🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 217 Món Ăn Bài Thuốc Phòng Trị Bệnh Gan
Ebooks
Nhóm Zalo
V IỂT CHI - LÂM TRINH
(BIÊN SOẠN)
217
MON ĂN BÀITHUOC
PHÒNG TRỊ
BỆNH GÀN J
U3 NHẢ x uAt bảnvanhoâthôngtin ^
217 MÓN ĂN BÀI THUỐC PHÒNG TRỊ BỆNH GAN
VIẾT CHI - LÂM TRINH
Biên soạn
ẵ l 7 MÓ9Ỉ M BÀI muốc PHÒNG TRỊ BỆNH GAN
NHÀ XUẤT BẢN VÃN HÓA - THÕNG TIN
LỜI NÓI ĐẨU
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người.
Vậy mà ít ai ngờ rằng, sức khoẻ cũng là thứ người ta dễ dàng phung phí nhất, ít coi trọng nhất
Trong xã hội ngày nay, bệnh gan là một trong những căn bệnh đáng sợ, cùng với các bệnh nan y khác như bệnh tiểu đường, ung thư, tâm thần... Dù đã có rất nhiều các nhà khoa học nghiên cứu, nhưng đến nay y học hiện đại vẫn chưa tìm ra được cách nào nhằm khống chế hữu hiệu bệnh viêm gan, ung thưgah.
Tuy nhiên, có một điều mà các bác sĩ đểu thống nhất là: bệnh gan có nguyên nhân cơ bản là ăn uống. Do vậy, chúng ta có thể phòng tránh căn bệnh nguy hiểm chết người này bằng cách giữ vệ sinh ăn uống, có lối sống lành mạnh, sinh hoạt điều độ cùng với biện pháp tiêm phòng vacxin...
Tập hợp và tuyển chọn từ các tư liệu mới nhất trong ngoài nước về bệnh gan, chúng tôi tuyển soạn cuốn “217 món ăn bài thuốc phòng trị bệnh gan" nhằm cung cấp
cho các bạn những kiến thức cơ bản cũng như các liệu pháp ăn uống và các món ăn bài thuốc trị bệnh gan.
Hy vọng rằng cuốn sách sẽ là trợ thủ đắc lực giúp các bạn bảo vệ sức khoẻ một cách tốt nhất.
Nhóm biên soạn
Chương I
ẢNH HƯỞNG CỦA GAN VỚI cơ THE
CÁC CHỨC NĂNG Cơ BẢN CỦA GAN
Gan là cơ quan nội tạ n g lớn nhấ t tro n g
cơ thể, nặng khoảng 1,2kg, nằm bên phải khoang bụng, ỏ vị trí từxương sườn thứ 5 đến xương sườn thứ 8. Là đầu mối thiết yếu của quá trình trao đổi chất và là cơ quan quan trọng duy trì sinh mệnh của con người, gan có tác dụng to lớn trong việc trao đổi các chất đường, mỡ, prôtít, hoócmôn, tích trữvitamin và hoạt hóa vitamin... Đồng thời, gan còn có chức năng tiết dịch, bài tiết vâ^
chuyển hóa. Có những nhiệm vụ quan trọng trên, nên quá trình tiêu hóa và tuần hoàn máu đều không thể thiếu gah được.
Trước hết, gan có khả năng tiết mật, quá trình này không bao giờ gián đoạn, mật tiết ra được đựng trong túi mật. Chất men gan có trong mật có thể “sữa hóa” mỡ, rất có lợi cho việc phân giải và hấp thụ chất béo cũng như hấp thụ vitamin hòa tan trong chất béo. Ngoài ra, mật còn
có tác dụng trong việc kích thích nhu động ruột và dạ dày, ức chế sinh trưởng của vi khuẩn.
Chức năng quan trọng nhất của gan là tham gia vào quá trình chuyển hóa các chất có trong cơ thể. Ví dụ: tinh bột trong quá trình tiêu hóa sẽ phân giải thành đường gluco, sau khi được ruột hấp thụ sẽ qua gan, một phần được chuyển hóa thành đường glucoza dựtrữtrong gan, phần còn lại sẽ vào máu để duy trì sự ổn định của lượng đường trong máu. Khi lượng đường trong máu do tiêu hao giảm xuống, đường glucoza dự trữ trong gan ngay lập tức được chuyển hóa thành đường glucô để cơ thể sử dụng. Gan còn có khả năng tổng hợp các axit aminô do thành ruột hấp thụ thành các loại abumin cần thiết cho cơ thể.
Ngoài ra gan còn có tác dụng giải độc. Là một người lính gác mẫn cán, gan bảo vệ và không để cho cơ thể hấp thụ các chất có hại. Gan có thể hóa giải một số chất độc rồi thải chúng ra ngoài theo đường tiêu hóa. Nhưng chức năng giải độc của gan có hạn, nên chúng ta phải hết sức cẩn thận khi ăn uống.
BẢO VỆ GAN
Trong cơ thể, gan là một bộ phận làm việc không biết mệt mỏi, là “nhà m áy” hóa học của cơ thể. Ngoài chức năng hoạt hóa vitamin, cân bằng hoócmôn, gan còn có tác dụng xử lý hóa học đối với các chất như đường, mỡ và
8
prôtêin, giúp cho các cơ quan trong cơ thể dễ dàng hấp thụ. Vì vậy có thể nói, nhiệm vụ chủ yếu của gan là người “thay thế trung gian" của chất dinh dưỡng. Một khi cơ năng của người “thay thế” này bị suy thoái, thì các cơ quan khác trong cơ thể sẽ phải chịu ảnh hưởng xấu liên đới, gây ra các loại bệnh khác nhau.
Do đó, để duy trì sức khoẻ, chúng ta cần đặc biệt chú ý tới cơ năng của gan. Thông thường, khi gan mắc bệnh, nó không có những triệu chứng gì rõ ràng. Nhưvậy có nghĩa là, các bệnh về gan nếu không quá nghiêm trọng thì thường không có dấu hiệu gì đặc biệt.
Chúng ta cần biết rằng, bản thân gan không có thần kinh gây đau đớn, mà chỉ có ở lớp biểu bì. Vì vậy,khi bên trong bộ phận gan xuất hiện bệnh, nếu không tiếp xúc vào lớp biểu bì thì chúng ta sẽ không cảm thấy đau đớn. Hơn nữa, gan là một cơ quan có tính chịu đựng cao, chỉ cần còn 30% khả năng làm việc là cơ thể chúng ta khó cảm nhận được sựđau đớn. Cho nên, mặc dù gan mắc bệnh thì cũng rất ít xuất hiện những triệu chứng rõ rệt. Chỉ khi gan bị mắc bệnh nặng khi cơ năng của nó có những biểu hiện suy thoái thì chúng ta mới nhận thấy được triệu chứng đó.
Gan còn là một cơ quan nội tạng cứng và giữa gan với các cơ quan khác trong cơ thể có một mối quan hệ chặt chẽ, cho nên gan thường phải chịu những ảnh hưởng liên đới của các bộ phận khác. Ví dụ như khi cơ thể bị bệnh truyền nhiễm, bệnh đái đường, hoặc khi mang thai
thì đều có thể ảnh hưởng gián tiếp đến cơ năng của gan.
Hiểu được tầm quan trọng của gan, chúng ta làm sao có thể xem thường chức năng gan? Bạn phải đặc biệt chú ý chăm sóc và bảo vệ gan thật tốt.
CHỨC NĂNG GIẢI ĐỘC CỦA GAN
Chức năng giải độc của gan chiếm một vai trò cực kỳ quan trọng. Thông thường, sau khi nuốt thức ăn, dạ dày và ruột sẽ hấp thụ những chất dinh dưỡng, thực hiện quá trình phân giải, hòa tan chất dinh dưỡng vào máu. Cuối cùng, qua sự tuần hoàn của máu, các chất dinh dưỡng sẽ được chuyển đến gan và tiến hành phân hóa tổ hợp.
Tuy nhiên, ngày nay thực phẩm đã không còn sạch như trước nữa, rất nhiều loại thực phẩm được bảo quản bằng các chất hóa học. Đó là những loại thực phẩm cực kỳ độc hại đối với cơ thể. Ngay cả nước uống cũng chứa vô số những sinh vật có hại. Ngoài ra, sự ô nhiễm không khí cũng đã gây ra mối hiểm họa chung cho toàn xã hội.
Mọi người đều biết rằng, để tồn tại không ai là không cần đến nước, không khí và thực phẩm. Nhưng những nhân tố quan trọng này cũng đang ngày càng gây hại nghiêm trọng đến cơ thể con người. Những chất độc hại trên cùng với các chất dinh dưỡng đều sẽ thẩm thấu vào máu, từ đó chuyển sang gan, để nó thực hiện chức năng
10
giải độc.
Các chất độc hại có lúc lại xuất hiện từ bên trong cơ thể, quá trình trao đổi chất sẽ sản sinh ra những vật chất có hại dạng nhưAm oniac, và những chất này đều phải lọc qua gan để thực hiện quá trình giải độc. Ngoài ra nếu trong cơ thể, hoócmôn tiết ra quá nhiều hoặc quá ít cũng có thể gây ra các loại bệnh khác nhau. Khi hoócmôn tiết ra quá ít, gan có thể thúc đẩy quá trình điều tiết ở hoócmôn. Ngược lại, khi hoócmôn tiết ra quá nhiều thì gan lại phải thực hiện quá trình phân giải giúp hoócmôn đạt được sự cân bằng.
Khi thực hiện xong quá trình giải độc, gan sẽ biến những chất có hại thành những chất vô hại, làm cho nó dễ dàng hoà tan vào nước, bài tiết ra ngoài qua đường tiểu tiện hoặc đại tiện.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ, người phụ nữ sau khi mang thai, khoảng 1 tháng thì có hiện tượng buồn nôn, cơ thể cảm thấy mệt mỏi, nhu cầu ăn uống cũng bị ảnh hưởng, đây là do tác động của thai nhi trong bụng mẹ. Vào giai đoạn này, chức năng trao đổi chất bắt đầu tăng mạnh, kết quả là sẽ sinh ra các chất độc hại.
Gan vốn có chức năng lọc và loại bỏ những độc tố trong cơ thể. Tuy nhiên do chức năng trao đổi chất quá mạnh nên gan không thể lọc hết được, nên các chất có hại sẽ lưu lại trong cơ thể, làm nảy sinh các loại bệnh.
11
GAN MÀC BỆNH SẼ GÂY RA
HIỆN TƯỢNG THIẾU VITAMIN
Gan gà hoặc gan lợn ăn với rau hẹ, sẽ cung cấp cho cơ thể một lượng lớn vitamin và prôtêin. Trước kia, người ta vẫn cho rằng, người nào cơ năng gan yếu thì nên thường xuyên ăn thêm các loại gan để bồi bổ. Có học giả đã được giải thưởng Nobel Y học về thuyết “Lấy gan trị gan”. Vấn đề đặt ra là vì sao ăn gan lại bổ gan?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cẩn xem: “Tại sao những động vật ăn thịt như hổ, sư tử không ăn rau mà chúng không bị thiếu vitamin, không bị quáng gà?”. Thực ra, những loài động vật ăn thịt này không có hiện tượng thiếu vitamin, bởi khi chúng bắt được một con mồi, bao ■
giờ chúng cũng phải vồ xé phần bụng trước để ăn gan con vật “xấu số” đó. Vì sao chúng lại thích ăn gan như vậy? Bởi trong gan chứa nhiều vitamin, chúng chỉ cần ăn gan là có thể bổ sung lượng vitamin còn thiếu. Chính vì lẽ đó mà những động vật ăn thịt này không hề bị mắc chứng mắt quáng gà.
Vitamin là chất dinh dưỡng thiết yếu của cơ thể, nó có thể giúp cho quá trình trao đổi chất chủ yếu trong cơ thể và thúc đẩy các hoạt động của cơ năng trở lại bình thường. Nếu cơ thể bị thiếu hụt những chất dinh dưỡng này sẽ rất dễ mắc bệnh.
Chúng ta cẩn biết rằng, nguồn cung cấp vitamin là ở thực phẩm. Con người không thể có khả năng tự tạo
12
vitamin trong cơ thể, cho nên chúng ta cần phải xem vitamin như một thực phẩm vô cùng thiết yếu. Sau khi cơ thể hấp thụ vitam in, gan sẽ lưu chứa nó và khi cần mới chuyển tới các cơ quan khác.
Lượng vitamin mà cơ thể chúng ta cần đều có thể có được từthực phẩm. Cho nên, việc bổ sung quá liều thuốc vitamin hàng ngày có thể không đạt được hiệu quả cần thiết, thậm chí còn gây ra hiện tượng mất cân bằng, ví dụ nhưvitam in A, vitam in B... Vì vậy, khi uống vitam in cần có sự chỉ dẫn của bác sĩ, nếu không có thể gây phản tác dụng.
Cũng giống như dầu bôi trơn máy móc, vitamin đương nhiên có thể thúc đẩy hoạt động bình thường của cơ năng cơ thể. Song tác dụng tăng cường thể lực hay loại bỏ mệt mỏi cho cơ thể thì chưa hẳn là hoàn toàn đúng. Trong cuộc sống hàng ngày, nếu bạn không có thói quen ăn uống bất hợp lý thì chắc chắn rằng bạn sẽ không bị thiếu vitamin.
Do gan là cơ quan lưu trữ và điều tiết vitamin nên khi cơ thể thiếu vitamin, chúng ta có thể biết chắc rằng: gan người đó đang bị bệnh. Vì sao có thể nói triệu chứng thiếu vitamin có quan hệ rất lớn với quá trình suy thoái của cơ năng gan? Là cơ quan lưu chứa tiềm tàng vitamin, nếu “kho chứa” - gan bị ảnh hưởng, thì tất nhiên quá trình trung chuyển của vitam in cũng gặp khó khăn. Nếu gan không chuyển được vitam in thì các cơ quan khác trong cơ thể khó mà hấp thụ được vitamin, lâu dần sẽ gây bệnh.
13
Khi gan của bạn có “vấn đề”, thì cho dù có dùng bao nhiêu vitamin cũng không thể đạt được hiệu quả cần thiết, bởi lúc đó vitamin không thể phát huy được công hiệu.
Vì vậy, hãy nhớ kỹ: thiếu vitam in là triệu chứng do gan mắc bệnh gây ra.
GAN MẮC BỆNH, cơ THE SẼ BỊ LẠNH
Người ta chia động vật thành hai loại cơ bản, đó là “động vật máu lạnh” và “động vật thân nhiệt ổn định”. Động vật máu lạnh là những loài vật mà thân nhiệt của chúng thay đổi theo mùa, ví dụ như: trăn, rắn...
Còn con người được xem là “động vật thân nhiệt ổn định”, bởi nhiệt độ cơ thể con người luôn luôn ổn định, không đổi trong bất kỳ điểu kiện môi trường như thế nào. Vì sao cơ thể lại có thể giữ được nhiệt độ ổn định như vậy? Nói một cách đơn giản, cơ thể người có một “thiết bị” giữ nhiệt, đồng thời do nhiệt lượng sản sinh trong cơ thể tương đối lớn, cho nên mới có thể duy trì được mức binh thường của thân nhiệt.
Thông thường, những chất dinh dưỡng trong thực phẩm mà chúng ta sử dụng hàng ngày thì có khoảng 40% chuyển thành năng lượng cho cơ bắp hoạt động, còn lại khoảng 60% sẽ chuyển hóa thành nhiệt lượng giữ nhiệt cho cơ thể. Bình thường, một ngày một người cần hấp thụ từ 2000 - SOOOCalo, trong đó lượng Calo trở thành nhiệt
14
lượng vào khoảng từ 1200 - 1800.
