🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc - Thái Nguyễn Bạch Liên full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo 28 NGÀY ĐÊM QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH TRUNG QUỐC THÁI NGUYỄN BẠCH LIÊN biên dịch NHÀ XUẤT BẢN MŨI CÀ MAU - 2001 Khổ 13 x 19. Số trang: 454 Thực hiện ebook: hoi_ls Thay lời tựa CUỘC CỜ THẾ KỈ (Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch) Tiểu dẫn I NĂM THÁNG ĐẦU TIÊN GẠT LỆ CHIA TAY, MAO TRẠCH ĐÔNG LÊN ĐƯỜNG ĐI QUẢNG CHÂU II MẬT SỨ NỘI TRƯỚNG III ĐẤU TRÍ TÂY AN NỬA ĐÊM LƯU ĐỈNH TÌM MUA PIN ĐIỆN IV HỢP TÁC LẦN HAI TƯỞNG GIỚI THẠCH LẠI DIỄN KỊCH V MÂY MÙ VẦN VŨ ĐẶNG TIỂU BÌNH BA LẦN VÀO RA TRUNG NAM HẢI 1. BỊN RỊN TÂY NAM 2. VÀO TRUNG NAM HẢI 3. LỜI TỰ TRÁCH MUỘN MÀNG 4. CŨNG NÓNG ĐẦU THEO CƠN SỐT 5. THU TÀN CUỘC, ĐỀ XƯỚNG LÍ LUẬN “MÈO” 6. BIẾN ĐIỆU Ở BẮC ĐỚI HÀ 7. DÂY DẪN LỬA ĐẠI CÁCH MẠNG VĂN HOÁ 8. NHỮNG NGÀY ĐẦU CỦA CÁCH MẠNG VĂN HÓA 9. MÀN TỰ MỤC CỦA TẤN BI KỊCH ĐÃ MỞ 10. HỌA VÔ ĐƠN CHÍ 11. VỀ LẠI GIANG TÂY 12. BA NĂM Ở GIANG TÂY 13. LẦN THỨ HAI VÀO TRUNG NAM HẢI 14. MAO TRẠCH ĐÔNG MỜI “QUÂN SƯ” 15. NHÂN SỰ QUỐC VỤ VIỆN 16. MAO VIỄN TÂN LÀ AI? 17. NĂM 1976, LẦN THỨ HAI RA KHỎI TRUNG NAM HẢI 18. SỰ BẤT QUÁ TAM 19. LẦN THỨ BA “RA” TRUNG NAM HẢI CHU ÂN LAI - KHI NGƯỜI RỜI KHỎI THÁNH ĐÀN KHÔNG PHẢI LÀ CHỦ SOÁI 1. NHỮNG LỜI TIÊN TRI 2. NGHỆ THUẬT ĐÀM PHÁN 3. LẮM PHEN THOÁT HIỂM 4. TÔI THỬ ĐO TỬU LƯỢNG CỦA NGƯỜI 5. KHÓC THAN VÀ GIẬN DỮ 6. SÁU VĂN PHÒNG 7. ĐỜI THƯỜNG 8. GIỮA VỢ CHỒNG 9. MAO CHỦ TỊCH VÀ CHU ÂN LAI 10. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG 28 NGÀY ĐÊM QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH TRUNG QUỐC 1. NGƯỜI NẰM ĐÓ 2. VẪN ĐANG ĐỌC SÁCH 3. TÁNG MAO HAY PHÊ ĐẶNG 4. ĐI TÌM DI CHÚC 5. NHỮNG NƯỚC CỜ 6. DÀNH TRƯỚC MỘT BÀI BÁO 7. ALÔ! CÓ THỂ KHRUSOV SẼ LÊN NGÔI 8. CUỘC GIAO TRANH SAU LỄ TRUY ĐIỆU 9. LIÊN QUÂN HOA - DIỆP 10. TIẾN ĐẾN HỘI NGHỊ BỘ CHÍNH TRỊ 11. TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG 12. BẮT GIỮ TỨ NHÂN BANG Thay lời tựa Cách mạng Tân Hợi - 1911 - đã lật đổ chế độ phong kiến hàng ngàn năm ở Trung Quốc, thay bằng một nền Cộng hoà. Tôn Trung Sơn - người đề xướng chủ nghĩa Tam dân (Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc) sớm qua đời để lại lời di chúc “Cách mạng thượng vị thành công, đồng chí nhưng tất nỗ lực (Cách mạng còn chưa thành công, đồng chí vẫn phải nỗ lực). Đảng Cộng sản và Mao Trạch Đông, Đảng Quốc dân và Tưởng Giới Thạch, mỗi bên, mỗi người đều nỗ lực theo một phương hướng riêng của mình, lắm lúc cùng hợp tác, nắm tay nhau trên con đường Bắc phạt, kề vai sát cánh chung chiến hào kháng Nhật, nhưng trên toàn cục là đấu tranh, là nội chiến, bên này tư tưởng Mao Trạch Đông, bên kia chủ nghĩa Tưởng Giới Thạch, chính trường Trung Quốc không lúc nào lặng cơn bão táp. Năm 1949, lịch sử chọn Đảng Cộng sản, lịch sử chọn Mao Trạch Đông, Trung Quốc mới với nền Cộng hoà Nhân dân ra đời, Đảng Quốc dân, Tưởng Giới Thạch vượt biển cố thủ trên đảo Đài Loan và vẫn giữ tên gọi Trung Hoa Dân Quốc. Ngoài kia, Tưởng chấn hưng kinh tế, biến Đài Loan trở thành “con rồng nhỏ”. Trong này, Mao cải cũ xây mới với 3 ngọn cờ hồng - Đường lối chung, Công xã nhân dân, Đại nhảy vọt - và Cách mạng văn hoá kéo dài hơn 10 năm. Về sau Đặng Tiểu Bình đề xướng cải cách, Mở cửa, nỗ lực chuyển sang một phương hướng mới, giai đoạn mới, thực hiện Bốn hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc và quyết tâm thống nhất đất nước cho dù phải “nhất quốc lưỡng chế”. Chưa có một tác giả nào đủ sức thâu tóm tình hình trên đất nước Trung Hoa non thế kỉ qua để dựng nên những thiên truyện tầm cỡ tỉ như Sử kí Tư Mã Thiên hay Tam Quốc Chí, nhưng hàng loạt pho sách miêu tả các nhân vật, các thời kì, các cơn bão trên chính trường Trung Quốc trước và sau năm 1949 thì đã và đang dồn dập ra đời, lần theo thâm cung, giở trang bí sử, lọt giữa tường hồng... mà lâu nay vẫn tò mò muốn biết, ngõ hầu dĩ cổ vi kim, để có được một bài học nên tránh, nên theo. Trung Quốc đất rộng người đông, văn liệu, sử liệu mênh mông như biển cả, người viết thì sức có hạn, nên chỉ dám chọn vài ba quyển đọc, dịch và viết thành dăm ba bài đăng in đây đó, nay nhờ Nhà xuất bản Mũi Cà Mau tập hợp nên một cuốn sách bao gồm 4 phần: Cuộc cờ thế kỉ, Đặng Tiểu Bình ba lần vào ra Trung Nam Hải, Chu Ân Lai - khi người rời khỏi thánh đàn và Hai mươi tám ngày đêm quyết định vận mệnh Trung Quốc, giới thiệu đôi điều về các nhân vật phong vân trên chính trường Trung Quốc, những mong gửi đến bạn đọc. Cũng xin được nhận lời chỉ giáo. Cám ơn Nhà xuất bản lần này tái bản cuốn sách có sự chỉnh lí nội dung và hình thức. Tháng Tư, 1996 THÁI NGUYỄN BẠCH LIÊN DIỆP VĨNH LIỆT CUỘC CỜ THẾ KỈ (Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch) Tiểu dẫn Trung Quốc thế kỉ XX, tựa như một cuộc cờ sóng gió bao la, nổi chìm khúc khuỷu mà quyết định vận mệnh cả dân tộc, đất nước. Người cầm quân xanh, đầu không sợi tóc, mặc áo trường bào, khi nói thích kéo âm nhấn điệu, đặc một giọng “quan thoại” kiểu Triết Giang, cẩn trọng lời lẽ nụ cười, nhưng vội vã nóng lên cũng từng mắng chửi “niáng-xi pỉ”. Người cầm quân đỏ, tóc dài chải ngược, chuyên mặc mỗi kiểu Trung Sơn, nói năng không nhanh không chậm, khẩu âm Hồ Nam, bình thường hay nói nói cười cười, giàu chất trào lộng châm biếm, khi nổi trận lôi đình không khỏi mắng nhiếc “fang-pi”. Hai người đểu có phong độ nam nhi hảo hán, cao khoảng một mét tám mấy gì đó, người không có tóc nhỉnh hơn người tóc dài đâu một phân thì phải, người treo “thanh thiên, bạch nhật, mãn địa hồng” [1], người tôn suy cờ đỏ búa liềm. Hai bên chức tước, vương vị như sau: Tổng tài Quốc dân đảng Trung Quốc, Tổng thống Trung Hoa dân quốc. Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà xô viết Trung Hoa (sau này là Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa). Lực lượng quân đội dưới quyền chỉ huy của họ: Quân cách mạng Trung Hoa dân quốc. Quân cách mạng công nông Trung Quốc (sau đổi thành Hồng quân công nông Trung Quốc, và lại đổi Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc). Về chức vụ quân ngũ: Một bên là Đại nguyên soái hải, lục, không quân, Chủ tịch hội đồng quân sự. Tổng Tư lệnh. Một bên là Chủ tịch Quân uỷ Trung ương. Danh tính của hai người: Tưởng Thuỵ Nguyên, phổ danh Chu Thái, học danh Chí Thanh, tự Giới Thạch, sau này phỏng theo Tôn Trung Sơn, cải danh thành Trung Chính. Người đời thường gọi Tưởng Giới Thạch, giới có nghĩa là “đại”, giới thạch vì thế mà hiểu là “cự thạch” (hòn đá lớn), tất cả đều từ phổ danh chữ “thái” suy ra. Mao Trạch Đông, tự Nhuận Chi (chữ “chi” có thể viết theo hai nghĩa), bút danh Nhị Thập Bát Hoa Sinh (ba chữ Hán mao - trạch - đông viết theo phồn thể gồm 28 nét, nên bút danh trên có nghĩa: người mang tên 28 nét). Người đời dùng bản danh Mao Trạch Đông mà xưng tụng, chữ “trạch” lấy trong tuần tự các đời của họ Mao là Tổ - Ân - Di -Trạch - Viễn) [2] còn “đông” muốn chỉ phương mặt trời mọc, đang dần dần vươn lên. Ông thường kính phục Lương Khải Siêu (Lương Nhậm Công) đã có biệt hiệu “Tử Nhậm”, đến lượt mình chọn tên chữ “Nhuận Chi”, trong đó chữ “nhuận” suy từ chữ ““trạch” mà ra, ta vẫn nói “vũ lộ tư nhuận” (mưa móc tưới nhuần khắp nơi). Hai người sinh cùng thời, Tưởng Giới Thạch lớn hơn Mao Trạch Đông 5 tuổi, và chết trước 1 năm. Tưởng Giới Thạch thọ 88 tuổi, Mao Trạch Đông 84, như vậy trong đó họ có những 83 năm từng “chung sống với nhau trên thế gian này”. Luận về khí chất, hai người quả nhiên khác nhau. Tưởng Giới Thạch khí chất quân nhân, mỗi sớm tinh mơ đều thức dậy luyện tập, luôn đọc tam bảo thư: “Truyện Bismarck”, “Tằng hồ trị binh ngữ lực” và “Tằng văn chính công gia thư”. Tưởng Giới Thạch không hút thuốc, không uống rượu, thậm chí không ẩm trà, chỉ dùng nước trắng đun sôi, ưa các hải sản tươi, rau muối xào cá hoặc rau khô Thiệu Hưng. Mao Trạch Đông tư chất thi nhân, thiện nghệ sáng tác thơ ca, thảo chương, đề từ, thức khuya dậy muộn, sách vở không rời tay, ông đã đọc không biết đến bao nhiêu lần cuốn “Tư trị thông giám”, muôn từ trong rối loạn của lịch sử tìm ra đôi điều kinh bang tế thế. Mao Trạch Đông chỉ uống chút ít rượu nho, nhưng liều mạng hút thuốc, ưa uống trà đậm, ăn ớt cay, và thường lấy thịt nướng làm thuốc “bổ não”. Hai người có hành trình chính trị tương tự. Năm 1924, Tưởng Giới Thạch được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường sĩ quan lục quân Quốc dân đảng Trung Quốc (vì trường đóng quân tại Hoàng Phố - Quảng Châu, nên người ta thường gọi là Trường quân sự Hoàng Phố), và từ đó thế lực của ông trong quân đội ngày một phát triển, nắm dần quân quyền, từ uỷ viên hội đồng quân sự trở thành Tổng giám, rồi Tổng Tư lệnh Quân cách mạng Quốc dân đảng. Tưởng Giới Thạch xem quân đội là mạng sống của đời mình. Còn Mao Trạch Đông, mùa thu năm 1927, phát động khỏi nghĩa nông dân ở Hồ Nam, đảm nhận chức bí thư ban chấp hành tiền phương, sau đó cùng Chu Đức hội sự tại Tĩnh Cương Sơn - Giang Tây, thành lập Quân cách mạng công nông Trung Quốc, Chu Đức làm chỉ huy, Mao Trạch Đông là người đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ đó Hồng quân Chu - Mao bắt đầu đổi địch với Tưởng Giới Thạch và một danh ngôn của Mao Trạch Đông - “họng súng đẻ ra chính quyền” cũng bắt đầu lưu truyền cùng thời. Mao Trạch Đông từng nói, Tưởng Giới Thạch “xem quân đội như sinh mạng”, “có quân đội là có chính quyền, đấu tranh giải quyết tất cả”. Ông cười mà cho rằng: quân đội đối với Tưởng Giới Thạch như hòn đá treo trên cổ của Giả Bảo Ngọc, “về điểm này cần phải học tập ông ấy, và Tưởng Giới Thạch quả là tiên sinh của chúng ta!” Mao Trạch Đông lại nói, “Đảng viên cộng sản không dành binh quyền cho cá nhân, mà vì đảng và nhân dân”. Ông cho rằng “họng súng đẻ ra tất cả”, “thế giới chỉ có thể cải tạo bằng súng ống”. [3] Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch đều là bạn của Nixon - Tổng thống Mỹ, Nixon đã so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hai người như sau: “Hai ông đều là người phương Đông và thật trùng hợp kì lạ, Mao Trạch Đông đi ra nước ngoài chỉ có 2 lần, năm 1949 và năm 1957, đều sang Mạc Tư Khoa để gặp gỡ các nhà lãnh đạo Liên Xô; Tưởng Giới Thạch cũng vậy, 2 lần, năm 1923 đi Liên Xô và năm 1943 với tư cách đại biểu của một trong bốn cường quốc dự hội nghị Cairo, Ai Cập. Ngoài công vụ hàng ngày, hai ông đều dành thời giờ ở nhà, rất ít xuất ngoại, Mao Trạch Đông làm thơ, còn Tưởng Giới Thạch thì bách bộ, ngâm vịnh cổ thi. Mao Trạch Đông phản đối sự chuyên chế của người cha và cả chế độ xã hội đương thời, Tưởng Giới Thạch phản đối sự hủ bại và quỳ gối nước ngoài của triều Mãn Thanh, cắt bím tóc đuôi sam trước Mao Trạch Đông 7 năm, hai vị đều là những nhà cách mạng”. “Sự khác nhau giữa họ có chỗ nhìn rõ ngay, có chỗ rất sâu kín. Mao nói cười ung dung tự tại, trào lộng, châm biếm, còn Tưởng ít khi hàm tiếu và hay kín đáo. Chữ viết của Mao như rồng bay phượng múa, không phân rõ hàng lối, ngược lại Tưởng viết rất đoan chính, vuông vức, cách ô, cách hàng cẩn thận. Nói một cách cụ thể hơn, họ đều xem Trung Quốc là thần thánh, nhưng cách biểu hiện khác nhau. Cả hai đều yêu mến mảnh đất này, nhưng Mao thì muốn quét sạch tất cả quá khứ, còn Tưởng chủ trương xây dựng từ đây. Sau khi thu hút được thắng lợi, Mao giản hoá chữ Hán, vừa để cho người dân dễ dàng học tập thoát nạn mù chữ và, theo tôi, vừa xoá đi những hàm ý rối rắm lịch sử đọng lại trong phồn thể của Hán tự. Tưởng thua trận, lúc bỏ chạy ra đảo Đài Loan chỉ kịp mang theo 400.000 văn vật đồ cổ, “vứt” lại hầu như rất nhiều trợ thủ, thuộc hạ từng trung thành với ông tại Hoa Lục”. Tưởng Giới Thạch ưa sạch sẽ, ngăn nắp, văn phòng và doanh trại của ông đâu vào đấy, chỉnh tề, bóng loáng. Có một lần lưu trú tại chiêu đãi sở Phúc Đại - Đài Loan, không may khi tản bộ, Tưởng Giới Thạch ngẫu nhiên nhìn thấy bãi phân chó bên vệ cỏ. Ông nổi lôi đình, mắng chửi viên chủ quản chiêu đãi sở, khiến y ức quá mà chết luôn. Mao Trạch Đông cũng rất sạch sẽ, trong cuộc Vạn lí trường chinh từ Hoa Nam lên Diên An, ông chưa hề ngủ trên bất cứ giường của một ai, mà qua đêm bằng các tấm ván cửa. Ông ưa sạch, nhưng không chỉnh tề ngăn nắp, văn phòng, thư phòng và giường ngủ của Mao Trạch Đông đều bề bộn hàng chồng sách mới xem được một nửa. Mao Trạch Đông thích xem nhiều cuốn sách có nội dung hoàn toàn khác nhau, còn Tưởng Giới Thạch đọc xong cuốn này rồi mới lật sang cuốn khác. Văn bản mà Tưởng Giới Thạch phát biểu, công bố phần lớn do thư kí dự thảo và ông sửa đi sửa lại nhiều lần. Ngược lại, Mao Trạch Đông như có cái duyên cầm bút, tự tay thảo chương, viết lách những gì sẽ nói sẽ đọc, một vài bài phát biểu miệng của ông do thư kí ghi chép hiện trường, chỉnh lí, trình duyệt sau để làm tài liệu. Không những thế, Mao Trạch Đông còn lấy danh nghĩa người bình luận của Tân Hoa xã, Nhân Dân nhật báo, Giải Phóng nhật báo viết xã luận, bài vở thậm chí kí cả tên của Chu Đức hay Bành Đức Hoài nữa. Mao, Tưởng đối lập suốt cả một đời, hai chữ “chống cộng” luôn luôn quán xuyến đối với Tưởng Giới Thạch, đến như “một nước Trung Hoa” mà hai người thường nhắc tới cũng hoàn toàn khác nhau, một bên là CHND Trung Hoa, một bên là Trung Hoa dân quốc. Đối thủ của Tưởng Giới Thạch trong Quốc dân đảng là Uông Tinh Vệ và Hồ Hán Dân, phải qua năm lần bảy lượt đấu tranh giành giật, mãi tới hội nghị Vũ Xương tháng 3 năm 1939 Tưởng Giới Thạch mới được bầu là Tổng tài, xác định vị trí lãnh tụ của ông trong Quốc dân đảng. Còn đối thủ của Mao Trạch Đông là Vương Minh, Bác Cổ, Trương Quốc Đào, và cũng phải tới tháng 1 năm 1935, tại hội nghị Tuân Nghĩa ông mới trúng cử Chủ tịch Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trở thành lãnh tụ của đảng này. Về đường hôn nhân luyến ái của hai người, kì lạ thay, cũng khá tương đồng. Năm 14 tuổi, do thân mẫu là Vương Thái Ngọc chủ hôn, Tưởng Giới Thạch lấy Mao Phức Mai lớn hơn mình 5 tuổi làm vợ (về sau do chữ “phức” khó nhận biết, dân quê bèn gọi là Mao Phúc Mai). Khi lên Thượng Hải, ông đã cùng chung sống với Diêu Di Thành người huvện Ngô, tỉnh Giang Tô, sau đó lại là Trần Khiết Như người Tô Châu, cuối cùng, với Tống Mỹ Linh kết thành vợ chồng chính trị. Người đời thường lấy chữ “Trung” trong Tưởng Trung Chính và chữ “Mỹ” trong Tống Mỹ Linh gắn với nhau và gọi đó là “cuộc hôn nhân Trung Mỹ” đầy huyền bí. Mao Trạch Đông cũng 4 lần hôn thú, cũng năm 14 tuổi, vâng lời cha mẹ lấy người con gái họ La hơn mình 4 tuổi làm vợ, nhưng hai vợ chồng chưa hề ăn ở với nhau. Sau đó, lúc ở Trường Sa, Mao Trạch Đông yêu Dương Khai Tuệ và đã kết hôn. Khi lên Tỉnh Cương Sơn cùng chung sống với Hạ Tử Trân người Vĩnh Tân - Giang Tây. Thời kì ở Diên An, Giang Thanh - nữ diễn viên điện ảnh Thượng Hải (nghệ danh Lam Bình, bản danh Lý Vân Hạc) xuất hiện và cuối cùng Mao Trạch Đông chọn người này. Tưởng Giới Thạch là một lãnh tụ độc tài với bàn tay sắt, ông thực hiện hình thức thống trị “tam nhất” (ba một): một chính đảng, một chủ nghĩa, một lãnh tụ, đó là Quốc dân đảng, chủ nghĩa tam dân và có lẽ mỗi một Tưởng Giới Thạch mà thôi. Tháng 7 năm 1945, tại Diên An, Mao Trạch Đông đã nói “Tưởng tiên sinh cho rằng thiên vô nhị nhật, dân vô nhị chủ, tôi, không tin là thuyết nên cứ để hai mặt trời mọc lên cho ông ấy xem xem”. Quả nhiên Trung Quốc xuất hiện cục diện “thiên hữu nhị nhật, dân hữu nhị chủ”, kỳ thực thì trước khi Mao Trạch Đông đề xướng luận thuyết nêu trên, cục diện này đã xảy ra và tồn tại cho tới nay, lúc hai ông Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông đều đã qua đời. Tưởng Giới Thạch một bên, Mao Trạch Đông một bên, với bàn cờ là 9,6 triệu cây số vuông lãnh thổ Trung Quốc và hai bên đã “chơi” một cuộc cờ làm chấn động cả thế giới. Ghi lại cuộc cờ này, chúng ta sẽ được một bộ lịch sử hiện đại của Trung Quốc. Tất nhiên, trong cuộc đấu tranh phức tạp nêu trên không thiếu gì những cảnh gươm đao, súng đạn, pháo dập, lửa thiêu v.v... cũng có lúc hai bên phái khiển mật sứ, bàn việc nội trướng, đánh đánh đàm đàm, đàm đàm đánh đánh. Hai bên từng không tiếc lời chửi nhau, Tưởng Giới Thạch chửi Mao Trạch Đông là “Mao phỉ”, “phỉ đỏ”, “cộng phỉ”, “gian đảng”, “gian quân” v.v... ngược lại, Mao Trạch Đông chửi Tưởng Giới Thạch là “độc phu dân tặc”, “kẻ thù chung của nhân dân”, “tội phạm chiến tranh số 1”, “bọn phỉ Tưởng” v.v... xem ra ngôn từ có vẻ phong phú hơn. Ấy mà có lúc hai vị chủ soái đã tay bắt mặt mừng, cụng li cạn cốc, xưng hô lịch sự “Mao tiên sinh”, “Tưởng tiên sinh”. Những ngày hoà đàm ở Sơn Thành, Mao Trạch Đông biết Tưởng Giới Thạch không hút thuốc và cũng không ưa người nói chuyện với ông hút thuốc, bạn bè cận thần của Tưởng Giới Thạch là tay ghiền thuốc mỗi lần đi gặp ông đều phải súc miệng sạch sẽ, tránh hơi thuốc phả ra, gây khó chịu cho Tưởng Giới Thạch. Tất nhiên, Mao Trạch Đông không đến nỗi phải cần súc miệng, nhưng để tôn trọng Tưởng Giới Thạch, ông đã “cai thuốc” khi ngồi vào bàn hoà đàm hay nói chuyện ngoài hành lang. Tiểu tiết này làm Tưởng Giới Thạch vô cùng cảm động, ông nói với thuộc hạ: “Mao Trạch Đông, con người này không thể xem thường, ông ta là tay ghiền thuốc, hết điều này sang điếu khác, nghe nói cả ngày phải cả ống (khoảng 50 điếu), thế mà lúc biết ta không hút thuốc, Mao tiên sinh đã tuyệt nhiên tạm ngừng khi đôi bên trò chuyện, tinh thần và quyết tâm ấy thật đáng trọng thị”. Còn Mao Trạch Đông, ông ưa dí dỏm, khi trả lời phỏng vấn phóng viên báo chí Quốc dân đảng: “Ngài có ấn tượng gì về Tưởng tiên sinh?”, ông nói: “Chữ Tưởng là chữ Tướng dưới bộ Thảo, nên có thể gọi Thảo đầu tướng quân!” (ông tướng có cỏ trên đầu). Một năm sau đàm phán ở Trùng Khánh - 1946, nữ kí giả người Mỹ hỏi Mao Trạch Đông, cũng về ấn tượng đối với Tưởng Giới Thạch, ông chỉ dùng 2 chữ trả lời gọn lỏn: “con hổ giấy!” Quả nhiên, 3 năm sau, Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa, chiến thắng Tưởng Giới Thạch! Hôm nay, khói súng đã tiêu tan, trọng pháo thôi gầm rú, hai kì thủ kẻ trước người sau đều rời nhân thế. Nghiên cứu hai kì thủ, cũng là hai người cầm cờ của hai đảng, nghiên cứu các thế cờ của cuộc cờ thế kỉ, ảnh hưởng của chúng đối với vận mệnh Trung Quốc khiến chúng ta hồi ức vô cùng và thật đáng quý. Kì ngạn có câu “quân cờ làm bằng gỗ, nếu thua chơi lại!” (Kỳ tử mộc đầu tác, thâu liễu trùng lai quá”), nhưng những ván cờ lịch sử thì không có cách nào “chơi lại”. Song quay về với chúng và quá vãng, để mà suy tư, để mà gợi mở, kể cũng không thừa! NĂM THÁNG ĐẦU TIÊN GẠT LỆ CHIA TAY, MAO TRẠCH ĐÔNG LÊN ĐƯỜNG ĐI QUẢNG CHÂU Chu Giang chầm chậm trôi, sóng bạc lấp lánh tựa như dải khăn quàng vươn trên cổ ngọc của thành Quảng Châu. Đã là tháng chạp mà nơi đây vẫn chưa hề lạnh lẽo, cây lá vẫn xanh tươi, ngàn hoa vẫn sắc thắm, tô vẽ cho Ngũ Dương thành này rực rỡ lạ thường. Cuối năm 1923, Quảng Châu mùa xuân về sớm, ở đâu chúng ta cũng có thể bắt gặp sắc cờ “thanh thiên, bạch nhật, mãn địa hồng” (bầu trời xanh, vầng dương trắng và đỏ khắp thế gian), cũng như chân dung Tôn Trung Sơn với kiểu tóc cắt bằng và chòm râu chữ “bát”. Những chiến sĩ quân cách mạng Dân quốc đầu đội mũ rộng vành, vai mang súng trường nghiêm trang đứng ở mọi nơi: bến xe, nhà ga, đầu cầu, cũng như trước các cao ốc. Chỉ ở phía Tây Nam, trên hòn đảo nhỏ Sa Diện là còn thấy quân Anh tuần tra canh gác, vì đó là tô giới của nước Anh. Từ năm 1840, sau khi cánh cửa lớn của Trung Quốc bị “trọng pháo” chiến tranh nha phiến phương Tây công phá mở toang, người Anh cho xây cất ở đây hàng dãy nhà lầu kiểu Âu Châu. Những con đường rải nhựa đen bóng cứ vươn dần vào nội thị, xe buýt đậu ở mọi nẻo, tuy nhiên các con hẻm vẫn còn chật hẹp và thiếu cả ánh nắng mặt trời. Quảng Châu nhộn nhịp, hình ảnh những phụ nữ bó chân, dáng đi núc ních chậm chạp như con vịt bầu, hoặc những thanh niên với bím tóc đuôi sam dài lượt thượt sớm lùi về dĩ vãng ở cái thành phố bị mở cửa bởi sức mạnh thuốc phiện của ngoại bang. Một thanh niên dáng người cao ráo, mình mặc trường bào, chân đi giày vải Hồ Nam, tóc dài và ken dày, đôi mày tuy thưa, song mắt to và thật sáng, đáng chú ý nhất là nốt ruồi rất lớn ở ngay cằm phía trái... anh cắp chiếc ô che mưa làm bằng giấy dầu và từ tốn rảo bước trên đường phố Quảng Châu. Hình ảnh mô tả trên đây làm chúng ta nhớ lại hồi “văn cách”, Lưu Xuân Hoa đã vẽ một con người như vậy cùng lời tựa “Mao Trạch Đông đi An Nguyên”, hoạ phẩm sơn dầu này của Lưu từng được ấn hành 900 triệu bản và tán phát khắp nơi. “Tam thập nhi lập”, Mao Trạch Đông vừa tròn 30 tuổi, ông sinh năm Quang Tự thứ 19 (Quý Tị) nhằm ngày 19 tháng 11 âm lịch. Lâu nay Mao Trạch Đông mừng sinh nhật đều theo ngày âm, mãi đến những năm 40 khi đã có tên tuổi bèn đổi thành dương lịch 26-12 (1893), và cũng thật kì lạ, ngày 26-12 năm 1923 này lại trùng hợp với âm lịch 19-11 Quý Hợi. Mao Trạch Đông từ Trường Sa tới đây, ở đó tại số nhà 22 Thanh Thủy Đường phía ngoài cổng Tiểu Ngô, hiền thê Dương Khai Tuệ, trưởng nam Ngạn Anh và thứ nam Ngạn Thanh vừa mới sinh đang ngóng chờ ông. Là người lấy cách mạng làm chức nghiệp, Mao