🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 33 Chiến Lược Của Chiến Tranh
 Ebooks
Nhóm Zalo
33 CHIẾN LƯỢC CỦA CHIẾN TRANH 
ROBERT GREENE 
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com 
Biên tập ebook: Đặng Tuấn 
Chỉnh sửa chính tả: Như Hảo 
Cung cấp sách: Hố Khô 
Đội ngũ đánh máy: Linh VBoice, Nga Nguyen, Như Hảo, Trinh Ba Duong, Lê Lộc, Mét Bẻ Đôi Ba, Nguyễn Dương, Phù Thủy Cận Thị, Đỗ Việt, Phương Thảo Ngô, Lê Thanh An, Đỗ Văn Búp, Đạt, Trung Nguyen, Hoàng Mạnh Tuấn, Nguyễn Đông Hải, Thúy Vũ, Hồ Cao Duyên, Gia Huy, Duong S Egte, Trương Quang Sơn, Nguyễn Đức Kiệt, Dam Tran, Khanh, Mo Hoang, Nguyễn Bình Minh, Tanpopo, Hang Le
GIỚI THIỆU 
33 chiến lược của chiến tranh là tinh túy của trí tuệ vô tận hàm chứa trong các bài học và nguyên tắc của việc thực hiện chiến tranh. 
Quyển sách được thiết kế để định hướng bạn với tri thức thực hành, tạo ra cho bạn vô số sự lựa chọn và thuận lợi khi đối đầu với những chiến binh lẩn khuất đang tấn công bạn trong cuộc chiến hàng ngày. 
Mỗi chương sách là một chiến lược được chọn lọc từ những tác phẩm và những thực tiễn của các tướng lĩnh cũng như các chiến lược gia vĩ đại nhất trong lịch sử hướng tới việc giải quyết một vấn đề cụ thể mà bạn thường gặp phải. 
Mỗi chương sách cũng được minh họa bằng những ví dụ lịch sử, không chỉ từ bản thân sự thực hiện chiến tranh mà còn từ lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh doanh, chỉ ra sự nối kết giữa quân sự và xã hội.
MỤC LỤC 
LỜI NÓI ĐẦU 
PHẦN 1. CHIẾN TRANH HƯỚNG NỘI 
1. TUYÊN CHIẾN VỚI KẺ THÙ 
2. ĐỪNG CHIẾN ĐẤU VỚI CUỘC CHIẾN VỪA QUA 
3. GIỮA NHỮNG SỰ KIỆN RỐI LOẠN, ĐỪNG ĐÁNH MẤT SỰ MINH MẪN 
4. TẠO MỘT Ý THỨC VỀ SỰ KHẨN CẤP VÀ TUYỆT VỌNG PHẦN II. CHIẾN TRANH CÓ TỔ CHỨC 
5. TRÁNH NHỮNG CÁI BẪY CỦA TƯ DUY THEO NHÓM 6. PHÂN TÁN CÁC LỰC LƯỢNG 
7. CHUYỂN CUỘC CHIẾN TRANH CỦA BẠN THÀNH MỘT CUỘC THẬP TỰ CHINH 
PHẦN III. CHIẾN TRANH PHÒNG NGỰ 
8. CHỌN LỰA TRẬN CHIẾN MỘT CÁCH CẨN THẬN 9. XOAY CHUYỂN CUỘC DIỆN 
10. TẠO RA MỘT VẺ NGOÀI CÓ TÍNH CHẤT ĐE DỌA 
11. ĐỔI KHÔNG GIAN LẤY THỜI GIAN 
PHẦN IV. CHIẾN TRANH CÔNG KÍCH 
12. THUA TRONG NHỮNG TRẬN ĐÁNH NHƯNG THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH TỔNG CHIẾN LƯỢC 
13. NHẬN BIẾT KẺ THÙ 
14. ÁP ĐẢO SỰ CƯỠNG KHÁNG VỚI TỐC ĐỘ VÀ SỰ ĐỘT NGỘT 15. KIỂM SOÁT ĐỘNG LỰC 
16. TẤN CÔNG VÀO NƠI DỄ TỔN THƯƠNG CỦA ĐỐI THỦ 17. ĐÁNH BẠI KẺ THÙ TỪNG PHẦN 
18. CHUYỂN HƯỚNG VÀ TẤN CÔNG VÀO HÔNG ĐỐI THỦ 19. VÂY BỌC QUÂN THÙ
20. LÀM CHO KẺ THÙ SUY YẾU 
21. ĐÀM PHÁN TRONG KHI TIẾN TỚI 
22. BIẾT CÁCH KẾT THÚC 
PHẦN V. THỰC HIỆN CHIẾN TRANH 
23. DỆT MỘT MẠNG KHÔNG ĐƯỜNG NỐI GIỮA SỰ THẬT VÀ HƯ CẤU 
24. CHỌN TUYẾN ĐƯỜNG ÍT KỲ VỌNG NHẤT 
25. CHIẾM LĨNH VÙNG ĐẤT CAO ĐẠO ĐỨC 
26. KHÔNG CHO KẺ THÙ NHẬN THẤY MỤC TIÊU 
27. LÀM RA VẺ NHƯ ĐANG HOẠT ĐỘNG CHO LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LÚC TĂNG CƯỜNG CHO CÁC LỢI ÍCH CỦA CHÍNH MÌNH 
28. TRAO CHO ĐỊCH THỦ ĐỦ DÂY THỪNG ĐỂ HỌ TỰ TREO CỔ 29. CẮN TỪNG MIẾNG NHỎ 
30. THÂM NHẬP VÀO TÂM TRÍ KẺ THÙ 
31. HỦY DIỆT TỪ BÊN TRONG 
32. THỐNG TRỊ TRONG KHI TỎ VẺ PHỤC TÙNG 
33. GIEO RẮC TÌNH TRẠNG PHẬP PHỒNG SỢ HÃI THÔNG QUA CÁC HÀNH ĐỘNG KHỦNG BỐ 
o0o
LỜI NÓI ĐẦU 
Chúng ta sống trong một nền văn hóa vốn cổ động cho những giá trị mang tính dân chủ của việc sống ngay thẳng với tất cả mọi người; cho tầm quan trọng của việc thích ứng với một nhóm; và cho việc hiểu biết cách thức cộng tác với những người khác. Chúng ta được dạy dỗ ngay từ bé rằng những người có vẻ ngoài hiếu chiến và hay gây sự phải trả một cái giá về mặt xã hội: không được quần chúng ưa thích và bị cô lập. Những giá trị của sự hòa hợp và cộng tác này được duy trì theo một cách thức tinh vi hoặc thô thiển – thông qua những quyển sách về cách thức để thành công trong cuộc sống; thông qua những hành xử bề ngoài vui vẻ, hòa bình mà những người đã thành đạt hơn người trên thế giới thể hiện trước mặt quần chúng; thông qua những ý niệm về sự đúng đắn đang thấm đẫm trong không gian cộng đồng. Vấn đề đối với chúng ta là chúng ta được đào tạo và được chuẩn bị để sống hòa bình, chứ không hề được chuẩn bị cho điều mà chúng ta đang đối mặt trong thế giới hiện thực – chiến tranh. 
Đời người trên cõi thế là một bãi chiến trường. 
Job 7:1 
Qui desiderat pacem, praeparet bllium. (Hãy để cho anh ta, kẻ thích hòa bình, chuẩn bị cho chiến tranh). 
Vegetius, thế kỷ 4 Tr. CN. 
Cuộc chiến này tồn tại ở nhiều cấp độ khác nhau. Hiển nhiên nhất là chúng ta có những đối thủ ở phía bên kia. Thế giới ngày càng trở nên đầy tính cạnh tranh và hiểm ác. Trong chính trị, trong kinh doanh, thậm chí trong nghệ thuật, chúng ta đối mặt với những đối thủ hầu như sẽ làm bất cứ điều gì để chiếm lợi thế. Tuy nhiên, rắc rối và phức tạp hơn nhiều, là những cuộc chiến mà trong đó chúng ta phải chạm trán với những người được xem là ở về phía của chúng ta. Có những người ngoài mặt là đồng đội – những kẻ hành xử rất thân thiệt và dễ thương – nhưng đó lại là những kẻ ngầm phá hoại chúng ta ở hậu trường, sử dụng nhóm để cổ động cho những việc riêng của họ. Những kẻ khác, khó phát hiện hơn, thực hiện những trò gây hấn thụ động tinh vi, đề xuất sự giúp đỡ không bao giờ đến, ngấm ngầm chơi xấu chúng ta. Ở ngoại diện, mọi sự dường như khá bình ổn, nhưng ngay bên dưới nó, là mỗi người đàn ông hoặc đàn bà chỉ vì bản thân họ, động lực này tiêm nhiễm ngay cả trong những gia đình hay những mối quan hệ. Văn hóa có thể chối bỏ thực tế này và cổ động cho một bức tranh hòa nhã hơn, nhưng chúng ta biết và cảm nhận được nó, trong những vết sẹo chinh chiến của mình.
Không phải vì chúng ta và các đồng nghiệp của chúng ta là những sinh vật thiếu hiểu biết, những kẻ thất bại trong việc sống theo những lý tưởng hòa bình và vị tha, mà vì chúng ta không thể là như thế. Có những xung động hiếu chiến mà chúng ta không thể làm ngơ hay kiềm chế được. Thời trước, các cá nhân có thể mong chờ một nhóm – một nhà nước, một gia đình mở rộng, một công ty – lo liệu cho họ, nhưng điều này không còn đúng nữa, và trong thế giới vô tình này chúng ta phải suy nghĩ trước tiên và trên hết cho chính bản thân và những lợi ích của chúng ta. Điều chúng ta cần không phải là theo đuổi những ý tưởng bất khả thi và phi nhân tính về hòa bình và sự hợp tác, mà hơn thế, là tri thức có tính thực hành về cách thức xử lý mối xung đột và những cuộc chiến hàng ngày mà chúng ta đang chạm trán. Và tri thức này không phải là về cách làm thế nào để mạnh mẽ hơn trong việc đạt được những gì chúng ta muốn và tự bảo vệ chúng ta, mà đúng hơn, làm thế nào để có lý trí và có chiến lược hơn khi xảy ra xung đột, định hướng cho các xung động gây hấn của chúng ta thay vì chối bỏ hoặc kềm nén chúng. Nếu có một mục tiêu phải hướng tới, thì đó nên là một chiến lược gia, một con người giải quyết được những tình huống khó khăn và điều khiển được mọi người thông qua thủ đoạn khéo léo và thông minh. 
(Chiến lược) cao hơn là một khoa học: nó là sự vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống, là sự phát triển khả năng tư duy để bổ sung cho ý tưởng dẫn dắt ban đầu dưới ánh sáng của những hoàn cảnh không ngừng thay đổi; nó là nghệ thuật hành động dưới áp lực của những điều kiện khó khăn nhất. 
Helmith Von Moltke (1800-1891) 
Nhiều nhà tâm lý học và xã hội học đã lý luận rằng chính nhờ thông qua xung đột mà các vấn đề được giải quyết và những khác biệt thật sự được hòa giải. Có thể truy nguyên những thành công hay thất bại của chúng ta trong cuộc sống từ việc chúng ta xử lý tốt hoặc tồi những xung đột không thể tránh khỏi sẽ đối mặt với chúng ta trong xã hội. Những cách thức thông thường mà mọi người xử lý chúng – cố tránh mọi xung đột, trở nên đầy cảm xúc và dễ kích động, trở nên giả nhân giả nghĩa và mánh khóe – tất cả rốt cuộc đều phản tác dụng, bởi vì chúng không đặt dưới sự kiểm soát của lương tâm và lý trí và thường khiến cho hoàn cảnh xấu đi. Các chiến lược gia hành động khác hẳn. Họ suy nghĩ xa hơn về những mục tiêu dài hạn, quyết định những cuộc chiến nào cần tránh và cuộc chiến nào là không thể tránh khỏi, biết cách làm thế nào để kiểm soát và định hướng những cảm xúc của họ. Khi buộc phải chiến đấu, họ chiến đấu theo đường lối lắt léo quanh co với một thủ thuật tinh tế, khiến cho các mánh khóe của họ khó bị phát hiện. Bằng cách này họ có thể duy trì sự hòa bình bề ngoài cần thiết trong những thời kỳ
chính trị. 
Ý tưởng về sự chiến đấu theo lý trí này đến với chúng ta từ chiến tranh có tổ chức, nơi mà nghệ thuật về chiến lược được phát minh và cải tiến. Thoạt tiên, chiến tranh không có tính chiến lược gì cả. Các trận chiến giữa các bộ lạc diễn ra theo một cung cách tàn bạo, một loại nghi thức bạo lực mà trong đó nhưng cá nhân có thể biểu lộ đức tính anh hùng của họ. Nhưng khi các bộ lạc mở rộng và phát triển thành các quốc gia, hoàn toàn rõ ràng rằng chiến tranh có quá nhiều tổn phí chìm ẩn, rằng việc tiến hành nó một cách mù quáng thường dẫn tới sự suy kiệt và tự hủy diệt, ngay cả đối với kẻ chiến thắng. Bằng một cách nào đó, các cuộc chiến cần phải được tiến hành một cách lý trí hơn. 
Từ “chiến lược” (strategy) xuất xứ từ từ cổ Hy Lạp strategos, có ý nghĩa chính xác là “người chỉ huy của một đạo quân”. Chiến lược theo ý nghĩa này là nghệ thuật của việc chỉ huy, của việc điều động toàn bộ nỗ lực chiến tranh, của việc quyết định những đội hình phải triển khai, địa hình để chiến đấu, những thủ thuật cần áp dụng để chiếm lợi thế. Và khi tri thức này phát triển, những vị chỉ huy quân đội phát hiện ra rằng càng có tư duy và kế hoạch xa rộng hơn, họ càng có nhiều khả năng thành công hơn. Các chiến lược mới lạ có thể cho phép họ đánh bại những kẻ thù lớn mạnh hơn nhiều, như Alexander Đại đế đã thực hiện trong những chiến thắng của ông trước người Ba Tư. Việc đối đầu với những đối thủ cũng hiểu biết và áp dụng chiến lược đã tạo nên một áp lực vận động đi lên: để chiếm ưu thế, một viên tướng phải có đầu óc chiến lược hơn, lắt léo và thông minh hơn đối phương. Theo thời gian, những nghệ thuật chỉ huy quân sự dần dần trở nên phức tạp hơn, cũng như có nhiều chiến lược được phát minh hơn. 
Mặc dù bản thân từ “strategy” bắt nguồn từ Hy Lạp, song khái niệm này vẫn xuất hiện ở mọi nền văn hóa, trong mọi thời kỳ. Các nguyên tắc bền vững về cách xử lý các sự cố bất khả kháng của chiến tranh, cách lên kế hoạch sau cùng, cách tổ chức quân đội tốt nhất – tất cả những điều này có thể tìm thấy trong những cẩm nang chiến tranh từ Trung Hoa cổ đại cho đến châu Âu hiện đại. Thủ thuật phản công, tấn công bên sườn hoặc phát triển đội hình, và các nghệ thuật nghi binh là chuyện bình thường đối với các đội quân của Thành Cát Tư Hãn, Napoleon và vua Shaka của người Zulu. Nhìn tổng thể, các nguyên tắc và chiến lược này biểu thị một kiểu trí tuệ quân sự phổ quát, một tập hợp những khuôn mẫu thích ứng có khả năng gia tăng các cơ may chiến thắng. 
Được, vậy thì, con trai ta, hãy phát triển chiến lược của con. Để các phần thưởng trong các trận đấu không thoát khỏi tay con. Chiến lược làm nên một người tiều phu tốt hơn là sức mạnh. Chiến lược giữ cho con tàu của người hoa tiêu đi đúng hướng khi gió chướng nổi lên trên đại
dương xanh thẳm. Và chiến lược giúp cho những xa phu chiến thắng cuộc đua tài. Có một loại xa phu tin vào những con ngựa và cỗ xe của hắn. Và có những cú ngoặt dại dột ở nơi này nơi khác, trên suốt con đường mà không kềm cương ngựa. Nhưng một người biết cách thắng cuộc với số ngựa ít hơn, luôn căng mắt nhìn vào cột mốc và ngoặt sát cua. Và ngay từ khi xuất phát luôn kềm chắc dây cương. Với đôi tay cứng rắn khi nhìn về kẻ chỉ huy. 
Iliad, Homer, khoảng thế kỷ 9 Tr. CN 
Có lẽ chiến lược gia vĩ đại nhất trong tất cả những người đó là Tôn Tử, tác giả của quyển cổ thư Trung Quốc Binh Pháp. Trong cuốn sách này – có lẽ được viết vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên – chúng ta có thể truy nguyên hầu như tất cả những khuôn mẫu và nguyên tắc chiến lược sẽ được phát triển trong suốt nhiều thế kỷ sau đó. Nhưng điều nối kết chúng lại – trong thực tế là điều thiết lập nên binh pháp trong cách nghĩ của Tôn Tử – là ý tưởng về việc chiến thắng mà không đổ máu. Bằng cách lợi dụng nhược điểm tâm lý của đối phương, bằng cách lừa đối phương vào những vị trí hiểm nghèo, bằng cách tạo ra những cảm giác thất vọng và bối rối, một chiến lược gia có thể khiến cho đối phương sụp đổ về mặt tinh thần trước khi đầu hàng về thể chất. Theo cách này, chiến thắng có thể đạt được ở cái giá thấp hơn rất nhiều. Và quốc gia thắng trận với ít tổn thất nhân mạng và khí tài hơn là quốc gia có thể thịnh vượng trong một quãng thời gian lâu dài hơn. Tất nhiên, phần lớn những cuộc chiến tranh không được tiến hành một cách thuần lý trí, nhưng những chiến dịch trong lịch sử tuân theo nguyên tắc này (Scipio Africanus ở Tây Ban Nha, Napoleon ở Ulm, T. E. Lawrence với những chiến dịch tiêu thổ trong Thế chiến thứ I) trở nên nổi bật và được vận dụng theo. 
Chiến tranh không phải là một lĩnh vực riêng biệt tách rời với phần còn lại của xã hội. Nó là một phạm vi hoạt động hiển nhiên của con người, đầy những điều tốt đẹp và xấu xa nhất trong bản chất của chúng ta. Chiến tranh cũng phản ánh những xu thế trong xã hội. Sự tiến hóa tới các chiến lược phi truyền thống hơn – chiến tranh du kích, chủ nghĩa khủng bố – phản ánh một tiến hóa tương đồng trong xã hội, nơi hầu hết mọi sự vật đang vận động. Các chiến lược thành công trong chiến tranh, dù là theo truyền thống hay phi truyền thống, đều dựa vào tâm lý muôn đời; và những thất bại quân sự lớn đã dạy cho chúng ta nhiều điều về sự ngu xuẩn của con người và những giới hạn của sức mạnh trong bất kỳ đấu trường nào. Quan điểm mang tính chiến lược trong chiến tranh – tính chất cực kỳ lý trí và cân bằng về cảm xúc, nỗ lực chiến thắng với tổn thất tối thiểu về máu đổ và khí tài – có tầm ứng dụng vô hạn và thích đáng với những cuộc chiến hàng ngày của chúng ta. 
Với những giá trị của các thời đại đã in sâu trong tâm khảm, nhiều người sẽ
lý luận rằng chiến tranh có tổ chức vốn có tính dã man – một di tích của quá khứ bạo lực của loài người và là một điều cần khắc phục. Cổ động cho các nghệ thuật chiến tranh trong một môi trường xã hội, họ sẽ nói, là cản trở sự tiến bộ và khuyến khích sự xung đột và bất đồng. Chẳng lẽ thế giới này chưa đủ thứ đó hay sao? Lý luận này rất hấp dẫn, nhưng không hợp lý chút nào cả. Trong xã hội và trong thế giới nói chung, luôn luôn sẽ có những kẻ hung hăng hiếu chiến hơn chúng ta, những kẻ tìm mọi cách để đạt được những gì họ muốn, bằng trăm phương nghìn kế. Chúng ta phải cảnh giác và phải biết cách tự bảo vệ bản thân để chống lại những dạng người này. Các giá trị văn minh sẽ không tiến triển nếu chúng ta buộc phải đầu hàng những kẻ xảo quyệt và hùng mạnh. Trong thực tế, những người theo chủ nghĩa hòa bình khi đối mặt với lũ sói như thế là cội nguồn của một tấn bi kịch vô tận. 
Tự ngã là bạn của một con người biết làm chủ bản thân. Nhưng với ai không biết làm chủ chính mình, tự ngã giống như một quân thù trên chiến trận. 
Kinh Bhagavad Gita, Ấn Độ, khoảng thế kỷ 1 Tr. CN. 
Mahatma Gandhi, người đã nâng sự bất bạo động thành một vũ khí vĩ đại cho biến chuyển xã hội, sau đó chỉ có một mục tiêu giản dị trong đời: đưa Ấn Độ thoát khỏi những lãnh chúa người Anh vốn làm nó lụn bại suốt nhiều thế kỷ. Người Anh là những nhà cai trị thông minh. Gandhi hiểu rằng nếu muốn bất bạo động đạt hiệu quả, nó phải cực kỳ có tính chiến lược, đòi hỏi phải nhiều tư duy và kế hoạch. Ông đã tiến một bước khá xa khi gọi bất bạo động là một phương cách tiến hành chiến tranh mới. Để cổ động cho một giá trị bất kỳ nào, bạn phải sẵn sàng chiến đấu vì nó và hướng về các kết quả – chứ không chỉ là cái cảm giác tốt đẹp, nồng nhiệt khi thể hiện các ý tưởng đó. Một khi hướng tới các kết quả, bạn đã đi vào lĩnh vực chiến lược. Chiến tranh và chiến lược có một logic không thể chuyển dời: nếu bạn muốn hoặc khát khao bất cứ điều gì, bạn phải sẵn sàng và có khả năng chiến đấu vì nó. 
Những người khác sẽ lý luận rằng chiến tranh và chiến lược là những vấn đề chủ yếu mà đàn ông quan tâm, đặc biệt là những kẻ hiếu chiến hoặc nằm trong số tầng lớp ưu tú nhiều quyền lực. Họ sẽ bảo rằng việc nghiên cứu chiến tranh và chiến lược là một mưu cầu thuộc về giống đực, thuộc tầng lớp ưu tú và có tính áp chế, một phương thức để quyền lực duy trì chính nó. Một lý luận như thế thật phi lý và nguy hiểm. Khởi đầu, chiến lược thật sự thuộc về một ít thành phần chọn lọc – một vị tướng, ban tham mưu của ông ta, nhà vua, một số triều thần. Những người lính không được học chiến lược, bởi nó sẽ không giúp ích gì cho họ trên chiến trận. Ngoài ra, trang bị cho những người lính của mình một loại tri thức thực hành có thể giúp họ tổ chức một cuộc binh biến hay nổi loạn là việc kém khôn ngoan. Kỷ nguyên thực dân
chủ nghĩa còn nâng nguyên tắc này lên cao hơn: những người dân bản xứ của các thuộc địa của châu Âu bị cưỡng bách gia nhập các đội quân phương Tây và thực hiện nhiều quân vụ, nhưng ngay cả những người lên tới các chức vụ hành chính cao vẫn không được học hỏi gì về chiến lược, cái được xem là quá nguy hiểm nếu truyền đạt cho họ biết. Chiến lược và các nghệ thuật chiến tranh vốn là một ngành tri thức đặc biệt thật sự chỉ nằm trong tay những tầm lớp ưu tú và chính quyền chuyên chế, những kẻ thích chia cắt và thống trị. Nhưng nếu chiến lược là nghệ thuật của việc đạt tới những kết quả, của việc biến các ý tưởng thành hành động, nó phải được phổ biến xa và rộng, đặc biệt là trong những người có truyền thống không buồn đếm xỉa tới nó, bao gồm cả những người phụ nữ. Trong những câu chuyện thần thoại của hầu hết tất cả những nền văn hóa, những vị thần chiến tranh vĩ đại là phụ nữ, trong đó có Athena của Hy Lạp cổ đại. Sự thiếu quan tâm của một phụ nữ đối với chiến lược và chiến tranh không phải là một thuộc tính sinh học mà là một thuộc tính xã hội, và có lẽ cả thuộc tính chính trị nữa. 
Thay vì kháng cự lại sức hút của chiến lược và những ưu điểm của việc tiến hành chiến tranh theo lý trí hoặc cho rằng nó không đáng quan tâm, đối diện với sự cần thiết của nó là điều tốt hơn nhiều. 
Làm chủ nghệ thuật này rốt cuộc sẽ chỉ làm cho cuộc đời của bạn bình ổn và phong phú hơn, vì bạn sẽ biết cách thức tham gia cuộc chơi và chiến thắng mà không cần bạo lực. Thiếu hiểu biết sẽ dẫn tới một cuộc đời hỗn loạn không ngừng và đầy thất bại 
Sau đây là sáu mô hình lý tưởng cơ bản bạn nên hướng tới để tự biến bản thân thành một chiến lược gia trong cuộc sống hàng ngày. 
Nhìn vào sự việc theo chính bản thân của chúng, không phải theo các cảm xúc của bạn. Trong chiến lược bạn phải xem các phản ứng xúc cảm của bạn đối với các sự kiện như là một căn bệnh phải được chữa trị. Nỗi sợ hãi sẽ khiến bạn đánh giá quá cao kẻ thù và hành động có tính chất tự vệ thái quá. Sự giận dữ và nóng nảy sẽ đẩy bạn tới những hành động hấp tấp làm mất đi các cơ hội chọn lựa của bạn. Sự tự tin thái quá, đặc biệt khi đó là kết quả của sự thành công sẽ khiến cho bạn đi quá đà. Tình yêu và sự cảm động sẽ khiến bạn mù quáng trước những thủ đoạn xảo trá của những kẻ nhìn bề ngoài đang đứng về phía bạn. Ngay cả những cấp độ vi tế nhất của những cảm xúc này cũng có thể làm thay đổi cách thức bạn nhìn vào các sự kiện. Liệu pháp duy nhất là nhận thức rằng không thể tránh khỏi sức hút của cảm xúc, để nhận ra nó ngay khi nó xảy ra và để bù đắp cho nó. Khi bạn thành công, hãy vô cùng thận trọng. Khi bạn giận dữ, không hành động gì cả. Khi bạn sợ hãi, biết rằng bạn sẽ cường điệu những mối hiểm nguy mà bạn đương đầu. Chiến tranh đòi hỏi sự duy thực tột cùng, nhìn sự vật theo bản thân của chúng. Càng hạn chế hoặc càng bù đắp được cho các phản ứng xúc cảm của bạn, bạn càng tiến tới gần mô hình lý tưởng này.
Mặc dù là nữ thần chiến tranh (Athena) không vui thú gì với chiến tranh… mà yêu chuộng cách giải quyết tranh chấp, và duy trì luật pháp bằng những phương tiện hòa bình hơn. Bà không mang thứ vũ khí nào trong những lúc hòa bình, và nếu cần, thường sẽ mượn một bộ từ thần Zeus. Tình thương của bà bao la… Thế nhưng khi bà đã giao chiến, bà không bao giờ thất bại, ngay cả khi chống lại bản thân Ares, vì được trang bị chiến thuật tốt hơn và chiến lược tốt hơn ông ta; và các thuyền trưởng khôn ngoan luôn tìm đến bà để xin một lời khuyên. 
Thần Thoại Hy Lạp, tuyển tập 1, Robert Graves, 1995 
Xét đoán mọi người theo hành vi của họ. Điểm nổi bật của chiến tranh là không hề có một sự hùng biện hoặc cuộc đối thoại nào có thể thanh minh cho một thất bại ở chiến trường. Một vị tướng đã đưa các đội quân của mình tới chỗ bại trận, làm lãng phí sinh mạng, và đó là cách mà lịch sử sẽ phán xét ông ta. Bạn phải cố vận dụng chuẩn mực tàn nhẫn này vào cuộc sống hàng ngày của mình, xét đoán mọi người theo kết quả các hành vi của họ, những hành vi có thể nhìn thấy và đo lường được, các thủ đoạn họ đã sử dụng để đạt được quyền lực. Điều mà mọi người nói về mình không quan trọng; người ta sẽ nói bất cứ thứ gì. Hãy nhìn vào điều họ đã làm; hành vi không biết nói dối. Bạn cũng phải áp dụng logic này cho chính bản thân. Khi nhìn lại một thất bại, bạn phải nhận diện được những điều mà lẽ ra bạn đã phải thực hiện theo cách khác. Không phải sự chơi xấu của đối thủ, mà chính chiến lược tồi tệ của bạn là điều đáng khiển trách về thất bại của bạn. Bạn chịu trách nhiệm về những điều tốt đẹp và tồi tệ trong đời bạn. Như một hệ quả tất yếu của điều này, hãy nhìn vào mọi điều mà những người khác làm như một thủ đoạn chiến lược, một nỗ lực để giành chiến thắng. Ví dụ, những người tố cáo bạn chơi xấu, kẻ làm cho bạn cảm thấy có lỗi, kẻ nói về công bằng và đạo đức, [là những người]1đang cố gắng giành lợi thế trên bàn cờ. 
Trông cậy vào vũ khí của chính bạn. Trong sự kiếm tìm thành công ở cuộc sống, mọi người có khuynh hướng trông cậy vào những điều có vẻ đơn giản, dễ dàng hoặc trước đó đã có hiệu quả. Điều này có thể là việc tích lũy tài sản, những biệt tài xoay xở, có nhiều đồng minh, hoặc có công nghệ mới nhất và lợi thế mà nó mang tới. Nó mang tính vật chất và cơ học. Nhưng chiến lược chân chính có tính tâm lý – một vấn đề của trí tuệ chứ không phải của sức mạnh vật chất. Mọi thứ trong đời có thể bị tước đoạt khỏi bạn và nhìn chung sẽ là như thế vào một thời điểm nào đó. Tài sản tiêu tan, bộ đồ cuối cùng đột nhiên trở thành lỗi thời, các đồng minh lìa bỏ bạn. Nhưng nếu tâm trí bạn được trang bị nghệ thuật chiến tranh, không một sức mạnh nào có thể tước đoạt được nó. Ở giữa một cơn khủng hoảng, tâm trí bạn sẽ tìm ra
con đường đi tới giải pháp đúng của nó. Có những chiến lược cao cấp trong tay, bạn sẽ có một sức mạnh bất khả cưỡng kháng lại. Như Tôn Tử nói: “Sự bất năng khuất nằm trong bản thân ngươi.” 
Và Athena, mắt tinh như mắt cú, nói: “Diomedes, con trai của Tydeus… Ngươi không cần phải sợ Ares hay bất kỳ kẻ bất tử nào khác. Hãy nhìn xem ai đang ở bên ngươi. Hãy phi ngựa thẳng tới Ares, và khi ngươi tới nơi, hãy tấn công. Đừng sợ hãi Ares. Hắn ta chẳng là gì khác hơn một gã thô lỗ gian manh…” Và khi Diomedes phóng tới, bà chĩa mũi giáo của mình vào ức của Ares nơi những nếp vải che phủ nó…[Ares] phóng nhanh lên đỉnh nủi Olympus hờn dỗi quỳ bên cạnh thần vương Zeus. Chỉ cho ngài thấy dòng máu bất tử đang trào ra từ vết thương của mình, và than van những lời như sau: “Hỡi Cha Zeus, người nhìn thấy sự hành hung này mà không nổi cơn cuồng nộ hay sao? Những vị thần chúng con luôn gặp điều tối tệ nhất từ nhau bất cứ khi nào chúng con cố giúp người của mình…” Và Zeus trợn đôi lông mày sấm sét lên: “Tên thô kệch gian xảo kia. Đừng ngồi cạnh ta và than van rên rỉ. Ngươi là vị thần xấu nết nhất trên núi Olympus. Ngươi thật sự thích đánh nhau và chiến tranh. Ngươi giống hệt bà mẹ Hera cứng đầu của ngươi. Ngay cả ta cũng khó mà cai quản được bà ta… Dù là như thế, ta không thể chịu nổi khi nhìn thấy ngươi đang đau đớn…” Và ngài gọi Paieon tới chữa vết thương cho Ares… Thế rồi quay về cung điện của thần Zeus vĩ đại Argive Hera và Athena Kẻ bảo vệ, đã ngăn không cho Ares thô lỗ tàn sát con người. 
Iliad, Homer, khoảng thế kỷ 9 Tr. CN. 