Nhiệt lượng duy trì thân nhiệt này chủ yếu là do hoạt động cơ bắp tạo ra. Tuy nhiên, trong tất cả nhiệt lượng thì lượng nhiệt do gan cung cấp chiếm khoảng 15%. Vậy thì 15% nhiệt lượng mà gan sản sinh ra từ đâu mà có? Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì nó phát sinh ngay trong quá trình trao đổi chất và tiến trình thực hiện chức năng giải độc. Ban ngày, do cơ thể con người hoạt động liên tục nên có thể tạo ra nhiệt lượng, đủ để giữ nhiệt độ ổn định. Còn vào ban đêm, khi mà hoạt động cơ bắp gần như ngừng hẳn, thì nhiệt lượng chủ yếu là do gan cung cấp. Cho nên, vào mùa đông giá rét, cơ thể chúng ta luôn cảm thấy ấm áp là nhờ sự hỗ trợ của gan. Nếu cơ thể luôn cảm thấy lạnh, mặc dù được trang bị đủ quần áo ấm thì bạn nên nghĩ ngay đến việc gan bị tổn thương.
TINH THẦN MỆT MỎI KHI GAN BỊ BỆNH
Mọi người đều biết rằng, đường glucô là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể. Song nó không phải có khả năng chuyển thành nhiệt lượng. Thông thường, nó được chuyển vào gan, qua quá trình hóa hợp, một phần năng lượng sẽ được dự trữ trong gan. Lượng đường lưu lại trong gan được gọi là glucoza, còn phần còn lại được chuyển tới các cơ quan khác, gọi là đường glucô
Trọng lượng trung bình của gan khoảng 1,2kg, trong 15
đó lượng đường glucoza chiếm khoảng 10%. Như vậy trong gan của mỗi người, lượng glucoza chiếm 120g. Khi vận động mạnh, lượng glucô tiêu hao trong máu đột ngột tăng cao, lúc này, lượng glucoza ở gan sẽ nhanh chóng chuyển thành glucô để bổ sung thêm đường cho cơ thể. Tuy nhiên, khi gan bị bệnh thì lượng glucoza sẽ không còn tồn tại hoặc còn rất ít trong gan, vì thế sẽ xuất hiện hiện tượng thiếu glucô trong máu, làm cơ thể cảm thấy mệt mỏi.
Do tồn tại một lượng lớn glucoza, cho nên thậm chí khi chúng ta không ăn gì thì cơ thể vẫn có thể duy trì hoạt động được. Một phần glucoza sẽ được chuyển từ gan vào cơ bắp. Do đó, khi vận động mạnh, lượng glucoza trong cơ bắp sẽ biến thành năng lượng để giữ cho cơ thể đủ chất dinh dưỡng. Khi chúng ta vận động, lượng glucoza chuyển thành năng lượng, giúp cơ thể bài tiết axit cabonic và mồ hôi ra ngoài.
Một điều mà bạn cũng cần phải biết, khi glucoza chuyển thành năng lượng, bắt buộc nó phải cần sự hỗ trợ của vitam in B1. Nên khi cơ thể bị thiếu vitam in B1, quá trình chuyển hóa năng lượng cũng sẽ gặp khó khăn. Cơ thể tất mệt mỏi khi nó không tự tạo ra năng lượng. Nhưng cũng giống như những chất tồn tại trong gan, vitamin B1 sẽ không thể chuyển tới được các cơ quan khác cũng như không còn khả năng tạo ra năng lượng nếu gan bị bệnh. Lúc đó, đương nhiên cơ thể sẽ mệt mỏi, tinh thần uể oải.
16
COLESTROL CAO CŨNG
LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH GAN
Khi đề cập đến colestrol, lập tức chúng ta nghĩ ngay tới hiện tượng xơ cứng động mạch.
Vì sao người ta có thể cho rằng lượng colestrol trong cơ thể quá cao là nguyên nhân gây ra xơ cứng động mạch? Bởi vì, khi quan sát huyết quản của bệnh nhân bị xơ cứng động mạch, người ta phát hiện ra rằng trong thành động mạch tồn trữ rất nhiều colestrol. Còn nếu colestrol tồn trữ trong ống mật hoặc túi mật quá lâu có thể sẽ kết sỏi, đây chính là nguyên nhân gây nên sỏi mật. Nói như thế, có nghĩa là colestrol không phải là một nhân tố tốt. Tuy nhiên, nếu gan của một người khỏe mạnh thì colestrol không những không thể ảnh hưởng đến sức khoẻ, mà thậm chí nó còn là một thành phần quan trọng của cơ thể.
Chúng ta cần biết rằng, colestrol là do sự hóa hợp axit axetic của gan tạo thành. Nó xuất hiện hầu như ở mọi bộ phận cơ thể, trong đó não, hệ thống thần kinh, thận, da... chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Colestrol là thành phần chủ yếu tạo nên dịch thể mật. Nếu dịch thể mật không được bài tiết ra ngoài hoàn toàn, thì phần colestrol dưthừa sẽ do gan xử lý, sau đó thải ra khỏi cơ thể. Colestrol không những là thành phần chủ yếu tạo nên dịch thể mật, mà còn là yếu tố sản xuất ra hoócmôn tuyến thượng thận và hoócmôn giới tính.
Cho nên lượng colestrol quá cao hoặc quá thấp đều 17
là tín hiệu biểu thị gan bị bệnh. Nếu có lượng colestrol trong máu quá cao, hoặc bị xơ cứng động mạch thì tốt nhất nên mời bác sĩ kiểm tra gan cho mình.
PHẢI ĐẶC BIỆT CHÚ Ý KHI THE Lực SUY YẾU
Prôtêin là nguồn gốc của sự sống, lượng prôtêin tiêu hao của cơ thể cũng rất đáng kinh ngạc, bình quân mỗi kg thể trọng cần 1 gam prôtêin. Vì vậy, nếu người nào có trọng lượng 50kg thì mỗi ngày họ cần có 50g prôtêin. Tuy nhiên, lượng prôtêin có được trực tiếp từ thực phẩm không thể hòa tan vào máu. Vì lý do nồng độ khác nhau, cho nên lượng prôtêin mà cơ thể cần hấp thụ phải tăng thêm từ 30% - 50% so với tính toán. Có nghĩa là, một người nặng 50kg cần lượng prôtêin từ 70 đến 80g. Song một người cần lượng prôtêin đủ hay không, là ở chỗ phải giữ được trạng thái cân bằng giữa prôtêin và 8 loại axit amin lớn.
Sữa, trứng gà và thịt là những thực phẩm chứa rất nhiều prôtêin. Trong đậu phụ cũng có nhiều prôtêin dạng thực vật, vì vậy những người không thích ăn thịt, cá thì có thể ăn nhiều đậu phụ để giữ được sự cân bằng về axit amin. Thông thường, sau khi prôtêin được hấp thụ vào cơ thể, nó sẽ phân giải thành axit amin, gan sẽ đảm nhận vai trò hóa hợp tạo thành prôtêin tái sinh, dựtrữtrong gan.
Các bộ phận trong cơ thể đều do các tế bào cấu 18
thành, song bạn có thể không biết rằng, thành phần chủ yếu của tế bào là prôtêin. Người ta nói rằng, cơ thể người là một thể tổ hợp prôtêin cũng không quá khoa trương.
Về lượng prôtêin, cũng giống như dấu vân tay, không bao giờ có sựtương đổng giữa hai người. Bởi prôtêin là do rất nhiều axit amin tạo thành, mà sự sắp xếp của axit amin và phân lượng axit amin nhiều hay ít, có thể nói giữa hai cơ thể khác nhau là hoàn toàn khác nhau. Trong những ca phẫu thuật cấy ghép cơ gan, có một số ca cấy ghép không dễ gì đạt được thành công, nhưng cuối cùng bệnh nhân cũng không thể sống được, lý do là vì giữa cơ thể và cơ quan nội tạng được ghép bài xích nhau, nên mới gây ra những bi kịch nhưvậy.
Liệu prôtêin có hại cho gan hay không?
Men là do prôtêin tạo nên, nó có tác dụng trao đổi chất cho cơ thể và giúp tiêu hóa thức ăn. Trước đây, người ta vẫn cho rằng prôtêin có hại đối với người gan yếu. Có nghĩa là những thực phẩm có hàm lượng prôtêin thấp sẽ rất có lợi cho việc chữa trị bệnh gan.
Đó là một quan niệm hoàn toàn sai lẩm.
Có một nhà khoa học Mỹ đã thực hiện thí nghiệm sau: ông ta cho những bệnh nhân gan ăn mỗi ngày một lượng 110g prôtêin. Đương nhiên đây là một thí nghiệm nguy hiểm, nó vi phạm cách làm truyền thống. Song tình trạng sức khoẻ của những bệnh nhân này được cải thiện rất nhiều, thậm chí báng nước và phù thũng trong cơ thể
19
cũng hoàn toàn biến mất. Và những thực phẩm giầu prôtêin đạt được hiệu quả rõ rệt hơn nhiều so với những thực phẩm thông thường khác. Báo cáo thực nghiệm trên đã gây được sự chú ý của toàn thế giới. Con số bác sĩ thực hiện thí nghiệm này cũng ngày càng tăng lên và đạt được những thành tích đáng ghi nhận
Kết quả thí nghiệm cho thấy, prôtêin và axit amin trong máu một lẩn nữa lại hợp thành một thành phần mới, nếu gan không xử lý sạch thì chứng tỏ gan đã bị bệnh nặng và người bệnh không nên sử dụng phương pháp chữa tri này.
Thông thường, nếu chỉ 85% tế bào gan ngừng hoạt động thì cũng không dẫn đến hiện tượng này. Nếu truyền prôtêin vào cơ thể, mà lượng axit amin trong máu sẽ tăng lên rõ rệt, cơ thể suy yếu hơn. Điểu này thể hiện gan của người này đã bị tổn thương trên 85%.
Theo cách chữa trị cũ, việc truyền dẫn prôtêin vào cơ thể để tăng axit amin, không có lợi cho người bệnh. Song sự thực thì phương pháp này lại rất tốt cho người bệnh.
Cơ NĂNG GAN SUY YẾU THỈ ẢNH HƯỞNG NGHIÊM TRỌNG ĐẾN VIỆC ĐIỀU TIẾT HOÓCMÔN
Có sự khác biệt giữa vitamin và hoócmôn? Vitamin là do thực phẩm tạo nên, còn hoócmôn là do tuyến nội tiết trong cơ thể tiết ra. Tuyến nội tiết bao gồm thùy não, tuyến
20
giáp trạng, tuyến thượng thận, tuyến tụy và buồng trứng... cùng nhiều bộ phận khác. Giữa những hoócmôn cũng có mối liên quan với nhau, một hoócmôn có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động tiết ra của một hoócmôn khác.
Lượng hoócmôn tiết ra quá ít hoặc quá nhiều đều có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các cơ quan và cơ năng, đến sự trao đổi chất trong cơ thể. Nếu giữa các hoócmôn mất đi sự cân bằng thì cuộc sống tình cảm hàng ngày sẽ có những thay đổi lớn. Cũng giống như người chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, sự tiết ra của hoócmôn cũng cần một cơ quan điều hòa. Gan chính là cơ quan đảm nhận vai trò này. Khi các cơ quan tiết ra hoócmôn như thùy não, tuyến giáp trạng, tuyến tụy, tuyến thượng thận, buồng trứng... bị bệnh, thì cơ thể sẽ mất đi một số khả năng nhất định làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ. Ngược lại, nếu tuyến nội tuyến hoạt động tốt nhưng cơ năng gan yếu thì cơ quan điều tiết cân bằng giữa các hoócmôn cũng mất đi, kéo theo sự biến dạng của cơ năng nội tiết.
Đặc trưng của hoócmôn là chỉ cần một lượng nhỏ cũng có thể phát huy được hiệu quả rất cao. Có một điều lý thú là cấu tạo hóa học của hoócmòn động vật đều giống nhau. Vì vậy nếu chúng ta lấy hoócmôn giới tính của trâu, ngựa truyền vào cơ thể người, cũng có thể làm cho con người có những hưng phấn tình dục.
Ngày nay, những nghiên cứu về hoócmôn đã có những tiến bộ vượt bậc. Người ta có thể dùng phương pháp
21
xử lý hóa học để đạt được hoócmỏn tinh thể.
* Những triệu chứng khác thường mà hoócmôn gây ra.
Hoócmôn thùy não
Thùy não tiết ra hoócmôn trưởng thành, hoócmòn kích thích, hoócmôn màng thượng thận...
Hoócmôn trưởng thành tiềm tàng trong xương cốt và các cơ quan khác, từ đó làm cho xương và các cơ quan phát triển. Các chất phôtpho, canxi có mối quan hệ mật thiết với hoócmôn trưởng thành. Khi hoócmôn trưỏng thành tiết ra quá nhiều có thể làm cho cơ thể phát triển quá mức bình thường. Còn nếu thùy não suy yếu, thì cơ thể sẽ thấp bé hoặc phát dục không được tốt.
Thùy não cũng có thể tiết ra hoócmôn tuyến kích thích và hoócmôn màng thượng thượng. Hoócmôn tuyến kích thích còn có thể làm cho đặc trưng giới tính giữa nam và nữ được biểu hiện rõ ràng. Hoócmôn màng thượng thận có một mối quan hệ đặc biệt với sự trưởng thành của cơ thể.
Khi chúng ta vận động mạnh hoặc sống ở nhữhg vùng núi cao, vùng giá rét, nếu cơ thể thiếu axit có thể dẫn đến những triệu chứng bất bình thường. Lúc này, hoócmôn màng thượng thận được tiết ra, giúp chống lại những sự khác thường của cơ thể, duy trì sự sống.
Hoócmôn tuyến giáp trạng
Khi hoócmôn tuyến giáp trạng tiết ra quá nhiều, cơ 22
thể sẽ rất dễ chảy mồ hôi và thường xuyên mất ngủ hoặc làm mắt yếu đi. Ngược lại, nếu tiết ra quá ít sẽ làm cho da bị khô, tinh thần ủ rũ, buồn bã. Còn nếu tiết ra không đủ thì tất cả quá trình trao đổi chất có thể bị ngưng trệ, khả năng phát dục kém, trí tuệ chậm phát triển.
Hoócmôn tuyến tụy
Isulin tiêu hao liên tục lượng đường glucô trong máu để thúc đẩy hoạt động bình thường của các cơ quan trong cơ thể. Nhờ chức năng của insulin mà đường glucoza ở gan trở thành glucô. Cho nên, giữa gan và insulin có một mối quan hệ mật thiết.
Nếu insulin không đủ thì cho dù lượng đường glucô ở trong máu có cao bao nhiêu thì cũng không thể cung cấp cho các cơ quan khác sử dụng. Đồng thời, do lượng đường glucô trong máu không sử dụng hết, tích tồn lại trong cơ thể sẽ gây ra bệnh đái đường đáng sợ, và nhiều căn bệnh nguy hiểm khác.
Hoócmôn giới tính thì cả nam lẫn nữ đều có. Loại hoócmôn này sinh ra là để duy trì nòi giống cho con người. Vào thời kỳ trung niên, cơ năng gan ngày càng suy yếu, hoócmôn giới tính tiết ra cũng ít đi, hứng thú tình dục giảm xuống, đây là hiện tượng thường gặp.
Nếu quá trình điều tiết của hoócmôn khác thường, chúng ta không thể cho rằng thùy não hay buồng trứng có “vấn đề”. Do gan đảm nhận việc cân bằng hoócmôn cho nên khi hoócmôn có biểu hiện không bình thường, nên nghĩ ngay đến các triệu chứng bệnh của gan.