Trạch Đông phải đi mây về gió, nam chinh bắc chiến, lần này đi cũng dễ đến hai tháng, gánh nặng gia đình trút cả lên vai người vợ trẻ, Mao tự lấy làm an ủi và động viên một mình. Huống hồ đây lại là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Quốc dân đảng Trung Quốc (theo cách nói tắt của người Hoa lục: “Nhất đại”, còn tập quán ở Đài Loan: “Nhất toàn”) và Mao Trạch Đông được mời với danh nghĩa đại biểu Hồ Nam, ông không thể vắng mặt. Trước khi lên đường đi Quảng Châu tham dự Nhất toàn, Mao Trạch Đông viết bài “Chúc tân lang”, như muốn bộc bạch tấm lòng mình với Khai Tuệ những tháng ngày qua, gạt lệ chia tay để dấn thân vì sự nghiệp. Cái tài và cái tình của ông đang múa trên trang giấy, ngay lúc bấy giờ Mao Trạch Đông quả là một thi nhân hẹn người đời sau phải kính nể. Mao Trạch Đông phải vượt qua Hằng Dương, với một quãng đường đầy gian nan mới tới được Ngũ Dương thành này. Quảng Châu là miền đất lạ đối với Mao Trạch Đông, nhưng “trước lạ sau quen”, vì cũng gần đây thôi, tháng 6 - 1923, theo giấy triệu tập của Trần Độc Tú, ông cùng 40 đại biểu khác đã về Nam quốc chi thành - Quảng Châu dự Đại hội đại biểu lần thứ ba của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ đề của Tam đại lần ấy là thực hiện Quốc - Cộng hợp tác, đại biểu Quốc tế Cộng sản lúc bấy giò là Ma-lin, người Hà Lan, vóc dáng tráng kiện, giọng nói âm vang đã truyền đạt quyết nghị của tổ chức, yêu cầu các đảng viên cộng sản Trung Quốc với danh nghĩa cá nhân gia nhập hàng ngũ Quốc dân đảng để triển khai sách lược hợp tác giữa hai đảng. Trương Quốc Đào kiên quyết phản đối, Mao Trạch Đông tích cực ủng hộ, kết quả: Trương rớt khỏi Ban chấp hành Trung ương; còn Mao trúng cử với quá bán 34 phiếu. Đại hội bầu 5 người làm uỷ viên trung ương, Trần Độc Tú vẫn là ủy viên trưởng, và Mao Trạch Đông thư kí, phụ trách công việc hàng ngày của ban chấp hành. Theo nghị quyết của Tam đại, Mao Trạch Đông gia nhập Quốc dân đảng, trở thành “phần tử liên đảng”, vừa là đảng viên cộng sản, vừa là đảng viên quốc dân. Tháng 9 năm ấy, Mao Trạch Đông cùng trung ương chuyển lên Thượng Hải, rồi sau đó không lâu ông về Trường Sa và lần này với tư cách đại biểu Hồ Nam, Mao Trạch Đông dự Nhất đại của Quốc dân đảng... TÔN TRUNG SƠN ĐIỆN BÁO THÚC GIỤC TƯỞNG GIỚI THẠCH MAU VỀ QUẢNG CHÂU Cùng lúc Mao Trạch Đông trên đường đến Quảng Châu liên tục từ nơi đây điện báo phát về Khê Khẩu - một trấn nhỏ miền Phụng Hoá tỉnh Triết Giang, thúc giục Tưởng Giới Thạch đang chú tâm làm lễ minh thọ [4] sáu mươi cho thân mẫu Vương Thái Ngọc, mau mau trở lại Quảng Châu. Khê Khẩu nổi tiếng non xanh nước biếc, nơi hội lưu của hai dòng sông rồi tiếp tục uốn lượn giữa hai rặng núi và đổ về biển. Hàng trăm ngôi nhà tường xanh ngói xám được xây cất bên này bờ nam, còn phía bên kia bờ bắc là cả một phố chợ chạy dài như hình con cá, gồm hàng gạo, hàng mì, hiệu tạp hoá, quán cơm, quán rượu v.v... đông vui nhộn nhịp, và người ta gọi đây là trấn Khê Khẩu. Khê Khẩu là đại bản doanh của họ Tưởng, phải hơn nửa số dân ở đây mang họ này. Phía đông của Khê Khẩu có cổng thành, trên ghi 3 chữ: “Võ lĩnh môn”, qua khỏi Võ lĩnh môn, men theo một con đường hẹp đến lâu đài hai tầng, xung quanh bao bọc bởi tường vây màu trắng, đó là dinh cơ của tổ tiên Tưởng Giới Thạch, sau có tên gọi “Phong cảo phòng”. Hai chữ “phong” và “cảo” đều có lai lịch từ điển tích “lưỡng Chu Văn võ, lưỡng vương Tống đố, rằng Chu Văn Vương dựng đô ở Phong Ấp, còn Chu Võ Vương thì ở Cảo Kinh. Phong cảo phòng có tiểu viện và 10 gian nhà, thật là một tố cư nơi trấn nhỏ Khê Khẩu này. Ông nội của Tưởng Giới Thạch tên là Tưởng Ngọc Biểu đã mở ba gian hàng với bảng hiệu: “Ngọc Thái diêm phố” ở Khê Khẩu chuyên bán muối, vôi, rượu và gạo. Tưởng Ngọc Biểu sinh được hai con trai, trưởng nam Tưởng Triệu Hải, thứ nam Tưởng Triệu Thông. Người anh thứ hai của Tưởng Ngọc Biểu không có con cái, nên ông đã cho trưởng nam của mình là Triệu Hải về ở với anh làm người kế nghiệp, và giao thứ nam Triệu Thông đảm đương công việc kinh doanh Ngọc Thái diêm phố. Triệu Thông khôn ngoan lanh lợi, có đầu óc buôn bán, được thân phụ giao phó cả cơ nghiệp cửa hàng, ông đã khuếch trương kinh doanh, làm ăn phát tài, nổi danh cả trấn Khê Khẩu, đi đâu cũng dương dương tự đắc. Tưởng Triệu Thông đầu tiên lấy con gái họ Từ làm vợ, bà sinh được một trai một gái, trưởng nữ Tưởng Thuỵ Xuân, và thứ nam Tưởng Thuỵ Sinh (dân trấn thường gọi Tưởng Giới Khanh). Năm 1882 (tức Quang Tự thứ 8), lúc Triệu Thông 41 tuổi, Từ thị không may lâm bệnh qua đời, chẳng bao lâu ông tục huyền, cưới Tôn Thị làm kế thất và lại “sát thê”. Khi ấy, viên kế toán Ngọc Thái diêm phố là Vương Hiền Đông bèn giới thiệu cô em họ Vương Thái Ngọc cho Triệu Thông và ông ưng thuận ngay. Vương Thái Ngọc mới 22 tuổi, đã có một đời chồng với người họ Trúc, anh chàng này tính nết cục cằn, thô lỗ, thường hành hạ mắng chửi Vương thị, rồi sớm lâm bệnh, chết non. Sau khi goá bụa, Vương Thái Ngọc định đi tu, nhưng nghe lời anh họ, thị cũng đành nhắm mắt đưa chân, lên kiệu hoa về Ngọc Thái diêm phố vào năm 1886. Ngày 15 tháng 9 Quang Tự thứ 13 nhằm 31.10.1887 Tây lịch, tại đông phòng Ngọc Thái diêm phố, bà sinh hạ con trai cho họ Tưởng, bà xứng đáng là người vợ làm rạng danh Triệu Thông, nhạc phụ Tưởng Ngọc Biểu mừng rỡ liền đặt tên cho hạt giống Tưởng gia là Thuỵ Nguyên, phổ danh Chu Thái, tên trung học là Chí Thanh, tự Giới Thạch, về sau đi theo Tôn Trung Sơn lại cải danh thành Trung Chính. Tưởng Giới Thạch chỉ còn một người em gái là Tưởng Thuỵ Liên, hai người em khác - Thuỵ Cúc và Thuỵ Thanh đều chết yểu từ bé. Năm 1895, lúc lên tám, Tưởng Giới Thạch mồ côi cha, cả nhà chuyển vào Phong cảo phòng sinh sống, mọi công việc dạy dỗ, nuôi nấng đều trông vào thân mẫu, nên ông rất quý mến và có hiếu với bà. Thuở nhỏ, lúc chơi trò đánh trận giả, Tưởng Giới Thạch rất thích tự xưng là đại tướng quân, và lớn lên quả nhiên chức danh “đại tướng quân” đã theo ông suốt đời, nhưng có ba lần mấu chốt mà khi nghiên cứu thân thế và sự nghiệp Tưởng Giới Thạch, người ta không thể không nhắc tới. Lần thứ nhất năm 1906, lúc Tưởng Giới Thạch 19 tuổi và đang học ỏ trường trung học Long Tân - Phụng Hoá thì được đưa sang Nhật Bản theo ngành quân sự, tại đây ông quen thân với Trần Kỳ Mỹ. Nhờ Trần giới thiệu, năm 1908 Tưởng Giới Thạch gia nhập Đồng minh hội. Ông cùng Trần Kỳ Mỹ, Hoàng Khổng kết nghĩa anh em. Sau khi về nước, Trần giữ chức đô đốc quân đội Thượng Hải kiêm Tổng Tư lệnh thảo Viên quân [5], còn Tưởng Giới Thạch, dưới trướng của Kỳ Mỹ, ông được cử làm trung đoàn trưởng trung đoàn số 5. Lần thứ hai là năm 1922, cũng nhờ quan hệ với Trần Kỳ Mỹ mà Tưởng Giới Thạch đã đi theo Tôn Trung Sơn. Năm 1914, Trung Hoa cách mạng đảng (tiền thân của Quốc dân đảng Trung Quốc) thành lập, Tôn Trung Sơn làm Tổng lý, Trần Kỳ Mỹ làm Bộ trưởng tổng vụ. Hai năm sau, Trần bị ám hại ở Thượng Hải, và đây là lúc Tưởng Giới Thạch tìm đến với Tôn Trung Sơn. Mùa xuân năm 1918, Tôn Trung Sơn bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm chủ nhiệm phòng tác chiến bộ Tổng Tư lệnh quân đội. Tuy nói rằng đã có lúc nhận thấy không có thực quyền, Tưởng Giới Thạch bèn xin Tôn Trung Sơn cho từ chức trở về Thượng Hải lao vào làm ăn với thị trường chứng khoán. Nhưng năm 1921, khi nghe Tôn Trung Sơn kêu gọi, ông liền đi Quế Lâm tham gia trù bị công việc Bắc phạt. Ngày 16.6.1922, Trần Quýnh Minh bội phản, cho lính nổ pháo vào phủ Tổng thống của Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu, Tôn điện khẩn cho Tưởng mau về ứng viện. Tưởng Giới Thạch kịp thời hỗ trợ Tôn Trung Sơn phản kích quân đội của Trần Quýnh Minh, và ngày 10.8.1922 hộ tống Tôn rời Quảng Châu đi Thượng Hải. Nhân dịp này, Tưởng Giới Thạch đã viết cuốn “Tôn đại Tổng thống Quảng Châu mông nạn kí” và được cất nhắc lên chức tham mưu trưởng đại bản doanh. Lần thứ ba, chính là lúc này, Tôn Trung Sơn đang thúc giục Tưởng Giới Thạch nhanh chóng trở lại Quảng Châu để chuẩn bị xây dựng trường quân sự Hoàng Phố. Ông nhớ lại những kỉ niệm khó quên trên chiến hạm Vĩnh Phong lúc Tưởng Giới Thạch xả thân che chở, đưa ông thoát khỏi vòng hiểm nguy, tạm lánh về Thượng Hải mà lòng càng tin tưởng viên tướng trẻ họ Tưởng. Vì sao Tưởng Giới Thạch lại từ bỏ Quảng Châu, nơi phong ba bão táp, để náu mình ở Khê Khẩu - một trấn nhỏ vô cùng yên tĩnh và không mấy nổi danh? Phần vì thân mẫu và lễ minh thọ, nhưng phần do cảm thấy vẫn chưa có thực quyền, đã có lúc ông “bức rức, trăn trở, sách chẳng buồn xem, việc chẳng muốn làm, định tự sát!”. Lúc bấy giờ Tôn Trung Sơn đang thực hiện ba chính sách lớn “liên Nga, thân Cộng, giúp đỡ công nông”, quan hệ với Liên Xô ngày một bền chặt. Đại diện Quốc tế Cộng sản là Ma-lin đã đề nghị Tôn Trung Sơn cử đoàn đại biểu sang thăm Liên Xô. Tưởng Giới Thạch may mắn được Tôn Trung Sơn giao cho nhiệm vụ làm trưởng đoàn cùng ba thành viên khác là Trương Thái Lôi, Thẩm Định Nhất và Vương Đăng Vân lên đường Tây du. Trương Thái Lôi là một chiến sĩ cộng sản trứ danh, năm 1920 đã tham gia nhóm chủ nghĩa cộng sản ở Bắc Kinh, nói tiếng Anh rất lưu loát. Thẩm Định Nhất cũng là đảng viên cộng sản, một mãnh tướng của tạp chí “Tân thanh niên”. Còn Vương Đăng Vân làm thư kí Anh ngữ cho Tưởng Giới Thạch. Ngày 16-8-1923 đoàn khởi hành, ở thăm Liên Xô ba tháng, khi đến Mạc Tư Khoa đoàn định xin gặp Lênin nhưng không được đáp ứng vì Người đang nằm viện để cứu chữa do bị ám sát. Tại đây, Tưởng Giới Thạch và các thành viên của đoàn đã gặp gỡ và làm việc với nhiều cán bộ lãnh đạo Liên Xô lúc bấy giờ, ngoài ra còn gặp nhà cách mạng Việt Nam là Nguyễn Ái Quốc cũng vừa tới Mạc Tư Khoa. Tưởng Giới Thạch được các nhà lãnh đạo Liên Xô sắp xếp chương trình nghiên cứu khảo sát về quân sự, tham quan nhiều học viện đào tạo sĩ quan và khi xưng hô với nhau, hai bên đều dùng đại từ “đồng chí” phát âm theo tiếng Nga - “ta-va-rit”. Ngày 15.12.1923, Tưởng Giới Thạch cùng đoàn đại biểu đáp tàu thủy về đến Thượng Hải, sau khi vội vàng báo cáo sơ qua với Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ, ngay hôm ấy Tưởng Giới Thạch liền tiếp tục hồi hương và đúng ngày 16.12.1923 có mặt ở Khê Khẩu. Tưởng Giới Thạch nóng lòng như vậy vì hôm nay chính là ngày minh thọ sáu mươi cho thân mẫu Vương Thái Ngọc. Mùa xuân năm 1921, lão bà lâm bệnh nặng, đích thân Tưởng Giới Thạch chăm nom thuốc thang để báo đáp công sinh thành dưỡng dục. Lúc bấy giờ Tôn Trung Sơn dẫn quân xuất chinh Quảng Tây nên đã điện khẩn cho Tưởng Giới Thạch có mặt ở Quảng Châu lo việc nội trướng, ông không thể từ nan, nhưng cũng chỉ năm ngày ở đó mà thôi, trở về Khê Khẩu vào đúng ngày 14 tháng 6 thì thân mẫu quy tiên, thọ chưa tròn lục tuần. Những ngày ở Khê Khẩu làm lễ minh thọ sáu mươi cho mẹ, Tưởng Giới Thạch trú tại Từ Am gần ngay lăng mộ của bà, tranh thủ viết xong bản “Du Nga báo cáo thư” rồi cử người trình cho Tôn Trung Sơn. Ngày 30.12.1923, Tôn Trung Sơn lại điện giục Tưởng Giới Thạch “mau về Quảng Châu báo cáo cụ thể kết quả khảo sát ở Liên Xô và chuẩn bị phương án hợp tác Trung - Nga”, song ông vẫn nấn ná ở Từ Am lo nhang khói cho mẹ và ngày ngày bách bộ nghĩ suy... đường đường là trưởng một phái đoàn thay mặt cho Tôn Trung Sơn sang thăm và khảo sát ở Liên Xô mà lại bị gạt ra ngoài danh sách đại biểu chính thức đi dự Nhất toàn của Quốc dân đảng Trung Quốc... Mồng một tết Giáp Tý, nhằm 5.2.1924 Tây lịch, sau khi đắn đo mọi bề, Tưởng Giới Thạch quyết định trở về Quảng Châu, không ngờ hai ngôi sao lớn trên chính trường Trung Quốc lại sớm gặp nhau ở Ngũ Dương thành này, ghi một cột mốc khởi đầu quan trọng trong cuộc cờ thế kỉ giữa họ - Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. ĐẠI HỘI LẦN THỨ NHẤT QUỐC DÂN ĐẢNG BỎ RƠI TƯỞNG GIỚI THẠCH Ngày 16 tháng 1 năm 1924, khi Tưởng Giới Thạch trở lại Quảng Châu, trung tâm cách mạng của Trung Quốc lúc bấy giờ thật náo nhiệt và bận rộn. Cả thành phố rợp một màu cờ, dân Ngũ Dương vốn ham buôn bán nay cũng bàn tán chính trị, nào Quốc - Cộng hợp tác, nào Tôn Tổng lý triệu tập Quốc dân đảng Nhất toàn v.v... Quân lính súng ống nai nịt tuần tra đi lại khắp thành phố, thể như sục sôi một cao trào cứu nước cứu nhà, ngựa xe rộn rịp đưa đón người tứ xứ, giọng nam giọng bắc từ khắp nơi về dự Nhất toàn. Họ gồm 165 đại biểu trong nước và 31 hải ngoại, thế mà vẫn không tìm thấy ba chữ “Tưởng Giới Thạch”, có một đại biểu khu đặc biệt Hán Khẩu, trùng tên “Giới Thạch” nhưng lại là họ “Bành”. Những nhân vật trứ danh, bô lão của Quốc dân đảng như Liêu Trọng Khải, Đới Quý Đào, Vũ Hữu Nhậm v.v... những đại biểu của Đảng Cộng sản tham gia vào hợp tác như Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Cù Thu Bạch, Mao Trạch Đông v.v... đều có mặt. Ngày 24 tháng 11 năm 1894, lúc 28 tuổi, Tôn Trung Sơn đã nhóm họp hơn 20 Hoa kiều ở Mỹ thành lập một tổ chức phản Thanh gọi là Hưng Trung hội, thông qua điều lệ của hội do Tôn khởi thảo và tuyên thệ “chống ngoại xâm, khôi phục Trung Hoa, thành lập chính phủ đại chúng”. Từ khi Hưng Trung hội ra do đời, các nơi trong nước nhiệt liệt hưởng ứng tôn chỉ của hội và cũng nhóm thành nhiều đoàn thể phản Thanh. Ngày 20 tháng 8 năm 1905, tại Tokyo, Tôn Trung Sơn lại chủ trì đại hội thành lập Trung Quốc Đồng minh hội. Đồng minh hội là tổ chức liên hợp giữa Hưng Trung hội, Hoa Hưng hội, Quang Phục hội, do Tôn Trung Sơn làm Tổng lý. Ngày nay người ta quen gọi người đứng đầu chính phủ là “Tổng lý” (thủ tướng), nhưng lúc bấy giờ “Tổng lý” có nghĩa là thủ lĩnh một chính đảng. Tôn chỉ của Đồng minh hội rõ ràng hơn, “chống ngoại xâm, khôi phục Trung Hoa, xây dựng dân quốc, quyền lợi bình đẳng” và được khái quát thành chủ nghĩa tam dân (dân tộc, dân quyền, dân sinh). Trung Quốc Đồng minh hội lãnh đạo khởi nghĩa Vũ Xương ngày 10 tháng 10 năm 1911, lật đổ vương triều nhà Thanh, kết thúc những thiên kỉ dằng dặc của chế độ phong kiến ở Trung Quốc. Theo lịch cũ Trung Hoa, đó là năm Tân Hợi và vì vậy cuộc cách mạng nói trên có tên gọi Cách mạng Tân Hợi. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, lúc 46 tuổi, Tôn Trung Sơn đứng ra thành lập chính phủ lâm thời Trung Hoa dân quốc, tự mình đảm nhận chức vụ Tổng thống lâm thời, và đặt niên hiệu Trung Hoa dân quốc năm thứ nhất từ đó. Ngày 25 tháng 8 năm 1919, Tôn Trung Sơn liên tục hợp nhất Đồng minh hội với nhiều tổ chức chính trị khác như đảng Cộng hoà thống nhất, Quốc dân cộng tiến hội, Quốc dân công đảng, Cộng hoà thực tiến hội thành Quốc dân đảng và ông đảm nhận chức vụ Lý sự trưởng (thủ lĩnh) của đảng này. Ngày 23 tháng 6 năm 1992 vừa qua, người ta đã xác nhận di tích lịch sử - nơi ra đời của Quốc dân đảng (Tôn Trung Sơn), ở Bắc Kinh. Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn sáng lập và đảng Cộng hoà Trung Quốc do Viên Thế Khải cầm đầu trở thành hai tổ chức chính trị đối kháng trong quốc hội lúc bấy giờ. Ngày 4 tháng 11 năm sau (1913) quả nhiên Viên Thế Khải ra lệnh giải tán Quốc dân đảng, Tôn Trung Sơn phải lưu vong sang Nhật Bản. Ngày 8 tháng 7 năm 1914, tại Nhật Bản, Tôn Trung Sơn tuyên bố thành lập Trung Hoa Cách mạng đảng, thực chất là những phần tử cốt cán của Quốc dân đảng đang hoạt động bí mật nhằm bảo vệ thành quả của Cách mạng Tân Hợi. Ngày 10 tháng 10 năm 1919 (cũng là ngày song thập như 18 năm trước), Tôn Trung Sơn cải tổ Trung Hoa Cách mạng đảng thành Trung Quốc Quốc dân đảng (thêm hai chữ Trung Quốc đứng đầu để phân biệt với Quốc dân đảng năm 1912), ông làm Tổng lý và nêu cao tôn chỉ “củng cố cộng hoà, thực hiện chủ nghĩa tam dân”. Con đường khúc khuỷu của chính đảng Tôn Trung Sơn là như vậy, từ 1894 với Hưng Trung hội cho đến nay Trung Quốc Quốc dân đảng 1919, ra đời trước đảng Cộng sản, nhưng đại hội lần thứ nhất lại chậm thua gần ba năm. Người ta dùng hai chữ “Trung Cộng” để gọi tắt Trung Quốc Cộng sản đảng, cách xưng hô này đã thành thói quen trong và ngoài đảng, về sau Tưởng Giới Thạch có sáng tác thêm một thuật ngữ là “Cộng đảng”, nhưng chỉ đơn phương sử dụng mà thôi. Theo cách gọi tắt như trên, Trung Quốc Quốc dân đảng sẽ là “Trung Quốc” hoặc “Trung Dân”, xem ra không ổn, nên trước sau vẫn là “Quốc dân đảng”. Trở lại với nhân vật Tưởng Giới Thạch, người bị Nhất toàn lạnh lùng bỏ rơi, độc giả sẽ nhận thây những điều trắc ẩn của ông. Theo ông, “Quang Tự thứ 33, tôi gia nhập Đồng minh hội”, có nghĩa là năm 21 tuổi (tính cả tuổi mụ bà) Tưởng Giới Thạch đã là đảng viên Quõc dân đảng, không thể sánh vai với các bậc bô lão như Trần Kỳ Mỹ, Hồ Hán Dân, Liêu Trọng Khải v.v... nhưng với một thành viên 17 tuổi đảng như Tưởng Giới Thạch mà không được xếp vào danh sách đại biểu chính thức của Nhất toàn thì thật đáng suy nghĩ, ngay như trường hợp Hàng Hạnh Tề - đại biểu Triết Giang lâm bệnh vắng mặt, Tưởng Giới Thạch vẫn đứng ngoài dự thính, mặc dầu ông là người cùng tỉnh, tưởng sẽ thế chân. Tưởng Giới Thạch cố đoán mà vẫn không rõ Tôn Trung Sơn gọi ông về Quảng Châu để làm gì? MAO TRẠCH ĐÔNG QUA NHẤT TOÀN TIẾN LÊN TẦNG CAO CỦA QUỐC DÂN ĐẢNG Trong khi đó, Mao Trạch Đông với số thẻ 39 nghiễm nhiên ngồi vào hàng ghế đại biểu chính thức của đại hội và nhiều lần lên diễn đàn phát biểu. Hôm ấy là ngày 20 tháng 1 năm 1924, tại hội trường trường Cao đẳng sư phạm Quảng Đông, Tôn Trung Sơn dõng dạc tuyên bố “Cách mạng đảng đã lật đổ triều đình Mãn Thanh, thành công đầu tiên là khởi nghĩa Vũ Xương, ngày hôm đó là song thập - mồng mười tháng mười, một ngày đáng ghi nhớ của chúng ta. 13 năm sau, để kỉ niệm khởi nghĩa Vũ Xương, hôm nay chúng ta mở đại hội lần thứ nhất của Quốc dân đảng, cũng lấy ngày “song thập” (20), tất cả đều có ý nghĩa lịch sử...” Hội trường treo đảng kì của Quốc dân đảng - cờ “thanh thiên bạch nhật”, khi khai mạc, Tôn Trung Sơn cùng tất cả đại biểu đứng dậy hướng về đảng kì lạy ba lạy như thể nghi thức chào cờ ngày nay. Năm 1894, lúc Tôn Trung Sơn sáng lập Hưng Trung hội, một hội viên tên gọi Lục Hạo Đông đã thiết kế lá cờ này, màu xanh tượng trưng cho thanh niên, chính giữa là mặt trời trắng, toả tia sáng ra bốn phương. Ban đầu số tia sáng không quy định cụ thể, sau đó Tôn Trung Sơn đề nghị nên 12, vừa là 12 can chi, vừa là 12 thời khắc. Hoàng Hưng nhận thấy cờ chỉ có hai màu xanh trắng không đẹp, Tôn Trung Sơn đồng ý và thêm vào màu đỏ thành tên gọi “thanh thiên, bạch nhật, mãn địa hồng”. Ba màu xanh trắng đỏ còn tượng trưng cho tự do, bình đẳng, bác ái. Năm nhậm chức Tổng thống lâm thời Trung Hoa dân quốc, Tôn Trung Sơn quyết định lấy “thanh thiên, bạch nhật, mãn địa hồng” làm quốc kì, còn đảng kì chỉ có phần “trời xanh, vầng dương trắng” mà thôi. Nơi “chôn rau cắt rốn” của Quốc dân đảng là Bắc Kinh, còn nay Quảng Châu - trung tâm cách mạng của Trung Quốc là địa điểm cử hành Nhất toàn bầu cơ quan lãnh đạo của đảng. Sau này trường Cao đẳng sư phạm hợp nhất với hai trường Chuyên nghiệp nông học, Chuyên nghiệp pháp luật và chính trị thành Đại học Trung Sơn tồn tại và phát triển cho tới ngày nay, là nhân chứng của cuộc gặp mặt đầu tiên giữa Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. Sáng ngày 30 tháng 1 năm ấy, Nhất toàn đã bầu cử được các uỷ viên chính thức và uỷ viên dự khuyết ban chấp hành trung ương của Quốc dân đảng, trong 24 uỷ viên chính thức có ba vị là đảng viên Trung Cộng (Đàm Bình Sơn, Lý Đại Chiêu, Vu Thụ Đức), và trong 17 uỷ viên dự khuyết có bảy vị là cộng sản (Mao Trạch Đông, Cù Thu Bạch, Trương Quốc Đào, Thẩm Định Nhất, Lâm Tổ Hàm, Vu Phương Châu, Hàn Lân Phù). Chiều hôm ấy, từ hội trường Cao đẳng sư phạm Quảng Đông vang lên ba lần tiếng hô như sấm dậy “Trung Quốc Quốc dân đảng muôn năm”, hai nhân vật của cuốn sách này, người đại biểu chính thức và tiến vào tầng cao lãnh đạo, kẻ dự thính ngồi suy ngẫm sự đời chắc đều phải ba lần giơ tay và hưởng ứng “muôn năm, muôn năm” và “muôn năm”. Mao Trạch Đông lên đường đi Thượng Hải, làm việc tại cơ quan ban chấp hành Quốc dân đảng ở đó. Còn Tưởng Giới Thạch? Theo phân công của Tôn Trung Sơn, làm trưởng ban trù bị thành lập trường sĩ quan lục quân, sau này thường gọi trường quân sự Hoàng Phố vì địa điểm của nó là đảo Hoàng Phố, Trường Châu trên sông Châu Giang, ngoại ô Quảng Châu. Qua nhiều năm thất bại, Tôn Trung Sơn rút ra bài học: cần phải có trong tay một lực lượng quân đội mạnh và ông quyết định bắt đầu từ việc xây dựng trường đạo tạo sĩ quan. Cũng theo Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch từng du học quân sự ở Nhật Bản, là một tướng tài, ông chỉ muốn dựa vào Tưởng Giới Thạch trong lãnh vực vũ trang mà không đào tạo Tưởng Giới Thạch trở thành nhà hoạt động chính trị, cho nên trong Nhất toàn Tưởng Giới Thạch bị “bỏ rơi”, Tôn Trung Sơn hi vọng Tưởng sẽ chuyên tâm cho nhà trường. Tưởng Giới Thạch chưa hiểu hết ý nghĩa của vấn đề, ngày 21 tháng 2 ông đệ đơn từ chức trưởng ban và trở về Khê Khẩu. Lúc này Mao Trạch Đông đã đến Thượng Hải, ông vừa làm việc cho Trung Cộng ở Cục Trung ương, vừa làm việc cho Quốc dân đảng ở cơ quan ban chấp hành. Hai ngôi sao trên chính trường Trung Quốc tạm thời cùng toạ lạc ở Quảng Châu khoảng hơn một tháng, nay kẻ nam người bắc, kẻ khóc người cười, song chưa có gì phải quan