Tôn thờ Athena chứ không phải Ares. Theo thần thoại Hy Lạp cổ đại, người thông minh nhất trong tất cả những vị thần bất tử là nữ thần Metis. Để phòng ngừa bà đánh lừa và hủy diệt mình, thần Zeus cưới bà, rồi nuốt chửng bà vào bụng, hy vọng sẽ hợp nhất được với trí thông minh của bà. Nhưng Metis đã mang thai với Zeus và có con là nữ thần Athena, người sau đó được sinh ra từ trán của ngài. Để thích hợp với dòng dõi của mình, Athena được ban cho tính xảo trá của Metis và khả năng chiến đấu của Zeus. Người Hy Lạp xem bà là nữ thần của chiến tranh có chiến lược, kẻ mà bà yêu thích nhất trong số những phàm nhân là Odysseus mưu lược. Ares là thần chiến tranh dưới hình thức tàn bạo và trực tiếp. Người Hy Lạp xem thường Ares và tôn thờ Athena, người luôn luôn chiến đấu với trí thông minh và sự tinh tế tột bậc. Mối quan tâm của bạn trong chiến tranh không phải là bạo lực, sự dã man, sự lãng phí nhân mạng và khí tài, mà là tính hợp lý và hành động thực tế buộc phải tiến hành nó với lý tưởng chiến thắng mà không đổ máu. Những mẫu người kiểu Ares trên thế giới thật sự hoàn toàn ngu xuẩn và dễ bị làm cho mê muội. Sử dụng sự thông tuệ của Athena, mục tiêu của bạn là chuyển
bạo lực và tính hiếu chiến của dạng người đó chống lại chính họ, làm cho sự tàn bạo của họ trở thành nguyên nhân của sự suy vong. Như Athena, bạn luôn đi trước một bước, di động một cách lắt léo. Mục tiêu của bạn là phối hợp triết học và chiến tranh, sự khôn ngoan và chiến trận thành một hỗn hợp vô địch. 
Nâng cao bản thân bạn lên trên cuộc chiến. Trong chiến tranh, chiến lược là nghệ thuật chỉ huy toàn bộ hoạt động quân sự. Các chiến thuật, mặt khác, là kỹ năng để bày binh bố trận trên chiến địa và xử lý những nhu cầu tại chỗ của chiến trận. Phần lớn chúng ta trong đời là những chiến thuật gia chứ không phải là những chiến lược gia. Chúng ta trở nên quá vướng víu vào những xung đột mà chúng ta đối đầu đến nỗi chỉ có thể nghĩ về cách làm thế nào để đạt được điều chúng ta muốn trong cuộc chiến đang xảy ra. Tư duy một cách chiến lược là điều khó khăn và trái với tự nhiên. Bạn có thể tưởng rằng bạn là một chiến lược gia, nhưng rất có khả năng bạn chỉ đơn giản là một chiến thuật gia. Để có được sức mạnh mà chỉ có chiến lược gia mới mang tới được, bạn phải có khả năng nâng cao chính bản thân lên trên cuộc chiến, tập trung vào những mục tiêu dài hạn của mình, hình dung ra một chiến dịch tổng thể, để thoát khỏi kiểu phản ứng mà bạn đã quen thuộc trong rất nhiều cuộc chiến trong đời. Giữ các mục tiêu tổng thể của bạn trong tâm trí, bạn sẽ dễ dàng quyết định được khi nào chiến đấu và khi nào rút lui. Điều đó làm cho những quyết định có tính chiến thuật hàng ngày trở lên đơn giản và hợp lý hơn. Các chiến thuật gia luôn luôn nặng nề và dính chặt vào mặt đất; các chiến lược gia thì khinh khoái và có thể nhìn xa trông rộng. 
Tinh thần hóa cuộc chiến của bạn. Mỗi ngày bạn phải đối diện với những cuộc chiến – đó là thực tế đối với mọi sinh vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhưng cuộc chiến lớn nhất là cuộc chiến với chính bản thân – với sự nhu nhược của bạn, những cảm xúc của bạn, sự thiếu kiên quyết của bạn – trong việc nhìn nhận mọi sự vật cho tới điểm tận cùng. Bạn phải tuyên chiến không ngừng với chính bạn. Với tư cách là một chiến binh trong cuộc sống, bạn chào đón chiến trận và xung đột như là những cách thức để tự chứng tỏ mình, để trau dồi những kỹ năng, để đạt được lòng can đảm, sự tự tin và kinh nghiệm. Thay vì kìm nén những nghi vấn và sợ hãi của mình, bạn phải đối diện với chúng, chiến đấu với chúng. Bạn muốn có nhiều thách thức hơn, và bạn chào mời nhiều chiến tranh hơn. Bạn đang rèn luyện tinh thần của một chiến binh, và chỉ có việc thực hành thường xuyên mới đưa bạn tới đích. 
33 chiến lược của chiến tranh là tinh túy của trí tuệ vô tận hàm chứa trong các bài học và nguyên tắc của việc thực hiện chiến tranh. Quyển sách được thiết kế để định hướng bạn với tri thức thực hành, tạo ra cho bạn vô số lựa chọn và thuận lợi khi đối đầu với những chiến binh lẩn khuất đang tấn công bạn trong cuộc chiến hàng ngày. 
Mỗi chương sách là một chiến lược hướng tới việc giải quyết một vấn đề cụ
thể mà bạn thường gặp phải. Những vấn đề như thế bao gồm việc chiến đấu với một đạo quân vô mục đích ở sau lưng bạn; cảm giác bị áp đảo bởi sự xung đột chiến lược, tình trạng không nhất quán giữa các kế hoạch và thực tiễn; việc vướng vào những tình huống mà bạn không thể thoát ra được. Bạn có thể đọc các chương ứng dụng cho một vấn đề cụ thể trong từng thời điểm. Tuy vậy, tốt hơn bạn nên đọc tất cả các chiến lược, thẩm thấu chúng, cho phép chúng trở thành một phần trong kho vũ khí tinh thần của bạn. Ngay cả khi bạn tránh né một cuộc chiến, không chiến đấu với ai, nhiều chiến lược trong sách này cũng đáng được biết tới vì những mục đích phòng vệ và vì chúng giúp bạn nhận thức được điều mà đối phương có thể tiến hành. Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng không được xem là học thuyết hay công thức lặp đi lặp lại mà là những trợ lực để xét đoán trong không khí nóng bỏng của cuộc chiến, là những hạt giống sẽ mọc rễ bên trong bạn và giúp bạn tư duy về bản thân, phát triển nhà chiến lược tiềm ẩn trong đó. 
Nếu chống chiến tranh người ta có thể nói: nó khiến cho kẻ chiến thắng ngu xuẩn, kẻ bại trận thù hiềm. Ủng hộ chiến tranh: thông qua việc tạo ra hai hiệu quả này nó đã dã man hóa họ và do đó tạo nên nhiều tự nhiên tính hơn; nó là mùa đông hay thời gian không hoạt động của văn hóa, nhân loại nảy sinh từ nó mạnh mẽ hơn ở cả mặt tốt đẹp lẫn xấu xa. 
Friedrich Nietzsche, 1844-1900 
Bản thân các chiến lược được chọn lọc từ những tác phẩm và những thực tiễn của các tướng lĩnh vĩ đại nhất trong lịch sử (Alexander Đại đế, Hannibal, Thành Cát Tư Hãn, Napoleon Bonaparte, Shaka người Zulu, William Techumseh Sherman, Erwin Rommel, Võ Nguyên Giáp) cũng như những chiến lược gia vĩ đại nhất (Tôn Tử, Miyamoto Musashi, Carl von Clausewitz, Ardant du Picq, T. E Lawrence, đại tá John Boyd). Chúng trải từ các chiến lược cơ bản của chiến tranh cổ điển cho tới những chiến lược bẩn thỉu phi truyền thống của thời hiện đại. Quyển sách này phân thành năm phần: chiến tranh hướng nội (cách thức chuẩn bị tâm trí và tinh thần của bạn cho cuộc chiến); chiến tranh có tổ chức (cách thức cơ cấu và điều động quân đội của bạn); chiến tranh phòng ngự; chiến tranh tấn công; và chiến tranh phi truyền thống (bẩn thỉu). Mỗi chương được minh họa bằng ví dụ lịch sử, không chỉ từ bản thân sự thực hiện chiến tranh mà còn từ lĩnh vực chính trị (Margaret Thatcher), văn hóa (Alfred Hitchcock), thể thao (Muhammad Ali), kinh doanh (John D. Rockefeller), chỉ ra sự nối kết giữa quân sự và xã hội. Những chiến lược này có thể được áp dụng để đấu tranh ở mọi cấp độ: chiến tranh có tổ chức, các tranh chấp kinh doanh, quan hệ giữa các chính trị gia của một nhóm, và thậm chí cả những mối quan hệ cá nhân.
Không có chiến tranh, con người trở nên mụ mẫm trong tiện nghi và sung túc và đánh mất khả năng đối với những tư tưởng và cảm giác lớn lao, họ trở nên hoài nghi và chìm vào tình trạng dã man. 
Fyodor Dostoyevsky, 1821-1881 
Tóm lại, chiến lược là một nghệ thuật đòi hỏi không chỉ một cách tư duy khác biệt mà còn đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn khác đối với bản thân cuộc sống. Rất thông thường, có một cách biệt lớn giữa một bên là các ý tưởng và tri thức với bên kia là kinh nghiệm thực tiễn. Chúng ta hấp thu những thứ linh tinh và những thông tin choáng chỗ trong trí óc nhưng chẳng mang lại gì cho chúng ta cả. Chúng ta đọc những quyển sách làm cho đầu óc thư giãn nhưng ít khi thích ứng với cuộc sống hàng ngày. Chúng ta có những ý tưởng cao thượng mà không biến chúng thành hành động. Chúng ta cũng có nhiều kinh nghiệm phong phú mà không hề phân tích chúng một cách trọn vẹn, để gợi cho chúng ta nảy ra những ý tưởng, và rồi chúng ta bỏ qua những bài học của chúng. Chiến lược đòi hỏi một mối quan hệ thường xuyên giữa hai lĩnh vực. Nó là tri thức thực hành ở hình thái cao nhất. Những sự kiện trong đời sống không có ý nghĩa gì cả nếu bạn không suy ngẫm một cách sâu xa về chúng, và các ý tưởng từ những cuốn sách cũng là vô nghĩa nếu chúng không có những ứng dụng vào hiện thực cuộc sống. Trong chiến lược, toàn bộ cuộc đời là một trận thi đấu mà bạn tham gia. Trận thi đấu này lý thú nhưng cũng đòi hỏi sự chú tâm sâu sắc và nghiêm túc. Những món tiền đặt cược quá cao. Những gì bạn biết phải chuyển hóa thành hành động, và hành động phải chuyển hóa thành chi thức. Theo cách này, chiến lược trở thành một thách thức trọn đời người và là nguồn cội của niềm vui bất biến trong việc khắc phục những khó khăn và giải quyết những vấn đề nan giải. 
Tự nhiên đã quyết định rằng loài nào không thể tự vệ được sẽ không được bảo vệ. 
Ralph Waldo Emerson, 1803 – 1882 
Trong thế giới này, nơi trò chơi được tiến hành với con súc sắc đã gieo, con người phải có một tính cách sắt thép, với lớp áo giáp chống ngăn được cú đấm của định mệnh và những vũ khí để đương cự với kẻ khác. Cuộc đời là một trận chiến lâu dài; chúng ta phải chiến đấu trên từng bước chân; và Voltaire đã cực kỳ chí lý khi nói rằng nếu chúng ta thành công, đó là ở mũi kiếm, và rằng chúng ta chết với vũ khí trong tay. 
Authur Schopenhauer, 
Chỉ dẫn và châm ngôn, 1851
PHẦN 1. CHIẾN TRANH HƯỚNG NỘI 
Chiến tranh, hoặc bất kỳ dạng xung đột nào, được tiến hành và thu được thắng lợi thông qua chiến lược. Tư duy về chiến lược như là một chuỗi những đường thẳng và những mũi tên hướng vào một mục tiêu: vào việc đưa bạn tới một điểm nhất định trong thế giới, vào việc giúp cho bạn tấn công vào một trở ngại trên con đường của bạn, và việc tìm ra cách thức để bao vây và tiêu diệt quân thù; tuy nhiên, trước hết bạn phải hướng chúng về chính bạn. Tinh thần của bạn là xuất phát điểm của mọi cuộc chiến và mọi chiến lược. Một tinh thần dễ bị chế ngự bởi cảm xúc – cái bắt nguồn từ quá khứ thay vì hiện tại, không thể nhìn thế giới với sự rõ ràng và khẩn cấp – sẽ tạo ra những chiến lược lệch khỏi mục tiêu. Để trở thành một chiến lược gia chân chính, bạn phải tiến hành ba bước. Trước hết, phải nhận thức về những yếu kém và nhược điểm đang nằm trong tâm trí vốn làm méo mó những sức mạnh chiến lược của nó. Thứ hai, tuyên chiến với bản thân để thúc đẩy bản thân tiến bộ. Thứ ba, tiến hành một cuộc chiến liên tục không ngừng với những kẻ thù bên trong bạn bằng cách vận dụng những chiến lược nhất định. Bốn chương tiếp theo được thiết kế để giúp bạn nhận thức về những rối loạn có lẽ đang làm nhiễu nhương tâm trí bạn ngay lúc này, và đưa ra cho bạn những chiến lược cụ thể để loại bỏ chúng. Những chương này là những mũi tên hướng về chính bạn. Một khi bạn đã hấp thụ chúng thông qua tư duy và thực hành, chúng sẽ phục vụ cho bạn như là một công cụ tự điều chỉnh ở tất cả mọi trận chiến sắp tới của bạn, giải phóng chiến lược lớn lao bên trong bạn.
1. TUYÊN CHIẾN VỚI KẺ THÙ 
CHIẾN LƯỢC PHÂN CỰC 
Cuộc đời là chiến tranh và xung đột vô tận. Bạn không thể chiến đấu có hiệu quả trừ phi bạn nhận diện được kẻ thù – những người xảo trá và hay lẩn tránh, che giấu những dự định của họ, giả vờ đứng về phía bạn. Bạn cần sự sáng tỏ. Hãy học cách phát hiện ra những kẻ thù của bạn, nhận diện họ bằng những dấu hiệu và khuôn mẫu biểu lộ sự thù địch. Và rồi, một khi bạn đã có họ trong tầm ngắm, hãy thầm lặng tuyên chiến. Giống như hai cực của một thỏi nam châm tạo ra sự chuyển động – những đối cực của bạn – có thể giúp bạn đề ra mục đích và phương hướng. Khi mọi người chắn ngang con đường của bạn, những người đại diện cho điều bạn kinh tởm, những người phản ứng chống lại bạn, họ là một nguồn năng lượng. Đừng ngây thơ: với một số kẻ thù sẽ không có thỏa hiệp nào hết, không có khoảng đất trung lập. 
Xenophon cho triệu tập các sĩ quan thuộc cấp của Proxenos. Khi họ đến đông đủ, ông nói: “Quý vị, ta không thể ngủ và ta nghĩ các vị cũng thế; và ta không thể dối trá ở đây khi thấy chúng ta đang ở trong một tình cảnh tuyệt vọng như thế này. Hiển nhiên quân thù không công khai gây chiến với chúng ta cho tới khi mọi việc đã chuẩn bị ổn thỏa; và không một ai trong chúng ta chịu trách nhiệm để kháng cự lại ở mức tốt nhất có thể được. “Thế nhưng nếu chúng ta đầu hàng và rơi vào tay lực lượng của nhà vua, số phận nào sẽ chờ đợi chúng ta? Khi người anh em họ của ông ta chết, ông ta cắt đầu, cắt tay của hắn và cắm vào cọc nhọn. Không có ai bênh vực cho chúng ta, và chúng ta hành quân tới đây để bắt nhà vua làm nô lệ hoặc giết chết ông ta nếu có thể, vậy quý vị nghĩ xem số phận chúng ta sẽ ra sao? Lẽ nào ông ta không áp dụng những cực hình ghê gớm nhất để cho toàn thế giới e sợ việc gây chiến với ông ta? Chúng ta phải làm bất cứ điều gì để thoát khỏi sức mạnh của ông ta! Trong khi thời gian ngưng chiến còn kéo dài, tôi không thôi cảm thương cho bản thân chúng ta, không ngừng chúc mừng cho nhà vua và quân đội của ông ta. Tôi đã thấy đất nước này rộng lớn thế nào, quân lượng nhiều vô tận, người hầu cận đông như kiến, gia súc, và vô kể vàng bạc, áo quần! Nhưng khi tôi nghĩ tới những người lính của chúng ta – chúng ta không có phần chia nào trong tất cả những thứ đó trừ phi mua chúng, vả lại còn rất ít thứ để mua; và việc sản xuất ra mà không có ai mua sẽ bị lời nguyền của chúng ta. Vì thế, đôi khi tôi thấy sợ cuộc đình chiến bây giờ còn hơn cả chiến tranh, “Tuy nhiên, bây giờ họ đã phá vỡ tạm ước đình chiến, thôi láo xược và ngờ vực chúng ta. Tất cả những thứ tốt đẹp đã
bày ra trước mặt chúng ta, các giải thưởng cho bất cứ bên nào chứng tỏ mình tài giỏi hơn; các thần linh là những trọng tài phân xử cuộc thi này, và tất nhiên họ sẽ đứng về phía chúng ta… “Khi quý vị đã được bổ nhiệm chức vụ chỉ huy với số quân theo yêu cầu, hãy tập hợp các binh lính lại và động viên họ, rằng giờ đây đã có thứ mà họ muốn. Có lẽ quý vị sẽ tự nhận ra họ đã chán nản thế nào khi vào trong trại, hoặc khi canh gác; ở một tình trạnh như thể ta không biết quý vị có thể làm gì với họ… Nhưng nếu có ai đó có thể giúp họ thôi lo lắng về cái gì sẽ xảy ra với họ, và khiến họ nghĩ về cái mà họ có thể làm, họ sẽ vui vẻ hơn nhiều. Quý vị biết rằng không phải số quân hay sức mạnh mang tới chiến thắng mà bất kỳ quân đội nào chiến đấu với tinh thần mạnh mẽ hơn, kẻ thù của họ, kẻ đó sẽ chiến thắng.” 
Anabasis: Cuộc hành quân về đất nước Xenophon, 430?-355? Tr. CN. KẺ THÙ BÊN TRONG 
Mùa xuân năm 401 trước Công nguyên, Xenophon, một nhà quý tộc ba mươi tuổi sống ở ngoại thành Athens, nhận được một lời mời đáng ngờ: một người bạn đã tuyển dụng những binh sĩ Hy Lạp để làm lính đánh thuê cho Cyrus, anh của vua Ba Tư Ataxerxes, và đề nghị ông ta cùng đi. Lời đề nghị có điều gì đó bất thường: người Hy Lạp và người Ba Tư từ lâu đã là những kẻ thù quyết liệt với nhau. Thực tế, khoảng tám mươi năm trước, Ba Tư đã cố xâm chiếm Hy Lạp. Nhưng người Hy Lạp, những chiến binh nổi tiếng, đã đề nghị được phục vụ cho người trả giá cao nhất, và trong phạm vi Đế quốc Ba Tư có những thành phố nổi loạn mà Cyrus muốn trừng phạt. Những chiến binh đánh thuê Hy Lạp sẽ là lực lượng tiếp viện hoàn hảo trong đội quân to lớn của ông ta. 
Xenophon không phải là một người lính. Thật sự, nhờ vào di sản thừa kế, ông sống một cuộc sống hưởng thụ, nuôi chó và ngựa, du hành vào Athena để triết đàm với người bạn thân Socrates. Tuy vậy, ông muốn phiêu lưu, và lần này ông có cơ hội để gặp Cyrus vĩ đại, tìm hiểu về chiến tranh, thăm nước Ba Tư. Có lẽ khi mọi sự kết thúc, ông sẽ viết một cuốn sách. Ông không đi với tư cách lính đánh thuê [ông quá giàu có] mà với tư cách một triết gia và sử gia. Sau khi hỏi ý kiến nhà tiên tri ở Delphi, ông chấp nhận lời mời. Có khoảng 10.000 binh sĩ Hy Lạp tham gia trong cuộc viễn chinh trừng phạt của Cyrus. Những người lính đánh thuê này là một đội quân hỗn tạp từ khắp các vùng của Hy Lạp, tới đó vì tiền và vì sự mạo hiểm. Họ đã có một thời gian thú vị, nhưng sau vài tháng, sau khi đã đưa họ đi sâu vào Ba Tư, Cyrus thừa nhận mục đích thực sự của ông ta: ông ta đang hành quân tới Babylon, tiến hành một cuộc nội chiến để lật đổ người em của mình và lên ngôi vua. Bất mãn vì bị lừa gạt, những người Hy Lạp cãi cọ và than phiền,
nhưng Cyrus trả thêm tiền cho họ, và việc này làm họ dịu lại. Những đạo quân của Cyrus và Ataxerxes gặp nhau trên những cánh đồng ở Cunaxa, gần Babylon. Ngay từ đầu cuộc chiến, Cyrus đã bị giết chết, cuộc chiến nhanh chóng đi đến kết thúc. Lúc này vị thế của những người Hy Lạp đột nhiên trở nên bấp bênh: chiến đấu ở phía phi nghĩa, cách xa tổ quốc và bị bao vậy bởi những người Ba Tư thù địch. Tuy nhiên họ sớm được thông báo rằng Ataxerxes không muốn bất hòa với họ. Mong muốn duy nhất của ông ta là họ rời khỏi Ba Tư càng sớm càng tốt. Thậm chí ông ta còn cử tới một sứ giả, viên chỉ huy Ba Tư Tissaphernes, để cung cấp lương thực và hộ tống họ quay về Hy Lạp. Thế là, với sự chỉ đạo của Tissaphernes và quân Ba Tư, đội quân đánh thuê bắt đầu chuyến hành trình xa khoảng năm trăm dặm về tổ quốc. Một vài ngày sau khi khởi hành, những người Hy Lạp phải đương đầu với những nỗi sợ mới: số thực phẩm do người Ba Tư cung cấp không đủ và lộ trình mà Tissaphernes chọn cho họ có vấn đề. Họ có thể tin vào những người Ba Tư này không? Họ bắt đầu tranh luận với nhau. 
Viên chỉ huy Hy Lạp Clearchus bày tỏ những quan ngại của binh lính ông ta với Tissaphernes, người tỏ ra thông cảm: Clearchus nên mang theo những viên sĩ quan của ông tới dự cuộc họp ở một địa điểm trung lập, người Hy Lạp sẽ trình bày những khó khăn của họ, và hai bên sẽ có thể thông hiểu lẫn nhau. Clearchus đồng ý. Ngày hôm sau, ông cùng với các viên sĩ quan tới đúng theo thời gian và địa điểm ấn định. Tuy nhiên, một đạo quân lớn của Ba Tư đã bao vây và bắt giữ họ. Họ bị chém đầu ngay hôm đó. 
Có một viên sĩ quan chạy thoát được, quay về báo cho những người Hy Lạp về sự phản phúc của người Ba Tư. Chiều hôm đó doanh trại của người Hy Lạp bỗng hóa tiêu điều. Một số người tranh cãi và đổ lỗi; những người khác uống rượu say mèm. Một số ít muốn bỏ trốn, nhưng vì chỉ huy của họ đã chết, họ cảm thấy đã đến hồi tận số. Đêm đó Xenophon, người hầu như đứng ngoài lề trong suốt cuộc viễn chinh, có một giấc mộng: một tia sét từ thần Zeus đốt cháy căn nhà của cha ông ta. Ông tỉnh dậy, mồ hôi tuôn ướt. Đột nhiên ông nhận ra rằng: cái chết đang đối mặt với người Hy Lạp, thế mà họ nằm lăn ra đó rên rỉ than van, tuyệt vọng và cãi cọ nhau. Vấn đề nằm trong đầu của họ. Chiến đấu vì tiền thay vì một mục đích hay nguyên nhân, không phân biệt giữa bạn và thù, họ đã lạc lối. Những ngăn trở giữa họ và quê hương không phải là những con sông, những ngọn núi hay quân đội Ba Tư mà là tình trạng tinh thần sa sút của họ. Xenophon không muốn chết một cách ô nhục như thế. Ông không phải là một nhà quân sự, nhưng ông hiểu biết triết học và cách con người tư duy, và ông tin rằng nếu những người Hy Lạp tập trung vào những kẻ thù muốn giết họ, họ sẽ trở nên tỉnh táo và sáng tạo. Nếu họ tập trung vào sự lừa dối đê hèn của người Ba Tư, họ sẽ nổi giận, và sự giận dữ đó sẽ thôi thúc họ hành động. Họ sẽ không còn là những người lính đánh thuê hỗn loạn và trở lại thành những chiến binh Hy Lạp, đối thủ
của những người Ba Tư không trung thực. Cái họ cần là sự sáng suốt và phương hướng. 
Xenophon quyết định trở thành tia sét của thần Zeus, đánh thức mọi người dậy và soi sáng đường đi của họ. Ông triệu tập một cuộc họp với tất cả những viên chỉ huy còn sống sót và phát biểu về kế hoạch của mình: Chúng ta sẽ tuyên chiến không thương lượng với người Ba Tư – không còn những ý nghĩ về việc mặc cả hay tranh chấp. Chúng ta sẽ không lãng phí thời gian vào việc cãi cọ hay buộc tội lẫn nhau; mỗi một phân năng lượng của chúng ta sẽ dành cho bọn Ba Tư. Chúng ta sẽ đầy sáng tạo và đầy ngẫu hứng như tổ tiên của chúng ta ở Marathon, những người đã chiến đấu với một đội quân Ba Tư lớn hơn nhiều. Chúng ta sẽ đốt những cỗ xe, rời khỏi đất này và lên đường thật nhanh. Không một giây nào chúng ta hạ vũ khí hoặc lãng quên mối hiểm họa vây quanh. Chỉ có ta hoặc địch, sống hoặc chết, tốt đẹp hoặc tồi tệ. Nếu còn có người nào gây rối cho chúng ta với những câu chuyện thông thái hay những ý tưởng mơ hồ về sự nhân nhượng, chúng ta sẽ tuyên bố rằng hắn quá ngu xuẩn và hèn nhát để có thể đứng về phía chúng ta, và sẽ đuổi cổ hắn đi. Hãy để cho người Ba Tư biến chúng ta thành những kẻ không biết xót thương. Chúng ta phải nung nấu một ý tưởng: còn sống sót trở lại quê nhà. Những viên sĩ quan biết rằng Xenophon nói đúng. Ngày hôm sau, một viên sĩ quan Ba Tư tới gặp họ, đề nghị sẽ hành động với tư cách một đại sứ giữa họ và Ataxerxes; theo ý kiến của Xenophon, họ nhanh chóng và thô bạo đuổi anh ta về. Lúc này chỉ có chiến tranh và không gì khác. 
Được đánh thức để hành động, người Hy Lạp bầu những viên chỉ huy, trong số họ có Xenophon, và bắt đầu hành quân về tổ quốc. Buộc phải dựa vào trí khôn ngoan, họ nhanh chóng học được cách thích nghi với địa hình, tránh đánh nhau, di chuyển vào ban đêm. Họ lẩn tránh một cách thành công quân Ba Tư, đánh tan chúng ở một ngọn đèo then chốt rồi vượt qua đó trước khi chúng có thể bắt họ. Dù vẫn còn nhiều bộ lạc thù địch nằm giữa họ và Hy Lạp, đội quân Ba Tư đáng sợ đã nằm lại phía sau lưng họ. Phải mất nhiều năm, nhưng hầu như tất cả đều sống sót quay về Hy Lạp. 
Tư duy chính trị và bản năng chính trị tự chứng tỏ chúng về mặt lý thuyết và thực hành trong khả năng phân biệt bạn và thù. Những đỉnh cao của các hoạt động chính trị xảy ra cùng lúc với những thời điểm mà trong đó kẻ thù, trong sự rõ ràng cụ thể nhất, được xem là kẻ thù. 
Carl Schmitt, 1888-1985 
Diễn dịch 
Cuộc đời là chiến trận và đấu tranh, và bạn sẽ luôn thấy rằng mình đang đối mặt với những hoàn cảnh xấu, những mối quan hệ tiêu cực, những ràng buộc nguy hiểm. Cách bạn đương đầu với những khó khăn này sẽ quyết định vận
mạng của bạn. Như Xenophon đã nói, những chướng ngại vật của bạn không phải là sông núi hay kẻ khác; chướng ngại vật của bạn là chính bạn. Nếu bạn cảm thấy lạc lối và bối rối, nếu bạn đánh mất ý thức về phương hướng, nếu bạn không thể nói được sự khác nhau giữa bạn và thù, bạn chỉ nên tự trách bản thân. 
Hãy suy nghĩ về chính mình như thể lúc nào cũng sắp sửa tham gia vào một trận đánh. Mọi thứ phụ thuộc vào tinh thần bạn và cách thức bạn nhìn thế giới. Một chuyển biến về tầm nhìn có thể chuyển hóa bạn từ một người lính đánh thuê lúng túng, thụ động thành một chiến binh năng động và sáng tạo. Chúng ta được xác định bởi mối quan hệ của chúng ta với những người khác. Như trẻ con, chúng ta phát triển một cá tính bằng cách phân biệt bản thân với những người khác, ngay cả ở thời điểm tống cổ họ đi, chối bỏ, chống đối họ. Càng nhận rõ ai là người mà bạn không muốn trở thành, ý thức của bạn về cá tính và mục đích càng rõ rệt. Nếu không có một ý thức về sự phân cực đó, không có một kẻ thù để chống lại, bạn sẽ lạc lối như đội quân đánh thuê Hy Lạp. Bị lừa bịp bởi sự phản phúc của những kẻ khác, bạn do dự vào giây phút định mệnh và rơi vào việc than van hay tranh cãi. 
Hãy tập trung vào một kẻ thù. Đó có thể là một ai đó ngăn trở con đường của bạn hoặc ngầm phá hoại bạn, một cách tinh vi hay rõ rệt; đó có thể là một ai đó làm tổn thương bạn hay tấn công bạn một cách đê hèn; đó có thể là một giá trị hoặc một ý tưởng đáng ghét mà bạn nhận ra ở một cá nhân hay một nhóm. Đó có thể là một điều trừu tượng: sự ngu xuẩn, sự làm đỏm, chủ nghĩa thực dụng thô thiển. Đừng nghe những kẻ bảo rằng sự phân biệt giữa bạn và thù đã cổ hủ và lỗi thời. Họ chỉ che đậy cho sự sợ xung đột của họ bên dưới lớp vỏ nồng nhiệt giả tạo. Họ đang cố đẩy bạn ra khỏi cuộc chơi, tiêm nhiễm cho bạn những cảm giác mơ hồ của họ. Một khi bạn cảm thấy sáng tỏ và có động cơ, bạn sẽ có khoảng trống cho tình bạn chân chính và sự thỏa hiệp chân chính. Kẻ thù của bạn là ngôi sao Bắc đẩu dẫn đường cho bạn. Định được phương hướng đó rồi, bạn có thể tiến hành cuộc chiến. 
Ai không đi với ta là chống lại ta, và ai không cùng ta thu góp là phân tán Chúa Jesus nói với Quỷ vương 
Luke 1:23 
KẺ THÙ BÊN NGOÀI 
Vào đầu thập niên 1970, hệ thống chính trị Anh Quốc được ấn định theo một mô hình thuận tiện: nếu đảng Lao động thắng trong một đợt bầu cử, thì ở đợt tới đảng Bảo thủ sẽ thắng. Quyền lực được chuyển giao qua lại, mọi thứ đều cao thượng và văn minh một cách công bằng. Trong thực tế, hai chính đảng này đã đạt tới sự tương đồng với nhau. Nhưng khi đảng Bảo thủ thua cuộc
vào năm 1974, một số người trong họ đã quá chán ngán. Muốn khuấy động mọi sự lên, họ đề cử Margaret Thatcher làm lãnh đạo. Năm đó, đảng bị phân hóa, Thatcher lợi dụng sự rạn nứt đó và thắng cử. 
Về bản chất, tôi là người hiếu chiến. Tấn công là bản năng của tôi. Nó cần những trở kháng, và tìm kiếm những trở kháng… Sức mạnh của kẻ tấn công nằm ở sự đối kháng mà anh ta cần như một thước đo: mỗi sự tăng trưởng tự hé lộ việc tìm ra một đối thủ hùng mạnh: vì một triết gia hiếu chiến cũng phải đương đầu với những vấn đề nan giải. Nhiệm vụ là phải chiến thắng, không chỉ bất kỳ trở kháng nào tình cờ xuất hiện, mà cả những trở kháng để chống lại chúng người ta phải mang hết sức lực, sự mềm dẻo và sự sử dụng thành thạo các thứ vũ khí – để chiến thắng những đối thủ ngang tài ngang sức. 
