauvallon không chịu nên cuộc song đấu vẫn diễn ra. Vì Beauvallon thuộc nhóm xạ thủ hàng đầu ở Pháp nên Dujarier gục ngã. Như thế kết thúc cuộc đời của chàng trai trẻ triển vọng nhất Paris. Lola sụp đổ và giã biệt kinh thành.
Năm 1846 Lola có mặt ở Munich, nơi cô ta quyết định ve vãn và chinh phục nhà vua Ludwig xứ Bavaria. Cô phát hiện ra cách tốt nhất tiếp cận Ludwig là thông qua sĩ quan tùy phái, Bá tước Otto von Rechberg, người nổi tiếng háo sắc. Ngày kia khi bá tước đang dùng bữa sáng ở quán cà phê lộ thiên, Lola cưỡi ngựa
ngang qua và “rủi ro” ngã ngựa nên té sõng soài ngay dưới chân Rechberg. Bá tước lật đạt đỡ người đẹp dậy, sau đó hứa sẽ tiến dẫn nàng đến nhà vua.
Rechberg sắp xếp buổi diện kiến, nhưng khi đứng ngoài tiền sảnh, Lola nghe vua bảo là ông quá bận nên không thể tiếp một người lạ đến xin ân huệ. Lola đột ngột chạy thẳng vào trong và xô đẩy với lính canh. Vạt áo trước cô ta rách toạc và trước sự ngỡ ngàng của mọi người, đặc biệt là nhà vua, để phô ra lồ lộ hai
quả ngực trần. Lola được chấp nhận diện kiến. Năm mươi lăm giờ đồng hồ sau cô ta bắt đầu biểu diễn trên sân khấu Bavaria. Giới bình luận báo chí phê phán dữ dội, nhưng vua vẫn cho tổ chức biểu diễn tiếp.
Theo chính lời của ông ta, thì Ludwig đã bị Lola “mê hoặc”. Ông bắt đầu xuất hiện trước công chúng với Lola ôm lấy cánh tay, rồi ông mua một căn hộ cho nàng ở đại lộ sang trọng nhất Munich. Mặc dù nổi tiếng hay là tay tằn tiện và không hề chơi ngông, nhưng bây giờ Ludwig lại xối xả mua quà cho Lola, rồi lại còn làm thơ tặng nàng. Trở thành đệ nhất ái phi, chỉ đầu hôm sáng mai Lola được phóng lên đài danh vọng.
Cô nàng bắt đầu đánh mất ý niệm về chừng mực. Sáng hôm nọ đi cưỡi ngựa dạo chơi, Lola bực mình khi có một lão kỵ sĩ đi khá chậm trước mặt. Vì đường chật mãi không qua được, cô ta dùng cán roi quất ông.
Lần khác Lola cho chó đi dạo nhưng không buộc dây nên chó cắn người đi đường. Thay vì mắng chó, cô ta còn dùng xây xích quất người ta. Tuy có tiếng tăm là lãnh đạm nhưng cư dân Bavaria vẫn phẫn nộ trước những hành động như thế và kiến nghị lên nhà vua. Tuy nhiên Ludwig một mực bênh vực tình nhân, thậm chí còn nhập tịch cho cô nàng. Các quan cận thần cố gắng thức tỉnh nhà vua, nhưng người nào chỉ trích Lola thì bị ngưng chức hết sức đơn giản.
Nhân dân Bavaria từng yêu mến nhà vua song giờ đây lại công khai bất kính ông. Nhưng mặc, vua còn phong tước cho Lola và xây cho nàng một cung điện mới. Lola bắt đầu học đòi làm chính trị, cố vấn cho Ludwig về quốc sách, trở thành quyền lực hàng đầu trong vương quốc. Cô nàng ngày càng lấn sân vào nội các, và xem những bộ trưởng khác không ra gì. Hậu quả là nhiều cuộc nổi loạn bùng lên khắp nơi. Từng là vùng đất bình yên, giờ đây Bavaria đang trên bờ vực nội chiến, sinh viên xuống đường biểu tình hô to khẩu hiệu “Tống cổ Lola!”
Đến tháng Hai năm 1848, cuối cùng Ludwig không còn chịu nổi áp lực nên cam lòng yêu cầu Lola rời khỏi Bavaria tức khắc. Cô ta ưng thuận với điều kiện khá nhiều tiền. Suốt năm tuần sau đó, nhân dân vẫn còn phẫn nộ với nhà vua, và sau tháng Ba, vua phải thoái vị.
Lola Montez di trú sang Anh Quốc. Điều cô ta cần hơn hết là một tư cách đàng hoàng, và mặc dù là gái có chồng (Lola vẫn chưa thu xếp được vụ ly dị với ông chồng người Anh đã cưới nhiều năm trước đó), cô ta vẫn ngắm nghía George Trafford Heald, một sĩ quan quân đội đầy triển vọng, đồng thời là con trai một luật sư nổi tiếng. Tuy nhỏ hơn Lola đến mười tuổi, tuy có thể chọn vợ giữa những thiếu nữ xinh đẹp và giàu sang nhất nước Anh, Heald vẫn yêu Lola mê mệt. Họ làm đám cưới năm 1849. Bị cảnh sát truy lùng vì tình trạng song hôn, Lola rủ Heald bỏ trốn sang Tây Ban Nha. Sang bên đó mọi việc trở nên tồi tệ, họ cãi nhau dữ dội và có lần Lola gây thương tích cho Heald bằng dao. Cuối cùng cô đuổi anh chàng dại gái ra khỏi nhà. Trở về Anh Quốc, Heald đã mất vị trí cao quý trong quân đội. Bị cộng đồng người Anh tẩy chay, anh ta phải lưu lạc tận Bồ Đào Nha và sống thật nghèo khổ. Vài tháng sau đó anh qua đời trong tai nạn đường thủy.
Biết cuộc đời sóng gió của Lola, có người tổ chức xuất bản quyển tự truyện của cô nàng, và vài năm sau đó anh ta phá sản.
Năm 1853 Lola sang California, kết hôn với một thanh niên tên Pat Hull. Quan hệ mới này cũng bão táp không kém những quan hệ trước đó, và cô ta bỏ Pat đi lấy chồng khác. Pat thất vọng quay sang rượu chè, suy sụp tinh thần kéo dài bốn năm đến khi anh ta qua đời khi hãy còn trẻ.
Đến năm 41 tuổi, Lola cho hết mọi quần áo trang sức sang trọng và hướng về đạo. Cô thường đi khắp nước Mỹ thuyết giảng những chủ đề tôn giáo, những dịp như thế cô mặc toàn đồ trắng, trên đầu có vật trùm trông giống vầng hào quang. Cô ta qua đời hai năm sau đó.
Diễn giải
Lola Montez dùng mưu mẹo để quyến rũ đàn ông, song quyền lực cô ta đối với họ còn vượt trên cả vấn đề thân xác. Chính sức mạnh cá tính cô ta đã giữ họ trong cơn mê muội. Đàn ông bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy mà cô ta khuấy quanh mình. Họ cảm thấy rối bời, chao đảo nhưng cường độ cảm xúc do cô tạo ra lại cũng khiến cho họ có sức sống mới.
Như đối với trường hợp lây nhiễm, các vấn đề chỉ trầm trọng thêm theo thời gian. Cái nghiệp bất ổn của Lola dần dần hưởng sang những người tình. Họ cảm thấy mình bị sa lầy vào những vấn đề của cô ta, song vì tình cảm sâu đậm, họ lại muốn ra tay nghĩa hiệp. Đó chính là điểm sinh tử của căn bệnh – vì không ai có thể cứu rỗi cho Lola được cả. Nghiệp chướng của cô ta quá nặng nề. Người đàn ông nào nhúng tay vào xem như bị họa. Tự dưng hắn ta phải hứng chịu những tai họa từ trên trời rơi xuống. Cái cộng nghiệp đó còn lây sang cả gia đình và bạn bè hắn, hoặc, nhưng trong trường hợp Ludwig, còn lan ra cả quốc gia. Giải pháp duy nhất là phải đoạn nghiệp, nhanh chóng cắt đứt quan hệ càng sớm càng tốt, nếu không sẽ sụp đổ hoàn toàn.
Không chỉ có phụ nữ mới lây nhiễm ác nghiệp cho người khác, vì sự lây nhiễm không phân biệt giới tính. Sức lây nhiễm này xuất phát tự sự bất ổn bên trong rồi phát tiết ra ngoài, chiêu tai giáng họa xuống chủ thể. Gần như đó là một ý nguyện phá rối và hủy diệt. Bạn không nên mất thì giờ để nghiên cứu bệnh lý của dạng người hay làm lây nhiễm ấy, bởi vì bạn sẽ phí phạm cả đời – chỉ nên rút kinh nghiệm thôi. Khi cảm
thấy mình đang đối diện với dạng người như vậy, bạn đừng tốn nhiều lời, đừng thử cứu giúp họ, đừng giới thiệu họ với bạn bè, nếu không bạn sẽ sa lưới. Hoặc bạn tránh tiếp xúc với dạng người đó, hoặc bạn gánh mọi hậu quả.
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Quanh ta có những người bất hạnh vì hoàn cảnh đã vượt quá tầm kiểm soát của họ, họ xứng đáng được thông cảm và giúp đỡ. Nhưng ngoài ra còn có dạng người luôn chiêu điều xui xẻo và tai họa, có thể vì hành động của họ gây bất ổn và nguy hại đến người khác. Sẽ là quá tuyệt với nếu ta có thể nâng đỡ họ,
thay đổi số phận họ, nhưng thường khi chính số phận họ lại cuối cùng lây nhiễm sang ta khiến ta phải vạ lây. Lý do thật đơn giản – con người rất nhạy cảm với những tâm trạng, cảm xúc, và thậm chí cách suy nghĩ của những người mà họ lân la.
Những người đã có số phận bất hạnh và bất trắc có sức truyền lan rất mạnh, bởi vì tính cách và cảm xúc của họ rất mạnh. Họ thường ra vẻ mình là nạn nhân, khiến người đối diện thoạt tiên khó nhận ra chính họ mới tự gây tai họa. Bạn chưa kịp nhận chân ra vấn đề của họ thì đã bị vạ lây.
Bạn nên tự hiểu thế này: Trong trò chơi quyền lực, việc ta hợp tác với ai cực kỳ quan trọng. Lỡ hợp tác với dạng người lây nhiễm kể trên, ta sẽ phí phạm thời gian và sinh lực quý báu để vùng vẫy thoát ra. Và một khi thoát được rồi, ta sẽ lại cảm thấy tội lỗi dưới mắt người khác. Đừng bao giờ đánh giá thấp những nguy hiểm của việc lây nhiễm.
Có nhiều loại người hay gây tai họa cho kẻ khác, nhưng quái ác nhất là dạng cảm thấy bất mãn triền miên. Cassius, tên La Mã âm mưu chống lại hoàng đế Caesar, luôn bất bình vì lòng ganh tỵ sâu xa. Hắn không chịu được những ai giỏi hơn mình. Có lẽ đã nhận thức được nét cay cú không cùng của Cassius nên Caesar không giao chức pháp quan cho hắn mà giao cho Brutus. Cassius ấp ủ hận thù và ấp ủ, đến nỗi trở thành căn bệnh. Là người tôn thờ nguyên tắc cộng hòa, bản thân Brutus cũng không thích chế độ độc tài của Caesar. Phải chi kiên nhẫn chờ đợi thêm ít lâu, Brutus sẽ nắm quyền La Mã sau khi Caesar qua đời, từ đó tha hồ hóa giải những tai hại của chính thể độc tài. Nhưng Cassius lại thường xuyên lây nhiễm hiềm khích, ngày đêm rót vào tai Brutus những câu chuyện về tác hại của Caesar. Cuối cùng, hắn thuyết phục được Brutus tham gia âm mưu thích khách. Đó là bước đầu của bi kịch lớn. Sẽ tránh được biết bao tai họa nếu Brutus cảnh giác được sức mạnh của lây nhiễm.
Với sự lây nhiễm, ta chỉ có giải pháp duy nhất là cách ly. Nhưng thường khi ta nhận ra được vấn đề thì đã quá trễ. Một Lola Montez sẽ trấn áp ta bằng tính cách mãnh liệt. Một Cassius sẽ dụ dỗ ta bằng tấm lòng bộc bạch và xúc cảm nhiệt thành. Ta tự vệ ra sao đối với những virus quỷ quyệt như thế? Bằng cách đánh giá thiên hạ qua tác động của họ đối với những người xung quanh, chứ không qua các lý do mà họ biện minh cho vấn đề của họ. Ta có thể phân biệt họ qua những tai họa mà họ tự chuốc lấy, qua quá khứ sóng gió của họ, qua sức mạnh của tính cách họ, cái tính cách cuốn hút ta mãnh liệt và làm ta mất hết tỉnh táo. Hãy cảnh giác đối với những triệu chứng lây nhiễm vừa kể, hãy học cách phát hiện điều gì đó bất ổn trong tia nhìn của họ. Và quan trọng hơn cả là bạn đừng thương xót. Đừng chìa tay cứu giúp rồi cùng chết chùm.
Tác động của sự lây nhiễm cũng có thể xảy ra ở mặt khác, và có lẽ dễ nhận ra hơn: Có những người sờ đến đâu thành công đến đó, luôn gặp may vì tính tình vui vẻ, hăng hái tự nhiên, thông minh dĩnh ngộ. Họ là nguồn vui, và ta nên hợp tác với những người như thế để chia sẻ sự thịnh vượng mà họ lôi cuốn về mình.
Điều vừa kể không chỉ đúng cho sự vui vẻ và thành công: Mọi thái độ tích cực đều tác động đến ta. Tính tình Talleyrand có nhiều nét lạ lùng và đáng sợ, nhưng hầu hết đều nhìn nhận rằng ông hơn hẳn mọi người về nét duyên dáng, sự hấp dẫn quý phái và tinh tế. Tất nhiên ông xuất thân từ một trong những dòng quý tộc lâu đời nhất nước Pháp, tuy nhiên ông dấn thân sâu xa vào con đường dân chủ đề đấu tranh cho chính thể cộng hòa, nhưng dù sao ông vẫn lưu giữ tác phong thượng lưu quý phái. Người đương thời Napoléon có nhiều nét ngược lại với ông – xuất thân từ gia đình nông dân đảo Corse, hoàng đế vốn lầm lì và khiếm nhã, thậm chí hung bạo.
Napoléon không thán phục ai hơn Talleyrand. Hoàng đế ước ao được lòng mọi người như vị bộ trưởng của mình, được sự dí dỏm và khả năng quyến rũ phụ nữ như ông ta, và luôn tìm cách giữ ông ta quanh mình để thẩm thấu nét văn hóa mà mình khiếm khuyết. Nếu còn tiếp tục trị vì chắc con người Napoléon sẽ thay đổi. Mọi nét thô thiển sẽ dần dà mềm mại đi nhờ thường xuyên tiếp xúc với Talleyrand.