23
KHI GAN BỊ BỆNH, cơ THE
SẼ MẤT CHỨC NĂNG MlỄN DỊCH
Chức năng miễn dịch là khả năng chống lại sựxâm nhập của vi khuẩn vào cơ thể. Khi vi khuẩn xâm nhập vào người, bạch cầu và tuyến limpha sẽ xuất hiện để tiêu diệt. Những vi khuẩn này được gọi là “kháng nguyên”. Ngược lại, nhân tố dùng để chống lại “kháng nguyên” người ta gọi là “kháng thể”, ví dụ như bạch huyết cầu.
Kháng thể có thể tiêu diệt được độc tính của kháng nguyên. Kháng thể là do tuyến limpha, tỳ, tủy và ruột non sản sinh ra, cho nên giữa kháng thể và gan không có mối quan hệ trực tiếp.
Đặt một ít máu ra ngoài cơ thể quan sát, sau một thời gian chúng ta phát hiện ra phía dưới cùng có huyết cầu và bên trên chất lỏng này mang màu vàng, người ta gọi nó là huyết thanh. Thành phần chủ yếu của huyết thanh chính là prôtêin. Trong lượng prôtêin này lại bao gồm hai thành phần khác nhau, đó là Ganma Globulin và prôtêin trắng. Và chất Ganma Globulin còn được gọi là một loại kháng thể. Chất kháng thể này do tuyến limpha, tủy, tỳ và ruột non sản sinh ra. Có nghĩa là, mỗi khi kháng nguyên xâm nhập vào cơ thể, chất Ganma Glubolin sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ cơ thể.
Cũng giống như người tập hợp quân đội chống lại giặc ngoại xâm, chất abumin sẽ đảm nhiệm vai trò tập hợp này. Nhưng khi gan suy thoái, lượng abumin sẽ bị giảm,
24
nếu để cho huyết cầu tố làm nhiệm vụ tập hợp thì khó mà hoàn thành được nhiệm vụ, bỏi bản thân kháng thể vốn rất hỗn loạn.
Tóm lại, một khi gan đã mắc bệnh thì abumin giảm xuống, nhưvậy nó cũng không thể đảm nhận được vai trò của mình. Ngoài ra, gan còn giữ một chức năng quan trọng khác vì trong gan tồn tại một loại tế bào có thể chống lại sựxâm nhập của kháng nguyên. Vì vậy nếu gan bị bệnh, cơ thể sẽ giảm hoặc mất chức năng miễn dịch.
GAN BỊ BỆNH, SẼ KHÔNG CẦM Được MÁU
Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thường nghe thấy một loại bệnh đáng sợ, đó là bệnh máu không đông. Để giúp cho máu không bị chảy liên tục ra ngoài cơ thể khi gặp tai nạn, bản thân máu sẽ sản sinh ra một chất làm đông tụ máu. Vậy thì bản chất của hiện tượng này là gì? Điều này cũng rất khó lý giải.
Máu có thể đông lại là do thành phần tiểu cầu trong máu phát huy tác dụng, mỗi khi máu tiếp xúc với không khí bên ngoài, nó sẽ kết hợp với íibrin, hình thành nên vẩy máu, bị kín vết thương, làm cho máu không thể chảy ra ngoài.
Trong cơ thể có rất nhiều tiểu cầu. Nếu íibrin quá nhiều thì máu có thể đông tụ, cho nên tibrin thường tồn tại trong cơ thể dưới dạng íibrinogen. Mỗi khi cần tạo thành
25
vẩy máu, tibrinogen sẽ biến thành íibrin để kết hợp tiểu cầu lại với nhau thành vảy máu giúp cơ thể cầm máu. Pibrinogen và chất làm đông máu đều do gan sản sinh ra. Vì vậy, khi gan bị bệnh, chất làm đông máu và tibrinogen trong máu sẽ giảm xuống. Đồng thời, tất cả chất có thể làm đông máu đều do gan sản sinh ra. Ngoài ra, khi gan hình thành nên những chất này cần phải có sự hỗ trợ của vitamin K mới có thể hoàn thành chức năng hóa hợp. Vi
tamin K lại do vi khuẩn trong ruột tạo thành, sau đó truyền vào máu rồi chảy vào gan, lưu lại ở đó và giúp gan sản xuất chất làm đông máu. Vì vậy có thể nói, vi khuẩn trong ruột giữ những vai trò cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên, khi gan bị bệnh thì dù cho vi khuẩn trong ruột tạo nên bao nhiêu vitamin K cũng không thể tích trữ lại ở gan, nói gì đến việc được sử dụng vào chức năng làm đông máu. Còn nếu vitamin K trong thời gian bị thiếu, thì íibrinogen và chất làm đông máu cũng không thể sản sinh ra được, ảnh hưởng xấu đến vai trò cầm máu.
Rất nhiều người bị chết vì bệnh vàng mắt do gan gây ra. Những người bị bệnh gan nặng khi tử vong bao giờ trong dạ dày và ruột cũng chảy rất nhiều máu và được tiết ra ngoài cơ thể bằng đường miệng và hậu môn.
BỆNH GAN CÓ THỂ GÂY RA THIẾU MÁU
Máu chiếm từ 1/12 - 1/13 trọng lượng cơ thể. Ví dụ, cơ thể nặng 50kg thì sẽ có 4000 - 4500ml máu. Tuy nhiên,
26
lượng máu này không thể cung cấp đầy đủ cho các cơ quan, nên cơ thể phải cần tới hoócmôn và hệ thống thần kinh để giúp điều hòa lượng máu. Lấy ví dụ, sau khi ăn ruột và dạ dày của bạn sẽ phải làm việc nhiều hơn, nên máu sẽ tập trung ở ruột, dạ dày. Đồng thời lượng máu ở gan cũng có thể tăng lên nhiều. Thông thường, sau khi ăn khoảng 30 phút, lượng máu trong gan tăng lên 3-4 lần.
Lúc này hoạt động của gan cũng tăng lên bởi nó vừa phải hấp thụ những chất dinh dưỡng từthức ăn, vừa phải biến chúng thành các dưỡng chất khác nhau để phân phối tới các cơ quan trong cơ thể.
Một người khi đang suy nghĩ thì máu sẽ tập trung lên phần não bộ. Khi vận động, máu lại tập trung ở trong cơ bắp. Máu lưu thông liên tục giúp các cơ quan hoạt động có hiệu quả. Khi cẩn tập trung để tới các cơ quan khác trong cơ thể, nơi máu tập trung tạm thời là gan.
Một người khi bị chảy máu nhiều hoặc huyết áp giảm, nếu tiến hành kiểm tra gan có thể phát hiện thấy lượng máu giảm khoảng 20%. Khi cơ thể mất máu nhiều, máu dựtrữở gan sẽ nhanh chóng bổ sung những phần khuyết thiếu đó. Tuy nhiên, gan của trẻ sơ sinh lại có chức năng tạo máu, có nghĩa là thời kỳ thai nhi, gan sẽ đảm nhiệm vai trò tạo máu. Sau khi sinh ra, cơ quan tạo máu chủ yếu là tủy, nếu tủy bị bệnh thì gan vẫn giúp tạo máu. Còn tủy khi tạo máu lại cần những chất tác nhân khác như vitamin B12, vitamin B11, hồng cầu... và những chất này đều do gan cung cấp. Do đó, khi gan bị bệnh bao giờ cũng dẫn
27
đến hiện tượng thiếu máu.
Trong cơ thể, gan là cơ quan duy nhất có khả năng tái sinh. Nếu gan bị cắt mất 75% trọng lượng, nó còn có thể tái sinh tương đương với trọng lượng ban đầu. Không chỉ như vậy, nếu cắt 75% gan trưởng thành, thậm chí cắt nhiều lần, gan vẫn có thể tự tái sinh như ban đầu. Ví dụ, một người uống nhầm thuốc, gan chắc chắn sẽ bị tổn thương, song nếu như cơ năng của gan không bị hỏng hoàn toàn thì gan có khả năng tự tái sinh.
Chức năng tái sinh của gan chỉ bị ảnh hưởng khi gan xơ cứng hoặc cơ thể thiếu máu ác tính.
GAN BỊ BỆNH SẼ LÀM CHO TÍNH TÌNH THAY Đổl
Khi bước vào giai đoạn trung niên thể lực sẽ suy yếu đi nhiều, với người bị bệnh gan thì tính tình cũng thay đổi.
Nói như vậy thì người bị bệnh gan mãn tính liệu có thể thay đổi tính tình ra sao?
Đầu tiên phải chú ý đến cách ăn nói của người bệnh rất giống như trẻ con, hiện tượng này nếu có biểu hiện tăng cao thì cần nghĩ ngay tới việc gan bị tổn thương. Ngoài ra, người bệnh còn thích nói nhại lại những lời nói thô tục, cộc cằn của người khác hoặc khi xem sách báo, tranh ảnh kích.thích rất dễ bị hưng phấn. Người bệnh cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn với tập thể, họ không còn quan tâm tới những người xung quanh, về nhà, họ không muốn
28
tâm sựtrò chuyện với người thân, ở họ luôn có cảm giác cò đơn, chán nản. Tất cả những biểu hiện trên đều có liên quan tới bệnh gan. Hoặc có những người bình thường rất ít nói, trầm tính, nhưng khi bị bệnh gan dường như họ cười nói nhiều hơn.
Cần chú ý rằng, khi những triệu chứng này ngày càng xấu đi, thì sẽ làm trí tuệ cũng kém theo và lâu dần sẽ trỏ nên ngu muội.
29
Chương II
TRIỆU CHỨNG BỆNH GAN
Bệnh gan là m ột căn bệnh nan y. Khi bị
bệnh, chúng ta cần tuân thủ nguyên tắc: “Phát hiện sớm, chữa trị sớm”. Lúc bệnh quá nặng mới tìm đến bác sĩ thì không thể chữa khỏi được. Vì vậy, chúng ta cần phải có ý thức tự bảo vệ sức khoẻ của mình.
Vào giai đoạn đầu, triệu chứng của bệnh gan thường không rõ ràng. Tuy vậy chúng tôi xin đưa ra đây những triệu chứng tương đối điển hình của bệnh gan, nhằm giúp độc giả có một nhận thức đầy đủ hơn về căn bệnh nan y này.
KHI BỊ BỆNH GAN, Nước TlỂU SẼ có MẦU VÀNG
Thông thường, khi muốn tìm hiểu tình trạng của gan chúng ta thường sử dụng phương pháp kiểm tra máu. Song nếu bạn xét nghiệm gan qua nước tiểu, kết quả thu được còn hữu hiệu hơn nhiều. Trên thực tế, có những triệu chứng
30
bệnh gan mà dùng phương pháp xét nghiệm máu không thể thấy được, thì lại có thể phát hiện ra khi xét nghiệm nước tiểu. Muốn quan sát nước tiểu, tốt nhất chúng ta nên chọn lấy phần nước tiểu đầu tiên bài tiết ra ngoài vào sáng sớm, sau khi thức giấc. Vì lúc này nồng độ nước tiểu tương đối cao, kết quả xét nghiệm chính xác hơn.
Khi gan của một người bị bệnh, trong nước tiểu có chứa những chất dạng dịch mật như bilirubin, cho nên nước tiểu có màu nâu vàng, gần giống như màu của bia. Đổng thời, nước tiểu cũng dễ tạo bọt. Nếu quan sát kỹ bọn nước tiểu chúng ta có thể phát hiện ra rằng, bọt nước tiểu của người khoẻ mạnh bao giờ cũng có màu trắng, còn người bệnh bị gan thì bọt sẽ mang màu vàng. Cho nên, khi màu nước tiểu có màu vàng, có nghĩa là gan đã bị bệnh và bạn cần phải đi khám ngay.
Vì sao khi nước tiểu vàng chúng ta lại biết gan bị bệnh? Bởi khi bình thường, dịch mật cẩn đi vào ruột, mà bộ phận làm cho dịch mật truyền vào ruột chính là gan.
Khi cơ năng của gan suy yếu, chức năng xử lý dịch mật sẽ chịu ảnh hưởng, sắc tố trong máu sẽ có những biểu hiện dư thừa và dịch thể mật dư thừa này sẽ được bài tiết ra ngoài theo đường nước tiểu, cho nên nước tiểu có màu nâu vàng.
Phương pháp kiểm tra gan qua nước tiểu tương đối đơn giản.
Mỗi ngày một người bình thường bài tiết ra ngoài một 31
lượng nước tiểu từ 1 đến 1,5 lít. Nếu lượng nước tiểu bài tiết ra ngoài vượt quá 2 lít hoặc ít hơn 0,5 lít thì rất có thể gan đã bị bệnh. Những người bài tiết ra hơn 2lít nước tiểu có khả năng đang mắc bệnh đái đường. Còn những người chỉ bài tiết ra ít hơn 0,5 lít nước tiểu thì người đó có khả năng bị suy tim, hoặc viêm thận.
Vì sao giữa lượng nước tiểu với tim và thận lại có quan hệ với nhau? Bởi khi tim bị bệnh, lượng máu truyền tớl thận có thể giảm xuống, nên lượng nước tiểu bài tiết do đó mà giảm theo. Nếu kiểm tra mà tim không bị bệnh thì chứng tỏ cơ năng của thận đã yếu, thậrn chí có thể bạn đã bị viêm thận.
Thông thường, mỗi ngày một người bình thường có thể đi vệ sinh từ 4-6 lần. Nếu trong một ngày bạn tiểu tiện dưới 2 lần và lượng nước tiểu rất ít thì bạn cần phải biết rằng, không những cơ năng tim của bạn yếu mà cả cơ năng thận cũng có vấn đề. Tuy nhiên, nếu bạn tiểu tiện hơn 10 lần trong 1 ngày, ngoại trừ do uống nhiều nước ra thì rất có khả năng bạn mắc bệnh đái đường. Cũng có những trường hợp, có người bị bí tiểu tiện, những trường hợp như vậy có thể bị viêm đường niệu đạo. Ví dụ như: viêm bàng quang, viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền niệu hoặc viêm bể thận...
Theo góc độ thời gian, ban ngày một người bình thường tiểu tiện từ 5-6 lần và buổi tối vài ba lần. Còn nếu người nào có số lần tiểu tiện trong ngày ít mà buổi tối lại nhiều hơn thì có thể người đó đang bị suy tim và thận. Khả năng làm việc của thận vốn dĩ ban đêm được giảm xuống
32
từ 1/3 đến 1/4. Song khi thận yếu, việc lọc thận không thể hoàn thành vào ban ngày nên nó đành phải xử lý thêm vào ban đêm, cho nên mới gây ra hiện tượng đi vệ sinh vào buổi tối nhiều như vậy.
Tóm lại, ở người nào đó mà số lần tiểu tiện ban đêm tăng lên thì tim và thận có dấu hiệu suy yếu. Vì vậy, một khi phát hiện ra hiện tượng này, người bệnh cần tới ngay bác sỹ để điều trị kịp thời.
MẮT CÓ HIỆN TƯỢNG BỊ VÀNG
Khi bị bệnh gan, triệu chứng biểu hiện rõ ràng nhất là mắt bị vàng. Điều này chứng tỏ kết mạc nhãn cẩu tạo ra trạng thái màu vàng.
Gây ra hiện tượng mắt vàng là do cơ năng gan bị bệnh, sắc tố dịch mật không thể xử lý triệt để, cho nên sắc tố dư thừa sẽ bị ứ đọng lại trong máu. Và khi máu truyền đi khắp các bộ phận trong cơ thể nên sẽ gây ra vàng mắt.