ngại, bởi vì họ đang đều là những quân cờ. VÀ ĐẾN LƯỢT MAO TRẠCH ĐÔNG SA CHÂN VÀO NGHỊCH CẢNH Hai người xa nhau dễ phải hơn năm rưỡi, nay gặp lại. Tưởng Giới Thạch đã hoàn toàn khác xưa, binh quyền nắm chắc trong tay và nghiễm nhiên là tân quý tộc của Quốc dân đảng, còn Mao Trạch Đông - mệt mỏi, xanh xao và theo cách nói của ông, “Triệu Hằng Thích [6] đem quân đuổi bắt tôi, nên phải chạy về Quảng Châu”. Ở Thượng Hải, Mao Trạch Đông thường lui tới số nhà 44 trên đường Hoàn Long (nay là đường Nam Xương) thuộc tô giới của Pháp, đó là trụ sở cơ quan ban chấp hành Quốc dân đảng thành phố, ông đảm nhiệm chức vụ chủ nhiệm khoa văn thư của ban thư kí kiêm thư kí của ban tổ chức, thường ghi chép biên bản cho các hội nghị ban chấp hành. Còn bên Trung Cộng, Mao Trạch Đông cũng là thư kí, và đây là một chức nghiệp đem đến cho ông nhiều phiền toái. Đối với Quốc dân đảng, lí lịch của Mao chưa mấy nổi danh, trong con mắt các bô lão, ông chỉ là “thằng bé tóc còn để chỏm” và trước tiên bị Diệp Sở Thương bài xích. Diệp người Giang Tô, tuy chỉ lớn hơn Mao Trạch Đông năm tuổi, nhưng từ năm 1908 đã gia nhập Đồng Minh hội năm 1912 sáng lập tờ “Thái Bình Dương nhật báo”, năm 1916 làm tổng biên tập tờ “Dân quốc nhật báo”, sau Nhất toàn ông là uỷ viên trung ương Quốc dân đảng trực tiếp làm uỷ viên thường vụ thành uỷ Thượng Hải. Diệp luôn luôn gây khó khăn cho Mao, không chỉ vì Mao, một “thằng bé tóc còn để chỏm” sớm đã leo cao, hơn thế nữa, còn là đảng viên cộng sản, “phần tư liên đảng”. Diệp là người phản đối chủ trương “liên Nga, thân Cộng” của Tôn Trung Sơn, và hiển nhiên, nay dưới trướng của Diệp, Mao Trạch Đông chẳng khác gì một nàng dâu khổ sở. Ngày 17 tháng 11 năm 1924, trên đường công cán phía bắc, Tôn Trung Sơn ghé qua Thượng Hải, Mao Trạch Đông đã trình lên ông một bức thư gồm ba chữ kí của Uẩn Đại Anh, La Chương Long và Mao đều là nhân viên cơ quan thành uỷ, nội dung ghi rõ: “kinh phí từ tháng 8 đến nay chưa được cấp phát, nội bộ thiếu người chủ trì, công việc của thành uỷ bị đình trệ, nhân viên đã bốn tháng nay chưa nhận lương, khó khăn vô cùng, không sao nói hết, mong Tổng lý nhanh chóng cử chuyên viên tiến hành điều tra giải quyết”. Khi viết thư này để gửi cho Tôn Trung Sơn, quả tình gia cảnh của Mao Trạch Đông thật túng bấn, sáu tháng nay Dương Khai Tuệ và hai con Ngạn Anh, Ngạn Thanh từ quê đã bồng bế nhau lên Thượng Hải chung sống cùng Mao Trạch Đông mà cả nhà chưa có lấy một đồng lương. Phía Trung Cộng, ban đầu Mao Trạch Đông làm việc thật xuất sắc, hầu như các văn bản của trung ương đều do ông khởi thảo và cùng kí tên với Trần Độc Tú. Sau đó không lâu, sự bất đồng giữa Tổng bí thư Trần Độc Tú và Mao Trạch Đông đã nảy sinh, cộng thêm tác phong “gia trưởng” của Trần, càng làm cho Mao khó ở. Nhà dột lại gặp mưa dai. Mao Trạch Đông năm canh suy nghĩ, mất ngủ, làm việc chểnh mảng, cuối cùng thì đổ bệnh. Cũng như Tưởng Giới Thạch - người rất yêu mến quê hương bản quán, những khi thất sủng thường trở về nơi chôn rau cắt rốn ngỏ hầu đôi phần an ủi, Mao Trạch Đông nặng tình cố hương hàng xóm, ông đệ đơn “hồi hương dưỡng bệnh”, dắt vợ bồng con rời Thượng Hải đi Hồ Nam. Ngày 11 tháng 1 năm 1925, khi vắng Mao Trạch Đông, Trần Độc Tú triệu tập Tứ đại của Trung Cộng, tổ chức tại Thượng Hải, bầu lại ban chấp hành trung ương, vẫn do Trần chủ trì, còn Mao thì bị đẩy ra ngoài. Từ vị trí thứ hai sau Trần Độc Tú ở Tam đại, nay Mao Trạch Đông lại hoàn tay không. Đời bỗng chốc mà lên voi, mà xuống chó, thật trớ trêu thay! TƯỞNG GIỚI THẠCH LÊN VOI NHẬN CHỨC HỆU TRƯỞNG TRƯỜNG QUÂN SỰ HOÀNG PHỐ Như Mao Trạch Đông, Tưởng đã từ chức sau Nhất toàn trở về cố hương Khê Khẩu, sau đó không lâu, ngày 29 tháng 2 năm 1924, ông nhận được điện báo của Tôn Trung Sơn do thành uỷ Thượng Hải chuyển tới: “Trường sĩ quan giao huynh đảm nhiệm, cần bắt tay thực hiện kinh phí đã cấp, thầy trò từ bốn phương tụ tập đến cả trăm, chỉ còn chờ huynh chủ trì, không nên khiến nhiệt tình biến thành thất vọng, vả lại đang còn tại chức, đơn của huynh không được chấp thuận, đừng dứt áo ra đi một cách đường đột như vậy, mong kíp về, không chậm trễ”. Nhận bức điện này, Tưởng Giới Thạch vui như mở tấc lòng nhất là câu “chỉ còn chờ huynh chủ trì” rõ ràng Tôn Trung Sơn rất tôn trọng ta. Sau đó, Liêu Trọng Khải lại ba lần thúc giục, ngày 14 tháng 4, Tưởng khởi hành, sáng 21 bái kiến Tôn Trung Sơn, ngày 26 chính thức nhậm chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố với tuyên bố “hi sinh vì tôn chỉ duy nhất của đảng cách mạng” và hôm sau lên lớp ngay cho học viên, nội dung bài giảng “Như thế nào mới là đảng viên cách mạng chân chính?” Ngày 2 tháng 5 năm 1924, Tôn Trung Sơn phong thêm chức cho Tưởng Giới Thạch, ngoài nhiệm vụ hiệu trưởng còn kiêm tham mưu trưởng bộ Tư lệnh Việt quân [7]. Đó là một ngày lịch sử trong cuộc đời của Tưởng Giới Thạch, là cột mốc quan trọng trên hành trình chính trị của ông, bắt đầu nắm quân quyền, cũng có thể ban đầu Tưởng chưa hiểu hết ý nghĩa của hai chữ “hiệu trưởng” - quân hàm rất đặc biệt ấy. Sau này khi trở thành thủ lĩnh, Tổng thống, nhiều thuộc hạ vẫn cung kính “Tưởng hiệu trưởng”, vừa thân quý, vừa tôn vinh, họ nguyện làm học trò bé nhỏ suốt đời của ông. Làm hiệu truởng một trường quân sự, Tưởng Giới Thạch luôn luôn phải tỏ ra gương mẫu trước giáo viên và học sinh, mỗi sáng tinh mơ thức dậy theo hiệu lệnh, quân phục chỉnh tề, kỉ luật nghiêm minh, cứ ba ngày hai lượt lên lớp giảng bài, đêm hôm thị sát đến tận kí túc xá xem xét công việc học hành ra sao, tác phong quân sự của Tưởng Giới Thạch cũng hình thành từ đó. Tôn Trung Sơn bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm hiệu trưởng và không quên cử thêm Liêu Trọng Khải - người đại diện của đảng đứng bên cạnh, chức danh này xưa nay chưa có trong quân đội, vừa mới quy định sau khi mô phỏng hình thức tổ chức của Hồng quân Liên Xô. Ngày 6 tháng 6 năm 1924, Hoàng Phố Trường Châu rực rỡ cờ hoa, lần đầu tiên xuất hiện biểu ngữ viết ngang nhưng từ phải sang trái với dòng chữ “Lễ khai giảng trường sĩ quan lục quân Quốc dân đảng Trung Quốc”, và trên thao trường huấn luyện vang lên khúc quân hành mà nội dung tràn ngập hào khí: “Đả đảo cường quyền, khử trừ quân phiệt, cách mạng quốc dân thành công, hát lên ta cùng hát lên”. Tôn Trung Sơn bước lên diễn đàn giữa tiếng vỗ tay và reo hò như sấm dậy của sĩ tướng, ông nói: “Hôm nay chúng ta khai giảng trường học này, với mục đích gì? Đó là, kể từ đây sáng tạo lại sự nghiệp cách mạng, lấy các học viên của trường làm gốc rễ để lập nên quân đội cách mạng”. Tôn Trung Sơn tiếp tục bài diễn thuyết với một giọng nói bi thống mà rằng: “Nguyên nhân làm cho cách mạng Trung Quốc chưa đi tới thành công là do chưa có một lực lượng vũ trang cách mạng của chính mình... Để hoàn thành sứ mạng mà lịch sử giao phó, tôi hạ quyết tâm cải tổ Quốc dân đảng và xây dựng quân đội cách mạng của chúng ta!”. Hôm ấy, Tưởng Giới Thạch nghiêm trang trong quân phục, mũ rộng vành, áo Trung Sơn bốn túi lắng nghe Tôn Tổng lý nhấn mạnh từng lời”. MAO TRẠCH ĐÔNG DẪN VỢ CON TRỞ VỀ BẢN QUÁN Tại Quảng Châu, Tưởng Giới Thạch hồng lên rực rỡ, thì trên đường về cố hương, Mao Trạch Đông cùng vợ con mới thật là thê lương ảm đạm. Thoạt đầu họ tạm trú ở Trường Sa với gia đình bên ngoại ăn Tết, sau đó mồng 6 tháng 2 năm 1925 (một ngày trước Nguyên tiêu) tiếp tục về Thiều Sơn. Mao Trạch Đông sinh ở Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, “thiều” có nghĩa là đẹp, “thiều sơn” vì vậy mà hiểu là núi non mĩ lệ. Theo gia phả họ Mao, Mao Trạch Đông có nguyên quán ở huyện Long Thành, phủ Cát Châu, tỉnh Giang Tây (nay là huyện Cát Thuỷ). Cuối đời Nguyên, tổ tiên của Mao Trạch Đông là Mao Thái Hoa tham gia quân khởi nghĩa nông dân do Chu Nguyên Chương cầm đầu. Chu Nguyên Chương chiến thắng, lên làm hoàng đế Triều Minh, bèn ban thưởng cho sĩ tướng ruộng đất khắp nơi, Mao Thái Hoa nhận đất đai ở huyện Tương Hương, Hồ Nam và dòng họ Mao di chuyển về đây, sau đó chính thức lập nghiệp ở Thiều Sơn Tương Đàm. Đời thứ 18 sau Mao Thái Hoa là Mao Ân Trước - ông nội của Mao Trạch Đông, chỉ sinh được một người con trai, chính là thân phụ của Mao - tên gọi Mao Di Xương. Tưởng Giới Thạch xuất thân tại một hiệu bán muối, lớn lên là quân nhân, khí chất ít nhiều mang màu sắc thương gia, còn Mao Trạch Đông tổ tiên nông dân, bản thân ông tuy thuộc làu văn, sử, là thi nhân nhưng có sắc thái nhà nông. Mao Trạch Đông mở trường học ban đêm cho dân cày, Dương Khai Tuệ vợ Mao cũng làm giáo viên ở đó, và đêm đêm thầy trò ê a những bài khai trí “Trường Giang dài, Hoàng Hà vàng, phát nguyên từ núi Côn Lôn, đều chảy ra Thái Bình Dương”. Thầy Mao và cô Dương không dạy họ học “Tam tự kinh”, “Bách gia tính” mà chủ yếu là “Tân học”, ví như dạy đến chữ “dương” ông ghép thành các từ “dương du” (dầu mỏ), “dương nhân” (người phương Tây), rồi bắt sang “cường quyền” (ngoại bang tàn bạo) và cuối cùng là “đả đảo” (đánh đổ cường quyền) v.v... Còn cô Dương lại dạy hát: “Hạt kim hoa, nở hồng hoa, nở khắp nhà người nghèo, thế giới thật là đẹp. Hôm nay trông, ngày mai chờ, chờ ông trời nở vầng dương, vầng dương toả bốn phương, ai ai cũng vui vẻ”. Mao Trạch Đông về quê ở ẩn, gõ đầu trẻ nhưng chứng suy nhược thần kinh vẫn không thuyên giảm. Tại Thiều Sơn, ông lập ra “Tuyết Sỉ hội” làm kinh động thổ hào ác bá một vùng, và đến tai Triệu Hằng Thích. Dân Hồ Nam gọi Triệu là Nam Bá Thiên, khi Tôn Trung Sơn trúng cử Tổng thống, y lấy danh nghĩa toàn thể tướng lĩnh Tương quân lên tiếng phản đối và do đó lần này không thể tha thứ cho Mao Trạch Đông mà theo y là thuộc hạ của Tôn Trung Sơn. Tình thế quẫn bách, Mao phải xa vợ con, xa quê hương bản quán ra đi, đi về đâu, thôi chỉ còn Quảng Châu - trung tâm của cách mạng. Mao vừa ra đi thì quân của Triệu ập tới, Dương Khai Tuệ phải bồng con lánh nạn chờ chồng, hơn hai tháng trôi qua Mao Trạch Đông vẫn chưa về, bà đành quay lại Trường Sa tá túc với cha mẹ đẻ. KẺ SÚNG NGƯỜI BÚT, MAO - TƯỞNG CÙNG CHUNG SỰ NGHIỆP Ở QUẢNG CHÂU Lần thứ ba đến Quảng Châu, sau Tam đại của Trung Cộng, Nhất toàn của Quốc dân đảng và nay vội vội vàng vàng. Bấy giờ đã là tháng 10 năm 1925, Quảng Châu buồn, lặng lẽ trước chân dung Tôn Trung Sơn phủ lụa đen và hai bên treo câu liễn “Cách mạng thượng vinh thành công. Đồng chí nhưng tu nỗ lực” (cách mạng vẫn chưa thành công, đồng chí còn phải nỗ lực). 9 giờ 25 ngày 12 tháng 3 năm 1925, Tôn Trung Sơn tạ thế ở Bắc Kinh, lúc lâm chung tự thấy mình không qua nổi cơn bệnh hiểm nghèo, Tôn Trung Sơn bèn khẩu truyền di chúc, Uông Tinh Vệ ghi chép và ông xem lại rồi kí tên, đó là Bản di chúc Tổng thống nổi tiếng của Trung Quõc. Sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, Uông Tinh Vệ nghiễm nhiên trở thành người thừa kế. Tháng 7 năm 1925, Uông đảm nhận chức vụ chủ tịch chính phủ quốc dân kiêm chủ tịch quân uỷ, Hồ Hán Dân - Bộ trưởng ngoại giao, Liêu Trọng Khải - Bộ trưởng tài chánh, Hứa Sùng Trí - Bộ trưởng quốc phòng, và như vậy Uông, Hồ, Liêu, Hứa trở thành “Tứ cự đầu” của Quốc dân đảng lúc bấy giờ. Nhưng 9 giờ 50 phút ngày 20 tháng 8 năm 1925, Liêu bị ám hại. Liêu Trọng Khải là cột trụ của Tôn Trung Sơn, lãnh tụ phái tả của Quốc dân đảng, theo ý kiến của La Diệc Nông - uỷ viên ban chấp lâm thời Trung Cộng thành uỷ Quảng Châu thì “Liêu Trọng Khải là mãnh tướng trong phong trào cách mạng của Quốc dân đảng Trung Quốc, sau khi Tôn Trung Sơn tạ thế chỉ có Liêu là người kế tục được sự nghiệp của Tôn mà thôi, và trên thực tế đã trở thành thủ lĩnh quần chúng tiến hành cách mạng”. Viên đạn cùa thích khách đã biến “Tứ cự đầu” thành “Tam cự đầu”, một thích khách không may bị bắt đã khai là có quan hệ với Hồ Hán Dân. Hội nghị liên tịch đảng -chính - quân nhóm họp và quyết định thành lập ban đặc nhiệm xử lí vụ án Liêu Trọng Khải gồm Uông Tinh Vệ, Hứa Sùng Trí và Tưởng Giới Thạch được toàn quyền sử dụng chính phủ, quân đội và cảnh sát cho công việc. Hồ Hán Dân có liên quan bị gạt ra ngoài, cục diện “Tam cự đầu” giờ đây là Uông, Hứa, Tưởng. Qua điều tra thẩm xét, những người chủ mưu ám hại Liêu Trọng Khải trước đây là tay chân, thuộc hạ, tham mưu của Hồ Hán Dân và cả Hứa Sùng Trí nữa. Ngày 25 tháng 8, Tưởng Giới Thạch ra lệnh bắt Hồ Hán Dân. và đêm 19 tháng 9 cho lính bao vây bộ Tư lệnh của Hứa Sùng Trí, buộc y phải đi Thượng Hải “dưỡng bệnh”. Hứa vốn là Bộ trưởng quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Việt quân, chủ tịch chính phủ Quảng Đông, dưới trướng là binh hùng tướng mạnh, xưng bá một phương. Tục ngữ có câu “trai cò tranh nhau, ngư ông được lợi”, một phát súng nổ - Liêu chết, Hồ bị bắt, Hứa ra đi và “ngư ông” họ Tưởng nổi lên, thay thế cả ba, thâu tóm binh lính của bộ quốc phòng về tay mình, trở thành nhân vật có thực lực trong Quốc dân đảng. Qua trận sống mái vừa rồi, Tưởng Giới Thạch đã tỏ ra tinh ranh của kẻ buôn và sắt thép của người lính. Chính ngay lúc ấy, Mao Trạch Đông đến Quảng Châu với hai bàn tay không, chẳng có một binh một tốt, ngoại trừ cây bút mà thôi. So với Tưởng Giới Thạch, ông chỉ là kẻ thư sinh không quyền không thế. Tuy mất chức bên phía Trung Cộng, Mao Trạch Đông vẫn còn là uỷ viên dự khuyết ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng và do đó ông đã đến cư trú tại cơ quan trung ương của đảng này. Mao Trạch Đông có một cây viết, có sở trường về công tác tuyên truyền và thật trùng hợp, chân trưởng ban tuyên truyền của Quốc dân đảng đang còn khuyết chỗ và do đó Mao Trạch Đông nghiễm nhiên nhảy vào. Hội nghị trung ương lần thứ nhất khóa 1 của Quốc dân đảng dự kiến đưa Liêu Trọng Khải, Đới Quý Đào, Đàm Bình Sơn lên đảm nhận chức vụ uỷ viên thường vụ, trong đó Đới Quý Đào sẽ là trưởng ban tuyên truyền. Đới cũng là một cây viết, từng làm thư kí cơ yếu cho Tôn Trung Sơn, khi Tôn bệnh nặng, Đới thường túc trực bên cạnh Người. Tôn Trung Sơn nhớ lại những điều tai nghe mắt thấy cả đời mình và truyền khẩu cho Đới. Sau đó, Tôn qua đời và Đới Quý Đào đã đóng cửa từ khách trong hai tháng, liền một mạch viết xong các trước tác “Cơ sở triết học của chủ nghĩa Tôn Văn”, “Cách mạng Trung Quốc và Quốc dân đảng Trung Quốc”, nghiễm nhiên trở thành người kế thừa, người bảo vệ, người phát biểu “chính thống” học thuyết của Tôn Trung Sơn. Sách của Đới ra mắt bạn đọc, dư luận xôn xao, có người nhạo báng “Khổng Tử truyền cho Tôn Trung Sơn, Tôn Trung Sơn truyền lại cho Đới Quý Đào”, khiến tác giả dở khóc dở cười. Có một dạo Đới Quý Đào là nhân sĩ cánh tả, từng tham dự sáng lập Trung Cộng, soạn thảo cương lĩnh, nhưng ông không gia nhập hàng ngũ cộng sản vì đã hứa chỉ một lòng một dạ theo đảng của Tôn Văn. Sau này Đới chuyên sang cánh hữu và ngay tại Nhất toàn ông đã phản đối đướng lối liên Nga thân Cộng. Ngày 23 tháng 11 năm 1925, một nhóm chính khách khăn áo chỉnh tề tụ họp tại chùa Bích Vân Tây Sơn ngoại ô Bắc Kinh, tự xưng là đầu não của Quốc dân đảng, đối kháng với Quảng Châu, Đới Quý Đào cũng là một phần tử của phái Tây Sơn tự mình rồi bỏ cơ quan trung ương ở trung tâm cách mạng Ngũ Dương hành. Vì lẽ đó mà cái ghế trưởng ban tuyên truyền để trống và Mao Trạch Đông từ uỷ viên dự khuyết chễm chệ ngồi vào, vậy là tay súng tay bút, Mao - Tưởng không hẹn mà gặp đã cùng nhau gánh vác cho sự nghiệp chung ở Quảng Châu lúc bấy giờ. MAO - TƯỞNG CÙNG LÊN DIỄN ĐÀN NHỊ TOÀN QUỐC DÂN ĐẢNG “Ai là kẻ thù chung của ta? Ai là bạn bè của chúng ta? Đó là vấn đề quan trọng hàng đầu của cách mạng. Thành công của tất cả những cuộc đấu tranh cách mạng trước đây ở Trung Quốc chưa được là bao, chính là do không biết đoàn kết bạn bè chân chính để chống lại kẻ thù đích thực...”. Bài “Phân tích các giai cấp của xã hội Trung Quốc” này ngày nay xếp ngay ở tập đầu của Mao tuyển với ghi chú: phát biểu vào tháng 3 năm 1926. Sự thật không phải như vậy, vì nó đã được đăng trong số 4 bán nguyệt san “Cách mạng” ngày 1 tháng 12 năm 1925 do Bộ Tư lệnh số 2 quân cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc chủ trì. Lúc bấy giờ, Mao Trạch Đông quả là một cây bút cao thủ của Quốc dân đảng, giúp đại hội lần thứ nhất tỉnh đảng bộ Quảng Đông khởi thảo tuyên ngôn, chủ biên tờ “Chính trị tuần báo” của trung ương v.v... Thời gian ấy, Dương Khai Tuệ và hai con Ngạn Anh, Ngạn Thanh đã chuyển từ Trường Sa đến Quảng Châu cùng Mao Trạch Đông sống chung trong một tổ ấm. Trong khi Mao Trạch Đông bận rộn với tuyên ngôn, báo chí thì Tưởng Giới Thạch xuất thân chinh Đông, thảo phạt quân phiệt Trần Quýnh Minh. Tưởng Giới Thạch làm chỉ huy trưởng thảo Trần quân, còn chính uỷ lại là một đảng viên cộng sản mới 27 tuổi - Chu Ân Lai. Tháng 9 năm 1924, Chu Ân Lai từ Pháp trở về Quảng Châu đảm nhiệm trưởng ban tuyên truyền khu uỷ Trung Cộng ở Quảng Đông, cởi bỏ bộ com-lê, Chu mặc quân phục và đến giữ chức chủ nhiệm khoa chính trị của Trường quân sự Hoàng Phố, từ đó Chu là người cộng sự của Tưởng hiệu trưởng. Tưởng Giới Thạch khâm phục tài năng của Chu Ân Lai, nhưng im lặng mà than rằng: “Đáng tiếc! Con người có đôi mày rậm đen này lại là cộng sản”. Tưởng Giới Thạch cầm đầu ba vạn quân chinh Đông cũng là chủ trương của Quốc - Cộng hợp tác nên đã mời Chu Ân Lai làm chính uỷ. Ngày 1 tháng 10 năm 1925 xuất binh, thì ngày 14 đã có trận thắng đầu, công phá thành Huệ Châu - sào huyệt của Trần Quýnh Minh, đến cuối tháng 11 san bằng mọi lực lượng của y, quân lính nhanh chóng khải hoàn Ngũ Dương thành, Tưởng Giới Thạch bỗng nhiên càng nổi danh. Theo điều lệ Quốc dân đảng, mỗi năm triệu tập một lần đại hội đại biểu toàn quốc và do đó Nhị toàn cũng đã đến gần, vả lại phái Tây Sơn liên tục phá rối, Nhị toàn phải kịp họp nhanh chóng để giải quyết. Mao Trạch Đông là một trong năm uỷ viên ban thẩm tra tư cách đại biểu đại hội và chấp bút khởi thảo báo cáo “Giải thích sách lược cách mạng với toàn thể đảng viên Quốc dân đảng Trung Quốc trong và ngoài nước”. 8 giờ 30 sáng ngày 4 tháng 1 năm 1926, Nhị toàn của Quốc dân đảng Trung Quốc chính thức khai mạc, chủ tịch đoàn chủ tịch là Uông Tinh Vệ, trưởng đoàn thư kí là Ngô Ngọc Chương - đảng viên đảng Cộng sản, Mao Trạch Đông ngồi ở số ghế 15, số đại biểu cộng sản gồm 100 vị trong tổng số 256 người dự đại hội. Tưởng Giới Thạch không chỉ là đại biểu chính thức mà còn lên diễn đàn báo cáo về quân sự, oai phong như “anh hùng chinh Đông”, ông khẳng khái mà rằng: “Năm ngoái đã có thể thống nhất Quảng Đông, năm nay thống nhất cả Trung Quốc hẳn không khó khăn gì!”. Đại hội đứng dậy hoan hô nhiệt liệt, và nào ngờ cái gọi là “năm nay” của Tưởng sao mà lâu vậy! Mao Trạch Đông báo cáo chuyên đề tuyên truyền. Người đời sau bình luận, ai mà biết trước Nhị toàn 1926 là nơi gặp gỡ của Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch và Uông Tinh Vệ, ba con người đó sau này lại trở thành thủ lĩnh của ba thế lực. Trung Cộng, Quốc dân đảng và Nguỵ quyền cho Nhật, từng một thời kì như ba chân kiềng của lịch sử Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch lọt vào hàng ngũ uỷ viên trung ương chính thức, còn Mao Trạch Đông vẫn chân dự khuyết nhưng là quyền trưởng ban tuyên truyền. “NGÔI SAO CHÍNH TRỊ” TƯỞNG GIỚI THẠCH GẶP CẢNH ÉO LE Sau Nhị toàn chẳng bao lâu, ngày 1 tháng 2 năm 1926, Tưởng Giới Thạch được phong chức Tổng giám quân cách mạng Dân quốc, ông trở thành nhân vật quan trọng “dưới một người, trên vạn người” ở đất Quảng Châu này. Con người mà Tưởng Giới Thạch còn phải đứng dưới chính là Uông Tinh Vệ, một mình thâu tóm cả ba quyền lực: đảng, chính, quân - Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng, Chủ tịch Hội đồng chính phủ Dân quốc, Chủ tịch hội đồng quân sự. Uông Tinh Vệ lớn hơn Tưởng Giới Thạch bốn tuổi, đêm 11 tháng 3 năm 1910, Uông bị bắt vì can tội đặt mìn dưới cầu Ngân Định nhằm sát hại Nhiếp chính vương, lúc ấy Uông mới 27 tuổi, hiên ngang nhận án tử hình, may mà cách mạng Tân Hợi bùng nổ, Uông được cứu sống. Từ bấy, vị chí sĩ phản Thanh họ Uông như diều gặp gió, có danh vọng trong Quốc dân đảng, lại là người thông minh sáng láng, viết hay nói giỏi, tính tình tròn trịa, sớm được lòng Tôn Trung Sơn và rõ ràng đảm nhiệm trọng trách ghi lại di chúc của Tôn. Sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, bất kì hội nghị to nhỏ nào của Quốc dân đảng. Uông Tinh Vệ cũng yêu cầu mọi người đứng dậy cung kính đồng thanh đọc bản di chúc một lần, quả là người kế thừa xuất sắc của Tôn Trung Sơn. Cũng từ Nhị toàn, Uông Tinh Vệ luôn chủ trì các cuộc hội nghị... Quốc dân đảng với sự tham gia của Tưởng Giói Thạch và Mao Trạch Đông, họ xưng hô với nhau bằng đại từ “đồng chí”, tuy vậy vai trò của Mao vẫn chỉ là “dự khuyết” và “quyền” mà thôi. Ngày 16 tháng 2 năm 1926, Mao Trạch Đông cáo bệnh xin nghỉ hai tuần, công việc của ban tuyên truyền tạm bàn giao cho Thẩm Nhạn Băng thay thế. Kì thực thì Mao chẳng đau ốm gì, ông là người của Trung Cộng nên vì nhiệm vụ của bên cộng sản, ông bí mật đến vùng giáp ranh giữa Tương -Việt (Hồ Nam và Quảng Đông) là Thiều Quan để tổ chức và lãnh đạo phong trào nông dân ở đó. Trong thời gian Mao Trạch Đông “cáo bệnh”, Tưởng Giới Thạch cũng ít xuất đầu lộ diện, và ngày 19 tháng 2 năm 1926 ông đột nhiên xin phép Uông Tinh Vệ “đi Nga nghỉ dưỡng”. Đang là một ngôi sao chói sáng, lại tiến nhanh tiến thẳng, chỉ “dưới một người”, cớ sao Tưởng Giới Thạch lại muốn rời xa Quảng Châu đi Nga làm gì? Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông khác nhau ở chỗ, người ưa viết nhật kí để giãi bày tâm sự, kẻ chỉ ghi qua loa đôi dòng cảm hứng nhân du lãm đó đây, không hề liên quan đến chính trị, vì vậy nên chúng ta hiểu được đôi điều éo le, trắc ẩn mà Tưởng Giới Thạch đang trăn trở qua nhật kí của ông. “Ta quyết định sang Nga nghỉ dưỡng, nhân đó nghiên cứu lí luận chính trị cách mạng. Gần đây hoàn cảnh xấu đi rõ rệt, nhiều người hoài nghi, tích thù tích oán, tư tưởng không nhất trí, chí hướng khó xác định, ưa nhàn hạ v.v... Thôi đành li Việt viễn du, đi chơi xa khỏi Quảng Đông một chuyến”. Quả đúng như vậy, trong nội bộ Quốc dân đảng “rễ” của Tưởng chưa sâu, “thân” lại còn non, đành một nhẽ như vậy nhưng điều làm ông bức xúc nhất chính là Trung Cộng. Tưởng Giới Thạch sở dĩ xây dựng trường quân sự Hoàng Phố trở thành “trung tâm của đảng ta, của quân đội ta” là nhờ lực lượng Trung Cộng, Tưởng Giới Thạch chinh Đông, thắng lợi, công lao lớn nhất cũng do Trung Cộng đóng góp. Đầu năm 1926, đại biểu của đảng bên cạnh chỉ huy trưởng ba sư đoàn thuộc sư đoàn 1 dưới quyền của Tưởng Giới Thạch thì hai người là cộng sản. Tưởng lo ngại thanh thế của Trung Cộng ngày một phát huy và người bên họ ngày một luồn sâu. Đã có lần ông yêu cầu Chu Ân Lai công bố danh sách đảng viên cộng sản trong Trường quân sự Hoàng Phố và quân đoàn 1 nhưng đã bị Chu cự tuyệt! Ngoài ra, giữa Tưởng và cố vấn quân sự của Liên Xô phái sang là Quý Sơn Gia (tên Trung Quốc) đã nảy sinh mâu thuẫn. Tưởng yêu cầu Bắc phạt, Quý cho rằng chưa đến thời cơ, Uông Tinh Vệ ủng hộ ý kiến cố vấn và do đó nghị quyết của Nhị toàn không thể đả động đến vấn đề này, Tưởng tức giận đã bỏ luôn cả lễ bế mạc đại hội. Mâu thuẫn gay gắt đến mức “đồng chí Liên Xô ganh tị ta, nghi ngờ ta, làm nhục ta, ta sẽ có cách...”, Tưởng Giới Thạch đề xuất từ chức Tổng giám, uỷ viên hội đồng quân sự, Tư lệnh Quảng Châu rồi xin đi nghỉ dưỡng ở Nga. Nói như vậy nhưng Tưởng cũng hiểu rằng, tình hình đã khác xưa, không như hồi Tôn Trung Sơn còn sống, hễ có điều gì bất mãn là bỏ về Khê Khẩu và Tôn lại năm điện bảy điện “thỉnh Tưởng hồi kinh”, nhưng nay, nếu quả là đi Nga nghỉ dưỡng thật thì quân quyền sẽ nhanh chóng rơi vào tay Uông Tinh Vệ! Tiến thoái lưỡng nan, Tưởng Giới Thạch buồn rầu ghi lại đôi dòng nhật kí “người ta nghi ta, nhạo ta, ganh ta, chửi ta, hại ta...” và đâu đó đã xuất hiện truyền đơn vận động chống Tưởng. TƯỞNG GIỚI THẠCH CŨNG KHOÁC ÁO ĐỎ NHƯ AI Tưởng Giới Thạch không phải hạng người yếm thế, ông có cái tinh ranh của một tay buôn, biết đâu là cơ hội để chăm chú đầu tư trục lợi. Những năm ấy ai muốn đứng chân ở Quảng Châu thì không thể không hô hào tả khuynh, vì Trung Cộng đã trở thành cốt cán của quân cách mạng Quốc dân đảng, đã trở thành rường cột của Trường quân sự Hoàng Phố, chỉ nói lời “tả”, hát bài “tả” thì mới được cố vấn Liên Xô, Trung Cộng phái tả của Quốc dân đảng ủng hộ, mới ngồi yên vị. Thời đó Uông Tinh Vệ như hòn bi sắt lắc trong cái bát đồng kêu “tang, tang” rõ vui tai. Uông đã có một “danh ngôn” lưu truyền vạn thuở - “Cách mạng quốc dân Trung Quốc đã đi đến một thời kì vô cùng quyết liệt, ai là người cách mạng hãy quay sang trái, ai không phải cách mạng hãy cút ngay!”. Đến như Hồ Hán Dân, vì liên quan đến vụ án Liêu Trọng Khải, nên ngày 11 tháng 9 năm 1925 với danh nghĩa “khảo sát” không thể không rời khỏi Quảng Đông sang Liên Xô “lánh nạn”, Hồ tham dự hội nghị mở rộng lần thứ sáu ban chấp hành Quốc tế Cộng sản và trong lời chúc mừng của mình, Hồ phát biểu thật “cảm động”: “Khẩu hiệu của Quốc dân đảng là vì quần chúng nhân dân, cũng có nghĩa chính quyền do công nông nắm giữ, khẩu hiệu của chúng tôi nhất trí như Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Cộng sản là đại bản doanh của cách mạng, là Bộ Tổng Tư lệnh của cách mạng”. Còn Tưởng Giới Thạch? Ông hiểu, không khoác áo đỏ thì khó lòng được phái tả ủng hộ, mà Quảng Châu chính là thành trì của họ. Tưởng từng nói “Đảng Cộng sản Nga trọng kỉ luật, chặt tổ chức, đảng viên phục tùng mệnh lệnh của đảng, tuân thủ kỉ cương, không tự do vị kỉ, vì sao họ dám hi sinh riêng tư? Vì họ hiểu rõ chủ nghĩa của mình, mưu cầu quyền lợi cho đồng loại, và đã thành công như vậy. Nước Nga thế, còn ta? Thật đáng hổ thẹn và vô cùng đen đủi, muốn thực hiện chủ nghĩa tam dân, không thể không mô phỏng họ!”. Tưởng cũng không quên hết lời ca tụng Trung Cộng: “Ngoài Trung Cộng ra, thử hỏi có đảng phái nào, đoàn thể nào ủng hộ chúng ta, đoàn kết hợp tác với chúng ta, khẩu hiệu “chống Cộng”“ là của đế quốc, nếu chúng ta hô hào “chống Cộng” là mắc mưu đế quốc” và đâu đâu cũng cổ xuý cho chủ trương Quốc - Cộng hợp tác: “Tổng lý đã dung nạp cộng sản vào đảng của chúng ta, Người muốn đoàn kết các phần tử cách mạng, chống lại đường lối này là có tội với Tôn Trung Sơn, có tội với cách mạng, vì vậy, giờ này trong đảng chỉ nên phân rạch đâu là tả, đâu là hữu, chứ không nên chia rẽ Cộng sản hay Quốc dân”. Cũng như Trung Cộng, Tưởng Giới Thạch kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, ông nói: “Chủ nghĩa đế quốc không bị lật đổ thì Trung Quốc bất vong, mà muốn Trung Quốc bất vong, chỉ còn có cách chống đế quốc và đây là trận sống mái cuối cùng!”... Bằng những lời nói như vậy, Tưởng Giới Thạch nhanh chóng trở thành một diễn viên đỏ và lúc Thiệu Lực Tử sang thăm Liên Xô, Tưởng Giới Thạch đã nhờ chuyển cho Stalin một phong tư: “Mong muốn Quốc tế Cộng sản đệ tam trực tiếp lãnh đạo Quốc dân đảng Trung Quốc, không cần gián tiếp qua Trung Cộng”. Stalin không thể vô nguyên tắc chấp nhận lời đề nghị “nhiệt tình” đó nhưng tại hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản (17.2.1926 đến 15.3.1926) đã quyết định kết nạp Quốc dân đảng Trung Quốc làm “thành viên cảm tình” và Tưởng Giới Thạch được bầu là uỷ viên danh dự đoàn chủ tịch. Tất cả chỉ là lời nói, vì từ bên trong, Tưởng Giới Thạch đã ra tay phòng thủ Quốc tế Cộng sản và Trung Cộng, ông ghi nhật kí một cách kiên kiên quyết rằng, “quyền lực không thể giao cho ai khác, ngoài ta!”. Tưởng Giới Thạch trở nên dị thường, nói năng cẩn trọng để được lòng cố vấn và Trung Cộng, nhưng hành động thì đầy ắp cơ mưu, như muốn chuẩn bị cho cuộc cờ thế kỉ sắp “hạ tịch” nay mai. “SỰ KIỆN CHIẾN HẠM TRUNG SƠN” BÙNG NỔ Là con nhà nông, Mao Trạch Đông rất hiểu nông dân, quan tâm nông dân, sau khi đảm nhận chức vụ quyền trưởng ban tuyên truyền Quốc dân đảng, Mao kiêm thêm nhiệm vụ uỷ viên uỷ ban vận động nông dân của đảng này. Dân Quốc nhật báo ở Quảng Châu số ra ngày 17 tháng 3 năm 1926 đưa tin, trung tâm huấn luyện nông vận đã khai giảng khoá 6 tại cung Phiêu Ngu và do Mao Trạch Đông chủ trì. Trong những ngày đó, Tưởng Giới Thạch vẫn trăn trở suy tính, và nhật kí ngày 17 tháng 3 của Tưởng biểu lộ một sự khủng hoảng cao độ về tinh thần: “Ta khác nào như Phật tổ cùng đi xuống địa ngục để cứu vớt chúng sinh?”. Hôm ấy Chu Ân Lai từ Sán Đầu trở về Quảng Châu, với con mắt tinh đời, Chu Ân Lai phát hiện thần sắc của Tưởng Giới Thạch có phần khác lạ, vả lại Tưởng bắt đầu tiếp xúc với phái hữu khá nhiều. Hai người làm việc bên nhau đã lâu, nên Chu hiểu Tưởng rất cặn kẽ, ông nhanh chóng báo cáo Trương Thái Lôi về hiện tượng kì quặc của Tưởng Giới Thạch, lúc bấy giờ Trương là Trưởng ban Tuyên truyền khu uỷ Quảng Đông của Trung Cộng kiêm thông dịch cho cố vấn Liên Xô, Chu yêu cầu Trương cũng thông báo cho Quý Sơn Gia - trưởng đoàn cố vấn - biết tình hình. Và lịch sử đã chứng minh năng lực quan sát của Chu Ân Lai quả là sắc sảo, phán đoán chính xác và những tín hiệu dự báo của ông vô cùng quan trọng. Ngày hôm sau, 18 tháng 3 tại lầu Văn Đức, Lý Chi Long nhận được một công hàm khẩn cấp do người của trường quân sự Hoàng Phố mang tới. Lý Chi Long người Miến Dương, tỉnh Hồ Bắc, mới 29 tuổi, trung tướng, quyền cục trưởng Cục hải quân kiêm tham mưu trưởng và hạm trưởng chiến hạm Trung Sơn. 19 tuổi Lý theo học sĩ quan hải quân ở Yên Đài, gia nhập Trung Cộng, rồi làm thư kí và thông dịch cho cố vấn Liên Xô. Sau đó không lâu được điều về Trường quân sự Hoàng Phố tham dự khoá 1, học xong ở lại trường làm việc tại ban chính trị và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Chu Ân Lai. Bắt đầu đảm nhiệm công việc của Cục hải quân từ năm 1925, lúc bấy giờ Lý mang quân hàm thiếu tướng. Lý Chi Long đọc công hàm ghi rõ: Hiệu trưởng mệnh lệnh Cục hải quân cấp tốc phái hai chiến hạm tới Hoàng Phố, kí tên: Văn phòng đại diện của trường tại Quảng Châu. Y lệnh, hai chiến hạm Trung Sơn và Bảo Bích đồng thời nhổ neo, nổ máy hướng về phía đảo Hoàng Phố Trường Châu thẳng tiến. Chiến hạm Trung Sơn chính là chiến hạm Vinh Phong, khi Trần Quýnh Minh chính biến, trên chiến hạm này Tưởng Giới Thạch đã xả thân yểm trợ cho Tôn Trung Sơn thoát nạn, sau khi Tôn qua đời, Vĩnh Phong cải danh thành Trung Sơn để kỉ niệm ghi nhớ ông. Lúc 6 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1926, Bảo Bích và Trung Sơn lần lượt tiến vào thuỷ phận Hoàng Phố. Hai chiến hạm này tuân lệnh hiệu trưởng truyền qua điện thoại của trưởng phòng giáo vụ và công hàm do văn phòng đại diện chuyển tới đã tề tựu tại đây chuẩn bị báo cáo Tưởng Giới Thạch, nhưng ông không ở trường, lại đi hỏi Đặng Diễn Đạt - trưởng phòng giáo vụ - Đặng cũng không hay biết về quân lệnh này! Và thế là mọi việc trở nên rắc rối phức tạp. Mãi sau truy tìm mới hay là do thông tin sai lạc, một thuyền buôn Thượng Hải mắc nạn trên thượng du Hoàng Phố yêu cầu cứu giúp, lúc ấy là 4 giờ chiều ngày 18, chủ nhiệm văn phòng hiệu trưởng Khổng Khánh Tuệ lệnh cho trưởng phòng quản lí Triệu Miên Văn phái một chiến hạm ứng viện. Triệu giao nhiệm vụ cho nhân viên là Lê Thời Ung thực hiện, Lê nhận thấy xung quanh Hoàng Phố không có chiến hạm nào neo đậu, bèn điện thoại về Quảng Châu nhờ văn phòng đại diện của trường xử lí giúp, Vương Học Thần nhận điện và báo cáo lại cho thủ trưởng là Âu Tích Chung. Không ngờ một chiến hạm nghe thành hai, không rõ ai chỉ thị, Âu bèn phán đoán chắc là trưởng phòng giáo vụ ra lệnh, và nhận thấy việc này chỉ có Lý Chi Long bên Cục hải quân mới đủ lực lượng giải quyết, bèn thảo công hàm như trên. Để cho thêm phần quan trọng, Âu Tích Chung bạo gan ghi vào mấy chữ “hiệu trưởng mệnh lệnh”, và quả nhiên rất hiệu nghiệm, hai chiến hạm đã đến Hoàng Phố đúng giờ. Đang khi bối rối chưa biết xử trí ra sao thì phái đoàn của công hội Liên Xô muốn tham quan chiến hạm Trung Sơn, Lý Chi Long điện báo Tưởng Giới Thạch, lúc này Tưởng mới hay là chiến hạm Trung Sơn được điều về Hoàng Phố. Đến 6 giờ 30 phút chiều 19 tháng 3, chiến hạm Trung Sơn về Quảng Châu và cả ngày hôm ấy Tưởng Giới Thạch bàng hoàng không yên với bao nhiêu nghi ngờ lo lắng. Tưởng từng biết Lý Chi Long là cộng sản và liên lạc rất chặt với Chu Ân Lai nên lâu nay ông luôn luôn cảnh giác. Khi nhận điện thoại của Lý, phản ứng đầu tiên của Tưởng là Trung Cộng bí mật điều hai chiến hạm đến Hoàng Phố, chắc muốn hại ta? Lại trước đó, ba lần Uông Tinh Vệ điện hỏi Tưởng có đi Hoàng Phố hay không, liên kết các sự việc, Tưởng hoài nghi: hay là cố vấn Liên Xô, Trung Cộng và Uông Tinh Vệ đang âm mưu khử ta? Tưởng Giới Thạch quyết định đi Sán Đầu nghỉ dưỡng, nhưng giữa đường quay lại Quảng Châu và đúng 4 giờ ngày 20 tháng 3 thì hạ lệnh “trấn áp âm mưu chiến hạm Trung Sơn”. Ngày 19, Chu Ân Lai báo cho Trương Thái Lôi: “Hình như phái hữu chuẩn bị hành động, tình thế hiện nay giống như hồi mưu sát Liêu Trọng Khải, khắp nơi đều tán phát truyền đơn và tin đồn”. Sáng 19, Mao Trạch Đông dự hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng và cũng “dự cảm là sẽ sinh chuyện”, Mao hỏi Lý về việc hai chiến hạm được điều đến Hoàng Phố, Lý trả lời: “Đây là mệnh lệnh của hiệu trưởng”. Đêm 19, cả quân đoàn 1 “gối súng chờ sáng”, Mao Trạch Đông gặp Trần Diên Niên, con trai của Trần Độc Tú, bí thư khu uỷ Quảng Đông của Trung Cộng, ông vừa ở Thượng Hải về, sau khi nghe Mao báo cáo tình hình, Trần phán: “Mọi sự vụ đều có nguyên nhân, phải điều tra thực hư, đề cao cảnh giác, và bình tĩnh quan sát”. Quảng Châu, đêm về gió thổi mạnh, song phương tứ phái đều “gối súng chờ sáng”, đợi một ngày mai với bao sự bùng nổ. TƯỞNG, MAO CÙNG ĐI NƯỚC CỜ ĐẦU TIÊN Ngày 20 tháng 3 năm 1926, đằng đông còn chưa ửng hồng thì toàn bộ những người lính đêm qua “gối súng chờ sáng” theo lệnh Tưởng Giới Thạch đã bắt đầu hành động. Còn ông, một đêm thức trắng, trăn trở trước nước cờ đầu tiên này mà về sau lịch sử mãi không quên - “Sự kiện 3.20”, “Sự kiện chiến hạm Trung Sơn”, “Sự kiện Quảng Châu”. Cách Đông Sơn, Quảng Châu - tư dinh của Tưởng không xa, Mao Trạch Đông và Thẩm Nhạn Băng cũng dõi theo binh tình ngoài đường phố, và lầu trên Dương Khai Tuệ đang say nồng trong giấc ngủ với con nhỏ Ngạn Anh, Ngạn Thanh... Theo mệnh lệnh của “hiệu trưởng”, lính tráng chia làm nhiều toán và trong chốc lát đã hoàn thành nhiệm vụ của mình: Chiếm chiến hạm Trung Sơn, thu toàn bộ vũ khí. Bao vây lầu Văn Đức, nơi cư trú của Lý Chi Long, viên trung tướng trẻ vừa mới tân hôn bị cắt ngang tại giường cưới. Cục hải quan bị chiếm lĩnh. Toàn bộ vũ khí của hội đồng bãi công bến cảng bị tịch thu. Giam lỏng Chu Ân Lai. “Bảo vệ” tư dinh của Uông Tinh Vệ. Giới nghiêm trong toàn thành phố Quảng Châu. Và tiếp được mật lệnh của Tưởng Giới Thạch, Hà Ứng Khâm đã bắt toàn bộ đảng viên Trung Cộng nằm trong quân ngũ của quân đoàn 1 đồn trú tại Triều Sán. Tất cả diễn ra theo đúng kịch bản và sự đạo diễn của Tưởng Giới Thạch. Một hành vi tắc trách của Ân Tích Chung - nghe sai điện, cường điệu hoá công hàm, mạo danh “theo lệnh của hiệu trưởng” v.v... đã dẫn đến cơ sự như thế này. Có lẽ đó chỉ là cái cớ rất ngẫu nhiên làm bùng nổ cả một mưu đồ xưa nay từng nung nấu của Tưởng Giới Thạch, bao oán hờn với Trung Cộng, với đoàn cố vấn Nga Xô và cả Uông Tinh Vệ nữa nay mới có dịp mượn sự kiện chiến hạm Trung Sơn để ra tay báo oán, Tưởng còn tung tin “Chính biến vũ trang do Trung Cộng bí mật phát động”. Lúc bấy giờ, Mao Trạch Đông không phải là người trong ban lãnh đạo Trung Cộng, nhưng ông vẫn tìm cách đi gặp Trần Diên Niên - bí thư khu uỷ cộng sản ở Quảng Đông (con trai Trần Độc Tú). Với “quan hàm của Quốc dân đảng cấp - Trung ương uỷ viên và quyền Trưởng ban Tuyên truyền, Mao Trạch Đông vượt qua mọi hàng rào giới nghiêm, cùng Thẩm Nhạn Băng lần tới trụ sở của đoàn cố vấn, Trần đang họp ở đó. Mao Trạch Đông dặn Thẩm Nhạn Băng chờ ông tại phòng thường trực và sau đây là trích đoạn hồi kí do Thẩm - một nhà văn lớn của Trung Quốc, từng cộng tác với Mao Trạch Đông trong hàng ngũ Quốc dân đảng ghi: “Tôi chờ Mao Trạch Đông ở phòng thường trực và nghe rất rõ tiếng nói phía bên trong, rất nhiều giọng, tranh cãi nhau, kể cả Mao. Một lúc sau Mao bước ra, nét mặt vô cùng bực tức, chúng tôi lặng lẽ trở về cư xá, đợi Mao bình tĩnh, tôi mới hỏi: - Chuyện gì vậy? - Trần Diên Niên cho biết, Tưởng Giới Thạch không chỉ bắt mỗi Lý Chi Long mà gom hết đảng viên Trung Cộng của quân đoàn 1 giam vào một căn nhà và tuyên bố: quân đoàn 1 không cần cộng sản. Quý Sơn Gia còn nói thêm: Tưởng Giới Thạch muốn đuổi cả đoàn cố vấn quân sự Liên Xô về nước. - Làm thế nào bây giờ? Tôi hỏi. - Mấy hôm nay tôi đã nghĩ cách, - Mao Trạch Đông giải thích, - chúng ta phải cứng rắn với Tưởng Giới Thạch, ông ta vốn là bộ hạ của Trần Kỳ Mỹ, có sang Nhật Bản học chút ít quân sự, nhưng sau đó đầu cơ kinh doanh ở Thượng Hải, cùng nhóm với Đới Quý Đào. Tưởng Giới Thạch là hạng người “mềm nắn rắn buông”, chúng ta càng yếu ớt thì ông ta càng lấn tới, ngược lại ta cứng rắn, ông co vòi. Tôi đã đề nghị Trần Diên Niên và Quý Sơn Gia hãy động viên toàn thể các uỷ viên trung ương Quốc dân đảng bí mật tụ họp tại Triệu Khánh - nơi đóng quân của quân đoàn độc lập Diệp Đình, mở hội nghị thảo phạt Tưởng Giới Thạch, chỉ trích ông ta vi phạm điều lệ đảng, luật pháp quốc gia, tước binh quyền, khai trừ đảng tịch. Lý Tôn Nhật - thủ lĩnh quân sự Quảng Đông vốn có mâu thuẫn với Tưởng Giới Thạch, lại thêm cả Lý Tế Thâm, hai lực lượng này rất mạnh, chúng ta có thể lợi dụng được. Trận thế như vậy thì Tưởng Giới Thạch làm sao địch nổi...”. Bình sinh, đây là lần đầu tiên Mao Trạch Đông đối kháng và giao tranh với Tưởng Giới Thạch, nhưng ông ta chỉ có thể thực hiện được nếu Trần Diên Niên và Quý Sơn Gia đồng ý. Ban đầu Trần ra vẻ ưng thuận, nhưng khi nghe Quý phản đối, ông cũng hùa theo, và Mao Trạch Đông phải giải thích, tranh luận, cãi cọ, cuối cùng thì Mao thua. Sự kiện 3.20 đã trình diễn đúng kế hoạch, bắn một mũi tên trúng được ba đích; bắt Lý Chi Long, đánh vào Trung Cộng. Lý chịu hai tầng oan khuất, nội bộ Trung Cộng nghi ngờ Lý bị lợi dụng, tháng 6 năm 1926 được phóng thích, theo quân Bắc phạt, ngày 6 tháng 2 năm 1928 bị bắt tại Quảng Châu và hôm sau thì người ta hành quyết ông ở Hồng Hoa Cương. Đích thứ hai, đánh động Uông Tinh Vệ, y viện có “tâm trạng không yên, đau đầu đau mắt, khó lòng làm việc” để “tạm thời nghỉ dưỡng”, ngày 25 tháng 3 năm đó tự nhiên “mất tích” và một tay Tưởng Giới Thạch nắm cả ba quyền lực: đảng, chính, quân. Đích thứ ba, bức tường toàn cố vấn quân sự Nga Xô là Quý Sơn Gia rời Quảng Châu về nước và phía Nga cũng phải chấp thuận. Tưởng Giới Thạch vừa ra quân đã thắng lợi, nhưng vì chưa đủ lông cánh, thế lực Trung Cộng còn mạnh, lực lượng Quốc dân đảng chưa phải “thiên vô nhị nhật, dân vô nhị chủ”, chưa phải mọi người đều nghe Tưởng tất cả... nên với đầu óc của một thương gia, Tưởng Giới Thạch ra vẻ co lại chờ thời. Ông tuyên bố: “Sự kiện chiến hạm Trung Sơn ngày 18 tháng 3 hoàn toàn không liên can gì đến Trung Cộng, Trung Cộng hoàn toàn không có âm mưu gì trong vụ này”. Tưởng bức Quý Sơn Gia về nước nhưng lại mời trưởng đoàn cũ là Gia Luân (tên Trung Quốc) sang làm cố vấn, và như vậy về bề ngoài Tưởng vẫn “liên Nga, thân Cộng”. Đúng như Mao Trạch Đông nhận định, Tưởng Giới Thạch “mềm nắn rắn buông”. Ngày 3 tháng 4 năm 1926 trên tờ “Hướng đạo” - cơ quan ngôn luận của Trung Cộng, Trần Độc Tú tán dương: “Tưởng Giới Thạch là một trụ đá vững vàng trong phong trào cách mạng dân tộc của Trung Quốc”, sau đó Trần còn gởi thư cho Tưởng, thư có đoạn: “Kể từ ngày xây dựng Trường quân sự Hoàng Phố đến nay, 20 tháng 3, chưa hề thấy Tưởng có một hành vi phản cách mạng nào... Giờ đây ai muốn đánh đổ Tưởng? Tôi nghĩ chỉ có bọn phản cách mạng mà thôi. Vì vậy, thưa Tưởng tiên sinh, nếu một đảng viên Trung Cộng nào đó chống đối tiên sinh, xin hãy đừng khách sáo!”