Ta hãy tận dụng khía cạnh tích cực của sự thẩm thấu này. Nếu chẳng hạn bản thân đã lỡ keo kiệt thì ta không thể vượt qua giới hạn nào đó, vì chỉ có những tâm hồn cao thượng mới đạt đến sự vĩ đại mà thôi. Vậy ta nên hợp tác với những người bao dung, rồi họ sẽ truyền sự bao dung ấy cho ta, sẽ cởi mở những gì ke re cắc rắc trong ta. Nếu tính ta u uất thì hãy kết bạn với người vui vẻ. Nếu ta có khuynh hướng cô độc thì hãy ép mình chơi với những người thích giao du. Đừng bao giờ kết giao với những kẻ có cùng nhược điểm như mình – họ sẽ tăng cường những trở lực cản ngại ta. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Đó là quy luật của cuộc đời, sẽ đem đến cho ta còn nhiều lợi ích hơn là tất cả phương trị liệu trên toàn thế giới.
Hình ảnh:
Con virus: Bạn không thể thấy, nó chui vào lỗ chân lông hồi nào bạn không hề hay, âm thầm lây lan dần. Đến lúc phát hiện được thì nó đã ăn sâu trong cơ thể bạn.
Ý kiến chuyên gia:
Hãy tập cách phát hiện người có duyên may để có thể chọn lựa giao du, và người bị vận rủi để mà tránh né. Đó là loại bệnh hết sức truyền nhiễm. Đừng bao giờ mở cửa cho bất hạnh, dù là bất hạnh nhỏ nhất, nếu không nhiều bất hạnh khác sẽ được nước kéo vào theo… Đừng chết vì sự khốn khổ của người khác.
(Baltasar Gracián, 1610-1658)
NGHỊCH ĐẢO
Nguyên tắc này không chấp nhận nghịch đảo nào cả. Nó đúng cho mọi lúc mọi nơi. Bạn sẽ không được gì khi liên đới với những người truyền cho bạn nỗi khổ của họ. Chỉ nên giao du với người vận đỏ để cùng hưởng may mắn và sức mạnh. Ai phớt lờ nguyên tắc này, khi tai họa xảy đến thì ráng chịu.
NGUYÊN TẮC 11
LÀM CHO NGƯỜI KHÁCPHỤ THUỘC MÌNH
Muốn giữ vững độc lập, bạn phải là người được cần thiết, được yêu cầu. Mọi người càng dựa vào bạn thì bạn càng rộng đường thao tác. Mọi phụ thuộc vào bạn để được hạnh phúc ấm no và bạn không việc gì phải sợ. Đừng bao giờ dạy họ đến mức họ có thể tự lập mà không cần mình.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Vào thời Trung cổ, có một condottiero (tướng đánh thuê) cứu thị trấn Siena thoát khỏi móng vuốt ngoại bang. Vậy cư dân Siena làm gì để tưởng thưởng ông ta một cách xứng đáng? Không tiền bạc hay vinh dự nào có thể sánh với việc gìn giữ được tự do của một thị trấn. Có người đề nghị bầu ông ta làm thị trưởng, nhưng sau khi nghĩ lại thì mọi người bảo như thế hãy còn chưa đủ. Cuối cùng có một người đề nghị nên giết ông ta chết để tôn vinh và thờ phụng như một vị thần hộ mệnh. Mọi người đều đồng ý và thi hành.
Bá tước Carmagnola là một trong những condottieri dũng cảm và năng lực nhất. Năm 1442 khi đã già, ông làm việc cho thành phố Venice, vốn đang lâm chiếm lâu dài với thành phố Florence. Đang ở trận mạc, ông được lệnh trở về Venice. Dân chúng đón tiếp ông thật long trọng và huy hoàng. Theo chương trình thì đêm hôm ấy Carmagnola sẽ ăn tối với quan tổng trấn tại tự dinh. Tuy nhiên trên đường đến dinh ông thấy quân
lính đưa mình theo lối khác mọi khi. Vừa băng qua Cầu Than thở, ông đột nhiên nhận ra là họ đang áp tải mình – đến nhà giam. Ông bị vu cáo một tội gì đó và chỉ ngay sáng hôm sau tại quảng trường San Marco, trước đám đông kinh hãi không hiểu tại sao số phận ông thay đổi bi thảm như thế, ông bị chém đầu.
Diễn giải
Nhiều nhà condottieri thời Phục hưng ở Italia đều chịu chung số phận với thành hoàng Siena, cũng như Bá tước Carmagnola. Họ đánh trận nào thắng trận đó, đem vinh quang về cho chủ nhân, để rồi sau đó bị lưu đày, tống giam, hoặc hành quyết. Vấn đề không phải là sự vô ơn, mà là vào thời đó Italia có quá nhiều condottieri tài ba và dũng cảm như họ. Họ là những thành phần có thể thay thế. Nếu giết họ đi thì giới chủ nhân chẳng mất gì cả. Trong khi đó những condottieri trưởng lão ngày càng hùng mạnh, lại sinh thói vòi vĩnh thêm này nọ. Giới chủ quyết định thanh toán họ để mướn người rẻ hơn, trẻ khỏe hơn. Bá tước Carmagnola phải chịu số phận như vậy vì trước đó ông từng tỏ ra quá độc lập. Ông cho rằng quyền lực mình có là đương nhiên, mà không biết sắp xếp để mình thực sự trở thành không thể thiếu.
Đó là số phận (hy vọng là ở cấp độ ít tàn bạo hơn) của những ai không làm cho người khác phụ thuộc mình. Không chóng thì chầy sẽ có ai đó ngang tài ngang sức anh – nhưng trẻ khỏe hơn, ít tốn kém hơn, và ít là mối đe dọa hơn.
Hãy trở thành người duy nhất làm được việc đang làm, và sắp xếp sao cho chủ nhân bạn trở thành người đồng hội đồng thuyền, như thế họ không thể nào thiếu bạn được. Nếu không, sẽ có ngày bạn buộc lòng phải bước qua cây Cầu Than thở.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Khi trở thành thành viên nghị viện Phổ vào năm 1847, Otto von Bismarck mới có 32 tuổi, chưa có đồng minh hay bạn bè nào. Nhìn quanh, ông biết mình sẽ không liên minh với phe cải cách hay bảo thủ trong nghị viện, không kết bè với bất kỳ bộ trưởng nào, và chắc chắn không với nhân dân. Bismarck liên minh với vua Frederick William IV. Đây là sự chọn lựa kỳ quặc (nói như thế hãy còn nhẹ) bởi vì lúc ấy quyền
lực nhà vua đang vào thời kỳ suy yếu nhất. Là người nhu nhược và không cả quyết, nhà vua thường nhượng bộ phe cải cách. Vua như người không có xương sống, và là điển hình của thứ mà Bismarck ghét nhất, cả về mặt con người lẫn chính trị. Vậy mà Bismarck ngày đêm lấy lòng vua. Khi các nghị viên phê phán những hành động ấm ớ của vua, chỉ mỗi Bismarck đứng ra bênh vực.
Cuối cùng cuộc đầu tư đã sinh lợi: năm 1851 Bismarck được chức bộ trưởng trong nội các nhà vua, chẳng hạn như để củng cố quân đội, cưỡng lại áp lực của phe cải cách, nói chung là làm đúng như những gì ông ta muốn, Bismarck còn tác động vào tính thiếu tự tin của nhà vua, “khích tướng” để vua kiên quyết hơn và
trị vì với lòng tự hào. Và dần dần ông ta phục hồi được uy quyền cho vua, cho đến khi chế độ quân chủ một lần nữa trở thành thế lực mạnh nhất nước Phổ.
Vua Frederick băng hà năm 1861, ngai vàng về tay người em là William. Tân vương rất ghét Bismarck và muốn đẩy ông ta đi thật xa. Nhưng William cũng rơi vào tình huống trước kia của Frederick: kẻ thù đầy dẫy đang muốn bào mòn quyền lực tân vương. William đã muốn thoái vị cho rảnh nợ, cảm thấy mình không đủ sức mạnh để nắm giữ vị trí nguy hiểm và bấp bênh này. Nhưng một lần nữa Bismarck lại động viên vua. Ông ta ủng hộ và tạo thêm sức mạnh cho vua, thúc giục vua ra những quyết định cứng rắn và dứt khoát. Dần dần vua phụ thuộc vào các chiến thuật nặng tay của Bismarck để đẩy lùi kẻ thù, và phải ngậm bồ hòn phong Bismarck làm thủ tướng. Hai người thường tranh cãi về các chính sách – Bismarck bảo thủ hơn – nhưng nhà vua nhận thức sự lệ thuộc của mình. Mỗi khi bị thủ tướng hăm dọa từ chức thì vua lại phải gật đầu với những chính sách do ông ta đưa ra. Trên thực tế chính Bismarck là người thiết lập chính sách quốc gia.
Những năm sau đó, với tư cách thủ tướng nước Phổ, Bismarck quy tụ nhiều bang người Đức hợp thành một quốc gia thống nhất. Đến thời điểm này, ông ta lại động viên nhà vua chấp nhận trở thành hoàng đế nước Đức. Nhưng thật ra chính Bismarck mới đạt đến điểm cao quyền lực. Là cánh tay phải của hoàng đế, là tướng quốc của đế chế và được phong tước cao quý nhất, Bismarck điều khiển tất cả mọi thứ trong triều.
Diễn giải
Hầu hết các chính khách trẻ và tham vọng vào thời nước Đức ở thập niên 1840 sẽ hợp tác xây dựng cơ sở quyền lực với những phe nào mạnh nhất. Nhưng Bismarck lại quan niệm khác. Hợp tác với kẻ nắm quyền chưa chắc đã khôn ngoan: Họ sẽ nuốt chửng ta, như quan tổng trấn Venice nuốt chửng Bá tước Carmagnola. Sẽ không ai đến dưới trướng ta nếu họ thực sự hùng mạnh sẵn. Nếu có nhiều tham vọng, bạn nên tìm đến những vua chúa hoặc chủ nhân đang yếu thế, miễn là bạn tạo được với họ một tương quan phụ thuộc. Bạn sẽ trở thành sức mạnh, trí khôn, và xương sống của họ. Bạn thật quyền lực biết bao! Vì nếu tống khứ bạn đi, nguyên cả cơ đồ sẽ sụp đổ.
Chính hoàn cảnh mới buộc người ta phải chịu phép. Người ta chỉ phản ứng khi bị áp lực. Nếu bạn không đặt người khác vào thế phải cần đến bạn, thì bạn sẽ bị đào thải ngay cơ hội đầu tiên. Nếu ngược lại bạn nắm được quy luật của quyền năng và làm cho người khác phải lệ thuộc bạn để được lợi ích, thì bạn còn bền vững hơn cả chủ nhân của bạn, như trường hợp Bismarck. Bạn sẽ được tất cả mọi lợi thế đến cùng với quyền năng mà không phải canh cánh vì những lo âu đi kèm với vị trí ông chủ.
Do đó một đấng quân vương khôn ngoan sẽ tìm mọi
cách sao cho tất cả tầng lớp dân chúng, trong bất kỳ
tình huống nào cũng phải phụ thuộc vào Nhà nước và
phụ thuộc mình; chỉ như thế họ mới luôn trung thành.
(Niccolò Machiavelli, 1469-1527)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Quyền lực tối thượng là loại quyền lực khiến mọi người phải tuân thủ ý ta. Khi nào ta thực hiện được điều đó mà không cần o ép dân chúng hay làm họ thiệt hại, khi nào họ tự nguyện làm theo ý nguyện của ta, thì lúc đó ta đạt được loại quyền lực bất khả xâm phạm. Cách tốt nhất để thành đạt vị trí đó là tạo ra tương quan phụ thuộc. Chủ nhân cần ta giúp đỡ; hắn yếu, hoặc không thể hành động mà không có ta; ta dấn thân vào công việc của hắn sâu đậm đến mức nếu sa thải ta hắn sẽ vô vàn khó khăn, hoặc ít ra cũng mất rất nhiều thời gian quý báu để đào tạo kẻ thay thế ta. Một khi tương quan này được thiết lập xong, ta sẽ ở thế thượng phong, sẽ giật dây cho chủ nhân làm theo ý ta muốn. Đó là trường hợp kinh điển của việc “buông rèm nhiếp chính”. Bismarck chẳng cần nặng tay để vua phải vâng lời. Ông ta chỉ đơn giản nhắn nhủ rằng mình sẽ ra đi nếu không đạt được điều mong muốn, lúc đó mặc vua quay cuồng trong cơn lốc xoáy. Quả nhiên sau đó vua phải khiêu vũ theo sự đánh nhịp của Bismarck.
Đừng như hàng vạn người khác lầm tưởng rằng hình thức tối hậu của quyền lực chính là sự độc lập. Nói
quyền lực là phải nói đến tương quan giữa người và người; bạn luôn cần có ai đó làm đồng minh, làm tốt thí, thậm chí làm một chủ nhân nhu nhược để mượn làm mặt tiền. Người hoàn toàn độc lập là người sống trong cái chòi giữa rừng – anh ta có quyền tới lui thoải mái, nhưng chắc là không có quyền lực. Điều tốt nhất mà bạn có thể hy vọng là những người khác lệ thuộc bạn đến mức bạn hưởng thụ một loại độc lập ngược: Vì họ cần có bạn nên bạn được tự tại.
Vua Louis XI nước Pháp là người tin dị đoan và rất sủng ái một chiêm tinh gia. Vị này cho biết trong vòng tám ngày, trong triều đình nhà vua sẽ có một quý nương qua đời. Khi việc diễn ra đúng như tiên đoán, Louis hết sức sợ hãi, cho rằng hoặc nhà chiêm tinh đã ám sát quý nương để chứng minh mình đúng, hoặc tài năng ông ta quá xuất chúng và trở thành mối đe dọa đối với vương quyền. Nhưng dù rơi vào trường hợp nào thì ông ta cũng phải chết.
Tối hôm nọ Louis dặn ông ta đến gặp tại một tháp cao trong tòa lâu đài. Cận vệ được dặn dò khi nào thấy vua ra dấu thì ập vào đền bắt nhà chiêm tinh và quăng ngay ra cửa sổ. Khi nhà chiêm tinh đến cúi chào xong, Louis vội ra dấu và hỏi: “Khanh bảo rằng mình biết chiêm tinh và đoán được số mạng người khác, vậy khanh nói trẫm nghe số phận của khanh và thọ mạng là bao?”
