🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 39 Manh Mối Tập 4: Bước Vào Cõi Tử - Jude Watson full prc epub azw3 [Huyền Ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
39 MANH MỐI PHẦN 4: BƯỚC VÀO CÕI TỬ
Nguyên tác: 39 Clues #4: Beyond the Grave
Tác giả: Jude Watson
Dịch giả: Dương Thu
Công ty phát hành: Phương Nam
Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
Trọng lượng vận chuyển: 230 grams
Kích thước: 14 x 20 cm
Số trang: 192
Ngày xuất bản: 10-2011
Giá bìa: 74.000₫
Nguồn: http://tve-4u.org
Type+Làm ebook: thanhbt
Cuốn sách này được giới thiệu ở đây nhằm chia sẻ cho những bạn không
có điều kiện mua sách.
Còn nếu bạn có khả năng hãy mua sách ủng hộ nha!
Giới thiệu
THÔNG ĐIỆP TỪ CÕI CHẾT
Bị chính những người họ hàng phảm bội,bị người chú họ bỏ rơi, và với một dấu vết mong manh có được, Amy Caill 14 tuổi và cậu em trai, Dan, vội vã bay sang Ai Cập để săn lùng 39 Manh Mối - thứ sẽ giúp chúng sở hữu được thứ quyền lực vô biên. Nhưng khi tới nơi, Amy và Dan nhận được một thứ hoàn toàn bất ngờ: một thông điệp từ Gace - người bà quá cố của chúng. Phải chăng Gace đã lên kế hoạch để giúp hai đứa bé mồ côi... hay Amy và Dan lại rơi vào một sự phản bội khác mà lần này còn khủng khiếp hơn trước?
Hãy theo chân Amy và Dan vòng quanh thế giới để săn tìm 39 Manh Mối.
Mục lục
CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24
CHƯƠNG 1
NẾU AMY CAHILL phải lập một danh sách liệt kê ra tất cả những điều khó chịu ở những thằng em trai mười một tuổi thì numero uno[1] chính là thói lặn mất tăm.
[1] “Thứ nhất”, tiếng Ý.
Hay trước tiên có khi chính là sự hiện diện của bọn chúng trên đời này. Và tiếp theo đó là một lô một lốc những tội danh khác của chúng...
Amy đang đứng ngay giữa chợ Khan el-Khalili, thành phố Cairo, điên cuồng xoay dọc liếc ngang để tìm kiếm Dan, thằng em nó. Cảm giác lơ mơ sau một chuyến bay dài cũng đang xâm lấn vào chức năng não bộ thông thường của con bé. Chỉ mới đây thôi, thằng nhóc còn ở bên cạnh chị nó. Rồi khi Amy quay đi trong đúng hai giây để mua một chiếc bút chì có hình nữ hoàng Ai Cập Nefertiti, và khi quay lại, nó đã biến mất.
Không khí đặc kịt cái nóng, tiếng nhạc và tiếng chào hàng í ới. Các biểu ngữ rực rỡ phấp phới phía trên đầu. Du khách tấp nập len lỏi qua lại các con đường, balô đeo trước ngực để phòng hờ nguy cơ bị móc túi và cứ vài phút lại dừng bước để chụp ảnh một lần. Một người phụ nữ đội khăn trùm đầu đang luồn lách qua một hàng ghế màu ngọc lam để đuổi theo hai thằng bé. Một người đàn ông đang giữ thăng bằng chiếc giỏ đựng đầy cam trên đầu chỉ bằng một tay. Rồi một nữ du khách đội mũ lưỡi trai mặc chiếc áo thun có dòng chữ TÔI MUỐN XÁC ƯỚP đi ngang qua Amy, với chiếc máy ảnh giơ lăm lăm trước mặt.
Amy cảm thấy hơi nóng như từng đợt sóng phả vào da mình. Con bé chỉ mong sao nó không bị ngất đi. Màu sắc túa ra khắp mọi nơi, những khuôn mặt nhòe đi, những tiếng động lạ lẫm cứ dộng vào tai nó. Chưa bao giờ Amy yêu thích đám đông, và Cairo dường như lại chính là nơi sản sinh ra cái món
đáng ghét đó.
Con bé ngoảnh đầu lại, một tay đặt lên chiếc túi đeo hông. Nàng au pair Nellie Gomez đang bận mặc cả mấy thứ gia vị dưới con hẻm. Amy chỉ nhìn thấy thấp thoáng mái tóc nửa vàng nửa đen điên khùng của cô nàng.
Chỉ chưa đầy một giờ trước, ba người bọn họ hãy còn đang ở trong taxi đi từ sân bay vào thủ đô Cairo. Rồi khi tay tài xế tình cờ chỉ ra ngoài cửa sổ và nói, “Chợ Khan[2] bắt đầu từ đây, chỗ lắm đấy,” thì Nellie bất ngờ la lên, “Dừng xe lại!” Trước khi kịp hiểu điều gì đang xảy ra, họ đã tấp vào chợ với đống hành lý và chiếc lồng mèo trong tay.Con Saladin phản đối dữ dội còn Nellie thì hứa hẹn, “Chỉ mười phút thôi, chị chỉ cần mười phút, rồi mình sẽ đi thẳng đến khách sạn nhé... Tuyệt! Bạch đậu khấu kìa!” Với Nellie, mọi thành phố mới chẳng qua chỉ là một dịp khác để thưởng thức các món ăn quái đản mà thôi.
[2] Tức Khan el-Khalili, một trung tâm mua sắm nổi tiếng tại thủ đô Cairo, Ai Cập, đặc biệt thu hút khách du lịch đến tham quan.
Cuối cùng, Amy cũng tìm thấy Dan giữa đám đông. Nó đang dán mắt vào ô cửa sổ của một cửa hiệu đầy ắp các món đồ lưu niệm. Con bé có cảm giác thằng em nó bị chiếc gọt bút chì hình vua Tutankhamun[3] mê hoặc, nhưng không chừng nó bị thu hút bởi một chiếc đèn pin có hình một xác ướp.
[3] Tutankhamun còn được gọi tắt là Vua Tut (1343 TCN - 1325 TCN) là pharaoh của Ai Cập cổ đại. Theo ước tính, Tutankhamun đã trị vì từ năm 1334 đến 1325 TCN.
Trong lúc Amy băng qua con hẻm, Dan lại thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng người ngoằn ngoèo di chuyển ngược xuôi. Mặt trời nóng đến ngột ngạt. Con bé chỉ mong tới đây nó sẽ được ở nơi có máy điều hòa nhiệt độ.
Bà khách mặc áo TÔI MUỐN XÁC ƯỚP sà lại gần chỗ Dan. Bà ta đẩy cặp kính râm màu trắng xuống sống mũi. Có một hồi chuông cảnh báo khẽ vang lên trong đầu Amy. Một người đội nón rơm chặn mất tầm nhìn của nó, nên Amy tránh sang một bên.
Bà khách chợt quặp đốt đầu tiên của ngón tay đeo nhẫn như thể đang bị chuột rút. Mặt trời chói chang làm lóe lên một thứ gì đó đang nhô ra khỏi móng tay của bà ta.
“Dan!” Amy thét thật to. Tiếng thét bị tiếng nhạc và tiếng rao hàng - giá năm đô, chỉ có năm đô! - nhấn chìm nghỉm. Con bé phóng qua một người đàn ông đang giữ thăng bằng trên đầu cả tá trái bóng màu phát quang đựng trong một chiếc lưới.
Mũi kim nằm dưới da nhô ra khỏi ngón tay bà ta tựa như móng vuốt. Dan chồm người sát hơn nữa vào cửa sổ...
“Dan!” Amy thét gọi tên thằng em thật lớn. Nhưng từ ngữ chỉ vang lên trong đầu con bé. Tiếng thét phát ra bị nghẹn cứng như âm thanh người hấp hối vì bị siết cổ.
Amy lao thẳng về phía trước. Ngay ở giây cuối cùng, con bé kịp vung tay lên. Mũi kim cắm phập vào cây bút chì Nefertiti và kẹt lại trong đó.
Trong một tích tắc ngắn ngủi, tất cả những gì Amy có thể làm là nhìn chằm chằm vào ánh sáng lóe lên trên mẩu kim loại kia. Một giọt chất lỏng chết người chầm chậm rỏ ra từ đầu kim và mất hút vào mặt đất bụi bặm.
Amy nhìn thẳng vào mặt Irina Spasky. Cựu nhân viên tình báo KGB. Điệp viên. Người họ hàng của nó.
Mắt trái của Irina giật giật. “Blin[4]!” Ả co bàn tay lại, nhưng cây kim vẫn còn kẹt vào chiếc bút chì.
[4] Một từ chửi thề bằng tiếng Nga.
Chủ cửa hiệu hối hả chạy ra. “Hỡi quý cô xinh đẹp, cái đó rất hợp với quý cô đấy. Này, tôi còn rất nhiều bút chì dành cho quý cô nữa đây!”
Irina sửng cồ lên với người bán hàng. “Ta chẳng muốn ba cái thứ bút chì lòe
loẹt của lão đâu, đúng là đồ bán hàng tào lao!”
Amy và Dan chẳng đợi đến giây thứ hai. Dan băng qua đám đông tựa như một trung vệ bóng chày, còn Amy chạy sát theo sau nó.
Những đôi chân guồng hết tốc lực, cả hai chạy thục mạng đến mức phổi của chúng như bốc cháy, băng qua một mê cung chằng chịt những con hẻm ngoằn ngoèo. Cuối cùng, tụi nó ngừng chạy, gập người về phía trước và cố thở lấy hơi. Lúc ngẩng đầu lên, Amy biết rằng chúng đã đi lạc. Lạc một cách tệ hại, ngu ngốc, không thể nào tha thứ được.
“Nellie sẽ tìm chúng ta,” Amy nói. Con bé bật nắp chiếc di động. “Không có sóng ở đây. phải tìm cách quay lại thôi.”
“Và hy vọng hai đứa mình sẽ không tông vào đồng chí Irina,” Dan nói. “Em có thể bỏ qua cái màn đoàn tụ gia đình đó.”
Đến thời điểm này, cả hai đã bắt đầu quen với việc gặp gỡ các thành viên trong gia đình mà trong đầu họ chất đầy tư tưởng phá hoại. Chỉ cách đây vài tuần thôi, chị em nó đã lao đao trước cái chết của bà ngoại. Sau khi cha mẹ chúng mất, Grace trở thành người quan trọng nhất trong đời của hai đứa trẻ. Dù không sống cùng với bà, nhưng cứ mỗi cuối tuần tụi nó vẫn thường đến trang viên của bà ở ngoại ô Boston, và Grace thường dắt chúng theo các chuyến du ngoạn trong năm học cũng như những mùa hè. Cái chết của bà do bệnh ung thư khiến cả hai thấy đau buồn vô hạn.
Nhưng đó chỉ mới là cú sốc đầu tiên trong số rất nhiều cú sốc khác xảy đến sau đó.
Grace đã mời tất cả bốn chi tộc của dòng họ Cahill đến dự buổi đọc chúc thư của bà. Xuất hiện trên một đoạn băng video, Grace đã cho bọn họ một lựa chọn. Hoặc nhận một triệu đôla và bước ra khỏi căn phòng một cách vô sự, hoặc là tham gia vào cuộc truy lùng 39 manh mối để trở thành nhân vật quyền uy nhất thế gian. Mặc dù một triệu đôla dường như đã là một đề nghị quá hấp dẫn, hai chị em nó lại chẳng có lấy một chút phân vân để chối từ. Chúng biết Grace muốn tụi nó chấp nhận cuộc thử thách này. Với Grace,
không hề có cái gọi là phương án dễ dàng.
Quyết định ấy thì dễ đấy. Nhưng thực hiện nó mới thật trần ai. Những ngày tháng trước kia, Amy chỉ nghĩ chơi cho thắng, chỉ là làm sao để không cho con bạn Courtney Catowski nện quả bóng chuyền vào đầu nó. Giờ thì nó đã biết cuộc tranh đua thật sự là thế nào. Những người họ hàng như Irina chẳng hề biết từ một thủ đoạn nào để đạt được mục đích. Nếu buộc phải ra tay, ả sẵn sàng đánh thuốc độc, bắt cóc, thậm chí là giết chết chúng nó.
Cả hai lại bước tiếp. Amy thấy dường như tụi nó đang đi vòng tròn. Như trong giấc mơ, ta cứ chạy và chạy mãi nhưng chẳng đi đến được đâu. Hôm trước, con bé hãy còn ở Seoul, Hàn Quốc. Trước đó nữa, là Tokyo và Venice. Là Vienna và Salzburg của Áo. Là Paris. Là Philadelphia. Thậm chí còn hạ cánh xuống một sân bay tư nhân trên đất Nga.
Chưa bao giờ Amy lại có nhiều
Chưa bao giờ nó hình dung ra mình sẽ sợ hãi đến vậy.
Cũng chưa bao giờ nó hình dung ra mình sẽ quả cảm như thế này.
Mới vài hôm trước khi còn ở Seoul, sém chút nữa hai chị em chúng đã bị chôn sống. Bị bỏ rơi cho đến chết bởi chính những con người mà tụi nó đã tin tưởng. Hai đứa Natalie và Ian Kabra... con bé sẽ không nghĩ về thằng đó nữa. Sẽ không nhớ lại cách thằng nhóc ôm nó trong tay và nói rằng hai đứa sẽ làm thành một liên minh tuyệt vời. Liên minh ấy chỉ tồn tại trong vài giờ đồng hồ, đến khi thằng nhóc tìm thấy cơ hội để bỏ nó lại cho đến chết.
Sẽ. Không. Nghĩ. Về. Ian. Nữa.
Rồi chúng cũng phát hiện ra rằng thành viên duy nhất trong gia đình mà tụi nó gần-như-là-tin-tưởng, ông chú Alistair Oh, cũng đã lừa chúng. Alistair giả vờ là đã chết, trong khi rõ ràng lão vẫn còn sống.
Điều khiến hai đứa trẻ hối hả vượt không phận quốc tế để đến Cairo chỉ là một manh mối, không hơn. Nhưng chúng cũng đã quen với việc bám lấy các
manh mối và tự xoay xở với những gì mình có. Lần này, đó là một hình kim tự tháp và một từ. Từ “Sakhet”. Nữ thần đầu sư tử của người Ai Cập. Trước khi rời khỏi Hàn Quốc, Amy đã tậu vài quyển sách để tìm hiểu về bà ấy, nhưng con bé vẫn chưa biết vì sao chúng lại bị trời xui đất khiến mò đến nơi này... hay chính xác thì chúng đang phải tìm kiếm cái gì.
Amy cảm thấy mồ hôi như đang tuôn ra thành sông dưới chiếc áo thun. Nhiệt độ bên ngoài đã lên đến hơn 30oC. Tóc nó bết chặt vào sau gáy. Con bé lại nghĩ về Ian, kẻ luôn luôn có bộ dạng rất ư là bảnh bao cho dù đang trong bất kỳ tình huống nào.
Sẽ. Không. Nghĩ. Về. Ian. Nữa.
Một bản hợp âm quay cuồng, chát chúa, lạ lẫm của tiếng còi xe, tiếng la hét í ới, tiếng chuông điện thoại, và có ai đó đang hét lên thật to, “Đi nhanh lên, đồ lề mề!”
Chà. Giọng nói đó thì không xa lạ lắm. Chính là tiếng của Dan
“Điệp viên nước Nga ở bên kia đường và đang tìm kiếm mục tiêu đó.” Nó rít lên.
Irina vẫn chưa trông thấy chúng. Ả ta đang mải mê truy tìm dấu vết của chúng. Irina đi lảng vảng ở phía bên kia đường, mắt ngó lom lom vào các ô cửa sổ của mấy cửa hiệu.
Amy lôi Dan vào một quán cà phê. Nhiều người đàn ông đang ngồi uống trà, rầm rì nói chuyện hoặc đang đọc báo. Du khách thì ngồi đọc cẩm nang du lịch bên cạnh những ly nước ép. Khi Amy cố chen qua họ, chiếc balô kềnh càng của con bé quệt vào một quý ông vạm vỡ đang nhâm nhi cốc trà bạc hà. Trà đổ hết vào bộ áo vest trắng tinh của ông.
Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn về phía Amy. Tiếng lạch tạch của ván cờ thỏ cáo đang dang dở cũng khựng lại. Con bé cảm giác mặt mình đỏ bừng lên. Amy rất ghét trở thành tâm điểm của sự chú ý, và nhất là khi vừa làm một
việc gì đó vụng về.
“X-x-in lỗi!” Amy lắp bắp. Cứ hễ căng thẳng là Amy lại mắc tật cà lăm như vậy, và con bé ghét cay ghét đắng điều này. Amy cố thu dọn chỗ ly nước vừa đổ.
“Không sao đâu, bé gái, đừng bận tâm.” Ông khách cười hiền hòa với Amy và vẫy tay gọi người phục vụ. “Chỉ là trà thôi mà.”
Ở trên các bức tường, mấy tấm gương cổ nặng nề phản chiếu tất cả những gì đang xảy ra. Amy nhìn thấy khuôn mặt đỏ bừng và đôi tay đang run lẩy bẩy của chính mình, cả những cặp mắt của những kẻ đang quan sát... và cánh cửa tiệm mở toang. Ngay cả bộ đồ du lịch và cặp kính mát viền nhựa trắng cũng không sao che giấu được cái dáng đi như đánh trận của Irina khi tiến vào quán, như thể ả đang dò xét từng người xem có sai phạm gì không.
Và đúng boong ba giây sau đó, cái nhìn của ả đã chiếu tướng hai chị em nó.
CHƯƠNG 2
NGƯỜI ĐÀN ÔNG TO BÉO ĐỨNG DẬY trong chốc lát che chắn cho cả hai đứa. Dan chộp ngay lấy cơ hội đó. Nó lẻn ra đằng sau một tấm màn dày, lôi Amy theo.
Cả hai nhận thấy tụi nó đang đứng trong một hành lang dẫn tới một cánh cửa ở chái nhà. Chúng bèn lủi ngay ra ngoài.
Giờ thì hai đứa đang ở trong một con hẻm thậm chí còn bé hơn, khúc khuỷu uốn lượn phía sau các cửa hiệu. Chúng biết rằng Irina chẳng mấy chốc sẽ xuất hiện. Chị em nó lách khỏi một chiếc xe bò chất các giỏ hành thành đống cao ngất và khiến cho một người đang yên ngủ dưới ánh mặt trời bị đánh thức dậy. Khi nhìn thấy cửa hậu của một cửa hiệu, chúng lao nhanh qua đó và lọt ngay vào một nhà kho. Một nơi tối om và đầy bụi bặm, Dan bắt đầu thấy khó thở.
“Dùng ống hít đi,” Amy nhắc nó.
“Nó... nằm... trong túi xách tay... của Nellie,” Dan khò khè bật ra từng từ một. Nó ghét cái cảm giác này. Như thể có ai đó đang xoắn hai lá phổi của nó lại. Và điều đó lại hay xảy ra đúng vào những thời điểm tồi tệ nhất.
“Đúng lúc quá nhỉ. Đi nào.”
Amy vội vã dắt Dan ra khỏi nhà kho bụi bặm, đi vào trong cửa hiệu. Nơi đây sáng sủa, thông thoáng, với những bộ áo của vũ công múa bụng sặc sỡ được treo lên trần nhà.
“Xin chào quý khách! Hai cô cậu đang tìm mấy bộ đồ vía đúng không? Tôi sẽ để giá hời cho!”
“Không phải màu tôi thích! Nhưng dù sao cũng cám ơn ông!” Dan vừa chạy
vừa trả lời ông ta.
Xuống một con đường ngoằn ngoèo nữa, rồi lại một con đường khác. Cuối cùng, Amy ra hiệu dừng lại.
“Ta đã cắt đuôi mụ ta rồi.”
“Tạm thời lúc này thôi.” Dan chộp lấy khuỷu tay chị nó. “Amy, nhìn kìa.” Cách đó chỉ vài thước, cả hai thấy một biển hiệu: S A K H E T
Một bức tượng đứng trơ trọi bên trong một cửa kính trang trí bằng tấm rèm đỏ nhìn rất cải lương. Được làm từ đá xanh với một chiếc đầu sư tử, bức tượng đứng thẳng đầy kiêu hãnh.