. Trần Độc Tú nhún đến thế là cùng và tội gì mà Tưởng không tiếp tục lấn tới. ... ĐƯỢC ĐÀ, TƯỞNG CÀNG LẤN TỚI Trong bối cảnh Quảng Châu vừa qua chính biến 20 tháng 3 như vậy thì người ta thấy một nhân vật mới, tuổi ngoại ngũ tuần, gầy gò xương xẩu, chân cẳng khập khiễng, từ Thượng Hải đến Ngũ Dương thành, được Tưởng Giới Thạch trọng vọng như “quân sư”. Ông họ Trương, người Ngô Hưng, Triết Giang, đồng hương với Tưởng. Năm 20 tuổi, Trương Tĩnh Giang mắc bệnh đau xương, đi lại khó khăn, nhưng ông ta có một cái đầu tinh thông buôn bán, mở công ty vận tải ở Paris, thu được lợi nhuận kếch sù. Năm 1905 trên chuyến tàu biển từ Trung Quốc sang pháp, Trương Tĩnh Giang đã gặp Tôn Trung Sơn, ông ngưỡng mộ Tôn và tự mình bái vọng trước, hứa sẽ tài trợ cho những hoạt động cách mạng của Tôn. Trương Tĩnh Giang dặn Tôn Trung Sơn ám hiệu liên lạc, tuần tự theo ABCDE, nếu điện báo chữ A, Trương sẽ tài trợ một vạn, chữ B hai vạn, chữ C ba vạn, chữ D bốn vạn, chữ E năm vạn. Tôn Trung Sơn bán tín bán nghi. Hai năm sau, lúc ở Tokyo ngân quỹ của Đồng Minh hội cạn kiệt, không còn cách nào khác, Tôn bèn nhớ lại Trương Tĩnh Giang trọc phú và kì quặc đã gặp nhau trên biển, liền điện báo chữ C, quả nhiên ngày thứ hai thì nhận được ba vạn quan tiền Pháp. Ông vô cùng ngạc nhiên, ít lâu sau Trương xin gia nhập Đồng minh hội và trở thành bạn chiến đấu của Tôn, từng giữ chức trưởng ban tài chính Đảng cách mạng Trung Hoa. Trương Tĩnh Giang cũng có tình nghĩa đặc biệt với Tưởng. Năm 1920 nhờ Trương mách bảo, Tưởng đã phát tài bằng bốn cố phiếu, nhưng càng lao vào thị trường chứng khoán Tưởng càng thua lỗ, đổ nợ, phải nhờ Trương trả giúp, cuối cùng Trương khuyên Tưởng nên về Quảng Châu phò tá cho Tôn Trung Sơn. Khi Trần Quỳnh Minh bắn phá chiến hạm Vĩnh Phong, Tưởng Giới Thạch xả thân yểm trợ Tôn Trung Sơn, ông phải đưa hai con nhỏ của mình cho Trương Tĩnh Giang chăm sóc. Trương hay tin Tưởng Giới Thạch phát hoả sự kiện 3.20 ở Quảng Châu nên tức tốc từ Thượng Hải về đây để bày mưu tính kế, làm người “nhắc vở” cho Tưởng, đúng như Trương Quốc Đào đã hồi ức: “Ông không xuất đầu lộ diện, nhưng ai cũng phải công nhận đó là nhân vật quan trọng đứng đằng sau Tưởng”. Ngày 15 tháng 5 năm 1925, cả Quảng Châu trong tình trạng giới nghiêm, quân lính tuần tra chặt chẽ và hội nghị toàn thể lần thứ 2 khoá 2 Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng khai mạc, do Tưởng Giới Thạch chủ trì. Đây là một cột mốc quan trọng có tính lịch sử trong cuộc đời chính trị Tưởng Giới Thạch. Theo đề nghị của ông, Trương Tĩnh Giang thay thế Uông Tinh Vệ giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng, Đàm Diên Khải thay thế Uông Tinh Vệ giữ chức Chủ tịch Hội nghị chính trị trung ương Quốc dân đảng kiêm Chủ tịch chính phủ Quốc dân, và như vậy Tưởng đã chiến thắng đối thủ quan trọng nhất trong nội bộ, ấy là Uông Tinh Vệ, mặc dù ông không đứng ra làm chủ tịch đảng, nhưng chức vụ đó nằm trong tay Trương cũng có nghĩa là ông nắm luôn. Nhân đây xin có đôi lời về họ Uông, hiện giờ tung tích ở đâu. Sau sự kiện chiến hạm Trung Sơn, ngày 25 tháng 3, bỗng nhiên Uông Tinh Vệ “mất tích”, có người bảo ông đã qua Hương Cảng và đi Liên Xô, kì thực thì Uông vẫn bí mật ẩn cư tại Quảng Châu, dẫu cam chịu để quyền lực rơi vào tay Tưởng một cách dễ dàng như vậy, ông chờ thời cơ. Nhưng vì không nắm dược quân đội, đấu không nổi Tưởng, sau một tháng quan sát thấy không còn hi vọng gì, Uông Tinh Vệ mới đi Hương Cảng và cuối cùng sang Pháp. Lại nói về Hồ Hán Dân, nhân vật có liên quan đến vụ án Liêu Trọng Khải đã bị Tưởng Giới Thạch đuổi khỏi Quảng Châu, Hồ sang Liên Xô và diễn thuyết vô cùng khẳng khái, nghe tin sự kiện 3.20 và Uông Tinh Vệ “mất tích”, liền mò về Ngũ Dương thành, nhưng Tưởng không dùng con bài này và Hồ lại bị bỏ rơi. Sau khi Tôn Trung Sơn vừa tạ thế, Uông, Hồ được xem là những người kế vị xuất sắc, vị trí còn cao hơn Tưởng rất nhiều, thế mà giờ đây cả hai cùng trên một chuyến tàu lưu vong, tự dọn bớt chông gai để cho Tưởng Giới Thạch bước lên con đường lãnh tụ... Nhờ quân sư Trương Tĩnh Giang bày mưu tính kế, hội nghị 15 tháng 5 năm 1926 của Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng đã thông qua “Phương án chỉnh lí đảng vụ”. Phương án gồm ba điểm quy định: (1) Phàm đảng viên của đảng khác gia nhập vào đảng ta thì đảng đó phải giao cho Ban chấp hành trung ương đảng ta danh sách của họ để lưu trữ quản lí. (2) Phàm đảng viên của đảng khác gia nhập vào đảng ta thì không được giữ chức trưởng ban hoặc bí thư các cơ quan trung ương. (3) Mọi mệnh lệnh của đảng khác đối với đảng viên của họ gia nhập vào đảng ta đều phải thông qua hội nghị liên tịch cùng đảng ta rồi mới được truyền đạt. Đây là vũ khí pháp lí mà Tưởng Giới Thạch đã tự chế tạo để gạt Trung Cộng, ra khỏi nội bộ Quốc dân đảng, vì thuật ngữ “đảng khác” trong phương án này hẳn muốn chỉ cộng sản mà thôi. Ròng rã một tuần thảo luận tranh cãi, cuối cùng hội nghị dùng phương pháp kí tên để thông qua, Mao Trạch Đông (uỷ viên dự khuyết) kiên quyết phản đối, Trương Quốc Đào tuân theo ý kiến của Trần Độc Tú đã đồng ý và kết quả: theo phương pháp chỉnh lí đảng vụ của Quốc dân đảng, Mao Trạch Đông từ chức quyền trưởng ban tuyên truyền, Lâm Tổ Hàn từ chức uỷ viên tài chính và thư kí ban thường vụ, Đàm Bình Sơn từ chức thư kí ban thường vụ... vì họ đều là đảng viên cộng sản. Cũng có thể nói, những năm tháng đầu tiên khi mà Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông tay súng tay bút cùng phụng sự cho một sự nghiệp chung đã kết thúc, họ “chia tay”, và mãi 19 năm sau mới gặp lại tại cuộc đàm phán Trùng Khánh. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một bản nhạc, là những phút thăm dò lực lượng đối phương trước khi xông vào cuộc, song ít nhiều đã thể hiện khí chất của hai người - một lái buôn và một nông dân, một tay súng và một cây bút. II MẬT SỨ NỘI TRƯỚNG Sau hai nước cờ “chiến hạm Trung Sơn” nhằm thăm dò hoả lực đối phương và “chỉnh lí đảng vụ” với mục đích tách cộng sản ra khỏi nội bộ Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch tiếp tục phát động “chính biến 4.12” để triệt để thanh toán sự dính líu của Trung Cộng mà lúc bấy giờ thế giới đã phải cấ báo “ngọn lửa đấu tranh giữa KMT và CP ở Trung Quốc đã bùng cháy” (KTM - chữ viết tắt tiếng Anh chỉ Quốc dân đảng, CP - chỉ Đảng Cộng sản). Năm 1926, Tưởng thăng tiến như diều gặp gió, ngày 5 tháng 6: Tổng Tư lệnh, ngày 29 tháng 6: uỷ viên chính phủ, ngày 5 tháng 7: Trưởng ban quân sự, ngày 6 tháng 7: thay Trương Tĩnh Giang lên nắm chức Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng, ngày 9 tháng 7 tuyên thệ Bắc phạt, soái lĩnh tám quân đoàn với 10 vạn tinh binh lên đường tiêu diệt quân bắc phiệt Bắc Dương, nhanh chóng công phá thành trì Vũ Xương. Có thể nói ngày 9 tháng 7 năm 1926 như một lễ “đăng cơ” của Tưởng, trong tay nắm giữ ba quyền quân, chính đảng. Nhưng sự đòi quá dễ dàng đối với Tưởng Giới Thạch, “giặc ngoài” tạm xong, “thù trong” còn đó, thế trận Tưởng Giới Thạch - Uông Tinh Vệ - Hồ Hán Dân của nội bộ Quốc dân đảng luôn luôn diễn ra kịch bản “hai chọi một” rồi “hai chọi lẫn nhau” để dành vương vị. Đã lắm phen Tưởng Giới Thạch thất sủng, bị khai trừ đảng tịch, miễn nhiệm mọi chức vụ, phải tuyên bố từ chức đi Nhật hoặc về Khê Khẩu. Đã có lúc, hai chính phủ, hai trung ương cùng tồn tại, một bên là Tưởng và một bên là Uông. Và cuối cùng đành chấp nhận “thể chế Tưởng Uông” - Uông nắm chính quyền, Tưởng nắm quân đội, cả hai liên hiệp nắm đảng, còn Hồ Hán Dân được chia phần ở Tây Nam và Lưỡng Quảng (Quảng Tây và Quảng Đông). Còn Mao Trạch Đông, sau vụ “chỉnh lí đảng vụ” phải từ chức quyền trưởng ban tuyên truyền Quốc dân đảng, ông lưu lại Quảng Châu ít lâu cho công việc huấn luyện nông dân, được mệnh danh là “nông vận đại vương”“, nhưng cuối cùng tháng 11 năm 1926 cũng rời Ngũ Dương thành đi Vũ Hán rồi về bản quán cho ra đời tác phẩm trứ danh “Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam”, năm 1927 lãnh đạo khởi nghĩa vụ gặt mùa thu, rút được kết luận “họng súng đẻ ra chính quyền”, kéo lên Tỉnh Cương Sơn hội sư cùng Chu Đức, lập nên quân đội Chu - Mao, thực lực cho những nước cờ sau này với Tưởng, về phần Trung Cộng, một quá trình lựa chọn lãnh tụ đã diễn ra, lần lượt từ Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Hướng Trung Phát, Lý Tập Tam, Vương Minh đến Bác Cổ, mãi tới tháng 1 năm 1935, tại hội nghị Tuân Nghĩa, tay lái mới giao về Mao Trạch Đông, từ bấy hình thành “thể chế Mao - Trương” (Trương Văn Thiên) để chọi lại “Tưởng Uông” biến Quốc dân đảng và trong tay, họ cũng có chính quyền - Nước Cộng hoà xô-viết Trung Hoa, cũng có quân đội - Quân cách mạng công nông Trung Quốc. Hai bên dàn trận, quân xanh quân đỏ, cuộc cờ vào lúc quyết liệt, phía bên Mao phải Vạn lí trường chinh từ Hoa Nam lên miền bắc Thiểm - Cam, tìm nơi đứng chân, phía bên Tưởng hô hào càn quét, tàn sát “cộng tắc”, “cộng phỉ”, “cộng quân”, một thời hợp tác lật đổ phong kiến, diệt trừ ngoại xâm đã lùi xa vào dĩ vãng, nay chả còn Quốc - Cộng giao tranh, câu chuyện Tàu của chúng ta lần tới chương 2 - “Mật sứ nội trướng”, kể chuyện đánh đánh đàm đàm cũng rất... Tàu. TRẤN NHỎ BẢO AN Ở THIỂM BẮC TRỞ THÀNH HỒNG ĐÔ Mỗi lần có khách quý tới thăm, người xưa thường rất lịch sự mà “xuất khoác tương nghinh” nghĩa là phải đi xa khỏi thành để đón tiếp. Đối với trấn nhỏ Bảo An nằm lọt thỏm giữa vùng đất hoàng thổ Thiểm Bắc này thì cái bờ tường xây bằng gạch kia có thể gọi là “khoác”, là “thành”. Bảo An, hàm ý “bảo đảm an toàn” ở phía tây bắc Phu Thi (ngày nay gọi là Diên An), nguyên là đồn luỹ phòng ngự ngoại xâm của đời nhà Đường. Năm 1934 cải danh thành huyện Xích An, hai năm sau (1936) lại đổi thành Chí Đan. Chí Đan là tên của danh tướng Hồng quân Lưu Chí Đan, một trong những người xây dựng nên căn cứ địa Thiểm Bắc, sinh ở Bảo An, năm 1936, Lưu mới 34 tuổi và đã hy sinh tại trận tiền lúc giao tranh với quân Quốc dân đảng, vì vậy tháng 6 năm ấy, Trung Cộng quyết định mệnh danh cho quê hương anh là Chí Đan để mãi mãi ghi nhớ ý chí sáng ngời và đỏ thắm của người chiến sĩ cách mạng. Đây vốn là một trấn nhỏ vô danh, không mấy ai để mắt, nhưng từ ngày 3 tháng 7 năm 1936, nó bỗng trở thành Hồng đô - thủ đô đỏ trong tầm nhìn của mọi người. Đó là hôm mà Mao Trạch Đông cùng cơ quan trung ương Trung Cộng trở về đồn trú tại đây. Tuy không thể so sánh với thủ đô Nam Kinh của Dân quốc muôn phần tráng lệ, Bảo An vẫn đương nhiên là trụ sở của chính phủ trung ương nước Cộng hoà nhân dân xô-viết Trung Hoa, và tương tự cái nhà hầm nằm sâu trong hốc núi vô cùng giản dị mà Mao Trạch Đông trú ngụ cũng không thể so sánh với văn phòng rất hào hoa của Tưởng Giới Thạch, nhưng đây vẫn là hành dinh của một vị chủ tịch. Kể từ tháng 1 năm 1935, sau hội nghị Tuân Nghĩa, thể chế Mao - Trương (Mao Trạch Đông và Trương Văn Thiên) được xác lập trong nội bộ Trung Cộng và Hồng quân dần dần thoát khỏi vòng vây. Vượt qua hai vạn năm ngàn dặm trường chinh từ Hoa Nam, ngày 19 tháng 10 năm 1935, Mao Trạch Đông cùng Hồng quân đặt chân đến huyện Ngô Khởi - Thiểm Bắc, sau đó không lâu thì cơ quan trung ương Trung Cộng dời về Ngoã Dao Bảo (ngày nay gọi là Tử Trường) phía đông bắc Diên An. Thuở ấy Ngõa Dao Bảo bỗng trở thành Hồng đô tạm thời của Trung Cộng. Nhưng ngày 21 tháng 6 năm 1936, quân Tưởng truy kích và đánh vào Ngõa Dao Bảo, Mao Trạch Đông và cơ quan trung ương phải rút về Từ Dao mạn tây, cuối cùng là Bảo An, bắt đầu đứng chân và ổn định lại tất cả cái trấn nhỏ “bảo đảm an toàn” này. Khoảng hơn 10 ngày sau khi Mao Trạch Đông vào trú thân tại nhà hầm móc sâu trong vách đá, thì một người khách viễn phương, giống mũi lõ đã dũng cảm tới đây xin được phỏng vấn Mao Chủ Tịch. Lịch sử nghi nhận anh phóng viên Mỹ, người vượt qua muôn trùng kiềm tỏa, lọt vào Bảo An là “ngoại tân” thứ nhất của Hồng đô, đó là ngày 16 tháng 7 năm 1936 rất đáng ghi nhớ. Trong “Tây hành mạn ký”, người Mỹ ấy đã mô tả: “Tôi đến đó không lâu thì gặp ngay Mao Trạch Đông, ông có khuôn mặt xương gầy, trông như một gã lâm khẩn, cao hơn khổ người Trung Hoa, lưng hơi gù, đầu tóc đen nhánh, ken dày và để dài, hai mắt sáng long lanh tựa có thần sắc, mũi cao và lưỡng quyền nổi hẳn lên. Tất cả để lại trong tôi một ấn tượng tốt đẹp về con người trí thức thông minh ấy. Nhưng mấy hôm đó tôi vẫn chưa có dịp để xác tín một điều quan trọng đang âm ỉ trong lòng. Bỗng một chiều vào lúc hoàng hôn, Mao Trạch Đông đầu trần tản bộ, bên ông là hai người nông dân trẻ, họ vừa đi vừa hỏi chuyện. Thoạt đầu, tôi nhận không ra Mao Trạch Đông, bởi vì ở Nam Kinh người ta treo giải 25 vạn quan cho ai lấy được thủ cấp của Mao, còn đây ông vẫn thản nhiên sống giữa nhân dân, thiên hạ. Ông và phu nhân (chỉ Hạ Tử Trân) ở trong hai gian nhà hầm, giản dị đến mức không thể giản dị hơn nữa, vách tường không treo gì cả ngoại trừ mấy tấm bản đồ, vật chất xa xỉ nhất của hai người chỉ là cái màn muỗi, mọi thứ khác đều theo tiêu chuẩn một chiến sĩ Hồng quân. Là lãnh tụ quân cách mạng, từng trăm ngàn lần tịch thu tài sản của địa chủ, quan lại v.v... mà giờ này của cải riêng mình chỉ vỏn vẹn tấm chăn, cái màn muỗi, vài bộ quân phục...” Năm tháng sau khi người khác đầu tiên của Hồng đô rời khỏi vùng đất hoàng thổ, thì hôm nay lại một toán người ào tới, vó ngựa cuốn tung bụi vàng. Họ từ Tây An đi ô-tô đến Lạc Xuyên, xe dừng ở đó và thay ngựa, phi về bắc - nơi có cái trấn nhỏ Bảo An, đoàn người đều mặc quân phục kiểu Đông Bắc của Trương Học Lương. Vị chủ soái đã ngoại tứ tuần, tướng mạo oai phong, còn lại số tuỳ tùng tuy con nhà lính mà y như các thư sinh. Phái đoàn đang căng yên ngựa, phải ngoài 20 dặm nữa mới tới Bảo An thì thoắt trông một trưởng giả mặc quân phục Hồng quân đứng đợi để làm nhiệm vụ “xuất khoác trương nghinh”. Vị mang quân phục Hồng quân vừa dứt lời: “Diệp lão, vất vả cả một dặm trường”, thì vị mặc quân phục Quốc dân đảng cười to, âm vang sang sảng: “Lâm lão, ông ra đây chắc không phải đón tôi mà cốt để nhận mấy đồng “Quang Dương a”. “Diệp lão” đây chính là Diệp Kiếm Anh, còn “Lâm lão” kia đích danh Lâm Bá Cừ. Lâm lúc ấy là Bộ trưởng tài chính mà trong tay khô kiệt, nay nhận điện là Diệp sẽ mang về năm vạn đồng Quang Dương, lòng mừng khôn tả, vì vậy nên phải ra khỏi cổng thành long trọng nghênh tiếp. Năm vạn đồng tuy chỉ bằng một phần năm của hai mươi lăm vạn tiền thưởng mà Tưởng Giới Thạch treo giải cho ai lấy được thủ cấp Mao Trạch Đông, nhưng đối với hoàn cảnh thiếu thốn của Hồng quân lúc bấy giờ chẳng khác nào như hạn hán gặp mưa rào. Diệp Kiếm Anh đào đâu ra mà có những năm vạn đồng Quang Dương? “MÃ PHU” DIỆP KIẾM ANH LỌT VÀO TÂY AN Trước đây hai tháng, khoảng hạ tuần tháng 9 năm 1936, một đoàn kỵ mã rời khỏi Bảo An thành, nhắm hướng huyện Phú rong ruổi yên cương, họ ghé lại đồn luỹ của quân đoàn Đông Bắc, thay ngựa thắng xe tiến về Tây An. Họ đều mặc quân phục Quốc dân đảng, người dẫn đoàn ngực đeo phù hiệu hình tròn nổi bật dòng chữ “Hội đồng quân sự trung ương Quốc dân đảng”, hẳn phải là trưởng quan, cạnh kề ông bên hữu phó quan súng ống nai nịt đằng đằng sát khí, bên tả viên thư ký nho nhã ung dung đôi mắt giấu sau cặp kính cận. Nghe nói đây là đoàn đại biểu do Quốc dân đảng phái đến Bảo An để đàm phán với Hồng quân, kỳ thực thì không phải như vậy. Viên trưởng quan Biên Chương Ngũ, 36 tuổi, tốt nghiệp trường sĩ quan Bảo Định, tham mưu trưởng sư đoàn Quân quốc dân đảng, tháng 12 năm 1931 tham gia cuộc bạo động Ninh Đô và trở thành đảng viên đảng cộng sản, đảm nhận chức sư trưởng Hồng quân, đã qua Vạn lí trường chinh. Còn phó quan 29 tuổi Bành Tuyết Phong, năm 1926 gia nhập Đảng Cộng sản, chính ủy sư đoàn Hồng quân, cũng từng trường chinh từ nam lên bắc. Viên thư ký nho nhã kia vừa qua cái tuổi “nhi lập”, vào đảng năm 1925, bí thư tổ chức Trung Cộng trong Liên minh văn hóa cánh tả, nay là trưởng ban tuyên truyền Tổng cục chính trị Hồng quân, anh có tên gọi Phan Hán Niên. “Đoàn đại biểu” còn có các thành viên khác nữa như Uông Phong, Ngô Tự Lập, và một mã phu mặc quân phục lính Quốc dân đảng không mấy ai chú ý, người đó mới chính là trưởng đoàn - tướng quân Diệp Kiếm Anh. Tất cả bọn họ đã được Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai chọn lựa kỹ càng, kết thành một đội ngũ thần bí mang sứ mạng quan trọng. Trước khi đoàn lên đường đi Tây An, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai dành nhiều thời gian bàn bạc, dặn dò “mã phu” Diệp Kiếm Anh. Đoàn đến huyện Phú và tiến vào khu vực kiểm soát của quân Đông Bắc Quốc dân đảng thì theo mật lệnh từ Trương Học Lương, viên sư trưởng họ Lưu đã ra nghênh tiếp và tự mình lái xe đưa đoàn về Tây An không chút trở ngại. Diệm Kiếm Anh trở thành “Ngô tiên sinh” trong nước cờ đầy kỳ thú này giữa Tưởng và Mao, ông lọt vào Tây An cố đô. Trấn giữ Tây An là Trương Học Lương - Phó Tư lệnh hải lục không quân Hội đồng quân sự Quốc dân đảng, Phó Tư lệnh Bộ Tổng Tư lệnh tiễu phỉ Tây Bắc. Lúc bấy giờ đối với Tưởng Giới Thạch, Trung Cộng là “phỉ”, “Cộng phỉ”, cái gọi “tiễu phỉ” chính là “tiễu cộng”. Phó Tư lệnh “Tây Bắc tiễu tổng” Trương Học Lương năm ấy 35 tuổi, là trưởng nam của “Đông Bắc vương” - Trương Tác Lâm. Đông Bắc là quê hương của Trương, và quân đội của họ có tên gọi “Phụng quân”, bởi lẽ hồi đó Thẩm Dương (thủ phủ tỉnh Liêu Ninh) giản xưng là Phụng. Trương Học Lương có mối thù khắc cốt ghi xương với quân Nhật; rạng sáng ngày 4 tháng 6 năm 1927, cầu đường sắt Thẩm Dương tự nhiên bị gãy và cả đoàn tàu rơi chìm xuống sông, thân phụ của Trương là một hành khách trong đó, kịp đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng mấy giờ sau thì qua đời, kẻ thù của vụ gãy cầu chìm tàu này là quân Nhật và Trương quyết không đội trời chung với chúng. Tiếp đến “sự biến 9.18”. Ngày 19 tháng 8 năm 1931, quân Nhật đánh chiếm Thẩm Dương, sau bốn tháng 18 ngày, cả ba tỉnh Đông Bắc (Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang) rơi vào tay giặc, họ Trương tha hương, Phụng quân lưu lạc sang xứ người. Khi Mao Trạch Đông dẫn đầu Hồng quân trường chinh đến Thiểm Bắc, Tưởng Giới Thạch tuyên bố “chủ lực của phỉ quân rút chạy về vùng Cam Xuyên Thiểm” và ông đã đi một nước “diệu kỳ” trên bàn cờ thế kỷ, nhắc “quân cờ” Trương Học Lương từ Đông Bắc sang Tây Bắc, phong cho Trương chức vụ phó Tư lệnh “Tây Bắc tiễu tổng”. Trương Học Lương vốn không phải phái hệ, chính giòng của Tưởng Giới Thạch nên dùng Phụng quân đánh Hồng quân, “ngư ông” họ Tưởng lại một lần nữa được lợi trong cuộc tranh nhau giữa “trai, cò”, vừa làm yếu thế quân Đông Bắc, vừa tiêu hao lực lượng Hồng quân. Thật là diệu kế! Phụng mệnh quân lệnh, tháng 6 năm 1935, Trương Học Lương dẫn đầu 13 vạn tinh binh tiến vào Đồng Quan - cửa ngõ của Tây An. Mao Trạch Đông hiểu tâm trạng của Trương, tuy trên văn bản công bố chính thức, họ Trương bị liệt vào “quân bán nước”, nhưng phía đằng sau, Mao liên tục phái mật sứ len vào nội trướng tìm cách lôi kéo Trương Học Lương và Diệp Kiếm Anh trong vai “Ngô tiên sinh” lần này không ngoài sứ mạng quan trọng đó, còn phía bên kia Trương Học Lương phái cử ai “nghênh tiếp”? Người ấy là Tôn Minh Cửu, tham mưu tùy tòng cơ yếu của phó chủ tịch “Tây Bắc tiễu tổng”. ĐƯỜNG DÂY NÓNG GIỮA MAO TRẠCH ĐÔNG VÀ TRƯƠNG HỌC LƯƠNG Người ngồi đó, đầu hói bóng chỉ còn vài sợi bạc lơ thơ, thân không cao nhưng vai rộng, từ lưng trở lên như một đường thẳng, Tôn Minh Cửu nay tuy đã 80 lẻ 4 tuổi mà phong độ nhà binh vẫn oai phong lẫm liệt, tác giả cuốn sách này đã có dịp đến thăm “con người lịch sử” họ Tôn, phòng khách nhà cụ chỉ treo mấy bức ảnh chụp chung cùng nguyên soái Diệp Kiêm Anh khi còn ở Thượng Hải năm 1997. Tôn Minh Cửu là tâm phúc của Trương Học Lương. Cách đây không lâu đã có người hỏi Trương, nếu được trở về đại lục thăm viếng, ông sẽ tìm gặp ai? Trương không do dự mà rằng: Tôn Minh Cửu! Tháng 8 năm 1991, hãng truyền hình Nhật Bản NHK phỏng vấn ghi hình Trương Học Lương ở Đài Bắc, sau đó họ đem trình chiếu cho Tôn Minh Cửu xem, Tôn nước mắt đầm đìa, nhớ về một quá vãng gắn bó giữa hai người. Tôn Minh Cửu sinh ngày 13 tháng 1 năm 1908 tại Liêu Ninh, làm quản giáo học dưới quyền Trương Học Minh - em trai Học Lương. Năm 1931, Học Lương được phong chức phó Tư lệnh hải lục không quân Quốc dân đảng, từ Nam Kinh lên Bắc Kinh ghé qua Thiên Tân, Học Minh cử Tôn Minh Cửu hộ tống anh mình. Trương quý trọng Tôn, bèn tặng chiếc đồng hồ Thụy Sĩ có hình Học Lương trong đó để ghi nhớ mốc quan trọng trên đường hợp tác giữa họ, từ bấy Tôn luôn luôn là tham mưu tuỳ tòng cơ yếu của Trương. Khi tiến quân vào Tây An, Trương Học Lương hạ trại tại ngõ Kim Gia, còn Tôn Minh Cửu trú ở ngôi nhà tứ hợp cách đó không xa, và hôm nay là nơi đón tiếp “Ngô tiên sinh”. Theo căn dặn của Học Lương, Minh Cửu bố trí lực lượng bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đại biểu Hồng quân họ Ngô. Sau mấy ngày phục vụ, được biết “Ngô tiên sinh” chính là tướng quân Diệp Kiếm Anh, Minh Cửu càng cẩn trọng hơn. Và như vậy, một đường dây nóng Trương Học Lương - Diệp Kiếm Anh - Mao Trạch Đông được hình thành, chỉ riêng tháng 10 năm 1936, 18 mật điện đã liên lạc giữa Tây An và Bảo An. Ngày 29 tháng 10 năm 1936, Diệp Kiếm Anh điện khẩn: “Tưởng - Trương đã hội đàm, kết quả rất xấu, Tưởng tuyên bố phỉ không tiễu sạch thì quyết chưa kháng Nhật. Kiếm đề nghị sau ba ngày sẽ rời về Tây An báo cáo tỷ mỷ, đợi lệnh”. Thượng tuần tháng 11, Diệp Kiếm Anh nhận điện từ đại bản doanh “Trở về Bảo An thương lượng, nhân tiện nhờ Trương tướng quân tài trợ ít nhiều kinh phí”. Trương Học Lương lập tức đáp ứng năm vạn quan Quang Dương và hôm nay Diệp mang về cho Bộ trưởng Tài chính Hồng quân Lâm Bá Cừ. Là một phó Tư lệnh của “Tây Bắc tiễu phỉ Tổng Tư lệnh bộ”, tại sao Trương Học Lương lại khẳng khái chi viện cho “phỉ” như vậy? Chuyện dài ấy đã bắt đầu từ cuộc mật đàm thâu đêm ở giáo đường Thiên Chúa thành Diên An. TRONG GIÁO ĐƯỜNG THIÊN CHÚA Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1936, một chiếc Ba-ưng (ngày nay phiên âm theo Boeing là ba-âm), cất cánh từ sân bay Lạc Xuyên, hồi ấy bóng dáng của máy bay trên bầu trời cao nguyên hoàng thổ là rất hiếm hoi. Chiếc Ba-ưng lao vào tầng không và bay về đâu thì chẳng ai đoán trước được, song có điều lịch sử còn ghi lại rằng, người lái chuyến bay ấy chính là tướng quân Trương Học Lương. Trương là con người đa tài đa nghệ, biết sử dụng mô-mô, ô-tô và cả máy bay. Năm 1934, khi Trương thắng xe đi thị sát vùng Ngạc Đông Ma, quan sở tại dẫn bộ hạ ra đón ông cách thành 30 dặm, đợi mãi mà không thấy, sau mới hay chiếc xe “dẫn đường” chính do tướng quân tự lái đã vượt qua từ lâu. Lại có lần vì việc cần Trương cưỡi mô-tô phóng một mình từ Thiên Tân về Bắc Kinh chỉ mất vài ba tiếng đồng hồ. Trương Học Lương mua chiếc Ba-ưng làm chuyên cơ cho mình, bay đây bay đó, vừa nhanh chóng, vừa hiệu quả. Còn chuyến bay này do ông tự lái là nhằm bảo mật, “hành khách” gồm ba vị: Vương Dĩ Triết - chỉ huy quân đoàn 7 của Đông Bắc quân, Tôn Minh Cửu và một nhân vật thần bí khác. Chiếc máy bay lượn một vòng trên bầu trời Lạc Xuyên rồi lao về hướng bắc, cho đến lúc nhìn thấy dòng Diên Hà uốn lượn trên nền hoàng thổ và trông rõ đỉnh Bảo Tháp nơi ngọn núi bên sông, Trương Học Lương hạ độ cao và cho Ba-ưng từ từ đậu xuống bãi rộng - đây chính là Diên An. Đoàn phi hành bốn người đi về doanh trại của quân Đông Bắc đồn trú tại thành Diên An nghỉ ngơi và chờ người của khu đỏ phái ra. Đó là Xuyên Khẩu phía đông Diên An, đợi cho trời tối họ mới vào thành. Ba ngày trước đó, Trương Học Lương và Vương Dĩ Triết nhận được điện báo của Mao Trạch Đông và Bành Đức Hoài: “Ngày 8, đại biểu của phía chúng tôi là Chu Ân Lai và Lý Khắc Nông sẽ đến Diên An cùng Trương tiên sinh bàn mưu cứu Quốc, định khởi hành từ Ngõa Dao Bảo vào ngày 7, hẹn nhau tại Xuyên Khẩu chờ người của tiên sinh đón vào thành, mọi sự an toàn dám cậy nhờ tiên sinh bố trí thỏa đáng...”