“Muôn tâu, thần sẽ qua đời ba ngày trước khi bệ hạ băng hà,” nhà chiêm tinh đáp. Vua không bao giờ dám ra dấu nữa. Nhà chiêm tinh thoát chết. Louis XI không chỉ bảo vệ kỹ lưỡng sinh mạng ông ta, mà còn ban nhiều bổng lộc cùng với sự chăm sóc của những quan ngự y giỏi nhất triều đình.
Sau khi Louis băng hà, nhà chiêm tinh vẫn còn sống tiếp nhiều năm, cho thấy ông kém tài tiên đoán nhưng lại nắm chắc quyền năng.
Trường hợp kể trên là ví dụ điển hình: Hãy làm người khác phụ thuộc vào bạn. Không dám tống khứ bạn vì sợ tai họa, thậm chí sợ mất cả mạng sống, chủ nhân của bạn sẽ không dám thử thách định mệnh. Có nhiều cách để đạt đến vị trí ưu tiên đó, mà tốt nhất là nên có thực tài và kỹ năng sáng tạo không thể thay thế.
Ở thời kỳ Phục hưng, một họa sĩ không thành đạt được vì gặp cản ngại chủ yếu là không tìm ra đúng người bảo trợ. Nhưng Michelangelo lại giỏi giang hơn đồng nghiệp ở mặt này: Người đỡ đầu ông chính là Đức giáo hoàng Julius II. Nhưng ngày kia hai người lại cãi nhau về việc xây dựng sinh phần bằng cẩm thạch cho giáo hoàng, và Michelangelo chán nản rời bỏ kinh thành La Mã. Trước sự ngạc nhiên của những người thân cận, giáo hoàng không những không sa thải Michelangelo, mà còn cho người tìm ông. Khi tìm được rồi, tuy bằng giọng điệu khá cao ngạo, nhưng quả thật giáo hoàng nài nỉ Michelangelo quay lại. Giáo hoàng biết rằng các nhà danh họa có thể tìm ra người bảo trợ khác, nhưng chính bản thân mình sẽ không bao giờ có một Michelangelo thứ hai.
Bạn không nhất thiết phải tài năng như Michelangelo, chỉ cần có được một kỹ năng hơn hẳn những người khác. Bạn phải xây dựng được một hoàn cảnh, mà theo đó bạn luôn có thể đầu quân ở chỗ khác, nhưng ngược lại chủ nhân bạn lại không thể tìm người có tài như bạn. Và nếu bạn là kẻ không phải thực sự thiết yếu, thì bạn phải tìm cách để cho mọi người nhận thấy rằng không thể thiếu mình. Nếu tạo được cái vỏ bọc kỹ năng và tri thức chuyên môn, bạn sẽ rộng đường làm cho cấp trên tưởng là guồng máy không thể chạy tốt nếu không có bạn. Đối lại, nếu cấp trên thực sự phụ thuộc bạn, thì rõ ràng bạn càng dễ thao túng.
Đó là ý nghĩa của việc đan chéo những số phận vào nhau: Giống như dây leo, bạn quấn lấy người nắm quyền lực, như thế nếu họ định dứt bỏ bạn thì bản thân họ sẽ bị thiệt hại. Nhiều khi bạn không cần phải quấn lấy chủ nhân, vì sẽ có người khác làm động tác này, trong chừng mực mà người ấy cũng thiết yếu cho hệ thống.
Ngày kia Harry Cohn, chủ tịch hãng phim Columbia Pictures, được nhóm cán bộ thuộc quyền báo hung tin: Một nhân viên của hãng, nhà biên kịch John Howar Lawson, bị tố cáo là theo chủ nghĩa Cộng sản. Lúc ấy là vào năm 1951, khi phong trào bài cộng ở Hollywood đang ở đỉnh cao. Ban giám đốc phải sa thải ngay nhà biên kịch, nếu không sẽ bị chính phủ làm khó.
Harry Cohn không phải là người có tư tưởng cởi mở phóng khoáng gì, trái lại ông là đảng viên Cộng hòa kiên định. Chính khách được ông ngưỡng mộ nhất là Benito Mussolini, người mà ông từng thăm viếng, và cho đóng khung ảnh treo trên tường văn phòng làm việc. Nếu ghét ai cay đắng, Cohn mắng hắn là “Thằng cộng sản khốn kiếp”.
Song nhóm cán bộ rất ngạc nhiên khi Cohn khẳng định ông sẽ không sa thải Lawson. Nhà biên kịch được giữ lại không phải vì tài năng – Hollywood rất nhiều nhà biên kịch tài năng. Lawson không bị sa thải là nhờ phản ứng dây chuyền: Ông ta chuyên dựng kịch bản dành riêng cho Humphrey Bogart, mà Bogart lại là minh tinh của hãng Columbia. Nếu gây rắc rối với Lawson, Cohn sẽ mất đi mối quan hệ vô vàn sinh lãi. Tính đi tính lại, mối quan hệ này mang lại cho Cohn nhiều lợi ích, đủ để ông ta chịu tai tiếng là dám giỡn mặt chính quyền.
Henry Kissinger được cái tài xoay sở để sống còn qua những cuộc thanh toán “máu đổ đầu rơi” trong nội bộ Nhà Trắng dưới thời tổng thống Nixon. Được như thế không phải vì ông là nhà ngoại giao lỗi lạc – còn nhiều nhà thương lượng tài ba khác – cũng không vì ông ăn cánh với tổng thống. Thật ra giữa hai người vẫn có trục trặc này nọ. Kissinger sống được qua bao bão táp là biết cách tự gắn mình sâu đậm vào nhiều lĩnh vực của cấu trúc chính trị, cho nên nếu vắng ông ta mọi thứ sẽ hỗn loạn ngay. Quyền lực của Michelangelo là thứ quyền lực tập trung, dựa vào tài năng một cá thể, còn quyền lực của Kissinger mang tính bao quát. Ông ta dính líu vào quá nhiều ban bệ và khía cạnh, đến nỗi sự dính líu này trở thành lá bài trong tay ông. Và vị trí này cũng giúp ông có nhiều đồng minh. Nếu bạn xoay xở tạo được cho mình một ưu thế như vậy, thì ai muốn sa thải bạn hẳn là người đó có rủi ro đùa với lửa – có khả năng làm cháy lan mọi tương quan khác. Tuy nhiên hình thức quyền lực tập trung lại tạo cho bạn sân chơi rộng lớn hơn, nhiều tự do hơn là quyền lực dàn trải, bởi vì người nắm được quyền lực ấy không dựa vào một chủ nhân nhất định, hoặc một vị trí quyền lực nhất định cho sự an nguy của mình.
Trong số nhiều cách làm người khác phụ thuộc mình, có chiến thuật gọi là tình báo bí mật. Nắm được bí mật của người khác, biết được những điều họ muốn giấu giếm, xem như số phận họ gắn liền với số phận bạn. Sẽ ít ai dám động đến bạn. Ở thời đại nào cũng có những tay trùm mật vụ nắm được ví trí vừa kể. Họ có thể kiến tạo hoặc phế truất một ông vua, hoặc, như trường hợp J. Edgar Hoover, một vị tổng thống. Nhưng vai trò này quá nhiều bất trắc và khắc khoải âu lo nên cái quyền lực xuất phát từ đó cũng có thể tự triệt tiêu. Bạn không thể ngủ yên, thì quyền lực để làm gì nếu nó không làm bạn an tâm?
Điều cảnh báo cuối cùng: Đừng tưởng hễ phụ thuộc vào bạn thì cấp trên sẽ yêu mến bạn. Hắn có thể vừa sợ vừa ghét bạn. Nhưng như Machiavelli từng nói, chẳng thà để người ta sợ mình còn hơn là người ta thương. Họ sợ, bạn còn có thể kiểm soát được, còn họ thương thì bạn bó tay. Lệ thuộc vào loại cảm xúc tinh tế và dễ thay đổi như tình yêu hay tình bạn, bạn chỉ tổ bất an mà thôi. Chẳng thà để người khác lệ thuộc vì sợ phải gánh chịu hậu quả khi mất mình, hơn là vì muốn thương yêu kề cận.
Hình ảnh:
Dây leo nhiều gai. Phía dưới thì rễ dây leo ăn sâu và lan rộng trong đất. Phía trên phát triển khắp những bụi cây khác, quấn quanh cây cối, trụ cột, cửa sổ… Muốn bứt phá đám dây leo đó thật tốn công mà nhiều khi còn trầy xước và chảy máu, chẳng thà để cho nó leo tự do.
Ý kiến chuyên gia:
Hãy khiến cho người khác phụ thuộc vào bạn. Sự phụ thuộc ấy nhiều lợi ích hơn là thái độ lịch sự với nhau. Thiên hạ hễ ăn xong thì quẹt mỏ. Một khi sự phụ thuộc không còn thì lễ nghĩa khuôn phép cũng mất theo, kể cả sự tôn trọng. Bài học đầu tiên mà kinh nghiệm cần dạy cho bạn là luôn hướng về phía trước và đừng bao giờ tự mãn, để cho ngay cả một kẻ vương giả phải luôn cần thiết đến mình.
(Baltasar Gracián, 1601-1658)
NGHỊCH ĐẢO
Nhược điểm của việc khiến cho người khác phụ thuộc vào mình là trong chừng mực nào đó ta còn phụ thuộc vào họ. Nhưng nếu cố gắng vượt qua được tình huống đó có nghĩa là ta tống khứ họ - nghĩa là ta đứng một mình, không phụ thuộc ai cả. Đó chính là đường lối theo kiểu độc quyền của một J. P. Morgan hoặc John D. Rockefeller – loại trừ mọi nguồn cạnh tranh để có thể toàn quyền kiểm soát. Bạn thống lĩnh được thị trường thì càng tốt cho bạn.
Nhưng không có độc lập nào mà không phải trả giá. Ta buộc lòng phải tự cô lập. Sức mạnh của độc quyền nhiều khi quay ngược vào trong, tự hủy diệt dưới sức ép nội bộ. Độc quyền cũng dấy lên oán giận, làm cho các địch thủ liên kết lại với nhau để chống lại độc quyền. Xu hướng toàn quyền kiểm soát nhiều khi gây ra
đổ nát chứ không mấy lợi ích. Sự tương thuộc vẫn là quy luật chung, còn độc lập chỉ là ngoại lệ hiếm hoi và sinh tử. Vì vậy tốt hơn ta nên đặt mình vào vị trí phụ thuộc lẫn nhau. Như thế ta sẽ không bị sức ép mà kẻ ngồi trên đỉnh cao thường bị, và thực chất người ngồi trên bạn sẽ lệ thuộc bạn, bởi vì hắn cần đến bạn.
NGUYÊN TẮC 12
SỬ DỤNG NHÂN NGHĨACÓ LỰA CHỌN
Một nước cờ có vẻ trung thực và lương thiện sẽ che đậy hàng tá hành động bất lương. Những động tác tốt bụng và bao dung sẽ hạ thấp sự cảnh giác của những người đa nghi nhất. Một khi sự trung thực có lựa chọn của bạn đã tạo ra một chỗ hở trên giáp bị của đối phương, bạn sẽ tha hồ đánh lừa và thao túng họ. Một món quà đúng lúc – như con ngựa thành Troy – sẽ đáp ứng cho cùng một mục đích ấy.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Vào năm 1926, một người cao kều ăn mặc bảnh bao xin vào gặp Al Capone, tên găng-tơ được mọi người kính sợ nhất thời bấy giờ. Nói tiếng Anh giọng Âu châu, ông ta tự giới thiệu là Bá tước Victor Lustig. Ông nói nếu Capone cho mượn 50.000 USD thì ông sẽ làm một lời một. Số tiền đó rất lớn, nhưng không thấm vào đâu so với tài sản mênh mông của Capone. Tuy nhiên hắn không phải hạng người sẵn sàng mang món tiền lớn đầu tư vào người lạ. Hắn nhìn vị bá tước lại lần nữa: Vị này có điều gì đó khác người – phong cách quý phái, cử chỉ lịch lãm – và cuối cùng Capone chấp nhận chơi luôn. Hắn tự tay đếm tiền và trao cho Lustig: “OK, hai tháng sau ông đưa lại tôi gấp đôi.” Lustig nhận tiền xong ra về, đi ngay đến ngân hàng Chicago mướn ngăn két sắt cất hết tiền vào đấy, sau đó trực chỉ New York, nơi ông đang dàn dựng vài vụ hái ra tiền khác.
Năm mươi ngàn đô-la nằm yên trong két sắt. Lustig cũng chẳng nhúc nhích ngón tay nào để làm cho chúng sinh lãi. Hai tháng sau ông ta trở về Chicago lấy tiền ra rồi đến xin gặp Al Capone. Nhìn thấy tên cận vệ mặt lạnh băng, Lustig mỉm cười biết lỗi rồi nói: “Xin ông vui lòng nhận cho sự tiếc nuối sâu sắc nhất của tôi, thưa ông Capone. Tôi rất tiếc khi phải báo cáo ông rằng kế hoạch đã thất bại… Tôi đã thất bại.”
Capone từ từ đứng lên. Cặp mắt rực lửa, hắn nghĩ xem nên quẳng xác ngài bá tước ở đoạn sông nào đây. Nhưng đột nhiên bá tước cho tay vào túi áo khoác, rút ra 50.000 đô đặt lên bàn. “Thưa ông, đây là món tiền của ngài, không thiếu một xu nào. Một lần nữa, tôi thành thật xin lỗi. Quả tôi hết sức ngượng ngùng. Mọi việc đã không diễn ra theo ý. Tôi rất muốn làm cho món tiền này sinh lãi gấp đôi, cho ông và cho bản thân tôi – thề có trời là tôi cần kíp lắm – song kế hoạch đã không như ý định.”
Capone bối rối ngồi phịch xuống ghế bành: “Tôi biết ông là tay lừa đảo, bá tước ạ. Biết ngay từ khi ông bước vào đây lần đầu. Tôi nghĩ hoặc mình sẽ được gấp đôi số tiền này, hoặc mất trọn gói. Nhưng giờ đây… mang trả lại nó cho tôi… thế đấy”. “Một lần nữa xin ông nhận cho tôi lời cáo lỗi chân thành, thưa ông Capone,” Lustig vừa chào vừa cầm nón bước đi. “Trời ơi, ông lương thiện thật!” Capone nói to. “Nếu ông đang kẹt tiền, thì đây cầm tạm năm ngàn đi.” Capone rút ra năm tờ một ngàn đô trong xấp năm chục ngàn. Bá tước có vẻ sững sờ, rồi cúi rạp mình lắp bắp cảm ơn, cầm tiền ra về.
Năm ngàn đô là mục đích mà Lustig ngắm tới ngay từ đầu.