Dan và Amy đưa mắt nhìn nhau. Không nói một lời, cả hai xông ngay vào bên trong cửa hiệu.
Chúng bước thẳng một mạch đến bên tượng thần Sakhet. Rõ ràng nó đã rất cũ kỹ. Bề mặt tượng mòn lẳn và một tai sư tử đã bị mẻ.
Ông chủ cửa hiệu gầy nhẳng, mặc quần tây đen áo trắng, bộ dạng xởi lởi, ào đến chỗ chúng. “Quý khách thích món hàng đó phải không? Bức tượng này rất đẹp. Hàng xịn, không phải đồ nhái đâu. Trước kia là của chính Napoleon[1] đấy,” ông ta nói liến thoắng. “Cả hai thật có con mắt tinh tường.”
[1] Napoléon Bonaparte, 1789-1821, tướng của Cách mạng Pháp, về sau trở thành nhà cai trị nước Pháp. Ông được biết đến như một trong những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại nhất thế giới, chinh phục rất nhiều vùng đất ở châu Âu.
“Napoleon? Chẳng phải đó là tên một món bánh của Ý sao?” Dan thắc mắc. “Loại có nhân mềm và dinh dính ấy?”
Amy trợn tròn mắt. “Em mới là cái đồ mềm - mà mềm não đó. Napoleon là
hoàng đế nước Pháp. Nhớ ra chưa, ông chính là người đã chinh phục cả thế giới đó? Ta đã thấy ảnh của ông trong căn cứ chi tộc Lucian khi còn ở Paris đấy! Ông ấy cũng là người dòng họ Cahill. Một trong những tổ tiên của chúng ta.”
Chi tộc Lucian của dòng họ Cahill sở hữu một bản năng chiến lược phi thường. Tất nhiên quyền lực của họ sau này đã rúm ró trở thành những trò vặt bẩn thỉu của hai anh em Ian và Natalie Kabra, và cả ả người Nga điên khùng Irina Spasky.
“Nếu ông ấy đã chọn bức tượng Sakhet này thì có thể nó cũng quan trọng nhỉ?” Dan nói.
“Không dễ dàng thế đâu,” Amy trả lời.
“Tại sao không chứ, trong khi mọi thứ khác đều quá phức tạp?” Dan lý sự.
Ông chủ cửa hiệu cao giọng, cố lôi cả hai trở lại cuộc mặc cả. “Tôi thấy hai cô cậu thích nó. Đúng như thế, Napoleon có rất nhiều kho báu. Một số đã được mang về Pháp, số khác còn nằm lại đây.” Ông chạm tay vào bức tượng và vuốt ve nó. “Cha mẹ của hai cô cậu có đi cùng không? Tôi sẽ để lại cho cô cậu với giá tốt nhất. Tôi là chủ cửa hiệu cao cấp ở Cairo này.”
“Không đâu, cám ơn ông.” Dan trả lời. Khi còn ở Mỹ, nó đã là một nhà sưu tầm. Nó thừa biết cách mặc cả tốt nhất đó là giả vờ rằng mình chẳng thèm quan tâm. “Thôi nào, Amy. Mình hãy tìm tiếp đi. Nhưng tại sao Napoleon lại có mấy thứ này ở Ai Cập chứ?”
“Napoleon đã xâm lược Ai Cập năm 1798,” Amy giải thích.
“Chà, cô gái trẻ này rành lịch sử đây. Tôi sẽ cảm thấy tự hào biết bao nếu bức tượng này nằm trong đôi tay tuyệt vời của cô ấy. Gửi cô.” Ông ta trao bức tượng cho Amy.
Cảm giác thật lạ khi chạm tay vào một món gì đó quá cổ xưa. Một thứ mà chính Napoleon đã từng chạm tay vào. Rất đỗi thường xuyên, Amy cảm thấy
run lên vì vui sướng trước ý nghĩ về mối liên hệ máu mủ của mình như một sợi dây gắn với hàng loạt những cá nhân kiệt xuất. Napoleon chẳng hạn!
“Giá chỉ hai ngàn thôi,” ông nói tiếp.
Amy nhảy dựng lên. “Hai ngàn đô ư?”
“Với cô đây thì chỉ một ngàn rưỡi thôi. Có người ở bảo tàng Cairo đã để mắt đến bức tượng và ông ấy sẽ quay lại đây vào lúc bốn giờ.”
“Tôi chả tin đâu, Abdul.”
Amy ngoảnh lại. Nó thấy một người cao dỏng, tóc vàng đang xem hàng ở góc bên kia cửa hiệu. Nó đã không nhận ra khi anh chàng này tiến đến gần. Anh ta chừng ngoài hai mươi. Mặc áo thun, quần soóc kaki, mang xăng đan. Đôi mắt màu xanh lá sống động nổi bật trên làn da rám nắng.
“Trừ phi cái tay đó đang tìm một món trang sức rẻ tiền để trang trí cho móc chìa khóa của hắn,” anh ta nói bằng giọng Anh.
Anh ta lấy bức tượng Sakhet khỏi tay Amy. “Tôi đoán niên đại của nó... có lẽ là từ năm 2007, phải không?”
“Cậu Theo ạ, thật sự là cậu đã lầm rồi,” ông chủ cửa hiệu cười miễn cưỡng. “Đây là đồ thật, tôi cam đoan với cậu.”
“Dẹp vụ bảo đảm sang một bên, tôi cho rằng ông đang cố dụ dỗ hai cô cậu trẻ tuổi này vào một chuyến tàu cổ vật dỏm tốc hành,” anh chàng có tên Theo nói tiếp.
“Ông ấy nói là Napoleon từng sở hữu nó,” Dan nói.
“Có lẽ đúng đấy,” Theo đáp. “Joe Napoleon dưới phố là chủ một nhà hàng Ý rất hoành tráng.”
“Em đã nói với chị Napoleon là người Ý mà,” Dan nói với Amy, giọng kẻ cả.
“Thật ra ông ấy sinh ở đảo Corsica[2],” Theo giải thích. “Hai nhóc muốn xem hết cửa hiệu này không?”
[2] Hoàng đế Napoleon dù là vua nước Pháp nhưng lại là người gốc Ý. Ông sinh tại đảo Corsica, nằm giữa Pháp và Ý.
“Không cần đâu,” Abdul vội vã nói. “Tôi thấy mình không có cái mà hai cô cậu muốn. Có lẽ mọi người sẽ tìm thấy nó ở quầy bên cạnh. Còn bây giờ đã đến giờ tôi dùng trà, do đó...”
Theo bước nhanh qua ông ta, kéo tấm màn dày sang một bên. Trên một chiếc bàn dài, có nhiều người thợ đang hì hụi làm việc. Amy nhón chân lên để nhìn thì ông chủ ra sức ngăn con bé lại. Đám thợ đang dùng bàn chải sắt và giấy nhám để kỳ cọ một loạt các bức tượng giống như tượng thần Sakhet. Họ chà nhám và chải bằng bàn chải để chúng trông như đã cũ.
Abdul nhún vai. “Thôi mà, cũng là vì kế sinh nhai thôi.”
“Chả hại gì ai cả,” Theo nói thêm.
Vừa lúc đó, Dan chộp ngay lấy cánh tay Amy. Irina đang quan sát chúng qua ô cửa sổ, mắt sa sầm lại.
Theo để ý thấy sự cảnh giác của tụi nó. “Là ai đó? Mẹ của hai nhóc ư? “Chỉ là một người đi theo đoàn. Bà ấy cực kỳ kỳ cục,” Amy trả lời.
“Lúc nào bà ta cũng bám theo tụi em,” Dan tiếp lời. “Có đường nào khác để ra khỏi đây không ạ?”
“Có một điều mà hai em nên biết về tôi đây,” Theo nói. “Tôi luôn biết đường thoát.”
Tiếng chuông đồng ngoài cửa reo lên cũng là lúc cả ba lao qua tấm màn che tìm đường tẩu thoát.
Lần này dễ dàng hơn. Hai chị em nó chỉ phải đi theo Theo. Anh chàng di chuyển nhanh nhẹn và thuần thục qua một mê cung hẻm bé xíu. Cuối cùng, cả ba dừng lại nghỉ chân ở cổng vòm dẫn vào khu chợ.
“Tôi nghĩ cả hai giờ đã an toàn,” Theo nói. “Tôi kêu một chiếc taxi chở hai em về khách sạn nhé?”
“Chúng em đã lạc mất chị au pair rồi,” Dan nói. “Chúng em phải tìm chị ấy. Cơ mà ta đang ở đâu thế này?”
“Hãy quay lại nơi xuất phát đi nào. Hai đứa em rời khỏi chị au pair ở đâu?” Amy cau mày. “Ở cạnh nơi bán gia vị phải không nhỉ?”
“Okê, như thế cũng phần nào dễ hình dung hơn. Tụi em còn nhớ gì khác không?”
Dan nhắm mắt. “Một tấm biển màu vàng có viết chữ Ả Rập màu nâu sẫm. Ba hàng giỏ gia vị, các loại quả hạch thì nằm trong đám xô màu xanh lá. Chủ cửa hiệu có râu quai nón và nốt ruồi bên má trái. Cửa hiệu ở kế bên bán trái cây, chủ là một tay gầy tong teo đội nón đỏ, miệng cứ la toáng lên, “Lựu đây, lựu đây!”
Theo nhướng mày ngạc nhiên nhìn Amy. “Lúc nào thằng bé cũng như thế này sao?”
“Vâng, 24 trên 24 giờ ạ.”
Cả hai tiếp tục đi cùng Theo qua chợ, nhưng vẫn cảnh giác Irina. “Anh là người ở đây à?” Amy hỏi lúc họ len lỏi qua đám đông. “Sang Anh học đại học, nhưng quay về và ở luôn từ đó cho đến nay.” “Hẳn là anh thông thạo hết mọi đường sá quanh đây nhỉ?” Amy thăm dò.
“Lúc trước, tôi là hướng dẫn viên du lịch,” Theo đáp. Anh mỉm cười với Amy, và bất giác con bé nhận ra anh chàng này rất chi là ưa nhìn.
Một Nellie với cơn giận bốc khói nghi ngút đang chờ bên ngoài quầy bán gia vị chỗ hai đứa đã bỏ đi. Chiếc túi lưới lèn đầy các gói gia vị treo tòn ten trên cổ tay cô nàng. Túi vải của Dan nằm ở dưới chân Nellie, và túi của cô nàng cộng thêm một túi nylon khổng lồ mượn của lão Alistair chất lên trên cùng. Con Saladin meo meo bức bối ở trong lồng. Nellie sừng sộ lao đến chỗ tụi nó.
“Hai đứa đã đi đâu thế hả? Chị nghĩ hai đứa bị bắt cóc mất rồi chớ!” Bất chợt, Nellie trông thấy Theo. Cô nàng “phanh” miệng ngay tắp lự, đưa mắt ngắm anh chàng hồi lâu, từ mái tóc vàng óng trên đầu cho đến các ngón chân ăn nắng. “Ơ..., x-xin chào Indiana Jones[3],” cô nàng thốt lên, nghe như thể tiếng con Saladin mỗi khi phát hiện ra một miếng phi lê cá hồng trong bát thức ăn của nó.
Từ lúc bị hai đứa bỏ lại, Nellie chỉ còn biết lao vào công cuộc mua và sắm. Choàng ra bên chiếc áo thun đen cô nàng đang mặc là một tấm vải mỏng thơm mùi oải hương quấn quanh người, làm thành một chiếc áo tunic[4]. Phấn kohl[5] màu đen viền quanh mắt, với nhiều sợi cườm quấn quanh cánh tay cô, từ cổ tay lên đến khuỷu tay. Mi mắt cô nàng cũng được trét màu vàng. Nellie trông như vừa thoát khỏi một động hip hop.
“Ôi, xin chào Mary Poppins[6],” anh chàng đáp bằng một cái cười toe toét.
[3] Nhân vật chính, là một tiến sĩ khảo cổ học, trong series phim phiêu lưu hành động ăn khách của Mỹ.
[4] Một loại áo dài thắt ngang lưng không có ống tay, trùm đến tận đầu gối và đôi khi kèm theo dây lưng như trang phục của người Hy Lạpa Mã cổ.
[5] Loại phấn kẻ mắt của người Ả Rập.
[6] Nhân vật chính trong bộ sách “Mary Poppins của tác giả Mary Travers,
có phép thuật và là một vú nuôi.
“Trúng phoóc đó. Tôi trăm phần trăm hợp với cái tên ấy,” Nellie đáp, chìa tay ra cho Theo. “Tôi là Nellie Gomez.”
“Tôi là Theo Cotter.”
Dan tròn mắt ngạc nhiên khi thấy tay Nellie nằm lại trong tay Theo lâu hơn một cái bắt tay thông thường. Có phải Nellie thật tình đang thẹn thùng không nhỉ? Nó không cho là cô nàng biết chữ thẹn viết ra sao.
“Anh Theo đã giúp chúng em khỏi phải mua một món cổ vật vô giá trị vừa mới được chế tác từ hôm qua,” Amy nói.
Theo nhún vai. “Rủi thay, hai đứa em đã lọt vào một trong những cái bẫy tệ hại nhất dành cho du khách quanh đây. Tôi có thể dẫn mọi người đến những nơi đáng tin hơn nếu thích,” anh chàng đáp, mắt vẫn dán vào Nellie.
“Vậy thì quá tuyệt,” Nellie thốt lên, cứ như là Theo vừa đề nghị sẽ dẫn cô nàng đi xem các bí mật của vũ trụ không bằng.
“Em nghĩ ta nên về khách sạn,” Amy nói. Theo có vẻ vô hại đấy, nhưng vì sao chúng nên tin tưởng anh ta chứ? Hơn nữa, cả ba người bọn họ cũng không có thời gian để mà phung phí. Trước khi rời Seoul, họ đã tìm thấy một thẻ khách thường xuyên trong phòng ngủ của Alistair. Dan đã nhét chiếc thẻ vào túi quần và họ đã dùng nó để đặt phòng ở một khách sạn có tên là Excelsior. Amy rất muốn nhận phòng để con bé có thời gian tính toán đường đi nước bước tiếp theo. Tất cả mọi chuyện đang diễn ra quá nhanh.
Theo xách giúp Nellie mấy chiếc túi. “Em ấn tượng về Napoleon phải không?” Anh chàng nói với Amy. “Em có biết khi sang xâ Ai Cập, ông ta cũng mang theo những học giả, những nhà khảo cổ học và cả nghệ sĩ để nghiên cứu về đất nước này không?”
Ái chà, như thế chẳng phải rất là Lucian hay sao, Dan thầm nghĩ.
“Ngôi nhà nơi trước đây các học giả sống nay là một viện bảo tàng. Tôi có quen người giám tuyển[7] ở đó.”
[7] Curator, tiếng Anh, là người quản lý và đứng ra tổ chức các triển lãm, thường thiên về nghệ thuật.
Ái chà, Dan nghĩ. Chị nó chỉ cần nghe được chữ bảo tàng là bắt đầu thèm nhỏ dãi. Làm thế chẳng khác nào dư dứ trước mặt con bé một chiếc bánh sôcôla hạnh nhân với suất đúp kem vậy.
“Nó ở gần đây không ạ?” Amy háo hức hỏi. Có lẽ nó nên nghĩ lại. Nếu như ngôi nhà ấy vẫn còn, biết đâu chúng sẽ tìm thấy thứ gì đó có thể dẫn đến một manh mối.
“Ở Cairo này thì chẳng có nơi nào là quá xa cả,” Theo đáp. “Đó là tòa nhà Sennari. Ở ngay trên đường Haret Monge.”
“Phải rồi. Chúng em biết mà,” Dan nói.
“Thế nhé, tôi sẽ đón một chiếc taxi.”
Theo quay người và dẫn cả ba đến một con phố trung tâm đông đúc. Nếu con phố rộng rinh này có các làn đường thì Dan cũng không sao nhìn thấy chúng được. Xe cộ cứ chen lúc nhúc vào các khoảng không bé xíu, cắt ngang đầu các xe tải chở hàng, hoặc tăng tốc vọt nhanh khi có đèn đỏ, bám sát theo đuôi xe buýt, tất cả làm thành một bản giao hưởng của tiếng còi xe và tiếng la hét. Amy, Dan và Nellie đưa mắt nhìn nhau. Họ không tưởng tượng được làm thế nào để tìm một chiếc taxi ngay giữa cái đám bát nháo này.
Theo điềm tĩnh bước ra ngoài đường, giơ một tay lên, và thế là một chiếc taxi tấp ngay vào lề.
“Hai đứa thấy chưa?” Nellie ngạc nhiên. “Anh chàng này đích thị là Indiana Jones.”
CHƯƠNG 3
KHI HỌ ĐẶT CHÂN ĐẾN TÒA NHÀ SENNARI, Theo quẳng một nắm tiền giấy cho tay tài xế và nói vài từ bằng tiếng Ả Rập. “Baksheesh,” người tài xế nói với chúng.
“Gesundheit[1],” Dan nói.
[1] “Chúc ông sức khỏe”, tiếng Đức.
Theo cười toe toét. “Không phải, Baksheesh nghĩa là tiền boa. Giờ thì ông ta sẽ chờ chúng ta.”
Theo đi lên phía trước sánh bước cùng Nellie, còn Dan quay sang Amy.
“Không phải em không hào hứng với cái vụ lại tiếp tục lê chân vào một bảo tàng, nhưng mà thật sự thì mình đang kiếm gì vậy?”
“Chị cũng không biết,” Amy thừa nhận.
“Sự liên hệ với Napoleon dường như hơi bị... ừm... phiêu đấy nhỉ!”
“Chị hiểu. Nó không rõ ràng cho lắm. Nhưng chúng ta cũng chẳng có gì nhiều để xem xét hồi ở Philadelphia, Paris, Vienna, Salzburg, Venice, Tokyo và cả ở Seoul nữa. Thế mà chúng ta vẫn cố xoay xở tìm ra các manh mối đấy thôi. Hai đứa mình đều biết Napoleon là một Lucian. Chúng ta cho rằng ở Ai Cập sẽ có một manh mối. Do vậy nếu ông ấy đã tìm ra nó, hay tìm thấy một cái gì đó, hẳn là ông ấy đã để lại đây một gợi ý nào đó cho những người nhà Lucian khác.” color="black">
“Sẽ rất hay ho nếu cuỗm một cái gì đó ngay trước mũi đồng chí Irina đấy,” Dan khẳng định.
Theo nằng nặc đòi mua vé cho cả nhóm. Họ đi qua một cánh cửa nhỏ dẫn vào
một khoảnh sân. Những cây chà là nhỏ và những bụi cây nở hoa đỏ dù không tạo ra đủ bóng râm vẫn cho ta cảm giác mát mẻ. Ngay ở chính giữa sân là một đài phun nước.
“Tòa nhà Sennari được xây năm 1794,” Theo thuyết minh cho mọi người. “Đây là một điển hình cho kiến trúc xây dựng Hồi giáo bản địa, được xây xung quanh một khoảnh sân ở trung tâm, gọi là sahn. Tôi tin rằng nơi đây có một trong những cửa sổ mashrabeya đẹp vào bậc nhất Cairo.”
“Đó chính là các tấm gỗ điêu khắc trên cửa sổ,” Amy chỉ tay giải thích.
“Chính các học giả của Napoleon đã khai sinh ra ngành Ai Cập học ở phương Tây,” Theo tiếp tục. “Khi các công trình của họ được công bố, nó đã tạo ra một cơn sốt trên khắp châu Âu về tất cả những thứ của người Ai Cập.”
“Thật là thú vị,” Nellie nói.
“Em cũng hồi hộp đây nè,” Dan nói chen vào. Nellie giẫm ngay lên chân nó.
“Ngày trước họ đã tổ chức một triển lãm cố định bộ sưu tập của Napoleon, nhưng đến năm 1926 họ đã dọn đi,” Theo nói tiếp. “Tòa nhà đã được cải tạo vào những năm 1990. Hiện nay ở đây người ta vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật dệt và gốm sứ.”
Dan nắm vạt áo Amy khiến con bé không thể bám theo Theo và Nellie trong khi họ dời đi. Nếu nó không dừng Amy lại, chị nó sẽ dành ra hàng giờ liền trong một cái thư viện cũ kỹ, đầy bụi bặm cốt chỉ để nhồi vào đầu những thông tin hoàn toàn vô bổ.