Friedrich Nietzsche, 1844-1900 
Chưa ai từng thấy một chính trị gia giống như Thatcher. Một người phụ nữ trong một thế giới do đàn ông điều hành, bà còn tự hào là một người thuộc giai cấp trung lưu – con gái của một nhà buôn tạp hóa – trong một đảng truyền thống của tầng lớp quý tộc. Trang phục của bà nghiêm túc, trông giống như của một bà nội trợ hơn là của một chính trị gia. Bà không phải là một đấu thủ của đảng Bảo thủ; thực ra, bà thuộc vào thành phần cực đoan cánh hữu. Điều gây sửng sốt nhất là phong cách của bà: trong khi những chính trị gia khác tỏ ra hòa nhã và có tinh thần hòa giải thì bà lại đương đầu với các đối thủ, trực diện tấn công họ. Bà khát khao chiến đấu. Phần lớn các chính trị gia xem sự thắng cử của Thatcher như là một điều may mắn, và không tin rằng bà sẽ tồn tại lâu. Trong những năm đầu lãnh đạo chính đảng của mình, khi đảng Lao động còn nắm quyền lực, bà đã làm họ thay đổi ý kiến đôi chút. Bà xỉ vả hệ thống xã hội chủ nghĩa, mà theo ý bà đã làm tắc nghẽn mọi sáng kiến và phải chịu trách nhiệm lớn đối với sự suy sụp của nền kinh tế Anh Quốc. Bà chỉ trích Liên Xô ở một thời điểm mà tình hình chính trị giữa các nước đang lắng dịu. Rồi, vào mùa đông năm 1978-1979, nhiều tổ chức công đoàn quyết định đình công. Thatcher tiếp tục con đường chiến tranh, nối kết những cuộc đình công với đảng Lao động và Thủ tướng James Callaghan. Đây là một cuộc đối thoại táo bạo, có tính chất chia rẽ, tốt cho việc đưa tin tức buổi chiều nhưng không tốt cho việc thắng cử. Bạn phải tế nhị với cử tri, cam đoan với họ chứ không phải đe dọa họ. Ít ra, đó cũng là một sự khôn khéo mang tính truyền thống. 
Năm 1979, đảng Lao động tiến hành một cuộc tổng tuyển cử. Thatcher vẫn duy trì cuộc tấn công, đánh giá cuộc tuyển cử như là một cuộc thập tự chinh chống lại chủ nghĩa xã hội và như là cơ hội cuối cùng để hiện đại hóa của Anh Quốc. Callaghan là hình ảnh thu nhỏ của một chính trị gia trưởng giả,
nhưng Thatcher nhìn thấu tim đen của ông. Ông chẳng có gì ngoài sự khinh thị đối với nhà chính trị xuất thân nội trợ này, và ông đáp lại sự tấn công của bà: ông đồng ý rằng cuộc tuyển cử là một bước ngoặt, vì nếu Thatcher thắng cử, bà sẽ tạo nên một cú sốc trong nền kinh tế. Chiến lược này dường như có phần hiệu quả: Thatcher khiến cho nhiều cử tri e ngại, và thăm dò dư luận theo dõi sự phân cực cá nhân cho thấy số phiếu của bà hạ xuống thấp hơn nhiều so với của Callaghan. Tuy vậy, cùng lúc đó, khả năng hùng biện của bà và phản ứng của Callaghan đối với sự hùng biện này đã làm phân cực toàn bộ cử tri, cuối cùng đã tạo ra một sự khác biệt sâu sắc giữa hai chính đảng. Tách công chúng thành cánh tả và cánh hữu, bà tấn công vào khe hở, thu hút sự chú ý và lôi cuốn những người do dự. Bà đã thắng đậm. 
Thatcher đã đánh đổ các cử tri, nhưng giờ đây, với tư cách thủ tướng, lẽ ra bà phải hạ thấp giọng, hàn gắn lại những vết thương – làm theo những ý kiến của dư luận, vì ở bất cứ giá nào đó là cái mà công chúng muốn. Nhưng như thường lệ, Thatcher đã làm điều ngược lại, ban hành những khoản cắt giảm ngân sách còn cao hơn so với con số mà bà đề xuất trong chiến dịch vận động tranh cử. Khi chính sách của bà được triển khai, nền kinh tế thật sự bị chấn động, như Callaghan đã dự đoán, và tình trạng thất nghiệp tăng vọt. Những người trong chính đảng của bà, nhiều người trong số họ trước thời điểm đó đã phẫn nộ với cách hành xử của bà đối với họ trong nhiều năm, bắt đầu công khai đặt dấu hỏi về các khả năng của bà. Những người mà bà gọi là “những chính trị gia ôn hòa” này, là những thành viên được tôn trọng nhất của đảng Bảo thủ, và họ đang ở trong tình trạng kinh hoàng: bà đang đưa đất nước tới một thảm họa kinh tế mà họ e rằng họ phải trả giá bằng chính sự nghiệp của mình. Phản ứng của Thatcher là thải hồi họ ra khỏi văn phòng chính phủ của bà. Có vẻ như bà có khuynh hướng đẩy mọi người ra xa; đám kẻ thù của bà tăng lên, con số phiếu ủng hộ theo thăm dò của bà tụt xuống trầm trọng. Chắc chắn cuộc tuyển cử sắp tới cũng là dịp cuối của bà. 
Salvador Dali không có thời gian cho những ai không đồng ý với các nguyên tắc của ông, và gây chiến với kẻ thù bằng những lá thư cho bạn bè mà ông kết thân trong phong trào Residencia, gọi họ là lũ lợn. Ông sung sướng ví mình như một con bò rừng thông minh biết tránh né những gã cao bồi, và đã có vô số việc chướng tai gai mắt với hầu hết mọi trí thức Catalan tên tuổi. Dali cố tình đốt những cây cầu của ông. “Chúng tôi (Dali và nhà làm phim Luis Bunuel) đã quyết tâm gửi một lá thư tới một trong những người được tán tụng nhất ở Tây Ban Nha”. Dali sau đó đã kể với Alain Bosquet, nhà viết tiểu sử: “Mục đích của chúng tôi là sự lật đổ đơn thuần… Cả hai chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nietzsche… Chúng tôi tấn công vào hai cái tên: Manuel de Falla, nhà soạn nhạc và Juan Ramón Jiménez, nhà thơ. Chúng tôi rút thăm chọn và
Jiménez thắng… vì thế chúng tôi soạn một lá thư điên cuống và tục tĩu dữ dội không thể so sánh được rồi gửi nó cho Juan Ramón Jiménez. Nó như thế này: “Anh bạn nổi tiếng của chúng tôi, chúng tôi tin rằng bổn phận của mình là thông báo cho anh biết rằng chúng tôi ghét cay ghét đắng tác phẩm của anh vì sự vô đạo đức, sự cuồng loạn, vì phẩm chất độc đoán của nó…” Nó khiến Jiménez rất đau đớn…” 
Sự dai dẳng của ký ức: Tiểu sử của Dali, Meredith Etherington Smith, 1992 
Rồi, năm 1982, ở bờ bên kia Đại Tây Dương, ủy ban quân quản cai trị Argentin cần một nguyên cớ để làm cho dân chúng xao lãng những vấn đề đất nước, đã xâm lược quần đảo Falkland, một thuộc địa của Anh, tuy rằng Argentin có quyền yêu sách về mặt lịch sử đối với quần đảo này. Những sĩ quan của ủy ban quân quản cảm thấy chắc chắn là Anh sẽ từ bỏ những hòn đảo xa xôi và cằn cỗi này. Nhưng Thatcher không do dự: bất kể khoảng cách tám ngàn dặm xa xôi, bà cử một lực lượng hải quân tới Falkland. Những nhà lãnh đạo đảng Lao động chỉ trích bà vì cuộc chiến vô mục đích và tốn kém này. Nhiều người trong đảng của bà kinh hoàng; vì nếu nỗ lực lấy lại quần đảo thất bại, đảng này có thể sụp đổ. Thatcher đơn độc hơn bao giờ hết. Nhưng nhiều người trong công chúng giờ đã nhìn thấy những phẩm chất – vốn có vẻ quá dễ bị kích động – của bà dưới một ánh sáng mới: sự bướng bỉnh trở thành lòng can đảm và cao thượng. So với những đấng mày râu hay dao động, lề mề và tham danh vọng quanh bà, Thatcher dường như khá kiên định và tự tin. Người Anh thu hồi lại Falkland một cách thành công, và uy tín của Thatcher lên cao hơn bao giờ hết. Đột nhiên nền kinh tế đất nước và những vấn đề xã hội bị lãng quên. Giờ đây Thatcher đã chi phối toàn cảnh, và trong hai đợt tuyển cử kế tiếp bà đè bẹp đảng Lao động. 
Diễn dịch 
Margaret Thatcher đến với quyền lực như một kẻ ngoại cuộc: một phụ nữ tầng lớp trung lưu, một người cấp tiến cánh hữu. Bản năng đầu tiên của những người ngoài cuộc đã đạt được quyền lực là trở thành người trong cuộc – cuộc đời ở bên ngoài vốn khó khăn – nhưng khi làm như thế họ đánh mất cá tính, sự khác biệt của mình, điều khiến họ nổi bật trong con mắt của công chúng. Nếu Thatcher cũng trở thành giống như những người đàn ông quanh bà, bà sẽ đơn giản bị thay thế bởi một người đàn ông khác. Bản năng của bà là vẫn giữ vị trí của một người ngoài cuộc. Trên thực tế, bà đưa việc là người ngoài cuộc tới một mức độ xa nhất có thể được: bà biến mình trở thành một người phụ nữ đơn độc chống lại cả một đội quân đàn ông. 
Ở mỗi bước của con đường, để tạo cho mình sự tương phản cần thiết, Thatcher tìm ra một đối thủ: những người theo chủ nghĩa xã hội, những chính trị gia ôn hòa, những người Argentin. Những kẻ thù này giúp tạo nên
hình ảnh của bà như đã xác định, đầy quyền lực và tự hy sinh. Thatcher không bị cám dỗ bởi sự phân cực, vốn phù du và hời hợt. Các nhà bình luận có thể bị ám ảnh vì những con số phân cực, nhưng trong đầu của các cử tri – mà với một chính trị gia, là trận địa – một sự thể hiện có tính chế ngự có sức hút hơn là vẻ đáng yêu. Cứ để cho một số công chúng ghét bạn; bạn không thể làm vừa lòng tất cả. Những kẻ thù của bạn, những người mà bạn đối chọi một cách sâu sắc, sẽ giúp bạn tạo nên một nền tảng hỗ trợ mà không ruồng bỏ bạn. Đừng cố len vào giữa, nơi mọi người khác đang ở đó; không còn chỗ để chiến đấu trong một đám đông. Hãy làm phân cực mọi người, đẩy một số trong bọn họ ra ngoài, và tạo một khoảng trống cho chiến cuộc. 
Mọi thứ trên đời hiệp lực nhau để đẩy bạn vào giữa trung tâm, và không chỉ về mặt chính trị. Trung tâm là lãnh địa của sự thỏa hiệp. Hòa đồng với những người khác là một kỹ năng quan trọng cần có, nhưng nó đến cùng với một nguy cơ: do luôn kiếm tìm một con đường có ít trở kháng nhất, con đường của sự hòa giải, bạn sẽ quên bạn là ai, và bạn chìm vào trung tâm cùng với mọi người khác. Thay vì vậy, hãy coi bản thân bạn là một đấu sĩ, một kẻ ngoài cuộc bị vây quanh bởi kẻ thù. Chiến đấu thường trực sẽ giúp bạn mạnh mẽ và linh hoạt. Nó sẽ giúp xác định cái mà bạn tin tưởng, cả với bản thân bạn và với mọi người khác. Đừng lo lắng về những người phản kháng; không có sự phản kháng thì không có chiến cuộc; và không có chiến cuộc thì không có cơ hội chiến thắng. Đừng để bị cám dỗ bởi nhu cầu được yêu thích: tốt hơn bạn nên được tôn trọng, thậm chí bị e sợ. Chiến thắng trước kẻ thù sẽ mang tới cho bạn một thanh danh tồn tại lâu dài hơn. 
Sự phản đối của một thành viên đối với một tổ chức không đơn thuần là một nhân tố xã hội tiêu cực, nếu chỉ vì một phản đối như thế thông thường là phương tiện duy nhất để làm cho cuộc sống với những người thật sự không thể chịu nổi ít ra cũng có thể khả thi. Nếu chúng ta không có ngay cả khả năng và quyền hạn để phản kháng chống lại sự chuyên quyền, sự độc đoán, sự vô cảm, sự thô lậu, chúng ta không thể chịu nổi việc có bất kỳ quan hệ với người nào có những tính cách như thế. Chúng ta cảm thấy bị thôi thúc phải bước những bước chân tuyệt vọng – và những bước này, thật sự, sẽ kết thúc mối quan hệ, nhưng có lẽ không tạo nên “xung đột”. Không chỉ vì thực tế là… sự áp bức luôn gia tăng nếu nó được chịu đựng một cách nhẫn nhục và không có sự phản kháng, mà còn vì sự chống đối mang lại cho chúng ta sự thỏa mãn nội tâm, sự xao lãng, sự nguôi khuây… Sự chống đối của chúng ta khiến chúng ta cảm thấy rằng chúng ta không hoàn toàn là nạn nhân của những hoàn cảnh. 
George Simmel 1858-1918 
“Đừng cậy vào việc quân thù không tới; hãy cậy vào việc sẵn sàng đón tiếp
quân thù.” 
Tôn Tử – Binh pháp (Thế kỷ 4 Tr. CN.) 
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN 
Chúng ta sống trong một kỷ nguyên mà mọi người ít khi tỏ thái độ thù địch một cách trực tiếp. Các nguyên tắc của giao tranh – xã hội, chính trị, quân sự – đã thay đổi, và vì thế phải thay đổi ý niệm của bạn về kẻ thù. Một kẻ thù trước mặt bây giờ rất hiếm và thật sự là một phép mầu. Người ta hầu như không còn tấn công bạn một cách công khai, bộc lộ các ý định, sự khao khát tiêu diệt bạn của họ nữa; thay vì thế, họ hành động một cách khôn khéo và gián tiếp. Dù thế giới có tính cạnh tranh hơn bao giờ hết, sự gây hấn ngoài mặt không được khuyến khích, vì thế mọi người đã học cách độn thổ, để tấn công một cách đột ngột và quỷ quyệt. Nhiều người sử dụng tình bạn như một cách để ngụy trang cho các mong muốn công kích: họ đến gần bạn để gây tổn hại nhiều hơn. (Một người bạn là kẻ biết rõ nhất cách làm bạn tổn thương.) Hoặc, dù không thực sự là bạn bè gì cả, họ đề nghị sự hỗ trợ hoặc liên minh: có vẻ như họ sẽ đem đến sự trợ giúp, nhưng cuối cùng họ sẽ thực hiện những quan tâm riêng của họ với phí tổn của bạn. Rồi, có những kẻ thông thạo cách thực hiện chiến tranh đạo đức, đóng vai nạn nhân, làm cho bạn cảm thấy có lỗi vì một điều gì đó mơ hồ mà bạn đã thực hiện. Chiến địa đầy những chiến binh này, láu cá, lẩn nhanh như chạch và thông minh. 
Thấu hiểu: từ “kẻ thù” (enemy) – xuất xứ từ chữ Latin inimicus, “không phải là bạn” – đã bị quỷ hóa [nguyên văn: demonized] và chính trị hóa. Công việc đầu tiên của bạn – với tư cách là một chiến lược gia – là mở rộng khái niệm của bạn về kẻ thù, để bao gồm trong đó nhóm người đang làm công việc đối chọi với bạn, ngăn trở bạn, dù bằng những cách khéo léo. (Đôi khi thái độ trung lập và sự thờ ơ là những vũ khí còn tốt hơn sự gây hấn, vì bạn không thể nhìn thấy sự thù địch mà họ che giấu.) Dù không hoang tưởng, bạn cần nhận thức rằng có những người mong muốn bạn suy nhược và hoạt động chệch hướng. Nhận diện họ và đột nhiên bạn sẽ có chỗ để dùng thủ đoạn. Bạn có thể đứng lùi lại, chờ xem sao, hoặc bạn có thể hành động, dù là có tính chất gây hấn hay lảng tránh, để tránh hậu quả xấu nhất. Thậm chí bạn có thể hành động để biến kẻ thù này thành một người bạn. Nhưng dù làm gì đi nữa, đừng là một nạn nhân ngây thơ. Đừng phản ứng lại những thủ đoạn của kẻ thù. Vũ trang bản thân với sự cẩn trọng và không bao giờ hoàn toàn hạ vũ khí, ngay cả với những bạn bè. 
Khi đi du lịch dọc theo những con sông rộng (của Borneo), người ta bắt gặp những bộ lạc ngày càng hiếu chiến hơn. Ở những miền duyên hải có những cộng đồng hòa bình không bao giờ đánh nhau ngoại trừ để tự vệ,
và chỉ thành đạt một cách nghèo nàn. Trong khi đó, ở những miền trung tâm, nơi các dòng sông nằm cao hơn, là một số bộ lạc cực kỳ hiếu chiến. Họ là nguồn khủng khiếp thường xuyên đối với các cộng đồng sống ở vùng hạ lưu các con sông…. Người ta cho rằng những người dân duyên hải hòa bình có những phẩm chất đạo đức cao hơn các láng giềng hiếu chiến của họ, nhưng trong trường hợp này thì trái lại. Ở mọi phương diện, các bộ lạc hiếu chiến có sự tiến bộ hơn. Nhà họ được xây dựng tốt hơn, rộng rãi và sạch sẽ hơn; nền đạo đức trong bộ lạc của họ cao cấp hơn; họ có thể chất khỏe mạnh hơn, dũng cảm hơn và về mặt thể chất cũng như tinh thần linh hoạt hơn, và nói chung cũng đáng tin cậy hơn. Nhưng, cao hơn hết, tổ chức xã hội của họ bền vững và hữu hiệu hơn vì họ tôn trọng và tuân phục các thủ lĩnh của mình và vì lòng trung thành của họ đối với cộng đồng lớn hơn nhiều; mỗi người đồng nhất hóa bản thân mình với toàn thể cộng đồng, chấp nhận và thực hiện một cách trung thành các bổn phận xã hội đặt ra cho họ. 
William MC Dougall 1871-1938 
Mọi người thường che đậy tốt thái độ thù địch của họ, nhưng họ cũng hay vô ý thức bộc lộ những dấu hiệu cho thấy rằng mọi sự không phải như nó có vẻ thế. Một trong những bạn hữu và cố vấn thân cận nhất của lãnh tụ Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông là Lâm Bưu, một ủy viên cao cấp của Bộ Chính trị và có khả năng kế nhiệm ghế chủ tịch. Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, Mao phát hiện một thay đổi ở Lâm: ông ta trở nên nịnh bợ quá mức. Mọi người đều ca tụng Mao, nhưng sự ca tụng của Lâm thì nồng nhiệt đến mức đáng ngạc nhiên. Với Mao, điều này có nghĩa là có cái gì đó không ổn. Ông theo dõi Lâm một cách chặt chẽ và quyết định rằng người này đang âm mưu một cuộc tiếp quản quyền lực, hay ít nhất cũng là tự đặt địa vị cho mình ở ngôi cao nhất. Và Mao đoán đúng: Lâm đang ráo riết mưu đồ. Tiêu điểm ở đây không phải là không nên tin cậy vào tất cả mọi cử chỉ thân tình mà là nên chú ý tới chúng. Ghi nhận bất kỳ thay đổi nào trong nhiệt độ cảm xúc: những sự gần gũi bất thường, một mong muốn đổi trao tâm sự mới lạ, lời ca ngợi thái quá bạn hoặc bên thứ ba nào đó, niềm mong muốn có một đồng minh có thể có lợi cho người đó hơn cho bạn. Hãy tin vào bản năng của bạn: nếu hành vi của một ai đó có vẻ đáng ngờ, rất có khả năng nó là như vậy. Rất có thể hóa ra nó chỉ là lòng tốt đơn thuần, nhưng tốt nhất vẫn là luôn cảnh giác. 
Bạn có thể ngồi lại, đọc những dấu hiệu, hoặc bạn có thể hoạt động tích cực để phát hiện ra kẻ thù – đập cỏ để đuổi rắn, như người Trung Quốc nói. Trong Kinh thánh, chúng ta biết David đã nghi ngờ người cha vợ, vua Saul, ngấm ngầm mong muốn anh phải chết. Làm thế nào David tìm ra? Anh tâm sự với Jonathan, con trai của Saul, bạn thân của anh. Jonathan không tin vào
điều đó, vì thế David đề xuất một cuộc thử nghiệm. Anh sẽ được mời tới hoàng cung để dự một bữa tiệc. Anh sẽ không đến; Jonathan sẽ đến và chuyển lời xin lỗi của David – vừa phải nhưng không khẩn nài. Dĩ nhiên, lời xin lỗi đó đã làm Saul nổi giận, ông quát to: “Lên đường ngay và đưa hắn tới đây – hắn đáng phải chết!” 
Thử nghiệm của David thành công vì nó mơ hồ không rõ. Lời xin thứ lỗi của anh vì bỏ lỡ bữa tiệc có thể được hiểu theo nhiều cách: nếu Saul có thiện ý với David, ông có thể xem sự vắng mặt của người con rể tệ nhất chỉ là do lòng ích kỷ, nhưng vì ông đã ngầm ghét David, ông xem đó như là một thái độ ngạo mạn, và nó làm ông nổi cáu. Hãy theo tấm gương của David: nói hay làm điều gì đó có thể hiểu theo nhiều cách, đó có thể là một vẻ lịch thiệp bề ngoài, thể hiện một sự trầm tĩnh về phía bạn, nhưng có thể bị người khác xem là một sự sỉ nhục khéo léo. Một người bạn có thể thắc mắc nhưng rồi sẽ bỏ qua. Tuy nhiên, kẻ thù bí mật sẽ phản ứng với sự giận dữ – một cảm xúc mạnh mẽ nào đó và bạn sẽ biết có cái gì đó sục sôi bên dưới bề mặt. 
Con người chỉ tồn tại khi nào nó có sự phản kháng. 
George Hegel 1770-1831 
Thông thường, cách tốt nhất để làm cho mọi người hé lộ bản thân họ là gợi nên sự căng thẳng và tranh luận. Nhà sản xuất Hollywood Harry Cohn, chủ tịch hãng phim Universal Pictures, thường sử dụng chiến lược này để tìm ra vị trí thật sự của mọi người ở trường quay – những người từ chối cho thấy họ đứng về phía nào: ông thường đột ngột công kích công việc của họ hoặc đứng vào một vị trí cực đoan, thậm chí là một vị trí có tính xúc phạm, trong một cuộc tranh luận. Những đạo diễn và kịch tác gia sẽ đánh mất sự cảnh giác thường ngày và biểu lộ những niềm tin thật sự của họ. 
Thấu hiểu: mọi người thường có khuynh hướng lưỡng lự và láu cá vặt vì nó an toàn hơn là tỏ vẻ đoan quyết vào một điều gì. Nếu bạn là ông chủ, họ sẽ bắt chước theo những ý tưởng của bạn. Sự đồng thuận của họ thường chỉ là sự tuân thủ thuần túy. Hãy làm cho họ xúc động; mọi người thường chân thành hơn khi họ tranh luận. Nếu bạn tranh cãi với một ai đó và anh ta chạy theo các ý tưởng của bạn, có lẽ bạn đang quan hệ với một con người không kiên định, một kiểu người đặc biệt nguy hiểm. Hãy cảnh giác với những người nấp đằng sau một vẻ ngoài lơ mơ lưỡng lự và vô tư: chẳng có một ai vô tư cả. Một câu hỏi nhận định sắc sảo, một ý kiến có tính chất xúc phạm sẽ khiến họ phản ứng và đứng hẳn về một phía. 
Đôi khi, tốt hơn nên dùng một cách tiếp cận ít trực tiếp hơn với những kẻ thù tiềm năng của bạn – tỏ ra khôn khéo và xảo quyệt như họ. Năm 1519, Hernán Cortés tới Mexico cùng đoàn thám hiểm của ông. Trong năm trăm người đó có một số kẻ đáng ngờ về lòng trung thành. Trong suốt hành trình,
mỗi khi có bất kỳ người lính nào của Cortés làm điều gì đó mà ông thấy đáng ngờ, ông không bao giờ nổi giận hay kết tội anh ta. Thay vì vậy, ông vờ như đứng về phía họ, chấp nhận và tán đồng những gì họ đã làm. Cho rằng Cortés nhu nhược hoặc cho rằng ông đứng về phía họ, họ sẽ dấn thêm bước kế tiếp. Bấy giờ ông đã có cái mà ông muốn: một dấu hiệu rõ ràng, đối với bản thân ông và những người khác, cho thấy những tên này là đồ phản phúc. Lúc ấy, ông cô lập và tiêu diệt họ. Hãy làm theo phương pháp của Cortés: nếu những bằng hữu và thuộc cấp mà bạn ngờ rằng có những động cơ thầm kín đã thể hiện một thái độ thù địch tinh vi nào đó, hoặc đi ngược lại những lợi ích của bạn, hoặc chỉ đơn thuần có vẻ khác lạ, hãy cố tránh khỏi sự cám dỗ phản ứng lại bằng cách phủ quyết hoặc nổi giận, hoặc ngay cả dò hỏi. Hãy cùng đồng hành, hay có vẻ như tai ngơ mắt điếc: kẻ thù của bạn chẳng bao lâu sẽ dấn bước xa hơn, bộc lộ tim đen của họ rõ hơn. Lúc này bạn đã đặt họ vào tầm ngắm, và bạn có thể tấn công. 
Thông thường, một kẻ thù có tầm mức rộng lớn và khó xác định chính xác – một tổ chức, hoặc một cá nhân ẩn nấp sau lưng một hệ thống phức tạp nào đó. Điều bạn cần làm là phải nhắm vào một bộ phận của nhóm đó – một vị lãnh đạo, một phát ngôn viên, hay một thành viên chủ chốt của nội bộ nhóm. Đó cũng là cách mà nhà hoạt động chính trị Saul Alinsky xử trí với các đoàn thể và các bộ máy chính quyền. Trong chiến dịch vào thập niên 1960 nhằm xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc trong hệ thống nhà trường của Chicago, ông tập trung vào các giám thị ở các trường học, biết rất rõ rằng họ sẽ cố đổ trách nhiệm lên cấp trên. Bằng cách tấn công không ngừng vào viên giám thị, ông có thể công khai hóa cuộc đấu tranh của mình, và các giám thị này không thể nào tránh né. Cuối cùng đồng bọn phải tự thú. Hãy làm như Alinsky, đừng nhắm vào một kẻ thù mơ hồ trừu tượng. Khó mà xoay xở trong một trận chiến không đổ máu như thế, một cuộc chiến mà trong bất cứ tình huống nào kẻ thù của bạn cũng vô hình. Hãy cá nhân hóa cuộc chiến, mặt đối mặt. 
Nguy cơ có ở khắp nơi. Luôn luôn có những người thù địch và những mối quan hệ tiêu cực. Cách thức duy nhất để kích nổ một khối thuốc nổ tiêu cực là đương đầu với nó. Kiềm chế sự giận dữ của bạn, né tránh kẻ đang đe dọa bạn, luôn luôn tìm kiếm đồng minh – những chiến lược này chỉ đưa tới thất bại. Việc né tránh xung đột trở thành một thói quen, và bạn đánh mất đi tinh thần chiến đấu. Có cảm giác tội lỗi là điều vô nghĩa; nếu bạn có kẻ thù, đó không phải do lỗi của bạn. Có cảm giác mình đã sai lầm hoặc là nạn nhân cũng phù phiếm không kém. Trong cả hai trường hợp bạn đang nhìn vào nội tâm, tập trung vào bản thân và những cảm giác của bạn. Thay vì chủ quan hóa một hoàn cảnh xấu, hãy ngoại giới hóa nó và đối diện với kẻ thù. Đó là con đường thoát thân duy nhất. 
Việc thường xuyên nghe bà chủ nhà của tôi đọc Thánh kinh – vì bà ta
thường đọc to khi chồng vắng mặt – đã sớm đánh thức sự tò mò của tôi vốn liên quan tới bí ẩn của việc đọc này, và trong tôi nảy sinh niềm khát khao hiểu thấu nó. Không chút sợ sệt (chẳng có lý do gì để sợ cả), tôi thẳng thắn yêu cầu bà dạy cho tôi đọc; và không chút ngần ngừ, người phụ nữ thân mến đó bắt đầu công việc. Và chẳng bao lâu sau, với sự giúp đỡ của bà, tôi đã đánh vần thông thạo, và có thể đọc những từ có ba hay bốn mẫu tự…Ông chủ Hugh kinh ngạc với sự tuềnh toàng mộc mạc của vợ mình và có lẽ là lần đầu tiên, ông ta tiết lộ với bà triết lý thật sự về chế độ nô lệ, và các nguyên tắc riêng cần thiết do chính bản thân các ông chủ hay bà chủ thực hiện trong việc quản lý những động sản con người của họ. Ngay lập tức, bà Auld không dạy tôi đọc nữa; có lẽ bà cho rằng ngay từ đầu bản thân việc đó đã là không hợp lẽ, rằng nó cũng không an toàn, và chỉ đưa tới lụy phiền… Rõ ràng bà Auld đã cảm thấy sức mạnh của những nhận xét của ông ta; và, là môt bà vợ ngoan ngoãn, bắt đầu đi theo con đường mà chồng bà vạch ra. Ảnh hưởng của những lời nói của ông ta lên tôi không nhẹ nhàng mà cũng chẳng ngắn ngủi tí nào. Những câu nói sắt thép của ông – lạnh lùng và thô bạo – hằn sâu xuống tim tôi, và khuấy động không chỉ những cảm giác của tôi thành một kiểu chống đối, mà còn đánh thức trong tôi một chuỗi ý nghĩ năng động. Đó là một phát hiện mới mẻ và đặc biệt, xua tan một bí mật đau đớn mà tầm hiểu biết non trẻ của tôi đã từng đấu tranh và đã đấu tranh một cách vô ích với nó, đó là: quyền năng của người da trắng trong việc duy trì tình trạng nô lệ của một người da đen. “Hay lắm,” tôi nghĩ, “kiến thức không thích hợp với một đứa bé là nô lệ.” Theo bản năng, tôi tán thành với khẳng định đó: vè kể từ thời điểm ấy, tôi đã hiểu con đường trực tiếp đi từ sự nô lệ đến sự tự do. Đó chính là cái mà tôi cần; và sẽ có được nó vào một lúc nào đó, và từ một nguồn mà tôi ít ngờ tới nhất… Dù khôn ngoan, rõ ràng ông Auld vẫn đánh giá quá thấp sự hiểu biết của tôi, và không nghĩ tới việc tôi có thể áp dụng bài học ấn tượng mà ông đã dạy cho bà vợ…. Chính việc ông ta yêu nhất thứ gì thì tôi ghét nhất thứ đó; và chính quyết tâm giữ tôi trong tình trạng ngu dốt mà ông ta thể hiện, chỉ khiến cho tôi thêm cương quyết trong việc kiếm tìm tri thức.” 
Cảnh nô lệ và sự tự do của tôi, Frederick Dougllass, 1818 -1895 
Nhà tâm lý học thiếu nhi Jean Piaget xem xung đột là một phần chủ yếu trong quá trình phát triển tâm trí. Thông qua các cuộc chiến với bạn bè và bố mẹ, trẻ em học được cách thích ứng với thế giới và phát triển các chiến lược để xử lý các vấn đề nan giải. Những em tìm cách né tránh xung đột bằng mọi giá, hoặc những em được phụ huynh bảo vệ thái quá kết cục sẽ bị khiếm khuyết về mặt xã hội và tâm trí. Điều này cũng đúng cho cả người trưởng thành: chính nhờ những cuộc chiến đấu với kẻ khác mà bạn biết được cái gì
có hiệu quả, cái gì không, và làm cách nào để bảo vệ bản thân. Thay vì tránh né ý nghĩ về việc có kẻ thù, hãy bám chặt vào nó. Xung đột trở nên là một liệu pháp. Kẻ thù mang lại cho bạn nhiều món quà. Chẳng hạn, họ thôi thúc bạn và tập hợp lại những niềm tin của bạn. Họa sĩ Salvador Dali sớm nhận ra rằng có nhiều phẩm chất ông không thể so với những người khác: sự thích ứng, tính lãng mạn, lòng mộ đạo. Ở mọi giai đoạn trong đời, ông luôn tìm ra ai đó mà ông nghĩ là hiện thân của những phản ý tưởng này – một kẻ thù để trút giận. Đầu tiên đó là nhà thơ lãng mạn Federico Garcia Lorca; rồi tới André Breton, nhà lãnh tụ độc đoán của trào lưu siêu thực. Việc chống lại những kẻ thù như thế khiến cho Dali cảm thấy tự tin và hứng khởi. 