Diễn giải
Bá tước Lustig, kẻ nói được nhiều ngôn ngữ, kẻ tự hào về trình độ văn hóa và tao nhã, là một trong những ông trùm lừa đảo thời nay. Ông nổi tiếng bởi sự liều lĩnh, gan dạ, và quan trọng hơn cả, đó là sự hiểu biết tâm lý con người. Ông có thể đánh giá một người trong vài phút, khám phá những nhược điểm của người
ấy, dường như ông có radar để phát hiện kẻ cả tin. Lustig biết rằng hầu hết ai ai cũng có tâm lý đề phòng bọn lừa đảo và phá đám. Công việc của tay đại bịp chính là làm xao lãng sự phòng thủ đó.
Cách chắc ăn để làm nạn nhân bớt đề phòng chính là ra vẻ chân thành và lương thiện. Ai mà lại nỡ nghi ngờ một người bị “bắt quả tang” đang lương thiện cơ chứ? Lustig từng nhiều lần áp dụng sự lương thiện “có tuyển chọn”, nhưng với Capone thì ông ta dấn xa thêm một chút. Không có tay lừa đảo bình thường
nào dám giở một trò lừa cỡ đó. Hắn ta sẽ chọn con mồi hiền hậu nhu mì, vì những con mồi như vậy sẽ ngậm bồ hòn mà không dám kêu đắng. Còn với Capone, thử lừa Capone đi, rồi từ nay đến cuối cuộc đời (hoặc những gì còn sót lại của cái gọi là cuộc đời đó) bạn sẽ trầm luân trong nỗi sợ hãi. Nhưng Lustig hiểu rằng một người như Capone không lúc nào mà không nghi ngờ người khác. Xung quanh ông ta không có ai là lương thiện hay hào hiệp, do đó phải sống giữa bày sói như thế thật căng thẳng thần kinh và tổn hao sinh
lực. Một người như Capone muốn kẻ khác đối xử với mình thật hào hiệp và trung thực, muốn cảm thấy rằng không phải ai cũng rắp tâm vụ lợi hoặc lừa bịp mình.
Lustig áp dụng sự lương thiện có lựa chọn và phỉnh được Capone vì hành động đó quá bất ngờ. Một bậc thầy lừa bịp luôn thích những cảm xúc trái ngược như vậy, bởi vì chủ thể cảm xúc dễ bị đánh lạc hướng và đánh lừa.
Bạn đừng ngại áp dụng quy luật này đối với tất cả những Capone trên toàn thế giới. Chỉ cần bạn thể hiện hành động lương thiện hay hào hiệp đúng thời điểm, thì kẻ hung bạo và đa nghi nhất cũng sẽ bị bạn thao túng.
Mọi thứ đều trở nên ủ rũ khi nhìn quanh mà tôi không
phát hiện ra ít nhất một con mồi. Cuộc đời có vẻ trống rỗng
và buồn nản. Tôi không hiểu nổi những người lương thiện.
Họ sống một cuộc sống vô vị, đầy ắp những buồn chán.
(Bá tước Victor Lustig, 1890-1947)
>
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Cái cốt của việc lừa bịp là đánh lạc hướng. Muốn lừa ai đó trước hết bạn phải làm cho họ xao lãng, để được thiên thời địa lợi. Những hành động chứng tỏ sự tốt bụng, thanh lịch, hay lương thiện thường là hình thức đánh lạc hướng hiệu quả nhất bởi vì chúng đánh tan mối nghi của nạn nhân. Lúc ấy nạn nhân trở thành đứa trẻ, sẵn sàng tin vào bất kỳ cử chỉ tình cảm nào.
Ở Trung Quốc xưa kia, hành động này được gọi là “dục thủ cô dữ” – “muốn lấy thì vờ cho”, vì khi được nhận, nạn nhân khó ý thức rằng mình đang bị tước đoạt. Kế này có rất nhiều ứng dụng thực tiễn. Nếu thẳng thừng tước đoạt người khác bạn sẽ lâm nguy, ngay cả khi bạn là người quyền lực. Nạn nhân sẽ tìm cách báo thù. Và nếu yêu cầu được thứ mình đang cần thì bạn cũng gặp rủi ro, cho dù có yêu cầu thật lịch sự: Trừ khi đối phương nhận thấy mình được lợi, nếu không hắn cũng bực mình với sự cần kíp của bạn. Hãy biết cách “dục thủ cô dữ”. Được như thế tình hình sẽ dịu bớt, khi bạn lấy thì người cho sẽ ít đau, hoặc đơn giản là hành động của bạn sẽ đánh lạc hướng. Và khi thả con tép, bạn có thể thả bằng nhiều hình thức: một món quà thực sự, một cử chỉ hào phóng, một sự chiếu cố, lời tự thú “lương thiện” – bất kỳ hình thức nào thuận lợi.
Bạn nên áp dụng loại lương thiện có chọn lựa ấy khi lần đầu gặp gỡ ai đó. Chúng ta đều là sinh vật theo thói quen, do đó các ấn tượng đầu tiên thật khó phai. Nếu ở buổi sơ giao, người ta tin là bạn lương thiện thì sau này khó mà thuyết phục người ấy điều ngược lại. Như vậy bạn sẽ rộng đường thao túng.
Cũng như Al Capone, Jay Gould nghi ngờ tất cả mọi người. Chỉ mới 33 tuổi hắn đã là triệu phú, chủ yếu nhờ lừa đảo và cưỡng bức. Vào cuối thập niên 1860, Gould đầu tư lớn vào Erie Railroad, để rồi khám phá ra rằng thị trường tràn ngập những cổ phiếu dởm của công ty. Hắn đang bị nguy cơ vừa mất cả gia tài vừa mang nỗi nhục.
Trong cơn khủng hoảng đó có người tự xưng là Lord John Gordon-Gordon đến hiến kế. Là một quý tộc Scotland, Gordon-Gordon chừng như đã làm giàu khi đầu tư vào ngành đường sắt.
Nhờ sự điều tra của chuyên gia về tuồng chữ, Gordon-Gordon cho Gould biết thủ phạm làm chứng khoán giả chính là những người trong ban giám đốc của Erie Railroad. Ông ta rủ Gould góp vốn để mua nhiều cổ phần, đủ để lọt vào hội đồng quản trị của công ty. Gould bằng lòng và thời gian sau đó mối cộng tác làm ăn này tỏ ra khấm khá. Hai người trở thành bạn thân, và mỗi lần đến hỏi Gould tiền để mua thêm chứng khoán thì Gordon-Gordon luôn được toại nguyện. Nhưng đến năm 1873 Gordon-Gordon đột ngột bán đổ bán tháo tất cả cổ phần của y, hốt được nhiều tiền, và làm giảm mạnh giá trị các cổ phần của Gould. Sau đó hắn biến mất.
Sau khi điều tra Gould mới biết hắn tên thật là John Crowningsfield, là con hoang của gã lái buôn đường biển với cô hầu bàn ở London. Thật ra trước đó đã có dấu hiệu cho thấy Gordon-Gordon là tay lừa đảo, nhưng vì hành động thật thà giúp đỡ ban đầu của hắn đã làm mờ mắt Gould, nên chỉ sau khi mất bạc triệu anh này mới vỡ lẽ.
Nhiều khi chỉ hành động thật thà thôi không đủ. Điều cần có là cái tiếng thơm lương thiện được xây dựng bằng một chuỗi hành động – có thể những hành động này chẳng đáng là bao. Một khi đã được tiếng, cũng như những ấn tượng ban đầu, thì tiếng thơm đó khó bị lay chuyển.
Ở Trung Quốc xưa kia, Ngô công nước Trịnh muốn xâm lược nước Hu đang ngày càng hùng mạnh. Không hé môi cho ai biết ý định mình, Ngô gả con gái cho vua Hu. Sau đó ông triệu tập triều thần lại hỏi: “Ta muốn mở rộng bờ cõi, vậy nên tiến đánh nước nào trước?” Như Ngô đã tiên đoán, một quan liền tâu “Thưa, nước Hu.” Ngô ra sắc giận và quát: “Giờ Hu là nước anh em, sao người dám gợi ý xâm lăng?” Nói xong ra lệnh chém. Hành động hành quyết này, cùng với việc gả con gái và nhiều cử chỉ thân thiện khác đã ru ngủ vua Hu. Chỉ vài tuần sau, binh tướng nước Trịnh tiến chiếm nước Hu vĩnh viễn.
Hành động nhân nghĩa là một cách hiệu quả để làm cho kẻ đa nghi phải mất cảnh giác, nhưng đó không phải là cách duy nhất. Bất kỳ cử chỉ có vẻ cao quý và vị tha nào cũng dùng được. Nhưng có lẽ cử chỉ tốt nhất là sự hào phóng. Ít ai có thể từ chối một món quà, ngay cả những địch thủ cứng cựa nhất. Một món quà sẽ đánh thức đứa trẻ trong ta, khiến ta tạm thời hạ thấp cảnh giác. Mặc dù ta thường soi xét kỹ lưỡng
hành động của người khác, nhưng ít khi ta phát hiện sắc thái quỷ quyệt của một món quà. Món quà rất lý tưởng để che đậy một nước cờ lừa đảo.
Cách đây hơn ba ngàn năm, những người Hy Lạp vượt biển nhằm chiếm lại nàng Helen xinh đẹp (trước đó bị tướng Paris cướp đi) và tiêu diệt đô thị Troy của Paris. Cuộc bao vây Troy kéo dài mười năm, nhiều vị anh hùng đã hy sinh, nhưng chiến thắng vẫn còn quá xa. Ngày kia vị tiên tri Calchas quy tụ các chiến binh Hy Lạp.
“Thôi đừng đánh phá những bức tường này nữa. Các vị phải tìm ra phương thức khác, mưu chước khác. Chúng ta không thể chiếm Troy chỉ bằng mỗi sức mạnh. Ta phải tìm ra diệu kế.” Lãnh tụ thông minh của quân Hy Lạp là tướng Odysseus đề nghị tạo ra một con ngựa gỗ khổng lồ, giấu quân lính vào trong, rồi đem tặng cho thành Troy. Con của Achilles là Neoptolemus khinh thường kế này vì nó không xứng với đàn ông. Chẳng thà để hàng ngàn người chết nơi trận địa còn hơn là chiến thắng bằng cách lừa đảo. Nhưng khi được cho lựa chọn trước hai đường, một là mất thêm mười năm trận mạc để tỏ chí nam nhi, giương cao danh dự, rồi chết, và hai là nhanh chóng chiến thắng, binh sĩ Hy Lạp thích giải pháp con ngựa hơn. Kế sách con ngựa thành Troy thành công và lưu danh ngàn sau. Chỉ một món quà còn được nhiều việc hơn là mười năm chinh chiến.
Sự tử tế có lựa chọn cũng nên có trong kho ngón nghề bịp bợm của bạn. Suốt nhiều năm liền lính La Mã bao vây đô thị của người Faliscan nhưng không chiếm được. Ngày kia khi đang thị sát doanh trại, tướng La Mã Camillus thấy có người đàn ông dẫn vài đứa trẻ đến gặp ông. Đó là một giáo viên Faliscan, và những đứa trẻ là con cái của những cư dân quý tộc và giàu có nhất đô thị. Lấy cớ là dẫn học trò đi chơi, ông thầy dẫn chúng đến cho người La Mã bắt làm con tin, mục đích là để lấy lòng Camillus.
Vị tướng không thực hiện mục đích của ông thầy, trái lại còn sai quân lính lột trần và trói tay ông ta, giao cho mỗi đứa trẻ một cây roi, bảo vừa đánh vừa dẫn ông ta về. Cách xử sự của Camillus lập tức tác động đến dân Faliscan. Vị tướng đã suy tính đúng, vì sau đó đô thị Faliscan đã đầu hàng. Ông biết nếu giữ đám trẻ lại làm con tin chưa chắc chấm dứt được chiến tranh, ít ra cũng chưa chấm dứt được ngay. Nhưng khi ông thể hiện một hành động tử tế có suy tính, đối phương bị bất ngờ, rồi tin tưởng và tôn trọng ông hơn. Sự tử tế có lựa chọn như thế thường khi lừa được cả một địch thủ ương ngạnh nhất: Nếu đánh trúng tim địch thủ, hành động này sẽ xói mòn ý chí chiến đấu.
Bạn hãy nhớ: Biết thao túng cảm xúc, biết suy tính cử chỉ tử tế, ta sẽ biến một Capone thành đứa trẻ cả tin. Và như với mọi tiếp cận khác bằng con đường cảm xúc, bạn nên thực hiện thật cẩn thận: Nếu bị kẻ khác phát hiện mưu đồ, thì lòng nhiệt thành và biết ơn của họ sẽ biến thành sự thù ghét và bất tin. Nếu không có khả năng thể hiện sự thành tâm và chân thật, tốt hơn bạn đừng đùa với lửa.
Hình ảnh:
Con ngựa thành Troy. Sự bịp bợm ẩn mình phía sau một món quà không chê vào đâu được, không thể cưỡng lại được. Thành trì đối phương sẽ mở cửa. Một khi đã đột nhập rồi, bạn tha hồ tàn phá.
Ý kiến chuyên gia:
Khi sắp tiến công nước Ngu, Hiến công nước Tần tặng cho Ngu ngọc ngà châu báu. Từ đó có câu: “Dục thủ cô dữ.”
(Hàn Phi Tử, triết gia Trung Quốc,
thế kỷ thứ III trước Công nguyên)
NGHỊCH ĐẢO
Khi đã nỡ nổi tiếng lừa đảo, cho dù bạn có thi thố bao nhiêu hành động lương thiện, nhân nghĩa, tử tế thì cũng không thể bịp bợm ai được nữa. Bạn thi thố chỉ tổ làm cho mọi người nghi ngờ thêm mà thôi. Trong trường hợp này bạn nên thấu cáy, nhập vai thủ ác.
Bá tước Lustig sắp thực hiện cú lừa vĩ đại nhất sự nghiệp lừa đảo của mình bằng cách gọi bán ngọn tháp Eiffel cho một kỹ nghệ gia cả tin, tưởng rằng chính phủ định bán ngọn tháp này theo giá phế liệu. Ông sắp trao món tiền lớn cho Lustig, lúc ấy đang vào vai một quan chức cao cấp. Tuy nhiên vào giờ chót con mồi lại sinh nghi. Có điều gì đó ở Lustig làm ông do dự. Trong buổi gặp gỡ để nhận tiền, bản thân Lustig cũng phát hiện ra sự nghi ngại đó.
Nhoài người sang kỹ nghệ gia, Lustig thì thầm giải thích rằng vì đồng lương công chức ba cọc ba đồng, rồi tình hình tài chính bế tắc, vân vân. Sau vài phút, Lustig xoay ngược tình hình, làm cho kỹ nghệ gia hiểu rằng ông ta chỉ vòi vĩnh chút tiền hối lộ. Nghe xong khách hàng bớt căng thẳng thấy rõ. Giờ thì khách nghĩ rằng Lustig không định lừa đảo mình lấy số tiền lớn (tiền bán tháp Eiffel), mà chỉ muốn ăn hoa hồng. Vì bất kỳ viên chức Nhà nước nào cũng tham nhũng, suy ra Lustig là công chức thật. Khách bằng lòng xùy tiền. Khi nhanh trí thấu cáy nhập vai kẻ bất lương, Lustig lại chứng tỏ mình là thứ thiệt. Trong trường hợp này nếu giả nhân giả nghĩa thì bạn thua đẹp.
