🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 12 Năm Bên Cạnh Hitler - Albert Zollerm full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân]
Ebooks
Nhóm Zalo
12 NĂM BÊN CẠNH HITLER Tác giả: Albert Zollerm
Nguyên tác: Douze Ans Auprès D'Hitler Người dịch: Nguyên Thạnh
Nhà xuất bản: Tiếng Việt
Năm xuất bản: 1973
Ebook: Cuibap
Nguồn Text: huytop (vm)
LỜI NHÀ XUẤT BẢN...
Albert Zoller là đại úy trừ bị, và xuất thân từ một gia đình dân thành Metz. Năm 1940, ông chia xẻ số phận của đa số đồng bào ông : Gestapo đuổi ông cùng gia đình ông ra khỏi vùng bị chiếm. Từ đó ông đi Maroc. Thích các đặc vụ, ông hợp tác trong tổ chức đưacác nhóm đồng minh đổ bộ tháng 10 năm 1942. Từ đó bắt đầu một chuỗi dài các mặt trận đưa ông từ miền Nam xứ Tunisie đến Berchtesgaden. Trước hết là sĩ quan liên lạc thuộc lộ quân thứ 8 của Anh, rồi qua Ý vào Lộ quân thứ 7 Hoa kỳ, đổ bộ lên Saint Tropez tháng 8 năm 1944. Đại úy Zoller từ đó chuyên về việc thẩm vấn tù binh. Do đó ông theo tất cả các mặt trận ở Pháp và ở Đức với "Trung tâm thầm vấn Lộ quân thứ 7". Và ông trở thành rất mau nhà chuyên môn tài năng về vấn đề Radar. Ông từng tham vấn rất nhiều nhà bác học vàcác kỹ thuật gia.
Tháng 4 năm 1945 Đức quốc đến hồi kiệt quệ. Dưới những vụ tấn công của Đồng Minh, khoảng sống của Bộ Tam Reich thu hẹp lại thành một dãi đất càng ngày càng nhỏ đi.
Phải đánh chiếm thủ đô đế chấm dứt cuộc chiến đấu vĩ đại mà kẻ bị quật ngả vẫn tiếp tục chống cự đến cơn giật cuối cùng.
Từ cảnh hỗn độn và náo nhiệt đó vươn lên một cách khó hiểu chiếc mặt nạ trắng bệnh của Hitler. Vậy kẻ đó là ai, mà trong suốt mười hai năm đã là khuôn mặt chính củalịch sử Âu châu.
Nhiều cuốn sách đã nói đến ông ta. Nhưng chúng nói nhiều đến những biến cố mà ông ta là cột trụ, hay đến những kết quả của các hành động và nền chính trị của ông, mà không nói đến, không thăm dò chính con người ông. Nhiều tác giả lớn đã nói đến trường hợp tật bệnh này, hầu như độc nhất trong lịch sử, để giải thích thì ít mà để tha hồ cho một trí tưởng tượng dễ dàng và để thỏa mãn tính tò mò của dân chúng thì nhiều.
Những vai chính trong thảm kịch Hitler, những người nặng ký trong quĩ đạo
quỉ quái của ông đều đã chết, hay... im lặng. Tôi có dịp ở cạnh họ rất lâu khi làm sĩ quan thẩm vấn trong "Trung tâm thẩm vấn Lộ quân thứ 7" củalực lượng Hoa kỳ. Một trong các thư ký của Hitler mà tôi gặp trong trại Augsbourg tháng 5 năm 1945, trong đó nàng bị mất hút giữa sự hỗn tạp của tất cả những tay nổi danh của Wehrmacht, của Đảng và của chính phủ. Về sau, nàng đã làm sống lại, trước mặt tôi, vị chủ cũ củacô ta như cô đãtừng quan sát thấy và nghe nói đến. Tôi đã nói chuyện rất lâu ở trại Augsbourg, về vấn đề Hitler với Goering, với Funk, người kế vị của Schacht, với Friek, người gắn cho Hitler nhãn hiệu công dân Đức, với von Warlimont, chủ tịch bản doanh Quốc trưởng, với Bác sĩ Morell, bác sĩ riêng tin cẩn của Quốc trưởng, với Schaub, người tùy viên v.v... Ở bất cứ người nào, tôi cũng không tìm thấy một sự phân tích có thể so sánh được với sự thông suốt, một khả năng thiên phú về sự quan sát và một công bình về tình cảm khiến câu chuyên có một nét hoàn toàn trung thực. Khi "Trung tâm thẩm vấn Lộ quân thứ 7" bị giải tán, tháng 12 năm 1945, cô ta được đưa đến Nuremberg để làm nhân chứng, và tôi mất liên lạc với cô ta. Rồi cô ta bị kếtán hai năm khổ sai do tòaán chống quốc xã Đức kêu.