Kẻ thù còn đưa tới cho bạn một chuẩn mực mà nhờ đó bạn phán xét bản thân, cả về mặt cá nhân lẫn xã hội. Chiến binh Nhật Bản không có gì để đo lường tài năng của mình nếu họ không tìm được một kiếm thủ giỏi nhất; điều này cũng khiến Joe Frazier xem Muhammad Ali là một đối thủ thật sự vĩ đại. Một đối thủ cừ khối sẽ mang lại điều tốt nhất cho bạn. Đối thủ càng lớn, sự tưởng thưởng bạn nhận được càng to, ngay cả khi bạn bị bại trận. Thua một đối thủ xứng đáng vẫn tốt hơn là đàn áp được những kẻ thù vô hại. Bạn sẽ tìm được sự đồng cảm và lòng tôn trọng, tạo thành sức mạnh hỗ trợ cho cuộc chiến đấu tiếp theo. Bị tấn công là một dấu hiệu cho thấy rằng bạn khá quan trọng để trở thành một mục tiêu. Bạn nên thưởng thức sự chú ý và cơ hội để chứng tỏ bản thân. Tất cả mọi người chúng ta đều có những xung động hiếu thắng mà chúng ta buộc phải kềm nén; một kẻ thù cung cấp cho bạn nơi để trút xả các xung động đó. Cuối cùng bạn đã có ai đó để buông lỏng tính hiếu chiến của bạn mà không có cảm giác tội lỗi. 
Các nhà lãnh đạo luôn thấy rằng có một kẻ thù trực diện vào những thời điểm rắc rối là điều hữu ích vì nó lái quần chúng khỏi các khó khăn của họ. Trong khi sử dụng kẻ thù để củng cố các đạo quân của bạn, hãy phân cực họ càng nhiều càng tốt: họ sẽ chiến đấu dữ dội hơn khi họ có cảm giác căm ghét. Vì thế hãy cường điệu hóa những khác biệt giữa bạn và kẻ thù – vạch ra một giới tuyến rõ ràng. Xenophon không phí công để tỏ ra công bằng; ông không nói rằng quân Ba Tư không thật sự là một bọn tồi và đã làm nhiều điều để thúc đẩy văn minh hóa. Ông gọi họ là bọn dã man, là kẻ đối đầu của người Hy Lạp. Ông mô tả sự phản phúc vừa mới xảy ra của họ và xem họ thuộc về một nền văn hóa xấu xa không thể được Thần linh phù trợ. Và với bạn cũng thế: mục đích của bạn là chiến thắng chứ không phải là sự ngay thẳng và công bằng. 
Cái bạn cần trong chiến tranh là có chỗ trống để thao diễn. Trận địa nhỏ hẹp là dấu hiệu của cái chết. Có nhiều kẻ thù sẽ mang tới cho bạn nhiều sáng kiến. Bạn có thể kích bác để họ chống đối lẫn nhau, có thể kết thân với một kẻ thù như một cách để tấn công kẻ thù kia, và cứ thế. Không có những kẻ thù bạn sẽ không biết thao diễn bằng cách nào hoặc ở đâu, và bạn sẽ đánh
mất ý thức về những giới hạn của mình, về việc bạn có thể tiến xa tới đâu. Lúc ban đầu, Julius Caesar xác định Pompey là kẻ thù. Cân nhắc tính toán các việc phải làm một cách cẩn thận, ông chỉ thực hiện những điều đưa ông tới chỗ có một quan hệ bền vững với Pompey. Khi cuối cùng chiến tranh nổ ra giữa hai bên, Caesar đang ở vào lúc hùng mạnh nhất. Nhưng một khi ông đã đánh bại Pompey và không còn những đối thủ như thế chính là lúc ông đánh mất mọi ý thức về sự tương quan – trên thực tế, ông tự xem mình là một thần linh. Việc đánh bại Pompey cũng là sự tự hủy hoại của chính ông. Kẻ thù của bạn gây cho bạn một ý thức về hiện thực và sự khiêm nhường. 
Ghi nhớ: Ngoài kia, luôn luôn có những người hiếu thắng hơn bạn, ranh ma thủ đoạn hơn bạn, nhẫn tâm hơn bạn, và điều không thể tránh khỏi là sẽ có ai đó băng ngang qua con đường của bạn. Bạn sẽ có xu hướng muốn hòa giải và thỏa thiệp với họ. Lý do là những loại người đó thường là những kẻ dối trá tuyệt trần, những kẻ nhìn thấy giá trị chiến lược của sự mê hoặc trong việc làm ra vẻ như cho phép bạn có nhiều khoảng trống, nhưng thực ra tham vọng của họ là vô hạn, và họ chỉ cố tước vũ khí của bạn mà thôi. Với một số người bạn cần phải cứng rắn để nhận thức rằng không có khoảng đất trung lập, không có hy vọng hòa giải. Đối với một địch thủ, mong muốn thỏa hiệp của bạn là một vũ khí được dùng để chống lại chính bạn. Hiểu biết những kẻ thù nguy hiểm này bằng quá khứ của họ: tìm cách chiếm đoạt nhanh chóng quyền lực, sự thịnh vượng đột ngột, các hành vi phản bội trước đây. Một khi bạn ngờ vực rằng bạn đang quan hệ với một Napoleon, đừng hạ vũ khí xuống hay giao chúng cho kẻ khác. Bạn là giới tuyến cuối cùng của sự phòng vệ của chính bạn. 
Hình ảnh: Trái đất. Kẻ thù là mặt đất dưới chân bạn. Nó có một trọng lực níu giữ bạn lại, một lực trở kháng. Hãy đâm rễ sâu vào trái đất này để thủ đắc sự vững bền và sức mạnh. Không có kẻ thù để dẫm lên, để chà đạp, bạn sẽ đánh mất chỗ đứng và mọi ý thức về sự tương quan của mình 
Tư liệu: Nếu ngươi cậy vào sự an toàn mà không nghĩ tới nguy cơ, nếu ngươi không biết để phòng lúc quân thù kéo tới, thì cũng phỏng như con chim sẻ làm tổ trên một cái lều, con cá bơi lội trong một cái vạc – sẽ không kéo dài được trọn hôm nay. 
Gia Cát Lượng (181 – 234 Tr. CN.) 
HOÁN VỊ 
Luôn luôn kiếm tìm và sử dụng kẻ thù trong vòng kiểm soát. Bạn cần sự rõ ràng chứ không phải là điều hoang tưởng. Nhìn thấy kẻ thù ở tất cả mọi người chính là lý do suy vong của những bạo chúa. Họ đánh mất khả năng nhận thức thực tại và bị cuốn trôi một cách vô vọng theo những cảm xúc mà
sự hoang tưởng của họ gợi nên. Bằng cách luôn chú ý đến những kẻ thù khả dĩ, bạn chỉ đơn giản thận trọng và cảnh giác. Luôn nghi vấn bản thân, để nếu bạn sai lầm, không ai có thể nhận ra. Cũng vậy, hãy đề phòng những người phân cực thật đầy đủ đến mức bạn không thể thoái lui. Margaret Thatcher, bình thường rất giỏi trong trò chơi phân cực, cuối cùng đã đánh mất khả năng kiểm soát nó: bà đã tạo nên quá nhiều kẻ thù và cứ lặp lại mãi một sách lược, ngay cả trong những hoàn cảnh cần phải thoái bộ. Franklin Delano Roosevelt là một nhà phân cực bậc thầy, luôn luôn theo dõi nhằm vạch ra một phân tuyến giữa bản thân và kẻ thù. Tuy vậy, khi ông đã làm rõ phân tuyến này, ông lùi lại một bước, điều đó khiến ông trông có vẻ như một nhà hòa giải, một con người của hòa bình, chỉ đôi khi mới viện tới chiến tranh. Ngay cả khi ấn tượng đó sai lầm, chính tầm cao trí tuệ đã tạo nên nó.
2. ĐỪNG CHIẾN ĐẤU VỚI CUỘC CHIẾN VỪA QUA 
CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH DU KÍCH CỦA TÂM TRÍ 
Điều thường đè nặng lên bạn và đưa bạn tới tai ương là quá khứ, dưới hình thức của những gắn bó không cần thiết, sự lặp lại những công thức nhàm chán và ký ức về những chiến thắng cũng như thất bại đã qua. Bạn phải tiến hành chiến tranh một cách có ý thức để chống lại quá khứ và tự buộc mình phải đáp ứng với khoảnh khắc hiện tại. Hãy tàn nhẫn với chính mình; đừng lặp lại những phương pháp quen thuộc cũ. Đôi khi bạn phải tự ép mình hướng tới những phương hướng mới, cho dù chúng hàm chứa nguy cơ. Cái mà bạn có thể mất trong nhàn nhã an toàn, bạn sẽ có lại trong sự bất ngờ, khiến kẻ thù gặp nhiều khó khăn hơn trong việc dự đoán bạn sẽ làm gì. Hãy tiến hành chiến tranh du kích trong tâm trí bạn, không cho phép xuất hiện một tuyến phòng ngự chiến thuật nào, không một thành lũy lộ thiên nào – khiến cho mọi sự luôn vận động và thay đổi. 
Lý thuyết không thể trang bị cho tinh thần những công thức để giải quyết các vấn đề, nó cũng không thể đánh dấu con đường nhỏ hẹp mà trên đó giải pháp duy nhất được cho là hiện hữu nhờ vào việc trồng hàng rào nguyên tắc ở hai bên vệ đường. Nhưng lý thuyết có thể khiến ta nhìn vào bản chất của những hiện tượng và các mối quan hệ của chúng, rồi để cho nó tự do hànhđộng. Ở đó tinh thần có thể sử dụng các khả năng thiên bẩm của nó. 
Về chiến tranh, Von Clausewitz, 1780-1831 
CUỘC CHIẾN TRANH VỪA QUA 
Không ai vươn tới quyền lực nhanh hơn Napoleon Bonaparte (1769-1821). Năm 1793 ông vươn từ chức đại úy trong quân đội cách mạng Pháp lên chức thiếu tướng. Năm 1796, ông trở thành chỉ huy của quân đội Pháp ở Ý chiến đấu với Áo, quân đội mà ông đè bẹp trong năm đó và lặp lại lần nữa vào ba năm sau. Ông trở thành vị Tổng tài đầu tiên của Pháp vào năm 1801, lên ngôi vua năm 1804. Năm 1805 ông hạ nhục quân đội Áo và Nga trong trận đại chiến ở Austerlitz. Đối với nhiều người, Napoleon không chỉ là một vị tướng vĩ đại mà còn là một thiên tài, một vị thần chiến tranh. Tuy nhiên, không phải ai cũng bị ấn tượng: có những viên tướng Phổ cho rằng đơn giản là ông gặp may mà thôi. Họ tin rằng khi Napoleon xuất hiện và tấn công, các đối thủ của ông đã hèn nhát và nhu nhược. Nếu ông đối diện với người Phổ,
người ta ắt sẽ phát hiện ra rằng ông chỉ là một kẻ giả danh vĩ đại. Một trong số những viên tướng Phổ này là Friedrich Ludwig, hoàng tử của dòng tộc Hohenlohe Ingelfingen (1746-1818). Hohenlohe bắt nguồn từ một trong những gia đình quý tộc lâu đời nhất ở nước Đức, một dòng tộc có thành tích quân sự lừng lẫy. Ông đã khởi nghiệp từ lúc còn trẻ, phục vụ dưới triều Đại đế Frederick (1712-86), người đã đơn thương độc mã đem đến một quyền lực lớn lao cho nước Phổ. Hohenlohe đã leo qua nhiều cấp bậc, trở thành một vị tướng vào năm 50 tuổi – trẻ, theo các tiêu chí của Phổ. Theo Hohenlohe, thành công trong chiến tranh dựa vào sự tổ chức, kỷ luật và cách sử dụng các chiến lược thượng đẳng được phát triển bởi những đầu óc quân sự nhà nghề. Người Phổ minh họa cho tất cả các đức tính này. Binh lính Phổ được trui rèn không ngừng cho tới khi họ có thể thực hiện các thao tác phức tạp một cách chính xác như một bộ máy. Các tướng lĩnh Phổ nghiên cứu kỹ các chiến công của Đại đế Frederick; chiến tranh đối với họ là một công việc có tính chất toán học, là sự vận dụng các nguyên tắc không chịu sự chi phối của thời gian. Đối với họ, Napoleon là một tên người đảo Corse nóng nảy chỉ huy một đạo quân của bọn dân thành thị bất kham. Hơn hẳn về tri thức và kỹ năng, họ sẽ đánh bại ông ta. Quân Pháp sẽ kinh hoàng và tan tành khi đương đầu với quân Phổ giàu kỷ luật; huyền thoại Napoleon sẽ sụp đổ, và châu Âu có thể quay về với nếp sống xưa cũ. 
Tháng 8/1806, Hohenlohe và các tướng lĩnh Phổ khác cuối cùng đã đạt được điều mà họ mong mỏi: vua Friedrich Wilhelm III của Phổ vì chán ngán sự vi phạm cam kết của Napoleon nên đã quyết định tuyên chiến với ông ta trong vòng sáu tuần. Đồng thời ông yêu cầu các tướng lĩnh Phổ lên một kế hoạch để đập tan quân Pháp. Hohenlohe sung sướng ngất ngây. Chiến dịch này sẽ là đỉnh cao sự nghiệp của ông. Ông đã suy nghĩ suốt nhiều năm cách thức đánh bại Napoleon, và ông trình bày kế hoạch của mình trong phiên họp bàn phương án tác chiến đầu tiên của các tướng lĩnh: các cuộc hành quân chính xác sẽ đưa quân đội tới một địa điểm tối ưu để từ đó tấn công quân Pháp khi họ tiến qua miền nam nước Phổ. Một cuộc tấn công theo đội hình tạt sườn – chiến thuật ưa thích nhất của Frederick Đại đế – sẽ giáng một đòn chí mạng. Các tướng lĩnh khác, tất cả đều đã ở lứa tuổi 60 hoặc 70 cũng trình bày phương án của họ, nhưng ngay cả các phương án này cũng chỉ đơn thuần là những biến thể từ các chiến thuật của Đại đế Frederick. Cuộc thảo luận biến thành tranh cãi. Nhiều tuần trôi qua, cuối cùng nhà vua phải vào cuộc và sáng tạo ra một chiến lược có tính thỏa hiệp làm hài lòng tất cả các tướng lĩnh. 
Ông ta (Nam tước Antoine Henri de Jomini) thường tùy tiện bám chặt vào một hệ thống mà ông ta gán cho Napoleon; và khi làm như thế, hoàn toàn không thấy được điều đã làm nên sự vĩ đại của viên đại úy này – đó
là, sự gan lì táo bạo của các cuộc hành quân của ông ta, ở đó ông nhạo báng tất cả mọi lý thuyết, và luôn luôn cố làm điều phù hợp với từng hoàn cảnh nhất. 
Friedrich von Bernhardi, 1849-1930 
Một cảm giác hồ hởi bao trùm lên đất nước mà chẳng bao lâu nữa sẽ làm sống lại những năm tháng vinh quang của Đại đế Frederick. Các tướng lĩnh nhận thức rằng Napoleon biết những kế hoạch của họ – ông ta có những gián điệp tài ba – nhưng người Phổ đã xuất phát trước, và một khi cỗ máy chiến tranh của họ đã khởi động, không có cái gì có thể ngăn nó lại. 
Ngày 5 tháng 10, một vài ngày trước khi nhà vua tuyên chiến, những tin tức náo động tới tai các viên tướng. Một nhóm đặc vụ trinh sát đã phát hiện ra rằng các sư đoàn của Napoleon, mà họ tin là nằm tản mác, đã hành quân về hướng đông, đã hợp nhất, và đang thâm nhập sâu vào miền nam nước Phổ. Viên đại úy chỉ huy đội trinh sát báo cáo rằng binh lính Pháp đang hành quân với ba lô trên lưng: trong khi lính Phổ quen dùng những cỗ xe ngựa di chuyển chậm để cung cấp lương thực cho các đạo quân của họ, lính Pháp tự mang thực phẩm và di chuyển với một tốc độ và sự nhanh nhẹn đáng kinh ngạc. 
Trước khi các tướng Phổ có thời giờ điều chỉnh lại phương án tác chiến, quân đội của Napoleon đột nhiên chuyển lên hướng bắc, tiến thẳng về Berlin, trung tâm nước Phổ. Các tướng lĩnh tranh cãi và run sợ, điều động các cánh quân tới nơi này nơi khác, cố quyết định nơi tấn công. Một tâm trạng hoảng loạn bao trùm. Cuối cùng, nhà vua ra lệnh thoái lui: các đạo quân sẽ tập hợp lại tiến về bắc và tấn công vào sườn quân Napoleon khi ông ta tiến về Berlin. Hohenlohe chịu trách nhiệm đội cận vệ bọc hậu, bảo vệ cuộc thoái lui của quân Phổ. 
Ngày 14 tháng 10, gần thị trấn Jena, Napoleon đuổi kịp Hohenlohe, kẻ rốt cuộc đã chạm mặt với cuộc chiến mà ông ta vô cùng mong muốn. Quân số hai bên ngang nhau, nhưng trong lúc quân Pháp là một lực lượng linh hoạt, chiến đấu hung hăng và luôn di động, Hohenlohe duy trì các đạo quân của ông trong một đội hình, bố trí họ như một vũ đoàn múa ballet. Cuộc chiến đấu giằng co cho tới khi quân Pháp chiếm được làng Vierzehnheiligen. 
Hohenlohe lệnh cho các đạo quân của ông chiếm lại ngôi làng. Theo một nghi thức bắt nguồn từ thời Đại đế Frederick, một toán lính đánh trống bắt đầu gõ trống theo nhịp và binh lính Phổ, mặt mày biến sắc, chấn chỉnh lại vị trí của mình theo một đội hình diễu hành hoàn hảo, sửa soạn tiến lên. Tuy nhiên, họ đang ở trong một cánh đồng trống, còn lính Pháp thì nấp sau những vườn cây tường nhà và nằm trên mái nhà. Lính Phổ như những tấm bia tập bắn cho các tay thiện xạ Pháp. Bối rối, Hohenlohe lệnh cho binh lính của ông dừng lại và thay đổi đội hình. Trống lại vang lên, lính Phổ hành
quân với độ chính xác tuyệt vời, luôn luôn cảnh giác quan sát, nhưng quân Pháp tiếp tục bắn, tàn sát vô số quân Phổ. Chưa bao giờ Hohenlohe nhìn thấy một đội quân như thế. Binh lính Pháp giống như những con quỷ. Không như các chiến binh kỷ luật của ông, họ di chuyển theo cách của mình, thế nhưng đó là phương pháp hợp với sự điên khùng của họ. Đột ngột, không biết từ đâu ló ra, họ lao về trước ở cả hai phía, đe dọa bao vây quân Phổ. Nhà vua ra lệnh rút lui. Trận đánh ở Jena kết thúc. Quân Phổ nhanh chóng tan tác như bầy ong vỡ tổ, pháo đài này nối tiếp pháo đài kia bị hạ. Nhà vua chạy trốn về hướng đông. Chỉ trong vài hôm, thực sự không còn lại chút tàn tích nào của quân đội Phổ hùng cường một thuở. 
CON DƠI VÀ HAI CON CHỒN 
Một con dơi rơi xuống đất và bịmột con chồn bắt. Nhận thấy mình sắp bị giết chế ttươi, nó cầu xin tha mạng. Con chồn đáp rằng nó không thể để cho dơi đi thoát, vì chồn luôn luôn bị xem là kẻ thù tự nhiên của các loài chim. Dơi đáp rằng bản thân nó không phải là một con chim, mà là một con chuột. Nó đã xoay xở để tự giải thoát cho mình khỏi nguy cơ bằng cách đó. Sau đó, bị rơi lần thứ hai, dơi bị một con chồn khác bắt được. Nó lại van nài con chồn đừng ăn thịt nó. Con chồn thứ hai tuyên bố rằng nó tuyệt đối ghê tởm mọ iloài chuột. Nhưng dơi sốt sắng khẳng định rằng nó không phải là chuột mà là một con dơi. Và thế là nó lại được thả cho đi. Và đó là cách làm thế nào nó tự cứu mình thoát chết hai lần bằng cách thay đổi một cái tên. Câu chuyện ngụ ngôn này cho thấy rằng không nhất thiết phải luôn tự giới hạn trong cùngmột chiến thuật. Mà trái lại, nếu thích ứng được với hoàn cảnh, chún gta có thể thoát khỏinguy hiểm tốt hơn. 
Truyện ngụ ngôn Aesop. thế kỷ 6 Tr. CN 
Diễn dịch 
Thực tế chạm trán với quân Phổ năm 1806 thật đơn giản: họ đã tụt hậu đến 50 năm. Các tướng lĩnh của họ đều già nua, và thay vì tìm cách thích ứng với hoàn cảnh hiện tại, họ lặp lại những công thức hữu hiệu của quá khứ. Quân đội của họ di chuyển chậm, binh lính của họ hành quân như người máy. Các tướng lĩnh Phổ có nhiều dấu hiệu cảnh báo cho tai họa của họ: quân đội của họ không thao tác tốt trong cuộc giao chiến hiện thời, một số sĩ quan Phổ đã cổ động cho sự cải cách, và cuối cùng nhưng không kém quan trọng, họ đã có mười năm nghiên cứu Napoleon – các chiến lược cách tân của ông, tốc độ và sự linh hoạt khi tấn công kẻ thù của quân Pháp. Hiện thực đã bày ra trước mắt họ, thế nhưng họ vẫn làm ngơ nó. Thật sự, họ tự nhủ với mình rằng Napoleon chính là kẻ phải chịu số phận hẩm hiu. 
Bạn có thể cho rằng quân đội Phổ chỉ là một ví dụ lịch sử thú vị, nhưng trong
thực tế có khả năng là chính bạn cũng sẽ bước theo cùng chiều hướng đó. Điều hạn chế các cá thể cũng như những quốc gia là không có khả năng đương đầu với hiện thực để nhìn sự việc đúng theo bản chất của nó. Khi già hơn, chúng ta trở nên mọc rễ vào quá khứ. Thói quen đã chiếm lĩnh. Điều gì đó trước đây đã từng hữu hiệu trở thành một học thuyết, một nơi trú ẩn để bảo vệ chúng ta trước hiện thực. Sự lặp lại thay thế cho sự sáng tạo. Chúng ta hiếm khi nhận thấy chúng ta đã làm điều này, vì việc nhìn thấy nó đang diễn ra trong tâm trí chúng ta là điều không thể thực hiện được. Rồi sẽ có một Napoleon trẻ băng ngang con đường của bạn, một con người không xem trọng truyền thống, kẻ chiến đấu theo những phương cách mới. Chỉ khi đó chúng ta mới thấy rằng những cách thức suy nghĩ và phản ứng của chúng ta đã tụt hậu. 
Đừng bao giờ cho là các thành công đã qua của bạn đương nhiên sẽ tiếp tục trong tương lai. Thật ra, các thành công trong quá khứ của bạn chính là những chướng ngại vật lớn nhất của bạn: mỗi trận đánh, mỗi cuộc chiến tranh, đều khác biệt nhau, và bạn không thể cho rằng cái đã từng hữu hiệu trước đây sẽ hữu hiệu vào lúc này. Bạn phải cắt lìa bản thân khỏi quá khứ và mở to mắt nhìn vào hiện tại. Khuynh hướng chiến đấu theo cuộc chiến tranh vừa qua sẽ đưa bạn tới cuộc chiến tranh cuối cùng. 
Năm 1806, khi các tướng Phổ rơi vào cặp hàm rộng hoác của thảm họa bằng cách sử dụng đội hình chiến đấu tạt sườn của Đại đế Frederick, đó không phải là trường hợp của một phong cách mà sự hữu dụng của nó đã lỗi thời, mà là sự nghèo nàn trí tưởng tượng cùng cực do thói quen thường nhật dẫn tới. Kết quả là quân đội Phổ dưới quyền của Hohenlohe đã sụp đổ hoàn toàn hơn bất kỳ quân đội nào khác từng sụp đổ trên chiến địa. 
Carl von Clausewitz, Về chiến tranh (1780-1831) 
CUỘC CHIẾN TRANH HIỆN TẠI 
Năm 1605, Miyamoto Musashi, một samurai vốn lừng danh kiếm sĩ từ khi 21 tuổi, đã bị thách đấu tay đôi. Kẻ thách đấu là một thanh niên tên Matashichiro, xuất thân từ gia đình Yoshioka, một gia tộc nổi danh về kiếm thuật. Hồi đầu năm ấy Musashi đã đánh bại Genzaemon, cha của Matashichiro, trong một cuộc đấu tay đôi. Vài hôm sau, ông đã giết chết em trai của Genzaemon trong một cuộc đấu kiếm khác. Gia đình Yoshioka muốn phục thù. 
Tôi chưa bao giờ đọc bất cứ một luận thuyết nào về chiến lược…Khi chiến đấu, chúng tôi không theo một sách vở nào cả. 
Mao Trạch Đông, 1893-1976
Bạn bè của Musashi đánh hơi thấy có cạm bẫy trong sự thách thức của Matashichiro và đề nghị đi cùng ông tới nơi thách đấu, nhưng Musashi đi một mình. Ở những cuộc đấu khác với những người trong họ Yoshioka, ông đã trêu tức họ bằng việc xuất hiện muộn hàng giờ, tuy nhiên, lần này ông đến thật sớm và nấp vào một lùm cây. Matashichiro đến với một toán hầu cận nhỏ. Musashi sẽ “tới muộn như thường lệ”, một người trong bọn nói, “nhưng cái trò ấy sẽ chẳng còn có hiệu quả gì với chúng ta nữa!” Tự tin với cuộc phục kích của họ, hầu cận của Matashichiro nằm xuống nấp sau đám cỏ. Đột nhiên Musashi phóng ra từ sau chỗ nấp và hét lớn: “Ta đã chờ đợi đủ rồi. Rút kiếm ra!” Chỉ bằng một nhát kiếm, ông đã giết chết Matashichiro, rồi lui về một góc để đối phó với bọn còn lại. Cả bọn nhổm lên, nhưng đều mất cảnh giác và giật mình, và thay vì bao vây Musashi, chúng đứng thành một hàng lộn xộn. Musashi chỉ việc chạy dọc theo hàng người đứng sững sờ, giết hết tên này tới tên khác trong vòng vài giây. 
Chiến thắng của Musashi đã xác nhận tư cách kiếm sĩ lớn nhất nước Nhật của ông. Lúc bấy giờ, ông lang thang khắp nước để tìm những trận đấu tương xứng. Ở một thị trấn nọ, ông nghe đồn về một chiến binh bất khả chiến bại tên là Baiken. Vũ khí của ông ta là một lưỡi hái và một sợi dây xích có gắn một quả trùy thép ở đầu dây, Musashi muốn trông thấy hai thứ vũ khí đó hoạt động, nhưng Baiken khước từ: cách duy nhất để xem chúng hoạt động, Baiken đáp, là trong một trận đấu. 
LÀM MỚI TINH THẦN 
Khi ngươi và đối thủ của ngươi giao chiến mà không biết đến bao giờ mới kết thúc, ngươi cần áp dụng một kỹ thuật hoàn toàn khác hẳn. Bằng cách thư giãn tinh thần và đổi mới kỹ thuật, khi tiếp tục chiến đấu với địch thủ, ngươi sẽ tìm ra một điểm thời gian thích hợp để đánh bại y. Bất kỳ lúc nào ngươi và đối thủ của ngươi trở nên uể oải, ngươi phải ngay lập tức vận dụng một phương thức khác trong việc đối phó với đối thủ để chiến thắng y. 
Ngũ luân thư, Miyamoto Musashi 1584-1645 
Một lần nữa các bằng hữu của Musashi chọn con đường an toàn: họ nài nỉ ông hãy tránh đi. Không có người nào đến được gần để đánh bại Baiken, vũ khí của ông ta không thể bị hạ: khi quay tròn quả trùy thép trong không khí để tạo xung lực, ông ta sẽ ép đối thủ lùi lại không ngừng, rồi phóng quả trùy vào mặt kẻ đó. Đối thủ của Baiken có thể gạt được quả trùy ra, nhưng trong khi tay kiếm của anh ta đang bị khóa, Baiken sẽ hạ thủ chém đứt cổ anh ta. 
Làm ngơ những cảnh báo của bạn bè, Musashi thách đấu với Baiken và xuất hiện ở túp lều của ông ta với hai thanh kiếm, một dài, một ngắn. Baiken chưa
bao giờ trông thấy ai đánh nhau với hai thanh kiếm. Và thay vì chờ Baiken tấn công, Musashi tấn công trước, đẩy đối thủ ngã ngửa ra. Baiken ngần ngừ tung quả trùy, vì Musashi có thể đỡ nó bằng một kiếm và tấn công ông ta bằng thanh kiếm còn lại. Khi ông ta đang tìm một sơ hở, Musashi đột ngột làm ông ta mất thăng bằng với một cú tấn công bằng thanh kiếm ngắn và rồi, trong chớp mắt, thanh kiếm dài lao theo, xuyên qua người Baiken, hạ sát kẻ từng là bậc thầy bất khả chiến bại. 
Vài năm sau đó, Musashi nghe đồn về một võ sĩ lớn tên là Sasaki Ganryu. Ông ta sử dụng một thanh kiếm rất dài – một thứ vũ khí đẹp lạ lùng, có vẻ như toát ra một thứ linh hồn chiến trận nào đó. Trận đấu này có thể là cuộc thử nghiệm cuối cùng của Musashi. Ganryu nhận lời thách đấu; cuộc đấu sẽ diễn ra trên một đảo nhỏ gần nhà của ông ta. 
Bị ám ảnh bởi ý tưởng về sự chiến thắng là một căn bệnh. Bị ám ảnh bởi ý tưởng về việc sử dụng kiếm thuật của ngươi cũng là một căn bệnh. Bị ám ảnh bởi ý tưởng về việc sử dụng mọi thứ mà ngươi đã học được và bởi ý tưởng về việc tấn công cũng thế. Cũng là một căn bệnh khi bị ám ảnh và gắn chặt vào ý tưởng tự ngươi có thể thoát ra khỏi những căn bệnh đó. Một căn bệnh ở đây là một đầu óc bị ám ảnh cứ bám chặt vào một điều gì đó. Bởi lẽ tất cả các căn bệnh này đều nằm trong tâm trí ngươi, ngươi phải thoát ra khỏi chúng để ổn định lại tâm trí của mình. 
Takuan, Nhật Bản, 1573-1645 
Vào sáng ngày thi đấu, hòn đảo đông nghịt người. Một trận đấu giữa hai chiến binh như thế chưa từng xảy ra. Ganryu tới đúng giờ, nhưng Musashi đến muộn, rất muộn. Một giờ trôi qua, rồi hai giờ; Ganryu nổi cáu. Cuối cùng, một con thuyền tiến về phía hòn đảo. Người trên thuyền đang nằm, có vẻ như đang vót nhọn một mái chèo dài, đó là Musashi. Dường như ông đang chìm vào suy tưởng, nhìn ngơ ngẩn những đám mây. Khi con thuyền cặp vào bờ, ông cột một tấm khăn lau bẩn thiu quanh đầu rồi nhảy khỏi thuyền, vung chiếc mái chèo dài hơn thanh kiếm lừng danh của Ganryu. Con người lạ lùng này đến với trận đấu lớn nhất trong đời ông ta với một mái chèo thay cho thanh kiếm và một cái khăn lau thay một dải lụa buộc đầu. 
Ganryu hét lên căm phẫn: “Có phải ngươi sợ ta đến nỗi ngươi đã bội ước với lời hẹn có mặt ở đây trước tám giờ?” Musashi im lặng nhưng tiến đến gần hơn. Ganryu rút thanh kiếm tuyệt diệu của mình ra và ném vỏ kiếm lên mặt cát. Musashi mỉm cười: “Sasaki, ông đã đến hồi xúi quẩy.” “Ta? Bị đánh bại? Không thể nào!” “Có kẻ chiến thắng nào trên đời này lại vứt bỏ vỏ kiếm của mình xuống biển?” Musashi đáp. Nhận xét khó hiểu này chỉ làm Ganryu thêm giận dữ. 
Thế rồi Musashi tấn công, chĩa đầu mái chèo vót nhọn vào đôi mắt đối thủ.
Ganryu nhanh nhẹn giơ kiếm chém vào đầu Musashi nhưng trượt, chỉ cắt đứt tấm khăn lau thành hai mảnh. Trước đây ông ta chưa bao giờ đánh trượt. Cùng lúc đó, Musashi hạ thanh kiếm gỗ của mình xuống, hất ngã Ganryu. Đám khán giả nín thở. Khi Ganryu vùng dậy, Musashi hạ sát ông ta với một cú đâm vào đầu. Rồi, sau khi nhã nhặn cúi chào những người dự khán trận đấu, ông quay xuống thuyền, bình thản bỏ đi như khi tới. 
Từ đó trở đi, Musashi được xem là một kiếm sĩ không có đối thủ tương đương. 