. Phó đoàn cho Chu Ân Lai là Lý Khắc Nông, người An Huy, vào đảng năm 1926, năm 1928 bắt đầu đảm nhiệm công việc bí mật của phòng đặc vụ trung ương Trung Cộng ở Thượng Hải, năm 1931 là ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị. Lý là người từng giúp Chu Ân Lai thoát hiểm khi bị lộ do bọn đầu hàng khai báo, sau khi trường chinh về đến Thiểm Bắc ông giữ chức cục trưởng cục liên lạc và một trong các đối tượng mà Lý có quan hệ chính là Trương Học Lương. Đoàn của Chu Ân Lai gồm năm người được bí mật đưa tới nhà thờ xứ Diên An, Trương Học Lương đã chờ sẵn ở đó. Đây là lần đầu tiên Chu - Trương gặp nhau, lúc bấy giờ Chu còn để râu quai nón khiến Trương phải thốt lên “mỹ nhiêm công” (người có bộ râu đẹp). Trương Học Lương và “mỹ nhiêm công” vừa gặp nhau mà như đã quen thân từ lâu, nói cười vui vẻ. Năm mươi năm sau, khi trả lời phóng viên truyền hình NHK Nhật Bản, nhớ lại lần đầu quen biết Chu Ân Lai, Trương Học Lương đã dùng 12 chữ để bình phẩm họ Chu - phản ứng sắc sảo, nói năng xuất chúng, học thức uyên thâm! Trương Học Lương giới thiệu với Chu Ân Lai nhân vật thần bí của mình, mà ông gọi là thư ký. Chu Ân Lai bật cười và bắt tay viên thư ký: - Chào Lưu tiên sinh. - Chào Chu tiên sinh! Chào Chu tiên sinh! Trương Học Lương ngỡ ngàng vì Chu, Lưu đã biết nhau từ lâu. Đúng vậy, nhân vật “Lưu tiên sinh”“ chính là Lưu Đỉnh, 33 tuổi, người Tứ Xuyên, từng làm việc dưới quyền của Chu Ân Lai. Năm 1930, sau khi du học ở Liên Xô trở về Thượng Hải, Lưu Đỉnh dã đến báo cáo Chu Ân Lai và Chu đã bố trí cả hai vợ chồng Lưu Đỉnh - Ngô Tiên Thanh cùng làm việc tại phòng đặc vụ của Trung Cộng. Lưu thông minh, tháo vát, được Chu mến phục, còn Ngô quả là một nữ tướng, năm 1933 bà làm tổ trưởng điệp viên của cục tình báo Viễn Đông Quốc tế Cộng sản. Đang là đảng viên Trung Cộng, Lưu Đỉnh tự nhiên trở thành thư kí của tướng quân Quốc dân đảng, chuyện thật khúc khuỷu dài dòng, song cũng đều bắt nguồn từ một quan điểm “không liên Cộng kháng Nhật, ấy chỉ là nói suông...” và do đó Trương Học Lương cần có đại biểu Trung Cộng bên cạnh làm “bạn”, làm “thư kí” - sứ mạng đó đặt lên vai Lưu Đỉnh. Tương tự, những Lý Khắc Nông, Cao Phúc Nguyên v.v... đều có nhiệm vụ “xe chỉ luồn kim”, họ làm nên cuộc mật đàm đêm nay giữa Trương - Chu ở nhà thờ xứ thành Diên An. TỪ “PHẢN TƯỞNG KHÁNG NHẬT”, MAO TRẠCH ĐÔNG CHUYỂN KHẨU HIỆU THÀNH “BỨC TƯỞNG KHÁNG NHẬT” - Tôi lớn lên ở Đông Bắc - Chu Ân Lai tự giới thiệu. - Tôi biết, Trương Học Lương đáp lại. - Thầy Trương Bá Linh cho tôi hay điều đó. Trương Bá Linh, người Thiên Tân, đã có công sáng lập nên trung học Nam Khai, rồi đại học Nam Khai, và sau đó, năm 1948 đảm nhiệm chức viện trưởng Viện khảo thí của chính phủ Quốc dân đảng. Năm 15 tuổi, Chu Ân Lai học trung cấp ở Nam Khai, và lúc ấy thầy hiệu trưởng chính là Trương Bá Linh, Chu lấy làm ngạc nhiên vì sao Học Lương cũng là học sinh của Trương Bá Linh? Đang khi phân vân như vậy thì Chu bỗng nghe Trương cười vang: - Trước đây tôi nghiện thuốc phiện, chích moóc-phin, nhưng nhờ Trương Bá Linh tiên sinh khuyên giải nên sau đó đã cai khử hoàn toàn, vì vậy mà tôn Người làm thầy! - Thế là chúng ta cùng chung một sư tổ - Chu Ân Lai nhanh chóng ứng khẩu và kết thúc phần hàn huyên xã giao để đi vào chủ đề mật đàm. Về kháng Nhật, hai bên không cần nhiều lời, sớm đã nhất trí, quân Nhật chiếm Đông Bắc, Trương phải bỏ bản quán tha hương, Phụng quân trên dưới một lòng kháng chiến trả thù, điều ấy không hẹn mà gặp, thật phù hợp với chủ trương của Trung Cộng, vấn đề còn lại là Tưởng Giới Thạch. Chu Ân Lai trình bày lập trường của Trung Cộng: vì Tưởng Giới Thạch thi hành chính sách “yên trong rồi mới dẹp ngoài”, “yên trong” ở đây là “tiễu Cộng”, cho nên Trung Cộng chúng tôi phải đưa ra khẩu hiệu “kháng Nhật phản Tưởng”, ông nói: - Dám xin Trương tướng quân cho ý kiến. Trương Học Lương rất trực ngôn, ông nhận thấy Hồng quân là người kháng Nhật chân chính nhất, điều ấy không còn phải nghi ngờ gì nữa, nhưng còn Tưởng Giới Thạch theo quan sát, Tưởng cũng có thể kháng Nhật, khẩu hiệu “kháng Nhật phản Tưởng” e không có lợi cho sự đoàn kết chống ngoại xâm. Trương trình bày thêm lí do, hiện nay Tưởng là phái có thực lực nhất trong nước, là chủ lưu của Quốc dân đảng, nếu “phản Tưởng” tức là gạt đi một lực lượng mạnh nhất. Tưởng nêu chính sách “yên trong rồi mới dẹp ngoài” tất nhiên là sai, nhưng chưa đến mức đầu hàng Nhật, ông ta đang đứng giữa ngã ba đường. Trương nói: - Trong đám yếu nhân của Quốc dân đảng, tôi chỉ phục mỗi Tưởng Giới Thạch, ông ta có tinh thần dân tộc và năng lực lãnh đạo. Cho nên có thể hi vọng Tưởng kháng Nhật. Nhưng bên cạnh Tưởng Giới Thạch bao gồm nhiều phái thân Nhật, họ khiến ông ta không dám hạ quyết tâm đánh Nhật, vì vậy Tưởng đang lâm vào hoàn cảnh cực kì mâu thuẫn. Tôi chủ trương, bên trong chúng tôi khuyên, bên ngoài các ông bức làm cho Tưởng Giới Thạch thay đổi chính sách sai lầm, đi lên con đường kháng Nhật với chúng ta. Nếu quả tình Tưởng Giới Thạch đầu hàng giặc ngoại xâm, thì tôi sẽ từ chức và làm theo cách của mình. Chu Ân Lai chăm chú lắng nghe Trương Học Lương trình bày chủ trương “kháng Nhật, thì phải liên Tưởng” và cảm thấy có lí: - Tôi tán thành ý kiến của tướng quân, nhưng đây mới chỉ là cá nhân tôi, tôi phải về báo cáo với trung ương Trung Cộng bàn bạc và quyết định trước một chính sách lớn như thế này của tướng quân. Trương Học Lương rất mãn ý với Chu Ân Lai, cuộc mật đàm kéo dài đến 4 giờ sáng hôm sau, trước khi chia tay, Trương tặng Chu tập bản đồ Trung Quốc vừa mới xuất bản với lời nguyện “cùng nhau bảo vệ Tổ Quốc”. Đoàn Trung Cộng trở về Ngoã Dao Bảo báo cáo Mao Trạch Đông, khi đi năm người, nay thêm Lưu Đỉnh nữa là sáu. Thật là trùng hợp, lúc 12 giờ đêm ngày 9 tháng 4 năm 1936, khi Chu Ân Lai đang mật đàm với Trương Học Lương tại nhà thờ xứ Diên An. Mao Trạch Đông đã điện báo cho Trương Văn Thiên hoãn phát lệnh “thảo Tưởng”. Ngày 5 tháng 5 năm 1936, với danh nghĩa Chủ tịch nước Cộng hoà xô viết nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Hội đồng quân sự Hồng quân cách mạng nhân dân Trung Quốc, Mao Trạch Đông và Chu Đức trong “Thông điện đình chiến, hoà đàm, nhất trí kháng Nhật” đã không sử dụng thuật ngữ “quân bán nước Tưởng Giới Thạch” nữa mà thay vì “ông Tưởng Giới Thạch” trung tính, không khinh không trọng. Ngày 1 tháng 9 năm đó (1936), Trung Cộng ban hành chỉ thị nội bộ chuyển khẩu hiệu “kháng Nhật phản Tưởng” thành “bức Tưởng kháng Nhật”. ĐẠN TRÚNG UÔNG TINH VỆ VÔ TÌNH CỨU NGUY CHO TƯỞNG GIỚI THẠCH Trở lại với Tưởng Giới Thạch, một nhân vật chính khác của cuốn sách này, chúng ta thấy ông ta đang phải giáp mặt với ba đối thủ: về quốc tế - quân Nhật từng bước xâm lược, uy hiếp cuộc sống sinh tồn của Tưởng; về quốc nội - Trung Cộng do Mao Trạch Đông lãnh đạo ngày một lớn mạnh mà ông xem như đại hoạ bên trong; về đảng - Uông Tinh Vệ “bằng mặt mà không bằng lòng”, lăm lăm tiếm đoạt quyền lợi của nhau. Từ ngày 28 tháng 1 năm 1932, “thể chế Tưởng - Uông” được hình thành - Uông nắm chính quyền, Tưởng nắm quân đội và cả hai cùng nắm đảng. Nhưng hôm nay, mồng 1 tháng 11 năm 1935, những viên đạn của thích khách đã phá tan cái liên minh khiên cưỡng ấy. Đó là ngày đầu tiên của kì họp thứ 6 khoá 4 toàn thể Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng cử hành tại Nam Kinh. Theo thông lệ, đúng 7 giờ, tất cả uỷ viên trung ương tề tựu kính cẩn viếng lăng Tôn Trung Sơn, 9 giờ nghe Uông Tinh Vệ đọc diễn văn khai mạc dài khoảng 20 phút, sau đó cùng chụp ảnh lưu niệm tại sân hội trường. Hơn 100 vị xếp thành năm hàng, trước ngồi sau đứng, chính giữa đặt hai ghế cho Uông, Tưởng, nhưng vì việc gì đó mà Tưởng Giới Thạch đã không tham gia, nên trống một ghế. Đến 9 giờ 35 phút, các phó nháy, các phóng viên thay nhau bấm máy, ghi lại những khuôn hình lịch sử. Đúng vào lúc mọi người đứng dậy quay vào hội trường họp tiếp, thì vang lên tiếng hô “đả đảo quân bán nước” nổ ra từ trong đám tân văn kí giả và tiếp theo là ba phát súng, tất cả đều nhắm trúng Uông Tinh Vệ, ông ngã gục. Cả đám nháo nhác, Trương Tĩnh Giang hốt hoảng bò sát đất, Khổng Tường Hy lao nhanh vào gầm xe ô-tô gần đó, mỗi Trương Học Lương trấn tĩnh quay người ôm lưng hung thủ và đạp mạnh khẩu súng lục văng khỏi tay y, vệ sĩ ập tới và bắt ngay viên kí giả vừa nã đạn. Nghe tiếng súng nổ, Tưởng Giới Thạch cùng vệ sĩ của mình chạy tới, quỳ xuống bên cạnh Uông Tinh Vệ. Uông máu me đầm đìa, tưởng mình sắp lìa đời nên quay lại trăn trối cùng Tưởng Giới Thạch: - Tưởng tiên sinh, thế là huynh đã rõ, sau khi ta chết, mọi công việc chỉ mình huynh gánh vác. Nhưng Trần Bích Quần, vợ Uông thì không khách sáo như vậy, bà nhìn chằm chằm vào các gương mặt uỷ viên trung ương rồi hất hàm về Tưởng Giới Thạch: - Ông không muốn Uông tiên sinh đây làm việc thì nói toạc ra, chồng tôi cũng chẳng thèm, cớ sao lại phái người hãm hại? Tưởng câm như hến, ngậm bồ hòn làm ngọt, cùng mọi người đưa Uông về bệnh viện cấp cứu. Súng nổ, rồi báo chí nổ, Tưởng Giới Thạch trở thành đôi tượng nghi vấn chủ mưu sát hại Uông Tinh Vệ, nhưng theo lời khai của hung thủ - Tôn Phượng Minh, phóng viên Thông tấn xã Thần Quang, ba viên đạn kia định dành cho Tưởng Giới Thạch, và không may Uông phải gánh chịu. “Thể thế Tưởng - Uông” chấm hết, ngày 12 tháng 11 năm 1935 - Ngũ toàn (đại hội khoá 5) của Quốc dân đảng được cấp tốc khai mạc, ngay sau đó ngày 7 tháng 12, Ban chấp hành trung ương bầu Hồ Hán Dân làm chủ tịch đảng, Tưởng làm phó, nhưng do Hồ bị bức ép ra nước ngoài lưu vong nên mình Tưởng Giới Thạch nắm tất cả quyền bính đảng, chính, quân. Lại nói về đối thủ Trung Cộng, Tưởng Giới Thạch nhiều lần càn quét lên Tỉnh Cương Sơn, năm lần vây ráp tiễu trừ Giang Tây - khu xô-viết trung ương, Hồng quân trường chinh lên mạn bắc, Tưởng đuổi theo và lập nên “Tây Bắc tiễu phỉ”. Mặc dầu đối mặt với hoạ xâm lăng, Tưởng Giới Thạch vẫn khăng khăng “yên trong rồi mới dẹp ngoài”. Năm 1935, ai đó đã gửi “tặng” Tưởng Giới Thạch một chiếc váy đàn bà kèm theo bài thơ trách móc tình yêu nước, kháng Nhật của ông. Lúc 5 giờ chiếu ngày 26 tháng 12 năm 1935, trung tướng Tục Phạm Đình dùng gươm tự sát trước lăng mộ Tôn Trung Sơn, để lại cũng bài thơ kích động lòng hận thù ngoại xâm. Những ngày cuối năm 1935 thật xáo động, Tưởng suy nghĩ lại các nước cờ đã đi và không khỏi phân vân cho tương lai, đành cũng phải hoà đàm với Trung Cộng, nhưng ông có cách “chơi” của mình. NHỮNG “TUỲ VIÊN” TRÊN CON TÀU CỦA ĐỨC - POSTDAM Hồi ấy ở Trung Quốc nổi lên “Tứ đại gia tộc”, đó là Tưởng Giới Thạch, Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy, Trần Quả Phu và Trần Lập Phu. Hai anh em họ Trần, Quả Phu và Lập Phu có người chú ruột tên là Trần Kỳ Mỹ - ân nhân của Tưởng Giới Thạch, đã dẫn dắt Tưởng đi lên con đường chính trị từ buổi đầu gia nhập Đồng minh hội, Tưởng -Trần kết nghĩa anh em và do đó họ là bậc cha chú đối với “nhị Trần - Quả, Lập”. Trần Lập Phu từng du học ở Mỹ đậu bằng thạc sĩ ngành mỏ, năm 1926 làm thư kí cơ yếu cho Tưởng Giới Thạch, năm 1928 giữ chức chủ nhiệm cục điều tra trung ương Quốc dân đảng kiêm trưỏng phòng cơ yếu hội đồng quân sự, đứng đầu Câu lạc bộ trung ương (CC - Central Club) - một tổ chức đặc vụ của Tưởng Giới Thạch, tại Ngũ toàn (đại hội khoá 5). Lập Phu được bầu làm uỷ viên thường vụ Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng. Tưởng Giới Thạch chọn Trần Lập Phu và một người nữa cũng họ Trương tên Xung làm mật sứ cho mình, cả hai đều “thay tên đổi phận” thành Lý Dung Thanh, Giang Phàm Nam làm “tuỳ viên” cho đại sứ Trung Hoa dân quốc tại nước Đức và hôm nay sau Noel 1935 xuống tàu Postdam đi viễn dương. Tưởng Giới Thạch nghiên cứu các văn kiện đại hội lần thứ bảy của Quốc tế Cộng sản được cử hành từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1935 tại Mạc Tư Khoa, và biết rằng đoàn đại biểu Trung Quốc đề xuất thành lập “Chính phủ quốc tế nhân dân thống nhất toàn Trung Quốc”, lãnh đạo Quốc tế Cộng sản “hoàn toàn tán thành ý kiến đề nghị của Trung Cộng”. Trước đây khi ở thăm Liên Xô, Tưởng Giới Thạch cũng đã bái kiến Quốc tế Cộng sản, ông hiểu sâu sắc rằng, Quốc tế Cộng sản là thượng cấp của Trung Cộng và do đó nước cờ của Tưởng trong thế hoà đàm với Mao Trạch Đông là “bỏ gần mà cầu xa”, đưa hai “tuỳ viên” Trần, Trương sang Âu châu, lần đến Liên Xô, liên lạc với Quốc tế Cộng sản và cuối cùng đề nghị thành lập Đồng minh Trung - Xô kháng Nhật và như vậy sẽ buộc Trung Cộng “quy phục”. Hành tung của Trần Lập Phu và Trần Xung được bảo mật nghiêm ngặt, thế mà vẫn không giấu nổi tình báo Nhật. Trần, Trương sau khi đến Ý, đang liên lạc với Mạc Tư Khoa thì báo chí ở Nhật đưa tin “mật sứ của Tưởng Giới Thạch muốn thăm Liên Xô”, Tưởng đành thu quân triệu hồi hai vị “tuỳ viên” về nước. Nhưng khi họ vừa đặt chân lên Tân Cương thì lại nhận được điện báo của Tưởng Giới Thạch yêu cầu quay sang Mạc Tư Khoa cùng với Đặng Văn Nghi thực hiện sứ mạng chưa hoàn thành. Đặng Văn Nghi, 31 tuổi, người Hồ Nam, là học sinh khoá 1 trường quân sự Hoàng Phố, sau đó được cử sang Liên Xô học tiếp hai năm, về nước làm phó trưởng ban chính trị của trường, giúp việc cho trưởng ban Chu Ân Lai, từ năm 1928 là thư kí và tham mưu tuỳ tùng cho Tưởng Giới Thạch, mùa đông năm 1931 lại sang Liên Xô và giữ chức võ quan tại đại sứ quán của Trung Hoa dân quốc. Vào thời gian Trần Lập Phu và Trương Xung xuống tàu Postdam viễn du, Đặng Văn Nghi rời Nga về nước báo cáo công tác, vừa đến Tân Cương thì ngày 9 tháng 12 năm 1935 tờ “Thời báo cứu quốc” của Trung Cộng xuất bản ở Paris đăng bài phát biểu của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Quốc tế Cộng sản, lần đầu tiên dùng cách xưng hô - “Tưởng Tổng Tư lệnh Nam Kinh”. Bài phát biểu nêu rõ: nhanh chóng đình chỉ những cuộc “nồi da xáo thịt”, đoàn kết mọi đảng phái, mọi quân đội, chấm dứt nội chiến, tập trung mũi súng vào quân xâm lược. Tưởng Giới Thạch nắm bắt nguồn tin quan trọng này nên đã chỉ thị cho Đặng Văn Nghi quay lại Mạc Tư Khoa, hiệp sức cùng Trần Lập Phu và Trương Xung tìm cách hội đàm với đại diện của Trung Cộng ở Quốc tế Cộng sản. Kể từ sau năm 1927, đây là lần đầu tiên Quốc - Cộng lại “nắm tay nhau”, nhưng tạm ở xứ người. Đặng Văn Nghi trao cho Vương Minh ba điều kiện của phía Tưởng Giới Thạch: (1) Huỷ bỏ chính phủ xô-viết Trung Quốc, tất cả những người lãnh đạo và viên chức của Chính phủ này sẽ về làm việc tại Chính phủ Nam Kinh. (2) Cải biên Hồng quân công nông thành quân cách mạng Dân quốc, vì muốn đánh thắng Nhật thì phải thống nhất chỉ huy quân đội. (3) Khôi phục hình thức Quốc - Cộng hợp tác thời kì 1924 -1927 hoặc áp dụng hình thức nào đó nhưng vẫn đảm bảo sự tồn tại độc lập của Trung Cộng. Vương Minh lắng nghe Đặng Văn Nghi nói tiếp: - Đương nhiên Hồng quân sẽ không nhận người của Quốc dân đảng rồi, nhưng hai bên có thể trao đổi chuyên gia chính trị để tỏ lòng tin cậy lẫn nhau. Tưởng uỷ viên trưởng chúng tôi biết Hồng quân thiếu vũ khí, đạn dược và lương thảo, ngài đồng ý chi viện, thậm chí cả binh lính nữa và yêu cầu Hồng quân tiến ra tiền tuyến Nội Mông, còn chúng tôi sẽ bảo vệ lưu vực Trường Giang! Con người có vóc dáng ngũ đoản như Vương Minh không dại gì mà mắc mưu Tưởng Giới Thạch, và cũng đủ khôn ngoan nhận biết thân phận mình, ông nói: - Hồng quân chắc chắn là không thể tiến ra tiền tuyến Nội Mông, song có một điều các ngài nên nhớ: Quốc tế Cộng sản tuy là thượng cấp của Trung Cộng, nhưng muốn tiến hành đàm phán Quốc - Cộng thì phải tìm đến Ban chấp hành trung ương của Trung Cộng, phải tìm đến Mao Trạch Đông, ông ta mới là người quyết định cuối cùng. Đặng Văn Nghi điện báo cho Tưởng Giới Thạch và nước cờ “bỏ gần mà cầu xa” của Tưởng tạm dừng, ông sẽ làm cách nào để gặp lại đối thủ của Mao Trạch Đông? NHỊP CẦU “MỤC SƯ” VÀ “TUỲ VIÊN” Ngày 29 tháng 1 năm 1936, “Tuần san cứu quốc” Paris đăng trả lời phóng viên “Trung Hoa đỏ” (tiền thân Tân Hoa xã ngày nay) của Mao Trạch Đông - Chủ tịch chính phủ nước Cộng hoà xô-viết nhân dân Trung Hoa và Vương Gia Tường - uỷ viên ngoại giao, có đoạn nói “Nếu Tưởng Giới Thạch thực lòng muốn kháng Nhật thì chính phủ xô-viết Trung Quốc sẽ bắt tay cùng ông ta trong một mặt trận”. Sau khi tín hiệu ấy phát ra, một mục sư thần bí từ Thượng Hải đi Tây An cố đô tìm gặp Trương Học Lương, nhờ tướng quân đưa ông ta lọt vào địa phận kiểm soát của Hồng quân. Mục sư họ Chu tên Kế Ngô. Ông còn mang theo cả giấy giới thiệu “điều tra viên của Bộ Tài chánh” do Khổng Tường Hy ký. Trương Học Lương mật điện cho Nam Kinh và Ngoã Dao Bảo, cả hai nơi Quốc dân đảng và Trung Cộng đều xác tín con người phi phàm này, giao hảo đi lại với Tưởng Giới Thạch cùng Mao Trạch Đông. Quả vậy, trong thư gửi Tống Tử Văn ngày 14 tháng 8 năm 1936, Mao Trạch Đông đã nhắc đến “con thoi” Chu Kế Ngô, có điều danh tính chính thức của ông là Đổng Kiện Ngô, công tác bí mật của Trung Cộng ở Thượng Hải. Còn phía Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch nhờ Tống Tử Văn tìm người “bắc cầu”, Tử Văn hỏi chị ruột là Tống Khánh Linh, bà tiến cử Đổng Kiện Ngô. Trước khi Đổng lên đường, Tưởng Giới Thạch đã căn dặn tỉ mỉ và giao nhiệm vụ chuyển bốn điều kiện đàm phán cho Trung Cộng: (1) Không tiến công Hồng quân, (2) Nhất trí kháng Nhật, (3) Phóng thích chính trị phạm, (4) Vũ trang dân chúng. Lần ấy Tống Khánh Linh nhờ Đổng đem vào cho Hồng quân một bao “thuốc trắng” Vân Nam, bà biết quân cách mạng thiếu dược phẩm cầm máu khi bị thương. Cùng đi với “mục sư” còn có “tuỳ viên” Trương Tử Hoa - một chàng trai mới 22 tuổi, đây lại là một nhân vật được chọn lựa theo đường dây khác. Trần Lập Xuân và Trương Xung khi đi Liên Xô có nhờ Tằng Dưỡng Phố tìm giúp “mật sứ”, qua nhiều mắt xích chắp nối, Tả Cung trúng cử và cải tên đổi họ để làm nhiệm vụ này. Tả Cung tức Trương Tử Hoa vào Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 16 tuổi và hành tung ấy bên Quốc dân đảng không nắm được, còn bí danh của anh trong Trung Cộng là “Hoàng quân”, mọi hoạt động của “mật sứ” thật kín đáo, ngay đến cả “mục sư” cũng không rõ “tuỳ viên” giúp việc cho mình là ai? Ngày 19 tháng 2 năm 1936, chiếc Boeing cất cánh từ Tây An đưa hai hành khách quan trọng nêu trên bay về hướng bắc, họ đến Diên An và sau đó được kị binh đưa về Ngoã Dao Bảo - địa phận của Hồng quân. Hôm ấy, ngày 27 tháng 2, Mao Trạch Đông, Trương Văn Thiên và Bành Đức Hoài bận việc ở tiền tuyến Thạch Lầu - Sơn Tây, Chu Ân Lai và Lưu Chí Đan cũng đi công tác nơi khác, chỉ mình Bác Cổ tiếp hai mật sứ. Sau khi làm việc xong với đoàn, Bác Cổ nghe Trương Tử Hoa báo cáo tình hình Thượng Hải và thỉnh thị Mao Trạch Đông. Ngày 2 tháng 3, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai mời Đổng Kiện Ngô và Trương Tử Hoa lên Thạch Lầu hội kiến, Đổng phải về Nam Kinh, chỉ có Trương ở lại và qua anh, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông đã có thể bí mật đối thoại với nhau. “Mục sư” Đổng Kiện Ngô trở về Nam Kinh thì một việc không may đã xảy ra, “Sơn Tây vương” Quốc dân đảng là Diêm Tích Sơn không hiểu từ nguồn tin nào biết được Tưởng Giới Thạch cử người đi Ngoã Dao Bảo, đã điện chất vấn Tổng Tư lệnh: “Vì sao lại liên Cộng đánh Tấn quân?” (Tấn - chữ viết tắt tỉnh Sơn Tây), vì lúc này Hồng quân Mao - Chu đang giao tranh với quân của Diêm ở Thạch Lầu, từ bấy Tưởng Giới Thạch dập ngay nhịp cầu họ Đổng, có thân phận là mục sư, một thời được gọi là “mục sư đỏ”. Một mình Trương Tử Hoa ở lại khu đỏ, làm nhiệm vụ cho hai đảng. Anh vượt sông Hoàng Hà ra tận tiền tuyến Sơn Tây tìm gặp Mao Trạch Đông, Trương Văn Thiên, Bành Đức Hoài báo cáo tường tận mọi địa hình. Tháng 3 năm 1936, Bộ chính trị Trung Cộng họp mở rộng ngay ở chiến trường Thạch Lầu thảo luận vấn đề đàm phán với Quốc dân đảng, thống nhất chỉ huy công việc này là quân uỷ trung ương và ban thường vụ. Tháng 4 năm ấy, Phùng Tuyết Phong đi Thượng Hải gặp Lỗ Tấn bàn về công tác trên mặt trận văn hoá kháng Nhật, Trương Tử Hoa về Nam Kinh chuyển cho Tưởng Giới Thạch năm điều kiện của Trung Cộng, tỏ lòng mong muốn Nam Kinh liên Cộng kháng Nhật. Trong chuyến đi này, Trương Tử Hoa cũng chuyển nhiều lá thư cá nhân bạn bè Quốc - Cộng, Chu Ân Lai gửi Thầm Tiểu Sầm, Lâm Bá Cừ gửi Đàm Chấn v.v... Sau đó không lâu, Trương Tử Hoa mất tích, Nam Kinh đã hạ gục anh vì tìm ra hành tung cộng sản của nhân vật này, nhịp cầu “tuỳ viên” cũng gãy luôn. CHUẨN BỊ CHO HỘI ĐÀM GIỮA TƯỞNG GIỚI THẠCH VÀ CHU ÂN LAI Từ ngày 10 đến 14 tháng 7 năm 1936, kì họp thứ 2 khoá 5 toàn thể Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng được cử hành ở Nam Kinh, giọng điệu của Tưởng Giới Thạch so với trước đây có vẻ ái quốc hơn và mong muốn cùng Chu Ân Lai hội đàm bàn bạc, hoặc ở Hương Cảng hoặc ở Quảng Châu. Phía Quốc dân đảng đưa ra ba lời hứa: (1) khu xô-viết vẫn có thể tồn tại, (2) đổi tên Hồng quân thành Liên quân và được đãi ngộ như nhau, (3) đại biểu Trung Cộng công khai tham gia quốc dân đại hội. Phía Trung Cộng quy định “bảo mật chính trị, quân sự và ngoại giao” nên từ ngày 8 tháng 10 năm 1936 mọi điều cơ yếu chỉ trao đổi trong phạm vi hẹp gồm Mao Trạch Đông, Trương Văn Thiên, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trương Quốc Đào, Từ Hướng Tiền, Hạ Long v.v... Phan Hán Niên có nhiệm vụ mang bức thư của Chu Ân Lai viết ngày 22 tháng 9 năm 1936 chuyển cho Tưởng Giới Thạch và cùng Trần Lập Phu hội đàm dọn đường. Tưởng Giới Thạch hiểu rằng, họng súng đẻ ra chính quyền, nên điều kiện của phía ông đưa ra đầu tiên là giải quyết vấn đề quân đội Trung Cộng và tất nhiên Phan Hán Niên đã kiên quyết cự tuyệt, Phan nói: - Làm như vậy là đứng trên lập trường “tiễu cộng” của ông Tưởng Giới Thạch, chứ đâu phải điều kiện để hợp tác kháng Nhật? Cuộc hội đàm Trần - Phan không đi đến đâu thì Chu Ân Lai “xuất thánh” cũng chẳng có kết quả gì, Mao Trạch Đông điện cho Phan Hán Niên biết “Tưởng tiên sinh giờ đây đã tiến công mạnh khiến cho các tướng lĩnh Hồng quân phải sinh nghi!” và do đó bên Trung Cộng hạ lệnh “quyết chiến!”