Khi ra khỏi tù, một tổ chức từ thiện tiếp đón cô và cho cô giữ chức đầu bếp. Tôi gặp lại cô ta ở đó. Với sự đồng ý chung chúng tôi quyết định viết cuốn sách này trong mục đích duy nhất là để ghi lại các đường nét và khảo sát tâm lý Hitler, một tội nhân quốc tế mang bệnh thần kinh.
Điều đáng ngạc nhiên, Quốc trưởng Đệ tam Reich có thói quen tâm tình và nói ra các ý tưởng riêng tư nhất, và các tư tưởng nẩy lửa của ông với các thư ký mà ông thường dùng cơm chung và buộc hiện diện trong các buổi uống trà để kết thúc một ngày làm việc vào bình minh sáng hôm sau.
Trong các trang sau, độc giả sẽ quen với một Hitler chưa hề được nói đến. Họ sẽ thấy ông ta sống, hành động, vùng vẫy, suy nhược, sau tấm màng đục dệt nên do sự tuyên truyền và đo uy tín của ông. Họ sẽ đối diện với một người mà đời sống xa cách đám đông, diễn ra trong bầu không khí lạ lùng và hai mặt, sự trưởng giả vàảo tương đen tối.
Họ sẽ cùng sống trước sự rộng lớn của những thành công đầu tiên của ông ta,
trước những âm hưởng trên toàn thế giới về nhưng hãnh vi nhỏ bé của ông và trước sự phóng đại các thảm họa đo ông tạtạo ra.
Thật khó đóng khung con người Hitler trong một công thức đơn giản. Sự khác biệt của các hành vi thái độ, và phản ứng của ông đã đặt ra một sự phân tích căn bản tánh tình của ông.
Vậy Hitler là ai ?
Trước hết ông ta là một con quỉ đầy ý chí, một ý chí sáng dọi trong mọi sắc thái và dưới mọi hình thức, một ý chí khó vượt nổi và gan lì, "sturheit" và nó nhắc lại một trí óc ngang ngạnh nhờ đó đôi khi một người có học thức thô thiển lại đạt được mục tiêu sau cùng của họ. Ý chí này xác định cá tính Hitler trong các vụ tranh cử đẫm máu, diễn giải trước đông bạo động, vị xếp bất khuất, đánh mạnh đánh mau, người có quyết định "nhanh như chớp", kẻ gan dạ vượt bực, bẻ gãy mọi chướng ngại trên đường.
Nhưng, để chiến thắng một quốc gia, ý chí không chưa đủ, Hitler có đủ giá trị để làm vị nguyên thủ quốc gia không ? Một tướng lãnh không ? Một người thay đổi thời cuộc không ?
Con trai của một công chức hạng bét này có một trí nhớ kinh khủng. Ông có một khả năng lạ lùng trong việc đồng hóa các hiểu biết rất khác biệt và rất rộng rãi với điều kiện là vấn đề đó làm ông thích.
Nhưng không nên tin rằng vì sự tự học đó mà con người bất khuất và thô thiển này lại thiếu sự khéo léo và tỉ mỉ. Hitler trái hẳn lại là một diễn viên đầy tài năng. Mưu lược và xu thời có thể là những tính chất giải thích hay nhất bí mật sự thành công của ông. Con người không sợ bất cứ trở ngại nào này biết đi quanh để tránh thất bại. Hitler thích hợp hóa với hoàn cảnh với một nghệ thuật tài tình. Ông dùng mọi sự láo khoét, trở mặt, đạo đức giả để đưa đến sự thành công. Ông đóng vai trò của ông trước dân chúng, các cố vấn, các nguyên thủ quốc gia, trên sân khấu quốc tế với một sự dễ dàng và một niềm vui sướng đánh lừa kẻ đa nghi nhất.