Ai cũng có thể hoạch định một chiến dịch, nhưng ít người có thể tiến hành chiến tranh, bởi vì chỉ có một thiên tài quân sự thật sự mới có thể xử trí được cá cbước phát triển và các hoàn cảnh 
Napoleon Bonaparte, 1769-1821 
Diễn dịch 
Miyamoto Susashi, tác giả của cuốn “The Book of Five Rings” đã thắng tất cả mọi trận đấu tay đôi vì một lý do: trong mỗi trường hợp ông đều điều chỉnh chiến lược của mình thích ứng với đối thủ và hoàn cảnh lúc bấy giờ. Với Matashichiro ông quyết định đó là thời gian để tới sớm, điều mà ông chưa bao giờ làm trong những trận đấu trước. Chiến thắng đối thủ đông hơn phụ thuộc vào sự kinh ngạc, vì thế ông phóng ra khi đối thủ của ông đang nằm; rồi, khi đã hạ sát kẻ cầm đầu, ông chiếm một vị trí khiến đối thủ phải tấn công thay vì bao vây, điều ắt là nguy hiểm hơn nhiều đối với ông. Với Baiken, chỉ đơn giản là vấn đề sử dụng hai thanh kiếm và chiếm thượng phong, không để ông ta có thì giờ phản ứng một cách thông minh với sự lạ thường này. Với Ganryu, ông xác định là phải chọc giận và hạ nhục đối thủ ngạo mạn của mình – thanh kiếm gỗ, một thái độ hành xử thờ ơ, chiếc khăn lau bẩn thỉu thay cho dải băng buộc tóc, lời nhận xét khó hiểu, sự tấn công vào mắt. 
Các đối thủ của Musashi cậy vào tuyệt kỹ của họ, vào những thanh kiếm hào nhoáng, những vũ khí phi chính thống. Điều đó cũng tương tự như việc chiến đấu theo trận chiến vừa qua: thay vì phản ứng với hiện thời, họ cậy vào sự rèn luyện, vào kỹ thuật, vào cái đã có hiệu quả trước đó. Musashi, người đã nắm bắt được yếu tính của chiến lược ngay từ khi còn rất trẻ, đã biến sự cứng nhắc đó thành thất bại của họ. Ý nghĩ đầu tiên của ông về nước cờ đầu là phải mang đến sự kinh ngạc cho đối thủ đặc thù này. Rồi ông bám chặt vào khoảnh khắc đó: khi đã phá vỡ thế cân bằng của đối thủ vì một điều gì đó bất ngờ, ông quan sát thật kỹ, rồi phản ứng với một hành động khác, thường là ứng tác, biến sự mất cân bằng của đối phương thành thất bại và cái chết.
Sấm [Chấn] và Gió [Tốn]: 
Tượng trưng cho THỜI THẾ. Nhờ vậy mà bậc quân tử luôn kiên định và không thay đổi phương hướng. Sấm động và gió nổi; cả hai là những ví dụ của sự chuyển động tột cùng và do đó dường như chính là phần nghĩa của thời thế, nhưng những quy luật điều hành sự tiêu và trưởng, sự đến và đi của chúng, thì tồn tại. Cũng như vậy, sự độc lập của người quân tử không dựa trên sự cứng nhắc và bất biến của cá tính. Người quân tử luôn luôn song hành với thời gian và đổi thay cùng nó. Cái tồn tại lâu dài là định hướng không nghiêng lệch, quy luật nội hàm của bản thể anh ta, cái xác quyết mọi hành động của anh ta, 
Kinh Dịch, Trung Quốc, khoảng thế kỷ 8 Tr. CN 
Khi chuẩn bị bản thân cho chiến tranh, bạn phải tự rủ bỏ những huyền thoại và nhận thức sai lầm. Chiến lược không phải là vấn đề hiểu biết một chuỗi các chuyển động hay các ý tưởng để làm theo như một công thức nấu ăn; chiến thắng không có một công thức thần kỳ nào cả. Các ý tưởng đơn giản chỉ là các dưỡng chất cho đất trồng: chúng nằm trong não bạn như là những tiềm năng, để trong độ nóng của khoảnh khắc chúng có thể gợi nên một hướng đi, một phản ứng sáng tạo và tương thích. Hãy thoát ra khỏi mọi thần tượng – những quyển sách, các kỹ thuật, các công thức, những thứ vũ khí hào nhoáng – và học cách trở thành chiến lược gia cho chính bạn. 
Do vậy, chiến thắng trong chiến trận không thể lặp lại – chúng tự khoác lấy hình thức khi đáp lại những tình huống thay đổi không ngừng. Tôn Tử (thế kỷ 4 Tr. CN) 
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN 
Khi nhìn lại một kinh nghiệm không vui hoặc khó chịu chúng ta không thể tránh khỏi ý nghĩ: giá mà ta đã nói hoặc làm x thay vì y, giá mà ta có thể làm lại điều đó. Nhiều vị tướng đã đánh mất lý trí trong độ nóng của chiến cuộc, và rồi khi nhìn lại, họ đã nghĩ tới một chiến thuật, một thủ đoạn mà lẽ ra đã làm đổi thay mọi sự. Ngay bản thân Hoàng tử Hohenlohe, nhiều năm sau đó, đã có thể nhận ra ông đã làm hỏng việc chiếm lại Vierzehnheiligen ra sao. Tuy nhiên, vấn đề không phải là vì chúng ta chỉ nghĩ ra giải pháp khi đã muộn. Vấn đề là vì chúng ta cứ tưởng rằng tri thức là cái còn thiếu: giá mà chúng ta biết nhiều hơn, giá mà chúng ta suy nghĩ về nó một cách cẩn trọng hơn. Đó hoàn toàn là cách tiếp cận sai lầm. Điều khiến chúng ta lạc lối ngay từ đầu là việc chúng ta không hòa hợp với phút giây hiện tại, không cảm nhận được các tình huống. Chúng ta lắng nghe các ý tưởng của chính chúng ta, phản ứng lại những thứ đã diễn ra trong quá khứ, vận dụng các học thuyết
và các ý tưởng mà chúng ta đã tiêu hóa từ lâu nhưng chẳng có quan hệ gì với tình thế khó khăn hiện tại. Càng sách vở hơn, lý thuyết hơn, suy tư hơn, chỉ càng khiến cho vấn đề tệ hại hơn. 
Chính sách của tôi là chẳng có chính sách gì hết. 
Abraham Lincoln 1809-1865 
Thấu hiểu: Các vị tướng vĩ đại nhất, các chiến lược gia sáng tạo nhất, nổi bật không phải là vì họ có nhiều kiến thức hơn mà là vì, khi cần, họ có thể rủ bỏ các ý niệm có trước đó để tập trung hoàn toàn vào phút giây hiện tại. Đó là cách thức sự sáng tạo lên tiếng và các cơ hội được nắm bắt. Kiến thức, kinh nghiệm và các học thuyết có nhiều giới hạn: không có một lượng suy ngẫm trước nào có thể chuẩn bị cho bạn khi đối phó với những hỗn độn của cuộc đời, với những khả năng vô hạn của khoảnh khắc đó. Triết gia chiến tranh vĩ đại Carl von Clausewitz gọi điều này là “sự xung đột chiến lược”: sự khác biệt giữa các phương án của chúng ta với cái thực sự xảy ra. Vì sự xung đột chiến lược là bất khả kháng, tâm trí chúng ta phải có khả năng bám theo sự thay đổi và thích ứng với sự bất ngờ. Càng điều chỉnh tốt các ý tưởng của chúng ta với các tình huống thay đổi bao nhiêu, các phản ứng của chúng ta đối với chúng càng có tính xác thực bấy nhiêu. Càng đánh mất bản thân ở những học thuyết đã được tiêu hóa trước và các kinh nghiệm cũ bao nhiêu, phản ứng của chúng ta càng không thích hợp và có tính ảo tưởng bấy nhiêu. 
Phân tích xem điều gì đã sai lệch trong quá khứ là chuyện đáng làm, nhưng quan trọng hơn là phát triển khả năng tư duy ngay trong một thời điểm cụ thể. Theo cách đó, bạn sẽ phạm phải ít sai lầm hơn nhiều để phân tích. 
Nếu bạn đặt một bầu đựng nước rỗng trên mặt nước và chạm vào nó, nó sẽ nghiêng sang một bên. Bất kể bạn cố gắng thế nào, nó không thể đứng yên. Tâm trí của một người đã đạt tới trạng thái cuối cùng không gắn chặt vào bất cứ điều gì, dù chỉ một giây. Nó cũng giống như một bầu đựng nước rỗng trên mặt nước bị đẩy đưa theo sóng. 
Takuan, Nhật Bản, 1573-1645 
Hãy xem tâm trí như một dòng sông: càng chảy nhanh, nó càng có nhiều khả năng đuổi kịp hiện tại và đáp ứng với sự thay đổi. Cũng như càng chảy nhanh nó càng đổi mới bản thân tốt hơn và sức mạnh của nó càng lớn. Các ý tưởng có tính ám ảnh, những kinh nghiệm cũ (dù là những thương tổn hay những thành công), và các ý niệm sẵn có giống như đá cuội và bùn trong dòng sông ấy, đọng xuống, chai cứng ở đó và kềm giữ nó lại. Dòng sông ngừng chảy; sự ứ đọng diễn ra. Bạn phải thường xuyên tiến hành chiến tranh với khuynh hướng này của tâm trí.
Bước đầu tiên đơn giản là nhận thức về quá trình đó và sự cần thiết phải chiến đấu với nó. Bước thứ hai là theo một vài chiến thuật có thể giúp bạn duy trì dòng chảy tự nhiên của tâm trí. 
Kiểm nghiệm lại mọi niềm tin và nguyên tắc mật thiết nhất của bạn. Khi có người hỏi Napoleon rằng ông đi theo nguyên tắc chiến tranh nào, ông đáp lại ông không theo nguyên tắc nào hết. Thiên tài của ông là khả năng đáp ứng với mọi tình huống, khả năng vận dụng tốt nhất cái ông có được – ông là một con người cơ hội vào bậc thượng thừa. Tương tự, nguyên tắc duy nhất của bạn cũng nên là không có nguyên tắc nào hết. Tin rằng chiến lược có những quy luật bất khả dịch chuyển hay các quy tắc muôn đời là đứng vào một vị trí cứng nhắc, bất động dẫn tới sự suy vong của bạn. Tất nhiên việc nghiên cứu lịch sử và lý thuyết có thể mở rộng thế giới quan của bạn, nhưng bạn phải có khuynh hướng theo lý thuyết chiến đấu để không trở thành giáo điều. Hãy tàn bạo với quá khứ, với truyền thống, với những cách thức hành xử xưa cũ. Hãy tuyên chiến với những thần tượng và những tiếng nói của quy ước nằm trong đầu bạn. 
Học vấn của chúng ta cũng thường là một vấn đề. Trong Thế chiến II, lính Anh đánh nhau với lính Đức trong những sa mạc ở Bắc Phi, và lính Anh được đào tạo rất kỹ trong chiến tranh xe tăng; bạn có thể nói rằng họ đã thấm nhuần mọi lý thuyết về nó. Về sau trong chiến dịch, họ phối hợp với những đạo quân Mỹ có ít kiến thức hơn trong các chiến thuật này. Tuy nhiên, chẳng bao lâu lính Mỹ bắt đầu chiến đấu theo một cách thức ngang ngửa nếu không nói là hơn hẳn phong cách của lính Anh; họ thích ứng với sự linh động của kiểu đánh nhau trên sa mạc mới mẻ này. Theo lời của chính Field Marshal Erwin Rommel, chỉ huy trưởng quân đội Đức ở Bắc Phi, “Lính Mỹ... đã học được nhiều điều bổ ích hơn so với lính Anh từ kinh nghiệm của họ ở châu Phi, điều này xác nhận cho chân lý nói rằng giáo dục thì dễ hơn là giáo dục lại.” 
Ý của Rommel là giáo dục có khuynh hướng nhồi nhét những lời giáo huấn vào bộ óc ù lì. Ở giữa trận chiến, những bộ óc được đào luyện có thể sẽ rớt lại phía sau – chúng tập trung vào những quy tắc đã được học hơn là vào những tình huống thay đổi của chiến trận. Khi bạn đối mặt với một hoàn cảnh mới, thông thường tốt hơn hết nên nghĩ rằng bạn chẳng biết gì cả và bạn cần khởi sự học lại mọi thứ. Việc quét khỏi đầu óc bạn mọi thứ mà bạn nghĩ bạn đã biết, ngay cả những ý tưởng mật thiết nhất, sẽ đem lại cho bạn khoảng trống tinh thần để học hỏi tiếp thu các kinh nghiệm hiện tại – ngôi trường học tốt nhất. Bạn sẽ phát triển các cơ bắp chiến lược của chính mình thay vì trông cậy vào lý thuyết và sách vở của những người khác. 
Tẩy sạch khỏi ký ức cuộc chiến vừa qua. Cuộc chiến mà bạn vừa trải qua là một mối nguy cơ, ngay cả khi bạn thắng. Nếu thắng, bạn sẽ có khuynh hướng lặp lại những chiến lược bạn vừa sử dụng, bởi lẽ thành công khiến
chúng ta lười nhác và tự mãn; nếu thua, bạn có thể bốc đồng và do dự. Đừng nghĩ tới cuộc chiến vừa qua; bạn sẽ không có khoảng cách [cần thiết] và sự suy xét độc lập. Thay vì vậy, hãy làm bất cứ điều gì có thể để xóa nó khỏi tâm trí bạn. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tướng Võ Nguyên Giáp đã có một nguyên tắc tấn công đơn giản: sau một chiến dịch thành công, ông thường tự thuyết phục mình rằng nó thật sự là một thất bại. Kết quả là ông không bao giờ say men chiến thắng, và không bao giờ lặp lại cùng một chiến lược ở trận đánh kế tiếp. Hơn thế, ông phải tư duy thông qua từng hoàn cảnh một bằng cách khác. 
Ted Williams, có lẽ là tay làm bàn bóng chày [hitter] cừ khôi nhất, có quan điểm luôn cố quên cơ hội làm bàn vừa qua của mình. Dù là anh đã thực hiện được một cú home run2hay một cú strikeout, anh cũng gạt nó lại sau lưng. Không bao giờ có hai cơ hội làm bàn giống như nhau, ngay cả khi chống lại cùng một pitcher, và Williams muốn có một đầu óc cởi mở. Anh không chờ tới trận đấu kế tiếp để quên: ngay giây phút quay lại băng ghế dự bị, anh bắt đầu tập trung vào điều sẽ xảy ra trong trận đấu đang tiếp diễn. Chú tâm vào các chi tiết của hiện tại là cách tốt nhất để đẩy quá khứ ra khỏi đầu óc và quên đi trận chiến vừa qua. 
Giữ cho tâm trí luôn vận động. Khi còn là trẻ con, tâm trí của chúng ta không bao giờ ngưng nghỉ. Chúng ta mở rộng đầu óc để đón chào những kinh nghiệm mới và thẩm thấu chúng càng nhiều càng tốt. Chúng ta học hỏi nhanh, vì thế giới xung quanh kích thích chúng ta. Khi cảm thấy buồn nản hay thất vọng, chúng ta thường tìm ra một cách thức đầy sáng tạo nào đó để đạt điều chúng ta muốn và rồi nhanh chóng quên đi vấn đề khi có cái gì đó mới mẻ băng ngang con đường của chúng ta. 
Tất cả những chiến lược gia vĩ đại – Alexander Đại đế, Napoleon, Musashi – về phương diện này cũng giống như trẻ con. Thỉnh thoảng, trên thực tế, thậm chí họ còn hành động như trẻ con. Nguyên nhân rất đơn giản: các chiến lược gia siêu hạng nhìn sự việc theo bản thân chúng. Họ nhạy cảm cao độ với các nguy cơ và các cơ may. Không có gì còn nguyên như cũ trong cuộc đời, và việc bắt kịp các tình huống khi chúng đổi thay đòi hỏi một khả năng tinh thần linh hoạt như nước. Các chiến lược gia vĩ đại không hành động theo các ý tưởng có sẵn; họ đáp ứng với thời điểm hiện tại, như trẻ con. Tâm trí họ luôn luôn vận động, và họ luôn luôn thích thú tò mò. Họ nhanh chóng quên đi quá khứ – hiện tại thú vị hơn nhiều. 
Bại trận thì cay đắng. Cay đắng đối với người lính bình thường, nhưng cay đắng gấp ba đối với vị tướng của anh ta. Người lính có thể tự an ủi với ý nghĩ rằng, dù kết quả ra sao, anh đã thực hiện bổn phận một cách trung thành và kiên định, nhưng nếu một vị chỉ huy không chiến thắng,
ông ta đã thất bại trong việc thi hành bổn phận – vì đó là bổn phận của ông ta. Ông ta không có ai để so sánh. Ông ta sẽ lược lại trong đầu mọi sự kiện của chiến dịch. “Ở đây”, ông ta có thể nghĩ, “Ta đã sai lầm; ở đâ ta đã dao động vì sợ hãi khi lẽ ra ta cần táo bạo; ở đó lẽ ra ta nên chờ đợi để tập trung sức mạnh, chứ không nên tấn công từng phần; ở thời điểm như thế ta đã không nắm được cơ hội khi nó được đưa tới cho ta.” Ông ta sẽ nhớ tới những người lính mà ông ta ra lệnh tấn công đã thất bại và không quay về nữa. Ông ta sẽ nhớ lại ánh mắt của những người tin cậy vào ông ta. “Ta đã làm cho họ bại trận,” ông ta sẽ tự nhủ với mình, “và làm cho đất nước ta bại trận!” Ông ta sẽ nhìn thấy bản thân đúng như cái mà ông ta là: “một viên tướng bại trận!”Trong một giờ đen tối ông ta sẽ tự vấn mình và nghi vấn về những nền tảng của sự lãnh đạo và nhân cách của ông ta. Và rồi ông ta phải dừng lại! Vì nếu lại tiếp tục chỉ huy chiến đấu, ông ta phải rủ bỏ mọi hối tiếc, và dẫm chân lên chúng khi chúng cào cấu vào ý chí và lòng tự tin của ông ta. Ông ta phải đập tan những cuộc tấn công mà chính ông ta mang đến cho bản thân mình này, và gạt bỏ mọi ngờ vực sinh ra từ sự thất bại. Quên chúng đi, và chỉ nhớ những bài học đã học được từ sự thất bại – chúng có nhiều hơn là từ sự chiến thắng. 
Chuyển bại thành thắng, William Slim, 1897-1970 
Tư tưởng gia vĩ đại Hy Lạp Aristotle cho rằng cuộc đời được xác định bởi sự vận động. Cái gì không vận động thì đã chết. Cái gì có tốc độ và sự linh động thì có nhiều tiềm năng, nhiều sức sống hơn. Tất cả chúng ta đều khởi đầu với một bộ óc linh động của một Napoleon, nhưng khi lớn lên, chúng ta có khuynh hướng trở nên giống như những người Phổ. Bạn có thể nghĩ rằng cái mà bạn muốn có lại từ tuổi trẻ là ngoại hình của bạn, là vẻ đẹp thể chất của bạn, là những niềm vui giản dị của bạn; nhưng cái mà bạn thật sự cần là sự linh hoạt của tâm trí mà bạn đã từng có trước đây. Bất cứ khi nào bạn thấy rằng các ý tưởng của bạn xoay quanh một chủ thể hay ý tưởng cụ thể nào – một nỗi ám ảnh, một nỗi oán giận – hãy buộc chúng lướt qua nó. Tự làm cho mình xao lãng đi bằng những gì đó khác. Như một đứa bé, hãy tìm một cái gì mới để thẩm thấu, một cái gì đó đáng để tập trung chú ý. Đừng lãng phí thời gian vào những thứ mà bạn không thể thay đổi hay gây ảnh hưởng. Hãy cứ luôn vận động. 
Thẩm thấu tinh thần của các thời đại. Xuyên suốt lịch sử của chiến tranh, có những trận đánh cổ điển mà trong đó quá khứ đã chạm trán với tương lai trong một sự không tương hợp vô vọng. Nó đã xảy ra vào thế kỷ thứ bảy, khi người Ba Tư và Byzantine giáp mặt với các đạo quân Hồi giáo vô địch, với hình thức chiến đấu trên sa mạc mới mẻ của họ; hay vào nửa đầu thế kỷ 13, khi quân Mông Cổ sử dụng sự vận động không ngưng nghỉ để chinh phục
các đội quân hùng mạnh của Nga và các nước châu Âu; hay vào năm 1806, khi Napoleon đánh tan quân Phổ ở Jena. Trong từng trường hợp đội quân thống trị đã phát triển một phương cách chiến đấu tối đa hóa một hình thức kỹ thuật mới hay một trật tự xã hội mới. 
Bạn có thể tái sản xuất hiệu quả này ở một tỷ lệ nhỏ bé hơn bằng cách hòa hợp bản thân với tinh thần của các thời đại. Việc phát triển khả năng dò tìm các khuynh hướng chưa lên tới đỉnh đòi hỏi phải làm việc và nghiên cứu, cũng như sự linh hoạt để thích ứng với các khuynh hướng đó. Khi bạn già hơn, tốt nhất là thay đổi phong cách của bạn theo từng giai đoạn. Trong kỷ nguyên vàng của Hollywood, phần đông các nữ diễn viên có một sự nghiệp rất ngắn. Nhưng Joan Crawford đã chiến đấu với hệ thống phim trường và xoay xở để có một sự nghiệp lâu dài đáng kể bằng cách thường xuyên thay đổi phong cách của bà, từ một phụ nữ quyến rũ sang vai chính noir, rồi tới nữ hoàng tôn kính. Thay vì cứ gắn bó một cách tình cảm với một mốt của thời qua, bà có thể nhận thức được một xu thế đang lên và đi theo nó. Bằng cách thường xuyên thích nghi và thay đổi phong cách của bạn, bạn sẽ tránh được những cạm bẫy của các cuộc chiến trước đây của bạn. Ngay khi mọi người vừa cảm thấy họ biết bạn, bạn sẽ phải thay đổi. 
Đảo lộn tiến trình. Tiểu thuyết gia Nga vĩ đại Fyodor Dostoyevsky bị mắc chứng động kinh. Ngay trước một cơn động kinh, ông thường trải qua một khoảnh khắc xuất thần dữ dội, mà ông đã mô tả như là một cảm giác đột nhiên bị tràn ngập bởi hiện thực, một viễn tượng nhất thời về thế giới chính xác như chính nó. Sau đó ông thường thấy mình trở nên chán nản, vì viễn tượng này đã bị đẩy lùi bởi những thói quen và sinh hoạt của đời sống thường nhật. Trong những cơn sầu não đó, muốn cảm thấy lại sự gần gũi với hiện thực đó, ông thường tới sòng bạc gần nhất và chơi hết tất cả số tiền đang có. Ở đó hiện thực thường ngự trị ông: sự tiện nghi và nếp sống hàng ngày biến mất, các khuôn mẫu nhạt nhẽo vỡ tan. Sau khi cân nhắc lại mọi thứ, ông có thể có lại năng lượng sáng tạo của mình. Đây là nơi gần nhất mà ông có thể tìm đến một cách tự chủ cảm giác xuất thần mà ông có được thông qua chứng động kinh. Phương thức của Dostoyevsky hơi cực đoan, nhưng đôi khi bạn cần phải tự thức tỉnh bản thân, mở lối thoát khỏi vòng tay của quá khứ. Điều này có thể mang hình thức của sự nghịch đảo tiến trình của bản thân bạn, thực hiện ngược hẳn với cái mà bạn thường thực hiện một cách bình thường trong bất kỳ hoàn cảnh sẵn có nào, tự đặt mình vào một tình huống bất thường nào đó, hay nói chính xác là một khởi đầu mới. Trong những hoàn cảnh đó tâm trí phải xử lý một hiện thực mới, và nó gắn với đời sống. Sự thay đổi có thể đáng báo động, nhưng nó cũng dễ chịu – thậm chí còn vui vẻ nữa. 
Biết rằng mình đang ở trong một điều kiện xác định, một trạng thái xác
định, là đã sẵn sàng cho tiến trình tự do; nhưng mộtngười không nhận thức được về điều kiện của mình, cuộc đấu tranh của mình, cố trở thành một cái gì đó khác với chính con người anh ta, sẽ mang tới thói quen. Do vậy, hãy luôn in trí rằng chúng ta muốn kiểm tra thực tại/yếu tính (what is), quan sát và nhận thức một cách chính xác đâu là thực tại/yếu tính, mà không đặt bất kỳ định kiến nào lên nó, không diễn dịch gì nó cả. Cần có một tâm trí sắc sảo phi thường, một con tim mềm dẻo phi thường, để nhận thức và đi theo thực tại, bởivì thực tại luôn thường xuyên vận động, thường xuyên trải qua một quá trình chuyển hóa, và nếu tâm trí bị buộc phải tin tưởng, để hiểu biết, nó thôi theo đuổi, nó thôi đi theo sự vậnđộng nhanh chóngcủa thực tại. Thực tại không tĩnh tại, chắc chắn thế – nó di động một cách thường xuyên, như bạn sẽ thấy nếu bạn quan sát nómột cách cẩn thận. Để đi theo nó, bạncần một tâm trí rất linh hoạt và một trái tim mềm dẻo – điều bị chối bỏ khitâm trí tĩnh tại, gắn chặt vào một niềm tin, một định kiến, một sự đồng nhất; và một tâm trí vàmột trái tim khô cằn không thể theo đuổi một cách dễ dàng, linh hoạt, là thế đó. 
Jiddu Krishnamurti, 1895-1986 
Những mối quan hệ thường dẫn tới một nỗi buồn chán nhất định có thể đoán trước được. Bạn làm điều mà bạn thường làm, những người khác đáp lại theo cách họ thường làm, và cứ thế quanh đi quẩn lại mãi. Nếu bạn nghịch đảo tiến trình, hành động theo một cung cách mới là bạn đã thay đổi toàn bộ động năng. Hãy thường xuyên thực hiện điều này để phá tung các khuôn mẫu sáo mòn của mối quan hệ và hướng nó tới những tiềm năng mới. 
Hãy nghĩ về tâm trí bạn như một đạo quân. Các đạo quân phải thích ứng với sự phức tạp và hỗn độn của chiến tranh hiện đại bằng cách trở nên linh động và uyển chuyển. Sự mở rộng tột độ của bước tiến hóa này là chiến tranh du kích. Nó khai thác sự hỗn độn bằng cách biến sự vô trật tự và sự không thể dự báo thành một chiến lược. Quân du kích không bao giờ dừng lại để bảo vệ một địa điểm hay thị trấn cụ thể nào; nó chiến thắng bằng cách luôn di động, tiến lên phía trước. Do không theo một khuôn mẫu cố định nào, nó khiến cho kẻ thù không có mục tiêu. Quân du kích không bao giờ lặp lại cùng một chiến thuật. Nó thích ứng với hoàn cảnh, thời điểm, địa thế nơi nó tự tìm ra nó. Không có mặt trận, không có một tuyến thông tin hay hậu cần cụ thể, cũng không có những cỗ xe di chuyển chậm. Quân du kích là sự vận động đơn thuần. 
Đó là mô hình cho cách tư duy mới của bạn. Đừng áp dụngchiến thuật một cách cứng nhắc; đừng để tâm trí bạn cố định vị trí ở một chiến thuật nào, dựa vào bất kỳ địa điểm hoặc ý tưởng nào, lặp lại cùng những thủ đoạn không sức sống nào. Hãy tấn côngvào các vấn đề hóc búa từ những góc độ mới, điều chỉnh theo hoàn cảnh và theo cái mà bạn có được. Bằng cách luôn vận
động bạn không để lộ một mục tiêu nào để kẻ thù bạn nhắm vào. Bạn khai thác sự hỗn loạn của thế giới thay vì bó tay theo nó. 
Hình ảnh: Nước điều chỉnh hình dáng của nó theo bất cứ nơi nào nó di động trong dòng chảy, đẩy những tảng đá khỏi lối đi của nó, bào mòn những đá cuội, nó không bao giờ dừng nó không bao giờ như cũ. Càng chảy nhanh, nó càng trong. 
Tư liệu: Một số tướng của ta thua vì họ thực hiện mọi việc theo quy tắc. Họ biết điều mà Frederich đã thực hiện ở nơi này, và Napoleon đã thực hiện ở nơi khác. Họ luôn nghĩ về điều Napoleon sẽ làm... Tôi không đánh giá thấp giá trị của tri thức quân sự, nhưng nếu người ta tiến hành chiến tranh theo kiểu bảo lưu một cách nô lệ các quy tắc, họ sẽ thất bại... Chiến tranh có tính vận động tiến triển. 
Ulysses S. Grant (1822-85) 
HOÁN VỊ 
Không bao giờ có bất kỳ giá trị nào khi chiến đấu theo trận chiến vừa qua. Nhưng trong khi bạn đang loại bỏ khuynh hướng nguy hại đó, bạn phải tưởng tượng rằng kẻ thù của bạn cũng đang cố làm điều tương tự – đang cố học hỏi và điều chỉnh theo hiện tại. Một số thảm họa quân sự tồi tệ nhất trong lịch sử không đến từ việc chiến đấu theo cuộc chiến vừa qua nhưng từ sự giả đoán rằng đó là điều mà đối thủ của mình sẽ làm. Khi Sadam Hussein [cựu Tổng thống] của Iraq xâm lược Kuwait năm 1990, ông ta nghĩ rằng Hoa Kỳ chưa hồi phục được từ “hội chứng Việt Nam” – nỗi sợ những con số thương vong và mất mát đã từng gây đau khổ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam – và rằng nó sẽ tránh né chiến tranh hoàn toàn hoặc sẽ chiến đấu theo cách cũ, cố gắng thắng trận từ trên không thay vì trên mặt đất. Ông không nhận ra rằng quân đội Hoa Kỳ đã sẵn sàng cho một kiểu chiến tranh mới. Ghi nhớ: kẻ thất bại trong bất kỳ trận chiến nào có thể quá đau khổ khi phải đánh nhau lần nữa nhưng cũng có thể học hỏi được từ kinh nghiệm và tiến bộ. Hãy sẵn sàng. Trong chiến tranh, đừng bao giờ để kẻ thù làm bạn kinh ngạc.
3. GIỮA NHỮNG SỰ KIỆN RỐI LOẠN, ĐỪNG ĐÁNH MẤT SỰ MINH MẪN 
CHIẾN LƯỢC ĐỐI TRỌNG 
Trong một chiến trận nóng bỏng, tâm trí con người có khuynh hướng mất cân bằng. Có quá nhiều điều mà bạn phải đương đầu trong cùng một lúc – những thất bại bất ngờ, những nghi vấn và chỉ trích từ các đồng minh của bạn. Phản ứng một cách quá nhạy cảm với nỗi sợ, sự ngã lòng hay tâm trạng thất vọng, là một điều nguy hiểm. Điều quan trọng sống còn là bạn phải giữ sự minh mẫn, duy trì các năng lực tinh thần dù cho hoàn cảnh ra sao. Bạn phải chủ động đề kháng lại sức ép cảm xúc ở thời điểm đó – luôn quyết đoán, tự tin và năng nổ cho dù có bất cứ điều gì ập lên bạn. Làm cho tâm trí cứng rắn hơn bằng cách đặt nó vào nghịch cảnh. Học cách tách rời bạn khỏi sự hỗn độn của cuộc chiến. Cứ để cho những người khác đánh mất sự tỉnh táo của họ; sự minh mẫn của bạn sẽ lái bạn ra khỏi tầm ảnh hưởng của họ và giữ cho bạn đi đúng hướng. 
Sự minh mẫn phải đóng một vai trò lớn trong chiến tranh, lĩnh vực của sự bất ngờ, vì nó chẳng là gì khác hơn một khả năng luôn gia tăng trong việc xử trí với sự bất ngờ. Chúng ta khao khát sự bình tĩnh trong một cuộc đối đáp dễ dàng cũng giống như chúng ta khao khát tư duy nhanh nhạy khi đối mặt với nguy cơ… Cách thể hiện sự minh mẫn chuyên chở một cách chính xác tốc độ và sự tức thì của sự trợ giúp của trí năng. 
Về chiến tranh, Carl von Clausewitz 1780-1831 
CHIẾN THUẬT TĂNG CƯỜNG CÔNG KÍCH 
Huân tước Phó đô đốc Horatio Nelson (1758-1805) đã trải qua điều này. Ông bị mất mắt phải trong trận vây hãm Calvi và tay phải trong trận đánh ở Tenerife. Ông đã đánh bại người Tây Ban Nha ở Mũi St. Vincent năm 1797 và đã phá vỡ chiến dịch Ai Cập của Napoleon khi đánh bại hải quân của ông ta ở trận sông Nile vào năm sau. Nhưng không điều nào trong những khổ não và thắng lợi của ông giúp ông đối mặt với những khó khăn do các đồng sự của ông trong lực lượng hải quân Anh đặt ra khi họ chuẩn bị cuộc chiến tranh chống Đan Mạch vào tháng 2 năm 1801. 