Khi nhà ngoại giao người Pháp Talleyrand về già, thì cái tiếng xấu về ông đã lan quá rộng, ai ai cũng biết ông nói láo và bịp bợm đệ nhất. Tại hội nghị Vienna (1814-1815), ông cố tình thêu dệt nhiều chuyện khó tin với những người biết tỏng là ông ta láo toét. Mục đích của ông là tung hỏa mù, sao cho người nghe không thể phân biệt lúc nào ông lừa lúc nào ông thật. Chẳng hạn như có lần giữa chỗ bạn bè, ông ra vẻ chân thành khuyên rằng “Trong kinh doanh, ta phải chơi bài ngửa.” Không ai có thể tin điều mình vừa nghe: Suốt cuộc đời mình, gã này chưa bao giờ tiết lộ con bài tẩy của mình, giờ lại lên lớp mọi người nên chơi bài ngửa. Những chiến thuật như thế sẽ làm cho mọi người hoang mang, không biết lúc nào Talleyrand bịp thật, lúc nào ông ta bịp… giả. Khi chấp nhận cái ô danh là kẻ lừa đảo, ông ta duy trì được khả năng lừa đảo.
Ở lĩnh vực quyền lực, không có gì trăm năm bia đá cả. Hành động lừa đảo công khai nhiều lúc lại che đậy được mưu đồ của bạn, thậm chí làm cho mọi người thán phục, vì bạn đã bất lương một cách… trung thực.
NGUYÊN TẮC 13
NHỬ BẰNG TƯ LỢI,ĐỪNG KÊU GỌI LÒNG THƯƠNG,KHÔNG ĐỀ CẬP ÂN TÌNH
Khi cần đồng minh giúp đỡ, đừng nhắc nhở việc hắn thụ ân ta trong quá khứ. Hắn sẽ tìm cách phớt lờ. Ngược lại, hãy cho hắn thấy những lợi ích sẽ đạt được khi hai bên liên kết, và ta hãy phóng đại khoản lợi nhuận ấy nhiều lên. Hắn sẽ nhiệt tình trợ giúp khi biết rõ có lời.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Vào đầu thế kỷ XIV, chàng thanh niên Castruccio Castracani từ vị trí binh nhì trở thành người đứng đầu đô thị Lucca ở Italia. Họ Poggio, một trong những gia tộc thế lực nhất thời bấy giờ đã làm bệ phóng cho Castracani, nhưng họ cảm thấy sau khi đăng quang rồi thì anh ta quên mất tình xưa nghĩa cũ. Tham vọng ngất trời khiến chàng trai trở thành vô ơn. Năm 1325, trong khi Castracani dẫn quân chống lại địch thủ của Lucca là thành phố Florence, gia đình Poggio câu kết với các gia đình quý tộc khác để trừ khử Castracani.
Dấy lên cuộc khởi nghĩa, họ cho người tấn công và sát hại quan thống đốc mà Castracani bổ nhiệm để cai quản Lucca. Nhiều vụ bạo loạn xảy ra, cả hai phe Castracani và Poggio sẵn sàng lâm chiến. Tuy nhiên ở đỉnh cao căng thẳng, trưởng lão gia tộc Poggio là Stefano can thiệp và khuyên hai bên nên hạ vũ khí.
Là người yêu mến hòa bình, Stefano không tham gia và cuộc khởi nghĩa. Ông bảo tộc Poggio rằng máu chảy đầu rơi thật vô ích. Ông hứa sẽ đại diện cho cả gia tộc để thuyết phục Castracani lắng nghe ý kiến và thỏa mãn yêu cầu. Vì Stefano là người lớn tuổi nhất và thông thái nhất nên gia tộc Poggio bằng lòng đặt niềm tin của họ vào tài ngoại giao của ông, thay vì vào vũ khí.
Khi nghe tin dấy loạn, Castracani lập tức trở về Lucca. Tuy nhiên khi anh ta về đến nơi thì nhờ sự dàn xếp của Stefano nên mọi việc đã lắng dịu, khiến Castracani rất ngạc nhiên trước cảnh an bình của đô thị. Cho rằng Castracani sẽ biết ơn mình đã vỗ an các bên, Stefano đến gặp anh ta. Ông ta nói về công trạng mình và xin Castracani thông cảm cho những thành viên trẻ tuổi và thiếu suy nghĩ của gia đình Poggio. Ông cũng nhắc lại công ơn của gia đình đối với Castracani. Do đó, theo ông, anh ta không nên chấp nhặt, mà ngược lại nên thỏa mãn những kiến nghị của gia đình.
Castracani kiên nhẫn lắng nghe, không tỏ ra tức giận hay hằn thù chút nào. Ngược lại anh ta bảo Stefano nên tin rằng công lý sẽ là quy luật, đồng thời mời cả gia đình đến cung điện trình bày hết các yêu cầu để có thể thỏa thuận với nhau. Khi cả hai kiếu từ, Castracani nói anh ta cảm ơn trời đã tạo điều kiện để anh chứng tỏ sự bao dung cũng như lễ nghĩa của mình. Tối hôm đó trọn gia đình Poggio đến cung điện. Họ lập tức bị tống giam và vài ngày sau bị hành quyết, kể cả Stefano.
Diễn giải
Stefano di Poggio là hiện thân của loại người luôn tin rằng mình sẽ thuyết phục được người khác bằng sự công bằng và lẽ phải của chính nghĩa. Chắc chắn rằng trong quá khứ, thỉnh thoảng ta vẫn được việc khi nhân danh sự công bằng và lẽ phải, nhưng thường khi sự nhân danh ấy chỉ mang lại thương đau, đặc biệt khi đụng phải những Castracani trên thế gian này. Stefano dư biết rằng anh ta vươn lên đỉnh cao quyền lực là nhờ phản bội và bạo tàn. Trước đó anh ta từng cho sát hại người bạn thân tín và trung thành nhất. Khi có người phê phán là thật lỗi đạo khi giết bạn cũ như thế, Castracani trả lời rằng mình không giết bạn cũ, mà giết kẻ thù mới.
Người như Castracani chỉ biết có sức mạnh và tư lợi. Tay trưởng lão Stefano đã sai lầm chí tử khi chấm dứt cuộc bạo loạn, và lại còn kêu gọi lòng nhân từ của con sói, trong khi ông ta vẫn còn những nước cờ khác: Có thể biếu xén tiền tài của cải cho Castracani, hứa hẹn nhiều phúc lợi tương lai, chỉ cho hắn thấy
rằng gia đình Poggio vẫn có ích cho hắn – nhờ ảnh hưởng của họ đối với các gia đình thế lực ở La Mã, những liên kết quyền lực qua các cuộc hôn nhân v.v…
Ngược lại Stefano lại nhắc về quá khứ, với những món nợ nghĩa tình mà người ta không muốn trả ơn. Người ta không buộc phải hàm ân, bởi sự tri ân thường là gánh nặng mà người ta vui lòng loại bỏ. Ở
trường hợp trên, Castracani rũ bỏ sự mang ơn gia đình Poggio bằng cách loại bỏ gia đình Poggio. TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Năm 433 TCN, đảo Corcyra (sau này gọi là Corfu) và thị quốc Corinth thuộc Hy Lạp đang trên bờ vực chiến tranh. Cả hai phe đều phái đại sứ đến Athens để lôi kéo thành phố này về phe mình. Athens về phe nào xem như phe đó nắm chắc phần thắng. Và ai chiến thắng sẽ tàn sát kẻ bại trận không nương tay.
Phe Corcyra nói trước. Viên đại sứ bắt đầu bằng cách nhìn nhận rằng đảo này trước nay chưa hề giúp đỡ Athens, mà còn liên kết với những địch thủ của Athens. Giữa Corcyra và Athens chưa bao giờ có mối liên hệ hữu nghị hay nghĩa tình nào cả.
Vâng, viên đại sứ nhìn nhận rằng lần này đến Athens vì lo cho sự an nguy của Corcyra. Điều duy nhất ông ta có thể hứa chỉ là sự liên minh với lợi ích song phương. So với tất cả thủy quân thời bấy giờ, hạm đội Corcyra chỉ thua kém mỗi Athens. Liên minh chiến lược này sẽ tạo ra sức mạnh ghê gớm, có khả năng uy hiếp thành phố đối phương Sparta. Rất tiếc đó là điều duy nhất mà Corcyra có thể chào mời.
Đến phiên mình, người đại diện Corinth nói rất hùng biện và thiết tha, hoàn toàn tương phản với những lời khô cằn và không chút mắm muối của Corcyra. Ông ta nhắc rằng trong quá khứ Corinth đã từng giúp đỡ Athens bao lần. Ông ta hỏi liệu những đồng minh khác của Athens sẽ nghĩ như thế nào, một khi thành phố này lại đi bỏ rơi bạn bè mà liên minh với kẻ thù cũ: Biết đâu họ sẽ phá vỡ các hiệp ước với Athens khi thấy Athens đánh giá thấp sự trung nghĩa. Viên đại sứ còn viện dẫn luật lệ Hy Lạp cổ, yêu cầu Athens đền ơn đáp nghĩa cho Corinth.
Sau đó các giới chức Athens họp bàn vấn đề này, và qua đến vòng hai, tất cả đều nhất trí liên minh với Corcyra và bỏ rơi Corinth.
Diễn giải
Đọc sử sách, chúng ta thường nghĩa về những thị dân Athens quân tử, nhưng thật ra họ thực tiễn nhất trong số các cư dân Hy Lạp cổ đại. Tất cả những lời kêu gọi hùng biện và xúc động nhất trên thế giới, với họ, cũng không bằng một lý lẽ thực tiễn, đặc biệt là lý lẽ nào mang thêm quyền lực cho họ.
Điều mà viên sứ thần Corinth không hiểu ra, chính là việc tham chiếu đến sự tốt bụng mà Corinth dành cho Athens trước kia, chỉ tổ khiến dân Athens thêm bực bội mà thôi. Việc này không khác với nhắc khéo rằng các anh hàm ân tôi, bây giờ phải có nghĩa vụ báo đáp, nếu không sẽ cảm thấy tội lỗi. Ơn nghĩa những ngày qua? Tình thân hữu nghị? Mặc! Một Athens hùng mạnh tin chắc là nếu những đồng minh khác lên án họ bội nghĩa khi bỏ rơi Corinth, thì những đồng minh này cũng không dám phá vỡ liên kết. Lý do: Athens là sức mạnh hàng đầu ở Hy Lạp, họ cai trị lãnh thổ bằng sức mạnh, và bất kỳ đồng minh nào manh nha bỏ ngũ sẽ lập tức bị dẫn độ về mái nhà xưa ngay.
Khi phải lựa chọn giữa việc nhắc nhở quá khứ với trù hoạch tương lai, người thực tiễn luôn chọn tương lai và rũ bỏ quá khứ. Và người Corcyra thức thời rằng mình phải nói chuyện thực tiễn với người thực tiễn. Suy cho cùng thì thật ra hầu hết chúng ta đều sống thực tế thôi – ít ai đi ngược lại quyền lợi của mình.
Quy luật xưa nay là người yếu phải phục tùng
kẻ mạnh; và hơn nữa, chúng tôi thấy đáng được tôn kính
bởi quyền lực của mình. Cho đến thời điểm này, các vị cũng từng thấy như thế; nhưng hiện nay, sau khi cân nhắc lại tư lợi, các vị
bắt đầu nói đến chuyện phải trái. Loại quan ngại như thế
chưa bao giờ làm cho ai đó khước từ những cơ hội
mở mang bờ cõi một khi họ hùng mạnh hơn.
(Lời của đại diện thành phố Athens tại thành bang Sparta,
trích dẫn trong tác phẩm Cuộc chiến Peloponnese
của Thucydides, khoảng 465-395 TCN)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Trên đường mưu cầu quyền lực, bạn thường ở vào trường hợp phải nhờ vả sự giúp đỡ của những người mạnh hơn. Yêu cầu được giúp đỡ là cả một nghệ thuật, tùy thuộc vào khả năng bạn hiểu được đối tác là ai, và đừng nhầm lẫn quyền lợi mình với quyền lợi họ.
Rất nhiều người không đạt được mục đích vừa kể, bởi vì họ hoàn toàn lúng túng với các mớ nhu cầu và mong ước của họ. Họ khởi sự từ việc lầm tưởng rằng phía đối tác, nghĩa là bên thi ân, sẽ thi ân bất cầu báo. Họ tưởng là phía đối tác sẽ quan tâm đến nhu cầu của họ. Thật ra xác suất lớn là nhu cầu ấy chẳng được màng. Nhiều khi họ liên hệ đến những vấn đề thật lớn lao: vì đại nghĩa, vì những tình cảm thiêng liêng như tình thương và ơn nghĩa. Họ chỉ đề cập đến cái chung chung, trong khi những thực tế đơn giản thường ngày lại hấp dẫn hơn. Họ không nhận thức được rằng ngay cả người quyền lực nhất cũng phải bận tâm với tư lợi, và nếu ta không hấp dẫn được mối tư lợi ấy, thì người quyền lực sẽ thấy ta chẳng bổ béo gì, chỉ làm mất thì giờ của hắn mà thôi.
Hồi thế kỷ XVI, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha từng mất nhiều năm để cải đạo một số người Nhật sang Công giáo, lúc này Bồ Đào Nha được độc quyền mậu dịch giữa Nhật và châu Âu. Mặc dù ít nhiều thành công với dân thường nhưng họ chưa thuyết phục được giới lãnh đạo. Đến đầu thế kỷ thứ XVII, việc họ làm đã khiến Nhật hoàng Ieyasu căm giận. Ông ta thở dài nhẹ nhõm khi người Hà Lan đổ xô vào đất Nhật. Nhật hoàng cần nắm được công nghệ Âu châu về súng ống và hàng hải, và rất may cuối cùng nước Nhật cũng gặp được những người Âu châu không chỉ quan tâm đến việc truyền giáo – người Hà Lan chỉ đến để giao thương. Ieyasu nhanh chóng hất chân Bồ Đào Nha để chỉ làm ăn với người Hà Lan có đầu óc thực tế.