Từ lâu ông là "kẻ giật dây" mọi sự việc xảy ra trong Reich. Ở ông mọi sự đều tính toán và mưu lược. Cho đến khi chết, ông ta vẫn còn là nhà dạo diễn.
Cuối cùng Hitler đã phóng ra một nguồn từ lực lạ kỳ, một cảm quan thứ sáu của người tiền sử, một trực giác thần thánh thường giữ sự quyết định. Ông thấy trước các nguy hiểm đe dọa ông, ghi nhận bí mật phản ứng của đám đông, mê hoặc kẻ đối thoại một cách khó giải thích. Ông có sự tiếp nhận của người đồng bóng và, cùng lúc từ lực của kẻ thôi miên. Đó là điều giải thích rằng quan niệm của ông ta phát triển trên một chương trình không có chút nhân tính nào và rằng ý tưởng của ông đôi khi ưa sự ngông cuồng. Nếu người ta thêm rằng một chuỗi các trường hợp ngoại lệ đã giành cho ông trong các vụ mưu sát và rằng ông kết luận là Thượng đế đã chỉ định ông thi hành sứ mạng, người ta sẽ phán đoán phần quan trọng mà những sự việc khôn lường của huyền bí quốc xã đã tác động trên đời ông.
Tôi tin đó là những nét chính của tính tình con người lạ lùng này làm lay chuyển thế giới trong sự khao khát, sức mạnh, quyền năng vàsự cai trị. Không có một Hitler, mà có nhiều Hitler. Nhân cách ông là sự hỗn tạp của láo khoét và thực thà sự trong sạch và hung dữ, sự đơn giản và sang trọng, sự duyên dáng vàthú tính, sự huyền bí vàthực tế, nghệ thuật vàtục tĩu. Nhưng động cơ thúc đẩy kẻ hướng dẫn nhân loại này đã không để chỗ ông một hệ diện từ nào để suy nghĩ và xác định vị trí. Hitler bị đặt vào guồng máy đẩy ông tới với một gia tốc cố định. Những bổn phận mới, những thực hiện, những chương trình, những dự án "4 năm" nối đuôi nhau trong một cơn rơi xuống trọng ảo giác. Hitler là tên tù sống động của các thụ hút của nền triết học Đức, một sự trở thành "bất tuyệt" das ewige werden, không chấp nhận một sự ngơi nghỉ, không đồng ý một kỳ hạn nào.
Luôn luôn không thỏa mãn và bị mê hoặc bởi "tương lai" ông bị kéo vào trong cơn lốc cải cách, sáng tạo, tái tạo và hành vi chiến tranh vay mượn sự cung hiến vô định của ông cho sứ mạng thiêng liêng mà ông tacho mình được ủy thác.
Như một ngôi sao chổi chói sáng, Hitler xuất hiện trong sự lộn xộn của một nước Đức vô chính thể. Ông biết gây phấn khởi cho năng lực và hy vọng của dân tộc ông vì ông nói bằng ngôn ngữ họ có thể hiểu, và ông hứa với họ những lời hứa mà mọi người trông đợi,
Nhưng ngôi tuệ tinh này, trong hành trình kiêu căng đã muốn trêu chọc bầu trời tinh tú, và xâm phạm vào những luật muôn đời của các thiên thể. Đó là kết cuộc của ông...
Tôi nhường lời cho người, trong nhiều năm, đã là kẻ cộng tác viên trực tiếp của ông. Với những ý tưởng hoàn toàn khách quan, cô trình bày con người mà cá tính bi thảm gợi lên ở một mức độ vượt qua con người, những lời lịch sử nổi danh : Một diễn viên bi hài kịch !
Những ý tưởng hay thường đến với tôi về đêm
(HITLER)
CHƯƠNG I.