Nelson, vị anh hùng vinh quang nhất của nước Anh, hiển nhiên phải được chọn làm người chỉ huy hạm đội. Nhưng thay vì thế, Bộ Hải quân đã chọn Sir Hyde Parker, với Nelson giữ chức vụ phó chỉ huy. Cuộc chiến tranh này đòi hỏi sự tế nhị; nó nhằm buộc những người Đan Mạch ngoan cố phải tuân
theo một lệnh cấm vận của Anh trong việc chuyên chở bằng tàu các mặt hàng quân sự tới Pháp. Nelson quá nóng nảy và dễ đánh mất sự bình tĩnh. Ông căm ghét Napoleon, và nếu ông đi quá xa trong việc chống lại người Đan Mạch, ông sẽ tạo nên một thất bại về mặt ngoại giao. Sir Hyde, người lớn tuổi hơn, vững vàng hơn và điềm tĩnh hơn, sẽ là người thực hiện công việc, và chỉ thế thôi. 
Nelson nuốt vào bụng lòng kiêu hãnh của mình và nhận nhiệm vụ, nhưng ông nhìn thấy khó khăn trước mắt. Ông biết rằng thời gian là điều cốt tủy: hải quân càng tiến nhanh, người Đan Mạch càng ít có cơ may dựng lên hệ thống phòng vệ. Những tàu chiến đã sẵn sàng lên đường, nhưng khẩu hiệu của Parker là “Mọi thứ đều nằm trong vòng trật tự”. Vội vã không phải là phong cách của ông. Nelson ghét tính ngẫu hứng của ông ta và lao vào hành động: ông xem lại những bản báo cáo tình báo, nghiên cứu các bản đồ và lên một phương án chi tiết để đánh nhau với người Đan Mạch. Ông viết cho Parker, đề nghị ông ta nắm bắt thế chủ động này. Parker làm ngơ. 
Cuối cùng, vào ngày 11 tháng 3, hạm đội của Anh lên đường. Tuy nhiên, thay vì hướng tới Copenhagen, Parker cho tàu thả neo ở khá xa phía bắc hải cảng của thành phố này và triệu tập một cuộc họp các viên thuyền trưởng. Theo các bản báo cáo tình báo, ông lý giải, người Đan Mạch đã chuẩn bị các tuyến phòng thủ kiên cố ở Copenhagen. Các con thuyền địch đã thả neo trong hải cảng, cảng sông ở phía bắc và nam, và những trận đánh có pháo binh cơ động có thể hất quân Anh xuống biển. Làm cách nào để chống lại pháo binh mà không chịu những tổn thất kinh khủng? Còn nữa, các hoa tiêu biết rõ các vùng nước quanh Copenhagen báo cáo rằng chúng rất nguy hiểm, đầy những bãi cát cửa sông và những cơn gió phức tạp. Việc lái tàu qua những chỗ nguy hiểm này dưới tầm đạn pháo sẽ phải chịu nhiều tổn thất. Với tất cả những khó khăn đó, có lẽ tốt nhất là chờ người Đan Mạch rời khỏi cảng và đánh nhau với họ trên biển khơi. 
Sự sống có thể rỉ giọt dần khỏi con người thông qua tư tưởng nhiều hơn là thông qua một vết thương toát miệng. 
Thomas Hardy, 1840-1928 
Nelson cố gắng kiềm chế bản thân. Cuối cùng ông dịu lại, bước quanh phòng, mẫu tay cụt của ông giật giật khi ông nói. Không có cuộc chiến tranh nào, ông nói, từng thắng bằng cách chờ đợi. Những tuyến phòng thủ của người Đan Mạch trông có vẻ dữ dội “đối với những ai là trẻ con trong chiến tranh”, nhưng ông đã vạch ra một chiến lược nhiều tuần trước đó: ông sẽ tấn công từ phía nam, nơi tiếp cận dễ dàng hơn, trong khi Parker và một lực lượng dự bị sẽ ở lại phía bắc thành phố. Nelson sẽ sử dụng tính linh hoạt của mình để tước vũ khí của người Đan Mạch. Ông đã nghiên cứu các bản đồ:
các bãi cát không đáng sợ. Còn với gió thì hành động năng nổ quan trọng hơn là sự lo lắng băn khoăn đối với nó. 
Phát biểu của Nelson đã tiếp thêm sinh lực cho các thuyền trưởng của Parker. Cho tới bấy giờ, ông là người chỉ huy thành công nhất, và sự tự tin của ông đã lan tỏa. Ngay cả Sir Hyde cũng bị ấn tượng, và kế hoạch được thông qua. 
Thế là Grant đơn độc; những thuộc cấp tin cẩn nhất của ông nài nỉ ông thay đổi kế hoạch, trong khi các vị thượng cấp kinh hoàng với sự liều lĩnh của ông và nỗ lực can thiệp. Ngay từ trước đó, những binh sĩ có tiếng tăm và viên chức dân sự ở những cơ quan cao cấp đã xem thường một chiến dịch mà với họ có vẻ vô vọng như đã tiên đoán. Nếu ông thất bại, cả nước sẽ tán thành với chính phủ và các tướng lĩnh. Grant biết tất cả những điều này, và hiểu rõ nguy cơ của ông, nhưng không hề xuy xuyển trước những nỗi e sợ khát vọng đó cũng như những lời nài nỉ của các bạn bè, hoặc những mối lo lắng thậm chí của cả những người yêu nước. Niềm tự tin thầm lặng vào bản thân không bao giờ bỏ rơi ông, và nó thật sự lên tới mức một cảm giác về số phận, không hề bị gián đoạn. Một khi đã quyết tâm về một vấn đề đòi hỏi sự quyết định không thể cưỡng kháng lại, ông không bao giờ quay ngược lại, mà trung thành một cách vững vàng với bản thân và các kế hoạch của mình. Niềm tin tuyệt đối và tiềm ẩn này, tuy vậy, khác xa với sự tự phụ hay sự hăng hái; nó đơn giản là một ý thức, hay đúng hơn, một niềm xác tín, mang tới sức mạnh mà nó tin vào; và bản thân nó là sức mạnh, khơi gợi ở những người khác tin cậy vào ông, vì ông đã có thể tin cậy vào chính mình. 
Lịch sử quân sự của Ulysses S. Grant, Adam Badeau, 1868 
Sáng hôm sau, đội thuyền của Nelson tiến về Copenhagen, và chiến cuộc bắt đầu. Các khẩu súng Đan Mạch bắn ở một tầm gần, đã tiêu diệt khá nhiều quân Anh. Nelson bước trên boong con tàu mang cờ hiệu HMS Elephant của mình, thôi thúc các binh sĩ. Ông đang trong cơn kích động, gần như là một trạng thái xuất thần. Một phát đạn xuyên qua cột buồm chính suýt trúng ông. “Đây là một công việc nguy hiểm, và ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của tất cả chúng ta vào bất cứ lúc nào,” ông nói với một viên đại tá, đang hơi lảo đảo vì cơn gió, “nhưng anh hãy nhớ, vì hàng ngàn người, tôi sẽ không ở nơi nào khác.” 
Parker theo dõi cuộc chiến từ vị trí của ông ở phía bắc. Lúc này ông thấy hối tiếc đã chấp nhận kế hoạch của Nelson; ông chịu trách nhiệm đối với chiến dịch này, và thua trận ở đây có nghĩa là sẽ phá hủy sự nghiệp của ông. Sau bốn giờ bị pháo, ông đã nhìn thấy đủ: hạm đội đang bị tấn công và không chiếm được chút lợi thế nào. Nelson chưa bao giờ biết lúc nên dừng lại.
Parker quyết định đã tới lúc kéo cờ hiệu 39, ra lệnh rút lui. Những con tàu đầu tiên trông thấy nó đã ghi nhận và truyền tín hiệu dọc theo hàng. Một khi đã được ghi nhận, không có gì khác để làm ngoài việc rút lui. Trận chiến đã kết thúc. 
Trên tàu Elephant, một viên thiếu tá nói với Nelson về tín hiệu đó. Viên phó đô đốc làm ngơ. Tiếp tục bắn phá các tuyến phòng thủ của Đan Mạch, ông gọi một viên sĩ quan: “Số mười sáu vẫn còn treo chứ?” Số 16 là cờ của tàu ông; nó mang ý nghĩa là “Tấn công kẻ thù quyết liệt hơn.” Viên sĩ quan xác nhận rằng lá cờ vẫn còn bay. “Hãy lưu ý duy trì nó.” Nelson bảo anh ta. Một vài phút sau, cờ hiệu của Parker vẫn còn bay phần phật trong gió, Nelson quay sang viên thuyền trưởng: “Ông biết không, Foley, tôi chỉ có một mắt – đôi lúc tôi có quyền không thấy gì hết.” Và đưa chiếc ống nhòm lên con mắt mù của mình, ông bình thản nhận xét: “Tôi thật sự không nhìn thấy tín hiệu.” Bị giằng xé giữa việc tuân lệnh Parker và tuân lệnh Nelson, các thuyền trưởng của hạm đội cuối cùng chọn Nelson. Họ đánh liều vận may sự nghiệp của mình cùng với ông ta. Nhưng chẳng bao lâu sau, các tuyến phòng thủ của Đan Mạch bắt đầu tan vỡ; một số tàu đậu trong hải cảng đầu hàng, và tiếng súng bắt đầu giảm dần. Không đầy một giờ sau tín hiệu dừng trận đấu của Parker, quân Đan Mạch đầu hàng. Ngày hôm sau Parker miễn cưỡng chúc mừng Nelson về chiến thắng. Ông không nhắc gì tới sự bất tuân của người thuộc cấp. Ông hy vọng rằng toàn bộ sự việc, kể cả sự thiếu can đảm của mình sẽ được lãng quên một cách lặng lẽ. 
Diễn dịch 
Khi Bộ Hải quân đặt niềm tin vào Sir Hyde, nó đã mắc phải một sai lầm quân sự cổ điển: nó giao phó việc thực hiện chiến tranh cho một con người cẩn thận và làm việc có phương pháp. Những người như thế có vẻ như bình tĩnh, thậm chí mạnh mẽ, trong thời bình, nhưng sự kiểm soát bản thân của họ thường che đậy sự nhu nhược: lý do là họ suy nghĩ cân nhắc về mọi việc quá cẩn thận đến nỗi họ sợ mắc phải một sai lầm và sợ rằng điều đó có thể gây hậu quả xấu cho họ và sự nghiệp của họ. Điều này không lộ ra cho tới khi họ được thử nghiệm trong chiến cuộc: đột nhiên họ không thể ra được một quyết định. Họ nhìn thấy khó khăn ở mọi nơi và bị đánh bại trong một thất bại nhỏ nhoi nhất. Họ lui lại không phải vì lòng nhẫn nại mà vì nỗi sợ hãi. Thông thường, những thời điểm do dự đó báo hiệu cho sự thất bại của họ. 
Xưa kia có một người có thể mệnh danh là “tổng tư lệnh” của các tên cướp, tên gọi là Hakamadare. Hắn có một đầu óc minh mẫn và một thân hình cường tráng. Tay chân hắn nhanh nhẹn, tư duy và mưu đồ của hắn rất khôm ngoan. Hoàn toàn không có ai sánh được với hắn. Công việc của hắn là cướp của cải của mọi người khi họ không cảnh giác. Có lần nọ, vào khoảng tháng mười, hắn cần quần áo và quyết định đi kiếm một
ít. Hắn tới những điểm đã định và đi quanh quẩn dò la. Khoảng nửa đêm, khi mọi người đã ngủ yên, hắn trông thấy dưới ánh trăng lờ mờ một người đàn ông với trang phục xa hoa đang đi thơ thẩn trên đường. Người đó mặc một cái váy xếp nếp, có lẽ bằng những sợi dây, và một cái áo choàng đi săn, và đang thổi sáo; rõ ràng không vội vã đi đến một nơi nào đó. Ui chao, cái gã này ló ra đúng là để cho mình lột sạch áo quần đây, Hakamadare nghĩ bụng. Bình thường, hắn nhanh chóng chạy tới, đánh ngã con mồi rồi lột sạch áo quần của anh ta. Nhưng lần này, không thể lý giải nổi, hắn cảm thấy người đó có cái gì đó đáng phải e dè. Vì thế hắn đi theo sau ông ta khoảng vài trăm mét. Người đàn ông dường như không nghĩ rằng có ai đó đang đi theo mình. Trái lại, ông ta tiếp tục thổi sáo với một thái độ bình thản lạ lùng. Hãy thử xem sao, Hakamadare tự nhủ và chạy tới gần người đàn ông, làm ồn hết mức với tiếng bước chân của mình. Tuy nhiên, người đàn ông có vẻ như không bị quấy nhiễu chút nào, ông ta chỉ quay lại nhìn, và vẫn tiếp tục thổi sáo. Không thể nhảy xổ vào ông ta được Hakamadare chạy ra xa. Hắn thử cách tiếp cận nhiều lần, nhưng người đàn ông vẫn thản nhiên một cách kỳ lạ, Hakamadare nhận ra hắn đang đối phó với một kẻ khác thường. Khi cả hai đã đi được khoảng một ngàn mét Hakamadare quyết định không thể tiếp tục như thế, bèn rút kiếm ra và chạy tới chỗ ông ta. Lần này, người đàn ông ngưng thổi sáo, quay lại và nói: “Mi đang làm gì vậy?” Hakamadare chưa bao giờ bị tấn công với một nỗi sợ lớn hơn thế ngay cả nếu có một con quỷ hoặc thần linh chạy tới tấn công hắn khi hắn đang đi một mình. Vì một lý do không thể tả nào đó, hắn đánh mất cả trái tim và lòng can đảm của mình. Bị chế ngự bởi nỗi sợ gần chết và tự giận mình, hắn ngã quỵ xuống trên hai đầu gối và hai bàn tay. “Mi đang làm gì thế?” Người đàn ông lặp lại. Hakamadare cảm thấy hắn không thể bỏ chạy dù có cố mấy. “Tôi đang cố đánh cướp ông” Hắn đáp. “Tên tôi là Hakamadare.” “Ta có nghe về một người có cái tên như vậy, phải. Một gã khác thường, nguy hiểm. Ta đã nghe kể.” Người đàn ông nói. Rồi ông ta nói một cách giản dị với Hakamadare, “Đi với ta.” Rồi tiếp tục vừa đi vừa thổi sáo. Kinh khủng vì hắn đã gặp phải một con người siêu phàm, giống như bị thần nhập hay quỷ ám, Hakamadare bối rối đi theo người đàn ông. Cuối cùng, người đàn ông bước vào cổng của một ngôi nhà lớn. Ông ta bước vào nhà sau khi cởi giày ra để ở mái hiên. Trong lúc Hakamadare nghĩ thầm chắc ông ta phải là chủ nhân của ngôi nhà thì người đàn ông bước ra và kêu hắn lại. Đưa cho hắn một cái áo choàng may bằng vải cotton dầy, ông ta nói: “Trong tương lai, nếu mi cần thứ gì như thế này, chỉ cần tới đây nói với ta. Nếu mi lao vào một người không biết ý định của mi, mi có thể bị tổn thương.” Về sau, Hakamadare biết rằng ngôi nhà đó là của Fujiwara no Yasumasa, Đô đốc ở Settsu. Sau đó, khi ông ta bị bắt, hắn
biết rằng ông ta đã bị theo dõi. “Ông ta thật là một con người kỳ quặc, kinh khủng khác thường!” Yasumasa không phải là một chiến binh theo truyền thống gia đình vì ông ta là một người con trai của Munetada. Thế nhưng ông ta không hề thấp kém hơn bất kỳ một chiến binh nào theo truyền thống gia đình. Ông ta có một đầu óc minh mẫn, nhanh nhẹn và có một sức khỏe kinh khủng. Ông ta cũng có tư duy và mưu mẹo sắc sảo. Vì thế ngay cả tòa án tối cao cũng không thấy an toàn khi sử dụng ông ta theo cách của các chiến binh. Kết quả là cả thế giới đều sợ hãi ông ta và bị ông ta đe dọa. 
Những truyền thuyết về Samurai, Hiroaki Sato, 1995 
Huân tước Nelson hành động theo một nguyên tắc khác. Thân hình gầy ốm, mảnh khảnh, ông bù đắp cho sự yếu kém về thể chất với sự quyết tâm mãnh liệt. Ông tự buộc mình phải kiên quyết hơn bất cứ người nào xung quanh ông. Vào thời điểm bước vào chiến cuộc, ông đã trở nên ăn khớp với các xung năng hiếu chiến của mình. Khi các chỉ huy hải quân khác lo âu về sự ngẫu nhiên, về gió, về những thay đổi trong đội hình kẻ địch, ông tập trung vào kế hoạch của mình. Trước trận đánh, không có ai lên chiến lược và nghiên cứu đối thủ cẩn thận hơn ông (Kiến thức đó giúp Nelson nhận thức được thời điểm kẻ thù sắp sụp đổ). Nhưng một khi bắt đầu giao chiến, ông vất bỏ ngay sự do dự và cẩn trọng. 
Sự minh mẫn là một kiểu đối trọng đối với sự yếu kém về mặt tinh thần, với khuynh hướng trở nên nhạy cảm và đánh mất tầm nhìn xa của chúng ta trong sức nóng của chiến cuộc. Yếu kém lớn nhất của chúng ta là đánh mất dũng khí, tự ngờ vực bản thân, trở nên cẩn trọng một cách không cần thiết. Cẩn trọng hơn không phải là cái chúng ta cần; nó chỉ là một tấm màn che cho nỗi sợ xung đột và phạm sai lầm của chúng ta. Cái mà chúng ta cần là nhân đôi quyết tâm – một sự tăng cường lòng tự tin. Điều đó sẽ phục vụ cho chúng ta như là một đối trọng để cân bằng. 
Trong những giây phút rối loạn và khó khăn, bạn phải tự buộc mình có quyết tâm nhiều hơn. Tập hợp nguồn năng lượng hiếu chiến bạn cần có để vượt qua sự thận trọng và quán tính trì trệ. Bất kỳ sai lầm nào đã phạm phải bạn đều có thể điều chỉnh lại với hành động mạnh mẽ hơn. Hãy dành sự cẩn trọng của bạn cho những thời gian chuẩn bị, nhưng khi chiến cuộc đã bắt đầu, hãy xóa sạch sự ngờ vực khỏi tâm trí bạn. Hãy làm ngơ những kẻ nao núng mất tinh thần ở bất kỳ thất bại nào và kêu gọi rút lui. Hãy tìm niềm vui thích trong tấn công. Xung lượng sẽ đưa bạn băng qua cuộc chiến. 
Các cảm giác tạo nên trong tâm trí một ấn tượng mạnh mẽ hơn là ý tưởng có tính hệ thống... Ngay cả người đã hoạch định sự hoạt động và lúc này nhìn thấy nó đang được triển khai cũng có thể mất tự tin vào xét đoán trước đó
của mình... Chiến tranh có một cách thức ngụy trang đấu trường với phong cảnh được tô vẽ qua loa bởi những quỷ ma sợ sệt. Một khi điều này đã được quét sạch, và chân trời trở nên trống trải, những tiến triển sẽ xác nhận các niềm tin trước đó của ông ta – đây là một trong những cách biệt lớn lao giữa sự hoạch định và sự thực thi. 
Carl von Clausewitz, Về chiến tranh (1780–1831) 
CHIẾN THUẬT ĐỨC PHẬT UNG DUNG 
Đạo diễn phim kinh dị Alfred Hitchcock (1899-1980) là một người ung dung đến lạ lùng. Phần lớn những nhà làm phim là những quả bóng năng lượng đầy phấn khích, la hét om sòm với nhóm làm phim và quát tháo những câu mệnh lệnh, nhưng Hitchcock chỉ ngồi trên ghế, đôi khi ngủ gà gật, hay ít nhất cũng nhắm mắt hờ. Trong bộ phim Strangers on a Train, quay năm 1951, diễn viên Farley Granger đã cho rằng thái độ đó của Hitchcock có nghĩa là ông đang nổi giận hoặc bực mình và hỏi ông có điều gì trục trặc hay không. Hitchcock đáp một cách uể oải, “Ồ, tôi chán quá.” Những lời phàn nàn của nhóm làm phim, sự cáu kỉnh của một diễn viên – chẳng có gì có thể khiến ông bối rối; ông chỉ ngáp dài, ngã người trên ghế và làm ngơ. “Hitchcock... dường như không dẫn dắt gì chúng tôi cả.” Nữ diễn viên Margaret Lockwood nói. “Ông là một vị Phật gật gù, lơ mơ ngủ với một nụ cười mỉm bí ẩn trên môi.” 
Các bạn đồng sự của Hitchcock khó mà hiểu được vì sao một người đang làm một công việc căng thẳng như thế lại có thể giữ được sự bình thản thờ ơ. Một số người cho rằng đó là một phần trong tính cách của ông – ông được thừa hưởng một dòng máu lạnh trong người. Số khác thì cho rằng đó một mánh lới quảng cáo, một sự vờ vĩnh cố tình. Chỉ có vài người nghĩ ra sự thật: trước khi việc quay phim bắt đầu, Hitchcock đã chuẩn bị cho nó với sự chú tâm cực độ từng chi tiết đến mức không có điều gì có thể đi sai lệch. Ông hoàn toàn làm chủ tình thế; không có nữ diễn viên tính khí đồng bóng nào, nhà đạo diễn nghệ thuật yếu bóng vía nào, nhà sản xuất ưa xía mũi vào chuyện người khác nào có thể làm cho ông bực mình hay ngăn trở các dự định của ông. Cảm thấy sự tuyệt đối an toàn như thế trong cái mà ông đã bố trí, ông có thể thoải mái nằm xuống và ngủ. 
Tiến trình của Hitchcock bắt đầu bằng một cốt truyện, từ một cuốn tiểu thuyết hoặc một ý tưởng chính của ông. Như thể ông có một cái máy chiếu phim trong đầu, ông bắt đầu mường tượng ra cuốn phim. Kế tiếp, ông bắt đầu gặp một nhà biên kịch, người chẳng bao lâu sau đó nhận ra rằng đó là một công việc không giống như bất kỳ công việc nào khác. Thay vì lấy ý tưởng chưa chín tới của một nhà sản xuất nào đó và chuyển nó thành phim ảnh, nhà biên kịch chỉ việc đặt lên mặt giấy giấc mơ đọng lại trong tâm trí
của Hitchcock. Anh/cô ta sẽ bổ sung thêm xương và thịt cho các nhân vật và dĩ nhiên sẽ viết lời thoại, nhưng không nhiều lắm. Khi Hitchcock ngồi xuống với nhà biên kịch Samuel Taylor trong cuộc họp để viết bản thảo đầu tiên cho phim Vertigo (1958), các mô tả của ông về nhiều phân cảnh sống động, sôi nổi đến mức các trải nghiệm có vẻ như là sự thật, hoặc là một điều gì đó mà ông đã mơ thấy. Tính hoàn hảo về viễn tưởng này đã giải quyết trước mối xung đột sáng tạo. Như Taylor sớm nhận ra, dù ông là người viết kịch bản, nó vẫn là một sáng tạo của Hitchcock. Khi kịch bản phim đã hoàn tất, Hitchcock sẽ chuyển thể nó sang một kịch bản phân cảnh tỉ mỉ. Địa điểm, vị trí đặt camera, ánh sáng và các chiều kích được diễn giải bằng nhiều ghi chú chi tiết. Phần đông các đạo diễn chừa lại cho họ một phạm vi nào đó, chẳng hạn như việc quay những phân cảnh từ nhiều góc độ, để tạo cho họ những cơ hội chọn lựa sau đó. Hichcock thì không như vậy: chủ yếu ông biên tập toàn bộ cuốn phim trong những kịch bản phân cảnh. Ông biết đích xác điều mình muốn và viết nó ra. Nếu một nhà sản xuất hoặc một diễn viên cố thêm vào hay thay đổi một phân cảnh, Hitchcock vẫn tỏ ra vui vẻ – ông có thể giả vờ lắng nghe – nhưng trong lòng hoàn toàn không bị lay chuyển. 
Không còn lại thứ gì cho cơ may. Để xây dựng các cảnh quay (hoàn toàn phức tạp trong một cuốn phim như Rear Window), Hitchcock sẽ giao cho nhà thiết kế sản xuất những bản liệt kê phục trang dàn cảnh tỉ mỉ đến không thể tin nổi với những bản thiết kế, những sơ đồ tầng lầu chính xác. Ông giám sát mọi phương diện của việc xây dựng cảnh quay. Ông đặc biệt quan tâm tới trang phục của các nữ diễn viên chính của mình. Theo Edith Head, nhà thiết kế phục trang trong nhiều cuốn phim của Hitchcock, bao gồm Dial M for Murder năm 1954, “Có một lý do cho mỗi màu sắc, mỗi phong cách, và ông ta hoàn toàn chắc chắn về mọi thứ mà ông ta ấn định. Ở một cảnh ông ta nhìn thấy (Grace Kelly) mặc áo xanh nhạt, ở cảnh khác lại mặc áo the trắng toát, một cảnh khác màu vàng. Ông ta thật sự đã đặt một giấc mơ vào phim trường.” Khi nữ diễn viên Kim Novak từ chối mặc một bộ đồ màu xám trong phim Vertigo vì bà cảm thấy nó làm bà trông có vẻ xanh xao, Hitchcock bảo bà rằng ông ta muốn bà trông như một phụ nữ bí ẩn, một người vừa bước ra từ màn sương mù San Francisco. Làm sao bà có thể tranh cãi về việc đó? Bà đành phải mặc bộ đồ ấy. Các diễn viên của Hitchcock thấy rằng làm việc với ông lạ lùng nhưng thú vị. Một số ngôi sao hàng đầu của Hollywood – Joseph Cotten, Grace Kelly, Cary Grant, Ingrid Bergman – nói rằng ông là đạo diễn dễ chịu nhất để cộng tác: sự hờ hững của ông rất hấp dẫn, và vì các cuốn phim của ông được phân đoạn cẩn thận đến nỗi không cần lệ thuộc vào diễn xuất của các diễn viên trong nhiều cảnh cụ thể, họ có thể thư giãn. Mọi việc trôi chảy như một bộ máy đồng hồ. Như James Stewart nói với diễn viên phim The Man Who Knew Too Much (1956): “Chúng ta nằm trong tay một chuyên gia ở đây. Anh có thể dựa vào ông ấy. Cứ làm mọi thứ ông ta bảo
anh và toàn bộ mọi thứ sẽ ổn thỏa.” 
Khi Hitchcock ngồi bình thản ở trường quay, có vẻ như lơ mơ ngủ, diễn viên và đoàn làm phim chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ vai diễn của mỗi người. Họ không thể nghĩ ra làm cách nào để mọi thứ lồng gần vào viễn tượng của ông. Khi Taylor xem Vertigo lần đầu, nó giống như xem giấc mơ của một người khác. Bộ phim đã sao chép chính xác viễn tượng mà Hitchcock đã diễn tả với ông nhiều tháng trước. 
Diễn dịch 
Cuốn phim đầu tiên do Hitchcock đạo diễn là The Pleasure Garden, một cuốn phim câm ông thực hiện năm 1925. Việc sản xuất thất bại ở mọi khía cạnh mà ta có thể nghĩ ra. Hitchcock ghét sự hỗn độn và mất trật tự, những sự kiện bất ngờ, những thành viên đoàn làm phim hay hoang mang, và bất kỳ sự mất kiểm soát nào đều gây khó khăn cho ông. Từ đó trở đi, ông quyết định rằng ông sẽ xem việc làm phim như là một cuộc hành quân. Ông không chừa một khoảng hở nào để các nhà sản xuất, diễn viên và đoàn làm phim làm rối tung cái mà ông muốn sáng tạo. Ông tự học mọi lĩnh vực của việc sản xuất phim: thiết kế cảnh, ánh sáng, những kỹ thuật quay phim và thu hình, việc biên tập, âm thanh. Ông điều hành mọi giai đoạn của việc làm phim. Không một bóng đen nào có thể xuất hiện giữa kế hoạch và thể hiện nó. Cách thức thiết lập sự kiểm soát từ trước mà Hitchcock đã thực hiện có thể không giống như sự minh mẫn, nhưng nó thật sự đưa phẩm chất đó lên cực điểm. Nó mang ý nghĩa là bước vào chiến cuộc (trong trường hợp của Hitchcock là bấm máy quay) với cảm giác bình thản và sẵn sàng. Các thất bại có thể xảy ra, nhưng bạn đã nhìn thấy trước và đã nghĩ đến các khả năng thay thế, và bạn sẵn sàng để đáp ứng. Tâm trí bạn sẽ không bao giờ trống rỗng khi nó đã được chuẩn bị tốt. Khi các đồng sự của bạn ngăn trở bạn với những ngờ vực, những câu hỏi nôn nóng, và những ý tưởng cẩu thả, bạn có thể gật gù và vờ lắng nghe, nhưng thật ra bạn làm ngơ chúng: bạn đã suy nghĩ cặn kẽ về chúng trước rồi. Và thái độ thư giãn của bạn sẽ lây lan tới những người khác, khiến họ tới lượt mình cũng thấy dễ xoay xở hơn. Bạn dễ bị chế ngự bởi mọi thứ chạm mặt với bạn trong trận chiến, nơi có quá nhiều người hỏi han hay bảo ban bạn điều phải làm. Quá nhiều vấn đề quan trọng bị dồn trong đầu bạn khiến bạn có thể lạc tầm nhìn khỏi các mục tiêu và kế hoạch của mình; đột nhiên bạn không thể nhìn thấy khu rừng để tìm cây. 
Thấu hiểu: sự bình tĩnh là khả năng để tách rời bạn khỏi tất cả những thứ đó, để nhìn thấy toàn cảnh chiến cuộc, toàn cảnh bức tranh, với sự rõ ràng. Mọi tướng lĩnh vĩ đại đều có phẩm chất này. Và cái đem lại cho bạn khoảng cách tinh thần này là sự chuẩn bị, làm chủ trước những chi tiết. Cứ để cho mọi người nghĩ rằng sự ung dung của bạn giống như sự ung dung của đức Phật vốn có một nguồn gốc bí ẩn nào đó. Họ càng ít hiểu bạn càng tốt.
Vì tình yêu Thượng đế, hãy vững lòng và đừng nhìn mọi sự quá đen tối: bước thoái lui đầu tiên tạo một ấn tượng xấu trong quân đội, bước thứ hai đầy nguy hiểm, và bước thứ ba trở thành định mệnh 
Frederick Đại đế (1712-86), Thư gửi một vị tướng 
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN 
Con người chúng ta thích xem bản thân là những tạo vật có lý trí. Chúng ta tưởng tượng rằng điều phân biệt chúng ta với động vật là khả năng tư duy và lý trí. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật: cái phân biệt chúng ta với loài vật nhiều nhất là khả năng cười, khóc, cảm nhận được một loạt các cảm xúc của chúng ta. Trên thực tế, chúng ta là những tạo vật có cảm xúc cũng như có lý tính, và dù chúng ta thích cho rằng chúng ta điều khiển các hành động thông qua lý trí và tư duy, cái thường sai khiến hành vi của chúng ta là cảm xúc mà chúng ta cảm nhận ở một thời điểm. 
Chúng ta duy trì ảo tưởng rằng chúng ta có lý trí thông qua lề thói thực hiện các sự vụ hàng ngày, điều giúp chúng ta giữ mọi thứ bình ổn và hình như có kiểm soát. Tâm trí chúng ta khá mạnh mẽ khi chúng ta sống theo lề thói thường ngày. Nhưng nếu đặt bất kỳ ai trong số chúng ta vào một hoàn cảnh thù địch, lý tính của chúng ta sẽ biến mất tăm; chúng ta phản ứng với áp lực bằng cách gia tăng sự sợ hãi, nôn nóng, bối rối. Những thời điểm như thế hé lộ cho chúng ta thấy mình là những tạo vật giàu cảm xúc thế nào: dưới sự tấn công, dù là bởi một kẻ thù đã biết hay một cách bất ngờ bởi một đồng sự, phản ứng của chúng ta bị chế ngự bởi những cảm giác giận dữ, buồn rầu và bị phản bội. Chỉ với nỗ lực lớn lao, chúng ta mới có thể tỉnh táo tìm đường đi qua những thời kỳ đó và phản ứng một cách có lý trí – và lý trí của chúng ta hiếm khi tồn tại tới cuộc tấn công kế tiếp. 
Thấu hiểu: tâm trí bạn yếu ớt hơn các cảm xúc của bạn. Nhưng bạn chỉ nhận thức được điểm yếu này trong những thời điểm có sự thù địch – chính xác là thời điểm mà bạn cần sức mạnh. Cái tốt nhất trang bị cho bạn để đương đầu với sức nóng của trận chiến không phải là nhiều tri thức hơn hay thông minh hơn. Cái làm cho tâm trí bạn hùng mạnh hơn, và có nhiều khả năng kiểm soát các cảm xúc của bạn hơn, là kỷ luật nội tâm và sự ngoan cường. 