Như phần trên chúng tôi đã đề cập, chúng ta có thể phát hiện ra bệnh gan qua màu nước tiểu và bây giờ chúng tôi lại giới thiệu cách nhận biết bệnh gan thông qua màu mắt. Vì vậy mọi người phải thường xuyên chú ý tới sức khoẻ, phát hiện sớm chữa trị sớm mới là cách bảo vệ sức khoẻ tốt nhất.
Khi bị viêm kết mạc mãn tính, mắt bạn cũng có thể 33
chuyển sang màu vàng, trong mắt sẽ xuất hiện động mạch nhỏ chằng chịt như lưới. Nhưng khi bị gan, có thể thỉnh thoảríg mắt bạn cũng xuất hiện triệu chứng như bệnh viêm kết mạc, song màu mắt chủ yếu vẫn là màu vàng, đây chính-tà điểm khác biệt cơ bản giữa hai loại bệnh này.
Cơ THỂ HAY BỊ NGỨA
Ngứa là triệu chứng của một số bệnh, tuy nhiên ngứa do bệnh gan gây ra lại là một trong những triệu chứng của bệnh vàng mắt. Như vậy, rõ ràng bệnh vàng mắt có thể gây ra ngứa.
Bề ngoài, chúng ta thấy hiện tượng ngứa cực kỳ đơn giản, song thực tế khi nghiên cứu kỹ chúng ta mới thấy được tính phức tạp của nó. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, ngứa không thay đổi theo tinh trạng xấu đi của bệnh vàng mắt. Thực tế, ngứa có thể xuất hiện trước khi có bệnh vàng mắt.
Người ta đã tiến hành một thí nghiệm. Chúng ta biết rằng vàng mắt là do thành phần dịch thể mật dư thừa gây ra, song khi các nhà bác học tiêm thêm một lượng lớn dịch thể mật vào cơ thể động vật thì chúng không có biểu hiện hiện tượng ngứa nhiều hơn so với trước khi thực hiện thí nghiệm.
Ngoài ra, các bệnh như kết sỏi mật hay u m ật... cũng có thể gây ta ngứa, nguyên nhân là những loại bệnh này
34
đã hủy hoại một số lượng lớn hồng cầu nên mới dẫn đến hiện tượng này.
Từ đó chúng ta có thể xác định được rằng: ngứa là một trong những triệu chứng của bệnh gan, còn nguyên nhân chủ yếu gây ra ngứa thì đến nay vẫn còn là một điểu bí ẩn.
VÀNG DA LÀ TRIỆU CHỨNG CHỦ YẾU
CỦA BỆNH GAN
Thông thường khi nhắc tới bệnh gan, người ta thường nghĩ ngay tới triệu chứng vàng mắt. Cho nên, vàng mắt có thể xem là biểu hiện của bệnh gan. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là tất cả hiện tượng vàng mắt đều do bệnh gan gây ra.
Có hiện tượng vàng da là do sắc tố dịch mật trong máu quá nhiều. Khi đó, ở mặt, da và niêm mạc luôn ỏ trạng thái màu vàng. Thông thường dịch mật là do gan tạo ra. Nó được chuyển vào ruột non giúp hấp thụ tiêu hóa thức ăn, đặc biệt là các đồ ăn có mỡ. Đồng thời, nó còn là nguyên liệu chủ yếu để tạo ra loại hoócmôn steroid trong cơ thể.
Bên trong hổng cầu có chứa một loại hemoglobin. Khi hồng cầu bị suy yếu thì tính mạng cũng bị đe dọa và một loại tế bào trong võng mạc bị hủy hoại. Những huyết sắc tố trong hồng cầu bị hủy hoại này lại có thể trỏ thành
35
bilirubin. Người ta gọi bilirubin này là bilirubin dạng gián tiếp.
Bilirubin dạng gián tiếp do chịu ảnh hưởng của tế bào gan nên nó lại trở thành bilirubin dạng trực tiếp. Bilirubin dạng này chính là chất của dịch mật.
Nếu trong quá trình chuyển hóa trên đây xảy ra bất thường thì sẽ gây ra hiện tượng vàng da. Còn nếu hồng cầu liên tục bị hủy hoại, một số lượng lớn bilirubin được tạo ra trong tê' bào võng mạc do gan không xử lý triệt để sẽ bị tích tụ lại trong máu. Sau một thời gian, với quá trình lưu chuyển của máu, sẽ làm cho da và các bộ phận cho cơ thể tồn trữ bilirubin dạng gián tiếp. Hiện tượng này người ta gọi là vàng da dạng hòa tan máu.
Còn một dạng vàng da khác gọi là vàng da dạng tiền bệnh gan, nó có nguyên nhân từ bệnh tim và hiện tượng thiếu máu trầm trọng.
* Không chỉ có bệnh gan mới gãy vàng da
Bệnh vàng da dạng tiền bệnh gan là một loại bệnh của máu. Có một số người do thiếu hồng cầu bẩm sinh hay do chức năng miễn dịch bất bình thường, cũng thường bị bệnh vàng da dạng tiền bệnh gan.
Thời gian tồn tại của hồng cầu thường kéo dài từ 10 - 20 ngày. Nếu kỳ hạn tổn tại rút ngắn lại thì nó có thể bị hủy hoại nghiêm trọng. Do vậy, việc sản sinh một lượng lớn henoglobin, hay bilirubin dạng gián tiếp cũng trở nên quá dưthừa. Đây chính là lý do gây ra bệnh vàng da.
36
Khi bị vàng da dạng hòa tan máu, màu da tương đối trơn mịn và có màu vàng tươi, người ta cũng gọi loại bệnh này là bệnh vàng da dạng tiền bệnh gan.
Tuy nhiên, gần đây có một số học giả cho rằng, khả năng của gan rất tốt, cho dù lượng bilirubin hòa tan trong máu quá dư thừa thì nó có thể vẫn được tiêu hóa. Cho nên, chỉ cần gan không bị bệnh thì không thể bị mắc bệnh vàng da. Ngoài ra, nếu chúng ta thường xuyên bị sốt và cơ thể bị thiếu máu thì bệnh vàng da càng nghiêm trọng hơn.
* Bệnh vàng da rất nguy hiểm
Khi bilirubin dạng gián tiếp chuyển tới gan sẽ chuyển hóa thành bilirubin dạng trực tiếp. Do gan có “vấn đề”, cho nên nó không thể hoàn thành được nhiệm vụ chuyển hóa, do vậy bilirubin dạng gián tiếp sẽ bị ứđọng lại trong máu, hình thành nên bệnh vàng da dạng gan.
Có rất nhiều loại viêm gan, ví dụ như: viêm gan cấp tính, viêm gan mãn tính, viêm gan dạng trúng độc...
Khi bị viêm gan cấp tính, toẩn thân cảm thấy uể oải, sốt cao, sợ rết. Những triệu chứng này gần giống với bệnh cảm cúm. Đồng thời nó xuất hiện kèm theo nhiều hiện tượng khác như: chán ăn, chóng mặt, buồn nôn... tỷ lệ dẫn đến bệnh vàng da tương đối lớn.
Nhưtrên đã nói, bệnh vàng da dạng hậu bệnh gan là do dịch mật không thể thông với ống mật nên mới hình thành bệnh. Bệnh vàng da thường là một trong những
37
nguyên nhân của ung thưvà sỏi thận.
Loại bệnh này thường xuất hiện ỏ những người trung niên. Nếu quan sát màu da của người bị bệnh vàng da dạng hậu gan, chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt giữa các dạng bệnh về màu vàng. Loại bệnh gan dạng hậu gan có màu vàng kim màu xanh.
Khi bị sỏi mật, sau khi ăn thực phẩm chứa mỡ có thể có hiện tượng đau bụng dữ dội và sốt cao. Đổng thời, người bị bệnh vàng da cũng có những triệu chứng trên.
Vì lý do bệnh sỏi mật nên bệnh vàng da có thể đỡ đi nhiều trong một khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu bệnh sỏi mật tái phát thì bệnh vàng da cũng xuất hiện theo. Cho nên, bệnh vàng da cũng biểu hiện ra ngoài tùy theo tình trạng của bệnh sỏi mật.
Khi chiếu X quang vào túi mật, chúng ta có thể phát hiện thấy các triệu chứng của sỏi mật. Song mặc dù cơ thể không có triệu chứng đau bụng của bệnh túi mật, mà bệnh vàng da lại dần dẩn xuất hiện thì bạn cũng phải đặc biệt chú ý.
Khi bị bệnh vàng da, trọng lượng cơ thể cũng có thể giảm xuống một cách rõ rệt. Cho nên, nếu thấy có triệu chứng giảm cân nhanh chóng, bạn cần phải tham khảo ý kiến của bác sỹ.
Do tế bào ung thư làm tắc nghẽn sự lưu thông của ống mật, nên màu nước tiểu có thể có sự biến đổi. Giả sử ống mật bị tắc hoàn toàn thì nước tiểu không thể có màu
38
vàng nữa mà chuyển sang trạng thái màu đục. Từ sự biến đổi màu nước tiểu, chúng ta cũng có thể biết được tình trạng của bệnh vàng da.
HIỆN TƯỢNG GAN SƯNG TO
Khi gan bị bệnh nó thường sưng to. vốn dĩ gan không có hệ thần kinh giảm đau, nên cho dù gan bị b_ệnh nặng thì chúng ta cũng không hề có cảm giác đau đớn.
Tuy nhiên bề mặt của gan lại được bao phủ bởi một lớp màng, trên đó có rất nhiều dây thần kinh gây cảm giác đau. Nên khi gan sưng to, lớp màng này sẽ giãn rộng, lúc này người bệnh mới có cảm giác đau đớn. Nói cụ thể hơn, khi bệnh đã nặng thì một bên phần bụng có thể có hiện tượng đau nhức. Đây chính là do đau gan, cơn đau này có thể lan tới phần vai bên phải, làm cho vai cũng^có cảm giác đau ‘râm ran” và có thể bị cứng lại.
Khi gan sưng to, đương nhiên sẽ dẫn tới đau gan. Tuy nhiên, nếu gan không có cảm giác sưng hay đ a u /á t thì chúng ta có thể ấn nhẹ vào phần gan để có .thể cảm nhận được cơn đau của lớp màng gan. Việc nghiên cửu hình dạng, kích thước và độ cứng của gan là trọng điẹm chủ yếu trong việc chuẩn đoán gan. Chẩn đoán gan cần làm như:
Buổi tối trước khi đi ngủ, bạn có thể nằm nghiêng trên giường, nhẹ nhàng thả lỏng cơ bụng, hóp bụng vào,
39
dùng tay nắn nhẹ vào gần xương sườn cuối cùng thì bạn có thể chạm vào gan.
Nếu tay bạn chạm vào gan ở vị trí thấp nhất của xương sườn, cách phần xương sườn một khoảng tương đối xa, lúc này bạn phải thực sự cảnh giác vi có khả năng gan bị sưng to. Khi tay chạm vào gan, hãy thửxem có các phản ứng sau không?
- Có cảm giác đau hay không?
- Trên bề mặt gan có thấy lồi lõm hay không? - Gan cứng hay có tính đàn hồi?
Những động tác này phải bắt buộc kiểm tra quan sát kỹ.
Nếu chạm vào phần gan sưng to đến quanh khu vực rốn thì e rằng bạn đã mắc phải một số bệnh nguy hiểm nhưung thưgan, máu trắng, gan nhiễm mỡ... Khi gan đột ngột sưng to, chúng ta phải xem xét liệu có bị mắc bệnh viêm gan cấp tính hay bệnh về tim mạch hay không. Nếu là bệnh xơ gan thì giai đoạn đầu có thể có cảm giác cứng và sẽ dần dần mất đi tính đàn hồi. Tuy nhiên, nói chung bệnh tim, viêm gan cấp tính, gan nhiễm mỡ... đều không thể gây ra hiện tượng xơ gan. Vì vậy, lúc phát hiện thấy gan sưng to hoặc teo nhỏ, tốt nhất bạn nên tới bệnh viện chụp X quang để chẩn đoán bệnh cho chính xác.
Vì sao gan có thể bị teo nhỏ? Rõ ràng lúc gan bị xơ cứng nghiêm trọng hoặc viêm gan cấp tính thì gan sẽ có
40
xu hướng teo nhỏ lại.
Trong thực tế, gan bị sưng to chưa hẳn là gan có bệnh nặng. Có lúc ảnh hưởng của các loại bệnh khác mà làm cho gan phải gánh chịu hậu quả. Ví dụ như: mỡ, prôtêin, đường, sắt... gây ra những thay đổi hóa học bất thường, làm cho nhiều chất dư thừa tích lại trong gan và biến gan thành kẻ “bệ vệ”.
Hiện tượng gan sưng to do quan hệ trao đổi chất gây ra, lẽ đương nhiên chúng ta không biết nó có liên quan gì với bệnh gan. Nên khi gan bị sưng to, bạn cần đi khám để tiến hành chữa trị kịp thời.
BỤNG BÁNG LÀ TRIỆU CHỨNG GAN ĐÃ BỊ BỆNH
Báng nước, vàng da và gan sưng to có thể nói là triệu chứng chủ yếu của bệnh gan. Khi bệnh gan nặng hơn có thể gây ra hiện tượng báng nước, cả phẩn bụng trông giống như một con ếch ộp. Hiện tượng báng nước cũng có thể phát sinh khi gan xơ cứng nghiêm trọng hoặc bị viêm gan cấp tính.
Khi bị báng nước, chỉ trong vòng 1-2 ngày bụng có thể phình to nhưng cũng có lúc lại bị teo nhỏ dần. cảm giác đầu tiên khi phát sinh báng nước là bụng chướng to, tinh thần uể oải.
Khi bệnh tình của gan ngày càng trầm trọng thì tế bào gan có thể bị chết. Gan trở nên xơ cứng, không có
41
tính đàn hồi, đây chính là triệu chứng của bệnh xơ gan.
Ngoài ra chúng ta cũng biết rằng, gan chuyên làm nhiệm vụ hợp thành của prôtêin và trong đó thành phần quan trọng nhất là albumin. Loại albumin này có chức năng thẩm thấu để cân bằng máu. Nếu gan bị bệnh, quá trình sinh trưởng của albumin sẽ gặp trỏ ngại, khả năng thẩm thấu của máu cũng giảm xuống. Có nghĩa là máu của niêm mạc ban đầu có thể chuyển hóa thành máu có hàm lượng nước cao và nồng độ thấp.
Loại máu có hàm lượng nước cao này, vì lý do thẩm thấu cho nên nước dễ dàng chảy ra ngoài huyết quản. Song vì triệu chứng huyết áp huyết quản chảy vào gan nên loại máu này có thể tích tụ lại trong huyết quản tĩnh mạch. Do vậy, phần bụng có thể chứa thêm nhiều lượng nước, hình thành nên báng nước.
Cũng có người cho rằng, tình trạng nghiêm trọng của bệnh xơ gan cũng có thể gây ra hiện tượng báng nước. Nhưng dù sao nó vẫn xuất phát từ bản thân của gan.
* Mối liên hê giữa báng nước là lương muối trong cơ thể.
Muối là một dạng vật chất cần thiết cho cơ thể, ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ chúng ta.
Khi ăn canh, chúng ta cảm thấy vô cùng hưng phấn, lý do là vì lúc đó lượng muối trong canh và lượng muối của máu ở trạng thái cân bằng. Vì vậy, có thể nói khi nào lượng muối tương đương với nồng độ máu của cơ thể thì
42
khi đó là lý tưởng nhất.
Khi gan có “vấn đề”, muối sẽ gây trở ngại nhất định cho sự tiết ra của các loại hoócmôn. Lấy ví dụ như hoócmôn estrogen, khi không được tiết ra dễ dàng, lượng muối trong cơ thể sẽ khó bài tiết ra ngoài theo nước tiểu.