Nhật và Hà Lan là hai nền văn hóa khác xa nhau, nhưng cả hai đều chia sẻ cùng mối quan tâm của muôn đời: tư lợi. Đối tác của bạn luôn có nền tảng văn hóa khác với bạn, họ giống như một đất nước xa lạ với quá khứ không giống như những gì bạn từng trải. Bạn có thể vượt qua những dị biệt đó bằng tư lợi. Bạn
không cần phải tỏ ra nhỏ nhẹ tế nhị gì hết: Cứ chứng tỏ thẳng thắn rằng mình sẵn sàng chia sẻ nguồn trí thứ quý báu, giúp đối tác thu bạc đầy rương, làm cho anh ta được phước lộc thọ. Đó là thứ ngôn ngữ mà ai ai cũng nói được, hiểu được.
Bước trọng yếu là phải hiểu được tâm lý đối tác. Hắn có tự kiêu không? Hắn có quan tâm đến tiếng tăm hay vị trí xã hội không? Hắn có kẻ thù nào mà ta có thể giúp tiêu diệt không? Hay đơn giản hắn chỉ ham mê quyền và lợi?
Khi xâm lược Trung Quốc hồi thế kỷ XII, Mông Cổ đe dọa xóa sạch một nền văn hóa từng phát triển suốt nhiều ngàn năm. Với Thành Cát Tư Hãn, Trung Quốc chỉ là một vùng đất rộng lớn không đủ cỏ để nuôi bầy chiến mã của ông ta, vì vậy ông quyết định phá hủy toàn bộ, san bằng bình địa, bởi “chẳng thà tiêu diệt hết bọn Trung Quốc, để chỗ cho cỏ mọc.” Sau đó Trung Quốc thoát khỏi đại họa này, nhưng không phải nhờ quân lính, tướng lĩnh hoặc một vị vua nào, mà chỉ là một người mang tên Oa Khoát Đài.
Bản thân cũng là người nước ngoài, Oa Khoát Đài đánh giá rất cao nền văn hóa Trung Hoa. Sau nhiều năm tháng xoay xở để đạt được đến vị trí cố vấn tin cẩn của Đại Hãn, Oa Khoát Đài thuyết phục ông ta đừng hủy diệt hết mọi thứ, mà chỉ nên thu hết chiến lợi phẩm, để yên cho dân sinh sống, rồi sau đó đánh thuế. Đại Hãn thấy được món lợi nên nghe theo Oa Khoát Đài.
Đại Hãn chỉ chiếm được Khai Phong phủ sau một cuộc bao vây kéo dài nên quyết định giết hết dân chúng trong thành cho hả giận. Oa Khoát Đài liền tâu rằng tất cả những nghệ nhân cao tay nghề nhất của Trung Quốc đều trú ẩn tại Khai Phong, và Mông Cổ sẽ được lợi khi bắt họ sản xuất. Khai Phong thoát chết. Trước đây Đại Hãn chưa bao giờ rộng lượng như vậy, và cả Khai Phong thoát trên không phải nhờ từ tâm. Oa Khoát Đài[5] biết rất rõ Đại Hãn. Đại Hãn chỉ quan tâm đến chiến tranh và kết quả thực tiễn sau cùng. Oa Khoát Đài chọn đúng sợi dây cảm xúc của hắn để gảy: Lòng tham.
Tư lợi là cái đòn có khả năng bẩy được hầu hết mọi người. Một khi thấy rằng ta giúp họ được việc, họ sẽ không còn do dự gì đối với yêu cầu của ta. Với từng bước trên con đường thủ đắc thế lực, bạn nên tập lồng mình vào vị trí đối tác để nắm rõ nhu cầu và lợi ích của họ, tạm dẹp qua một bên mọi cảm nghĩ của bạn để
tránh suy đoán không chính xác.
Hình ảnh:
Sợi dây ràng buộc. Sợi dây từ tâm và ơn nghĩa đã mòn xơ xác rồi, và sẽ đứt ngay khi bị giằng giật. Đừng sử dụng nó. Sợi dây đôi bên cùng có lợi được bện từ nhiều thớ, rất khó đứt. Nó sẽ phục vụ bạn trong thời gian rất dài.
Ý kiến chuyên gia:
Cách nhanh nhất và hay nhất để có được cơ đồ là làm cho người khác thấy rõ ràng rằng hễ họ giúp bạn thì họ được lợi.
(Jean de la Bruyère, 1645-1696)
NGHỊCH ĐẢO
Cũng có người xem tư lợi là không xứng với kẻ sĩ. Họ thực sự muốn áp dụng nhân nghĩa, đức độ, và sự công bằng, vốn là những phương tiện giúp họ cảm thấy hơn người: Khi xin họ cứu giúp tức là ta tôn họ lên. Đó là thứ men say làm họ mê mẩn. Họ khát khao trở thành mạnh thường quân của bạn, tiến cử bạn cho bậc quyền thế - tất nhiên với điều kiện là những hành động đó phải được nhiều người biết càng tốt, và thực hiện vì đại nghĩa. Như bạn thấy đó, ta không thể mang tư lợi ra dụ dỗ tất cả mọi người. Đối diện tư lợi, có người sẽ thoái lui vì không muốn để người khác thấy mình tham lam. Họ cần có cơ hội để phô bày đức hạnh.
Bạn chớ ngại ngần. Hãy tạo cho cơ hội ấy. Việc này không giống khi bạn lợi dụng họ khi yêu cầu giúp đỡ - họ thực sự cảm thấy khoan khoái khi ban phát, và khi mọi người thấy họ ban phát. Bạn tập nhìn ra những điểm dị biệt giữa những kẻ quyền thế, để biết dò trúng đài. Khi lòng tham phát tiết ra ngoài thì bạn đừng kêu gọi từ tâm. Còn nếu họ muốn ra mặt nhân nghĩa thì bạn đừng mang tư lợi ra dụ dỗ.
NGUYÊN TẮC 14
BÊN NGOÀI LÀM BẠN,BÊN TRONG RÌNH MÒ
Nắm bắt thông tin địch thủ là việc cực kỳ quan trọng. Hãy sử dụng thám báo để thu thập thông tin và có kế hoạch đón đầu. Hay hơn nữa là bạn tự mình do thám. Hãy tập luyện điều tra ở những cuộc gặp gỡ xã giao. Hãy hỏi những câu gián tiếp nhằm kích thích người khác nói về nhược điểm và chủ tâm họ. Không có cơ hội nào không là thời cơ cho bậc thầy do thám.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Joseph Duveen chắc chắn là người buôn tranh tài ba nhất thời ông ta – từ năm 1904 đến 1940, ông ta gần như độc quyền thâu tóm thị trường sưu tầm tranh của những tay triệu phú Mỹ. Chỉ trừ một mỏ vàng chưa khai thác được: kỹ nghệ gia Andrew Mellon. Duveen “quyết chí biến Mellon thành khách hàng, nếu không sẽ chết không nhắm mắt.
Bạn bè bảo Duveen rằng đó là giấc mơ không tưởng. Mellon là tay cứng cỏi ít lời. Nhưng chuyện từng nghe về tay Duveen nào đó lắm mồm xởi lởi còn làm Mellon thêm bực – và tuyên bố rằng mình không muốn gặp tay đó. Vậy mà Duveen đảm bảo với bạn bè rằng “Mellon sẽ không những mua tranh của tôi, mà chỉ mua tranh của tôi mà thôi.” Suốt nhiều năm ông ta theo dõi con mồi, biết hết những thói quen, khẩu vị, và kiêng cữ. Để nắm được những thông tin đó, Duveen hối lộ nhiều nhân viên của Mellon. Đến thời điểm hành động, ông ta biết rõ Mellon không thua gì bà vợ của y.
Năm 1921 Mellon đến London và ngụ ở tầng ba khách sạn Claridge’s. Duveen cũng đăng ký một loạt dãy phòng ở tầng hai, và sắp xếp cho người hầu trở thành bạn thân của người hầu cho Mellon. Đến ngày đã chọn ra tay, người hầu của Mellon nói với người hầu của Duveen rằng mình mới giúp chủ nhà mặc áo khoác, và ông ta đang bước ra hành lang thang máy.
Chỉ vài giây sau Duveen bước vào buồng thang máy, và thật là tình cờ, Mellon đang đứng bên trong. “Thưa ông Mellon, ông khỏe chứ ạ?” Duveen chào và tự giới thiệu. “Tôi đang trên đường đến National Gallery để ngắm vài bức tranh.” Cũng thật tình cờ khi đó lại là điểm đến của Mellon. Và như thế Duveen có dịp hộ tống con mồi đến địa điểm hết sức thuận tiện cho thắng lợi của mình. Duveen tỏ tường sở thích của Mellon như lòng bàn tay, và trước khi hai người lang thang khắp nhà trưng bày, nhà buôn tranh đã làm kỹ nghệ gia lóa mắt vì tri thức chuyên môn. Và lại thật là tình cờ thêm một lần nữa, cả hai đều có sở thích hết sức giống nhau.
Mellon ngạc nhiên thích thú: Duveen không phải như ông tưởng. Người này rất duyên dáng và dễ chịu, và rõ ràng là có khẩu vị thượng thặng. Khi trở về New York, Mellon đến xem phòng trưng bày độc đáo của Duveen và mê mệt bộ sưu tập. Lạ lùng thay, mọi thứ trong phòng đều đúng y hệt loại tranh mà ông ta muốn ở hữu. Từ đó đến cuối đời, Mellon trở thành khách hàng sộp nhất của Duveen.
Diễn giải
Với một người tham vọng và bon chen như Duveen thì chẳng có việc gì là tình cờ cả. Thật không mấy ích lợi khi phải ứng phó tình thế, hoặc giả hy vọng rằng mình sẽ hấp dẫn được khách hàng. Hành động như vậy chẳng khác gì bịt mắt bắt dê. Hãy tự trang bị thêm một tí hiểu biết, bạn sẽ thấy có tiến bộ.
Tuy Mellon là phi vụ ngoạn mục nhất, song thật ra Duveen do thám cùng lúc nhiều nhà triệu phú. Ông ta lén mua chuộc tất cả gia nhân của con mồi để luôn nắm được những thông tin quý giá về đường đi lối về, thay đổi sở thích, và những mẩu tin nho nhỏ khác giúp ông ta đi trước một bước. Khi tìm cách chài mồi tay tài phiệt Henry Frick, một địch thủ cạnh tranh với Duveen lấy làm lạ là cứ mỗi lần mình đến viếng Frick thì Duveen luôn có mặt ở đó trước, chừng như ông ta có giác quan thứ sáu. Những mối cạnh tranh khác cũng nhìn nhận rằng hình như đi đâu cũng gặp Duveen, và ông ta luôn nắm thông tin trước họ. Khả năng phân thân đó khiến nhiều địch thủ phải nản lòng bỏ cuộc.
Đó là sức mạnh của nghệ thuật tình báo: Nó giúp ta có vẻ toàn năng và toàn trí. Càng hiểu biết nhiều về con mồi thì ta càng đoán trước được ý nghĩ của hắn. Trong khi đó, các địch thủ khác không biết từ đâu ta
có nguồn sức mạnh ấy, và nếu không biết thì họ không thể tiến công ta.
Giới cầm quyền thấy hết là nhờ gián điệp, cũng như những
con bò nhờ khứu giác, Bà La Môn nhờ kinh văn, và số
đông còn lại là nhờ cặp mắt thông thường.
(Kautilya, triết gia Ấn Độ, thế kỷ III TCN)
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Muốn nắm quyền, bạn nên kiểm soát được ít nhiều những gì sắp xảy ra. Vì vậy một phần vấn đề của bạn là làm sao biết được những suy nghĩ, cảm xúc, và kế hoạch của đối tượng. Nếu làm chủ được những gì họ nói ra, các đối tượng sẽ che giấu điều quan trọng nhất của tính cách – những nhược điểm, chủ đích, đam mê. Hậu quả là bạn không thể tiên đoán được nước cờ của họ. Ngón nghề ở đây là bạn phải tìm ra cách điều tra để phát hiện những bí mật và chủ đích mà đừng để họ biết.
Việc này không khó như bạn nghĩ. Nấp sau cái bình phong hữu nghị, bạn có cơ hội thu lượm thông tin ở cả phe ta lẫn phe địch. Mặc cho người khác đi bói bài hoặc đoán số tử vi, ta đã có biện pháp cụ thể để biết trước tương lai.
Cách do thám thông thường nhất là lợi dụng người khác, như Duveen đã làm. Phương pháp này đơn giản và hữu hiệu nhưng có rủi ro: Chắc chắn bạn có được thông tin, nhưng lại khó kiểm soát đám mật thám ấy. Có khả năng họ sơ suất làm hỏng việc, hoặc giả cố ý phản phé. Vì vậy tốt hơn bạn nên tự thực hiện công việc, giả dạng làm đồng minh để tiến hành do thám.
Chính khách người Pháp Talleyrand là một trong những bậc thầy do thám. Ông ta cực kỳ khéo léo trong việc moi bí mật của người khác qua những cuộc đàm đạo xã giao. Nam tước De Vitrolles, người đương thời của Talleyrand từng viết: “Ông ta nói chuyện rất duyên dáng và trí tuệ. Ông có nghệ thuật che giấu ý nghĩ hoặc ác tâm đằng sau tấm mạng trong suốt những từ ngữ bóng gió thật thâm trầm súc tích. Chỉ khi nào cần, ông ta mới đưa tính cách riêng của mình vào”. Mấu chốt ở đây chính là việc Talleyrand biết cách che mất cái tôi của mình trong câu chuyện, dụ cho đối phương huyên thuyên về họ, từ đó vô tình để lộ những gì ông ta muốn biết.
Suốt cuộc đời Talleyrand, ai ai cũng bảo ông ta là người có tài nói chuyện – mặc dù thực tế ông rất ít nói. Talleyrand không bao giờ nói về những gì mình nghĩ, mà chỉ khích người khác nói. Ông hay tổ chức những buổi họp mặt, trong đó chuẩn bị phần đố vui cho các nhà ngoại giao, qua đó ông cân đong đo đếm cẩn thận từng lời của họ, rồi tạo điều kiện thân mật cho họ tâm sự, và moi nhiều thông tin quý giá cho nước Pháp, mà ông là vị bộ trưởng ngoại giao. Tại Hội nghị Vienna (1814-1815), Talleyrand lại do thám theo cách khác: Ông ta “lỡ lời” tiết lộ một bí mật (được ngụy tạo rất khéo từ trước) để xem xét phản ứng đối phương. Chẳng hạn trong buổi gặp gỡ họp thân mật các nhà ngoại giao, ông bảo có nguồn tin cậy cho biết là Nga hoàng định bắt giữ vị tướng quân hàng đầu vì tội phản nghịch. Quan sát phản ứng các đồng nghiệp khác, ông dò xem ai khoái chí khi quân đội Nga suy yếu – biết đâu chính phủ họ có ý đồ gì với nước Nga? Như Nam tước Von Stetten nói: “Monsieur Talleyrand bắn chỉ thiên để xem ai phóng mình ra ngoài cửa sổ.”