Không ai có thể dạy bạn kỹ năng này; bạn không thể học nó bằng cách đọc về nó. Như bất kỳ thứ kỷ luật nào, nó chỉ đến thông qua thực hành, kinh nghiệm, thậm chí một chút đau khổ nữa. Bước đầu tiên trong việc xây dựng sự bình tĩnh là nhìn thấy sự cần thiết của nó – để mong muốn nó nhiều tới mức sẵn lòng làm việc vì nó. Các nhân vật lịch sử nổi bật về sự minh mẫn của họ – Alexander Đại đế, Ulysses S. Grant, Winston Churchill – đã thủ đắc nó thông qua sự thù địch, thông qua quá trình thử và sai. Họ đảm đương
nhiều trách nhiệm mà trong đó họ hoặc phải phát triển phẩm chất này hoặc là phá sản. Mặc dù những người này có thể đã được Trời ban một sức chịu đựng ngoan cường khác thường, họ cũng phải làm việc vất vả để củng cố sự minh mẫn. 
Phẩm chất hàng đầu của một vị Tổng tư lệnh là có một trái tim bình thản để đón nhận những ấn tượng xác thực về mọi sự thật, để không bao giờ bị bốc lửa, để không bao giờ cho phép bản thân nó say sưa, hay bị choáng váng, bởi các tin tức, tốt lành hay tồi tệ. Những cảm giác đồng thời và liên tục tiếp nối mà ông ta tiếp nhận trong ngày phải được phân loại, và phải nằm đúng vào các vị trí có lợi, bởi vì cảm giác và lý trí bình thường là những kết quả của việc so sánh một loạt những cảm xúc được cân nhắc cẩn thận như nhau. Có những con người cụ thể, do cấu trúc tinh thần và thể chất của họ, thường vẽ lên những bức tranh tinh thần từ mọi sự vật: dù lý trí, ý chí, lòng dũng cảm, và bất cứ phẩm chất tốt đẹp nào mà họ sở hữu có cao thượng cỡ nào, tự nhiên đã không ấn định họ vào việc chỉ huy các đạo quân, cũng như chỉ huy những cuộc hành quân lớn trong chiến tranh. 
Napoleon Bonaparte, 1769-1821 
Những ý tưởng sau đây dựa trên các kinh nghiệm và các chiến thắng thu được một cách khó khăn của họ. Hãy xem các ý tưởng này như là những bài tập, những cách thức để trui rèn tâm trí bạn, mỗi ý tưởng là một kiểu lực đối trọng với lực hút có tính áp đảo của cảm xúc. 
Công khai đối mặt với xung đột: George S. Patton xuất thân từ một trong những gia tộc quân sự lừng lẫy nhất của Hoa Kỳ – tổ tiên của ông bao gồm nhiều vị tướng và đại tá đã chiến đấu và hy sinh trong Cách mạng Mỹ và Nội chiến. Lớn lên trong những câu chuyện đẫm chất anh hùng ca của họ, ông đã nối bước theo họ và chọn đời binh nghiệp. Nhưng Patton cũng là một thanh niên nhạy cảm, và ông có một nỗi sợ sâu sắc: rằng trong chiến trận ông sẽ hóa ra hèn nhát và làm ô nhục thanh danh của gia tộc. 
Patton có cơ nghiệp đầu tiên trong chiến trận vào năm 1918, ở tuổi ba mươi hai, trong cuộc tấn công của quân Đồng minh vào Argonne trong Thế chiến I. Ông chỉ huy một sư đoàn xe thiết giáp. Ở một thời điểm trong trận đánh, Patton tìm cách dẫn một số lính bộ binh đến một vị trí trên đỉnh đồi để quan sát một thị trấn có tầm chiến lược chủ chốt, nhưng hỏa lực Đức buộc họ phải ẩn nấp. Chẳng bao lâu sau đó, rõ ràng là họ đã sụp bẫy; nếu thoái lui, họ sẽ lọt tầm hỏa lực từ các phía của ngọn đồi; nếu tiến lên, họ sẽ đâm thẳng vào khẩu đội súng máy của Đức. Nếu cả nhóm chết hết, điều dường như sẽ xảy ra đối với Patton, thì tốt hơn nên chết trong lúc tiến công. Tuy nhiên, vào thời điểm dẫn toán quân tấn công, Patton bị bao trùm bởi một nỗi sợ kinh
khủng. Người ông run lên, và đôi chân ông như cóng lại. Trong khoảnh khắc sợ hãi sâu thẳm nhất, Patton đánh mất dũng khí của mình. 
Ngay thời điểm đó, nhìn lên những đám mây bên ngoài các khẩu đội của Đức, Patton có một viễn tượng: ông nhìn thấy hình ảnh của các tiền nhân trong quân đội, tất cả đều mặc quân phục, đang nghiêm khắc nhìn ông. Dường như họ muốn mời ông nối vào đoàn quân của họ – đoàn quân của những anh hùng đã hy sinh trong chiến tranh. Điều nghịch lý là hình ảnh của những người này lại có một hiệu quả giúp chàng thanh niên Patton bình tĩnh lại: ông thét to, kêu gọi những tình nguyện quân theo ông: “Đã tới lúc một Patton khác chết đi!” Sức mạnh đã quay về với đôi chân; ông đứng lên và tiến thẳng tới những khẩu súng Đức. Vài giây sau ông ngã xuống, bị trúng đạn vào đùi. Nhưng ông sống sót trong trận đánh. Kể từ đó trở đi, ngay cả sau khi trở thành một vị tướng, Patton coi việc đến thăm các vị trí tiền tiêu là điều cần thiết, mặc dù ông biết rằng phơi bày bản thân trước hiểm nguy là không cần thiết. Ông tự kiểm tra bản thân hết lần này sang lần khác. Viễn tượng về các tiền nhân của ông vẫn còn là một sự kích thích thường xuyên – một thách đố đối với danh dự của ông. Càng ngày việc đối mặt với những sợ hãi của ông càng trở nên dễ dàng hơn. Dường như đối với những tướng lĩnh ngang hàng, hoặc với thuộc cấp của ông, không có ai minh mẫn hơn Patton. Họ không biết rằng sức mạnh của ông là một nỗ lực của ý chí. 
Câu chuyện của Patton dạy chúng ta hai điều. Thứ nhất, đương đầu với những nỗi sợ của bạn, cứ để chúng hiện ra bề mặt thì tốt hơn là làm ngơ chúng hay đè nén chúng xuống. Nỗi sợ là một cảm xúc có tính hủy hoại nhất đối với sự minh mẫn, nhưng nó lớn nhanh từ một cái gì vô danh, dẫn dắt những hình ảnh tưởng tượng của chúng ta chạy tán loạn. Bằng cách chủ động đặt mình vào những hoàn cảnh mà bạn phải đối mặt với nỗi sợ, bạn làm cho bản thân quen thuộc với nó và sự lo âu của bạn giảm đi. Cảm giác đã vượt qua một nỗi sợ bám rễ sâu trong bạn tới lượt nó sẽ mang tới cho bạn lòng tự tin và sự bình tĩnh. Càng buộc bản thân phải vượt qua nhiều xung đột và hoàn cảnh khó khăn bao nhiêu, bạn càng thử thách tâm trí bạn bằng chiến trận bấy nhiêu. 
Có một con cáo chưa bao giờ nhìn thấy sư tử. Một hôm nó tình cờ chạm trán với một trong những con thú to lớn đó, Trong lần đầu tiên này nó khiếp sợ đến nỗi nó cảm thấy nó sẽ chết vì sợ. Nó lại gặp sư tử một lần nữa, và lần này nó cũng sợ, nhưng không quá mức như lần đầu. Và lần thứ ba gặp nhau, nó thật sự thu được đủ can đảm để tới gần và trò chuyện với con sư tử. Câu chuyện ngụ ngôn này cho thấy rằng sự quen thuộc làm giảm các nỗi sợ của chúng ta. 
Truyện ngụ ngôn Aesop, thế kỷ 6 Tr. CN
Thứ hai, kinh nghiệm của Patton chứng minh năng lực thúc đẩy của cảm giác về danh dự và phẩm cách. Trong việc chấp nhận nỗi sợ, trong việc đánh mất sự bình tĩnh, bạn gây ô nhục không chỉ cho bản thân, hình ảnh của mình, thanh danh của mình, mà cả cho đồng đội bạn, gia đình bạn, nhóm của bạn. Bạn hạ thấp tinh thần của cộng đồng. Việc làm người dẫn đầu, dù chỉ là một nhóm nhỏ nhất cũng mang tới cho bạn một cái gì đó để cống hiến: mọi người đang ngắm nhìn bạn, phán xét bạn, trông cậy vào bạn. Việc đánh mất sự minh mẫn sẽ làm bạn khó khăn hơn để sống với bản thân. 
Hãy trông cậy vào bản thân. Không có gì tệ hại hơn là cảm giác phụ thuộc vào người khác. Sự phụ thuộc khiến bạn dễ bị tổn hại với mọi loại cảm xúc – sự phản phúc, sự thất vọng, sự chán nản – chúng tàn phá sự cân bằng tinh thần của bạn. 
Hồi đầu Nội chiến Mỹ, Tướng Ulysses S. Grant, tư lệnh cuối cùng của các đạo quân miền Bắc, cảm thấy quyền lực của mình đang mất dần. Các thuộc cấp của ông truyền lại những thông tin không chính xác trên địa hình mà ông phải hành quân ngang qua; các viên sĩ quan không chấp hành nghiêm mệnh lệnh của ông; các tướng lĩnh chỉ trích những kế hoạch của ông. Grant là người có bản chất khắc kỷ, nhưng sự điều khiển không xuể các đạo quân của mình dẫn tới việc ông không tự kiểm soát nổi bản thân và lái ông tới việc rượu chè be bét. 
Theo lời của những bậc tiền nhân người ta phải ra những quyết định của họ trong vòng bảy hơi thở (Lãnh chúa Takanobu nói: “Nếu phán đoán kéo dài, nó sẽ hỏng.” Lãnh chúa Naoshige nói: “Khi các bậc thầy nhàn cư, bảy phần mười trong số họ sẽ hóa ra tồi tệ. Một chiến binh là một kẻ thực hiện mọi việc một cách nhanh chóng.” Khi tâm trí bạn lang thang đây đó, sự phán đoán sẽ không bao giờ đưa tới một kết luận nào. Với một tinh thần sôi nổi, tươi mới và có nền tảng, người ta sẽ có những phán đoán trong vòng bảy hơi thở. Đó là vấn đề có quyết tâm và có tinh thần đột phá qua phía bên kia. 
Hagakure: Cuốn sách về Samurai, Yamamoto Tsunetomo (1659-1720) 
Grant đã học bài học của mình vào thời gian chiến dịch Vicksburg, năm 1862-63. Ông tự cưỡi ngựa qua địa hình, trực tiếp nghiên cứu nó. Ông tự xem lại các bản báo cáo tình báo. Ông chỉnh lại độ chính xác của các mệnh lệnh, khiến các sĩ quan khó mà xem thường chúng. Và khi đã quyết định, ông làm ngơ các ngờ vực của các viên tướng khác, chỉ tin vào những suy nghĩ của mình. Để mọi việc được thực hiện, ông phải trông cậy vào bản thân mình. Cảm giác vô vọng của ông đã tan biến, và theo cùng với nó là tất cả những cảm xúc đã góp phần phá hoại sự minh mẫn của ông. Việc dựa vào bản thân là điều cốt lõi. Để làm cho bản thân ít phụ thuộc vào kẻ khác và
những kẻ được gọi là chuyên gia các thứ, bạn cần mở rộng vốn kỹ năng của bạn. Và bạn cần cảm thấy tự tin hơn nữa vào phán xét của chính mình. Thấu hiểu: chúng ta có khuynh hướng đánh giá quá cao khả năng của người khác – nói cho cùng, họ đang cố gắng để tỏ vẻ như thể họ biết cái mà họ đang làm – và chúng ta có khuynh hướng đánh giá quá thấp bản thân. Bạn phải bù đắp lại điều này bằng cách tin cậy vào bản thân nhiều hơn và tin cậy vào kẻ khác ít đi. 
Tuy nhiên, điều quan trọng cần phải nhớ là dựa vào bản thân không có nghĩa là bạn tự khoác lên vai gánh nặng của các chi tiết nhỏ nhất. Bạn phải có khả năng phân biệt giữa những vấn đề nhỏ mà tốt nhất là để cho người khác làm và những vấn đề lớn đòi hỏi sự chú ý và quan tâm của bạn. 
Chịu đựng những tên ngốc một cách vui vẻ. John Churchill, Công tước xứ Marlborough, là một trong những vị tướng thành công nhất trong lịch sử. Là một thiên tài về chiến thuật và chiến lược, ông có một sự minh mẫn kinh khủng. Vào đầu thế kỷ 18, Churchill thường là chỉ huy của lực lượng liên minh Anh, Hà Lan và Đức để chống lại lực lượng hùng mạnh của Pháp. Các tướng lĩnh cùng phe của ông là những người nhút nhát, hay do dự và đầu óc hẹp hòi. Họ ngăn trở các kế hoạch táo tợn của vị công tước, nhìn thấy nguy cơ ở mọi nơi, ngã lòng với thất bại nhỏ nhất, và cổ động mối quan tâm của quốc gia họ vào chi phí của việc liên minh. Họ không có tầm nhìn, không biết nhẫn nại: họ là một lũ ngốc. 
Đây là một sự kiện nổi tiếng trong thời kỳ nội chiến, kể rằng, khi tới bờ châu Phi, Caesar rời con tàu để lên bờ đi du ngoạn và bị té sấp mặt xuống đất. Với thiên tài về ứng đối của mình, ông duỗi dài tay ra và ôm mặt đất như là một biểu tượng của sự thống trị. Bằng tư duy nhanh nhạy, ông đã biến một điểm gở kinh khủng cho sự thất bại thành một điểm may cho chiến thắng. 
Cicero: Cuộc đời và niên đại của nhà chính trị vĩ đại nhất của La Mã, Anthony Everitt, 2001 
Vị công tước, một triều thần giàu kinh nghiệm và tinh tế, không bao giờ trực tiếp đối đầu với các đồng sự của mình; ông không áp đặt ý kiến của mình lên họ. Thay vì vậy, ông đối xử với họ như đối với bọn trẻ con, chiều cho họ tha hồ sợ sệt trong lúc gạt họ ra khỏi các kế hoạch của ông. Thỉnh thoảng, ông ném cho họ một khúc xương – thực hiện một việc thứ yếu nào đó mà họ đã đề xuất hay giả vờ lo lắng về một nguy cơ họ tưởng tượng ra. Nhưng ông không bao giờ để cho mình nổi giận hay nản chí; điều đó có thể phá hỏng sự minh mẫn, xói mòn khả năng chỉ huy chiến dịch của ông. Ông tự buộc mình phải nhẫn nại và vui vẻ. Ông biết cách chịu đựng những tên ngốc một cách vui vẻ.
Chúng ta muốn nói tới khả năng giữ vững tâm trí của một người vào những lúc đặc biệt căng thẳng và cảm xúc mãnh liệt… Nhưng sẽ gắn với sự thật hơn nếu giả định rằng khả năng tự kiểm soát bắt nguồn từ khí chất. Bản thân nó là một cảm xúc, giúp cân bằng các cảm giác mãnh liệt ở những tính cách mạnh mẽ mà không tiêu diệt chúng, và chỉ duy nhất sự cân bằng này bảo đảm cho sự thống trị của nhà tri giả. Lực đối trọng mà chúng ta muốn nói đơn giản chỉ là cảm giác về phẩm chất con người, niềm tự hào cao thượng nhất và nhu cầu sâu thẳm nhất trọng mọi thứ: sự thôi thúc để hành động một cách có lý trí vào mọi lúc. Do đó, một tính cách mạnh là một tính cách không thể mất cân bằng bởi những cảm xúc mãnh liệt nhất. 
Về chiến tranh, von Clausewitz, 1780-1831 
Thấu hiểu: Bạn không thể có mặt ở khắp nơi và đánh nhau với tất cả mọi người. Thời gian và năng lượng của bạn có giới hạn, và bạn phải học cách bảo tồn chúng. Sự kiệt sức và sự nản lòng có thể phá hỏng sự minh mẫn của bạn. Thế giới đầy rẫy những tên ngốc – những kẻ không thể đợi để đạt kết quả, những kẻ thay đổi theo chiều gió, những kẻ không thể nhìn xa hơn mũi họ. Bạn gặp họ ở khắp nơi: ông chủ hay do dự, người đồng nghiệp cẩu thả, người thuộc cấp điên rồ. Khi làm việc cùng với lũ ngốc, đừng đấu đá với họ. Thay vì thế, hãy nghĩ tới họ theo cách bạn nghĩ tới bọn trẻ con, hay những convật nuôi, không đủ quan trọng để gây ảnh hưởng tới sự cân bằng tinh thần của bạn. Hãy tách rời bản thân về mặt cảm xúc. Và trong lúc bạn đang cười thầm vào sự ngốc nghếch của họ, hãy chiều theo một trong những ý tưởng vô hại nào đó của họ. Khả năng sống vui vẻ ngoài mặt với bọn ngốc là một kỹ năng quan trọng. 
Đẩy lùi những cảm giác hoang mang bằng cách tập trung vào những công việc đơn giản. Lãnh chúa Yamanouchi, một nhà quý tộc Nhật Bản hồi thế kỷ 18, có lần yêu cầu một vị trà sư đang giúp việc cho ông cùng ông đến thăm Edo (sau này là Tokyo), nơi ông sẽ sống một thời gian. Ông muốn khoe với các bạn đồng liêu kỹ năng của vị sư phụ này trong các nghi thức trà đạo. Bấy giờ, vị trà sư biết tất cả mọi thứ về trà đạo, nhưng lại biết rất ít về mọi thứ khác; ông là một con người hòa nhã. Tuy nhiên, ông ăn vận như một samurai, vì vị trí cao của ông đòi hỏi. 
Một hôm, khi đang đi dạo trong thành phố, một samurai đến gần và thách đấu với ông. Vị trà phụ này không phải là một kiếm sĩ và ông cố giải thích cho tay võ sĩ kia hiểu, nhưng hắn ta không chịu nghe. Từ chối sự thách đấu sẽ là một nỗi nhục cho cả gia đình vị sư phụ lẫn cho Yamanouchi. Ông đành phải nhận lời, nghĩ rằng điều đó cũng có nghĩa là cầm chắc cái chết trong tay. Và dù đã nhận lời, ông chỉ yêu cầu hoãn trận đấu lại ngày hôm sau.
Mong muốn của ông được chấp nhận. 
Lòng hoang mang, vị trà sư vội vã tới ngôi trường dạy kiếm thuật gần nhất. Nếu phải chết, ông cũng muốn học cách chết một cách vinh quang. Để gặp vị sư phụ dạy kiếm cần phải có thư giới thiệu, nhưng vị trà sư cứ một mực khăng khăng, và tỏ vẻ kinh hoàng đến nỗi cuối cùng ông cũng được mời vào. Vị kiếm sư lắng nghe câu chuyện của ông. 
Ông nhận ra rằng loại binh sĩ nào ông sắp sửa chiến đấu cùng không phải là vấn đề lớn, miễn là họ chiến đấu, sự thật đó không cần bàn cãi. Có một vấn đề khác nghiêm trọng hơn. Một nỗi sợ khủng khiếp lớn dần trong đầu ông. Khi ông tưởng tượng tới một trận đánh, ông thấy những khả năng tồi tệ. Ông lặng nhìn những sự đe dọa đang lẩn khuất trong tương lai, và thất bại trong nỗ lực nhìn thấy chính mình kiên cường đứng ở giữa chúng. Ông nhớ về mình với sự vinh quang bi tráng, nhưng ông lại ngờ rằng chúng không thể xảy ra. Ông phóng khỏi giường và sốt ruột bước tới lui. “Chúa ơi, chuyện gì xảy ra với tôi vậy?” ông nói to. Ông cảm thấy các quy tắc sống của ông đều vô dụng. Bất kể ông đã hiểu gì về bản thân mình bây giờ cũng đều vô ích. Một lần nữa ông buộc phải trải nghiệm lại điều mà ông từng trải qua thời con trẻ. Ông phải tích lũy thông tin cho mình, đồng thời quyết định phải ở gần những người cận vệ kẻo không, những phẩm chất mà ông không biết gì về chúng có thể làm ô nhục thanh danh ông mãi mãi. “Chúa ơi!”, ông lặp lại trong cơn hoảng loạn mất tinh thần… Suốt nhiều ngày ông thực hiện vô số các phép tính, nhưng tất cả đều cực kỳ không thỏa đáng. Ông thấy rằng ông không thể thực hiện được điều gì cả. Cuối cùng, ông kết luận rằng cách duy nhất để chứng minh bản thân là lao thẳng vào ngọn lửa và khi đó nhìn ngắm đôi chân mình để khám phá từ những giá trị và thiếu sót của chúng. Ông miễn cưỡng thừa nhận rằng ông không thể ngồi yên với một tấm bảng đá tinh thần và một mẩu bút chì để tìm ra lời giải đáp. Để có được nó, ông phải đối diện với lửa, máu và nguy hiểm, thậm chí cũng giống như một nhà hóa học đòi hỏi thứ này, thứ kia, và thứ khác. Thế là ông bắt tay vào việc tìm một cơ hội. 
Chiếc phù hiệu đỏ của lòng dũng cảm, Stephen Crane, 1871-1900 
Nhà kiếm thuật có vẻ thông cảm: ông sẽ dạy cho người khách tội nghiệp này nghệ thuật chết, nhưng trước tiên ông muốn được phục vụ trà. Vị trà sư thực hiện các nghi thức, thái độ của ông bình thản, sự tập trung của ông tối hảo. Cuối cùng, vị kiếm sư thốt lên đầy kích động: “Ông không cần phải học nghệ thuật chết! Trạng thái tinh thần lúc này của ông đã đủ để ông đối mặt với bất kỳ võ sĩ nào. Khi ông gặp kẻ thách đấu, hãy tưởng tượng rằng ông sắp sửa phục vụ trà cho một vị khách. Hãy cởi áo khoác ra, xếp nó lại thật
cẩn thận, và đặt chiếc quạt của ông lên đó giống như ông đang làm việc.” Hoàn tất xong nghi thức này, vị trà sư sẽ giơ kiếm lên với cùng một tinh thần cảnh giới như thế. Khi đó ông sẽ sẵn sàng để chết. Vị trà sư đồng ý làm theo lời của người thầy. Ngày hôm sau, ông tới gặp tay võ sĩ kia, kẻ không thể không chú ý tới vẻ bình thản tột độ và biểu hiện của phẩm cách trên mặt của đối thủ khi ông ta cởi áo khoác ra. Có lẽ, tay võ sĩ nghĩ thầm, vị này thật sự là một kiếm sĩ giỏi. Anh ta cúi chào, xin được tha thứ vì hành vi của mình ngày hôm trước rồi vội vã bỏ đi. 
Khi các hoàn cảnh làm chúng ta lo sợ, trí tưởng tượng của chúng ta có khuynh hướng bám lấy nó, phủ đầy tâm trí với những lo âu bất tận. Bạn cần phải kiểm soát được trí tưởng tượng của mình, một điều nói dễ hơn làm. Thông thường cách tốt nhất để bình tĩnh lại và đạt được sự kiểm soát như thế là buộc tâm trí phải tập trung vào một thứ gì đó tương đối đơn giản – một nghi thức bình thản, một công việc có tính lặp lại nhiều lần mà bạn thông thạo. Bạn đang tạo ra một loại trạng thái bình tĩnh mà bạn có được một cách tự nhiên khi tâm trí bạn đang tập trung sâu vào một vấn đề. Một đầu óc tập trung không còn chỗ cho sự lo lắng hay cho các ảnh hưởng của một trí tưởng tượng hoạt động quá mức. Khi bạn đã có lại sự cân bằng tinh thần, bạn có thể đối diện với vấn đề trước mắt. Ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của bất kỳ loại sợ hãi nào, hãy thực hành kỹ thuật này cho tới khi nó trở thành một thói quen. Có khả năng kiểm soát trí tưởng tượng của bạn trong những giây phút căng thẳng là một kỹ năng cốt lõi. 
Không tự dọa dẫm bản thân. Sự đe dọa luôn luôn tác động tới sự minh mẫn của bạn. Và nó là một cảm giác khó chống đỡ. Trong Thế chiến II, nhà soạn nhạc Dmitry Shostakovich và nhiều đồng nghiệp của ông được mời dự một cuộc họp với lãnh tụ Nga Joseph Stalin, người đã ủy thác cho họ viết một bài quốc ca mới. Các cuộc họp với Stalin thật kinh hoàng; một bước nhầm có thể đưa bạn xuống một con đường vô cùng đen tối. Ông ta nhìn chằm chặp vào bạn cho tới khi bạn thấy cổ mình nghẹn lại. Và, như trong các cuộc họp với Stalin đã diễn ra, cuộc họp này có một bước ngoặt tồi tệ: nhà lãnh tụ bắt đầu chỉ trích một trong những nhà soạn nhạc vì sự chuẩn bị kém cỏi trong bài quốc ca của ông ta. Sợ phát cuồng lên, người này thú nhận rằng ông ta đã sử dụng một người cải biên không thực hiện tốt công việc của mình. Ở đây, ông ta đã tự đào nhiều cái huyệt: rõ ràng, người cải biên tội nghiệp đó có thể bị gọi lên làm việc. Nhà soạn nhạc chịu trách nhiệm cho việc thuê mướn này, và ông ta cũng phải trả giá cho lầm lỗi đó. Thế còn những nhà soạn nhạc khác, kể cả Shostakovich? Stalin có thể không thương xót một khi ông ta ngửi thấy mùi sợ hãi. 
Shostakovich đã nghe đủ: Thật là ngu xuẩn khi đổ lỗi cho người cải biên, ông nói, một kẻ gần như chỉ tuân theo các đơn đặt hàng. Rồi ông đột nhiên hướng cuộc đối thoại sang một chủ đề khác – Một nhà soạn nhạc có thể dùng
dàn nhạc của chính mình không? Stalin đã nghĩ gì về vấn đề này? Luôn luôn nôn nóng chứng tỏ sự thành thạo của mình, Stalin đã cắn mồi câu. Giây phút nguy hiểm đã trôi qua. Shostakovich duy trì sự minh mẫn của ông bằng nhiều cách. Trước hết, thay vì để cho Stalin đe dọa mình, ông tự buộc mình nhìn con người đó như chính bản thân ông ta: lùn, mập, xấu xí, không có trí tưởng tượng. Cái nhìn dữ tợn nổi tiếng của nhà độc tài này chỉ là một trò bịp bợm, một dấu hiệu của sự không an toàn của chính ông ta. Thứ hai, Shostakovich ngước lên nhìn Stalin, nói chuyện với ông ta một cách bình thường và thẳng thắn. Bằng thái độ và giọng nói của mình, nhà soạn nhạc cho thấy ông không bị đe dọa. Stalin đã chán ngấy sự sợ hãi. Nếu bạn không tỏ ra hiếu thắng hay trơ tráo và không tỏ vẻ sợ hãi, nói chung ông ta sẽ để cho bạn yên. Cách thức cơ bản để không bị đe dọa là thuyết phục chính mình rằng cá nhân mà bạn đang đối mặt chỉ là một sinh vật hữu tử đơn thuần, chẳng khác chi bạn – điều mà trên thực tế là sự thật. Hãy nhìn vào cá nhân đó chứ không phải vào huyền thoại. Hãy hình dung ông ta hay bà ta như một đứa trẻ con, như một người nào đó đang chơi trò đánh đố với những thứ không an toàn. Việc cắt giảm người khác xuống đúng với tầm vóc của họ sẽ giúp bạn giữ được cân bằng tinh thần. 
Phát triển trực giác “Fingerspitzengefuhl”của bạn. Sự minh mẫn không chỉ phụ thuộc vào khả năng tinh thần để tìm đến sự trợ giúp của chính bạn mà còn phụ thuộc vào tốc độ phản ứng của bạn. Việc chờ cho tới ngày hôm sau để suy nghĩ về hành động đúng cần thực hiện chẳng có ích gì cho bạn cả. “Tốc độ” ở đây có nghĩa là phản ứng với các tình huống với sự nhanh nhẹn và các quyết định xảy ra trong chớp mắt. Khả năng này thông thường được xem như là một kiểu trực giác, cái mà người Đức gọi là “Fingerspitzengefuhl” (cảm giác đầu ngón tay). Erwin Rommel người đã chỉ huy chiến dịch xe thiết giáp Đức ở Bắc Phi trong Thế chiến II, có một cảm giác đầu ngón tay rất nhạy bén. Ông có thể cảm nhận được khi nào quân Đồng minh sẽ tấn công và từ hướng nào. Khi chọn một tuyến để tiến quân, ông có một cảm giác siêu phàm đối với yếu điểm của kẻ địch; khi khởi đầu một trận đánh, ông có thể cảm nhận ra chiến lược của kẻ thù trước khi nó được triển khai. 
Với binh lính, Rommel dường như có một tài năng thiên phú đối với chiến tranh, và ông có một đầu óc linh hoạt hơn nhiều người. Nhưng Rommel cũng đã làm những điều để nâng cao sự nhanh nhạy của mình, những điều củng cố cảm giác của ông đối với trận chiến. Đầu tiên, ông đọc những thông tin về kẻ thù – từ những chi tiết về vũ khí trang bị cho tới những đặc điểm tinh thần của viên tướng đối phương. Thứ hai, ông tự biến mình thành một chuyên gia trong kỹ thuật xe thiết giáp, để ông có thể tận dụng tối đa khí tài của mình. Thứ ba, ông không chỉ ghi nhớ những bản đồ của vùng Bắc Phi mà còn bay bên trên nó, với nguy cơ rất cao, để quan sát ở tầm rộng và xa vùng chiến
địa. Cuối cùng, ông cá nhân hóa mối quan hệ giữa ông và binh sĩ. Ông luôn luôn có một cảm nhận về tinh thần của họ và biết chính xác ông có thể mong chờ điều gì ở họ. Rommel không chỉ nghiên cứu binh sĩ, xe tăng, địa hình và kẻ thù của mình – ông còn luồn vào bên trong lớp da của họ, thấu hiểu cái tinh thần tạo nên sinh khí của họ. Khi đã cảm nhận được những điều này, trong chiến cuộc ông đi vào một trạng thái tinh thần mang tính chất vô thức về hoàn cảnh. Toàn bộ những gì sắp diễn ra nằm trong máu của ông, ở đầu ngón tay của ông. Ông ta có trực giác Fingerspitzengefuhl. Dù bạn có hay không có khả năng của Rommel, có nhiều điều bạn có thể làm để giúp bạn phản ứng nhanh hơn và đưa tới cảm giác có tính trực giác mà loài vật thủ đắc. Kiến thức sâu về địa hình sẽ cho phép bạn tiến hành thông tin nhanh hơn kẻ thù, một lợi điểm to lớn. Cảm nhận được tinh thần của người và vật chất, suy nghĩ sâu vào đó thay vì chỉ nhìn từ bên ngoài, sẽ giúp bạn có một khung tâm trí khác, ít ý thức và sức ép lớn, nhưng nhiều vô thức và trực giác hơn. Hãy làm cho tâm trí bạn có thói quen ra những quyết định nhanh như chớp, tin chắc vào cảm giác đầu ngón tay của bạn. Tâm trí của bạn sẽ tiến triển theo một dạng chiến tranh chớp nhoáng về mặt tâm thần, vượt qua đối thủ của bạn trước khi họ nhận ra cái gì tấn công họ. Cuối cùng, đừng nghĩ rằng sự minh mẫn là một phẩm chất chỉ hữu dụng trong những thời kỳ thù địch, một cái gì để mở hay tắt khi bạn cần tới nó. Hãy nuôi dưỡng nó như một điều kiện hàng ngày. Sự tự tin, sự không biết sợ, và sự trông cậy vào chính mình là cần yếu trong thời bình cũng như trong thời chiến. Franklin Delano Roosevelt cho thấy sự ngoan cường tinh thần to lớn và sự thanh nhã bên dưới áp lực của ông không chỉ trong những cuộc khủng hoảng của thời kỳ Đại suy thoái và Thế chiến II mà cả trong những tình huống đời thường – trong sinh hoạt gia đình, trong việc xử trí với văn phòng chính phủ, với thân thể bị tàn phá bởi bệnh bại liệt của chính ông. Bạn càng thành đạt trong trò chơi chiến tranh, bộ khung tâm trí chiến binh của bạn càng có ích cho bạn trong cuộc sống hàng ngày. Khi một cơn khủng hoảng đến, tâm trí bạn sẽ bình tĩnh và chuẩn bị sẵn sàng. Khi sự minh mẫn trở thành một thói quen, nó không bao giờ từ bỏ bạn. 