. Trưa ngày 22 tháng 10 năm 1936, một chuyên cơ từ Nam Kinh hướng về Tây An cất cánh, 3 giờ chiều hôm đó, Tưởng Giới Thạch cùng Tống Mỹ Linh đáp xuống cố đô, cùng đi có hơn 10 vị tuỳ tòng nữa. Tưởng đến Tây An lần này với hai mục đích, thứ nhất là “tiễu Cộng”, vì gần đây chủ lực Trung Cộng chuyển về Thiểm Bắc, thứ hai là “tị thọ” - ngày sinh 31 tháng 10 cũng sắp tới, và năm nay ông vừa 49 tuổi, mà theo tập quán của người Trung Hoa thì “tác cửu bất tác thập”. Vừa rồi, các ngôi sao của bốn hãng phim nổi tiếng ở Thượng Hải là Minh Tinh, Thiện Nhất, Liên Hoa, Tân Hoa đã liên hoan mừng thọ Tưởng Giới Thạch, người ta diễn vở “Cầu hồn” của Sekhov, và Lam Bình (tức Giang Thanh) tham gia thủ vai trong vở kịch một màn này. Còn hôm nay, ở Trường An, Tưởng Giới Thạch cao giọng trước sĩ quan Quốc dân đảng: - Quân nhân phải biết lễ nghĩa, liêm sỉ, tại gia tận hiếu, tại quốc tận trung, phải phục tùng thượng cấp. Không tiễu Cộng mà chỉ nói kháng Nhật là không hiếu không trung, phải trừng trị những quân nhân không hiếu không trung đó. Quân nhân cách mạng phải biết địch gần và địch xa, Cộng đảng là địch gần, Đông Bắc quân cần tiêu diệt chúng, còn quân Nhật - đang ở xa lắm! Nếu không tích cực tiễu Cộng mà chỉ hô hào suông kháng Nhật tức là không phân biệt gần xa, phân biệt trong ngoài, phân biệt thị phi, phân biệt nặng nhẹ v.v... và do đó không là cách mạng nữa... Đó là tất cả những gì mà Tưởng Giới Thạch chuẩn bị cho hội đàm với Chu Ân Lai. Ngày 29 tháng 10 năm ấy, Tưởng Giới Thạch đi Lạc Dương “tị thọ”, ngày 30 khánh lễ được cử hành khá long trọng. Đúng 9 giờ Trương Học Lương và Diêm Tích Sơn đến chúc mừng, ngay lúc ấy trên bầu trời Lạc Dương xuất hiện đội hình máy bay chiến đấu xếp thành con số “50”, Khổng Tường Hy gửi tặng một cỗ bánh sinh nhật rất đặc biệt, Tống Mỹ Linh thân hành cắt bánh phân tặng mọi người. Những chiếc máy bay vừa xếp hình con số “50” được lệnh hạ cánh ở phi trường Tây An đợi lệnh chiến đấu, còn 13 sư đoàn bộ binh thì hành quân về hướng Thiểm Bắc - khu đỏ của Mao Trạch Đông. Ngày sinh nhật lần thứ 49 đáng nhớ của Tưởng Giới Thạch đã mở đầu cho cuộc tiến công Trung Cộng và Mao Trạch Đông đáp lại bằng mệnh lệnh “quyết chiến” mà cuốỉ bản kịch này là lời hô muôn năm - Hồng quân, Xô-viết và Kháng chiến chống Nhật. Cuộc hội đàm Trần - Phan chấm dứt, các mật sứ nơi nội trướng trở về với mỗi chiến hào của mình. Nhưng, kì lạ thay, Tưởng Giới Thạch đã không thoát khỏi năm hạn 49, sáng ngày 12 tháng 12 năm 1936, ông bị Trương Học Lương và Dương Hổ Thành hạ lệnh bắt giam... một sự kiện chấn động cả Trung Quốc vừa nổ ra ở cố đô. III ĐẤU TRÍ TÂY AN NỬA ĐÊM LƯU ĐỈNH TÌM MUA PIN ĐIỆN Hiếm có một khách hàng nào mà nửa đêm lại vội vàng gõ cửa hiệu đồ điện mua cho được pin đèn, dù phải trả giá gấp đôi như ông Lưu Đỉnh. Lúc đó, 0 giờ ngày 12 tháng 12 năm 1936 mà người đời cứ nhắc mãi là “song thập nhị”, “thư kí” của Trương Học Lương, đảng viên cộng sản Lưu Đỉnh đến hiệu đồ điện đập cửa dựng người chủ hiệu thức dậy để mua mấy cặp pin, “một phút cũng không được chậm trễ” rồi vội vàng trở về ngõ Kim Gia - tư dinh của phó Tổng Tư lệnh. Sau khi nghe Trương Học Lương truyền lệnh, phản ứng đầu tiên của Lưu Đỉnh là phải cấp tốc điện báo cho Mao Trạch Đông, nhưng Trương lại giới nghiêm, “cúp” điện toàn thành phố Tây An, nên Lưu Đỉnh dùng pin vậy. Tướng quân Trương Học Lương đã phát động cuộc bạo động từng kinh thiên động địa mà sử sách muôn đời mãi lưu - sự biến Tây An! Phóng viên tạp chí “Đông Kinh tân văn” của Nhật Bản, ngày 16 tháng 1 năm 1993 đã sang tận Đài Bắc phỏng vấn “con người lịch sử” họ Trương, về sự biến Tây An. Ông Trương Học Lương nói, trước khi xảy ra sự biến ông chỉ gặp Chu Ân Lai một lần ở nhà thờ xứ Diên An, người ta cho rằng, do Trung Cộng xui giục, điều đó hoàn toàn trái ngược với lòng yêu nước của ông. Trong hồi kí của mình, Lưu Đỉnh hoàn toàn nhất trí với Trương Học Lương, lúc 0 giờ ngày 12, sau khi nghe Trương thông báo tin “dữ” này, Lưu mới hay biết mọi điều, rằng Trương Học Lương và Dương Hổ Thành đã chủ động phát động cuộc binh biến 12 tháng 12. Tuy trước đây nhiều lần, hai tướng quân thông qua mật sứ đàm phán với Trung Cộng, chủ yếu là “kết thúc nội chiến, cùng nhau kháng Nhật”, nhưng chưa hề bàn đến dùng vũ lực để can gián Tưởng Giới Thạch. “Mua pin trở về thì Tưởng Giới Thạch đã bị bắt, tôi vội vàng điện báo cho Bảo An, người phát tín hiệu là Bành Thiệu Côn”, Lưu Đỉnh nhắc lại. Cảnh vệ của Chu Ân Lai lúc bấy giờ là Lưu Cửu Châu còn nhớ như in, rằng hôm đó mờ sáng ngày 12 tháng 12 năm 1936, Chu Ân Lai đã ngồi làm việc trong nhà hầm. - Thưa Chu Phó chủ tịch, đồng chí dậy sớm quá! - Tiểu Lưu đã biết Tưởng Giới Thạch bị bắt chưa? - Chu Ân Lai hỏi người cảnh vệ. - A! - Lưu Cửu Châu la lớn. - Theo chú, Tưởng Giới Thạch có bị chém không? - Thưa Chu Phó chủ tịch, không ạ! - Vì sao? - Thưa Chu Phó chủ tịch, vì ông ấy đã là tù binh. Chu Ân Lai cười thích thú và hết lời khen ngợi chú bé cảnh vệ Cửu Châu. Còn tại nhà hầm của Mao Trạch Đông, ngày 12 ông nhận được tin này, phản ứng đầu tiên của ông là ngạc nhiên, “Ha, sao Tưởng tiên sinh lại có ngày hôm nay?”- Thế cũng đã mười năm kể từ lúc “chia tay” nhau ở Quảng Châu, Mao - Tưởng hai người đối địch, thề cùng sống mái một phen, mà nay chỉ qua vài tiếng đồng hồ từ Tổng Tư lệnh tiên sinh trở thành tù nhân! Nhưng liền sau đó Mao Trạch Đông bỗng tư lự, sẽ xử trí ra sao? Quả là một vấn nạn! Xư-nua trong tác phẩm “Tạp chí Trung Cộng” viết: “Chu Ân Lai đã nói với Vương Bính Nam: cả một tuần nay chúng tôi không hề chợp mắt... đây có lẽ là quyết định khó khăn nhất trong đời chúng tôi”. Quả vậy, nước cờ Tây An đã làm bạc đầu nhiều người, bên kia lẫn cả bên này. Tạm gác lại phần trí tuệ - đấu trí sẽ kể ở hồi sau, xin độc giả hãy cùng Trương Học Lương tiến về Hoa Thanh trì - hành cung cùng Tưởng Giới Thạch. HOA THANH TRÌ CHÌM TRONG CHIẾN TRẬN Sáng sớm ngày 12 tháng 12 năm 1936 - đó là thời khắc từng làm xoay chuyển cả lịch sử Trung Quốc và Hoa Thanh trì thuộc huyện Lâm Đồng phía đông thành Tây An cũng từng một thời là tiêu điểm quan tâm của thế giới. Hoa Thanh trì toạ lạc tại phía nam thành Lâm Đồng cuối chân rặng tây bắc của Li Sơn. Năm Trinh Quan 18 Đường triều (Công nguyên 644), nơi đây đã dựng nên Thang Tuyền cung và trong “Trường hận ca”, Bạch Cư Dị có một khổ thơ miêu tả cảnh Dương Quý Phi ngâm tấm thân ngọc ngà giữa dòng suối nước nóng hiếm hoi này: ... Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh trì, Ôn tuyền thuỷ hoạt tẩy ngưng chi. Thị nhi phù khởi kiều vô lực, Thủy thị tân thừa ân trạch thì... Dịch giả tôi phải kính cẩn “nhờ” Tản Đà tiên sinh hạ bút chuyển ngữ áng Đường thi đẹp đẽ trên đây để bạn đọc đôi phần thư giãn trước khi vào trận chiến chôn danh thắng... ... Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm, Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa. Vua yêu bận ấy mới là, Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay!... [8] Ngày 22 tháng 10 năm 1936, từ Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch về Tây An “tị thọ”, trú tại Hoa Thanh trì, cho xây dựng nơi đây trở thành hành cung của ông. Ngày 29 Tưởng đi Lạc Dương - Hà Nam, sáng mồng 4 tháng sau về lại Hoa Thanh trì. Lúc bấy giờ Hoa Thanh trì có tám gian phòng, năm gian ở góc đông nam sát khe cạnh núi gọi là “ngũ gian sảnh”, ba gian còn lại tại lối chính đông. Ngũ gian sảnh cột hồng ngói xanh, cây cối um tùm ôm ấp, gian 1 dành cho kẻ hầu người hạ, gian 2 phòng ngủ của Tưởng Giới Thạch, gian 3 phòng làm việc, gian 4 phòng hội nghị, gian 5 chỗ ở của các thư kí. Ngũ gian sảnh là trung khu của hành cung, bốn bề có nhiều hiến binh, vệ sĩ cảnh giới nghiêm ngặt. Trước đây Hoa Thanh trì không có đèn điện, nhưng từ lúc trở thành hành cung, Tưởng Giới Thạch đã cho đặt hẳn một máy phát độc lập đảm bảo ban đêm sáng tựa như ngày. Khác với Mao Trạch Đông, Tưởng thường ghi nhật kí, lần giở lại “Tây An bán nguyệt kí” của ông có đoạn: “Ngày 11 tháng 12 (năm 1936), sáng ra tản bộ quanh sân, trông lên Li Sơn, có hai người đối diện nhìn ta, khoảng chừng mười phút, lòng đã sinh nghi. Trước khi trở vào văn phòng lại thấy xe nhà binh trên con lộ Tây An - Lâm Đồng ầm ầm chuyển động về phía đông. Giờ làm việc đã điểm, ta vào bàn và không còn rảnh rỗi để suy xét...”. Thế là trước một ngày, Tưởng Giới Thạch với con mắt của một nhà quân sự đã phát hiện ra dấu hiệu khả nghi, nhưng vì “không rảnh rỗi để mà suy xét” nên mới ra nông nỗi này! Chập tối hôm đó, Tưởng Giới Thạch triệu hội “Trương Dương Dự” cùng các tướng lĩnh về hành cung ăn cơm tối và luôn thể hội nghị bàn kế hoạch vây tiễu Hồng quân. Ý đồ của Tưởng, cũng ngày 12 sẽ hạ lệnh “tổng công kích tiễu Cộng” lần thứ 6. Trương Dương Dự là mật khẩu, chỉ ba người Trương Học Lương, Dương Hổ Thành và Dự Học Trung. Thế nhưng “Dương Dự” không đến, còn Trương Học Lương kế hoạch cũng vậy, vì cả ba người đã liên danh tổ chức yến tiệc thiết đãi quan viên quân, chính trực hệ của Tưởng Giới Thạch từ Nam Kinh lên, đúng vào đêm 11 tại Tân Thành đại lầu ở Tây An. Nhận được lệnh của Tổng Tư lệnh, phó Trương đành dứt áo lên đường. Tưởng, Trương cùng ngồi một bàn và hãy nghe Tưởng miêu tả về Trương đêm hôm ấy, vẫn trích từ “Tây An bán nguyệt kí” - “Hán Khanh kim nhật” khác thường, thần sắc đổi thay, nói năng ấp úng, ta cảm thấy có điều gì đó, trước khi thiếp ngủ mà vẫn nghĩ không ra. Quả vậy, vì trước dó “Hán Khanh” Trương Học Lương đã trịnh trọng tuyên bố với các cận thần, bộ hạ rằng ông và Dương Hổ Thành quyết định bắt giam Tưởng Giới Thạch, yêu cầu đình chỉ nội chiến, cùng nhau kháng Nhật. Trương Học Lương cử ba đại tướng tiến về Lâm Đồng thực hiện sứ mạng lịch sử này. Người thứ nhất, doanh trưởng cận vệ đội - Tôn Minh Cửu, tâm phúc của Trương, lâu nay tham gia mọi việc cơ yếu, hoàn toàn tin cậy, chỉ có điều Tôn là sĩ quan du học ở Nhật, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều nên phải thêm hai đại tướng tả hữu hai bên. Người thứ hai, sư trưởng sư đoàn kị binh số 6 - Bạch Phượng Tường, và người thứ ba - Lưu Quế Ngũ, trung đoàn trưỏng trung đoàn số 18 thuộc sư của Bạch. Bạch, Lưu là hai tay lục lâm, bắn súng cực giỏi, nghe nói ban đêm tối đen, vẫy tay vẫn trúng. Hai người cũng không phải trực hệ với Trương Học Lương, nhưng ông lại tin dùng trong công việc cơ mật, vì ngoài tinh thần kháng Nhật rất kiên quyết của họ ra, Bạch và Lưu đều qua thử thách. Lưu Quế Ngũ kể rằng, lần nọ tôi và phó Tổng Tư lệnh (chỉ Trương Học Lương) đang ngồi với nhau, bỗng phát hiện thấy khói của dây cháy chậm, ông vội vàng bỏ chạy và kêu to: mìn, mìn, tôi bình tĩnh tìm cho được quả mìn và ném nó ra ngoài cửa sổ. Tướng quân hỏi tôi: sao anh không chạy? và sờ lên ngực tôi xem thử tim đập ra sao, tôi trả lời: hạ quan có thể chạy tránh, nhưng bỏ mặc phó Tư lệnh cho ai? Ông cười và nói: anh thật can đảm. Ngày 8 tháng 12, lúc 2 giờ chiều, Trương Học Lương cho tôi hay về kế sách bắt giam Tưởng Giới Thạch, ông nói phải đưa tôi đến Hoa Thanh trì nghe Tổng Tư lệnh, uỷ viên trưởng giáo huấn, nhân thể có thời gian quan sát cho kĩ địa hình địa thế mà hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi giới thiệu tôi với Tưởng Giới Thạch xong, ông bỏ về, để mình tôi ở đó, hoàn toàn tin tưởng tôi, không sợ tôi “bán chủ cầu vinh”. Còn Bạch, nhận được lệnh của Tưởng liền nhanh chóng về Tây An lĩnh đủ 12 khẩu súng lục, giao cho phó quan lau sáng từng khẩu một, phó quan ngớ người không hiểu để làm gì mà nhiều súng vậy. Bạch Phượng Tường giải thích: - Vùng núi Tây An có một con hổ hại người, phải nhắm trúng nó, mãi sau bộ hạ của ông mối hiểu “con hổ” hiện đang nằm ở Hoa Thanh trì. Trương Học Lương còn nhớ, ngày đầu tiên trở thành quân nhân, ông đã nghe thân phụ căn dặn: “Con muốn làm người lính ư? Hãy cắt cái đầu của mình dắt vào lưng nịt!”. Thật đúng như vậy, khi hạ lệnh bắt giam Tưởng Giới Thạch, Trương Học Lương có cảm giác “đầu mình đã lìa khỏi cổ”. Tôn Minh Cửu kể rằng, khoảng 10 giờ tối ngày 11 tháng 12 nhận được mật lệnh, tôi đến tư dinh Trương Học Lương ở ngõ Kim Gia, ông bảo tôi: “Bây giờ anh đi mời Tưởng uỷ viên trưởng về thành, nhưng cấm không được bắn chết ông ta”. Trương Học Lương như cảm thấy nếu cuộc “can gián binh lực” này mà thất bại thì hậu quả không biết sẽ ra sao. Ông nói: “Ngày mai vào giờ này, không khéo anh và tôi chưa hẳn sẽ gặp lại nhau, có thể tôi và anh đều chết cả”. Bản thân tôi phần nào cũng có tâm trạng như vậy, rằng đi mà không trở về, tôi cáo biệt vợ con, viết một chúc thư dắt vào túi áo trên, vạn nhất nếu mệnh hệ gì thì nhờ Ứng Đức Điền đưa Tôn Minh Xương - em tôi - đi khu đỏ Thiểm Bắc hoặc sang Liên Xô học tập... Nửa đêm, Đông Bắc quân và Tây Bắc quân phối hợp hành động: quân Đông Bắc của Trương Học Lương tiến về Lâm Đồng bắt Tưởng, quân Tây Bắc của Dương Hổ Thành có nhiệm vụ giam giữ tất cả quan viên quân chính của Tưởng Giới Thạch ở thành phố Tây An. Trương Học Lương hạ lệnh Lưu Đa Thuyên - sư trưởng sư đoàn 105 làm tổng chỉ huy, chia làm hai tuyến, tuyến ngoài cảnh giới bốn bề Hoa Thanh trì, chặn quân của Tưởng phá vòng vây tháo chạy, tuyến trong do Tôn Minh Cửu, Bạch Phượng Tường, Lưu Quế Ngũ và Vương Ngọc Toán chọc thẳng vào Hoa Thanh trì bắt sống Tưởng Giới Thạch, chỉ huy tuyến này là Đường Quân Nghiêu - lữ đoàn trưởng. Bố trí trận đồ rành mạch xong, Trương Học Lương mới cho Lưu Đỉnh biết mọi quân cơ, Lưu vội vàng mua pin đèn để chạy máy điện báo về cho Mao Trạch Đông ở Bảo An, lúc ấy các mũi tiến công đều đã lên đường. Lính tráng không rõ chân tướng sự việc ra sao, họ chỉ biết lệnh truyền: Trương phó Tổng Tư lệnh bị bắt giam ở Hoa Thanh trì, hãy mau mau đi cứu nguy cho Trương phó, bắt sống Tưởng tổng, chỉ có bắt sống Tưởng Giới Thạch thì mới giải thoát được Trương Học Lương. Theo trinh sát, đội cận vệ nội viên của Tưởng chỉ có khoảng 30 người, quân hiến binh vòng ngoài đồn trú gần miếu Vũ Vương khoảng 70 người. Vương Ngọc Toán một đòn dẹp yên quân hiến binh ở miếu Vũ Vương, trong khi đó xe ô-tô chở đại đội trưởng Vương Hiệp - thuộc hạ của Tôn Minh Cửu và 15 binh sĩ đâm thẳng vào cổng chính Hoa Thanh trì phá vỡ rào chắn, giao tranh với lính gác cổng, tiếng súng đã đánh thức mọi người và xe của Tôn Minh Cửu cũng vừa ập tới. Phải băng qua lửa đạn Tôn Minh Cửu và Vương Hiệp mới lọt vào khu trung tâm của hành cung là Ngũ Giang sảnh, hai người thộc vào phòng ngủ của Tưởng Giới Thạch thì vắng vẻ lạ thường, trên bàn còn nguyên mũ, cặp da và răng giả của Tưởng, trên giá áo đại y đang treo ngay ngắn, chăn đệm vẫn còn hơi ấm, chứng tỏ người vừa tẩu thoát không lâu, và một cánh cửa sổ bên cạnh giường mở toang, đúng là Tưởng đã nhảy qua đây. Bạch Phượng Tường vào Lưu Quế Ngũ đến sau hay tin Tưởng Giới Thạch đã chạy trốn, liền chia nhau lùng sục. Tổng chỉ huy Lưu Đa Thuyên điện báo tình hình về Trương Học Lương. Trương toát mồ hôi khi nghe tin Tưởng tẩu thoát, vừa lúc ấy Tôn Minh Cửu cấp báo - tìm thấy một chiếc giày sau tường phía núi, lập tức lệnh truyền: càn Li Sơn! Núi ấy tên gọi là Li Sơn, “li” là con ngựa có lông xanh tuyền, hình núi giống như tuấn mã, sắc núi quanh năm một màu thanh tú, nên mệnh danh như vậy. Từ xưa Li Sơn đã có tên tuổi, hỏa phong đài của Chu U Vương tương truyền từng lập trên đỉnh Li Sơn, lăng Tần Thủy Hoàng cũng đặt ở đây, rồi Hoa Thanh trì, Đường triều Hoa Thanh cung đều quần tụ dưới chân Li Sơn và nay Tưởng đang ẩn mình trên đó. Quân Đông Bắc dàn hàng ngang theo Li Sơn, ai cũng hăm hở để trở thành người bắt sống Tưởng Giới Thạch và nhận thưởng một vạn quan. Đến lưng chừng núi, tiểu đội trưởng Trần Tư Hiếu bắt được một thị vệ của Tưởng, Tôn Minh Cửu chạy tới thì mới hay đó là cháu của Tưởng, tên gọi Hiếu Trấn, hầu hạ cạnh Tưởng. Tôn Minh Cửu dí súng lục vào đầu Tưởng Hiếu Trấn, làm cho y sợ hãi và đưa mắt chỉ tới nơi Tưởng Giới Thạch ẩn nấp. Tưởng chân trần, đầu trần, vận áo lụa màu đồng, quần ngủ màu trắng, đứng trân trân trong đêm trường gió lạnh, tuy thất thế sa lưới nhưng vẫn oai vệ hất hàm: - Các người là ai? - Đông Bắc quân - Tôn Minh Cửu đáp. Tưởng Giới Thạch thở phào nhẹ nhõm. - Trương phó Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho chúng tôi bảo vệ ủy viên trưởng, mời ủy viên trưởng về thành lãnh đạo chúng tôi kháng Nhật, giải phóng Đông Bắc. Sau đó tình tiết ra sao? Trong “Tây hành mạn ký”, nhà báo Mỹ - Xư nua đã miêu tả: Tôn Minh Cửu chào Tưởng Thạch, câu đầu tiên của Tưởng là: “Anh là đồng chí, mà lại nổ súng bắn ta”. Tôn trả lời: “Chúng tôi không nổ súng, chúng tôi chỉ yêu cầu ủy viên trưởng kháng Nhật cứu nước”. Tưởng vẫn cứ ngồi lì trên một tảng đá và khăng khăng: “Gọi Trương thiếu soái lên đây, ta mới xuống núi”. Tôn giải thích: “Trương thiếu soái không ở đây, quân lính trong thành đã khởi nghĩa, chúng tôi đến bảo vệ ủy viên trưởng”. Tưởng Giới Thạch xem chừng đã yên tâm và đòi ngựa, Tôn đáp: “Ở đây không có ngựa, nhưng tôi sẽ cõng ủy viên trưởng hạ sơn”. Tưởng do dự một lát rồi đồng ý để cho Tôn Minh Cửu cõng mình, xe ô-tô đã đợi họ dưới đó... Đằng đông, trời hửng đỏ, đêm Li Sơn vừa qua. Màn một của sự biến Tây An đã khép, ở Lâm Đồng trên núi Li Sơn, Tưởng Giới Thạch bị nghĩa quán vây bắt giải về Tây An, nơi ấy chân tay của ông cũng bị tóm gọn. Trương, Dương thở phào nhẹ nhõm, thầy trò Học Lương và Minh Cửu vẫn lại gặp nhau, chúc thư của Tôn chỉ để làm kỷ niệm. LÃO NHÂN CỬU TRẬT NHỚ CHUYỆN XƯA Cửu trật đại thọ của Trương Học Lương cử hành tại Đài Bắc đúng vào ngày 31 tháng 5 năm 1990 với sự tham gia của hơn 80 vạn quan chức Quốc dân đảng, trên thực tế đây là dịp “minh oan” cho một ông già vừa tròn 90 tuổi và Trương trở thành nhân vật của báo chí, lại “chấn động” dư luận như năm nào ông dấy binh phát động sự biến Tây An. Trương Học Lương sinh ngày 17 tháng 4 năm Tân Sửu. Năm 1928, ngày âm lịch ấy nhằm đúng dương lịch mồng 4 tháng 6, cầu đường sắt Thẩm Dương bị Nhật đặt mìn đánh gãy, đoàn tàu của Trung Quốc chìm sông, thân phụ của Trương là Tác Lâm tử vong. Từ đó, Học Lương lấy ngày cha qua đời làm sinh nhật cho mình để khắc cốt ghi xương mối thù với quân Nhật. Hôm nay sau hơn nửa thế kỷ, người phỏng vấn ông lại là một ký giả trẻ của Nhật, họ muốn quay về cái ngày sinh nhật tắm máu ấy của Trương. Ông nói: - Thù nhà nợ nước đặt lên vai tôi, quyết không đội trời chung cùng kẻ thù. Phụ thân tôi qua đời, chính phủ Nhật Bản phái đặc sứ đến an ủi tôi, người đó tên Lâm Quyền Trợ - một nhà Trung Quốc học, tôi trả lời ông ta: Lâm tiên sinh, ông suy nghĩ quả là chu đáo, nhưng có điều ông vẫn không rõ, tôi là người Trung Quốc. Liền sau đó Trương Học Lương cho hạ cờ Đông Bắc quân, treo cờ thanh thiên bạch nhật của Tôn Trung Sơn. Trong ba ngày cả ba tỉnh Đông Bắc rợp một màu cờ Trung Hoa dân quốc, lập tức ngày 11 tháng 3 năm 1928, Trương Học Lương được chính phủ phong cấp quan Tư lệnh quân biên phòng Đông Bắc. - Từ bấy, tôi và Tưởng tiên sinh bắt đầu hợp tác với nhau. Quan hệ cá nhân giữa chúng tôi là rất tốt; ông ấy qua đời, tôi đã đến viếng, nhưng về công việc thì có thể dùng vế đối sau đây để diễn đạt, đó là: “Chính kiến chi thanh uyển nhược cừu địch” hoàn toàn trái ngược với “Quan hoài chi yên tình đồng cốt nhục”. Cuộc đấu tranh chính kiến giữa tôi và Tưởng Tổng thống tập trung vào bốn chữ “yên trong” và “dẹp ngoài”, còn tôi “dẹp ngoài rồi mới yên trong”. Tôi căn bản không đồng ý tiễu Cộng, quân Đông Bắc chỉ muốn trở về quê hương, chỉ muốn giải phóng bản quán khỏi ách xâm lược của phát xít Nhật, kẻ thù của họ đâu phải Hồng quân mà đánh đấm cho tổn hao binh lực. Hồi ấy tinh thần kháng Nhật lên cao, chính phủ thì lừng khừng, do dự nên Trung Cộng đã phất cờ dân tộc chiếm được lòng dân. Về phần mình, ý nguyện không muốn giao tranh cùng Hồng quân tôi phải giấu kín trong lòng vì còn phải tuân thủ kỷ luật của nhà binh. Quay lại sự biến Tây An, Trương Học Lương không cần giải thích gì thêm, đó