Những người bị bệnh xơ gan, chỉ cần kiểm tra nồng độ muối của nước tiểu thì có thể biết được sự tăng lên của báng nước, cũng có nghĩa là lượng muối sẽ giảm xuống. Vì lý do báng nước tăng nhiều thì lượng muối của nước tiểu theo đó mà nhạt dần. Lượng muối được bài tiết ra ngoài giảm xuống, điều đó cũng đồng nghĩa với việc lượng muối ứ đọng lại trong cơ thể tăng lên.
Có thể nói, để “bôi trơn” các loại cơ năng trong cơ thể thì việc duy trì lượng muối thích hợp là một điều hết sức cần thiết. Do lượng muối tồn đọng trong cơ thể tăng lên thì lượng nước cũng tăng theo, do đó nồng độ muối có thể nhạt đi. Cũng chính vì lượng nước trong cơ thể tăng lên mới dẫn đến hiện tượng báng nước.
Tuy nhiên, cách giải thích sau đây thì tương đối chính xác hơn cả. Một số hiện tượng như áp lực môn mạch tăng lên, lượng prôtêin trong máu giảm xuống, muối đọng lại trong cơ thể, lượng nước tiểu bài tiết ra giảm đi đều có quan hệ chặt chẽ với việc sinh ra chứng báng nước.
43
BỆNH GAN DỄ LÀM CHO
TINH THẦN HOẢNG HỐT
CÓ những người từ xưa đến nay làm việc khá cẩn thận, chặt chẽ. Nhưng đột nhiên gần đây họ lại có cách làm biểu hiện sự cẩu thả, thiếu thận trọng thậm chí còn làm cho người xung quanh cảm thấy khó chịu.
Lẽ đương nhiên, nguyên nhân gây ra sự kém hiệu quả này có thể không phải là do họ lười biếng hay thiếu tinh thần trách nhiệm, mà do bản thân họ cảm thấy lực bất tòng tâm, không biết phải làm gì. Nếu đến một lúc nào đó nếu bạn cảm thấy chán chường, bất lực, hoặc mất đi hoàn toàn cảm giác hưng phấn, say mê của ngày xưa... thì lúc đó cơ thể bạn đang tiềm ẩn nguy cơ phát tác của bệnh gan. Cho nên bạn cần phải đặc biệt chú ý, kịp thời kiểm tra sức khoẻ.
Cũng có thể vào thời gian này, nhu cầu tình dục của bạn giảm xuống, làm cho cuộc sống “chăn gối” vợ chồng rơi vào bế tắc. Điều này cũng chứng tỏ bạn đang có dấu hiệu bị bệnh và cần phải đặc biệt chú ý tới sức khoẻ của bản thân. Nói một cách cụ thể hơn, có thể là bạn không phải là bị bệnh gan thông thường nữa mà tình trạng bệnh của bạn đã chuyển sang giai đoạn nghiêm trọng hơn.
Cảm giác mệt mỏi toàn thân do bệnh gan gây ra hoàn toàn khác so với bệnh cảm cúm. Khi bạn nằm trên giường, toàn thân chìm trong cảm giác u mê, buồn bã. Tỉnh dậy, bạn thấy sức lực yếu đi nhiều, thậm chí không còn đủ sức
44
để bước xuống giường.
Nếu vừa bị bệnh vàng da và vừa bị cảm cúm đồng thời thì khi chữa trị bạn phải mất rất nhiều thời gian, công sức. Khi toàn thân cảm thấy mệt mỏi, phần bụng có thể chướng to và kèm theo táo bón, nôn ói... Nguyên nhân của cảm giác mệt mỏi là do quá trình trao đổi chất đường glucô trong cơ gây ra trở ngại. Mà nhân tố gây nên sự khó khăn này chính là thiếu hụt vitamin B1 trong cơ tạo ra. Nhưng vì sao lại thiếu vitamin B1 ? Đơn giản là vì gan đã bị bệnh! Hơn nữa, khi gan yếu sẽ làm cho khả năng hợp thành của prôtêin giảm xuống, từ đó dẫn đến hiện tượng thiếu hụt phải trong cơ thể.
CHÁN ĂN, MẤT NGỦ LÀ
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH GAN
Xe cộ cần nhiên liệu để hoạt động, con người ta cũng thế, rất cần phải được bổ sung chất bổ để sản sinh năng lượng - tinh lực. Có năng lượng thì cơ thể của chúng ta mới có thể tồn tại được. Vì vậy, đối với người thiếu chất dinh dưỡng thì rất dễ nảy sinh sự mệt mỏi, làm việc kém hiệu quả.
Nếu hàng ngày, năng lượng bỏ ra để hoạt động lớn hơn số năng lượng cung cấp cho cơ thể thì dần dần tinh thần sẽ bị suy sụp. Còn nếu nhiệt lượng cung cấp vượt quá năng lượng sử dụng thì lại rất dễ gây ra bệnh béo phì.
45
Cho nên, năng lượng cung cấp và năng lượng sử dụng tương ứng thì mới có thể giữ được sức khoẻ bình thường.
Khả năng tồn tại của một người có quan hệ chặt chẽ với vấn đề sinh lực của họ. Những người có sinh lực mãnh liệt thì khả năng sinh tồn tự nhiên của họ có thể phục hổi rất tốt trong những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, con người ta còn có một sức mạnh đáng quý hơn, đó chính là ý niệm ham sống. Một người có thể bị mắc một loại bệnh nan y, nhưng nếu vẫn còn ý niệm ham sống thì người đó vẫn còn cơ hội phục hồi hoặc có thể kéo dài thời gian sống.
Ăn uống là một chuyện hết sức bình thường, nhưng ở góc độ y học thì liệu pháp ăn uống là phương pháp điều trị có hiệu quả tối ưu nhất. Vì vậy có thể nói người bệnh thèm ăn, ý chí ham sống mãnh liệt thì sẽ chiến thắng tất cả.
* Khí ăn uống không còn ngon miệng
Thông thường nhu cầu ăn uống sẽ giảm khi bị bệnh gan. Cho nên chúng ta có thể biết, đặc trưng đầu tiên của bệnh gan chính là triệu chứng chán ăn. Cũng có thể sau khi ăn, họ cảm thấy trong người rất khó chịu, đây cũng là một trong những triệu chứng của bệnh gan. Mỗi khi ăn các loại thực phẩm nhiều dầu mỡ hoặc prôtêin thì cơ thể sẽ có thể xuất hiện cảm giác mệt mỏi, uể oải khó giải thích. Vì vậy, chúng ta cần ăn những đồ ăn tương đối nhẹ nhàng hơn một chút. Ngoài ra, khi gây ra bệnh chán ăn, bệnh gan có thể gây kèm thêm hiện tượng mất ngủ. cần phải biết rằng, sinh lực bắt nguồn từ hai yếu tố, một là ăn
46
uống đầy đủ, hai là ngủ đủ giấc. Nếu bị mất ngủ, ăn uống không ngon miệng, cơ thể tự nhiên sẽ bị kiệt sức, khả năng đề kháng giảm xuống, nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn.
* Đột ngột thức giâ'c khi ngủ
Những người bị mất ngủ do bệnh tinh thần gây ra thường không cho rằng mình mắc chứng mất ngủ.
Song những người bị mất ngủ do bệnh gan lại rất dễ đi vào giấc ngủ mỗi khi họ muốn ngủ, thèm ngủ. Nhưng khi đang ngủ say mà đột nhiên tỉnh giấc thì cần phải chú ý. Lấy ví dụ như khoảng 11 giờ đêm bạn đi ngủ, ít phút sau bạn đã ngủ rất say. Nhưng đến 1,2 giờ sáng bạn lại đột nhiên thức giấc và khi đó bạn không còn cảm giác buồn ngủ nữa. Nếu hiện tượng này xảy ra thường xuyên thì bạn phải cẩn thận.
Nếu bạn cảm thấy không thích ăn những thực phẩm dầu mỡ, thói quen ăn uống nhạt dần hoặc bạn cho rằng mỗi ngày ăn đủ ba bữa là một điểu “tồi tệ” và lại còn hay bị tỉnh giấc vào sáng sớm, đây chính là những triệu chứng đầu tiên của bệnh gan.
Tóm lại, bạn cảm thấy mình có những triệu chứng trên đây thì phải ki.p thời gặp bác sỹ để chuẩn đoán. Đồng thời, có một điều cần phải đặc biệt chú ý nữa là, khi có cảm giác ăn uống không ngon miệng, thể trọng cũng theo đó mà giảm xuống. Sự suy giảm trọng lượng cơ thể này chính là một trong những triệu chứng của bệnh gan.
47
MẮT RẤT DỄ BỊ MỆT MỎI KHI BỊ BỆNH GAN
Nếu thời gian gần đây bạn thường chảy nước mắt vô cớ hoặc sáng sớm khi thức giấc, bạn phát hiện thấy khoé mắt có nhiều dử, lúc đó có khả năng thị lực của bạn đã yếu đi. Khi thị lực suy yếu, đa số đều có thể gây ra bệnh quáng gà.
Màn đêm buông xuống, thị lực đột ngột yếu đi, rất khó phán đoán sự vật, màu sắc xung quanh tối hẳn... người ta gọi đó là bệnh quáng gà. Để thích ứng với độ sáng tối của môi trường, con ngươi có sự điều tiết thích hợp. Trong bóng tối, con ngươi có thể mở to ra, ngược lại ngoài ánh sáng, con ngươi sẽ tự nhiên thu nhỏ lại. Mọi người đều biết mắt của con mèo cũng có sự chuyển đổi tùy theo môi trường, vào chỗ tối mắt mèo mỏ to, tớl nơi sáng mắt tự thu nhỏ lại. Lý do là vì tế bào thị giác làm việc ỏ chỗ sáng chỗ tối hoàn toàn không giống nhau, cho nên vào chỗ tối tế bào thị giác suy yếu đi sẽ gây ra bệnh quáng gà. Bệnh quáng gà là một trong những loại bệnh do bệnh gan gây ra. Đương nhiên để xem xét mức độ bệnh gan, chúng ta có thể phán đoán thông qua bệnh vàng da hay báng nước, nhưng phán đoán qua bệnh quáng gà cũng là một phương pháp tốt để phát hiện ra bệnh gan thời kỳ đầu.
Nguyên nhân gây bệnh quáng gà là gì?
Nguyên nhân chủ yếu là do cơ thể bị thiếu vitamin A. Cần phải biết rằng, phần lớn vitam in A của cơ thể đều
48
nằm trong gan, có khoảng 92% lượng vitam inA trong cơ thể thuộc về gan. Nếu gan bị bệnh thì không thể chứa được vitamin A nữa, từ đó gây thiếu vitamin A, kết quả sẽ dẫn đến bệnh quáng gà.
Vì vậy, khi mắt đột nhiên cảm thấy mệt mỏi, bạn cần kịp thời tới bác sỹ để chẩn đoán nguyên nhân làm mắt mệt mỏi, đồng thời kiểm tra luôn cơ năng của gan.
NHỮNG DẤU HIỆU GAN NHIỄM MỠ THỜI KỲ. ĐẦU
Một số người mắc bệnh gan nhiễm mỡ thời kỳ đầu thường ăn uống rất tốt, sắc mặt hồng hào, có người béo trắng ra, những hiện tượng giả này tạo thành bệnh gan nhiễm mỡ thể ẩn. Ngoài ra, gan nhiễm mỡ là quá trình mạn tính. Thực ra, người bị nhẹ cũng có những dấu hiệu báo trước như người dễ mệt mỏi, chướng bụng, vùng gan tức hoặc đau âm ỉ, buồn nôn, hơi thở nóng... Các chuyên gia kiến nghị, bệnh gan nhiễm mỡ phải điều trị sớm, nếu không sẽ chuyển thành cứng gan.
GAN NHIỄM MỠ có CẦN ĐIỂU TRỊ KHÔNG
Nói chung gan nhiễm mỡ không phải là một bệnh mà chỉ là thay đổi bệnh lý. Vì vậy, khi phát hiện ra phải tiến hành phân tích tổng hợp, nếu mới bị nhẹ thì không cần phải dùng thuốc đặc trị mà chỉ cần áp dụng các biện pháp
49
tổng hợp như ăn uống, vận động, kiêng rượu, khống chê' bệnh tiểu đường, giảm béo... là có thể chữa khỏi. Nhưng nếu đã bị nặng (Lượng mỡ chiếm 40 - 45% trọng lượng gan) thì phải điều trị. Trong những biện pháp thì cai rượu và thuốc là then chốt nhất vì các triệu chứng gan nhiễm mỡ do cồn rất thường gặp, và rất dễ chuyển thành cứng gan.
50
Chương III
UỐNG RƯỢư RẤT HẠI GAN
CỒN RẤT HẠI GAN
Chúng ta cũng đều biết rằng, uống rượu
quá nhiều sẽ có hại cho cơ thể. Theo như những nghiên cứu khoa học cho thấy thì cồn rất hại cho gan. Năm 1793, đã có một nhà khoa học người Anh đưa ra một bản báo cáo nói về việc uống rượu có thể gây ra xơ gan.
Rượu và nhân loại có một mối quan hệ hết sức khăng khít. Lịch sử của con người có thể nói là một bộ lịch sửvể rượu. Rượu giúp con người giao lưu tình cảm, đặc biệt giúp cho con người nói được ra những điều tâm sự từ tận đáy lòng. Không những thế, nếu sử dụng đúng liều lượng, nó còn có thể giúp cho con người \rở nên khoẻ mạnh hơn. Có một câu tục ngữ nói rằng “Rượu là vị thuốc chữa bách bệnh”, nhưng khi uống quá nhiều rượu thì sựthể lại tồi tệ đi nhiều.
Các thống kê đó cho thấy, những con sâu rượu có tỷ lệ xơ gan cao hơn người bình thường từ 6-8 lần. Đây là nhóm đối tượng có tỷ lệ mắc bệnh cao.
51
Những người bình thường thường cho rằng rượu nho không gây xơ gan, nhưng đến hôm nay chúng ta đã thấy rõ rằng, bất kể là rượu gì, nếu uống quá nhiều sẽ rất hại cho cơ thể.
Pháp là một ví dụ, khi lượng rượu tiêu thụ giảm rõ rệt thì đồng thời tỷ lệ người bị chết do bị xơ gan cũng giảm mạnh. Năm 1920 Mỹ thi hành luật cấm bán rượu, người dân không có cơ hội uống nhiều rượu, do vậy mà các ca bệnh xơ gan giảm đi rõ rệt. Nhưng sau khi lệnh cấm rượu bị bãi bỏ, lập tức tỷ lệ người bị chết vì bệnh xơ gan lại tăng vọt.
Rượu vốn được coi là thuốc trị bách bệnh giờ đã trở thành thứ đồ uống gây ra bách bệnh.
Rút cuộc chúng ta có thể uống được bao nhiêu rượu mỗi ngày? Nói chung, gan của chúng ta mỗi ngày có thể chịu được lượng rượu từ 1 7 0 -2 2 0 g a m .
Đương nhiên những người hay uống rượu, gan của họ đã có sự thích ứng, nhưng nếu bắt gan phải làm việc quá ngưỡng quy định thì rất dễ gây ra bệnh.
Những người thường xuyên uống rượu trong vòng 10 năm liền có tỷ lệ mắc bệnh gan tương đối cao, khoảng 50% trong số họ sẽ bị xơ gan.
Thông thường, uống rượu cũng chịu sự ảnh hưởng của môi trường. Ví dụ những người nấu rượu và bán rượu có tỷ lệ xơ gan cao hơn những người làm nghề khác nhiều lần. Nguyên nhân là do hàng ngày họ tiếp xúc thường
52
xuyên với rượu, nên tiện tay uống một vài chén là bình thường, vì vậy tỷ lệ mẳc bệnh của họ cao hơn người khác.