Trong những cuộc gặp gỡ xã giao, họp mặt vô thưởng vô phạt, bạn hãy quan sát. Đó là lúc thiên hạ bất cẩn. Hãy giấu tính cách mình và tạo điều kiện cho họ bộc lộ. Cái độc đáo của chiêu này là làm sao cho đối phương cảm thấy những câu nói dẫn đường của ta là sự quan tâm hữu nghị, được như vậy ta không chỉ kiếm được thông tin, mà còn kiếm được đồng minh.
Tuy nhiên bạn nhớ thi hành chiến thuật này thật cẩn trọng. Nếu thiên hạ phát hiện là bạn làm bộ nói chuyện để moi tin, họ sẽ lánh xa ngay. Hãy nhấn mạnh vào câu chuyện xã giao, đừng chăm bẵm vào thông tin quý giá. Tiến trình thu thập từng viên ngọc thông tin không được diễn ra quá lộ liễu, nếu không những câu hỏi điều tra của bạn sẽ để hở sườn, giúp đối phương phát hiện chủ đích và con người thật của bạn.
Bạn có thể thử cái mánh từ điều La Rochefoucauld viết: “Thiên hạ ít ai trung thực, và thường khi trung thực là họ mưu mẹo khôn ngoan nhất – ta trung thực để moi những điều thầm kín và bí mật của người
khác.” Làm bộ cởi mở cõi lòng ra cho người khác, thật ra bạn khiến hàng muốn thổ lộ tâm tình. Hãy kể cho họ nghe một lời thú nhận giả, và họ sẽ đáp lễ bằng một thú nhận thật.
Arthur Schopenhauer đưa ra mánh khác: Cãi chày cãi cối thật kịch liệt để chọc tức đối phương, khuấy đảo họ mất phần nào kiểm soát đối với lời nói. Khi cảm xúc dâng cao, họ sẽ hé mở đủ loại sự thật về bản thân, những sự thật để bạn dành sau này chơi họ.
Có một cách do thám gián tiếp là thử đối phương, đặt những chiếc bẫy nho nhỏ để cậy miệng họ. Chosroes II, vị vua nổi tiếng khôn ngoan của xứ sở Ba Tư hồi thế kỷ thứ VII, có nhiều cách dò xét quần thần mà họ không hề hay biết. Chẳng hạn nếu để ý thấy hai quan cận thần bỗng dưng quá thân thiệt, Chosroes sẽ nói với người thứ nhất rằng người kia rắp tâm tạo phản và sắp bị hành hình. Vua bảo rằng mình tin tưởng vị này nên mới cho biết và dặn đừng để tiết lộ. Sau đó vua quan sát cả hai. Nếu thấy thái độ quan cận thần thứ hai không có gì thay đổi, vua kết luận là người thứ nhất biết giữ bí mật, sẽ thăng chức cho y, rồi lại cho vời y đến để đính chính: “Ta định xử trảm bạn đồng liêu của ngươi vì một số thông tin bất lợi, nhưng sau khi ta cho điều tra lại mới thấy nguồn tin đó sai lạc.”
Còn nếu thấy quan cận thần thứ hai có ý tránh né mình và bồn chồn lo lắng, Chosroes biết là bí mật đã bị lộ. Vua sẽ cho gọi y đến cho biết toàn bộ sự thật của cuộc thử nghiệm, rằng y không có lỗi gì, song vua vẫn không còn tin dùng và cho ra khỏi cung. Còn đối với cận thần thứ nhất, Chosroes ra lệnh đày biệt xứ vĩnh viễn.
Cách vừa kể không chỉ có thể nắm bắt thông tin mà còn biết được tính cách con người. Tuy có vẻ kỳ cục nhưng thường lại là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề trước khi chúng trở nên trầm trọng.
Cứ nhử người khác ra tay, bạn sẽ biết được những suy nghĩ, tính cách, lòng trung của hắn, cùng nhiều điều khác nữa. Và thường khi đó lại là thứ hiểu biết đáng giá nhất: có tri thức này rồi, bạn sẽ tiên đoán hành động tương lai của họ.
Hình ảnh:
Con mắt thứ ba của thám báo. Ở xứ sở của những người hai mắt, thì con mắt thứ ba sẽ giúp bạn được toàn tri như Thượng đế. Bạn nhìn xa hơn họ, và nhìn sâu vào bên trong họ.
Ý kiến chuyên gia:
Giờ đã rõ, lý do vì sao một vị vua thông minh và một tướng lãnh khôn ngoan luôn chiến thắng kẻ thù trong mọi đường đi nước bước, vì sao hành động của họ luôn hơn hẳn người thường, chính là nhờ họ tiên đoán tình hình của địch. Sự “tiên tri” này không nhờ đến thần thánh hay ma quỷ nào, không dự vào tử vi bói toán hoặc mọi hiện tượng tương tự trong quá khứ. Tiên tri ấy có được nhờ những người biết rõ tình thế của địch – nhờ điệp báo.
(Tôn Tử, thế kỷ IV trước Công nguyên)
NGHỊCH ĐẢO
Thông tin là chỗ dựa của quyền lực, nhưng khi do thám người khác, bạn chuẩn bị tinh thần để bị người khác do thám lại. Vì vậy một trong những vũ khí hiệu quả nhất trong trận chiến thông tin chính là phát ra thông tin sai lạc. Như Winston Churchill từng nói, “Sự thật quý báu đến mức phải luôn được hộ tống bởi những lời nói dối.” Bạn phải có được sự hộ tống như vậy, nhằm ngăn chặn mọi xâm nhập. Tung được loại thông tin như ý, bạn sẽ làm chủ cuộc chơi.
Năm 1944, Đức Quốc Xã bỗng dưng tăng cường tấn công London bằng bom bay. Hơn hai ngàn hỏa tiễn V-1 cắm xuống thành phố giết chết nhiều người. Tuy nhiên nhìn chung thì phần lớn những quả V-1 ấy đã không trúng đích. Nhiều quả nhắm vào khu đông dân cư như Tower Bridge hoặc Piccadilly lại rơi vào những chỗ thưa người. Nguyên nhân là vì lính Đức đã dựa vào tin tình báo của gián điệp trên đất Anh để bắn hỏa tiễn. Họ không ngờ rằng người Anh đã phát hiện bọn gián điệp đó nhưng cứ để yên, rồi tương kế tựu kế phát đi những thông tin sai lạc. Càng ngày những quả bom bay càng rớt xa mục tiêu, và đến cuối chiến dịch chúng chỉ gây thương vong cho lũ bò cái ngoài đồng.
Bạn sẽ nắm được ưu thế khi cung cấp cho địch thủ loại thông tin lừa bịp. Nếu hành vi do thám giúp bạn có thêm con mắt thứ ba, thì loại thông tin đánh lạc hướng sẽ móc bớt mất một con mắt của địch thủ.
NGUYÊN TẮC 15
NHỔ CỎ PHẢI NHỔ TẬN GỐC
Từ thời Moses cho đến ngày nay, mọi lãnh tụ đều biết rằng hễ đánh địch là phải triệt tiêu. Nếu còn chút than hồng âm ỉ trong đống tro tàn, cho dù có yếu cách mấy thì sẽ có lúc ngọn lửa lại bùng lên. Chẳng thà diệt sạch còn hơn để dang dở: Địch thủ sẽ phục hồi và báo thù. Hãy tàn sát chúng, không chỉ về thể chất mà cả tinh thần.
VI PHẠM NGUYÊN TẮC
Trong lịch sử Trung Hoa, không có sự kình địch nào làm tốn nhiều giấy mực hơn cuộc chiến giữa Hạng Vũ và Lưu Bang. Khởi đầu sự nghiệp, họ là bạn thân và là đồng đội. Là con nhà quan, Hạng Vũ to lớn vạm vỡ, tính tình nóng nảy hung bạo, tuy hơi tối dạ nhưng lại là chiến binh dũng cảm luôn đứng ở đầu sóng ngọn gió. Lưu Bang xuất thân nông dân, ít có tính khí của binh gia, thích rượu ngon gái đẹp hơn là đao kiếm. Thật ra ông ta ít nhiều là người du thủ du thực. Song Lưu Bang lại khôn ngoan, có khả năng phát hiện và thu phục hiền tài, biết nghe lời họ khuyên. Chính ưu điểm đó đã giúp ông tiến thân trong sự nghiệp.
Năm 208 TCN, quân khởi nghĩa chia thành hai mũi dùi, rầm rộ tiến về Hàm Dương. Một đạo tiến về hướng Bắc dưới sự chỉ huy của chủ soái Tống Nghĩa, Hạng Vũ làm phó tướng. Lưu Bang dẫn đạo quân thứ hai trực chỉ kinh đô. Cả hai hẹn gặp tại Hàm Dương. Là người tính nóng và không kiên nhẫn, Hạng Vũ không thể để cho Lưu Bang đến trước và có cơ hội được thăng tiến thống lĩnh toàn quân.
Ở mặt trận phía Bắc, Tống Nghĩa do dự chưa muốn cho quân lâm trận, Hạng Vũ nổi giận bước vào lều chỉ huy, điểm mặt Tống Nghĩa kết tội phản rồi rút gươm chém bay đầu, sau đó tự phong nguyên soái. Không chờ lệnh vua, Hạng Vũ xuất quân tiến thẳng về Hàm Dương. Tự tin vào tài điều quân, ông ta chắc chắn mình sẽ đến kinh đô của quân địch trước Lưu Bang. Nhưng đến nơi, Hạng Vũ mới té ngửa ra khi thấy Lưu Bang đã tiến chiếm Hàm Dương rồi, nhờ đạo quân tuy ít người hơn nhưng năng động hơn. Quân sư của Hạng Vũ là Phạm Tăng góp ý: “Tay trưởng thôn Lưu Bang này nổi tiếng là tham tài háo sắc, nhưng từ khi vào thành đô đến giờ vẫn chưa tơ tưởng tiền tài của cải hay tửu sắc gì cả. Điều đó chứng tỏ hắn còn nhắm xa.”
Quân sư khuyên Hạng Vũ nên khử Lưu Bang trước khi quá muộn, bằng cách tổ chức tiệc rượu ở ngoại vi kinh đô, mời hắn đến rồi nhanh tay hạ thủ trong lúc binh sĩ biểu diễn màn múa kiếm. Thư mời gửi đi, Lưu Bang đến dự. Nhưng đã qua mấy tuần rượu mà Hạng Vũ vẫn do dự chưa ra lệnh bắt đầu màn múa kiếm. Đến khi quyết định ra dấu cho binh sĩ thì Lưu Bang đã đánh hơi thấy âm mưu nên nhanh chân tẩu thoát. Phạm Tăng thất vọng kêu trời: “Nếu không trừ khử được Lưu Bang, hắn sẽ thu tóm cả cơ đồ và thanh toán chúng ta.”
Hạng Vũ liền ra lệnh tấn công Hàm Dương, lần này quyết bêu đầu địch thủ. Lưu Bang là người không bao giờ nghênh chiến khi sự tình bất lợi nên bỏ ngỏ kinh thành mà thoát thân. Hạng Vũ chiếm Hàm Dương, sát hại thái tử nhà Tần, phóng hỏa đốt sạch thành bình địa. Nhiều tháng tiếp theo, Hạng Vũ miệt mài truy đuổi,
cuối cùng dồn được Lưu Bang vào một thị trấn nhỏ. Bị vây hãm, lương thực thiếu thốn, binh sĩ rối loạn, Lưu Bang phải đầu hàng.
Phạm Tăng khuyên Hạng Vũ giết ngay địch thủ, nếu không sẽ ân hận sau này. Song Hạng Vũ lại muốn bắt sống Lưu Bang dẫn độ về Sở, tại đó buộc Lưu phải tôn vinh mình là chủ soái. Nhưng những gì Phạm Tăng e sợ đã diễn ra: Lợi dụng tiến trình đàm phán làm Hạng Vũ xao lãng, Lưu Bang bỏ trốn với toán quân trung thành. Hạng Vũ tức tốc đuổi theo, tưởng chừng đã mất trí vì cơn giận dữ ngất trời. Trong cơn hỗn loạn, Hạng Vũ bắt được cha của Lưu Bang, cho trói gô lại và bêu cao cho Lưu Bang thấy: “Nếu không đầu hàng, ta sẽ nấu cháo cha người!”. Lưu Bang bình tĩnh đáp lại: “Chúng ta là anh em kết nghĩa, vì vậy cha ta cũng là cha ngươi. Nhưng nếu ngươi can tâm nấu cháo, thì nhớ gửi cho ta một bát.” Hạng Vũ chùng tay, và cuộc chiến đấu tiếp diễn.
Sau đó vì một số sai lầm chiến thuật nên Hạng Vũ thua nhiều trận đánh, binh đội mỏng dần. Trong một lần tiến công thần tốc, Lưu Bang vây doanh trại chính của Hạng Vũ. Gió đã đổi chiều, giờ đến lượt Hạng Vũ cầu hòa. Quân sư của Lưu Bang bảo nhất định phải hạ thủ Hạng Vũ chứ không nên thả hổ về rừng. Lưu
Bang gật đầu.
Tuy nhiên sau đó Hạng Vũ thoát thân được là nhờ đội cận vệ trung kiên liều mình cứu chúa. Thân cô thế cô và bị truy đuổi gắt gao, đến khi cùng đường, Hạng Vũ nói với tàn quân: “Nghe nói Lưu Bang treo giá cái đầu ta đến ngàn vàng và thái ấp vạn hộ. Vậy nay ta tưởng thưởng lòng trung của các ngươi.” Nói xong tự vẫn.[6]
Diễn giải
Hạng Vũ nổi tiếng hung bạo và ít khi chùng tay với kẻ thù. Song với Lưu Bang thì Hạng Vũ lại làm khác, muốn đánh bại địch thủ trên trận mạc để làm cho Lưu Bang tâm phục khẩu phục mà quy hàng. Bắt được Lưu Bang rồi Hạng Vũ vẫn do dự, vì dù sao đây vẫn là địch thủ đáng nể, từng là đồng đội và nghĩa đệ. Đến khi quyết chí tiêu diệt Lưu Bang thì quá trễ, xem như Hạng Vũ đã ký tên vào án tử. Trái lại khi gió đổi chiều, Lưu Bang không ngần ngại.
Đó là số phận chờ đợi ta nếu ta nương tay với địch thủ, cho dù đó là vì thương hại hay dự định làm hòa. Như thế chúng sẽ thù hằn ta thêm mà thôi. Ta đã đánh bại và làm chúng mất mặt, thì không nên tiếp tục để những con rắn độc ấy sống thêm mà báo thù. Nói quyền lực thì không thể nói nhân nghĩa. Đã bắt được địch thì phải nghiền nát, đập tan, và triệt tiêu mọi cơ hội sau này báo oán. Điều này còn đúng hơn với trường hợp một đồng chí cũ giờ trở thành kẻ thù. Quy luật đối với nguyên tắc đối đầu sinh tử là không thể làm hòa. Nếu một bên khả thắng thì phải toàn thắng.