“Này, chúng ta còn việc phải làm đó,” nó nói với Amy. “Chúng ta nên bắt đầu từ đâu nào?”
“Chị đoán là chỉ cần đi rảo một vòng quan sát những gì có vẻ vẫn là nguyên bản của tòa nhà
“Okê, chưa hoàn toàn là một kế hoạch, nhưng dẫu sao vẫn là một kế hoạch.”
Hai đứa đi khám phá toàn bộ tòa nhà, nhưng rất khó biết được đâu là chỗ vẫn còn nguyên vẹn và đâu là nơi đã được trùng tu hay tái thiết. Cuối cùng, tụi nó tìm thấy một cầu thang bằng đá cũ kỹ dẫn ngược trở lại khoảnh sân.
“Tất cả bọn chi Lucian đều là những gã Napoleon loắt choắt,” Dan làu bàu. “Hãy nhìn Ian và Natalie xem. Chỉ là hai đứa nhóc giàu có láu cá. Còn đồng chí Irina? Lại một ả khôn lỏi có con mắt bị giật giật. Napoleon ư? Hẳn cũng lại là một tay khôn lỏi có trong tay một đạo quân.”
“Xin cảm ơn giáo sư đã có một bài giảng khai nhãn về chiến tranh Napoleon,” Amy mỉa mai. “Hãy nhìn các hình điêu khắc ở kia xem! Theo nói đúng đấy. Những tấm bình phong thật tuyệt vời. Và hãy nhìn các viên gạch lát lộng lẫy ở đây nữa này,” Amy vừa nói vừa lướt bàn tay dọc theo bức tường.
“Nghe hệt như Ian Kabra. Chị có nhớ hồi thằng đó nói hắn thích khung cửa sổ nhà ông Alistair không?” Mặt Amy lập tức sa sầm lại. Chậc, thằng nhóc đã nhắc đến cái tên ấy. Mỗi lần nó bật ra cái tên này, Amy lại có bộ mặt bí xị kiểu hu hu, con chuột hamster nhà tui chết rồi. Thật ngạc nhiên là một con bé mười bốn tuổi chỉ hơi bất bình thường đôi chút lại mê tít một gã dị hợm thứ thiệt. Dan nghĩ - à, nó hy vọng thì đúng hơn - là chị mình phải ngon lành hơn thế chứ.
Bộ mặt thảm não của Amy bỗng chuyển sang vẻ ngạc nhiên. Con bé chỉ vào một viên gạch. “Nhìn xem nó quen không này?”
Dan ngồi xổm xuống. “Đây là gia huy của chi Lucian!” Gia huy được ẩn vào bên trong họa tiết, nhưng nó vẫn nhận ra được. “Chỉ có duy nhất viên này thôi.”
“Chắc hẳn phải có manh mối nào ở đây!” Amy nói vẻ phấn khích. “Có lẽ bên dưới nó có gì đó.” Con bé thử ấn vào hình gia huy, rồi ấn vào bốn góc.
“Nó đã nằm đây hơn hai trăm năm rồi,” Dan nói. “Chắc là nó cần đôi chút giúp đỡ.” Thằng bé rút trong túi ra một con dao bấm. Rồi nó nhét lưỡi dao
vào mép vữa viên gạch. “Nếu em có thể...”
“Dan! Mình đang ở trong một bảo tàng đấy!”
“Tàng thì tàng chớ.”
“Lỡ người ta thấy thì sao!”
“Thì tốt nhất là chị đi canh chừng đi,” Dan làu bàu ấn con dao vào sâu hơn bên trong. Nó có cảm giác viên gạch đang lỏng dần ra. Thằng nhóc cũng nghe tiếng bước chân của Amy lẹt quẹt rời đi. Chị nó thật biết tuân theo luật lệ. Đôi khi như thế được việc ra phết.
Nó ấn con dao vào sâu hơn nữa và cạy viên gạch ra ngoài. Cuối cùng nó đã nhét được ngón tay ra đằng sau một kẽ hở. Dan cẩn trọng kéo nó ra. Viên gạch rơi ra ngoài, thẳng vào tay nó. Phía sau bức tường giờ đây là một cái lỗ hẹp. Dan cho tay vào bên trong, mong sao ngón tay của nó không vớ phải một con côn trùng Ai Cập đáng sợ nào đó đang ngoe nguẩy thay vì một manh mối.
Nhưng ngón tay nó lại chạm vào một vật gì đó trơn láng có hình tròn. Nó rút ra một chiếc ống nhỏ bằng da.
“Mày nghĩ mày đang làm cái gì thế hả?”
Một tiếng rống vang lên làm Dan suýt nữa đánh rơi chiếc ống. Khi một người đàn ông Ai Cập mặc vest xám từ dưới cầu thang bước lên quát to với nó, Dan giấu chiếc ống ra sau lưng. Dáng đi của gã phục phịch, nên có lẽ cũng chẳng lấy gì làm hào hứng khi trèo đến chỗ Dan. Nhưng xem chừng gã ta là một nhân viên trong bảo tàng. Và gã đang cầm trong tay một món bộ đàm gì đó có thể gọi cánh bảo vệ đần độn ùa đến trong tích tắc.
Bà chị canh chừng mới tuyệt làm sao, bà chị ạ.
Thằng bé nghe tiếng chân Amy hối hả sau lưng nó trên các bậc thang. “Ơ, c c-ca...” nó nghe tiếng chị mình lắp bắp. Cũng như mọi lần, não của Amy bị
đóng băng mỗi khi trông thấy bóng dáng người thi hành công vụ.
Nhưng Dan đã bắt đầu quen với việc gặp gỡ với đám người lớn cáu kỉnh. Bắt đầu là từ áo dạy mầm non của nó, cô Woolsey, và tiếp tục với các gia sư, rồi giáo viên mỹ thuật (hãy yêu quý tấm áp phích vẽ tay kia!), rồi thì hiệu trưởng, sở phòng cháy chữa cháy Boston. Gã này cũng dễ như bỡn thôi mà.
Thế rồi Dan sực nhớ nó đang ở một quốc gia khác. Nơi đó có nhà tù. Có khi nào họ quẳng một đứa nhóc 11 tuổi vào tù ở Ai Cập không nhỉ?
Gã ta nheo mắt. “Mày giấu vật gì đằng sau lưng đó?”
“Dạ thưa chú, cái này rơi từ bức tường ra ạ.” Dan giơ viên gạch lên bằng một tay. Sau lưng, trong tay nó vẫn đang cầm chiếc ống.
“Những viên gạch này là nguyên gốc của tòa nhà này đấy! Chúng rất dễ vỡ!”
“Đó chính là điều cháu muốn nói,” Dan đáp lại vẻ rất hợp lý. Nó an tâm khi cảm thấy Amy đã chộp được chiếc ống. “Viên gạch này đã rơi xuống.” Dan vẫn giơ nó lên. “Chú muốn lấy nó không?”
“Chàng trai à, cậu dám...”
Dan tung viên gạch lên không trung.
Nó có đủ thời gian để khâm phục sự kiên quyết đến kinh ngạc của tay bảo vệ khi gã lao về phía trước để tóm lấy viên gạch, với vẻ mặt đầy hoảng hốt. Rồi nó trèo lên các bậc thang, bám sau Amy.
“Chị thấy gã ta không?” Dan thở hổn hển. “Tay này chơi cánh phải cho đội Red Sox được đó!”
“Ước gì,” Amy nói không ra hơi, “em đừng có... ném ba cái... đồ ăn trộm như thế!”
Hai đứa nghe tiếng bước chân nện thình thịch phía sau khi những tay bảo vệ
khác đã gia nhập cuộc rượt đuổi. Cả hai vội vã rẽ sang phải và phi thật nhanh xuống một hành lang hẹp. Dan lẻn một căn phòng nhỏ, ném bình phong ra phía sau lưng và trèo ra ngoài lan can.
“Không cao lắm đâu chị,” Dan bảo Amy. “Với lại, chị cũng nên thạo ngón nghề này đi.”
“Chị chẳng muốn thạo món này tẹo nào,” Amy nghiến răng, thò một chân ra ngoài lan can. “Chị muốn mình giỏi cái khoản nghiên cứu trong thư viện kia.” Con bé đưa nốt chân còn lại qua. “Rồi trượt băng.” Amy hạ người xuống thấp, vẫn còn bám vào lan can, mắt nhắm nghiền. “Làm bánh sôcôla nữa...”
“Thả tay ra nào!” Dan hét to, và Amy thả ra. Tiếp theo là Dan.
Nó cảm nhận được nền đá trong sân rung lên lan đến tận xương mắt cá. Dan không nghĩ nó lại đau... đến như thế. Amy thì ngã nhào và lăn lông lốc trên đất. Con bé nhìn nó đầy vẻ sợ sệt. Dan gật đầu ra hiệu cho Amy biết nó vẫn ổn.
Có ai đó la hét bằng tiếng Ả Rập phía trên đầu chúng. Dan không cần tới phiên dịch. Chắc chắn là gã này không lấy gì làm vui vẻ rồi.
“Hai đứa em đang làm gì dưới đó thế?” Nellie lao ra từ một căn phòng dẫn xuống khoảnh sân. “Và bọn em có thấy nhà vệ sinh nữ ở đâu không?”
Không thốt lên lời, hai đứa trẻ lao về phía Nellie, vòng tay ôm lấy người cô và lôi cô nàng ra cửa chính.
Những gã bảo vệ đã ra đến sân và bắt đầu rượt theo chúng.
“Ôi trời ạ, đừng nói với chị là lại như thế nữa chứ. Đừng làm thế nữa!” Nellie rên rỉ.
“La rầy gì đó thì để sau đi. Giờ hãy chạy mau!”
“Xin lỗi các vị! Chúng tôi yêu đất nước xinh đẹp của các vị lắm!” Nellie la lên.
Cả ba băng qua cửa chính trong khi tiếng la hét vang khắp khoảnh sân phía sau lưng chúng. Chiếc taxi vẫn đang chờ, thế là họ nhảy ngay vào trong xe.
“Đi đâu?” tài xế hỏi trong khi khởi động x
“Cứ chạy đi, đi nào!” Nellie la to.
“Đi, đi, đi” tài xế hét lên giọng đầy vui sướng, ấn ga và làm cho cả ba bắn vọt lên như sắp sửa xuyên qua nóc xe. “Tôi yêu người Mỹ quá đi mất!”
CHƯƠNG 4
NGAY LÚC CHIẾC TAXI hòa vào dòng xe cộ cuồn cuộn trên phố chính và tụi nó đoan chắc không còn ai đuổi theo chúng, Nellie nói cho tài xế biết tên khách sạn. Rồi cô lại ngả người trên ghế và thở dài nuối tiếc.
“Hai đứa tụi em thiếu nợ chị, nợ to đấy. Chị vừa bỏ lại một anh bạn tâm giao dài cổ chờ chị từ nhà vệ sinh nữ quay lại.”
“Chị yên tâm,” Dan nói. “Chị sẽ luôn có món đậu khúc.”
“Đậu khấu,” Nellie chỉnh lại.
“Sẽ đền bù cho chị mà,” Amy nói. “Nhưng chúng em cũng tìm thấy một thứ.”
Amy lấy chiếc ống ra. Nó vặn các khớp nối cũ kỹ đã mòn lẳn và mở phần nắp ra. Chúi ngược chiếc ống xuống, con bé lắc nhẹ. Cả ba ngạc nhiên khi trông thấy một mảnh giấy da cuộn tròn từ trong ống rơi vào lòng bàn tay Amy.
Đó là một mảnh giấy khô queo, các góc đã giòn rụm. Nó mỏng manh đến nỗi Amy thậm chí còn không dám phả hơi thở của mình lên đó.
“Em nghĩ đây là một lá thư cổ xưa,” con bé nói. “Hay ít nhất cũng là một phần của một lá thư.” Amy chầm chậm mở nó ra.
Dan làu bàu. “Đừng là tiếng Pháp nữa đấy!”
“Chị có dịch được không?” Amy hỏi Nellie.
“Nhân danh vinh quanh lừng lẫy của hậu duệ Luke và Hoàng đế, manh mối hiện đang trên đường về đến cung điện củ...” Nellie dừng lại, hạ cặp kính râm xuống để nhìn rõ hơn. “‘...du la Paris’?” Của Paris à? Không phải. Trừ trường hợp L là chữ viết tắt của tên ai đó.
“Vậy L là ai nhỉ?” Dan tự hỏi.
“Chà chà, có hằng hà sa số những ông vua nước Pháp có tên Louis,” Nellie nói. “Một ông bị xử trảm, nhưng ông ấy có một cung điện tên là Versailles[1].”
[1] Tức vua Louis XVI (1754 - 1793).
“Gì thì gì, đã có một manh mối được người của chi Lucian chuyển đến một tòa lâu đài nào đó,” Amy nói. “Nhưng em cũng đang thắc mắc B.D là người nào.” Con bé thở dài. “Ban nãy em cứ hy vọng đây là một thông điệp từ Napoleon kia đấy.”
“Như thế có nghĩa là manh mối của chúng ta hiện đang ở Paris sao?” Dan tự hỏi.
Amy cẩn thận đặt mảnh giấy vào túi đeo hông. “Nếu chúng ta tiếp tục tìm
kiếm, chẳng sớm thì muộn sẽ hiểu ra thôi.”
Quá chuyên tâm vào lá thư đến nỗi cả ba không hề biết từ khi nào chiếc taxi đã tách khỏi con phố chính và rẽ vào một khu vực yên tĩnh hơn. Những cây cọ xếp hàng dài chạy dọc theo hai bên đại lộ. Hoa giấy rộ nở những sắc tím sắc hồng. “Ái chà chà,” Nellie thốt lên, cô nàng hạ một bên cửa sổ xuống và thò đầu ra ngoài để hít thở không khí. “Chị ngửi có mùi người giàu ở đây.”
Chiếc taxi rẽ vào một lối dành cho xe chạy vào nhà, dài ngoằn ngoèo. Khách sạn hiện ra trước mắt trong sự kinh ngạc của Amy và Nellie, còn Dan mừng rỡ reo to, “Tuyệt cú mèo!”
Đó là một tòa biệt thự màu trắng trông thật nguy nga. Những bãi cỏ xanh um trải dài đến tận mặt tiền. Một cặp vợ chồng trong bộ áo choàng bông chầm chậm đi qua một sân nằm ở bên hông tòa nhà để đến hồ bơi màu xanh ngọc bích. Cậu bé gác hồ chạy theo mời cả hai vào lều thay đồ. Đám bồi bàn thoăn thoắt đi qua những chiếc ghế, tay giữ thăng bằng các khay đựng thức uống. Phía bên kia dòng sông Nile, nổi bật giữa khoảng không màu vàng là hình dáng của ba kim tự tháp Giza hùng vĩ, trông tựa như một giấc mơ.
Nellie huýt sáo. “Đây đích xác là lối sống mà chị đã sẵn sàng thích nghi.” “Làm sao ta trả tiền nổi chứ?” Amy e ngại.
“Chúng ta vẫn còn có tiền của bọn Kabra,” Nellie nói. “Mà giờ nó đã hoàn toàn thuộc về tay chúng ta. Tiền chúng ta kiếm ra mà.”
“Đúng thế,” Amy đáp, tâm trí nó hồi tưởng lại trò lừa đảo của Ian. Ngay từ đầu, ông McIntyre, luật sư riêng của Grace, đã nhắc chúng chớ có tin ai. Lẽ ra con bé không bao giờ được quên điều đó. Ấy thế mà nó đã nhìn vào đôi mắt đen sẫm của Ian, đã mê mệt những lời thằng nhóc nói ra. Ngu ngốc, rất ngu ngốc Amy à. Con bé không gặp khó khăn gì với bài học ở trường. Nhưng mỗi khi đụng đến cảm xúc trong đời thật, Amy chỉ được điểm 1.
“Dù sao chúng ta cũng sẽ nhanh chóng tiêu hết tiền ở một chốn như thế này thôi,” Nellie nói. “Có lẽ nên tìm thử một khách sạn khác đi.”
Nhưng chiếc taxi đã dừng lại. Một viên gác cổng ăn mặc lòe loẹt lao đến mở cửa xe. Có thêm một người khác đến lấy hành lý. Trước khi kịp ngăn họ lại thì cả ba đã được mời ra khỏi xe và tay tài xế đã quay trở lại lối dành cho ôtô.
Người gác cổng treo đám balô cũ sờn, giỏ xách tả tơi của cả ba lên xe đẩy cứ như thể chúng là những hành lý sang trọng. Cũng chẳng ai thèm liếc nhìn những chiếc áo thun và quần jeans nhàu nát của bọn họ lấy một cái.
đến khách sạn Excelsior,” người gác cổng đầu tiên lên tiếng. “Xin hãy theo tôi.”
Cả ba đi theo, vừa đi Nellie vừa làm gọn tóc tai lại, Amy thì cho áo vào quần, còn Dan cố chộp lấy chiếc balô đang để trên xe đẩy.
Lại có thêm những nụ cười thật tươi từ nhân viên quầy tiếp tân. Một quý ông lịch lãm, vóc dáng gọn gàng vẫy tay chào cả ba. “Chào mừng quý khách đến khách sạn Excelsior. Xin phép cho tôi biết quý danh của các vị?”
“Ơ...,” Nellie lúng búng.
“Oh...,” Dan nói.
“Thưa, Oh sao?”
“Oh,” Dan khẳng định.
“Rất tiếc, chúng tôi không thấy tên quý vị trong danh sách đặt phòng,” người đàn ông kiểm tra trên máy tính. “Tôi có thể giới thiệu với quý vị nhiều khách sạn khác... Xin thứ lỗi,” anh ta nói trong lúc chuông điện thoại reo. Sau khi nghe điện thoại một lúc, dáng người của anh càng lúc càng nghiêm trang. Rồi anh ta quay sang nhìn cả bọn, nhún vai, đoạn nói khẽ vào ống nghe: “Ồ, tất nhiên rồi thưa ngài. Tôi sẽ thu xếp ngay đây ạ.” Gác ống nghe, anh quay trở lại màn hình máy tính. “Họ Oh. Chắc chắn rồi. Ông Oh đã đặt phòng. Chúng tôi đã dành sẵn phòng cao cấp Aswan, như mọi khi, cho quý vị.”
“Phòng cao cấp sao?” Amy thốt lên.
“Tất nhiên với giá đã giảm chỉ dành cho người trong gia đình như mọi khi, thưa cô,” anh ta nói thêm. Rồi sau đó đẩy tờ đăng ký cho Nellie. “Xin quý cô vui lòng ký tên vào.”
Amy liếc nhìn giá phòng. Ngạc nhiên làm sao, giá chẳng cao hơn một khách sạn rẻ tiền ở Paris là bao. Nellie ký vào và người tiếp tân trao cho họ ba thẻ chìa khóa.
Anh dướn người lên để rung chuông báo.
“Nhân viên sẽ dẫn quý vị lên lầu.”
“Giảm giá cho người trong gia đình là sao?” Amy kêu lên vì ngạc nhiên. “Chúng ta là người nhà mà,” Dan phân tích. “Trên lý thuyết là như vậy.”
“Thì ra cái dòng họ Cahill điên khùng của mấy đứa thực sự có mặt ở khắp quả địa cầu này,” Nellie vừa nói vừa chiêm ngưỡng mấy chậu hoa khổng lồ với những cành nở đầy hoa. “Vậy trên lý thuyết, hai đứa có gia đình ở khắp mọi nơi. Cứ nghĩ đến tất cả các khách sạn năm sao mà chúng ta có thể lẻn vào, chỉ cần có tấm thẻ khách thường xuyên thôi...”
“Suỵt,” Amy ra hiệu cho Nellie ngưng nói khi tất cả bước vào thang máy. Người nhân viên quét thẻ vào một cái khe, rồi ấn số mười ba.
Cửa thang máy mở, anh ta dắt họ vào tiếp một hành lang. Chỉ có một cánh cửa duy nhất.
“Còn những căn phòng khác ở đâu?” Nellie thắc mắc.