là tất yếu của “chính kiến chi tranh” mặc dầu về quan hệ cá nhân là “tình đồng cốt nhục”, song ông khái quát: - Tình hình lúc ấy “tam quốc tứ phương”: Nhật Bản, Trung Hoa dân quốc của Quốc dân đảng, Cộng hòa xô-viết nhân dân Trung Hoa của Trung Cộng, và trong nội bộ thì có hai phương: Tưởng Giới Thạch một bên và Trương Dương một bên. Quan hệ đan chéo nhau thật là phức tạp, và do đó chúng tôi phải khôn ngoan xử lý mọi tình thế. TIÊN LỄ, HẬU BINH Trương Học Lương đã nói “chính kiến chi tranh” giữa ông và Tưởng Giới Thạch tồn tại từ lâu, nhưng “không mấy gay gắt” vì còn “tình đồng cốt nhục”. Song sự kiện vây bắt Tưởng ở Hoa Thành trì là “gay gắt” đến mức không còn cách nào khác hơn, Trương Học Lương nhiều lần “ngôn gián” mà vẫn không được nên phải dùng đến vũ lực, đúng như cố nhân dạy “tiên lễ” rồi mới “hậu binh”. Tất nhiên sự “gay gắt” nêu trên là cả một quá trình, những ngày Tưởng Giới Thạch “tị thọ” ở Lạc Dương, Trương Học Lương đã nhiều lần giải bày nỗi thống khổ ấm ức trong lòng mình với Tưởng: - Tôi nợ nước chưa trả, thù nhà chưa báo, ấy mà lại bị người đời trách móc là “tướng quân không đề kháng”, thật có lỗi với quốc dân, với đồng bào, với thân phụ... hay là ủy viên trưởng hãy đình chỉ nội chiến, cùng nhau đánh Nhật. - Hồng quân đã đến lúc mạt vận, chỉ cần gắng thêm một ít nữa thôi là có thể tiêu diệt chúng, lúc ấy bên trong sẽ yên và ta mới có thể chống bên ngoài. - Tưởng Giới Thạch trả lời Trương một cách cương quyết. Sau đó Trương Học Lương cùng Diêm Tích Sơn lần nữa khuyên can Tưởng Giới Thạch, Tưởng vẫn một mực hăm doạ: - Tôi phục tùng các anh, hay các anh phục tùng tôi? Hôm giảng bài ở phân hiệu trường quân sự Lạc Dương, Tưởng nói bóng gió: “Có người muốn liên Cộng, kẻ đó không bằng cả Ân Như Canh”. Ân Như Canh vốn là người Quốc dân đảng, tháng 11 năm 1935 câu kết với đặc vụ Nhật và trở thành đại Hán gian, dự định thành lập “chính phủ tự trị” thân Nhật ở năm tỉnh Hoa Bắc (bao gồm Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc, Sơn Tây, Nội Mông). Như vậy là Tưởng ngầm cảnh cáo Trương, anh muốn liên minh với Trung Cộng thì quá ư tồi tệ còn hơn cả thằng Hán gian. Tưởng Giới Thạch biết quân Đông Bắc của Trương Học Lương và quân Tây Bắc của Dương Hổ Thành không muốn tiễu Cộng nên ngày 6 tháng 12 năm 1936 triệu hồi Trương, Dương về hành cung Hoa Thanh trì răn đe: “Bất luận như thế nào, đây cũng là lúc thảo phạt đảng Cộng sản, ai chống lại lệnh này... Trung ương không thể không trừng phạt đích đáng”, ông đưa ra phương án và buộc Trương, Dương tự chọn: hoặc Đông Bắc quân và Tây Bắc quân cùng hành quân lên Thiểm Bắc tấn công Hồng quân, hoặc không muốn tiễu Cộng thì Đông Bắc quân sẽ điều về Phúc Kiến, Tây Bắc quân sẽ điều về An Huy, giao hai tỉnh Thiểm Cam cho quân trung ương lên thay thế làm nhiệm vụ thanh toán Cộng sản. Cả hai phương án đều dồn Trương, Dương vào tận chân tường. Ngày hôm sau, mồng 7, vẫn nuôi ít nhiều hy vọng Trương Học Lương lại đến Hoa Thanh trì can gián Tưởng Giới Thạch lần nữa: - Quân Nhật xâm chiếm nước ta, lòng tham vô độ, ba tỉnh Đông Bắc đã mất và sau đó năm tỉnh Hoa Bắc còn mà cũng như không, gần đây chúng lại lăm le tiến công Nội Mông và chắc chẳng bao lâu sẽ đến lượt Tây Bắc vùng này. Sự tồn vong của quốc gia dân tộc đã đến bước tận cùng, thưa ủy viên trưởng, không kháng Nhật thì không thể nào giữ nước, không đình chỉ nội chiến thì không thể nào cứu dân, tiếp tục tiễu Cộng là xem như tuyệt lộ! Giờ đây, thưa ủy viên trưởng, kháng Nhật là hàng đầu, là số 1, vấn đề Hồng quân có thể dùng phương pháp chính trị giải quyết, chỉ có nhất trí cùng nhau dẹp ngoài thì mới có lòng yên trong, hễ phát động chống ngoại xâm là tức khắc thống nhất được dân tộc. Tinh thần và quyết tâm đánh Nhật của Đông Bắc quân tôi rất cao, chỉ còn đợi lệnh của ủy viên trưởng. Tưởng Giới Thạch im lặng lắng nghe và lập tức như một ngọn dao đâm thẳng vào Trương Học Lương: - Anh hiểu Cộng sản tường tận như vậy ư? Anh bị chúng huyễn hoặc mất rồi! Nên nhớ: kẻ thù lớn nhất lúc này của Trung Quốc không phải là Nhật Bản, mà là đảng Cộng sản. Nay là cơ hội tiêu diệt đảng Cộng sản, anh không chủ trương tiễu trừ mà lại liên minh thì thật là phản động. Bây giờ anh có cầm súng bắn tôi, kế hoạch tiễu Cộng của tôi vẫn không thể thay đổi! Mọi công sức “ngôn gián”, “tiên lễ” của Trương đều vô hiệu. Sau đó đến lượt Dương Hổ Thành gặp Tưởng Giới Thạch, cũng hết lời khuyên can, Tưởng vẫn thế: - Anh là đồng chí tiền bối của đảng ta, anh phải hiểu chúng ta và Cộng sản là không thể chung sống với nhau, có tiêu diệt Cộng sản tôi mới kháng Nhật, thay đổi quan cấp, tôi chuẩn y! Sự tình là như thế và Trương, Dương buộc phải dùng đến hạ sách “hậu binh”, vây bắt Tưởng Giới Thạch trên núi Li Sơn đúng vào ngày 12 tháng 12 năm 1936, ngày mà Tưởng đã dự định phát động đợt thứ 6 cuộc tổng công kích Trung Cộng. Nơi Tưởng Giới Thạch lâm nạn ở Li Sơn, người ta dựng nên một cái đình, đầu tiên bằng gỗ lợp tranh và gọi là “Mông nạn đình”, sau đổi “Phục hưng đình”. Năm 1946, Hồ Tôn Nam cho huỷ đình cũ, xây mới bằng bê tông cốt thép, đặt lại tên “Chính khí đình”. Năm 1950 đổi thành “Tróc Tưởng đình” (đình bắt Tưởng), năm 1986 nhân kỷ niệm 50 năm sự biến Tây An, đình này lại cải danh là “Binh gián đình”. Mỗi thời đã không giống nhau, có lúc rất cụ thể như “lánh nạn”, “bắt Tưởng”, có lúc lại trừu tượng như “chính khí”, “phục hưng”, nhưng đúng với những người trong cuộc thì “can gián bằng binh lực” là hay nhất, còn sau này trong tương lai sẽ như thế nào, nay chưa ai dám nói. SỰ BIẾN TÂY AN VÀ BA VŨ ĐÀI CHÍNH TRỊ - BẢO AN, TÂY AN, NAM KINH Sự biến Tây An như một tảng đá rơi xuống mặt sông gây nên vạn trùng sóng, tin truyền đến đâu, nơi ấy xao động hẳn lên. Trên thực tế đây là lần tổng duyệt đầu tiên về thái độ đối với Tưởng Giới Thạch, người chống Tưởng hân hoan cuồng nhiệt, kẻ thân ông rầu rĩ ê chề ba sân khấu chính trị - Bảo An, Tây An và Nam Kinh trò diễn cùng hoàn toàn khác nhau. Tiếng súng chỉ mới là hành động, mà hành động thì còn phải tuyên ngôn nói rõ. Vây bắt Tưởng Giới Thạch ở Li Sơn - Lâm Đồng lúc mờ sáng ngày 12 tháng 12, báo chí không cách nào đưa tin kịp. Ngay hôm ấy Trương, Dương đã ấn phát thông báo số 1, nêu rõ 4 điểm: (1) Để đình chỉ nội chiến, nay phải bảo vệ ủy viên trưởng một cách thỏa đáng và yêu cầu ông tỉnh ngộ. (2) Thông báo với toàn quốc và yêu cầu chính phủ lập tức triệu tập hội nghị cứu nước. (3) Đề nghị chính phủ thả tất cả chính trị phạm. (4) Từ nay về sau phải đoàn kết với mọi nhân sĩ đảng phái cùng nhau đánh giặc cứu nước. Tiếp sau thông báo số 1 là tám điều chú ý mà trọng tâm vẫn là “đình chỉ nội chiến, đánh giặc cứu nước”. Hai văn bản lịch sử này chỉ vẻn vẹn 300 chữ, nhưng đã nói rõ lý do vì sao Trương, Dương buộc phải nổ súng ở Hoa Thành trì, thực hiện “binh gián” với Tưởng Giới Thạch. Cổ thành Tây An sục sôi với cái tin “Tróc Tưởng” (bắt Tưởng), nhân dân cố đô tự động xuống đường hô vang khẩu hiệu “Ủng hộ tám chủ trương của Trương, Dương”, “Xử án Tưởng Giới Thạch”, “Bắn chết Tưởng Giới Thạch”. Còn ở Hồng đô Bảo An, sau khi nhận được điện báo của Lưu Đỉnh, mỗi người nghĩ một cách. Mao Trạch Đông rất vui mừng thoải mái với câu nói “Tưởng Giới Thạch ác bá một đời, hẳn cũng biết sẽ có ngày hôm nay”. Chu Ân Lai nói đùa: “Tưởng tiên sinh nhiều lần treo giải 8 vạn quan để bắt tôi, nay tiên sinh bị bắt mà chúng ta không tốn một xu”. Chu Đức gay gắt hơn: “Có lẽ phải chém!”. Riêng Trương Văn Thiên im lặng suy tư v.v... Tất cả mọi người không bình luận gì thêm vì phải cụng đầu soạn thảo hai văn bản: một báo cáo cho Quốc tế Cộng sản, và một phúc đáp Trương Học Lương rằng sẽ cử Chu Ân Lai đi Tây An cùng Trương, Dương thương lượng kế sách. Nhận được điện báo trả lời của Mao Trạch Đông, Trương Học Lương vui mừng khôn tả, ông thốt lên: “Chu tiên sinh đến là sẽ có tất cả mọi cách” và lệnh cho Lưu Đỉnh chuẩn bị chuyên cơ đi Bảo An đón Chu Ân Lai. Hành động của Trung Cộng thật mau lẹ, Mao Trạch Đông bình luận sự biến Tây An có tính chất như một cuộc “khởi nghĩa kháng Nhật” và Trung Cộng biểu thị sự ủng hộ. Sáng ngày 13 tháng 12 năm 1936, tờ “Trung Hoa đỏ” liền đăng bài “Khởi nghĩa kháng Nhật ở Tây An, Tưởng Giới Thạch bị bắt và hành động cách mạng kiên quyết của nhị thần Trương, Dương!”. Cũng hôm đó, tại nhà số 1 - Thất Hiền Trang phía đông bắc thành Tây An bảng hiệu “Bệnh viện nha khoa của bác sĩ Hai-po-thơ” tự nhiên đổi thành “Trạm liên lạc tại Tây An của Hồng quân Trung Quốc kháng Nhật”, và sau đó không lâu thì chiếm luôn Phu Thi, cải danh là Diên An cho tới ngày nay. Nhân đây cũng xin có đôi lời về ngôi nhà số 1 - Thất Hiền Trang. Mùa xuân năm 1936, theo chỉ thị của Chu Ân Lai về xây dựng một trạm liên lạc bí mật của Trung Cộng tại Tây An, Lưu Đỉnh đã mua căn nhà này và để che mắt thiên hạ, ông nhờ nhà báo nữ người Mỹ mời bác sĩ nha khoa Hai-po-thơ ở Thượng Hải lên đây mở phòng chuẩn trị. Hai-po-thơ người Do Thái, bị phát xít Đức bức hại phải lưu vong sang Trung Quốc, có cảm tình với Trung Cộng, “Y sĩ giúp việc” cho ông là Hạ Minh - vợ của Đặng Trung Hạ - uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị Trung Cộng, về sau còn có một số đảng viên cộng sản nữa làm việc bí mật ở đó, họ lập được điện đài liên lạc với Hồng đô Bảo An. Sân khấu chính trị thứ ba - Nam Kinh, mãi tới 3 giờ 50 phút chiều ngày 12 mới hay tin Tưởng Giới Thạch “mất tích”, 5 giờ 20 phút tiếp tục nhận thông báo của Trương -Dương, tin dữ “Giới công” bị bắt loan khắp thành, chẳng khác nào như một vụ nổ làm hoảng loạn mọi người và không biết phải bắt đầu làm gì? Đêm 12, Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng họp khẩn cấp bất thường, thảo luận cho tới 3 giờ sáng ngày 13 thì mới ra được quyết nghị: (1) Khổng Tường Hy - phó viện trưởng viện hành chánh (chính phủ ND.) tạm thay quyền Tưởng Giới Thạch làm viện trưởng. (2) Ban chấp hành hội đồng quân sự tăng lên bảy người và do Phùng Ngọc Tường - phó uỷ viên trưởng điều hành. (3) Bộ trưởng lục quân Hà Ứng Khâm chỉ huy quân đội. Hội nghị còn quyết định tước bỏ mọi quan cấp chức vụ của Trương Học Lương và cử Hà Ứng Khâm lãnh binh thảo phạt quân phiến loạn ở Tây An. Riêng Trần Lập Phu - từng là nhịp cầu liên hệ giữa Quốc - Cộng, lại mở một tuyến khác, ông móc nối với Phan Hán Niên ở Thượng Hải, ngày 14 họ gặp nhau và lập tức hội đàm, nội dung cụ thể xin tạm gác lại hồi sau, vì phải nói ngay tới Tống Mỹ Linh - hiền thê của Tưởng Giới Thạch, bà cũng đang ở Thượng Hải. Lúc 12 giờ trưa 22 tháng 10 năm 1936, Tống Mỹ Linh cùng Tưởng Giới Thạch trên chuyến chuyên cơ hạ cánh xuống Tây An và sau đó họ lên xe về hành cung Hoa Thanh trì. Tống Mỹ Linh và Tưởng Giới Thạch cùng đi Lạc Dương, sau khi Tưởng thổi tắt 50 ngọn nến trên bánh sinh nhật, Mỹ Linh đã giúp phu quân cắt bánh mời quan khách. Ngày 4 tháng 12, Trương Học Lương hộ tống Tưởng Giới Thạch bay về Tây An, lúc ấy Mỹ Linh phải đi Thượng Hải chữa bệnh cho nên trong cảnh tên bay đạn lạc “thiếp không ở cạnh chàng”. Sáng 13, bà vội vàng bay về Nam Kinh và rất không bằng lòng với quyết định của Ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng vừa kí chưa ráo mực, Tống Mỹ Linh viết: “Các vị lãnh đạo trung ương trong khi chưa nắm hết tình hình đã vội vàng xử trí Trương Học Lương, lại điều binh khiển tướng thảo phạt Tây An, thật là thô bạo, phần tôi, sẽ cố gắng bằng con đường hoà bình không đổ máu nhanh chóng giải quyết sự việc”. Như vậy ở Nam Kinh xuất hiện phái chủ chiến do Hà Ứng Khâm cầm đầu, và phái chủ hoà do Tống Mỹ Linh thống soái để xử lí sự biến Tây An, phái chủ hoà còn có Khổng Tường Hy, Tống Tử Văn, Tôn Khoa và Vương Sùng Huệ. Chiều ngày 13, một chuyên cơ cất cánh từ Nam Kinh bay về hướng bắc, trên đó là “sứ thần” của Tống Mỹ Linh. Ở BẢO AN, MAO TRẠCH ĐÔNG ĐỀ XUẤT ĐẤU TƯỞNG Cùng với lúc chuyên cơ do Tống Mỹ Linh phái cử cất cánh ở Nam Kinh thì một chuyên cơ khác do Trương Học Lương giao nhiệm vụ bay từ Tây An đi Hồng đô Bảo An, lịch sử ghi lại hình ảnh ngoạn mục những sứ giả con thoi nối đuôi nhau bay lượn từ thủ đô Nam Kinh đến cố đô Tây An và cuối cùng là Hồng đô Bảo An. Sáng ngày 13, nhân dân và Hồng quân ỏ Bảo An cuốc xẻng nô nức đi làm sân bay, người ta cứ tưởng một bãi bằng là phi cơ có thể hạ và cất cánh được, nhưng nào ngờ chuyên cơ lượn mấy vòng trên bầu trời Hồng đô, dành phải quay về Tây An, Chu Ân Lai chỉ còn cách đi đường bộ đến cố đô giúp Trương, Dương bàn kế xử lí sự biến. Hôm ấy Thường vụ trung ương Trung Cộng họp phiên mở rộng do Trương Văn Thiên chủ trì thảo luận chủ đề sự biến Tây An (biên bản cuộc hội nghị này vẫn còn lưu trữ, và do đó chúng ta mới có điều kiện nghiên cứu động thái chính trị lúc bấy giờ). Thoạt đầu, Mao Trạch Đông báo cáo, ông khẳng định ý nghĩa cách mạng của sự biến Tây An và hành động, cương lĩnh tích cực của Trương, Dương, ông kết luận: chúng ta nên ủng hộ, nhưng trong báo cáo của Mao có hai vấn đề gây nên tranh luận. “Có nên thành lập chính phủ toàn quốc ở Tây An hay không?”. Mao Trạch Đông nói: “Tôi thấy trên cơ sở sự biến Tây An cần thành lập ở đây một chính phủ thực chất, gọi là uỷ ban kháng Nhật, trên danh nghĩa không phải là chính phủ toàn Quốc”, ông còn chủ trương: “Chúng ta nên lấy Tây An làm trung tâm để lãnh đạo cả nước, khống chế Nam Kinh, lấy Tây Bắc làm tiền tuyến kháng Nhật, ảnh hưởng toàn quốc”. Chu Ân Lai có cách nhìn khác với Mao Trạch Đông về vấn đề này, ông đề xuất: “Trên phương diện chính trị, chúng ta không nên sử dụng phương pháp đối lập với chính phủ Nam Kinh và do đó không chủ trương lấy Tây An làm trung tâm”. Trương Quốc Đào phát biểu: “Chúng ta phải lấy Tây An làm trung tâm kháng Nhật, tất nhiên là bao hàm cả ý nghĩa trung tâm chính quyền, phải đả đảo chính phủ Nam Kinh, thành lập chính phủ kháng chiến, vân đề cần thảo luận nên thực hiện như thế nào?”. Trương Văn Thiên suy nghĩ hồi lâu rồi mới trình bày ý kiến của mình, ông ủng hộ quan điểm của Chu Ân Lai không đối lập với chính phủ Nam Kinh, ông nói: Có thể nên chuyển mặt trận thống nhất kháng Nhật cục bộ chuyển thành toàn quốc, khiến cho Trung Cộng nhảy lên vũ đài chính trị một cách hợp pháp”. Bác Cổ lúc đầu ủng hộ quan điểm Mao Trạch Đông, nhưng sau khi nghe Trương Văn Thiên, thấy có lí, bèn thay đổi ý kiến rằng “nên xem sự biến Tây An là ngọn cờ kháng Nhật, chứ không phải là ngọn cờ phản Tưởng”. Vấn đề về chính phủ Nam Kinh chưa ngã ngũ trong đầu não của Trung Cộng, thì chủ đề thứ hai lại càng gây tranh luận gay gắt hơn: xử lí Tưởng Giới Thạch như thế nào? Mao Trạch Đông đề xuất “thẩm Tưởng”, “bãi Tưởng”, “trừ Tưởng”, ông nói: “Thứ nhất, vạch mọi tội ác của Tưởng Giới Thạch trước nhân dân, và ủng hộ sự biến Tây An. Thứ hai, bãi miễn Tưởng Giới Thạch, giao nhân dân thẩm xét. Thứ ba, trừ khử Tưởng Giới Thạch về mặt nào cũng có lợi”. - Mao Trạch Đông trút mọi hận thù tích tụ trong 10 năm giao tranh lên đầu Tưởng. Chu Đức dứt khoát hơn: “Chém Tưởng xong, rồi hãy bàn chuyện khác!”. Trương Quốc Đào, Bác cổ ủng hộ quan điểm của Mao Trạch Đông, bổ sung thêm “sát Tưởng” như Chu Đức, Chu Ân Lai và Trương Văn Thiên không phát biểu gì về vấn đề xử lí Tưởng Giới Thạch. Bốn giờ chiều ngày 13, nhân dân Bảo An mít tinh kiên quyết yêu cầu công khai đấu Tưởng Giới Thạch, thù hận xung thiên, tất cả do Mao Trạch Đông chủ trương. Nixon trong cuốn sách “Các lãnh tụ” đã viết: “Nếu không có Mao Trạch Đông, cách mạng Trung Quốc không thể từ đốm lửa nhỏ thiêu cháy cả đồng cỏ. Và nếu không có Chu Ân Lai, cách mạng Trung Quốc sẽ như lửa liếm rơm, đốt trụi tất cả thành tro!” Những ngày đầu của sự biến Tây An, tính cách của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai quả đúng như Nixon miêu tả. TỐNG MỸ LINH CỬ TOAN-NA BAY ĐẾN TÂY AN Nam Kinh hô hào “thảo nghịch”, Bảo An chủ trương “thẩm Tưởng”, hai bên kiếm đã rút khỏi bao, đứng giữa là Tây An, nơi ấy vừa có quân phản nghịch Trương, Dương vừa có Tưởng Giới Thạch đang bị giam cầm. Ngày 13 ở Bảo An, ngoài mít tinh quần chúng đòi đấu Tưởng, còn kêu gọi cả báo chí - tờ “Trung Hoa đỏ”. Ngày 15, Mao Trạch Đông và 15 tướng lĩnh Hồng quân phát điện cho chính phủ Quốc dân đảng yêu cầu “bãi miễn Tưởng Giới Thạch, giao cho nhân dân xét xử”. Ngày 16, hội nghị trung ương Quốc dân đảng quyết định: (1) Đưa Hà Ứng Khâm lên làm Tổng Tư lệnh quân thảo nghịch. (2) Chính phủ ra lệnh xuất binh. (3) Tuyên bố uỷ lão quân dân Tây Bắc. Ngay hôm ấy, Hà Ứng Khâm nhận chức, chính phủ Nam Kinh ban bố lệnh “thảo phạt Trương Học Lương”. Còn trên ấy, Đông Bắc quân, Tây Bắc quân và Hồng quân kiên quyết liên hợp tác chiến, dàn bày thế trận, sẵn sàng nghênh đón thảo nghịch quân ở Nam Kinh lên. Một cuộc nội chiến rất lớn, “đạn đã lên nòng, tên đã trên cung”. Để có thể dập tắt đoạn dây cháy chậm ngày một ngắn dần, hai chiếc máy bay cất cánh lần lượt từ Nam Kinh, nhưng không dám hạ xuống Tây An sợ quân Trương, Dương bắn rơi. Trước khi bay, Tống Mỹ Linh và vị sứ giả đều điện báo cho Trương Học Lương, nhưng không liên lạc được nên đành cứ bay và sẽ đậu ở Lạc Dương. Sứ giả của Tống Mỹ Linh là người châu Âu, mắt xanh, mũi lõ, tên gọi: Uy-liêm Hăng-ri Toan-na, đã ngoài lục tuần, quốc tịch Anh và sinh sống ở Úc, có lẽ đây là phương án tối ưu, bởi vì Toan-na vừa có tình thâm với Trương Học Lương, vừa được Tưởng Giới Thạch tin cậy, lại là người ngoại quốc, khách quan và không chịu ảnh hưởng của phe đảng nào. Toan-na sinh ra ở Úc, tổ tiên người Tô Cách Lan, năm 1903, ông làm chủ bút tờ “Bưu điện Trung Quốc” ở Hương Cảng, từ bấy Toan-na kết duyên cùng Trung Quốc và dần dần trở thành nhà Trung Quốc học, sau làm phóng viên “Thời báo London”, “Thời báo New York”. Ông thành danh từ năm 1915 khi vạch trần điều ước 21 bí mật kí kết giữa Viên Thế Khải và Nhật Bản. Toan-na quen thân với Tống Diệu Như năm 1911, và do đó có tình nghĩa cùng gia đình họ Tống, ông đã giúp Tôn Trung Sơn khởi thảo tuyên ngôn đối ngoại đầu tiên của chính phủ Dân quốc. Toan-na còn là cố vấn tư gia của Trương Tác Lâm, sau khi Trương đại sư lâm nạn trong chuyến tàu gãy cầu chìm sông. Ông tiếp tục làm gia sư và cố vấn cho Trương thiếu soái Học Lương. Năm 1934, Toan-na tháp tùng Trương Học Lương chu du sáu nước châu Âu, vào tuổi già, ông quả có tình thâm với gia đình họ Trương. Người đời cũng đồn đại, Toan-na là cố vấn của Tưởng Giới Thạch, kì thực không phải như vậy, trong “Tây An bán nguyệt kí”, Tưởng ghi: ““Bên ngoài ngộ nhận Toan-na là cố vấn mà chính phủ đã thỉnh mời, từ đầu Toan-na với tư cách bạn hữu luôn đến cùng ta, và nay ông vẫn như vậy chứ không phải là cố vấn”. Đêm 12 tháng 12, Tống Mỹ Linh nghe tin Tưởng Giới Thạch bị bắt ở Tây An, bà vội vàng điện thoại cho Tống Tử Văn và Toan-na đang ở tại khách sạn Quốc tế - Thượng Hải, nhờ hai người cùng đến nhà Khổng Tường Hy bàn cách đối phó. Tống Mỹ Linh phờ phạc, như không còn hồn phách nào nữa, với vốn tiếng Anh điêu luyện, bà nói với Toan-na: - Tây An xảy ra binh biến, uỷ viên trưởng bị bắt và nghe đâu không còn nữa! - Tôi không tin điều đó, - Toan-na lắc đầu đáp lại. -Thứ nhất, Trương thiếu soái không phản biến uỷ viên trưởng. Thứ hai, uỷ viên trưởng vẫn còn sống! Đêm ấy, cả bốn người - Tống Mỹ Linh, Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy và Toan-na - về Nam Kinh, Tống Mỹ Linh quyết định cử Toan-na đi giảng hoà, chiều tối 13, Toan-na đến Lạc Dương, bà nhận được điện của Trương Học Lương, hoan nghênh Toan-na đến Tây An. Ngày 14, sứ giả bay từ Lạc Dương về Tây An, vừa đến bầu trời cố đô, Toan-na cho thả dù mang thư; theo y ước trong thư, ba đống lửa nổi lên trên sân bay, chuyên cơ của ông hạ cánh an toàn. Năm giờ chiều ngày 14, Trương Học Lương dẫn Toan na đi gặp Tưởng Giới Thạch, Tưởng vui mừng khôn tả, miệng lắp bắp: “Tôi biết thế nào anh cũng tới”. Toan-na nghe Trương Học Lương nói rõ mọi tình tiết “binh gián” 12 tháng 12, sáng ngày 15 ông gặp Tưởng Giới Thạch lần nữa rồi bay về Nam Kinh báo cho Tống Mỹ Linh biết, Tưởng Giới Thạch vẫn bình an vô sự và Trương Học Lương mời Khổng Tử Hy đến Tây An thương thảo. Tống Mỹ Linh mừng rỡ, bà đã nhìn thấy một tia hi vọng đầu tiên để giải quyết sự biến Tây An. CHU ÂN LAI TRỞ THÀNH CHỦ MƯU CHO TÂY AN Ngày 17, Chu Ân Lai đến Đạo Xuyên - phía nam thành Diên An và định lên ô tô đi về phía Tây An, thì chiếc chuyên cơ Ba-ưng của Trương Học Lương do một phi công người Mĩ lái đã kịp đón ông và phái đoàn Trung Cộng, người tháp tùng là Lưu Đỉnh - thư kí của Trương và là đảng viên cộng sản. Trên đường bay về Tây An, Chu Ân Lai lắng nghe Lưu Đỉnh báo cáo tường tận tình hình trước và sau ngày 12, ông chú ý đến tình tiết Trương Học Lương ra lệnh “chỉ được bắt sống Tưởng Giới Thạch”, và loé lên giải pháp “bức Tưởng kháng Nhật” - bài thuốc đầu tiên chữa trị cho Tây An. Trương Học Lương vô cùng mừng rỡ khi gặp lại Chu Ân Lai: - “Mỹ nhiêm công”, bộ râu cực đẹp của ngài đâu rồi? Trương Học Lương và Chu Ân Lai lập tức hội đàm với nhau, bàn ngay việc nên xử trí Tưởng Giới Thạch như thế nào, Chu nghe Trương nói trước: - Theo tôi, tranh thủ Tưởng kháng Nhật lúc này là có khả năng nhất. Chỉ cần Tưởng đồng ý đình chỉ nội chiến, cùng nhau kháng Nhật thì phóng