Con người tập trung có sự phán xét bình thản, không định kiến. Anh ta biết điều gì quan trọng, điều gì không quan trọng. Anh ta nhìn thực tại một cách thanh thản và với sự suy xét vô tư duy trì cảm giác của anh ta về sự cân đối, Hara no aru hito [con người tập trung], đối diện với cuộc đời một cách thản nhiên, lặng lẽ, sẵn sàng cho mọi chuyện… Không có gì làm anh ta phiền muộn. Nếu đột nhiên lửa bùng lên và mọi người bắt đầu la hét trong cơn hoảng loạn [anh ta] lặng lẽ thực hiện ngay lập tức công việc hợp lý; anh ta xác định hướng gió, cứu những gì quan trọng nhất, xịt nước và xử sự một cách thức mà việc cứu hỏa đòi hỏi. Haru no
nai hito là phản nghĩa của tất cả những điều này. Hara no nai hito áp dụng cho một người không có xét đoán bình thản. Anh ta thiếu sự cân nhắc, vốn phải là bản tính thứ hai. Do đó anh ta phản ứng một cách lung tung và chủ quan, độc đoán và gàn dở. Anh ta không thể phân biệt giữa cái quan trọng và không quan trọng, chủ yếu và thứ yếu. Phán xét của anh ta không dựa trên những sự kiện mà dựa trên những điều kiện nhất thời và các nền tảng có tính chủ quan, như tâm trạng, ý thích vừa nảy ra, “sự kích động”. Harano nai hito dễ bị giật mình, căng thẳng, không phải vì anh ta đặc biệt nhạy cảm mà vì anh ta thiếu cái trục nội hàm có thể ngăn anh ta văng ra khỏi trung tâm và cho phép anh ta xử trí các tình huống một cách thực tế…Hara (trung tâm, bụng) chỉ có tính chất bẩm sinh ở mức độ thấp. Trên hết, nó là kết quả của sự tự rèn luyện kiên trì và tính kỷ luật. Trong thực tế là thành quả của sự phát triển có tính cá thể, đầy trách nhiệm. Đó là cái mà một người Nhật muốn nói đến khi anh ta nói về Hara no dekita hito, anh ta đã trưởng thành. Nếu sự phát triển này không diễn ra, chúng ta có Hara no dekita inai hito, kẻ vẫn còn non nớt chưa trưởng thành. Người Nhật cũng nói: “Hara no dekita inai hito wa hito no ue nitatsu koto ga dekinai”: người chưa hoàn thành hara của mình thì không thể lãnh đạo người khác. 
Hara: Trọng Tâm Cơ Bản, Karifried Graf von Durckheim, 1962 
Hình ảnh: Gió. Sự cuốn trôi của những sự kiện bất ngờ, những ngờ vực và những chỉ trích của những người quanh bạn, giống như những cơn gió dữ ở biển khơi. Nó có thể đến từ bất cứ điểm nào của chiếc la bàn, và không có nơi nào để trốn thoát khỏi nó, không có cách nào để biết trước nó sẽ tấn công vào lúc nào và theo hướng nào. Thay đổi hướng theo mỗi cơn gió chỉ ném bạn vào lòng biển. Người phi công giỏi không mất thời gian để lo âu về cái mà họ không kiểm soát được. Họ tập trung vào chính mình, kỹ năng và sự khéo léo của đôi tay, vào lộ trình mà họ đã vạch ra và quyết tâm tới sân bay của họ, mặc cho điều gì có thể xảy ra. 
Tư liệu: Một phần lớn của lòng can đảm là sự can đảm của điều đã thực hiện trước đó. 
Raiph Waldo Emerson (1803-82) 
HOÁN VỊ 
Đánh mất sự minh mẫn của bạn không bao giờ là điều tốt, nhưng bạn có thể sử dụng những giây phút khi đang ở dưới mối đe dọa đó để biết cách hành động ra sao trong tương lai. Bạn phải tìm ra một cách thức để đặt chính mình vào giữa trận chiến, rồi tự quan sát mình trong hành động. Hãy tìm ra những
yếu điểm của bạn, và nghĩ về cách làm thế nào để bù đắp cho chúng. Những người chưa bao giờ đánh mất sự minh mẫn thật sự nằm trong vòng nguy hiểm: một ngày nào đó họ sẽ bị làm cho kinh ngạc, và cú ngã sẽ nặng nề. Mọi tướng lĩnh vĩ đại, từ Julius Caesar cho tới Patton, ở một thời điểm nào đó cũng đã mất tinh thần và đã trở nên mạnh mẽ hơn để có lại nó. Càng đánh mất cân bằng của mình, bạn càng hiểu cách làm thế nào để tự điều chỉnh bản thân cho đúng. Bạn không muốn đánh mất sự minh mẫn trong những tình huống quan trọng then chốt, nhưng một đường lối khôn ngoan là tìm ra cách để kẻ thù của bạn cũng mất sáng suốt. Hãy nắm lấy cái đã khiến bạn mất cân bằng và bắt họ phải gánh chịu nó. Buộc họ phải hành động trước khi họ sẵn sàng. Làm cho họ kinh ngạc – không có gì khó xử trí hơn là sự bất ngờ cần hành động. Tìm ra nhược điểm của họ, cái làm cho họ cảm xúc, và trao cho họ một liều gấp đôi thứ đó. Càng khiến cho họ xúc động, bạn càng đẩy họ văng xa khỏi sân thi đấu.
4. TẠO MỘT Ý THỨC VỀ SỰ KHẨN CẤP VÀ TUYỆT VỌNG 
CHIẾN LƯỢC ĐẤT CHẾT 
Bạn là kẻ thù tệ nhất của chính bạn, bạn mất thời giờ quý báu mơ mộng về tương lai thay vì hành động cho hiện tại. Dường như với bạn không có gì khẩn cấp, bạn chỉ đặt phân nửa tâm trí cho việc đang làm. Cách duy nhất để thay đổi là thông qua hành động và áp lực bên ngoài. Tự đặt bản thân vào những hoàn cảnh nơi bạn phải gặp nguy cơ khá nhiều nếu lãng phí thời giờ hay nguồn lực – nếu bạn không thể chịu nổi sự thất bại, bạn sẽ không thất bại. Cắt đứt những mối liên hệ với quá khứ; tiến vào những lãnh vực chưa từng biết, nơi bạn phải dựa vào trí thông minh và nguồn năng lượng của bạn để vượt qua. Đặt bản thân vào “đất chết”, nơi lưng bạn tựa vào tường và bạn phải chiến đấu như điên để sống còn. 
Cortés đã cho đánh chìm tất cả mười chiếc thuyền. Chắc chắn là Cuba vẫn còn ở đó, giữa biển khơi xanh thẳm, với những nông trại, những con bò và những người Da đỏ đã thuần hóa; nhưng con đường về Cuba không còn băng qua những đợt sóng xanh ngập nắng, đu đưa trong sự lười nhác, êm đềm, không hề biết tới nguy hiểm và nỗ lực; nó băng qua Motecucuma, bị cai trị bởi thủ đoạn, bởi sức mạnh, hoặc cả hai; băng qua một biển người Da đỏ hiếu chiến, những kẻ ăn thịt tù nhân của họ và đeo những tấm da người như là những chiến tích; với một nhát rìu từ bàn tay điêu luyện của tù trưởng của họ, năm trăm người mất tích sẽ trôi ra khỏi những ký ức và hy vọng nối kết linh hồn họ với hòn đảo quê nhà; với một nhát rìu, lưng họ trở thành khô héo và mất hết mọi cảm giác về cuộc sống. Từ giờ trở đi, đối với họ, tất cả cuộc đời ở phía trước, hướng về những đỉnh núi cao bị cấm ngăn mọc lên sừng sững ở chân trời như thế ngăn chận mọi sự xâm nhập vào cái mà giờ đây không chỉ là khát vọng của họ, mà còn là mục tiêu khả dĩ duy nhất của họ — Mexico, bí ẩn và hùng mạnh, nằm sau những bộ lạc nghịch thù. 
Hernán Cortés: Kẻ Chinh Phục Mexico Salvador de Madariaga, 1942 CHIẾN THUẬT KHÔNG CÒN ĐƯỜNG QUAY LẠI 
Năm 1504, một chàng trai Tây Ban Nha mười chín tuổi đầy tham vọng tên là Hernán Cortés bỏ học ngành luật và lên tàu đi tìm những thuộc địa cho đất nước mình ở Tân thế giới. Dừng chân lần đầu ở Santo Domingo (quần đảo ngày nay bao gồm Haiti và Cộng hòa Dominica), rồi ở Cuba, sau đó, anh
nghe nói về một vùng đất ở phía tây gọi là Mexico – một đế quốc đầy vàng do người Aztec thống trị, với thủ phủ vùng cao tráng lệ Tenochtitlán. Từ đó trở đi, Cortés chỉ có một ý nghĩ: một ngày nào đó anh sẽ chinh phục và định cư trên đất Mexico. Trên mười năm kế tiếp, Cortés chậm rãi vươn lên cao dần trong cấp bậc, cuối cùng trở thành bí thư của Thống đốc Tây Ban Nha ở Cuba và rồi thủ quỹ của nhà vua ở hòn đảo đó. Dù vậy, trong tâm trí anh, anh chỉ đơn giản đặt cược cho thời gian của mình. Anh nhẫn nại chờ đợi trong khi Tây Ban Nha cử những người khác tới Mexico, nhiều người trong số họ không bao giờ quay về nữa. 
Cuối cùng, năm 1518, Thống đốc Cuba, Diego de Valázquez, chỉ định Cortés làm trưởng đoàn một đoàn thám hiểm để khám phá điều gì đã xảy ra cho những nhà thám hiểm trước đó, tìm kiếm vàng, và đặt nền móng cho sự thống trị của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Valázquez muốn tự mình thực hiện việc cai trị trong tương lai đó, vì thế chuyến thám hiểm này ông ta cần một người có thể kiểm soát được. Chẳng bao lâu ông ta trở nên ngờ vực Cortés – người này thông minh, có lẽ quá đỗi thông minh nữa. Có lệnh truyền cho Cortés rằng thống đốc đã nghĩ lại về việc cử ông tới Mexico. Quyết định không cho Valázquez có thời gian nuôi dưỡng mối nghi ngờ, Cortés tìm cách lẩn trốn khỏi Cuba vào giữa đêm với mười một chiếc tàu. Ông sẽ tự mình lý giải với viên thống đốc sau. 
Đoàn thám hiểm đổ bộ lên bờ biển phía đông Mexico vào tháng 3/1519. Trong vài tháng kế tiếp, Cortés đưa kế hoạch của mình vào hành động – tìm ra thị trấn Veracruz, kết đồng minh với những bộ lạc địa phương căm ghét người Aztec. Kinh đô của ông ta nằm cách khoảng 250 dặm Anh về phía tây. Nhưng có một vấn đề gây khó khăn cho nhà thực dân Tây Ban Nha: trong số 500 binh sĩ đã cùng ông lên tàu từ Cuba có một nhóm người do Valázquez bố trí làm gián điệp và gây khó khăn cho ông nếu ông vượt quá thẩm quyền của mình. Những người trung thành với Valázquez này tố cáo Cortés về việc quản lý tồi số vàng mà ông thu thập được, và khi việc ông dự định chinh phục Mexico trở nên rõ ràng, họ tung tin đồn rằng ông bị mất trí – một cáo buộc hoàn toàn thuyết phục đối với một người dự định dẫn 500 người chống lại nửa triệu người Aztec – những chiến binh dữ tợn nghe nói từng ăn thịt tù nhân của họ và đeo những tấm da như là những chiến tích. Một người có lý trí sẽ mang số vàng đã thu được quay về Cuba, và sẽ quay lại đó sau với một đội quân hùng hậu. Vì sao phải ở lại vùng đất bị ngăn cấm này, với những chứng bệnh và sự thiếu thốn tiện nghi, vì quân số của họ vượt quá lượng hậu cần? Vì sao không về Cuba, quay lại quê nhà, nơi những nông trại, những người vợ và cuộc đời tốt đẹp đang chờ đợi họ? 
Cortés làm điều mà ông có thể làm với những kẻ quấy rối này, đút lót cho một số, làm ngơ một số khác. Đồng thời, ông làm việc để xây dựng mối quan hệ tốt với số thuộc cấp còn lại để những kẻ hay càu nhàu không thể gây
tổn hại. Mọi việc dường như tốt đẹp cho tới đêm 30 tháng 7, khi Cortés bị đánh thức bởi một thủy thủ Tây Ban Nha. Anh ta xin tha thứ và thú nhận rằng anh ta đã gia nhập một nhóm để đánh cắp một con tàu và ngay đêm đó sẽ quay về Cuba. Những kẻ âm mưu sẽ báo cáo lại với Valázquez về mục đích muốn tự mình chinh phục Mexico của Cortés. 
Việc tư duy về cái chết không thể tránh khỏi nên được thực hiện hàng ngày. Mỗi ngày, khi thân thể và tâm trí an bình, người ta có thể suy tư về việc bị xé toạt ra bởi những mũi tên, những khẩu súng, những ngọn lao và những lưỡi kiếm, bị cuốn đi xa bởi những lượn sóng cồn, bị ném vào giữa một đống lửa to, bị sét đánh, bị chết vì động đất, bị rơi từ những vách núi cao hàng ngàn mét, chết vì bệnh tật hay mổ bụng tự sát theo cái chết của chủ nhân. Và mỗi ngày, không bỏ lỡ, người ta nên tự xem như bản thân mình đã chết. 
Hagakure: Cuốn Sách Về Samurai, Yamamoto Tsunetomo, 1659 – 1720 
Cortés thấy rằng đây là thời điểm quyết định của đoàn thám hiểm. Ông có thể dễ dàng dập tắt âm mưu đó, nhưng rồi sẽ có những âm mưu khác. Lính của ông có nhiều người thô lỗ, và đầu óc họ đặt vào vàng, Cuba, gia đình họ – mọi thứ, trừ việc chiến đấu với người Aztec. Ông không thể chinh phục một đế quốc với những người chia rẽ và không đáng tin cậy như thế, nhưng làm cách nào để đem tới cho họ sức mạnh và sự tập trung cho công việc to tát mà ông đang đối mặt? Suy nghĩ kỹ càng rồi, ông quyết định hành động nhanh chóng. Ông tóm cổ tất cả những kẻ âm mưu và treo cổ hai tên đầu sỏ. Kế tiếp, ông đút lót cho các viên hoa tiêu để khoét lỗ trên mọi con thuyền và rồi thông báo rằng những con hà đã ăn xuyên qua lớp ván của những con thuyền, khiến chúng không còn vượt biển được nữa. 
Vờ như buồn phiền về tin tức đó, Cortés ra lệnh những gì có thể cứu được sẽ đưa lên bờ rồi cho đánh chìm những con thuyền. Những người hoa tiêu tuân lệnh, nhưng không đục đủ số lỗ, và chỉ có năm con thuyền bị đánh đắm. Câu chuyện về những con hà đã đủ sức thuyết phục, và những người lính chấp nhận tin tức về năm con thuyền với sự thản nhiên. Nhưng vài ngày sau, khi có nhiều thuyền chìm hơn và chỉ còn một chiếc trên mặt nước, họ thấy rõ là Cortés đã sắp đặt mọi việc. Khi ông triệu tập một cuộc họp, họ muốn nổi loạn và giết chết ông. 
Lúc này không có thời gian cho sự nhã nhặn. Cortés nói với những người của ông: ông chịu trách nhiệm cho biến cố này, ông thừa nhận; ông đã ra lệnh thực hiện nó, nhưng bây giờ không còn đường quay lại nữa. Họ có thể treo cổ ông, nhưng họ bị vây quanh bởi những người Da đỏ thù địch và không có thuyền; chia rẽ lẫn nhau và không có người lãnh đạo, họ sẽ tiêu
đời. Chọn lựa duy nhất là theo ông tới Tenochtitlán. Chỉ có chinh phục được Aztec, trở thành lãnh chúa của Mexico, họ mới có thể sống sót quay lại Cuba. Để tới được Tenochtitlán họ phải chiến đấu với cường độ kinh khủng. Họ phải đoàn kết, bất kỳ chia rẽ nào cũng đều dẫn tới thất bại và cái chết khủng khiếp. Hoàn cảnh rất tuyệt vọng, Cortés đảm bảo rẳng ông có thể đưa họ tới chiến thắng. Vì quân số quá ít, vinh quang và sự giàu có sẽ càng to lớn. Bất cứ người nào hèn nhát không dám thử thách có thể lên con thuyền còn lại để quay về. 
Có một cái gì đó trong chiến tranh luồn sâu vào bên trong bạn đến nỗi cái chết thôi trở thành một kẻ thù, mà đơn giản chỉ là một thành viên khác trong trò chơi mà bạn không muốn chấm dứt. 
Ảo ảnh Việt Nam, John Trotti, USMC, 1984 
Không ai chấp nhận đề nghị đó, và con thuyền cuối cùng bị đánh chìm. Trong vài tháng kế tiếp, Cortés duy trì quân đội của mình cách xa Veracruz và bờ biển. Sự chú ý của họ tập trung vào Tenochtitlán, trung tâm của đế quốc Aztec. Những kẻ hay càu nhàu, tư lợi và tham lam đều biến mất. Hiểu rõ hoàn cảnh nguy hiểm của mình, những người thực dân Tây Ban Nha này đã chiến đấu hết mình. Khoảng hai năm sau khi phá hủy những con thuyền Tây Ban Nha, với sự giúp sức của các đồng minh Da đỏ, quân đội của Cortés đã bao vây Tenochtitlán và xâm chiếm được đế quốc Aztec. 
“Mi không có thời giờ cho cuộc biểu diễn này, đồ ngốc”, ông ta nói với giọng nghiêm khắc. “Dù bây giờ mi có làm gì, đây có thể là hành động cuối cùng của mi trên trần thế. Cũng có thể là trận chiến cuối cùng của mi. Không có quyền năng nào có thể đảm bảo rằng mi sẽ sống thêm một phút nữa…” “Những hành động có quyền năng,” ông ta nói, “đặc biệt khi người hành động biết rằng những hành động này là cuộc chiến cuối cùng của mình. Có một niềm hạnh phúc ám ảnh lạ lùng khi hành động với một nhận thức đầy đủ rằng bất kể điều gì người ta thực hiện có thể là hành động cuối của anh ta trên trần thế. Ta khuyên mi nên kiểm điểm lại đờimình và đưa các hành động của mi vào ánh sáng đó… Tập trung sự chú ý của mi vào sự liên kết giữa mi và cái chết của mi, mà không hối tiếc, buồn rầu hay lo lắng. Tập trung sự chú ý của mi vào thực tế mi không còn thời gian và để cho các hành động của mi trôi chảy theo điều đó. Hãy để mỗi hành động của mi là trận chiến cuối cùng của mi trên trần thế. Chỉ dưới những điều kiện đó, các hành động của mi sẽ có quyền năng thích đáng của chúng. Nếu không, chúng sẽ là, chừng nào mi còn sống, những hành động của một tên nhút nhát.” “Là một người nhút nhát có kinh khủng lắm không?” “Không. Không nếu mi sẽ không chết,
nhưng nếu mi sắp chết thì khôngcó thời gian cho sự nhút nhát, đơn giản là vì sự nhút nhát khiến mi bám vào một cái gì đó chỉ tổn hại trong những ý nghĩ của mi. Nó vỗ về mi trong khi mọi thứ đều lắng đọng, nhưng rồi thế giới đáng sợ, bí ẩn sẽ mở miệng nó ra cho mi, giống như nó sẽ mở miệng ra cho bất cứ một ai trong chúng ta, và khi ấy mi sẽ nhận ra rằng những con đường chắc chắn của mi không có gì là chắc chắn. Sự nhút nhát ngăn cản không cho chúng ta kiểm nghiệm và khám phá số phận của chúng ta với tư cách những con người.” 
Hành trình tới Ý: Những bài học của Don Juan, Carlos Castaneda, 1972 
Diễn dịch 
Vào đêm có âm mưu, Cortés đã gấp rút suy nghĩ. Nguồn gốc của vấn đề mà ông đối mặt là gì? Đó không phải là những tên gián điệp của Vezláquez, hay kẻ thù Aztec, hay những kẻ không đáng tin đang chống lại ông. Nguồn gốc của vấn đề là những người theo phe ông và những con thuyền trên bến cảng. Binh lính của ông bị phân tâm và phân trí. Họ suy nghĩ về những điều sai lệch – vợ họ, giấc mơ vàng của họ, kế hoạch tương lai của họ. Vào phía sau tâm trí họ luôn luôn là một con đường để tẩu thoát: nếu cuộc xâm lược này trở nên tồi tệ, họ có thể về nhà. Những con thuyền trên bến cảng không chỉ là phương tiện vận chuyển mà chúng còn đại diện cho Cuba, sự tự do để rời bỏ nơi đó, khả năngđể tìm quân tiếp viện – rất nhiều khả năng. 
Đối với binh sĩ, những con thuyền là một chỗ tựa nương, một cái gì đó để dựa vào khi mọi sự trở nên tệ hại. Khi Cortés đã nhận diện được vấn đề, giải pháp rất đơn giản: phá hủy những con thuyền. Bằng cách đẩy người của ông vào tuyệt lộ, ông có thể khiến cho họ chiến đấu với cường độ cao nhất. 
Ý thức về sự khẩn cấp đến từ một nối kết mạnh mẽ với hiện tại. Thay vì mơ tới việc được giải cứu hay hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn, bạn phải đối diện với vấn đề trước mắt. Thất bại là diệt vong. Những người đặt hoàn toàn tâm trí của mình vào vấn đề tức thời rất đáng sợ; bởi vì họ tập trung rất dữ dội, họ có vẻ như mạnh mẽ hơn chính bản thân họ. Ý thức về sự khẩn cấp nhân lên gấp bội sức mạnh của họ và mang đến cho họ động lực. Thay vì 500 người, đột nhiên Cortés có một lượng quân đội lớn hơn nhiều sau lưng ông ta. 
Như Cortés, bạn phải xác định nguyên do vấn đề của bạn. Đó không phải là mọi người quanh bạn; đó là bản thân bạn, và tinh thần mà từ nó bạn đối mặt với thế giới. Ở phía sau tâm trí bạn, bạn giữ một lối thoát, một chỗ tựa nương, một cái gì đó để quay về khi mọi việc trở nên tồi tệ. Có lẽ bạn có thể dựa vào một quan hệ phong phú nào đó để mua được lối thoát; có lẽ còn có một cơ may lớn nào đó ở phía chân trời, những triển vọng vô hạn của thời gian dường như đang ở phía trước mặt bạn; có lẽ một công việc quen thuộc
hay một quan hệ dễ chịu luôn luôn hiện ra ở đó nếu bạn thất bại. Giống như những binh sĩ của Costés xem những con thuyền của họ như là một sự bảo hiểm, bạn có thể xem chỗ dựa này như là một lời chúc phúc – nhưng trên thực tế nó là một lời nguyền độc địa. Nó phân cách bạn. Bởi vì bạn nghĩ bạn có những chọn lựa, bạn không bao giờ đặt tâm trí đủ sâu vào một việc để tiến hành nó một cách trọn vẹn, và bạn không bao giờ hoàn toàn có được cái mà bạn muốn. Đôi khi bạn cần phải đánh chìm những con thuyền của bạn, thiêu rụi chúng đi, và để lại cho bạn một chọn lựa duy nhất: thành công hay thất bại. Hãy làm cho việc thiêu rụi những con thuyền của bạn càng khả thi càng tốt – rời khỏi tấm lưới an toàn của bạn. Đôi khi bạn phải trở nên tuyệt vọng chút ít để đi tới bất kỳ nơi đâu. 
Những vị chỉ huy quân đội cổ đại – những kẻ biết rõ tác động mạnh mẽ của sự khẩn cấp, và việc nó gợi lên ở binh lính sự dũng cảm cao nhất từ trong tuyệt vọng ra sao – không bỏ qua bất cứ điều gì để tạo nên một áp lực như thế trên binh lính của họ. 
Niccolò Machiavelli (1469 – 1527) 
CHIẾN THUẬT CÁI CHẾT Ở GÓT CHÂN 
Năm 1845, nhà văn Fyodor Dostoyevsky, khi ấy hai mươi bốn tuổi, làm chấn động thế giới văn chương với việc xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, Poor Folk (Chàng ngốc). Ông trở thành một thượng khách của xã hội S. Petersburg. Nhưng dường như có điều gì đó trong danh vọng quá sớm của ông làm ông thấy trống vắng. Ông giạt vào những nhóm cực đoan của những nhà chính trị cánh tả, tham dự những cuộc họp của nhiều nhà xã hội học và các nhóm cấp tiến. Một trong những nhóm này vây quanh con người đầy thuyết phục Mikhail Petrashevsky. Ba năm sau, năm 1848, cách mạng nổ ra khắp châu Âu. Bị khơi gợi bởi những gì đang xảy ra ở phương Tây, các nhóm người Nga cấp tiến như nhóm của Petrashevsky bàn về việc đi theo phong trào chung đó. Nhưng những người đại diện của Sa hoàng Nicholas I đã thâm nhập vào nhiều nhóm trong số đó, và đã có những văn bản báo cáo về những chuyện điên rồ được thảo luận tại nhà của Petrashevky, bao gồm những bàn thảo về việc kích động nông dân nổi dậy. Dostoyevsky rất tha thiết với việc giải phóng nông nô. Ngày 23/4/1849, ông và hai mươi ba thành viên khác trong nhóm của Petrashevsky bị bắt giữ. 
Sau tám tháng mòn mỏi trong tù, những người tù được đánh thức vào một buổi sáng lạnh giá và được báo cho biết rằng hôm nay họ sẽ nghe tuyên án. Vài tháng lưu đày là hình phạt thông thường đối với tội của họ, và họ nghĩ, chẳng bao lâu nữa sự thử thách của họ sẽ chấm dứt. 
Họ bị đẩy lên những cỗ xe ngựa và đưa đi qua những con đường tuyết phủ
của St. Petersburg. Rời những cỗ xe, họ đi vào quảng trường Semyonovsky và được một linh mục đón tiếp; phía sau lưng ông ta, họ có thể thấy những hàng binh lính, và sau lưng những người lính là hàng ngàn người chứng kiến. Họ được dẫn tới một giàn giáo phủ vải đen ở trung tâm của quảng trường. Ở phía trước giàn giáo là ba cây cột, và ở một bên là một hàng xe bò chở những cỗ quan tài. 
Lãnh chúa Naoshige nói, “Đạo của người Samurai là sự tuyệt vọng. Mười người hoặc hơn cũng không thể giết nổi một người như thế. Ý thức thông thường sẽ không đạt tới những điều vĩ đại. Chỉ đơn giản trở nên điên cuồng và tuyệt vọng.” 
Hagakure: Cuốn sách của Samurai, Yamamoto Tsunetomo, 1659 – 1720 
Dostoyevsky không tin nổi những gì ông nhìn thấy. “Không thể có việc họ tử hình chúng ta,” ông thì thầm với người đứng cạnh. Họ được đưa tới giàn giáo và xếp thành hai hàng. Đó là một ngày lạnh giá không thể tả, và những người tù chỉ mặc những manh áo mỏng khi họ bị bắt vào tháng 4. Một hồi trống nổi lên. Một viên sĩ quan tiến ra và tuyên bản án của họ: “Tất cả những bị cáo bị khép tội âm mưu lật đổ trật tự quốc gia, do đó bị phạt tử hình trước một đội chấp pháp bằng súng.” Những người tù không thể nói nên lời vì choáng váng. Khi viên sĩ quan đọc to tội phạm và các hình phạt, Dostoyevsky thấy ông ta đang nhìn vào đỉnh tháp vàng lấp loáng ánh mặt trời của một ngôi nhà thờ gần đó. Những tia sáng biến mất khi một đám mây bay ngang qua, và một ý nghĩ chợt lướt qua đầu ông, rằng ông sắp sửa bước vào bóng tối cũng nhanh như vậy, và mãi mãi. Đột nhiên, ông có một suy nghĩ khác: “Nếu mình không chết, nếu mình không bị giết, cuộc đời mình dường như sẽ vô tận, bất diệt, mỗi phút là một thế kỷ. Mình sẽ lưu tâm tới mọi thứ xảy ra – mình sẽ không lãng phí một giây nào nữa.” 
Những người tù được trao cho những chiếc áo trùm đầu. Vị linh mục đọc kinh cầu nguyện và nghe họ xưng tội. Họ chia tay nhau. Ba người đầu tiên bị trói vào những chiếc cột, và những cái mũ trùm đầu được kéo qua đầu họ. Dostoyevsky đứng ở phía trước, trong nhóm tiếp theo. Những người lính giơ súng lên, nhắm vào mục tiêu – và đột nhiên một cỗ xe ngựa phi vào quảng trường. Người đàn ông nhảy ra với một phong thư. Vào giây phút cuối, Sa hoàng đã giảm án tử hình của họ. 
Từ lâu người ta đã biết rằng, tất nhiên, một người trải qua rèn luyện một cách có kỷ luật, đã từ bỏ bất kỳ mong muốn hay hy vọng sống sót nào và chỉ có một mục đích – hủy diệt kẻ thù – có thể là một đối thủ đáng gờm và một đấu sĩ thật sự kinh khủng, không bao giờ yêu cầu hay ban bố bất
kỳ một sự tha chết nào một khi vũ khí của y đã tuốt ra khỏi vỏ. Theo cách này, một người có vẻ bình thường, do áp lực của hoàn cảnh hơn là nghề nghiệp của y, bị đặt vào thế phải có một chọn lựa tuyệt vọng, có thể chứng tỏ sự nguy hiểm, thậm chí đối với một kiếm sĩ bậc thầy. Một tình tiết nổi tiếng, ví dụ, liên quan tới một vị sư phụ về kiếm thuật được một thượng cấp yêu cầu phải giao nộp một tên hầu cận đã mắc một tội đáng chết. Vị thầy này, muốn kiểm tra lý thuyết của ông ta, liên quan tới năng lực của điều kiện đó mà chúng ta thường gọi là “sự tuyệt vọng”, đã thách đấu với kẻ xấu số. Biết rất rõ hình phạt đối với y là không thể hủy bỏ, tên hầu cận không còn quan tâm tới việc này hay việc khác, và trận đấu tay đôi tiếp đó đã chứng minh rằng ngay cả một kiếm sĩ tài giỏi và một vị sư phụ về kiếm thuật cũng gặp khó khăn lớn khi đương đầu với một kẻ, vì đã chấp nhận cái chết đương nhiên của mình, có thể đạt tới giới hạn (và thậm chí vượt khỏi) trong chiến lược của y, không hề có một chút do dự hay xao lãng sự chú ý. Tên hầu cận, trên thực tế, chiến đấu như một kẻ bị quỷ ám, ép người chủ của mình lùi lại cho tới khi lưng ông ta gần như áp sát tường. Cuối cùng, vị sư phụ đã hạ gục y với một nỗ lực cuối cùng, ở khía cạnh này sự tuyệt vọng của chính vị sự phụ đã mang lại sự kết hợp toàn diện lòng dũng cảm, kỹ năng và quyết tâm của ông ta. Những bí mật của các Samurai, Adele Westbrook, 1973 
Sau đó, cũng trong buổi sáng ấy, Dostoyevsky được tuyên án mới: bốn năm lao dịch khổ sai ở Siberia, theo chế độ quân đội. Hầu như không bị tác động gì, hôm đó, ông viết cho người anh: “Khi tôi nhìn lại quá khứ và suy nghĩ về tất cả quãng thời gian tôi đã lãng phí trong sai lầm và lười nhác... khi đó tim tôi rỉ máu. Cuộc sống là một tặng vật... mỗi phút có thể là một nguồn hạnh phúc bất tận! Giá mà tuổi trẻ biết được! Giờ đây đời tôi sẽ thay đổi; giờ đây tôi sẽ tái sinh.” 
Vài ngày sau, những chiếc cùm nặng gần 5kg được lồng vào tay và chân của Dostoyevsky – chúng sẽ nằm ở đó suốt hạn tù của ông – và ông được đưa tới Siberia bằng xe bò. Trong bốn năm tiếp theo, ông gánh chịu nhiều điều kiện tù tội khắc nghiệt nhất. Không được phép viết, ông viết tiểu thuyết trong đầu, ghi nhớ chúng. Cuối cùng, năm 1857, vẫn đang phục vụ cho quân đội trong thời hạn tù, ông được cho phép bắt tay vào viết tác phẩm. Trong khi trước kia ông từng khổ sở với từng trang, mất cả nửa ngày nghĩ ngợi, nay ông viết và viết mãi. Những bạn bè thường thấy ông đi bộ qua những con đường thành phố St. Petersburg, lẩm bẩm những mẩu đối thoại với chính mình, chìm vào các nhân vật và cốt truyện. Khẩu hiệu mới của ông là: “Cố hoàn thành được càng nhiều càng tốt trong thời gian ngắn nhất.” Một số người tiếc cho thời gian ông ở tù. Điều đó làm ông nổi giận; ông rất biết ơn trải nghiệm này và không hề thấy cay đắng. Ông cảm thấy, không có cái ngày tháng 12