“Phòng cao cấp nằm trọn một tầng, thưa cô,” người nhân viên trả lời. “Tôi cho là mọi người sẽ thích nó lắm.” Anh ta lại quét thẻ qua một cái khe. “Cả quý vị cũng phải quét thẻ nữa. Vì chỉ có quý vị được ra vào tầng này mà thôi.”
Anh ta mở cửa ra, và cả ba cùng há hốc miệng vì kinh ngạc. Những cánh cửa kính kéo dài từ sàn nhà lên đến trần cho thấy toàn bộ quang cảnh của dòng sông Nile và quần thể kim tự tháp Giza ở phía xa. Họ đang đứng trong một phòng khách có đầy đủ ghế bành, hai chiếc sofa, một khu vực để dùng bữa và một bàn giấy. Khi người nhân viên mở cửa phòng ngủ thì Dan gần như nhảy múa ngay sau lưng anh ta.
“Chúng ta có những ba phòng tắm!” thằng nhóc phấn khích reo lên.
Nellie thò tay vào túi xách lấy tiền boa và anh nhân viên tươi cười trở lui, nhẹ nhàng khép cửa phòng lại. Ngay khi anh ta vừa đi khỏi, Amy đã thả người xuống một chiếc ghế bành, Nellie thì hất văng đôi giày đang đi, còn Dan lao thẳng lên chiếc sofa. Cả ba đồng thanh reo lên điệp khúc “Bá chấyyyyy!”
Nellie thả con Saladin ra khỏi lồng. “Chào mừng Sally đến với cuộc sống thượng lưu,” cô hôn vào đỉnh đầu bóng mượt của nó. Saladin lượn lờ xung quanh phòng, mũi khịt khịt đánh hơi, nhảy tót lên chiếc bàn giấy, duỗi thẳng người ra phía sau ghế sofa, nhảy lên chiếc gối to nhất và mềm mại nhất, cuộn tròn lại, nheo mắt với mọi người như muốn nói, Tôi cũng sẽ quen với cuộc sống này thôi.
Dan nhảy khỏi sofa và sục sạo khắp căn phòng, điểm danh từng món đồ với hai bà chị Amy và Nellie. “Bàn này có đủ đồ văn phòng phẩm nha! Còn đây là quyển sổ hướng dẫn! Kìa, đằng kia có một cái dù trong tủ quần áo!” Nó thơ thẩn trở vào phòng ngủ, lặn vào trong tủ quần áo, rồi bước ra trong cái áo choàng vải bông dài quá khổ, vạt áo kéo lê phía sau lưng. Dan mở chiếc ngăn kéo nằm ở cạnh giường. “Một quyển kinh thánh!” Nó đóng tủ lại và lục lọi bên dưới mấy cái gối.
Nellie và Amy theo Dan vào phòng ngủ.
“Em đang tìm cái gì vậy nhóc?” Amy hỏi. “Tiên răng[2] chăng?”
[2] Tooth fairy là một huyền thoại về bà tiên răng sẽ cho trẻ con tiền hoặc quà để đổi lại những chiếc răng sữa khi chúng thay răng. Trẻ thường bỏ răng
sữa rụng dưới gối vào ban đêm, và tin rằng bà tiên răng sẽ đến lấy răng rồi để lại tiền hoặc quà trong lúc chúng đang ngủ.
“Sôcôla. Trong mấy khách sạn sang trọng bọn họ không để lại sôcôla dưới gối sao?”
Nellie bật cười khúc khích. “Không phải ở dưới. Mà là ở trên gối, sau khi người ta chỉnh trang lại drap giường trước khi chúng ta đi ngủ.
Nó biến vào nhà tắm. “Mấy chị phải xem hết chỗ dầu gội này!” Dan lại thò đầu ra ngoài. “Em biết bọn con gái khoáiiii dầu gội lắm.” Nó nháy mắt với hai bà chị. Amy ném một chiếc gối vào thằng nhóc.
Dan né được chiếc gối và nhảy trở lại phòng khách. “Ê, lùi ra nha. Em vừa tìm thấy một quầy bar mini này!” nó reo lên vui sướng.
Nellie vươn vai. “Chà, chị sẽ vào bồn tắm, pha vào đó chừng dăm lít nước tắm tạo bọt, và chỉ khi nào thức ăn được mang lên mới chui ra đấy.”
“Thức ăn nào?”
“Thức ăn mà hai đứa sắp sửa gọi phục vụ mang lên,” Nellie đáp. “Đừng để Dan lục lọi gì quầy bar mini nhé, kẻo chúng ta sẽ nếm mùi cháy túi trong tích tắc.” Nellie vào tủ lấy áo choàng và nhét headphone vào tai. “Cứ gọi món thoải mái đi hai đứa, chị cũng đói lả rồi đó,” Nellie hét to quá mức, không có gì lạ khi nhạc từ chiếc iPod đang đập xình xịch vào tai cô nàng. Nellie uốn éo những ngón tay mô phỏng một cơn sóng rồi đóng cửa phòng tắm lại. Amy nghe thấy tiếng vòi nước xả hết cỡ.
Con bé trở vào phòng khách. Dan đang nhai nhóp nhép một thanh kẹo trong khi ngồi đối diện với cánh cửa duy nhất còn đóng. Nó đã lục lọi xong hết tất cả những cái tủ.
“Nè Dan, chị Nellie nói không được lục lọi quầy bar. Thứ đó rất đă...” Chợt Amy thấy Dan đang đứng yên như trời trồng, nhìn từ đầu bên này sang đầu bên kia căn phòng. Thậm chí miệng nó cũng không còn nhóp nhép nữa.
“Cái gì vậy, ngốc? Đó chỉ là một cánh cửa. C-Ử-A.”
“Có phải anh nhân viên đã nói tầng này chỉ có duy nhất phòng mình thôi sao?” Dan nói. “Okê, chỗ này rộng thênh rộng thang thật đấy, nhưng cũng không thể chiếm hết không gian của một tầng được. Chúng ta đang ở mạn phía Đông khách sạn. Mạn này có đến bảy cửa sổ, nhưng phòng chúng ta chỉ mới có bốn mà thôi.”
Amy không màng thắc mắc tại sao Dan lại phát hiện ra điều này. Đứa em điên khùng của nó có một chiếc máy vi tính được cài trong não.
Thế nên khi thằng nhóc tiến về chỗ cánh cửa, bộ dạng lố bịch trong chiếc áo choàng dài quá cỡ, Amy cũng không phản ứng gì. Dan quỳ gối trước cánh cửa. Trên đó có một miếng đồng trang trí với một lỗ khóa kiểu cổ.
“Chị nhìn lỗ khóa xem. Không thấy quen sao?” Dan hỏi Amy.
“Không.” Amy cúi xuống xem xét thật kỹ. Phải mất một lúc lâu, rồi nó lên tiếng. “Đây chính là biểu tượng của chi Ekaterina. Hình thù quái gở giống một con rồng có cánh.”
“Tại sao lại có lỗ khóa ở đây, khi mà cả nơi này sử dụng thẻ từ? Chắc chắn là có một chìa khóa hay ho nào đó tra vừa vào chỗ này,” Dan nói. Nó đảo mắt ngó quanh. “Ở đâu nhỉ?”
“Em nghĩ chìa khóa ở đây sao? Ở ngay trong căn phòng này á?”
Chợt Dan bật dậy. “Này Amy, chị có nhớ tất cả những thứ chán òm mà chị đã đọc cho em nghe lúc trên máy bay không? Lượng mưa hàng năm của Cairo là bao nhiêu?”
“2,5 centimet,” Amy trả lời. “Và hầu hết xảy ra khoảng từ tháng mười hai đến tháng ba.”
“Vậy tại sao,” Dan chỉ về phía cái tủ, “lại có một chiếc dù đặt trong tủ?” Nó
chạy lại lấy chiếc dù ra.
“Em đã nghĩ cán dù cũng phải có thứ gì đó thiết kế của người Ai Cập,” nó cho Amy xem chiếc dù. “Nhưng chị nhìn xem...” Thằng nhóc vặn cán dù và vật đó rời ra trong tay nó. Amy nhìn những đường chạm khắc trên chiếc cán. Chúng giống hệt với tấm bảng đồng trên cửa. Và ở cuối cán được đúc hệt như một chiếc chìa khóa.
Dan trườn ra khỏi cái áo choàng. Nó cầm chiếc cán dù và tra vào lỗ khóa. Vật đó trượt vào một cách dễ dàng. Dan nhìn Amy. Con bé gật đầu.
Nó xoay nắm cửa, và cánh cửa mở toang ra.
Chầm chậm, cả hai bước vào bên trong.
Những tủ kính bằng thủy tinh plexi xếp thành hàng nối tiếp nhau dọc theo một phòng trưng bày vừa dài vừa rộng. Một dãy mái vòm nối tiếp các phòng trưng bày, cái nọ nối tiếp cái kia. Cả hai nhìn thấy những loại máy móc và các bản thiết kế vô cùng tinh xảo. Những bản vẽ đóng khung, các bức ảnh, tấm bản đồ, những bức chân dung của nhà thiết kế, những dòng chữ được khắc vào tường. Khi chúng bước qua bậu cửa thì đèn trên trần đồng loạt bật sáng. Các món đồ trong tủ kính bắt đầu chuyển động xoay tròn. Những bức ảnh nổi ba chiều thình lình hiện ra và cũng bắt đầu xoay.
Trong một tủ kính, có một bài báo được đóng bìa cẩn thận cũng đang xoay.
“Chính là món burrito nấu bằng lò vi sóng của ông Alistair!” Dan reo lên. “Hẳn đây là căn cứ của chi Ekaterina!”
Chợt có tiếng kịch khẽ nhưng dứt khoát của cánh cửa đóng lại phía sau lưng chúng. Amy vội lao đến. “Cửa khóa rồi,” con bé nói. “Nhưng mà ít ra thì chúng ta cũng có chìa khóa.”
Dan nhìn xuống hai bàn tay trống trơn của mình. “Vậy ư?”
CHƯƠNG 5
“CHỊ KHÔNG CẦN NÓI GÌ HẾT,” Dan bảo. “Em biết rồi, là lỗi của em. Nhưng mà chỗ này hấp dẫn quá, thành ra em cũng quên béng luôn cái chìa khóa.”
“Ta sẽ thoát ra khỏi nơi này bằng cách nào?”
“Ta sẽ tìm ra. Thôi nào, khám phá chỗ này trước đã.”
“Chị không biết về nơi này,” Amy nói. “Nhỡ đâu nơi đây có cài bẫy thì sao?” “Mình cũng đã dính bẫy rồi mà,” Dan lý sự.
Amy hạ giọng thật khẽ. “Sao ở đây chẳng thấy ai hết? Các khu căn cứ khác có đầy người mà.”
“Là ta may mắn đó. Cố lên. Đừng nhát cáy thế chứ.” Dan nhảy bật về phía trước. Nó không thể cưỡng lại nổi trước hằng hà vô số những thứ kỳ diệu siêu phàm ngay trước mắt mình. Các bức ảnh nổi lung linh, đèn LED nhấp nháy. Ở một góc phòng, một chiếc máy bắt đầu phát tiếng kêu canh cách và nhả ra băng điện báo, hệt như trong một bộ phim xưa. Bản thiết kế của các phát minh được chiếu lên một bức tường. Dan nhảy bổ vào một phòng trưng bày, ngoảnh lại kêu to, “Ôi trời, Thomas Edison cũng là một Cahill! Ngon lành chưa? Bóng đèn điện đó[1]!”
[1] Thomas Edison là người phát minh ra bóng đèn điện dây tóc.
Amy chầm chậm bước qua giữa những đồ vật được trưng bày. Trong lúc Dan đi vòng quanh thiết kế tàu thủy chạy hơi nước của Robert Fulton thì con bé chăm chú ngắm bức họa đồ hệ thống bắn của tàu ngầm.
Dan thốt lên một tiếng kêu đầy kinh ngạc. “Máy cán bông! Eli Whitney cũng
là một Ekat. Quả là thiên tài!”
Ở phía trước, Amy trông thấy một tấm màn đen. Nó dường như đang hút hết năng lượng trong phòng.
“Amy ơi! Nhà ta đã phát minh ra xe đạp nữa đó!”
Amy chầm chậm bước đến gần tấm màn. Khi tới gần hơn, nó nhận ra đó không phải là một tấm màn mà là một bức tường của bóng tối, bằng cách nào đó nó được tạo ra bởi chiếc máy đang rọi luồng sáng - hay là không có ánh sáng? Làm sao như thế được nhỉ? - vào góc
“Máy khâu. Elias Howe, ông tuyệt lắm!”
Amy do dự bước qua bóng tối ấy. Trước mặt nó là một màn hình trắng. Ngay khi Amy đến, chiếc máy tự động kích hoạt.
Phải gần một phút sau Amy mới hiểu ra. Thoạt đầu, đó chỉ là những bản thiết kế hiện ra trên màn hình. Rồi đến các con số. Con bé nghe Dan reo lên một cái gì đó về động cơ đốt trong.
“Tuyệt cú mèo, bà Marie Curie! Phóng xạ!”
Màn chiếu bắt đầu chạy những tấm ảnh đen trắng. Amy thảng thốt đưa cả hai tay lên bịt miệng.
Dan đứng ngay bên ngoài bóng tối. “Các phát minh này thật xuất chúng. Chúng ta đã thay đổi cả lịch sử!”
“Không phải chúng ta,” Amy thì thầm.
Lại bắt đầu một dải hình ảnh khác.
“Không phải là chúng ta đâu Dan!” thình lình nó hét lên.
Dan bước qua tấm màn bóng tối. “Cái gì đây?” nó hỏi, xem xét bức phác thảo
và rồi liếc nhìn một tấm ảnh đen trắng. Có thêm nhiều tấm ảnh khác đang lần lượt được chiếu lên. Amy lôi Dan trở lại phòng trưng bày đang sáng.
“Này!” Dan phản đối. “Chị đang làm gì vậy? Em muốn xem mà!”
“Không được,” Amy cương quyết. “Em không được xem. Em sẽ không muốn xem chính dòng họ chúng ta đã chế tạo ra hệ thống phun hơi độc để giết chết hàng triệu người đâu.”
Mặt Dan tái mét.
“Hay cách chính chúng ta đã tách được nguyên tử để chế tạo quả bom có thể hủy diệt c một thành phố!”
Sức nóng làm mặt Dan chuyển sang sắc đỏ. Ngoại trừ vết sẹo nằm dưới mắt là vẫn còn trắng. Mỗi khi cảm thấy thật sự buồn Dan lại có vẻ mặt như vậy. Amy nên ngưng lại. Nhưng con bé không thể. Không thể nào ngưng được.
“Là chiến tranh hóa học đó, Dan? Có tuyệt không nào?” Amy không biết tại sao nó lại tức giận với đứa em mình như vậy. “Giết người có tuyệt quá hay không?”
Amy lùi lại, hai tay run lẩy bẩy. Lần đầu tiên từ khi Dan còn nhỏ, Amy cố tình khiến cho thằng em khóc. Điều này thật lạ, vì chính Amy mới là người muốn được khóc. Nó muốn giậm chân thật mạnh. Muốn hét thật to. Nhưng đôi mắt nó vẫn cứ ráo hoảnh.
“Nếu như chúng ta cũng là Ekat thì sao?” Amy thì thầm. “Nếu như tất cả những thứ độc ác kia cũng là một phần tính cách của hai đứa chúng ta? Được cài sẵn trong DNA thì sao?”
Nhìn thấy nỗi sợ hãi trên mặt chị nó, Dan bỗng nhiên cũng thấy sợ.
“Chi tộc nào cũng đều có người xấu,” Dan nói. “Nhưng vẫn còn có rất nhiều Ekat là người tốt. Ý của em là, chúng ta sẽ ra sao nếu như không có Edison? Là bóng đêm mịt mù. Vả lại, hai chúng ta vẫn chưa biết mình thuộc về chi
tộc nào kia mà. Ta chỉ biết mình là người thuộc dòng họ Cahill. Nếu em mà phải lựa chọn lấy một chi nhưng chỉ nhìn vào những kẻ xấu thì chính em cũng chẳng muốn thuộc về chi tộc nào hết.”
Amy ngồi sụp xuống sàn, đầu tựa vào tường. “Mình đang làm gì ở nơi này?” con bé hỏi. “Càng biết nhiều bao nhiêu chị lại càng thắc mắc bấy nhiêu. Vì sao Grace lại muốn chị em mình biết chuyện mình có mối liên hệ với quá nhiều sự độc ác như thế?”
“Đó chính là điều em vừa lảm nhảm lúc nãy đó thôi,” Dan nói. “Nếu nói chúng ta phải chịu trách nhiệm vì điều này” - nó ngoảnh đầu về chỗ tấm màn đen - “cũng giống như nói rằng em đã phát minh ra máy xén bông vậy đó.”
Amy nở nụ cười yếu ớt. “Em có lý Grace... lúc nào bà cũng che chở hai chị em mình. Bà yêu thương chúng ta, Danny ạ. Hay ít ra... thì đó là điều chị nghĩ.”
Dan kinh ngạc đến nỗi không buồn phàn nàn chị nó đã dám gọi nó là “Danny”. Cái tên ấy đã không còn được dùng từ khi nó lên sáu. “Chị nghĩ như thế sao? Ý của chị là gì?”
“Kể từ lúc bắt đầu, ta vẫn luôn thắc mắc vì lẽ gì mà Grace lại không giúp đỡ tụi mình,” Amy trả lời. “Bà không để lại cho hai đứa chúng ta một thông điệp bí mật nào. Bà chẳng để lại cho chúng ta bất cứ một thứ gì. Mà quẳng chúng ta vào chung với tất cả những thành viên Cahill còn lại.”
“Như thể với bà chúng ta chẳng có gì đặc biệt cả,” Dan nói. Nó chờ Amy như mọi khi sẽ bảo vệ Grace. Điều đó khiến Dan khó chịu, nhưng nó cũng cần Amy làm thế.
Thế nhưng trái lại, Amy đã gật đầu đồng tình với nó. “Vậy chúng ta có thật sự hiểu về bà hay không?” Amy đặt câu hỏi. “Em cứ nghĩ mà xem. Cả một sự việc hết sức hệ trọng như vậy trong đời bà, vậy mà chúng ta chẳng hề biết gì về nó. Phần lớn cuộc đời bà đóng vai trò một thành viên trong dòng họ Cahill. Làm sao chúng ta có thể hiểu về bà, thật sự hiểu, nếu như ta chẳng biết điều này? Amy nén giọng. “Điều đó chỉ khiến chị cảm thấy thật...”
“Ngu ngốc, phải thế không?” Dan hỏi. “Nè, em nói dùm chị rồi đó.”
Amy thậm chí cũng không thấy bực bội. “Ông McIntyre đã bảo ta không được tin ai. Lỡ đâu điều này cũng bao gồm cả... Grace thì sao?”
Amy nhắm mắt lại. Con bé ghét phải nói ra những điều này. Ghét phải nghĩ về chúng. Nhưng giờ đây nó không thể không nói ra. Amy vẫn hay tin tưởng vào những kẻ không hề xứng đáng với niềm tin con bé dành cho họ, và như thế mới thật ngu ngốc làm sao? Ian đã xem nó như một đứa quá non nớt, vậy mà nó đã hợp tác với thằng đó. Nếu Amy muốn giành chiến thắng trong cuộc tranh tài này thì con bé phải khôn ngoan hơn.
“Em còn nhớ những chuyến điền dã mà bà đã dắt tụi mình theo - đến cábảo tàng và thư viện trường đại học nữa? Bà đã hướng dẫn chị nghiên cứu thật sự phải tiến hành như thế nào. Để về sau nếu phải vào một nơi như thế, chị sẽ không còn bị sợ sệt. Bà đã làm gì với em khi chúng ta đến bể cá vậy Dan?”
“Bắt em lặp lại lên từng con mà em thấy,” Dan đáp. “Cộng thêm tên tiếng Latin của chúng. Em chỉ nghĩ đó là một trò chơi mà thôi.”
“Khi đó chính là bà đang rèn luyện trí nhớ hình ảnh cho em,” Amy nói. “Vào tất cả mọi lúc, bà vẫn chuẩn bị cho hai đứa chúng ta.” Nó chỉ tay vào phòng trưng bày. “Cho cái này đây! Và tại sao bà lại muốn chúng ta biết về nó chứ? Chính chúng ta cũng đã nói dối, đã lừa lọc, đã trộm cắp mới đến được đây. Về cơ bản chúng ta đã biến thành những tên tội phạm.”