PHẢN ỨNG ĐẦU TIÊN KHI GAN BỊ
RƯỢU LÀM TỔN THƯƠNG
Người có thói quen uống rượu, trong gan họ thường có sự biến đổi, thông thường đó là chứng đọng mỡ trong gan.
Gan của người bình thường có tỷ lệ mỡ khoảng từ 1- 3%. Nếu lượng mỡ trong gan tăng đột ngột, gan sẽ phình to ra, thường gọi là gan đọng mỡ.
Nếu như trong gan có quá nhiều mỡ, nó sẽ ép các tế bào gan, làm chức năng gan bị suy yếu, làm gan phát bệnh.
Nên dùng cách xét nghiệm máu để kiểm tra khi phát hiện ra gan có vấn đề. Chỉ cần có chế độ dinh dưỡng thích hợp, đồng thời dừng uống rượu, không lâu sau gan có thể khôi phục lại chức năng.
Cách tốt nhất là tiến hành kiểm tra mẫu gan, dùng kính hiển vi quan sát, có như vậy mới rõ được tình trạng bệnh tật.
Khi mỡ trong gan quá nhiều, các tê' bào gan sẽ bị ép chặt lại, chức năng gan giảm nhanh, cuối cùng sẽ dẫn đến viêm gan. Hiện tượng viêm gan do uống rượu gây
53
nên, nếu so sánh với các chứng viêm gan khác thì không có điểm khác biệt lớn lắm, nhưng trong đó có một điều khác biệt đó là các chất prôtêin trong tế bào gan có sự biến tính.
Chúng ta đều biết, ở trạng thái bình thường prôtêin có dạng lỏng. Tuy nhiên khi bạn dùng nước sôi để đun, nó sẽ biến thành thể rắn, đó chính là hiện tượng biến tính của prôtêin.
Sau khi prôtêin đã biến tính, nó sẽ mất đi chức năng vốn có của mình, hoặc nói cách khác đó chính là các prôtêin đã chết.
Khi uống rượu đã thành thói quen của bạn, trong gan dần dần sẽ tích rất nhiều mỡ, đồng thời các tế bào gan sẽ giữ lại các prôtêin đã mất hết tác dụng. Đây chính là đặc trưng cơ bản của bệnh viêm gan do rượu.
Qua giai đoạn hai đến giai đoạn ba, các tề bào gan sẽ bị tiêu diệt hết, gan sẽ đi vào trạng thái bị xơ cứng, rất nguy hiểm tới tính mạng người bệnh.
LÀM CÁCH NÀO ĐỂ t r á n h h iệ n tư ợ n g ĐỌNG MỠ TRONG GAN
Các chất mỡ vào cơ thể đều do những thức ăn mà chúng ta ăn mang vào. Các chất này được ruột hấp thụ, sau đó thẩm thấu vào máu và đi qua gan. Có thể nói đây là con đường đầu tiên để mỡ hình thành trong gan.
54
Một con đường khác của sự hình thành mỡ, đó là việc tích mỡ dưới da. Qua quá trình hòa tan, mỡ sẽ đi vào máu sau đó máu lại đi qua gan. Loại mỡ này được gọi là mỡ chưa phân ly.
Ngoài hai con đường hình thành trên còn có một cách hình thành mỡ khác, đó là từ các chất có nhiều đường. Ví dụ như: khi ăn cơm, bột mì, các thực phẩm có đường sẽ làm chúng ta béo rất nhanh. Những hợp chất này sau khi đi đến gan sẽ chuyển hóa thành mỡ. Đồng thời các chất đường này cũng có thể chuyển hóa thành đường glucô, nguồn cung cấp nhiệt lượng cho cơ thể.
Thông thường khi uống rượu, chúng ta thường hay chuẩn bị một chút đồ nhắm, nhiìng dồ nhắm này thường có một hàm lượng mỡ rất lớn. Do vậy, khi uống rượu chúng ta thường hay ăn kèm theo một khối lượng lớn cậc chất mỡ, lượng mỡ này sẽ tích tụ ỏ gan. Nếu như chức năng gan tốt thì chúng sẽ được phân giải thành các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Ngược lại, nếu gan yếu thì các chất đó sẽ không được phân giải và tích tụ lại trong gan, dần dần làm lượng mỡ trong gan tăng lên tạo nên hiện tượng gan đọng mỡ.
Để nhằm giảm lượng mỡ trong gan, hàng ngày chúng ta chú ý ít ăn các chất chứa nhiều mỡ và các thực phẩm có cácbon hóa hợp. Tốt nhất là ăn các chất giàu prôtêin và vitamin, có như vậy mới có thể đảm bảo cho gan khoẻ mạnh
Ngoài những nguyên nhân gây nên chứng gan đọng 55
mỡ như trên thì việc dinh dưỡng không cân bằng cũng như một yếu tố dẫn đến hiện tượng gan bị đọng mỡ. Bình thường, khi cơ thể thiếu prôtêin, choline và vitamin B12 thì đây là lúc rất dễ gây ra việc đọng mỡ trong gan.
Rượu là một chất mang nhiều nhiệt lượng, bình quân cứ 1gam rượu thì tương đương với 7 calo. Do đó khi uống nhiều rượu, nhiệt lượng trong người tăng cao, vì thế chất béo cũng tăng nhanh.
Nếu như lượng rượu bạn uống hàng ngày vượt quá mức nhiệt lượng cần thiết khoảng hơn 50 lần, thì trong vòng hai ngày các tế bào gan sẽ có sự biến đổi, từ ngày thứ ba đến ngày thứ bảy, bệnh đọng mỡ trong gan sẽ xuất hiện.
TỶ LỆ Xơ GAN DO UỐNG Rượu
ỏ NAM GIỚI KHÁ LỚN
Dưới đây, chúng ta sẽ có thể hiểu rõ hơn, đặc trưng của hiện tượng xơ gan do rượu là nhưthế nào?
Xơ gan có thể phân ra làm hai loại, loại thứ nhất là xơ gan thường, loại thứ hai là xơ gan do uống nhiều rượu. Theo thống kê của các nhà khoa học thì tỷ lệ xơ gan thường ở nữ giới khá lớn, nhưng xơ gan do uống rượu thì ở nam giới lại chiếm tỷ lệ cao.
Xơ gan do uống rượu đều là những người có thời gian uống rượu hơn 10 năm, do vậy chủ yếu người mắc bệnh
56
thường ỏ độ tuổi ngoài 40.
Khi bị xơ gan, người bệnh hay ho ra máu, đại tiện ra máu. Tuy nhiên xơ gan do uống rượu ngoài những triệu chứng ra máu như trên, ở giai đoạn đầu còn xuất hiện triệu chứng vàng da, vàng mắt, bụng ỏng, thậm chí còn có cả hiện tượng viêm thần kinh, phù chân.
Viêm thần kinh giai đoạn cuối có các biểu hiện như mép, lưỡi bị đỏ giống như cây thảo mai, ngoài ra chân có hiện tượng phù thũng. Đồng thời các cơ bắp trở nên yếu đi, cánh tay bị teo lại, đây là một trong những đặc trưng của bệnh xơ gan. Những người bị xơ gan bởi rượu, thường có thân hình to béo.
Bị xơ gan do uống rượu, về mặt thần kinh cũng có vấn đề, trí nhớ bị suy giảm, khả năng tập trung tinh thần kém và mất ngủ. Đương nhiên, hiện tượng mất ngủ này thường xuất hiện sau khi ngủ, đột nhiên họ tỉnh giấc và sau đó không tài nào ngủ được.
Về mặt tính cách, những người mắc bệnh mỗi lần bị một sự kích động nhỏ là có thể nổi xung ngay. Có những việc đối với người bình thường thì không sao, nhưng đối với họ nó lại rất khó chịu, tất cả các yếu tố trên đã gây ra sự bi quan cho người bệnh.
Nghiêm trọng hơn, có những người còn hay xuất hiện chứng hoang tưởng, lúc nào cũng có cảm giác nghe thấy những tiếng âm thanh, hoặc nhìn thấy vật gì đó, tạo sự bất ổn về tâm lý.
57
Tay, chân, cơ mặt người bệnh cũng hay có hiện tượng giật cơ. Các hiện tượng ỏ trên, đương nhiên là do các chất độc trong rượu gây ra, nó làm cho chức năng gan suy giảm mạnh. Cách tốt nhất là cai rượu và tới bác sĩ khám, điều trị.
SAY RƯỢU LÂU LÀ TÍN HIỆU
BÁO ĐỘNG ĐẦU TIÊN
Say rượu lâu là trạng thái say rượu kéo dài trong khoảng thời gian hơn 2 ngày. Đây có thể coi như là hiện tượng trúng độc tố rượu cấp tính.
Sau khi bạn uống rượu xong, cả ngày cảm thấy đau đầu, tim đập nhanh, buồn nôn, sau khi nôn hết các thứcó trong bụng ra thì cơ thể rất mệt mỏi. Đồng thời hoa mắt, chóng mặt, nằm trên giường mà thấy như mọi vật quay cuồng, giống như động đất vậy. Thậm chí còn có cảm giác như bị ngã từtrên giường xuống.
Trạng thái say rượu lâu nhưthế này chỉ có người đã từng say mới hiểu nổi. Nhưng bị say rượu lâu lý do là vì uống nhiều rượu chăng? Câu trả lời sẽ là không.
Khi bạn uống rượu với một trạng thái tinh thần vui vẻ, thì dù có uống khá nhiều rượu, nhưng chỉ sau một ngày là có thể tỉnh táo ngay. Ngược lại khi cơ thể hơi mệt một chút, nhưng lại uống rượu vào thì lập tức bị rơi vào trạng thái bị say lâu. Triệu chứng say lâu này chính là biểu hiện
58
của người bị mắc bệnh gan.
Một người trước kia có tửu lượng khá cao, nhưng gần đây cứ uống rượu vào là đau đầu, buồn nôn, hoa mắt chóng mặt. Nguyên nhân là do gan đã phát sinh vấn đề, do đó khả năng giải độc của gan bị kém đi.
Người bị say lâu, sau khi nghỉ ngơi một vài ngày có thể trở lại trạng thái khoẻ mạnh bình thường, nhưng đó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh, chúng ta cần phải hết sức chú ý.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng say lâu là do đâu? Đến bây giờ chúng ta chưa thể giải thích rõ được. Tuy nhiên cồn ở trong rượu sau khi ngấm vào cơ thể sẽ bị phân giải thành CO2 và nước hoặc thành Acetaldehyde.
Khi rượu bị phân giải nó sẽ làm mất đi phẩn nước trong cồn và tạo ra Acetaldehyde, đây là chất rất có hại cho cơ thể.
Bình thường mà nói, gan của một người khoẻ mạnh mỗi ngày phân giải được từ 170 - 200gam cồn. Khi phân giải sẽ sinh ra Acetaldehyde, nhưng do lượng Acetalde hyde không nhiều nên có một số biến đổi thành Acetal axit, do vậy không ảnh hưỏng đến sức khoẻ.
Nhưng khi gan đã có biểu hiện suy yếu, khả năng phân giải của nó sẽ kém đi, hoặc khi lượng rượu qua gan nhiều hơn khả năng chịu đựng, lúc đó gan không thể xử lý nổi. Vì vậy trong máu sẽ xuất hiện một lượng Acetalde
hyde khá lớn, nó ảnh hưởng đến não bộ làm xuất hiện các 59
hiện tượng như: đau đẩu, hoa mắt, chóng mặt...
Do lượng Acetaldehyde trong máu nhiều, cẩn phải qua một thời gian nhất định mới có thể phân giải hết, vì vậy mới xuất hiện hiện tượng say rượu lâu.
Hiện tượng tử vong do uống nhiều rượu hiện nay không phải là hiếm. Ví dụ trong vòng từ 5-10 phút bạn uống khoảng 500 gam rượu, hoặc một chai vvhisky, lúc này nồng độ rượu trong máu tăng cao đột ngột sẽ làm cho các tế bào não bị tê liệt.
Trạng thái mê man do uống rượu gây ra thường tạo thành hiện tượng sốc, rất dễ gây tử vong.
Không những thế, sau khi uống rượu các lớp mỡ dưới da sẽ bị hòa tan vào máu. Lượng mỡ lớn sẽ làm tắc huyết quản. Nếu như khí huyết không tốt, huyết quản ở não, phổi sẽ xuất hiện hiện tượng tắc, gây ra chứng tắc mỡ toàn thân rất nguy hiểm, có thể gây tử vong.
Không những vậy, lượng glycogen trong gan trong nháy mắt bị sụp rất nhanh đã tạo thành hiện tượng thiếu glycogen trong gan, gây nên chứng hạ đường huyết, nguy hiểm tới tính mạng.
Sau khi uống một lượng rượu lớn, dạ dày và ruột sẽ bị kích thích mạnh, do đó tạo nên hiện tượng xuất huyết các cơ quan tiêu hóa như dạ dày, ruột, dễ bị nôn ra máu, đại tiện ra máu.
Trong lúc này nếu được quan sát thành dạ dày bằng các thiết bị nội soi, ta sẽ thấy thành dạ dày ở trong trạng
60
thái xung huyết màu đỏ. Do vậy có thể nói rằng cồn đang tàn phá dạ dày.
Nếu đã được chứng kiến hình ảnh trên, chắc hẳn khi cẩm cốc rượu lên bạn sẽ cảm thấy sợ hãi.
Uống rượu dẫn đến bệnh dạ dày là hiện tượng thường thấy, nhưng ngoài ra nó còn gây ra bệnh viêm gan cấp tính. Với những người có quãng thời gian khoảng hơn 10 năm uống rượu, khả năng bị bệnh gan lại càng cao. Không những thế, chỉ cần họ uống nhiều rượu một lần là đã có thể bị viêm gan nặng ngay. Đồng thời, các ca dẫn đến tử vong do hiện tượng này tạo ra cũng khá nhiều.
Việc uống quá nhiều rượu sẽ tạo ra cho gan một gánh nặng quá lớn, do đó rượu ngon đã trở thành rượu độc. Tuy nhiên, điều đáng sợ đó lại là bệnh gan do cồn gây ra và bệnh gan do nhiều nguyên nhân khác gây ra là hoàn toàn khác nhau.
Khi uống quá nhiều rượu, đầu tiên sẽ xuất hiện hiện tượng nôn, kiết lị, sốt, không thèm ăn uống... Sau khi các triệu chứng trên kéo dài trong vòng ba ngày, thì những biểu hiện điển hình của bệnh gan mới xuất hiện.
Tình trạng bệnh tình nhưvậy chứng tỏ gan đã không thể xử lý, phân giải hết chất cồn có trong cơ thể. Gan rõ ràng đã bị viêm, đồng thời cũng không thể khôi phục lại chức năng như ban đầu.
Các triệu chứng điển hình của bệnh gan đó là vàng da, vàng mắt. Có những bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu
61
còn có hiện tượng lên cơn động kinh.
Giả sử các hiện tượng trên vẫn tiếp tục xảy ra, bên cạnh đó là phân đang từ màu vàng chuyển sang màu trắng, điều đó chứng tỏ gan đã bị xơ cứng, dịch mật không thể tiết ra được. Khi đại tiện phân lại nổi trên mặt nước, như vậy lượng mỡ trong phân nhiều hơn so với bình thường. Như trên đã nói, khi uống một lượng rượu lớn thì nồng độ mỡ trong máu sẽ tăng khá cao, do đó mỡ cũng đã cùng phân đi ra ngoài cơ thể.
Bụng cũng sẽ to ra nhanh chóng, cơ thể đã bị chứng đọng nước trong bụng.