Lưu Bang thấm nhuần quy luật ấy. Sau khi chiến thắng Hạng Vũ, gã nông dân tiếp tục tiến lên thống lĩnh toàn quân Sở. Nghiền nát đối thủ kế tiếp – vua Sở, tức là chủ cũ của mình – Lưu Bang tự phong hoàng đế, dẹp tan không nương tay một chướng ngại trên đường đi, trở thành một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất của Trung Quốc, Hán Cao Tổ, người sáng lập nhà Hán.
TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC
Ra đời năm 625, Võ Mỵ Nương là ái nữ một đại thần, nổi tiếng sắc hương, được nhập cung làm phi cho Đường Thái Tông hoàng đế.
Hậu cung là nơi nguy hiểm, với đám cung phi luôn bày mưu lập kế để lấy lòng hoàng thượng. Hương sắc và tài trí đã giúp Võ sớm thắng cuộc chiến thầm lặng ấy, nhưng vì biết hoàng đế cũng như bao người quyền lực khác, sẽ mưa nắng bất thường và chẳng do dự gì sủng ái người khác, nên Võ lên kế hoạch tầm xa.
Võ rắp tâm chinh phục Đường Cao Tông, đứa con phóng đãng của hoàng đế. Mỗi khi có dịp gặp riêng chàng, chẳng hạn như trong phòng vệ sinh của thái tử, Võ đều ra sức ve vãn mơn trớn. Ấy vậy mà khi hoàng đế băng hà, Võ phải chịu số phần đám phi tần truyền thống và luật lệ đã quy định: cạo đầu lui vào chùa cho đến cuối cuộc đời. Suốt bảy năm liền Võ luôn làm thân với hoàng hậu, Võ thuyết phục hoàng đế ban chỉ cho phép hồi cung. Sau đó, một mặt Võ liếm gót hoàng hậu trong khi vẫn lén lút thông dâm với hoàng đế. Tuy có hay biết nhưng hoàng hậu không ngăn cả - vẫn chưa sinh được rồng con nên vị trí rất bấp bênh, bà cần có Võ làm đồng minh tài chí.
Năm 654 Võ Mỵ Nương sinh con. Khi hoàng hậu đến thăm và vừa ra khỏi, Võ liền giết con ruột của mình để mọi nghi kỵ đổ dồn vào hoàng hậu, vốn nổi tiếng ganh tỵ. Không lâu sau, hoàng hậu bị kết tội mưu sát và chịu án tử. Võ Mỵ Nương được phong hoàng hậu. Vị hoàng đế phóng đãng đã sẵn sàng giao việc triều chính cho nàng, và từ đó trở đi mọi người gọi là Võ hậu.
Mặc dù ở vị trí quyền lực tột bực song Võ không yên tâm. Nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, hậu không hề hạ thấp cảnh giác. Năm 41 tuổi, hậu sợ cô cháu trẻ đẹp sẽ được lòng hoàng thượng nên sai người hạ độc. Đến năm 675 con đẻ của hậu vì được tôn làm thái tử nên cũng bị hạ độc luôn. Đứa tiếp theo, mặc dù là con hoang nhưng vẫn có tiềm năng kế vị, vì vậy sau đó bị vu cáo và lưu đày. Tám năm sau, khi hoàng đế băng hà, Võ lại sắp xếp để quần thần tuyên bố rằng đứa con áp út của bà không đủ điều kiện lên ngôi. Có nghĩa là đứa con út khờ khạo sẽ kế vị để hậu tiếp tục nhiếp chính.
Những năm sau đó liên tiếp diễn ra nhiều vụ đảo chính không thành và tất cả bọn chủ mưu đều bị xử tử. Đến năm 688 thì không còn ai đủ sức mạnh và dũng cảm để đối đầu Võ hậu. Hai năm sau đó, hậu đạt được
ước nguyện tột cùng: Tự cho là hậu duệ của đức Phật, bà tự xưng Đại Chu Thánh Võ hoàng đế, được mọi người gọi là Di Lặc tái thế.
Võ lên ngôi hoàng đế không còn đối thủ. Nhờ vậy bà tiếp tục trị vì suốt hơn một thập niên.[7] Diễn giải
Những ai đã biết Võ hậu đều thán phục sự tinh khôn và năng lực của bà. Vào thời đó, phụ nữ không còn niềm vinh quang nào khác là được tuyển vào hậu cung vài năm, nhưng sau đó nếu không may sẽ phải giam mình suốt đời trong tu viện. Suốt tiến trình chậm mà chắc để vươn lên đỉnh cao, chưa bao giờ Võ thực sự ngu ngơ cả. Nàng biết rằng bất kỳ do dự nào, cho dù chỉ mềm yếu trong chốc lát, cũng đồng nghĩa với kết liễu cuộc đời. Nếu một lần vừa thanh toán địch thủ này xong thì địch thủ khác xuất hiện, với nàng giải pháp thật đơn giản: Tàn sát, nếu không chính mình sẽ bị sát hại. Nhiều hoàng đế trước đó cũng hành động như vậy, nhưng Võ – một phụ nữ, hầu như không có cơ hội nào để giành được quyền lực – cần phải tàn nhẫn hơn.
Bốn mươi năm trị vì của Võ hậu là một trong những triều đại lâu dài nhất lịch sử Trung Quốc. Mặc dù không phải ai cũng tán đồng cách trị vì bằng bàn tay sắt nhuốm máu của bà, song phải nhìn nhận rằng Võ Tắc Thiên là một trong những lãnh tụ có năng lực và hiệu quả nhất của thời đại.
Tướng quân Ramón Maria Narváez (1800-1868), một chính
khách Tây Ban Nha đang hấp hối. Thầy tư tế hỏi ông:
“Ngài có tha lỗi cho tất cả kẻ thù không?”
“Ta không cần phải tha lỗi cho họ,”
Narváez đáp, “Ta đã cho bắn sạch cả bọn rồi.”
CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC
Không phải bỗng dưng mà cả hai câu chuyện minh họa nguyên tắc này đều đến từ Trung Quốc: Lịch sử nước này đầy những chuyện kể về việc tha tội cho các kẻ thù, rồi sau đó chúng quay lại làm hại mình. “Nhổ cỏ tận gốc” là nguyên tắc chiến lược của Tôn Tử, tác giả thiên Binh pháp hồi thế kỷ thứ IV trước công nguyên. Không có gì khó hiểu: Kẻ thù muốn làm hại ta. Họ không muốn gì hơn là trừ khử ta. Nếu trong quá trình chiến đấu, ta dừng ở nửa đường hoặc thậm chí ba phần tư đường vì lòng nhân hoặc giả muốn làm hòa, thì ta chỉ khiến chúng căm giận ta sâu sắc hơn, kiên định hơn, và ngày nào đó chúng sẽ báo thù. Trước mắt chúng sẽ cư xử thân thiện, chỉ bởi vì chúng vừa thua ta. Chúng không còn sự lựa chọn nào khác là phải chờ thôi.
Giải pháp: Không khoan dung gì cả. Ta phải nghiền nát kẻ thù cũng như chúng sẽ nghiền nát ta. Kẻ thù không thể nào mang đến cho ta sự an toàn và bình yên cả, trừ khi chúng không còn tồn tại nữa.
Mao Trạch Đông, người am tường binh pháp của Tôn Tử và lịch sử Trung Quốc nói chung, hiểu rõ tầm quan trọng của nguyên tắc này. Năm 1934 vị lãnh tụ Cộng sản này cùng 75.000 quân lính thiếu thốn trang thiết bị phải trốn vào vùng núi hoang sơ phía Tây Trung Quốc để tránh sự truy đuổi của đại quân Tưởng Giới Thạch. Chiến thuật lui quân này được gọi là cuộc Trường chinh.
Tưởng quyết tâm tiêu diệt cho đến người Cộng sản cuối cùng, và vài năm sau đó Mao chỉ còn khoảng 10.000 quân. Đến năm 1937 khi Nhật xâm lăng Trung Quốc, Tưởng cho rằng lực lượng Cộng sản không còn là mối đe dọa, nên bỏ cuộc truy đuổi và tập trung đánh Nhật. Mười năm sau, phe Cộng sản phục hồi đủ mạnh để đánh bại Tưởng, vì ông này đã quên câu châm ngôn nhổ cỏ tận gốc. Nhưng Mao lại không quên. Tưởng bị Mao truy đuổi ráo riết đến mức phải trốn ra hải đảo Đài Loan. Hoa lục ngày nay không còn chút dấu ấn nào của chế độ Tưởng.[8]
Câu châm ngôn nói trên cũng cổ xưa như Kinh thánh: Moses từng học được triết lý này từ chính Thượng đế, khi ngài vẹt nước Hồng Hải ra cho dân Do Thái, để cho ba đào chảy ngược càn quét người Ai Cập, nhằm tiêu diệt cho đến tên cuối cùng.
Khi trở về từ núi Sinai với Mười điều răn và nhận thấy nhiều người Do Thái lại sùng bái Bê Vàng, Moses giết sạch những người theo tà giáo, không chừa một ai. Và trước khi từ giã cõi đời để vào Miền đất hứa, Moses nói với các môn đồ rằng khi đã đánh bại các bộ tộc Canaan, họ phải “hoàn toàn tiêu diệt chúng… không được thỏa hiệp gì cả, không được khoan dung với chúng.”
Mục đích toàn thắng là tiền đề của mọi cuộc chiến hiện đại, và được hun đúc bởi Carl von Clausewitz, triết gia hàng đầu về chiến tranh. Phân tích các chiến dịch của Napoléon, ông ta viết: “Chúng ta khẳng định rằng việc tiêu diệt hoàn toàn mọi lực lượng thù địch luôn phải là mối quan tâm chủ đạo… Một khi đạt được thắng lợi quan trọng, không được nói đến chuyện nghỉ ngơi hay thở một chút... mà là phải truy đuổi, tiếp tục tiến công địch quân, tiến chiếm thủ đô của chúng, tiến công lực lượng dự phòng và bất cứ những gì có khả năng cung cấp viện trợ và tiện ích cho chúng.” Lý do Clausewitz viết như vậy là vì lúc chiến tranh đình chỉ thường xảy ra thương lượng và phân chia lãnh thổ. Nếu chiến thắng không trọn vẹn, khi thương lượng ta sẽ mất đi những gì mình đạt được trong chiến tranh.
Giải pháp thật đơn giản: Không chừa cho kể thù bất kỳ lựa chọn nào. Cứ tiêu diệt chúng trước, rồi sau đó ta tha hồ cắt xén đất đai như thế nào tùy ý. Mục đích của quyền lực là hoàn toàn khống chế kẻ thù, buộc chúng phải răm rắp vâng lời. Bạn không thể chỉ làm dang dở. Nếu không được quyền chọn lựa, chúng sẽ phải tuân thủ ta thôi. Nguyên tắc này còn được áp dụng ra ngoài lĩnh vực quân sự. Thương lượng là con thú hiểm ác sẽ nuốt chửng chiến thắng của ta, vì vậy ta không chừa cơ hội cho kẻ thù được thương lượng, được hy vọng, được dở trò. Chúng bị tiêu diệt, và thế là xong.
Hãy nhớ lấy điều này: Trong quá trình tranh giành quyền lực, bạn sẽ khuấy động lên nhiều sự kình địch và tạo ra kẻ thù. Sẽ có những thành phần mà bạn không thể thuyết phục lôi kéo, và sau đó dù gì đi nữa thì họ cũng ở tư thế đối đầu chứ không phải là đồng minh. Bạn chỉ nhớ rằng giữa hai bên sẽ không còn khả năng
hòa bình, nhất là khi bạn trụ ở tư thế quyền lực. Nếu để họ quanh quẩn, họ sẽ tìm phương báo oán, chắc chắn như hết ngày lại đêm. Đợi đến lúc họ lật bài ra thì bạn sẽ trở tay không kịp.
Bạn hãy thực tế: Ta sẽ không bao giờ an toàn khi có kẻ thù trước ngõ. Hãy nhớ lấy những bài học từ lịch sử, từ sự khôn ngoan của Moses và Mao: Đừng bao giờ làm việc gì nửa vời.
Tất nhiên đây không phải là tội cố sát, mà chỉ là vấn đề lưu đày. Bị tàn phế, rồi bị lưu đày vĩnh viễn khỏi triều đình ta, kẻ thù không còn lợi hại. Họ không còn hy vọng phục hồi, luồn lách xâm nhập trở lại hại ta. Còn nếu vì lý do nào đó mà không tống khứ họ được, bạn cứ tin rằng họ đang âm mưu chống lại ta, vì vậy ta không được tin vào bất kỳ dấu hiệu thân thiện nào mà họ bày tỏ. Trong những tình huống như thế, vũ khí duy nhất của ta là sự cảnh giác cao độ. Nếu không trục xuất họ được ngay, ta hãy chuẩn bị thời cơ gần nhất để ra tay.
Hình ảnh:
Một con rắn lục bị gót chân bạn giẫm nát nhưng vẫn còn sống, nó ngóc cổ lên cắn bạn với liều nọc độc gấp đôi. Kẻ thù chưa bị tận diệt sẽ như con rắn còn ngắc ngoải, tận dụng thời gian để phục hồi, để nọc độc tăng cường độ.
Ý kiến chuyên gia:
Cần phải lưu ý rằng đối với một con người thì hoặc phải nuông chiều, hoặc phải tận diệt. Nếu chỉ bị tổn thương nhẹ, hắn sẽ trả thù, nhưng nếu bị tổn thất nặng nề thì hắn sẽ không thể; vì vật khi gây tổn thất cho ai, ta phải làm sao mà không sợ hắn trả thù.
(Niccolò Machiavelli, 1469-1527)
NGHỊCH ĐẢO
Nguyên tắc này chỉ có thể được bỏ qua trong trường hợp hết sức hãn hữu. Nhưng sẽ có lúc tốt hơn bạn nên để các địch thủ tiêu diệt nhau, nếu có thể được, thay vì mình tự ra tay. Trong chiến tranh chẳng hạn, một vị tướng giỏi biết rằng khi bị dồn vào chân tường, địch quân sẽ đánh trả dữ dằn hơn. Chính vì thế đôi lúc ta nên chừa cho chúng con đường thoát. Khi rút lui, sức lực địch sẽ bị bào mòn, và việc lui quân còn làm cho chúng xuống tinh thần nhiều hơn là nếu bị thua trên chiến địa. Do đó trong tình thế có nhiều địch thủ đang sắp cạn kiệt sức – và phải chắc chắn là chúng không còn khả năng phục hồi – bạn có thể để chúng tự hủy