“Em biết chứ,” Dan đáp. “Chẳng phải như thế thật ngon lành hay sao?”
Giọng Dan không quả quyết lắm, nó cũng không nhìn thẳng vào mắt Amy. Nó biết thằng em đang cố gắng đánh lạc hướng mình. Nó sợ hãi điều con bé sắp nói ra. Nhưng Amy buộc lòng phải nói.
“Khi mọi chuyện kết thúc, chúng ta sẽ làm gì khác?” Amy hỏi nó. “Vì sao Grace lại bắt chúng ta tiếp xúc với những thứ này?” Giọng Amy thấp xuống thành tiếng thì thầm. “Có phải bà cũng là kẻ ác hay không?”
“Đừng có nói như thế!” Dan thét lớn. Nó đã chán ngấy cô chị Amy mới này. Nó muốn lay chị nó thật mạnh để cô chị Amy cũ của nó trở lại.
Nó không còn nhớ gì về cha mẹ. Grace là tất cả những gì còn lại trong nó mỗi khi gợi nhớ về những ký ức yên bình. Amy không được quyền tước mất sự bình yên ấy. “Chị câm miệng lại đi!” Dan giận dữ.
Chưa bao giờ nó bắt chị nó câm miệng. Dan chỉ gọi Amy là kẻ ngốc này ngốc nọ, là đồ dỏm, đồ khó ưa, nhưng chưa bao giờ thằng bé bắt chị nó câm miệng cả. Hai đứa không được nói với nhau bằng những từ ngữ như thế. Đó là luật mà cha mẹ chúng đặt ra, và thậm chí nếu như nó không thể nhớ rằng họ đã từng quy định như thế thì Amy vẫn còn nhớ.
Nhưng bây giờ nó chỉ muốn chị nó câm miệng. Nếu được bịt chặt hai tai mà vẫn không giống như một đứa con nít thì nó đã làm rồi. Nó đọc được trên mặt Amy rằng chị nó biết mình đã đi quá xa.
Nhưng chị nó tức thì hóa thành một viên công tố quận. “Tại sao bà lại không giúp đỡ chúng ta? Tại sao như vậy? Em hãy nghĩ thử đi. Cũng may là chúng ta có Nellie đi cùng. Liệu Grace có muốn chúng ta sẽ đơn độc vòng quanh thế giới không? Có đặt chúng ta vào mối nguy hiểm chết người không? Nếu yêu thương tụi mình, chẳng lẽ bà không muốn bảo vệ chúng ta hay sao? Và còn những chi tộc khác trong gia đình nữa chứ? Chắc hẳn bà phải biết chúng ta thuộc về chi nào. Tất cả mọi người khác đều biết họ thuộc chi tộc nào. Irina biết. Nhà Holt Kinh Khủng cũng biết họ thuộc về chi Tomas. Thậm chí Natalie và...” Amy ngưng lại. Và cái gã không được gọi tên. “... anh nó cũng là những Lucian. Chúng ta chỉ là... chính chúng ta mà thôi.”
“Thôi đi,” Dan kêu lên. Giọng nó run rẩy. Với nó, việc nghi ngờ Grace chẳng để lại thông điệp nào cũng không sao cả. Nó cũng giận bà về chuyện đó chứ. Nhưng nếu như chính Amy nói Grace cũng là một loài quái vật đã nuôi dưỡng chúng cho chuyện này... điều đó khiến nó sợ hãi.
Không thể như vậy được. Có gì đó bên trong Dan sẽ vỡ tan thành từng mảnh nếu điều ấy là sự thật. Đôi lúc Dan thấy mình như bị bỏ rơi ngay cả khi Grace
còn sống. Amy giống Grace hơn, yêu thích lịch sử và các viện bảo tàng. Nhưng giờ đây như thể chị nó đang nói ra từng ý nghĩ u ám thằng nhóc đã chất chứa trong đầu kể từ sau đám tang của Grace. Amy không được làm như vậy. Amy phải bảo vệbà ngoại chứ. Nếu như chị nó không còn tin vào Grace thì chúng còn gì nữa... để mà tin?
Nó quay ngoắt đi, mắt đỏ ngầu. Nó bước đi.
Amy vẫn còn ngồi trên sàn. Nó chạm tay vào sợi dây chuyền ngọc bích, món đồ trước kia thuộc về Grace, chưa khi nào con bé tháo vật ấy ra khỏi người. Amy cảm thấy thật khó chịu. Một cái gì đó hoàn toàn trống rỗng mà trước kia chưa từng hiện hữu. Đó là sự thiếu vắng của điều trước kia nó vẫn hằng nương tựa vào - tình cảm của Grace.
Bà đã mất, Amy tự nhủ. Bà không còn ở với mình nữa.
Úp mặt vào lòng bàn tay, Amy nghe tiếng bước chân của Dan vọng lại lúc nó bước trở xuống phòng triển lãm, cố tạo một khoảng cách mỗi lúc một xa hơn giữa chúng. Tiếng bước chân bỗng ngưng bặt. Sự im lặng kéo dài khiến Amy ngẩng đầu lên. Dan đã đi tới phòng trưng bày thứ ba. Nó đứng trước một tủ kính trưng bày, bất động hoàn toàn. Hai vai căng thẳng một cách khác thường của Dan ngay lập tức làm Amy cảnh giác.
“Gì vậy?” con bé hỏi to. Nó không trả lời.
Amy đứng lên và đi đến chỗ thằng bé đang đứng. Nó đứng trước ba tủ trưng bày xếp thành hàng ngang. Trong mỗi chiếc tủ là một bức tượng nữ thần Sakhet đầu sư tử giống hệt nhau. Chúng chỉ cao chừng hai mươi centimet và có lẽ được làm hoàn toàn từ vàng khối. Chỉ có cặp mắt của chúng là khác nhau. Một bức tượng có cặp mắt long lanh màu xanh lá, một bức tượng mắt màu đỏ, và bức tượng còn lại mắt màu xanh thẫm. Từng chiếc một đang xoay tròn bồng bềnh trong một bể ánh sáng trắng.
“Đây chắc chắn là thứ chúng ta đang tìm,” Amy thì thầm. Con bé đã quên mất cuộc tranh luận vừa rồi. Ba bức tượng trông đẹp một cách lạnh lùng như báu vật. “Chi Ekat đã tìm ra chúng.”
Dan xem xét một màn hình máy tính gắn vào một tủ trưng bày. Nó đặt ngón lên vào màn hình cảm ứng.
Một hình chiếu xuất hiện. Đó là sơ đồ bức tượng Sakhet. Nó đang chuyển động xoay tròn để hiện ra một mặt cắt. Trên màn hình có dòng chữ như sau:
TƯỢNG SAKHET ĐẦU TIÊN ĐƯỢC PHÁT HIỆN TRONG CHUYẾN THÁM HIỂM CỦA NAPOLEON Ở KIM TỰ THÁP HOÀNG HẬU TẠI GIZA. ĐƯỢC TIN LÀ DO CHÍNH KATHERINE ĐỂ LẠI. GỬI SANG LOUVRE VÀ ĐƯỢC ĐOẠT LẠI. BẢN VẼ ĐƯỢC ẨN BÊN TRONG.
Một bản vẽ xuất hiện trên màn hình.
Cả hai tiến sang tủ kế tiếp, nơi có bức tượng Sakhet mắt màu xanh lá. Dan chạm vào màn hình.
TƯỢNG SAKHET THỨ HAI DO EKAT HOWARD CARTER[2] PHÁT HIỆN, NĂM 1916, TRONG LĂNG HATSHEPSUT[3], THEBES. KIỂM TRA BAN ĐẦU KHÔNG ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ. BỨC TƯỢNG NAY ĐÃ ĐƯỢC KIỂM TRA BẰNG CÔNG NGHỆ KHÔNG PHÁ HỦY TIÊN TIẾN BAO GỒM CHỤP X QUANG KỸ THUẬT SỐ VÀ CHỤP CẮT LỚP 3 CHIỀU. KẾT QUẢ: BỨC TƯỢNG HOÀN TOÀN NGUYÊN KHỐI, KHÔNG CÓ KHOANG CHỨA BÍ MẬT.
[2] Howard Carter (1879-1939): Nhà thám hiểm, nhà khảo cổ, nhà Ai Cập học lỗi lạc người Anh, người đã phát hiện ra lăng mộ vua Tutankhamun.
[3] Hatshepsut, con gái pharaoh Thutmosis I, vợ và em gái pharaoh Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong khoảng 1479-1458 TCN, thuộc Vương triều thứ 18. Được đánh giá là một trong những nữ vương quyền lực nhất trong lịch sử thế giới cổ đại, trị vì trong 21 năm. Bà để lại một loạt những công trình và tác phẩm điêu khắc ấn tượng, trong đó có kiệt tác kiến trúc lăng mộ Djeser-Djeseru.
Rồi cả hai chuyển qua bức tượng Sakhet còn lại. Dan lại chạm vào màn hình. DO BAE OH MUA, NĂM 1965
KHOANG BÍ MẬT DO ALISTAIR OH KHÁM PHÁ.
Amy quay trở lại bức tượng Sakhet thứ hai được Howard Carter tìm ra. Con bé biết Carter là nhà khảo cổ lừng danh. Về sau, năm 1922, ông tiếp tục phát hiện ra lăng vua Tutankhamen.
“Chỗ này viết rằng họ đã bỏ ra nhiều năm để nghiên cứu các tấm bản đồ,” Dan nói. “Cả hai giống nhau, nhưng vẫn có các điểm khác biệt. Chưa ai biết chúng có ý nghĩa gì. Họ cho rằng đó là bản đồ của lăng mộ. Nhưng các tấm bản đồ không khớp với bất kỳ nào đã được khám phá.”
“Bức tượng này không có khoang bên trong, điều ấy không lạ sao?” Amy thắc mắc. “Có lẽ Howard Carter đã tìm nhầm. Có lẽ ngoài kia vẫn còn một tượng Sakhet khác.”
Quá mải mê quan sát các bức tượng, chúng không hề nghe thấy tiếp gậy khua lách cách. “Chính xác là như thế, cô gái trẻ ạ,” Bae Oh lên tiếng. “Đó là điều ta tin. Và ta tin rằng thằng cháu ta đang có nó trong tay.”
CHƯƠNG 6
LÃO TA TỪ ĐÂU CHUI RA NHỈ? Dan tự hỏi. Nó không thấy một cánh cửa nào. Cứ như lão ta từ trên trời rơi xuống. Đáng sợ thật.
“Vì duyên may ta đã được biết hai đứa đặt phòng khách sạn bằng họ của ta. Ta cứ nghĩ đó là thằng cháu ta kia đấy. Rất tiếc ta lại không gặp nó. Nhưng ta mong sẽ gặp được nó.” Bae mỉm cười, song trông lão cứ như đang chìa hàm răng ra cho nha sĩ khám. “Nhưng chẳng phải vì thế mà ta không thấy vui khi được gặp hai đứa.”
Dan không tin được lấy một nửa chữ lão ta nói. Nó nghĩ về cánh cửa ra đã bị khóa. Nếu chạy, chúng phải chạy đi đâu? Thằng bé thấy Amy cũng nhìn ra sau chỗ lão Bae đang đứng. Chị nó cũng đang tìm một lối thoát.
Nụ cười quái gở của Bae càng nới rộng, cứ như lão ta đã ngửi thấy nỗi sợ hãi của chúng. “Hai đứa có thích căn cứ Ekaterina không nào?” Lão vung vẩy cây gậy nạm ngọc. “Thú thật là ta rất đỗi tự hào về nó. Chính tay ta đã thiết kế nơi này.”
“Chỗ này không nhiều đồ lắm nhỉ?” Dan nói.
Nụ cười của Bae biến mất. “Ngay cả những người khác thuộc chi Ekat cũng là những kẻ tài. Bọn họ không hiểu được thiên tài của ta chẳng liên quan gì đến vinh quang cá nhân của ta cả - ta thiết kế ra nơi này dành cho tất cả mọi Ekat. Tuy nhiên, ta có sai hay không khi nói rằng cũng chính ta đã tiên liệu sẽ mua cả cái khách sạn này? Chính ta làã nhìn trước tất cả? Cairo trước đây từng có một căn cứ của nhà Ekat, nhưng nó khác xa với nơi này. Chỉ là một ngôi nhà tồi tàn do Howard Carter lập cho chúng ta từ năm 1915 khi ông ấy đang tìm bức tượng Sakhet thứ hai. Trong suốt Thế chiến thứ hai, chi Ekat buộc phải giải tán các món cổ vật đi khắp nơi, và ta nhận thấy sẽ là khôn ngoan hơn nếu xây dựng hẳn một căn cứ khác vững chãi hơn. Không ai hiểu được sự cần thiết ấy. Ta phải tốn nhiều năm trời mới thực hiện được. Và khi
công nghệ đã phát triển, ta nâng cấp cho nó. Nơi đây cũng tuyệt vời như một viện bảo tàng, hai đứa có nghĩ như thế không nào? Còn hơn như thế nữa. Đây quả là một nơi vinh danh xứng đáng cho vô vàn các thiên tài là hậu duệ của Katherine.”
“Bao gồm cả cháu ông,” Amy nói.
“Bah.” Chiếc miệng mỏng của Bae cong lên vẻ khinh bỉ.
“Cháu cứ nghĩ tên của ông là Bae chứ không phải Bah,” Dan bảo. “Cháu tệ thật!”
Bae ném cho Dan cái nhìn hắc ám của lão. Thằng nhóc thấy toàn thân ớn lạnh. Cảm giác giống như nhìn cận cảnh cặp mắt cá mập. Ngay trước giây phút nó há ngoác hai hàm răng xé ta ra làm hai mảnh.
“Ta nghe nói mày là một thằng nhóc khôn ngoan,” Bae bảo Dan. “Chắc chắn mày sẽ tiến xa.” Lão chuyển cái nhìn sang Amy. “Nhưng còn với ta, từ lâu Alistair đã là một nỗi thất vọng ê chề. Một cái đầu xuất chúng trong một thằng ngu xuẩn.”
“V-vậy tại sao ông muốn gặp lại ông ấy?” Amy thắc mắc. Có thể nó đang bị dồn vào chân tường, có thể bị đe dọa, nhưng Amy sẽ không để lão già độc ác này bắt nạt chúng.
“Ta là chú nó. Ta hứa với người anh quá cố mến thương của ta sẽ trông nom nó. Khi Alistair còn trẻ, nó đầy triển vọng. Chính nó đã tìm ra cách mở bức tượng Sakhet thứ ba. Thế rồi nó bỏ đi để trở thành một tay phát minh, và nó phát minh ra cái gì nào? Một thứ giấy các-tông đông lạnh vô vị không thể nào tiêu hóa được, thứ đồ ăn dỏm đó!”
“Cháu nghe nói rằng ông ấy kiếm được vài triệu đô từ miếng các-tông đó,” Dan bảo.
Bae dồn trọng tâm cơ thể vào cây g“Mày phải hiểu rõ điều này. Tiền bạc không phải là biểu hiện của thành công. Đối với người thuộc chi Ekat. Đây
chính là lý do vì sao bọn ta ưu tú hơn tất cả các chi tộc còn lại. Bọn ta xem trọng thứ gì ư? Không phải là quyền lực như bọn Lucian, không phải cơ bắp như bọn Tomas, cũng không phải trí tuệ như bọn Janus. Hoàn toàn không. Mà là một thứ khác to tát hơn. Là kỹ năng. Là cảm hứng. Và biến những thứ đó trở thành hữu ích.” Lão khua cây gậy. “Tụi mày thấy các Ekat chúng ta đã tạo ra những gì rồi đó!”
“Bọn cháu vừa thấy một số ví dụ khủng khiếp được kỹ năng của chi Ekat tạo ra,” Amy chỉ trở lại tấm màn bóng tối.
“Ta nghĩ mày phải thông minh hơn thế chứ, quý cô trẻ tuổi. Nhận xét đó không phù hợp với mày tí nào.”
“Tại sao?” Amy hỏi. “Chẳng lẽ cháu phải cảm thấy ấn tượng với các trại tập trung và bom nguyên tử hay sao?”
Bae dằn mạnh cây gậy xuống đất. “Đó là một phản ứng ủy mị! Chi Ekat không độc ác. Nhưng cũng không lương thiện. Họ phát minh. Họ thử thách. Họ dẫn đầu. Có người mất mạng ư? Chỉ là những mối bận tâm nhỏ nhặt. Điều quan trọng ở đây chính là sự khám phá. Sự phát minh. Mày có hiểu không?”
“Phải, chúng cháu đã hiểu rồi,” Dan chen vào. “Thưa tổng đài 1080[1] - ông đúng là một kẻ đáng ghê sợ.”
[1] Tiếng lóng Mỹ, nguyên văn là “four-one-one”.
Bae Oh tiến lại gần chúng, và chúng lùi về phía sau một bước. “Hai đứa bọn mày cũng là người của dòng họ Cahill. Bọn mày đều biết rằng cái khiến ta phi thường cũng đôi khi khiến ta trở nên nguy hiểm. Tổ tiên của chúng ta chính là minh chứng cho điều này. Bọn mày phải học từ sai lầm cũng như từ các chiến tích của họ. Chẳng phải thế sao?”
Amy không muốn nghe những gì lão nói. Nhưng rốt cuộc lão ta cũng có lý đấy chứ.
Lão già lại tiến thêm một bước, chìa một tay ra với vẻ ân cần. Cả hai tiếp tục lùi lại. Không đời nào Dan muốn đến gần lão già độc ác này.
“Đến đây nào,” lão tiếp tục bằng giọng nói mà có lẽ chỉ lão mới cho là ấm áp. Nhưng trái lại, nó vô cùng đáng sợ. “Chúng ta đều là người một nhà. Chúng ta nên là đồng minh của nhau. Hai đứa đã đến xa được nhường này trong hành trình tìm kiếm ba mươi chín manh mối, thế nhưng ai cũng cần giúp đỡ cả. Vậy một cuộc trao đổi thông tin thật đơn giản thì sao nào? Ta sẽ cho hai đứa biết những gì ta biết về truyền thuyết tượng thần Sakhet. Còn hai đứa sẽ nói cho ta biết những thứ liên quan đến thằng cháu của ta. Ta biết nó rất yêu mến hai đứa.”
“Mời ông nói trước,” Dan lên tiếng.
Bae nghiêng đầu sang một bên. “Rất sẵn lòng. Ta sẽ cho hai đứa thấy sự tín nhiệm, và hai đứa cũng sẽ làm như thế, ta đoan chắc như vậy.” Lão lấy gậy trỏ vào bức tượng Sakhet đầu tiên. “Đây là bức tượng mà chi Ekat biết rõ nhất. Tổ tiên vinh quang Katherine của chi Ekat, nữ hoàng của sự khéo tay, đã rời châu Âu đến Ai Cập. Hai đứa có thể hình dung một người phụ nữ đã có lòng quả cảm đến nhường nào để một mình đơn độc du hành vào đầu thế kỷ 16 hay không? Bọn ta biết bà đã đi đến Cairo và mua ba bức tượng Sakhet nhỏ. Một bức tượng có mắt bằng đá ruby, một bằng đá lapis, tượng thứ ba bằng ngọc lục bảo. Rồi bà giả trang thành nam giới và rời khỏi Cairo. Bọn ta biết được bà đã gặp gỡ một gia đình của những kẻ cướp mộ và thuê bọn họ mang bà đi theo chuyến hành trình ngược dòng sông Nile. Bà đã cất giấu từng bức tượng Sakhet, và mỗi bức tượng đều ẩn chứa một bí mật.”