Nếu một người cùng lúc xuất hiện các triệu chứng như phân trắng, bụng ỏng nước, vàng da vàng mắt, thì gan đã đang trong giai đoạn tồi tệ. Nếu như đã gặp phải tình huống trên mà vẫn còn tiếp tục uống rượu thì chỉ sau từ 3-7 ngày, họ sẽ chết vì uống nhiều rượu. Đấy là lý do tại sao phải tuyệt đối cai rượu, cần phải đến các chuyên gia đầu ngành khám bệnh, đồng thời tập bài tập nâng cao sức khoẻ.
Tình trạng bệnh nặng như vậy, nếu thoát khỏi nguy hiểm thì cũng rất cần chú ý đến hiện tượng xơ gan.
NGƯỜI BỊ Xơ GAN DO UốNG Rượu CHỈ SỐNG ĐƯỢC VÀI BA NĂM
Xơ gan do độc tố trong rượu và xơ gan bình thường có những biểu hiện phát bệnh tương đối giống nhau, nhưng
62
cũng không phải hoàn toàn là nhưvậy.
Những người bị xơ gan do uống rượu, thường chỉ sống thêm được khoảng vài ba năm, còn xơ gan bình thường thì chỉ sống được khoảng hơn một năm.
Tỷ lệ phụ nữ bị xơ gan do uống rượu thường ít hơn nam giới, và thời gian kéo dài cuộc sống của họ thường vào khoảng bốn, năm năm.
Những người bị xơ gan do uống rượu phần lớn là người bị trúng độc cồn. Tuy nhiên, sau khi bị trúng độc rượu, việc có hay không một chế độ dinh dưỡng và phương pháp điều trị hợp lý sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thọ sau này.
Sau khi bị viêm gan cấp tính do rượu, tình hình vẫn có thể chuyển biến theo hướng khả quan nếu có cách điều trị tích cực, kịp thời. Còn nếu sau ba tháng, chứng vàng da vàng mắt, bụng đọng nước vẫn không hết thì khả năng sống sót sẽ không nhiều.
Nhưng có một vấn đề đáng sợ, đó là khi hiện tượng vàng da vàng mắt, bụng đọng nước có những chuyển biến tốt, người ta cứ ngỡ rằng bệnh tật đã qua khỏi, nhưng trên thực tế đó lại là những biểu hiện của việc bệnh chuyển sang giai đoạn ung thư.
Hiểu được sự nguy hiểm của rượu đối với cơ thể, từ nay, chúng ta nên tránh xa rượu, có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý. Đồng thời phải bổ sung các chất vitamin và prôtêin, ít ăn các chất nhiều mỡ, như vậy mới có thể làm
63
cho chức năng gan dần dẩn phục hồi.
Vì vậy như khi cơ thể cảm thấy mệt mỏi, khả năng ghi nhớ tưduy giảm thì bạn cần phải đi khám và uống một số loại thuốc có tác dụng phục hồi thần kinh theo chỉ dẫn của bác sĩ.
UỐNG RƯỢU CÙNG VỚI THUỐC GIẢM ĐAU SẼ GÂY TỔN THƯƠNG GAN
Các chuyên gia y học cảnh báo, uống rượu cùng với thuốc giảm đau có chứa paracetam on có thể làm tổn thương gan. Người nghiện rượu nếu bị cảm mà cần uống thuốc giảm đau thì trước đó phải cai rượu, nếu không sẽ làm bệnh tăng nặng thêm.
64
Chương IV
CÁCH PHÒNG BỆNH GAN
Tự GIỮ GÌN SỨC KHOỀ
Khi không m ay m ắc phải bệnh gan, nếu
muốn khỏi bệnh, thì ngoài sự chữa trị của bác sỹ, còn có một yếu tô' quan trọng nữa đó là bản thân bệnh nhân. Tại sao lại nhưvậy? Khi bị bệnh gan, đồng thời cần phải cung cấp cho cơ thể một lượng dinh dưỡng đầy đủ, những yếu tố này là yếu tố hoàn toàn chủ quan mà người bệnh có thể làm được, do đó người bệnh trở thành tâm điểm trong công tác điều trị.
Có một giám đốc công ty, công việc rất bận rộn, bể ngoài trông có vẻ rất khoẻ mạnh, nhưng sau khi khám thì phát hiện là đang bị viêm gan nặng. Khi hỏi anh ta mới được biết, gần đây tình hình công việc không được tốt. Hoá ra anh ta đã đến bệnh viện vốn không phải là khám bệnh, mà là bởi vì tình hình làm ăn của công ty không tốt, cho nên đến chỗ tôi để “trút giận”. Trong quá trình nói chuyện, tôi cảm thấy anh ta có ánh mắt vô hồn, tinh thẩn
65
không ổn định, không tập trung, do đó tòl đã phán đoán rằng anh ta đã có vấn đề về gan, vì vậy đã khuyên anh ta nên kiểm tra lại kỹ gan. Lúc đó anh ta còn vặn lại tôi rằng: “Bác sỹ! Gan tôi không có vấn đề gì đâu!”
Nhưng kết quả xét nghiệm cho thấy, thật không may anh ta đang bị xơ gan.
Khi tôi tìm cách hỏi sinh hoạt thường nhật của anh ta qua người nhà, họ cho tôi hay anh ta là một tay bợm rượu, ngày nào cũng uống rất nhiều. Do đó một mặt tôi tiến hành điều trị cho anh ta, một mặt khuyên anh ta ăn nhiều thức ăn có protein và vitam in, đồng thời phải tránh xa rượu. Nhưng có một điều kỳ lạ là sau một thời gian, bệnh tình của anh ta không hề có tiến triển. Sau hai tháng điều trị, gan của anh ta không có chuyển biến gì tốt cả. Bệnh nhân rất lo lắng và hỏi tôi nguyên nhân ở đâu.
Tôi hỏi anh ta: “ở nhà anh có uống rượu không?”
Anh ta gãi đầu gãi tai: “Tôi chẳng uống một giọt rượu nào cả”, lại còn nói thêm: “Tôi chẳng hề động đến giọt rượu nhưng tại sao bệnh gan vẫn chưa có gì chuyển biến?”
Hôm sau tôi gọi điện đến nhà gặp vợ anh ta, hỏi xem có phải ở nhà anh ta không hề động đến rượu không?
Vợ anh ta trả lời; “Chồng tôi tuân thủ rất nghiêm ngặt lời dặn của bác sỹ, không dám uống rượu ở nhà, nhưng hàng ngày mỗi khi đi làm về anh ta thường vào quán uống hai ly VVhisky”.
Thật không thể ngờ nổi, tôi khuyên anh ta không uống 66
rượu, thế mà anh ta lại “uống vụng” ngoài phố chứ không uống ở nhà, chẳng trách bệnh gan của anh ta không hề khá lên.
Lời bác sỹ nói, đương nhiên không phải là hoàn toàn chính xác, nhưng tin tưởng và làm theo chỉ dẫn của bác sỹ thì không bao giờ bất lợi cả.
NGHỈ NGƠI SAU BỮA CƠM LÀ CÁCH
BẢO VỆ GAN TỐT NHẤT
Trong tương lai gần vẫn chưa có thuốc đặc hiệu chữa trị bệnh gan.
Tim là một bộ phận quan trọng gắn liền với sinh mạng của con người, nhưng có cấu tạo và chức năng khá đơn giản. Nhiệm vụ chủ yếu của tim cũng giống như một chiếc máy bơm nước, nó bơm máu vào phổi và các phủ tạng thông qua tĩnh mạch, đồng thời bơm máu đã được “làm sạch” vào động mạch để đưa đi khắp cơ thể, ta thấy hoạt động của tim được cơ giới hoá rất cao.
Nếu so sánh với tim, thi chức năng của gan khác hẳn.
Khi gan bi nhiễm bệnh, người ta cần phải nghỉ ngơi yên tĩnh, bồi bổ cơ thể với một hàm lượng chất dinh dưỡng cao, đây hoàn toàn là một việc mà bản thân người bệnh phải chú ý. Về mặt này bác sỹ không giúp gì được, đấy chính là lý do tại sao khi chữa trị bệnh gan thì người quan
67
trọng nhất lại chính là bệnh nhân.
Ngoài ra cũng cần phải chú ý, khi bị mắc bệnh gan nếu cần phải phẫu thuật cắt một phần gan thì loại phẫu thuật này cũng không dễ như phẫu thuật cắt một phần dạ dày.
Bệnh gan có rất nhiều loại, ví dụ như bệnh ung thư gan cục bộ, trong gan có m ủ... Đây là những loại bệnh gan thường được xử lý bằng phương pháp phẫu thuật. Nhưng nếu mắc các chứng bệnh như viêm gan, xơ gan, gan đọng mỡ..., do những chứng bệnh này xuất hiện do toàn bộ cơ cấu và chức năng của gan bị suy yếu, nên •
không thể dùng biện pháp phẫu thuật được.
Hiện nay, trong giới y học đang rất thịnh hành một phương pháp điều trị mới: đó là phẫu thuật cấy gan. Nhưng nếu như so sánh với các ca cấy ghép phủ tạng khác như tim, thận... thì cấy ghép gan có độ phức tạp hơn nhiều.
Cách điều trị bệnh gan tốt nhất đó vẫn là nghỉ ngơi, những người bị mắc bệnh này, nếu không tự mình nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, thì không những bệnh không khỏi mà còn ngày càng trở nên nghiêm trọng. Việc nghỉ ngơi trong một thời gian dài là rất quan trọng, trong đó quan trọng ị
nhất đó là chế độ nghỉ sau bữa ăn.
Sau khi ăn xong, dạ dày đang căng, nhu động ruột Ịcao, cần một lượng lớn máu để cung cấp cho các bộ 'phận này, nhằm thực hiện chức năng của nó. Lúc này imột lượng lớn chất dinh dưỡng được thẩm thấu vào máu,
cùng với máu di chuyển khắp cơ thể, sau đó tất cả chất 68
dinh dưỡng đó được tập trung tại gan. Gan có nhiệm vụ phân giải và tập hợp lại các chất dinh dưỡng, cuối cùng là đưa các chất đó tới các cơ quan cần thiết. Lúc này, gan rất cần nhiều máu để giúp nó hoàn thành nhiệm vụ.
Theo như các thí nghiệm khoa học, lượng máu được đưa đến gan trong hai tư thế đứng và nằm chênh nhau đến 30%. Do vậy, ăn xong nghỉ ngơi một lát sẽ giúp ích rất nhiều cho dạ dày, ruột và gan. Không chỉ có người bị bệnh gan, mà những người bị bệnh dạ dày, sau khi ăn cơm ngủ một lát là điều rất cần thiết.
ở những người mắc bệnh gan, gan của họ thường rất yếu, do đó cần phải cung cấp cho gan một lượng máu đầy đủ, có như vậy gan mới có thể đảm bảo hoạt động bình thường. Sau khi ăn xong có một giấc ngủ ngắn sẽ giúp lượng máu đưa đến gan tăng khoảng 30%, đây là điều rất quan trọng đối với gan, cần phải ghi nhớ kỹ.
Các bữa ăn hàng ngày, cần một lượng thực phẩm giàu vitamin, protein và nhiều nhiệt lượng. Như phần trước chúng ta đã nói, việc hấp thụ hết lượng vitam in, protein trong ngày vào một bữa ăn là điều không đúng. Nói cách khác, chúng ta cần phải phân lượng vitamin, protein cần thiết trong một ngày ra ba bữa một cách cân bằng, đó mới là cách làm tốt.
Nếu như buổi tối ăn quá nhiều các thực phẩm có chứa chất béo, bữa sáng lại chỉ ăn đơn giản vài thứ rau hoặc hoa quả, trong khi bữa trưa lại toàn những chất giàu tinh bột thì là một cách hấp thụ chất dinh dưỡng không cân
69
bằng, không có lợi cho việc bổ sung dinh dưỡng cho cơ thể. Do đó, trong các bữa cẩn phải có sự phân bổ dinh dưỡng hợp lý, cân bằng giữa các chất như protein, chất béo, vitam in, đây là yếu tố cơ bản để giúp cho cơ thể khoẻ mạnh.
Nếu bạn muốn hấp thụ một lượng lớn chất dinh dưỡng trong một bữa ăn, thì cơ thể bạn cũng không thể hấp thụ và xử lý hoàn toàn các chất đó. Việc ăn nhiều đường và mỡ là nguyên nhân gây ra các lớp mỡ dưới da và bệnh béo phì, chứ nó không hề có tác dụng tạo ra nhiều năng lượng cho cơ thể. Buổi sáng không ăn mà buổi tối lại ăn quá nhiều là lý do chính của bệnh béo phì.
Không những thế, một bữa ăn có quá nhiều thức ăn, thì số lượng nhiệt lượng được cơ thể hấp thụ cũng không nhiều. Nếu muốn cơ thể được cung cấp đầy đủ protein, vitamin thi nhất thiết phải phân đều việc ăn các thực phẩm có chứa chúng ra nhiều bữa. Còn nếu bạn muốn ăn một bữa thật no, thật nhiều để đủ cung cấp nhiệt lượng cho cơ thể trong một ngày thì lại hoàn toàn là một cách ăn uống thiếu khoa học.
Người mắc bệnh gan phải được nghỉ ngơi yên tĩnh và ăn uống đầy đủ. Đặc biệt là nghỉ ngơi sau bữa ăn, tốt nhất là nên nằm một chút; nếu như không có điều kiện làm được nhưvậy thì cũng cần được nghỉ ngơi yên tĩnh, mỗi ngày phải được ngủ ít nhất 8 tiếng, về mặt dinh dưỡng, cần phải phân đều cơ cấu dinh dưỡng cho các bữa ăn trong ngày, có như vậy bệnh mới có thể chuyển biến tốt được.
70
NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN CẦN B ổ XUNG CAN XI
Gan là một nhà máy sinh hoá lớn nhất trong cơ thể. Vitamin D trong cơ thể trước tiên được chuyển hoá thành vitamin D hoạt tính trong tế bào gan, nó là một trong những nguyên tố quan trọng trong việc tạo xương, có tác dụng thúc đẩy ruột và thận hấp thụ canxi, thúc đẩy sự hình thành và khoáng hoá của xương. Khi gan bị bệnh nặng, sự hoạt hoá vitam in D gặp trở ngại. Đứng trước sự mâu thuẫn giữa việc ăn ít, thiếu ánh sáng mặt trời, và hấp thụ canxi thấp của người bị viêm gan, thì ngoài phải dùng các loại thực phẩm giàu canxi như chế phẩm đậu, sữa bò, dầu vừng, cá, tôm ... ra, còn phải dùng thêm các loại thuốc có chứa canxi nhưcốm canxi, bột xương... để bổ sung cho nhu cầu canxi của cơ thể.
THỰC PHẨM DÙNG PHẨM m ầ u c ô n g n g h iệ p RẤT HẠI GAN
Phần lớn các thực phẩm có màu sắc sặc sỡ đều sử dụng phẩm màu. Các màu đó tuy rất đẹp mắt, hấp dẫn nhưng lại có ảnh hưởng không tốt đến gan.
Cũng như các thực phẩm có chứa độc tố, các thực phẩm có sử dụng phẩm màu thường đem đến cho gan người dùng một gánh nặng khá lớn. Những loại thực phẩm tự nhiên đều đi qua gan, nhưng nó không gây hại cho gan và bị bài tiết ra ngoài. Tuy vậy, trong những loại thực phẩm
71
màu ấy có một số phẩm màu độc hại ảnh hưởng rất xấu đến gan, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến ung thưgan.