Bae nhìn bức tượng thật chăm chú. “Bức tượng đẹp thật, phải không? Chẳng phải ngẫu nhiên mà Katherine lại chọn một nữ thần. Bà tin rằng mình chưa từng được nhận sự công bằng vì bà là phụ nữ. Và thật vậy.” Lão thở dài. “Chúng ta vẫn không biết làm thế nào các chi tộc còn lại tìm ra manh mối của Katherine, nhưng chúng ta biết bọn chúng vẫn đang tìm kiếm suốt nhiều thế kỷ. Cái tên Lucian thấp bé tởm lợm khó ưa Napoleon ấy đã ra lệnh cho lũ học giả của hắn để mắt đến từng bức tượng Sakhet. Nhiều người cho rằng hắn ta quyết định xâm chiếm quốc gia này chỉ để chiếm đoạt nó. Nhưng Napoleon chưa hề nổi danh bởi trí tuệ mà hắn có.” Bae khịt khịt mũi khinh bỉ. “Một
Lucian khác hắn dẫn theo cùng đoàn thám hiểm mới chính là kẻ thật sự làm nên chuyện. Đó chính là Bernadino Drovetti[2]. Hắn mới là kẻ đã phát hiện ra bức tượng Sakhet. Nó nằm trong bộ sưu tập cá nhân của Napoleon. Các Ekat đã nhiều lần cố gắng cướp lại nó. Cuối cùng, Drovetti cho rằng hắn có thể giữ cho nó được an toàn khi chuyển nó về bộ sưu tập hắn dành tặng bảo tàng Louvr
[2] Tên đầy đủ là Bernardino Michele Maria Drovetti (1776-1852) - nhà ngoại giao, luật sư, nhà hải dương học, được Napoleon bầu làm cố vấn cho quân đội viễn chinh Pháp xâm lược Ai Cập.
Amy sợ hãi không dám nhìn vào Dan. Bernardino Drovetti - có phải ông ấy là nhân vật “B.D” đã viết nên lá thư chúng tìm thấy ở Tòa nhà Sennari hay không?
Manh mối hiện đang trên đường về đến cung điện của L ở Paris...
“May mắn làm sao, một Ekat của chúng ta cũng là một nhà khảo cổ đang làm việc tại bảo tàng Lourve. Ông ta tuyên bố đó là một bức tượng giả và cuỗm được nó ra khỏi bảo tàng. Ông cho tuồn nó về đến tay bọn ta để tiến hành nghiên cứu. Ha! Ngay trước mũi Drovetti! Thế là chúng ta đã tìm thấy mảnh ghép đầu tiên trả lời cho trò ghép hình.”
Nhưng có lẽ vẫn còn một bức tượng Sakhet khác, Amy nghĩ. Một bức tượng mà không một ai biết đến. Drovetti đã gửi nó đến một lâu đài.
Bae bước vài bước lại gần bức tượng Sakhet thứ hai. Amy và Dan buộc phải bước lùi theo, nếu không chúng sẽ đứng quá gần lão già. “Cuộc tìm kiếm các bức tượng Sakhet vẫn tiếp diễn. Tin tức lan truyền, thế là rất nhiều thành viên dòng họ Cahill ùa đến Ai Cập với hy vọng sẽ tìm thấy. Trong số đó có nhà thám hiểm vĩ đại Richard Francis Burton[3], Winston Churchill[4], Flinders Petrie[5], Mark Twain[6]... chẳng ai trong số bọn họ là Ekat. Bọn ta thích âm thầm thực hiện công việc hơn.”
[3] Richard Francis Burton (1821-1890), nhà thám hiểm, nhà Đông phương, nhà ngôn ngữ, điệp viên, nhà ngoại giao lừng danh bởi các cuộc thám hiểm
và du hành ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, bên cạnh kiến thức uyên bác khác thường khi thông thạo gần 30 ngôn ngữ cũng như các nền văn hóa trên thế giới. Ông còn là một chiến binh quả cảm, đại tá phục vụ trong đạo quân của công ty Đông Ấn tại Ấn Độ.
[4] Winston Churchill (1874-1965), chính trị gia người Anh, thủ tướng Anh trong Thế chiến thứ hai, đồng thời là nhà báo, họa sĩ, chính trị gia xuất chúng, một trong những lãnh đạo quan trọng nhất của nước Anh và thế giới, đoạt giải Nobel Văn.
[5] Flinders Petrie (1853-1942), nhà Ai Cập học người Anh, tiên phong phương pháp hệ thống trong khảo cổ, chủ tịch ngành Khảo cổ học đầu tiên ở nước Anh.
[6] Mark Twain, tên thật Samuel Langhorne Clemens (1835-1910), nhà văn, nhà báo, nhà diễn thuyết nổi tiếng của Mỹ, tác giả các cuốn sách: “Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer”, “Hoàng tử và kẻ ăn mày”, “Cuộc sống trên dòng Mississipi”...
“Có cả Mark Twain ư?” Dan tò mò.
“Hắn là một Janus,” Bae lại khịt khịt mũi. “Hậu duệ của Jane rặt một lũ ba hoa. Mãi cho đến khi Howard Carter bắt tay vào thực hiện thì bọn ta mới thấy được bức tượng thứ hai. Hết ngôi mộ này sang ngôi mộ khác, hết cuộc khai quật này đến cuộc khai quật khác. Ông chạy đua với Flinders Petrie.”
“Một nhà khảo cổ lừng danh khác,” Amy lên tiếng. “Ông ấy là Lucian ư?” nó đoán.
Bae gật đầu. “Lẽ dĩ nhiên, Ekat là chi giành chiến thắng. Carter đã tìm thấy bức tượng. Là nó đây, với đôi mắt làm bằng ngọc lục bảo. Chỉ có một vấn đề. Bức tượng này hoàn toàn đặc. Bọn ta không tìm được cách mở nó ra. Nó giống hệt với các tượng Sakhet khác, nhưng lại không có khe bí mật nào cả. Bọn ta chắc chắn về điều này. Vậy câu trả lời là gì? Phải chăng vẫn còn một bức tượng Sakhet khác? Chắc chắn là thế. Đích thân ta, khi hãy còn là một gã trai trẻ, ta chỉ biết tìm và tìm nó. Ta lui đến từng cửa hiệu ở Cairo. Tìm bằng
hết từng catalog bán đấu giá hiện vật, đến gặp từng kẻ buôn hàng chợ đen một. Và một ngày nọ, ta đã tìm thấy bức tượng thứ ba.” Bae nhìn bức tượng bằng một vẻ sùng kính. “Bức tượng mắt xanh thực sự là một báu vật.”
Bae tựa người vào cây gậy, bất thình lình trông lão thật già nua và thảm bại. “Bọn ta vẫn không thể giải được mật mã ấy. Thất bại ngay tại điểm quan trọng như thế. Bọn ta đã vẽ mô hình trên máy tính, viết ra các phần mềm cốt để giải đáp bí ẩn này. Có đến hàng trăm ngôi mộ ngoài kia vẫn chưa được khám phá ra. Bất kỳ ngôi mộ nào trong số chúng cũng đều có thể chứa bức tượng. Có thể bọn ta đã hiểu sai về gợi ý của Katherine. Hay biết đâu bà đã có một bức tượng Sakhet thứ tư để đề phòng. Chẳng thể nói gì chắc chắn được.
Lão bước loạng choạng về phía hai đứa, đôi mắt khẩn khoản. “Ta là kẻ đứng đầu chi Ekat,” lão nói giọng khàn đục. Chừng như lão đã hết hơi. “Alistair là đứa sẽ kế tục vị trí của ta. Nếu như nó có bức tượng Sakhet, bọn chúng sẽ chào đón và tôn vinh nó. Ta có thể thoái lui trong mãn nguyện. Nhưng giữa bọn ta có sự khác biệt. Nó quá kiêu hãnh nên không muốn ta giúp đỡ. Nhưng ta phải giúp nó. Vì chính nó và cũng vì những thành viên chi tộc Ekat. Hai đứa có hiểu được không?” Khuôn mặt Bae dịu lại. Lão bước đến gần chúng hơn. “Ta làm điều này cũng vì nó. Hãy cho ta biết có thể tìm thấy thằng cháu ta ở đâu?”
Dan nhìn Amy. Có phải con bé thật sự tin điều này không? Mắt Amy đã dịu đi. Dan kéo mạnh khuỷu tay chị nó, buộc Amy bước lui lại. Thình lình, nó nhận thấy rằng mình đang ở trong tầm với chiếc gậy của Bae.
“Rất tiếc phải nói với ông điều này,” Dan nói. “Nhưng ông Alistair đã chết rồi.”
Bae nhìn Dan giận dữ. Dan chằm chằm nhìn lại lão, không chớp mắt. “Thật lấy làm tiếc,” cuối cùng Bae lên tiếng, “là bọn mày đã nói dối.”
Sự yếu ớt chợt biến mất. Bae chuyển động nhanh một cách đáng kinh ngạc. Lão vung chiếc gậy lên và khua nó vào góc xa của trần nhà. Từ một trong
những viên ngọc nạm vào đầu gậy bắn ra một tia laser. Hai đứa nghe thấy một tiếng rì rì nho nhỏ.
Một tủ kính kích thước bằng một căn phòng nhỏ từ trên trần sập xuống. Hai đứa nhận ra Bae đã lừa để lùa chúng vào một chỗ thì đã quá muộn. Tụi nó bị nhốt bên trong bốn bức tường làm bằng nhựa siêu cường và hoàn toàn không có một cánh cửa nào.
“Bọn mày sẽ vẫn ở đó cho đến khi chịu nói ra sự thật,” Bae bảo. “Một cuộc trưng bày hai đứa trẻ ngu ngốc dành cho các hậu duệ của Katherine thưởng thức.”
CHƯƠNG 7
IRINA SPASKY GIẬN BẢN THÂN VÔ CÙNG. Nếu được ả đã tự ném mình vào gulag[1] cho rồi. Ả xứng đáng phải chịu cảnh thời tiết lạnh căm, với chiếc chăn mỏng, vỏn vẹn một củ cải thối để đoạn tháng qua ngày. Sao mà ả lại để cho hai cái đứa nghiệp dư, hai đứa con nít, qua mặt ược chứ?
Và nếu ả buộc phải nuốt thêm một cái falafel[2] khác, ả sẽ nôn ngay. Trên cái đất nước điên khùng này không sao tìm thấy được một củ khoai tây luộc cho ra hồn.
[1] Nhà tù dành cho tù nhân chính trị của Liên Xô cũ.
[2] Falafel là một loại bánh truyền thống của các dân tộc Ả Rập, Do Thái, có hình tròn, làm từ bột đậu xanh và/hoặc đậu fava, bên ngoài rắc vừng, được chiên vàng.
Đã quá đủ với đồ ăn ngoại quốc rồi. Quá đủ với cái màn hóa trang làm du khách. Ả xé phăng chiếc áo thun TÔI MUỐN XÁC ƯỚP ra với vẻ kinh tởm. Bên trong, ả đang mặc một chiếc áo thun đen trơn hiệu Gap. Một bí mật nho nhỏ của riêng ả - ả thật sự thích sản phẩm nhãn Gap của Mỹ. Áo có đủ mọi màu sắc! Ả ngồi trên ghế trong căn phòng khách sạn rẻ tiền và ngó xuống dòng xe cộ đông như mắc cửi bên dưới. Ả ấn một ngón tay vào mắt, con mắt vừa bắt đầu giật giật. Ả phải suy tính.
Ả suýt nữa đã tóm được hai đứa kia, những hai lần, và lại để tuột mất chúng! Ả đang mất tập trung hay sao?
Irina muốn trở về mảnh đất quê nhà. Ả đã từng làm điệp vụ ở Cairo trước đây hồi còn ở KGB. Ả không làm việc hiệu quả ở đây. Người dân quá thân thiện. Nếu hỏi đường ai đó, họ sẽ đi cùng và dẫn đến tận nơi. Và trời thì lại quá nóng. Chẳng bao lâu nữa tuyết sẽ phủ lên các bậc thềm ở Moscow, vậy mà ở đây nhiệt độ đã ngoài 300C. Ả vặn quạt trần lên hết cỡ.
Irina vẫn còn hai đứa mất nết khác trong tay - Ian và Natalie Kabra. Cả ba buộc phải hợp tác với nhau, và hai đứa biết-tuốt đó cứ không ngừng lấn lướt ả. Giờ thì chúng đang ở Kyrgyzstan, không thèm trả lời điện thoại. Cuối cùng, ả cũng đành phải gọi cho cha mẹ chúng. Và chưa bao giờ ả thích nói chuyện với nhà Kabra. Bọn họ đã có quan hệ từ trước với nhau, và thậm chí ả còn chẳng tin tưởng vợ chồng nhà đó bằng lũ nhóc của họ nữa kìa.
Hai đứa nó. Thiên tài, nhưng ngu ngốc.
Hệt như cha mẹ chúng.
Cha mẹ chúng... Irina lắc đầu, cố gắng xua tan ký ức.
Ả chẳng bao giờ nghĩ đến những gì ả không thể thay đổi được. Những thứ đã xảy ra trong quá khứ. Ngoại trừ lúc này, ngay tại Cairo, ả lại thấy mình đang nghĩ về Grace Cahill.
Rất nhiều năm trước những kẻ thuộc chi tộc Lucian đã cho tiến hành một cuộc họp cấp cao để bàn bạc về trường hợp Grace Cahill. Họ biết Grace đã tìm thấy nhiều manh mối. Dường như bà ta có thiên phú cho việc này. Thậm chí các Lucian cũng phải thừa nhận điều đó. Buộc phải ngăn bà ta lại.
Chính Irina là người đề xuất ý tưởng liên minh. Dĩ nhiên đó chỉ là một cái mẹo. Nhưng đó cũng là một cách để tiếp cận Grace, để biết thêm một điều gì đó. Irina đã tiến cử mình làm trung gian. Làm miếng phô mai trong bẫy chuột.
Ả gặp Grace. Một mình, mặt đối mặt. Cuộc trao đổi diễn ra rất ngắn. Rõ ràng Grace chẳng tin Irina lấy một giây.
Cô đang cố biến ta thành kẻ ngốc, nhưng, Irina ạ, chính cô mới là kẻ ngốc, Grace đã nói như thế. Cô đề xuất một liên minh nhưng về thực chất cũng chỉ là mưu mẹo mà thôi. Có một lời nguyền của những Lucian, đó là họ luôn nghĩ mình có thể làm được mọi thứ một mình.
Irina bỏ đi trong cơn giận điên người. Chưa từng ai dám gọi ả là đồ ngốc. Chưa một ai.
Lại tiếp tục có các thảo luận về trường hợp Grace Cahill. Các kế hoạch được đem ra bàn bạc rồi bị bác bỏ. Rồi đề nghị thương thảo đến với mọi người. Những liên minh yếu ớt đồng ý cốt để nhổ đi một cái gai chung. Mọi chuyện đều ổn. Ngoại trừ... kế hoạch đã được thống nhất, và mọi thứ đều thất bại. Thất bại thê thảm. Con gái và con rể Grace mất mạng trong đám cháy
Ả sẽ không bao giờ quên được ngày tang lễ diễn ra. Irina biết mình không nên có mặt ở đó, nhưng ả không thể không đến. Không phải tới để hả hê, như là Grace đã nghĩ. Khuôn mặt Grace quá trắng và bất động. Cái chết của đứa con gái yêu, của chàng rể quý, bi kịch của hai đứa cháu ngoại mồ côi - trông Grace như già đi nhiều tuổi. Bà đi đứng như một bà lão và đôi mắt chất chứa nỗi buồn vô hạn. Hai bàn tay bà run rẩy thả những bông hồng xuống hai cỗ quan tài khi người ta hạ chúng xuống lòng đất.
Irina muốn nói, Tôi cũng từng biết nỗi đau này.
Nhưng ả không nói.
Ả muốn nói, Tôi từng lang thang trên những con đường ở Moscow như một bóng ma. Hồn tôi tan nát, tim tôi tan nát. Ả muốn nói,Chúng nghĩ nỗi buồn quá ồn ào, Grace ạ. Chúng nghĩ bà sẽ khóc, sẽ than. Nhưng tôi biết, nỗi buồn cũng lặng lẽ như tuyết rơi.
Tôi cũng đã mất một đứa con.
Ả không nói bất cứ điều gì. Ký ức là của riêng ả. Ả đã phong kín chúng lại. Thứ duy nhất còn lại chính là con mắt luôn giật giật mỗi khi ả xúc động.
Ngày hôm đó ả trách Grace vì đã buộc ả nhớ lại các ký ức của mình. Ả đã tỏ ra lỗ mãng, lạnh lùng. Ả từng nói với Grace, “Số phận chẳng chừa một ai. Những chuyện đó tất sẽ phải xảy đến.”
Những chuyện đó tất sẽ phải xảy đến, ả nói điều ấy với một người mẹ vừa
mất con. Ả nghe được chính những lời mình vừa nói ra vọng lại và bị sốc trước sự lạnh lùng của chúng. Ả muốn rút chúng lại. Ả muốn bày tỏ sự cảm thông, để trở thành một người cũng có máu chảy trong huyết quản.
Nhưng ả đã không làm thế. Thay vào đó, Irina cảm nhận được sự khinh miệt của Grace tràn ngập ả, như từng đợt sóng nọ nối tiếp đợt sóng kia từ eo biển Bering lạnh giá. Rồi, trong phút chốc, thái độ khinh miệt ấy hóa thành sự hồ nghi.
Irina đã không dám nhìn vào mắt Grace.
Thế nên, thật không quá lời khi nói rằng ả ngạc nhiên vì được mời đến dự đám tang của Grace. Chỉ khi ả biết các thành viên khác của dòng họ Cahill cũng được mời, ả mới quyết định sẽ có mặt. Tất cả mọi người trong một căn phòng. Tất cả những hiềm thù xưa cũ. Và Grace trở thành kẻ điều khiển con rối.
Có phải Grace đã giăng một cái bẫy mà chính ả cũng không thấy được? Ai là mồi? Ai là kẻ bị săn?
Kế hoạch của bà là gì, hở Grace? Lúc nào mà bà chẳng có kế hoạch kia chứ.
Hai đứa cháu ngoại đó - tại sao Grace lại cho cả chúng tham gia? Chúng rõ ràng không thể đánh bại toàn bộ những người thuộc dòng họ Cahill còn lại trong cuộc truy tìm manh mối này. Chúng thua xa tất cả về kiến thức lẫn sự rèn luyện. Quá trễ để có thể bắt kịp. Đến nay, chúng đã rất may mắn. Và chỉ có thế. Hai đứa trẻ không có ai giúp đỡ, chạy đua trên nỗi sợ hãi và mất mát...
Sợ hãi.
Mất mát.
Những điều ta đã biết. Những điều ta từng chứng kiến.
Ả lại thấy mắt mình giật giật. Ả tự vả vào mặt mình, cố ghìm lại cơn xúc động.
Quá khứ là quá khứ.
Ngoại trừ ở Ai Cập này nơi ả đang hiện diện, và bất cứ nơi nào khác ả nhìn đến, chính bầu không khí dường như thì thầm với Irina rằng quá khứ vẫn sống động vô cùng...
CHƯƠNG 8
ĐIỀU GÌ ĐẾN ĐÃ ĐẾN. Sau nhiều năm căm ghét bảo tàng, rốt cuộc thằng bé biến thành một món đồ triển lãm. Dan ấn lòng bàn tay vào tường. “Cứu với,” nó
“Em nghĩ xem lão sẽ nhốt chúng ta ở đây bao lâu?” Amy hỏi. “Tới khi chúng ta chịu phun ra,” Dan trả lời.
“Làm sao phun được chứ? Mình có biết gì đâu.”
“Em biết là em đói,” Dan nói. “Nếu lão Oh ấy cho em một cái pizza, em sẽ nghĩ ra điều gì đó.”
“Nellie rồi sẽ thắc mắc xem hai đứa chúng ta đang ở đâu,” Amy nói. “Chị ấy không tìm ra được đâu.”
“Nellie sẽ báo tiếp tân. Có lẽ bọn họ sẽ gọi cảnh sát...”
“Chị không hiểu vấn đề sao? Lão ta là chủ cái khách sạn này. Họ sẽ chẳng làm bất cứ điều gì đâu.”
“Lão không thể nhốt chúng ta ở đây được,” Giọng Amy run run, và con bé bắt đầu thấy khó thở. Nó từng đặt chân đến những nơi còn tồi tệ hơn thế này. Dẫu vậy, cái khối bằng nhựa plexi này vẫn khiến con bé thấy hốt hoảng. Như thể bản thân nó chỉ là một món trưng bày nào đó chứ không phải một con người. Amy cố hít thở. “Trong cái thứ này có bao nhiêu không khí vậy?”
“Em không biết,” Dan đáp. “Có lẽ là... có lẽ chúng ta không nên nói chuyện.” Giờ thì Amy lo sợ cho thằng bé. Vấn đề nghiêm trọng của Dan là bị hết hơi.
Amy đứng thẳng vai lên. Con bé sẽ không để lộ ra điều đó. Amy đã từng hoảng sợ trước mặt Dan, nhưng nó sẽ không làm thế nữa. Không bao giờ.
“Chị chắc chắn sẽ đủ.” Nhưng đủ trong bao lâu?
Ý nghĩ đó vừa lóe lên và Amy vội gạt phăng nó đi. Sự sợ hãi có giảm đi đôi chút. Nó có thể làm điều đó. Con bé hiểu vào lúc này cái mẹo để dũng cảm là không nghĩ đến điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Thật kỳ cục - khi ta đóng vai dũng cảm, gần như ta có thể cảm thấymình dũng cảm.
***
“Mấy nhóc ơi?” Nellie từ trong phòng ngủ gọi ra. “Tốt nhất là nên có thức ăn xếp hàng chờ chị đấy nhé!”
Không có tiếng trả lời. “Các bạn trẻ ơi?” Nellie buộc dây chiếc áo choàng tắm dày cộm của khách sạn. “Các bé lùn[1] ơi?” Hai đứa rất ghét bị Nellie gọi bằng tên đó. Nhưng cũng chẳng có tiếng la ó phản đối nào cất lên.
[1] Munchkin, nhân vật trong bộ phim “Phù thủy xứ Oz”, là những chú lùn mặc đồ màu xanh.
Nellie mở cửa. Căn phòng trống trơn. Chiếc áo choàng nằm trên sàn cạnh cây dù đã gãy. Hai đứa lại xổ lồng biến mất tăm.
Ây da. Ai trách được chúng đây? Tụi nhóc đang ở trong một khách sạn năm sao, và chúng muốn khám phá. Nellie quăng người lên chiếc sofa và trao cho mình cái thú thưởng lãm đầy xa hoa thực đơn phục vụ tại phòng.
Hai mươi phút sau, cô nàng đã cày xới được kha khá bảng phân loại các món ăn nhẹ thật quyến rũ có tên là meze. Nhưng thậm chí với những miếng sabanikhiyat cuối cùng trôi tuột vào dạ dày, Nellie vẫn nhận ra bụng mình chứa đầy lo âu hơn là rau bina.
Đã xảy ra chuyện rồi. Đã mất quá nhiều thời gian để Nellie nhận ra điều này. Chuông báo động trong cô lẽ ra đã khua vang từ trước đó rất lâu rồi mới
phải. Nellie đang trở nên cẩu thả. Nên đổ lỗi cho cơn đói hay cho sự mệt mỏi do lệch múi giờ đây, nhưng không thể bào chữa như thế được. Mi sẽ phải giải thích nọ kia nếu vẫn chưa chịu động não ngay bây giờ, Nellie ạ.
Nellie đã được dạy là không tỏ ra hoảng hốt, vì thế cô không hoảng hốt. Cô nàng bật dậy và dò xét căn phòng. Thoạt tiên, cô nhận ra chiếc áo choàng nằm trên sàn cạnh cánh cửa. Trước đó cô cho đấy chỉ là thói quen bừa bãi của Dan, nhưng khi xem xét kỹ càng hơn, Nellie nhận thấy cách nó đang nằm trên sàn giống như ai đó đã cởi phăng nó ra vì rất vội vã. Trong khi đang đứng đối diện cánh cửa...
Nellie nhảy bật về phía trước. Cô nàngỹ lưỡng từng centimet một của cánh cửa. Rồi cô nhìn sang chiếc dù gãy nằm trên sàn. Và mọi thứ đột nhiên trở nên rõ ràng.
***
Nellie trông thấy hai đứa nhóc trước khi chúng phát hiện ra cô. Tim cô nàng thắt lại. Chỉ cần nhìn thấy hai đứa thôi cũng đủ khiến Nellie cảm nhận được một luồng thanh thản ùa đến. Nhưng làm thế nào để mang chúng ra khỏi đó? Nellie hít một hơi sâu và tự trấn an mình. Cô phải giữ cho tụi nó thật bình tĩnh.
Amy nghe thấy tiếng đôi dép khua trên sàn và vội quay phắt lại. Nhưng nỗi sợ hãi trong mắt nó đã chuyển thành cảm giác nhẹ nhõm. “Chị Nellie!” Cô có thể nghe rất rõ tiếng của con bé. Hẳn là khối hộp này không cách âm.
Nellie cắn một miếng pita[2]. “Nơi này là cái gì thế hả?” cô thắc mắc. [2] Bánh mì dẹp vùng Trung Đông.
“Chị Nellie? Ừm, chị có nhận thấy gì không?” Dan hỏi. “Rằng, chúng em đang bị nhốt trong một khối hộp?”
Nó đang cố hành động như chẳng có gì xảy ra, nhưng Nellie vẫn có thể nghe thấy hơi thở nó gấp gáp. Cô đã mang sẵn ống thở trong túi áo phòng khi nó
cần. Nhưng mà sẽ tốt hơn biết bao nếu như nó không cần dùng tới.
Nellie lại cắn thêm một mẩu bánh. Thậm chí trong khi nhai, Nellie vẫn tinh ý đánh giá tình hình qua cái liếc mắt đầy bình tĩnh. Con Saladin xuất hiện, dụi đầu vào mắt cá cô nàng. “Hai cô cậu này là cơn ác mộng tồi tệ nhất của một au pair. Đây có thể là một cách để tôi kiểm soát hai cô cậu. Nó, xem nào, là một phương pháp đó.”
“CHỊ NELLIE!” hai đứa đồng thanh la lên.
“Lão ta có thể quay lại bất cứ lúc nào!” Dan nói.
“Ai chứ?”
“Bae Oh! Lão ta là người đã nhốt chúng em vào đây.”
“Lão già mà hai đứa đã kể với chị đó ư? Lão ta đã làm gì, vật tay với hai đứa hả?”
“CHỊ NELLIE!”
Nellie bước xung quanh khối hộp, rồi dùng ngón tay gõ gõ vào đó. “Có gợi ý gì không?”
“Chị nhìn lên góc trái đằng xa kia,” Amy nói. “Mạch điện nằm ở đó.” “Lão ta đã chỉ tia laze vào đó,” Dan nói thêm.
Nellie vỗ mạnh vào túi áo choàng của cô. “Ui cha, hình như chị không mang theo đèn laze với bài thuyết trình trên PowerPoint rồi.”
“Thôi mà Nellie!”
Cô nàng bước thẳng đến góc tường ngẩng đầu nhìn lên trên. “Chị thấy rồi.” Cô lấy chiếc bánh pita, cúi xuống và cho con Saladin. “Nó thích bánh hummus[3],” cô nói. “Có ai biết điều này chưa?”
[3] Bánh Hummus là một loại bánh truyền thống ở các nước Trung Đông, dùng như món khai vị.
“Thì nó là giống mèo Mau Ai Cập mà,” Dan trả lời. “Biết đâu đây là sản vật quê hương của nó.”
“Đây đâu phải lúc cho mèo ăn chứ!” Amy la lên.
Saladin liếm mép và lại bắt đầu cọ vào chân Nellie đòi ăn thêm.
Nellie bẻ ra một miếng hummus nữa. Cô lại ngẩng đầu nhìn lên góc phòng. Nellie nhắm kỹ rồi ném miếng bánh lên trần nhà. Thiện xạ chính là một trong những kỹ năng của cô nàng, bên cạnh tuyệt chiêu làm sandwich phô mai nướng ngon nhất quả đất. Saladin ngó theo theo ánh nhìn của cô. “Nào, mèo con. Đến lấy thức ăn nào!” Nellie thúc giục.
Saladin nhảy phốc lên tủ kính trưng bày, thu mình lại chuẩn bị phóng lên. Nó lao vút lên trần nhà, đáp xuống khung kim loại giữ hệ thống ánh sáng trong căn phòng. Chú mèo thong thả bước đến cuối thanh sắt, nhảy phốc qua để đi tới chỗ tụ điện, và bắt đầu lm láp bộ phận kích hoạt điện.
Khối hộp hơi lung lay, và dần dần nâng lên.
“Hãy ra khỏi đó mau!” Nellie nói lớn. “Khi nó ăn xong miếng hummus, hai đứa sẽ bị nấu chín đó! Tia laze sẽ kích hoạt trở lại.”
Amy đẩy Dan ra khoảng không gian trống và tự mình lăn theo sau. Con bé nhấc chân ra khỏi vừa kịp lúc Saladin uể oải nhảy trở lại sàn nhà và khối hộp đóng sầm xuống chỗ cũ.
“Lưỡi mèo thật bá cháy,” Nellie nói giọng đầy vẻ hài lòng.
Amy đứng dậy và phủi bụi ở hai cổ tay. “Làm cách nào chị tìm ra chúng em?”
“Cũng mất một lúc,” Nellie trả lời. “Rồi chị trông thấy cái áo choàng của ông nhỏ này trên sàn. Đó là gợi ý chính cho chị tìm hai đứa.”
“Chờ đã,” Dan hậm hực. “Ông nhỏ á?”
“Coi nào, thông thường thì chị sẽ nghĩ rằng việc mở cánh cửa ấy bằng dù thật là quái gở. Nhưng mà chị đã đi theo hai đứa suốt, thế nên mới nghĩ, à tại sao lại không nhỉ?”
“Lão Bae có thể trở lại bất cứ lúc nào,” Dan nói. “Em nghĩ có lẽ chúng ta nên ra khỏi nơi này và tìm cho mình một khách sạn khác.”
“Bae Oh là chủ khách sạn này, chị nhớ không?” Amy nói. “Làm sao chúng ta có thể ra khỏi đây mà không bị phát hiện chứ?”
“Hãy áp dụng sinh học thường thức,” Dan nói, liếc nhìn chiếc áo choàng Nellie đang mặc. “Động vật tự bảo vệ mình bằng màu sắc.”
***
Bae Oh lịch thiệp gật đầu chào người mặc áo đen. “Ông không cần phải có mặt ở đây,” lão nói. “Tình hình vẫn đang được kiểm soát.”
“Ông đã xác định được cháu mình ở đâu chưa?”
“Tôi đã xác định được những đứa thân tín của nó,” Bae nói. Chỉ cần một đêm ở trong căn cứ Ekat, lão đã moi được thông tin mà lão cần. Lũ cháu ngoại của Grace Cahill chỉ là những đứa nghiệp dư. Chúng sẽ phải ói thông tin ra thôi.
“Vẫn còn quá nhiều yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta,” người áo đen lên tiếng. Nhưng Bae không chú ý nữa. Lão nghe thấy tiếng ngao ngao của một con mèo. Khách không được phép mang thú nuôi vào khách sạn Excelsior.
Dưới sự che chắn của cặp kính mát, lão có thể giả vờ đang lắng nghe người đàn ông áo đen trong khi vẫn đang quan sát những gì diễn ra đằng sau vai của
ông ta. Một gia đình du khách mặc áo choàng trắng đang đi về phía hồ bơi. Họ đội nón mua ở cửa hiệu quà tặng, một điều tốt đấy. Lợi nhuận thu được từ cửa hiệu đã đủ trả cho chuyến nghỉ mát của lão đến đảo Maui[4] năm ngoái. Họ mang theo những chiếc balô to bằng vải bố. Du khách lúc nào cũng chất nhiều đồ.
[4] Đảo lớn thứ hai trong quần đảo Hawaii, có thiên nhiên hùng vĩ và là một thiên đường du lịch.
Toán khách du lịch này đang kéo lê inh ỏi một chiếc xe phục vụ phòng. Ngoaooooooo! Đó là tiếng mèo kỳ quặc nhất mà lão từng nghe thấy. Trừ phi bọn họ đang xách theo cả một giỏ chuột hamster cho nó.
Thành viên nhỏ con nhất cúi xuống và nói vào cái balô.
Lần đầu tiên, Bae nhận ra thứ thằng nhóc đó đang mang. Giày cổ cao màu đen.
Lũ cháu Cahill. Làm thế nào bọn chúng trốn ra được?
Ngay cả khi tức giận, Bae vẫn không muốn làm mọi thứ rối lên. Lão trông thấy bảo vệ khách sạn đã có mặt ở góc phòng. Cũng ăn mặc hệt như nhân viên phục vụ với quần trắng áo trắng, bạn sẽ chẳng bao giờ đoán ra được nhiệm vụ của những con người này. Trừ phi bạn để ý đến các cơ bắp cuồn cuộn đằng sau những chiếc sơ mi và loa thoại gắn vào tai họ.
Tất cả những gì lão phải làm là nhấc một ngón tay lên. Nghiêng đầu về hướng chúng đi đến. Bae không muốn người áo đen biết những đứa cháu Cahill đang cố tẩu thoát khỏi khách sạn của mình.
Cánh bảo vệ nhanh chóng đuổi theo, nhưng vẫn rất kín tiếng. Mọi thứ đáng lẽ đã diễn ra hoàn toàn như ý nếu cô gái trẻ không đưa mắt quan sát xung quanh. Cô nàng đã trông thấy ba tay bảo vệ trước khi bọn chúng kịp trở tay. Nhanh như cắt, cả ba rẽ ngang và bắt đầu bỏ chạy.
Không có tiếng động ồn ào. Không ai la ó hay hò hét. Người áo đen vẫn tiếp
tục nói. Bae quan sát cả bọn chạy về đằng sau khách sạn. Chúng chỉ dừng bước trong chốc lát để tìm lại chiếc balô to kềnh ở sau một bụi cây.
Cố thăng bằng hành lý và con mèo đang giận dữ bị nhốt trong một chiếc giỏ xách, họ tiếp tục chạy. Cánh bảo vệ chỉ còn cách những kẻ đào tẩu chừng vài thước khi bọn họ rẽ vào một khúc ngoặt.
Bae cố gắng kiềm một cú ngáp. Lão chẳng cần phải chứng kiến hồi cuối của cuộc đuổi bắt cỏn con này. Lão có trong tay những bảo vệ giỏi nhất Cairo. Bọn kia rồi sẽ bị tóm và xử lý một cách cẩn thận sao cho du khách không hề hay biết. Bọn chúng sẽ được mang đến văn phòng của lão, được giữ lại ở đó. Không có gì phải vội. Cứ để cho chúng nó vã tí mồ hôi chơi.
“Tôi bảo đảm với ông, là mọi thứ vẫn trong vòng kiểm soát,” Bae nói với người đàn ông áo đen.
***
Lao băng băng qua các hòn đá khấp khểnh ở lối xe chạy, Amy, Dan và Nellie phi nhanh đến chỗ rẽ. Nellie cố giữ con Saladin và túi hành lý bằng vải bạt. Chiếc balô của Amy nảy tưng tưng trên lưng con bé, còn giày của Dan bị sút dây. Khi nó thử quay đầu nhìn về phía sau thì cánh bảo vệ cũng đã trờ đến.
“Chúng ta không thoát nổi đâu,” Dan nói trong tiếng thở hồng hộc.
Bất thình lình, một chiếc xe từ bãi đỗ vọt tới. Nó dừng ngay trước mặt cả bọn, ngáng đường chạy của chúng.
Một người phụ nữ nhỏ nhắn tóc bạc phơ mặc tunic và quần thêu trắng nhoài người ra khỏi cửa kính. “Đi nhờ xe không nào?”
Cả bọn chần chừ.
“Ôi khó tin quá hả. Điều quan trọng trước nhất, có lẽ là ta nên tự giới thiệu về mình. Ta là Hilary Vale, và ta có một bức thư dành cho hai cháu. Thư của bà Grace. Ôi những chiếc áo choàng thật đẹp.”
Tiếng bước chân nện thình thịch phía sau họ. “Đứng lại ngay!” một gã bảo vệ hét to.
Hilary nhoài người ra sau và mở cửa xe. “Ta không nghĩ đây là lúc để chần chừ đâu các bé con. Nhảy vào xe đi nào.”
CHƯƠNG 9
HILARY VALE luồn lách qua mạng giao thông của thành phố Cairo với một chân đạp số và một tay bấm còi. Bà tăng tốc, phanh, đảo tay lái để tận dụng mọi khoảng không nhỏ tí xíu có thể nhét chiếc xe vào được.
“Tránh đường nào, đồ đầu đất!” bà thò đầu ra cửa sổ hét lên giọng phấn khởi với bất kỳ ai dám cả gan cắt ngang đầu xe.
Mắt Dan sáng rỡ. “Bà ấy thật là ngon lành,” nó thì thầm với Amy.
Cuối cùng, bà chạy khỏi đường lớn, vọt sang một con phố đáng yêu, và rẽ vào một con đường lái xe vào nhà chạy uốn quanh một khu vườn đầy ắp cây cọ cùng các loại cây hoa cảnh. Bà đỗ xịch xe trước một ngôi nhà màu trắng tao nhã.
Mọi người bước ra khỏi xe, cảm thấy còn hơi buồn nôn sau chuyến xe vũ bão và cú thoát thân trong tích tắc. Sau tiếng ồn và cái nóng gay gắt của phố xá, ngôi nhà mới mát mẻ và yên ắng làm sao. Bà Hilary bước thẳng vào một phòng khách nhỏ, được trang trí bằng những tấm thảm và những chiếc sofa có hoa văn sặc sỡ. Một cây dương cầm nằm ở góc phòng. Những chiếc đèn bằng sứ mờ đặt trên các mặt bàn, những chiếc chậu được xếp thành đống đầy ắp những đóa hoa nở rộ.
Hilary mở cửa chớp. Khi ánh sáng mặt trời soi vào, Amy mới nhận ra các tấm đệm sofa đã sờn, và chiếc bàn đã được đặt vào cốt để che đi một chỗ thủng trên tấm thảm. Tồi tàn nhưng thoải mái, quả là một nơi để ngả lưng và đọc sách hàng giờ liền. Cái bẽn lẽn của con bé cũng vơi đi ngay khi có mặt tại căn phòng này.
“Bây giờ thì hãy cởi... ừm, áo choàng ra đi, và cứ tự nhiên nhé các cháu,” Hilary nói. “Ta đoán có vẻ các cháu đã quên chưa thanh toán chúng cho khách sạn. Có phải vì thế mà các cháu bị mấy tên bị thịt kinh khủng ấy đuổi
theo không? Ôi các cục cưng đáng yêu.”
“Đúng thế,” Dan trả lời. “Chúng cháu đâu biết ở đây bọn họ nghiêm khắc với nạn ăn cắp áo choàng đến vậy.”
Bà chạm nhẹ ngón tay vào cằm Amy và khẽ xoay mặt nó về hướng ánh sáng. “Cháu rất giống Grace,” bà nói. “Đáng yêu vô cùng!”
“Này. Xem thử cái này xem,” Dan kêu lên.
Amy thấy Dan đang ngắm nhìn một bức ảnh nằm trong một cái khung mạ bạc đặt trên cây dương cầm. Con bé bước đến gần. Đó là một bức ảnh trắng đen hình hai thiếu nữ đứng trước tượng Nhân sư.
Con bé nhận ra Grace ngay lập tức. Tóc bà xõa xuống hai vai, đen óng và hơi xoăn. Bà mặc một chiếc váy trắng và mang giày gót thấp. Cánh tay mảnh dẻ, rám nắng của bà vịn vào cô gái tóc vàng xinh xắn đứng bên cạnh.
“Grace là người bạn thân nhất của ta,” Hillary Vale nói. Bà nhẹ nhàng cầm tấm ảnh lên. “Chúng ta gặp nhau tại ký túc xá ở Mỹ. Ta được gia đình gửi sang Mỹ khi Thế chiến thứ hai bắt đầu - cha và mẹ của ta sống tại Cairo này. Grace là gia đình thứ hai của ta trong nhiều năm liền, khi mà việc liên lạc với gia đình còn rất khó khăn vì chiến tranh. Bà ấy đã bao bọc ta, dù ta ít tuổi hơn và phát âm giọng Mỹ của ta nghe rất mắc cười. Sau chiến tranh, ta đã mời bà ấy sang đây trong một dịp nghỉ lễ. Bà ấy rất yêu Ai Cập.” Sự buồn bã trong mắt Hilary thình lình tan biến khi bà vỗ vỗ hai tay vào nhau. “Đã đến giờ tiffin rồi! Các cháu hãy tự nhiên, thoải mái nhé, ta sẽ quay trở lại.”