THỰC VẬT Tự NHIÊN
CŨNG CÓ THỂ HẠI CHO GAN
Còn các thực phẩm có nguồn gốc tự nhiên không có hại cho cơ thể chăng? Thật sự đây là một điểu không hoàn toàn đúng, trong một số thực phẩm tự nhiên không có độc, nhưng trong đó có không ít loại lại là tác nhân gây bệnh ung thư.
Ngọn của các cây như “đuôi chồn”, “bông vang” nhiều khi cũng được sử dụng như một loại thức ăn, nó có vị khá ngon. Nhưng hai loại cây này là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư, đồng thời nó cũng có ảnh hưởng rất lớn đến gan.
Phong cách ăn uống của người châu Á đang dần được Âu hóa, họ thường thích ăn các loại thực vật giàu prôtêin. ở rất nhiều nơi đã xuất hiện các nông trường chăn nuôi lớn để cung cấp một lượng lớn thực phẩm cho nhu cầu con người. Phong cách ăn uống này rất hại cho gan.
Khi ăn lá “đuôi chồn”, nếu như chỉ dùng nước sôi để đun qua thì rất nguy hiểm, bởi vì độc tố trong đó vẫn còn rất nhiều.
Ngay cả lá “bông vang” cũng vậy, nó rất có hại cho gan, vì bản thân nó có độc tính rất cao. Theo những báo
72
cáo của kết quả thí nghiệm, thì nếu trong các đồ ăn cho vật có 4% lá “bông vang” thì kết quả là có 40% động vật bị trúng độc, và gan của chúng cũng bị tổn thương nặng nề.
Chất độc trong lá “bông vang" có khả năng giết chết các tế bào gan, đồng thời gây ra chứng xơ gan, thậm chí còn gây ra bệnh ung thưgan. Cơ chế gây ung íhưcủa lá “bông vang” đến nay vẫn chưa được tìm ra, nhưng chắc chắn có một sự thực là nó phá hoại các tế bào gan rất ghê gớm.
Do đó, nếu nói các thực phẩm có nguồn gốc tự nhiên là an toàn, thì đó là cách nghĩ sai lầm.
NÊN ĐẾN BỆNH VIỆN KIỂM t r a sức KHOỀ THƯỜNG XUYÊN
Mỗi khi chúng ta cảm thấy cơ thể mệt mỏi, lập tức đến bệnh viện kiểm tra sức khoẻ là điều hoàn toàn cần thiết. Ví dụ: như khi bị sốt nhẹ, cảm cúm, nếụ không kịp thời chữa trị, rất có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm. Do vậy, thường xuyên đến một bệnh viện nhất định để kiểm tra sức khoẻ là cách làm an toàn nhất. Nếu bệnh bình thường thì lập tức chữa trị, còn nếu như là bệnh nặng thì bác sỹ có thể phát hiện sớm và có phương pháp điều trị kịp thời, khả năng khỏi bệnh rất cao. Bạn đừng nên quên trong y học có một câu đó là “Sớm điều trị thì chóng
73
bình phục”, đây là điều hoàn toàn chính xác.
Sự giao tiếp giữa bệnh nhân và bác sỹ, với cả hai bên đều rất quan trọng, vì tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên, nếu có chuyện xảy ra thì lúc đó bác sỹ đã có trong tay những số liệu đầy đủ và cần thiết để xác định phương án chữa trị hiệu quả nhất.
KHI MẮC BỆNH GAN, có Được ĂN THỬC ĂN có CHẤT KÍCH THÍCH KHÔNG?
Chúng ta thường cho rằng, khi đã mắc bệnh gan thì không được ăn các thức ăn có chất kích thích. Ngay cả bác sỹ, y tá cũng khuyên bệnh nhân của mình cũng ăn ít các đổ có chất kích thích. Tuy nhiên, các chất kích thích đó thật sự có hại cho cơ thể không? Câu trả lời sẽ là không.
Những chất được gọi là chất kích thích là những chất có tính nóng ví dụ như: muối, rượu, cafê, hồng trà, hương liệu... Nếu như sử dụng một lượng vừa phải các hương liệu đối với gan sẽ không có hại mà ngược lại, nó sẽ làm tăng sựthèm ăn của bạn, giúp bạn ăn thêm được những thức ăn có nhiều chất dinh dưỡng, bồi bổ cho cơ thể, chẳng phải là rất cần thiết đó sao? Việc kiêng tuyệt đối các chất này là hoàn không cần thiết, mà vấn đề là ở chỗ lượng sử dụng là bao nhiêu? Nếu sử dụng vừa phải thì sẽ rất có lợi cho cơ thể.
Đương nhiên, người bị mắc bệnh gan, cách chữa trị 74
tốt nhất là yên tĩnh và ăn uống đầy đủ. Do đó những người bị mắc bệnh gan phải ăn nhiều để hấp thụ chất dinh dưỡng là điều kiện cần thiết. Nhưng những người mang bệnh thường không muốn ăn, để kích thích sựthèm ăn, họ nên ăn nhiều rau và hoa quả, hoặc nấu thức ăn với một sô thực phẩm khác dễ ăn nhằm kích thích ăn uống. Có một cách khác là thay đổi hương vị món ăn bằng các hương liệu, nhằm làm cho bữa ăn trở nên ngon miệng hơn.
Những món ăn có vị hơi nhạt, người phương Tây thường cho thêm các hương liệu, giúp cho các món ăn trở nên thơm ngon hơn. Còn ở các nước phương Đông, người ta lại thường hay cho thêm ớt, hồ tiêu và nhiều loại gia vị phong phú khác.
Ngoài cách dùng hương liệu để tạo khẩu vị, thì việc chế biến các món ăn cũng rất quan trọng, ví dụ khi làm các món salát, các món rau trộn, hương vị của chúng rất hấp dẫn.
Khi gan bị mắc bệnh, chất linolenic axit trong máu cũng giảm đi rõ rệt.
Chất linolenic axit là một trong những nguồn cung cấp nhiệt lượng cho cơ thể, đối với sức khoẻ của con người mà nói thì đây là một loại axit béo tương đối quan trọng. Loại axit béo này có rất nhiều trong salát và dầu trộn salát, do đó calát và dầu salát không chỉ có khả năng kích thích ăn uống mà nó còn là một loại thức ăn đáng quý đối với những người bị bệnh gan.
75
MẮC BỆNH GAN MÀ có HIỆN TƯỢNG NGỦ MÊ MAN THÌ CẦN CHÚ Ý ĂN NHIỀU CHẤT DINH DƯỠNG
Khi đã bị nhiễm bệnh gan, điều quan trọng nhất là phải biết cách để cho cơ thể có thể hấp thụ được chất dinh dưỡng.
Nếu như cấm những người bị bệnh gan ăn những thức ăn giàu prôtêin, giàu vitamin thì vò hình chung bạn đã làm cho họ thực sự chán ăn. Đối với những bệnh nhân gan thì ăn thức ăn dinh dưỡng cao là một việc làm đúng đắn. Đặc biệt là phải khuyên họ ăn mạnh các món ăn chứa nhiều chất dinh dưỡng, đây là điều hết sức cần thiết.
Như chúng ta đă biết, cứ 1 kg thể trọng thì mỗi ngày cần phải có 1g prôtêin cung cấp năng lượng. Đây là chỉ số đối với người bình thường. Nhưng đối với những người bị bệnh gan, thì 1kg thể trọng thì mỗi ngày lại phải cần đến khoảng 2g prôtêin. Do đó việc ăn những thực phẩm có nhiều prôtêin như: thịt, sữa, trứng... là điều rất cần thiết.
Nhưng khi cảm thấy chán ăn, với những món ăn giàu prôtêin, chúng ta sẽ thấy rất ngấy. Từ xưa đến nay, đậu phụ là loại thức ăn giàu prôtêin có nguồn gốc thực vật. Do vậy ăn nhiều đậu phụ là cách tốt nhất để hấp thụ prôtêin.
Đối với những người bị chứng xơ gan hoặc bị ngủ mê man do viêm gan, nếu như ăn nhiều chất prôtêin, sẽ làm cho nồng độ NH3 trong máu tăng cao, do đó cần phải chú ý dùng một lượng vừa đủ.
76
Thông thường, khi bệnh xơ gan đã trỏ nên nghiêm trọng thì chúng ta cần phải đến bệnh viện khám, tham khảo ý kiến bác sỹ điều trị nên ăn những gì, có như vậy bạn mới có thể điều chỉnh được lượng prôtêin sao cho phù hợp với cơ thể.
HÚT THUỐC LÁ RẤT HẠI CHO GAN.
Khi hút thuốc, nồng độ nicôtin trong máu tăng lên rất cao, lượng nicôtin này đi qua gan và được giải độc ở đó. Do vậy, khi hút một lượng thuốc lá cũng đồng nghĩa với việc tạo cho gan một gánh nặng lớn.
Đối với những người khỏe mạnh, sau khi hút thuốc sẽ làm cho các niêm mạc trong dạ dày, ruột trở nên khô hơn, do đó sẽ tạo ra hiện tượng chán ăn. Vì vậy, những người bị mắc bệnh gan nhất định phải bỏ thuốc.
Những người bị bệnh gan thường ngày đã cảm thấy ăn không ngon miệng, nếu như họ lại có thói quen hút thuốc nữa thì chứng chán ăn sẽ càng trở nên nghiêm trọng.
Khi bị mắc bệnh gan, cần phải ăn nhiều các thức ăn có chất dinh dưỡng, do đó không chỉ cần cai thuốc mà ngay cả những thứ tạo ra cảm giác chán ăn cũng cần phải kiêng.
Với những người bị mắc bệnh gan nhẹ, nếu uống một chút rượu, không những không hại mà ngược lại nó có tác dụng tăng khẩu vị, do đó các bác sĩ cho rằng rượu là một
77
thức uống có tác dụng kích thích ăn uống. Nhưng đối với thuốc lá mà nói thì đó lại là một thứ hoàn toàn không có lợi cho gan.
BỊ BỆNH GAN KHÔNG NÊN
TÙY TIỆN UỐNG THUỐC
Thuốc quả cần thiết đối với người bệnh, nhưng đối với những người bị bệnh gan thì khi uống thuốc phải rất thận trọng.
Khi bạn đang chữa trị bệnh gan, chẳng may bị cảm cúm, bạn lại tùy tiện uống thuốc với mục đích chữa khỏi cảm cúm. Nhưng bạn đâu có biết được rằng, những thuốc này có ảnh hưởng rất nặng nề đến gan, thậm chí có thể làm bệnh gan trở nên trầm trọng hơn. Do đó khi đang chữa gan mà lại mắc một chứng bệnh khác, bạn không nên tùy tiện uống thuốc vì điều đó rất nguy hiểm.
Khi tác dụng phụ của thuốc tác động lên bệnh nhân bị bệnh gan, cơ thể sẽ sốt nóng không rõ nguyên nhân, ở một sô' bộ phận còn có hiện tượng mẩn ngứa, người bị phù thũng, không thèm ăn, buồn nôn, chướng bụng...
Ngoài ra, những thức ăn nhưnấm, ngao biển... cũng là những thứ rất có hại cho gan mà chúng ta cần phải đặc biệt chú ý. Vậy những thứ thuốc nào dễ ảnh hưởng xấu đến bệnh gan nhất? Đó chính là thuốc uống ngừa thai, các loại thuốc cảm ...
78
BỆNH NHÂN VIÊM GAN ĂN CƠM XONG KHÔNG NÊN ĐI BÁCH BỘ
Ăn cơm xong, “đi bách bộ” là một việc tốt đối với sức khoẻ con người. Nhưng đối với người viêm gan và sa dạ dày thì sẽ có tác dụng ngược lại.
Người bị bệnh viêm gan, ăn cơm xong mà hoạt động sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hóa thức ăn trong dạ dày. Thức ăn nhanh chóng đi vào trong ruột, đường ruột khó có thể hấp thu được đầy đủ, lam cho càng đầy bụng hơn. Tốt nhất nên nằm thẳng nửa tiếngđồng hồ rồi hãy dậy hoạt động. Cho dù là người khoẻ mạnh mấy cũng không nên buông bát đũa là lập tức đi tản bộ ngay, cũng nên nghỉ ngơi một chút rồi hãy đi tản bộ thì hay hơn.
ĂN NHIỀU NẤM PHÒNG BỆNH GAN
Qua nghiên cứu phát hiện, nguyên tố vi lượng Selen có tác dụng ức chế và tiêu diệt có tính lựa chọn đối với những tế bào ung thư gan được nuôi cấy ngoài cơ thể, nhưng không có ảnh hưởng gì rõ rệt đối với những tế bào gan bình thường. Như vậy, việc bổ sung Selen có thể là biện pháp hữu hiệu để phòng các bệnh ung thư gan, viêm gan B ở người. Qua nghiên cứu cho thấy, khả năng tồn trữ Selen của cơ thể rất kém, vì vậy cần thường xuyên dùng thực phẩm giàu Selen để đáp ứng đủ nhu cầu cho cơ thể.
79
Nấm là thức ăn giàu Selen, dễ hấp thu nên cần ăn nhiều loại này. Ngoài ra, gan và thận động vật cũng có hàm lượng Selen tương đối cao, có thể ăn thường xuyên.
LUYỆN TẬP CHO GAN NHƯ THẾ NÀO?
Bệnh gan thường diễn biến âm ỉ, khi bác sĩ chẩn đoán có vấn đề thì e rằng bệnh đã nặng rồi. Dưới đây xin giới thiệu một liệu pháp vận động đơn giản để tăng cường chức năng gan:
(1) Nằm ngửa (trên giường hoặc mặt đất), cố gắng đưa bàn chân lên vuông góc với người và duỗi thẳng gót chân.
(2) Hai tay cầm vật tương đối nặng (quyển sách dày chẳng hạn) vung lên theo hình vòng cung từ bụng lên tới đỉnh đầu.
(3) Tay giơ lên thì hít vào, thả xuống thì thở ra, làm từ 1 0 -3 0 lần.
Phương pháp này là thông qua hoạt động của cơ hoành cách, thúc đẩy gan co duỗi, làm gan nhận ôxy và dinh dưỡng nhiều hơn, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường chức năng gan.
80
KHÔNG NÊN NHẤM BỆNH VIÊM GAN CẤP TÍNH VỚI BỆNH CẢM CÚM
Trong y học đã từng xuất hiện cách nói: “Cảm cúm là nguyên nhân gây ra bách bệnh”. Khi một người bị cảm cúm, sức để kháng của họ sẽ bị suy giảm rõ rệt, do vậy đây là cơ hội tốt để các bệnh khác tấn công, cho nên chúng ta không nên coi thường bệnh cảm cúm.
Trong thực tế, bệnh viêm gan cấp tính thời gian đầu cũng có biểu hiện giống như bệnh cúm, rất khó phân biệt.
Khi bị cảm cúm, cần phải nghỉ ngơi hợp lý bồi dưỡng đầy đủ, có như vậy mới chóng bình phục. Nếu như khi đã nghỉ ngơi và bổi dưỡng một thời gian mà không thấy bệnh tình thuyên giảm thì bạn hãy nên cảnh giác, bởi vì rất có thể bạn đã mắc bệnh viêm gan cấp tính.
Nếu nhưtình trạng bệnh nghiêm trọng thì rất có thể gây tửvong.
Khi nói đến triệu chứng của viêm gan cấp tính chúng ta thường nhắc đến hai điểm. Đó là khi dạ dày và ruột có vấn đề và hai là biểu hiện của bệnh cúm.
Khi cảm thây dạ dày và ruột không bình thường
Lúc đầu thì cảm thấy cơ thể uể oải, chẳng muốn ăn uống gì cả. Đồng thời lại thường hay khó chịu buồn nôn. Bụng hơi chướng và đau nhẹ. Vị trí bụng ỏ phía bên phải to hơn một chút so với các chỗ khác.
81