“Tiffin là gì?” Dan thì thầm. “Một con mèo chăng
“Một bữa ăn nhẹ,” Nellie đáp. “Thường là rất ngon lành.” Cô đặt con Saladin vào lồng và ngả người ra chiếc đi-văng thêu hoa. “Grace đã bao giờ nhắc đến bà ấy chưa nhỉ?”
“Em cũng không nhớ nữa,” Amy trả lời. “Em biết là Grace đã đến Ai Cập, nhưng bà chẳng nói gì nhiều về nơi này.” Chà, có lẽ nó biết, cũng có lẽ
không. Mọi thứ đều quá mơ hồ.
Cairo là một thành phố lý thú.
Bà đến đó chưa vậy, bà Grace?
Tất nhiên là rồi cháu yêu. Nhiều lần. Ôi, lạnh quá, hãy nhìn cơn mưa lạnh lẽo kia. Chúng ta làm thêm một ít bánh sôcôla ăn cho vui nha, cháu nghĩ sao nào?
Đánh lạc hướng và ngụy tạo. Giờ thì Amy đã nhận ra Grace vẫn thường đổi đề tài ra sao mỗi khi ai đó hỏi về các chuyến du hành của mình. Sự ngờ vực len lỏi trong Amy, một lần nữa hất nó ra khỏi sự cân bằng.
Có thêm nhiều bức ảnh khác trên các kệ sách nối từ nền lên đến trần nhà. Amy cầm lên một bức hình đóng khung bạc. Ai đó đã viết bằng bút mực trắng lên trên. Chúng ta, Luxor, 1952. Grace mặc quần dài trông rất bụi bặm và chiếc áo thun nhạt màu, tay áo được xắn lên. Bà đang nheo mắt nhìn mặt trời. Hilary Vale mặc một chiếc váy hoa và đội nón rộng vành. Hình như cả hai đang đứng trước một ngôi đền nào đó. Grace đang đùa với tư thế của người Ai Cập, khuỷu tay cong còn bàn tay hướng ra phía ngoài.
Vừa lúc đó Hilary bước vào phòng tay bưng một chiếc khay lớn và đặt nó xuống cái bàn tròn nhẵn bóng cạnh cửa sổ. Nellie nhanh tay giúp bà dọn những đĩa bánh bột và trái cây đã cắt sẵn xuống giữa bàn.
“Ta thấy các con đang xem mấy bức ảnh ngày xưa,” Hilary nói. “Khó mà tin ngày trước ta trẻ trung đến thế, phải không nào? Hằng năm, Grace đều đến đây và ở cùng với ta. Trong rất nhiều năm.”
“Hằng năm sao?” Amy thắc mắc.
“Có lẽ bà ấy chỉ lỡ chừng dăm ba lần mà thôi. Và dĩ nhiên càng về cuối đời thì việc đi lại của bà càng trở nên khó khăn hơn. Bà ấy cho ta biết về căn bệnh ung thư - Grace rất chân thành. Nhưng khi nghe điều đó ta vẫn rất sốc. Ta chưa bao giờ nghĩ có thứ gì có thể đánh bại được Grace.”
Hilary chỉ tay vào mấy cái ghế, và thế là tất cả ngồi xuống. Amy lướt bàn tay mình dọc theo hai tay vịn bằng gỗ láng bóng. Có lẽ Grace đã từng ngồi trên chiếc ghế này. Con bé ước sao có thể cảm thấy gần gũi với Grace hơn, dù chỉ bằng suy nghĩ ấy. Nhưng nó không thể.
Hilary rót một thứ chất lỏng giống như sữa từ chiếc bình rất đẹp bằng bạc. “Đây gọi là sahlab,” bà giải thích. “Người ta dùng nó trong các quán cà phê trên khắp Ai Cập. Hy vọng các cháu sẽ thích nó.”
Tỏ ra lịch sự, Amy nhấp một ngụm. Ngọt và béo, không giống với bất cứ thứ gì mà nó từng nếm trước đây, nhưng Amy không sao nuốt trôi. Cổ họng con bé nghẹn lại vì những giọt nước mắt lăm le chực tràn ra ngay nếu nó nhắc đến tên Grace.
“Món này thật là tuyệt vời,” Nellie nhồm nhoàm một cái bánh ngọt và cho con Saladin ăn. “Vậy bà nói rằng Grace đã liên lạc với bà trước khi qua đời. Bà ấy đã nói gì với bà ạ?”
Amy gửi tới Nellie một cái nhìn hàm ơn. Nellie đã trông thấy sự bẽn lẽn của nó và hành động thay cho Amy. Lúc nào cũng có thể trông cậy vào Nellie. Dan đang bận bịu bẻ chiếc bánh chanh nên chẳng có thì giờ để ý tới chuyện đó.
Hilary mỉm cười, đứng dậy. “Đúng thế, hãy ngắn gọn nhé, như người Mỹ các cháu vẫn ưa nói như thế. Grace đã gửi cho ta một lá thư và nhờ ta gửi cho bà một vài thứ.” Bà đến bên một chiếc tủ nhỏ và mở nó, lấy ra nhiều món đồ đoạn quay lại ghế ngồi, đặt chúng lên đùi. Amy có cảm giác nó phải ngay lập tức cầm lấy và chạy đi đâu đó để đọc chúng một mình, nhưng nó buộc phải ép mình uống thêm một ngụm sahlab nữa và giữ cho mình bất động.
Hilary đặt lên bàn một quyển sách. “Trước hết, đây là quyển cẩm nang du lịch mà Grace đã sử dụng trong nhiều năm. Bà muốn các cháu giữ nó.” Bà đẩy quyển sách qua chỗ Amy.
Quyển sách dày, bìa cong queo và đã ố vàng, trang sách được giở đi giở lại
rất nhiều lần.
“Tất nhiên là nó đã lỗi thời rồi,” Hilary nói kèm theo một nụ cười. “Nhưng mọi thứ ở đây cũng không thay đổi gì nhiều.”
Amy giở quyển sách ra. Nó nhìn thấy các chú thích ở lề sách viết bằng nét chữ nhiều nét móc của Grace.
Thưởng thức bữa ăn tại đây, chuyến đi năm 1972
Chà, cái này xem chừng không có ích lắm.
“Đây là tấm thiệp Giáng sinh cuối cùng của Grace,” Hilary nói tiếp. “Bên trong có thông điệp bà ấy gửi cho hai cháu.”
Bà trao tấm thiệp cho Amy. Dan dịch chiếc ghế đến gần hơn để xem.
Tấm thiệp từ Bảo tàng Mỹ thuật Boston. Grace đã nhiều lần dắt chúng đến đây. Tấm thiệp vẽ lại một bức tranh quen thuộc, “Ba nhà thông thái mang quà đến bên máng cỏ”.[1]
[1] Ba nhà Thông thái mang quà đến chúc phúc cho Chúa Hài Đồng trong đêm Giáng sinh. Chúa Hài Đồng sinh ra trong máng cỏ, theo Kinh Thánh.
Hilary thương mến,
Chị chúc em và gia đình một mùa Giáng sinh tràn đầy hạnh phúc. Chị tin rằng hai đứa cháu của chị sẽ sớm đến Cairo. Đã đến lúc chị phải nhờ em thực hiện giúp chị một lời hứa mà trước kia em đã từng hứa.
Em hãy gửi bức thư này đến Dan và Amy yêu dấu của chị - Kho báu của bà,
Ai Cập đầy ắiều tuyệt diệu.
Chào mừng hai con - Bà mong các con sẽ thấy hạnh phúc khi ở đó.
Ai Cập là một đất nước vẫn thắm[2] vào trong những giấc mơ của bà. Giá như bà được bằng một nửa grandmother[3] của các con mà lẽ ra bà nên thế, bà ước sẽ được tự mình mang các con đến nơi đó. Bà ước sao mình có thể theo chân hai con khi cả hai đang bước theo những bước chân của bà. Chớ quên nghệ thuật nhé! Hai con có thể luôn kết thúc với những điều cơ bản.
[2] Trong nguyên tác, Grace cố tình viết sai chính tả chữ resonates (âm vang) thành resonates (thấm nhựa). Chúng tôi dịch thoát để giữ tinh thần của văn bản.
[3] Chữ grandmother (bà) chúng tôi giữ nguyên không dịch ra. Thương mến, Grace.
Tái bút: Bà Fenwich gửi lời chúc tốt đẹp đến cho S.
Dan và Amy nhìn xuống phía dưới tấm thiệp. Chính tay của Grace đã cầm bút viết ra những dòng chữ, cả dấu móc kia. Bà dùng một chiếc bút máy như cách bà vẫn thường làm với những bức thư quan trọng. Ở cuối chữ “g” trong “grandmother” có một chấm đen. Dù chúng biết khi viết lá thư này bà đã mắc bệnh, song nét chữ vẫn rất mạnh mẽ và rắn rỏi. Grace biết chúng sẽ đọc lá thư này sau khi mình đã qua đời.
Thậm chí chữ thắm viết sai cũng khiến Amy cảm thấy xốn xang, giống như bà ngoại chúng vẫn còn đang ở căn phòng kế bên, đang ngồi viết thiệp Giáng sinh và gọi nó, “Hãy mang cho bà ly eggnog[4] nào hai cháu cưng? Bà chẳng tìm đâu ra lời chúc Giáng sinh cả!”
[4] Cocktail làm từ trứng, sữa, rượu và kem tươi, phổ biến trong ngày Giáng sinh tại Bắc Mỹ.
Grace để lại cho chúng một lá thư. Sau nhiều tuần nghĩ ngợi, thì rốt cuộc đã xuất hiện lá thư. Nhưng mà lá thư là gì? Nó rất riêng tư - lúc nào bà cũng gọi chúng là kho báu - nhưng đồng thời như thế cũng rất bâng quơ. Giọng của
Grace thì rất hồ hởi, như thôi thúc chúng đi tham quan cả Ai Cập. Như thể chẳng còn điều gì khác phải làm ngoài duy nhất một chuyện là tham quan.
Amy nhìn Dan. Con bé biết phản ứng của thằng em cũng hệt như của mình - đau lòng và bối rối. Thông điệp cuối đời kiểu gì thế không biết?
Dan cầm lấy chiếc phong bì. “Dấu bưu điện ở Nantucket[5]” nó nói. “Gửi từ năm ngoái.”
[5] Đảo Nantucket, nằm ở 30 dặm phía Nam mũi Cod, thuộc bang Massachusetts, Mỹ. Theo tiếng thổ dân thì từ này có nghĩa là vùng đất ở rất xa.
Amy và Dan đưa mắt nhìn nhau. Trong cái nhìn ấy cả hai đã rời bỏ căn phòng của Hilary, rời bỏ thành phố nóng nực, lạ lùng này và trở về một nơi rất đỗi thân quen. Grace có một ngôi nhà nhỏ ở thị trấn Sconset nằm trên đảo Nantucket, cách xa bờ biển Massachusetts. Chúng nhớ bầu trời xanh, những đám mây bông, bầu không khí mằn mặn vị muối. Grace đang vừa nướng bắp trên vỉ nướng vừa làm món bơ chanh. Bà la to, “Con cuối cùng là một con trăn kìm!” và mùi hương biển mát lạnh.
“Chị có nhớ lão bà Fenwick không?” Dan hỏi.
Amy mỉm cười. Betsy Fenwick là hàng xóm của chúng. Amy không còn nhớ nó hay Dan đã gán cho bà biệt danh ấy. Bà đến từ “một trong những gia đình lâu đời nhất vùng Beacon Hill” ở Boston, đó là điều mà bà ấy cố gắng nhét cho bằng được vào mỗi cuộc đối thoại. Bà chê trách Grace, vì bà ngoại chúng đã để mặc cho hoa hồng mọc um tùm, và vận những chiếc quần cũ, đầu đội mũ Yankee trong khi làm vườn.
Lão bà Fenwich cũng không thích mèo, nhưng lại dành hẳn một lòng căm ghét đặc biệt cho Saladin, con vật vì một lẽ nào đó đã chọn khu vườn nhà Fenwick làm nhà vệ sinh riêng của nó. Grace nói, bà cũng không hiểu vì sao có chuyện phiền nhiễu ấy - rốt cuộc thì, chẳng phải việc ấy đã giúp Betsy Fenwich tiết kiệm được tiền mua phân bón cây hay sao? Nhưng cứ như thể mọi thứ đều là trò đùa, bà Fenwich không chấp nhận chuyện này. Bà cấm
Saladin bén mảng vào khu vườn và yêu cầu Grace phải cột quả chuông vào cổ chú mèo. Saladin ghét quả chuông ấy. Nó xem thứ đó thật hạ đẳng chẳng xứng tầm với nó. Ta là một con mèo chứ có phải là chiếc chuông cửa đâu? Dường như nó muốn nói
Nụ cười của Amy nhạt dần đi. Những ký ức về Nantucket khiến nó thậm chí còn thấy rối rắm hơn. Tất cả quãng thời gian họ đã có với nhau! Chẳng làm gì ngoài duy nhất một việc là tận hưởng mùa hè. Tất cả những buổi trưa thật dài, những buổi tối nhìn mặt trời tan vào đại dương... chừng ấy cơ hội để Grace quay sang nói với chúng, Nhân đây, hai con cũng có quyền thừa kế của dòng họ. Và cả một gánh nặng. Ta cần phải giúp hai con.
“Hai con có thể luôn kết thúc với những điều cơ bản.” Nellie đọc lá thư. “Nó có nghĩa là gì?”
“Mỗi khi Grace dắt theo chúng em, bà chẳng bao giờ cho chúng em xem trước cẩm nang,” Dan giải thích. “Hai đứa trước hết phải quan sát, rồi mới đọc xem người khác đã nói gì về nó.”
Hilary nhấc một chiếc hộp nhỏ ra khỏi đùi mình và nói, “Và giờ thì đến lượt lời hứa của ta. Chiếc hộp này đã nằm trong két sắt ở Cairo suốt năm mươi năm nay. Grace đưa ta một chiếc chìa khóa. Ngày hôm qua luật sư của bà ấy vừa mang đến đây. Một ông McIntyre nào đó?”
“Ông McIntyre đang ở Cairo sao?” Amy hỏi lại.
“Một con người đáng mến, dù có hơi cứng nhắc. Ta và ông ấy đã cùng ra ngân hàng để mở két. Bên trong chỉ có duy nhất chiếc hộp này. Ông nói các cháu sẽ sớm đến Cairo và ta sẽ mở nó ra ngay trước mặt mọi người. Các cháu thấy niêm phong vẫn còn, phải không nào? Ta cần cho các cháu thấy rằng nó vẫn còn nguyên vẹn. Nào. Bắt đầu nhé.”
Hilary xé niêm phong. Nắp hộp phát ra tiếng cót két khi bà mở nó. Bên trong có một vật nhỏ được bọc trong vải lanh. “Cho phép ta mở nó nhé?”
Dan và Amy gật đầu đồng ý. Thật nhẹ nhàng, Hilary cầm món đồ lên và mở
lớp vải ra.
Một cặp mắt bằng ngọc lục bảo, cổ xưa và ranh mãnh, chằm chằm nhìn vào mọi người. Đó chính là bức tượng Sakhet bằng vàng.
CHƯƠNG 10
HILARY NGẠC NHIÊN CỰC ĐỘ. “Thánh thần ơi! Nếu bức tượng này là thật thì nó đáng giá cả một gia tài đấy. Grace ơi, bà thật là ranh mãnh.”
Mình thật không thể hình dung nổi chuyện này, Amy thầm nghĩ.
Khác biệt duy nhất nằm ở chỗ bức tượng được đặt trên một tấm đế bằng vàng rất đẹp. Amy nhìn chăm chú vị nữ thần. Bà ta đã bị thời gian bào mòn đi, nhưng vẫn rất đỗi nữ tính và mạnh mẽ.
“Bà ấy tuyệt lắm,” Nellie nói.
“Nếu đây là bức tượng giả thì nó quả thật rất giống thật,” Hillary nói. Bà có vẻ ngập ngừng.
“Nó là gì thế, thưa bà?” Amy thắc mắc.
“Chà. Trong lần đầu tiên Grace đến Cairo - chuyến đi mà hai ta cùng đi với nhau vào năm 1949 - bà ấy có nhờ ta giúp một việc. Bạn bè giúp đỡ nhau, bà nói như thế. Rằng liệu ta có biết một thợ đúc thật giỏi giang nào hay không, một người có thể làm ra một bức tượng giả giống y như thật. Và, thực tế thì ta có biết một người như thế. Grace có quen cha của ta - ông ấy là một thương buôn đồ cổ - có trong tay những tạo tác làm lại từ những món đồ quý giá nhất của ông trong chiến tranh. Để đề phòng tình huống quân Đức lấy cắp chúng đi, các cháu biết đấy. Ta đã cho bà tên của người thợ ấy, và chẳng nghe thêm một điều gì nữa. Vậy vật này... ừm, có thể đây là một bức tượng giả hết sức tinh xảo. Dạo sau đã có ai đó thêm vào cái chân đế bằng vàng sến súa này, rõ ràng là thế.”
“Đúng vậy,” Amy mặt đỏ bừng vì ngượng. Chao ôi - con bé đã nghĩ chiếc chân đế ấy rất đẹp. Rõ ràng Amy còn phải học rất nhiều về các bức tượng có giá trị đặt trong bảo tàng.
Amy đưa mắt trao đổi với Dan. Grace đã làm một bức tượng giả. Có lẽ chính Grace đã lấy cắp bức tượng Sakhet thật - bức tượng do Howard Carter tìm ra - và thay thế bằng một bản sao? Bae kể với chúng rằng các bức tượng đã
được mang đi cất giấu trong chiến tranh và phải mất nhiều năm sau mới tìm thấy chúng cũng như xây dựng xong căn cứ Ekat mới. Trong lúc hỗn loạn ấy, có thể Grace đã chạm tay vào một bức tượng chăng? Có phải đây là bức tượng thật mà Howard Carter đã tìm ra? Chẳng có gì ngạc nhiên khi với chy kỹ thuật phân tích hiện đại họ vẫn không sao tìm ra được khoang bí mật!
Amy nhìn lại bức thư Grace gửi chúng.
Ai Cập đầy ắp những điều tuyệt diệu...
Amy nhớ đã có lần nó đọc được rằng khi Howard Carter tìm thấy lăng vua Tutankhamen, ông cũng chính là người đầu tiên bước vào trong, và khi người ta hỏi xem ông đã thấy gì, Carter đã trả lời “Những điều tuyệt diệu.” Phải chăng Grace đang trích lời của Carter để nhắc cho chúng biết bức tượng Sakhet chính là của Carter?
Chỉ có duy nhất một cách để tìm ra. Nếu bên trong bức tượng Sakhet này có khoang bí mật thì nó chính là bức tượng thật. Amy cảm thấy lạnh sống lưng và run rẩy. Katherine Cahill có thể đã cầm đúng bức tượng này trong tay. Có thể bằng chính tay mình bà đã đặt vào bên trong nó một manh mối.
“Nếu các cháu muốn mang đi kiểm nghiệm, có lẽ là ta biết một chuyên gia ở ngay trong căn nhà này,” Hillary nói.
“Là tôi đây,” Theo Cotter lên tiếng và bước vào phòng.
Amy, Dan và Nellie cùng nhìn lên với vẻ ăn năn hiện rõ trên khuôn mặt. Cả ba biết rằng chúng đã bỏ mặc anh chàng trong lúc khó khăn lúc ở tòa nhà Sennari. “Bà quen anh chàng này sao?” Nellie buột miệng.
Hilary mỉm cười. “Đôi chút.”
Theo cúi thấp người để hôn Hilary. “Cháu chào bà ngoại.” Anh chàng quay sang Amy, Dan và Nellie. “Úi chà, những thủ phạm đây rồi. Cho phép tôi tặng cả ba một mách nước nhé. Các giám tuyển bảo tàng có thể bị chạm nọc khi người ta ném đi những đồ vật trong bảo tàng. Tôi đã phải mất chút thời