Hitler hay sợ gặp trong đám thuộc hạ của ông những khuôn mặt ông không quen nhìn. Đó là lý do tại sao hai trong số thư ký riêng của ông một người bạn của tôi và tôi đã làm việc với ông một người trong suốt mười lăm năm và một người mười hai năm. Mặc dù những sự bất đồng, và những va chạm có thể xảy ra, ông ta đãlàm mọi việc để giữ chúng tôi lại đến phút chót.
Hitler là một con quỷ đa nghi. Không bao giờ ông dùng nhân viên riêng do từ một sự giới thiệu đơn giản. Ông chỉ tín cẩn họ sau khi đã quan sát kỹ, vàthử thách nhiều lần bằng người cạm bẫy của ông.
Về phân tôi, tôi phải thú nhận rằng tôi rất ngạc nhiên tại sao ông đã dùng tôi một cách dễ dàng như vậy. Không có điều gì trong quá khứ của tôi làm ông tín cẩn một cách đặc biệt như thế cả. Cha tôi từng là công chức quốc gia luôn luôn có óc dân chủ bạo động, ông mất vào năm 1930, hồi đó tôi mười bảy tuổi. Sau đó một năm mẹ tôi qua đời. Sống một mình và không có tài sản, tôi phải làm lao công văn phòng vàtheo học một lớp tốc ký đánh máy.
Vào đầu năm 1930, tôi rời chân thư ký ở Munich để nạp đơn xin thi vào chức đả tự viên bị bỏ trống, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ cách mạng. Sau khi được xếp hàng đầu trong số 87 đối thủ toàn quốc về tốc ký, tôi được chỉ định giữ chức thư ký cho đại úy Pfeffer người điều khiển tổ chức SA thời bấy giờ. Đến năm 1931, khi Rohm thay ông ta, tôi bị đưara khỏi ban kinh tế của phong trào Quốc xã.
Tôi luôn luôn lưu tâm nhiều về mỹ thuật và nhân chủng học. Tôi đã theo dõi đều đều lớp học buổi chiều tổ chức tại trường Ecole Normale đe Munich và tôi tự tạo lần lần một thư viện riêng. Điều đó có thể cắt nghĩa sự gần gũi của tôi với Hitler trên phương diện trí thức và nhân bản.
Nhưng tôi cũng phải thêm rằng tôi được trời phú cho một giác quan rất nhạy
cảm về phê bình. Lúc nào cũng vậy, tôi cảm thấy cần phải đi cho hết mọi vấn đề và chỉ tin tưởng điều gì vói nhiều cẩn trọng.
Trong những điều kiện đó, người ta hiểu rằng 12 năm sống bên cạnh Hitler đã gieo ratrong tôi nhiều sự ngạc nhiên vàtỉnh ngộ đắng cay.
Năm 1933 ngẫu nhiên một hôm cô thư ký riêng của Hitler bỗng vắng mặt. Ông ta có một ghi chú cấp kỳ để đọc cho người khác viết. Người ta muốn tôi thay vào chỗ của cô ta. Khi vào phòng ông, tôi bị đập mạnh bởi cái nhìn của ông ta, bằng đôi mắt màu xanh, quan sát tôi một cách kỹ càng nhưng có vẻ tiếp đón. Ông ta tiếp nhận tôi với giọng nói ấm, với sự đơn giản, với tình thân hữu khuyến khích làm tôi ngạc nhiên một cách dễ chịu. Ồng nói với tôi vài lời tiếp đón và vào ngay vấn đề không chậm trễ.
- Tôi có thói quen đọc thẳng để đánh máy. Nếu cô bỏ một vài chữ cũng không có gì quan trọng. Đây chỉ là một bàn nháp thôi.
Tôi thưa với ông ta là tôi cũng đã có thói quen làm việc với phương thức đó, và ngồi ngay trước bàn máy chữ. Khi tôi đánh xong, ông ta nồng nhiệt cảm ơn tôi và để trước mặt tôi một hộp kẹo. Sau đó, mỗi khi tôi gặp ông, ông chào tôi một cách mau mắn.
Cuối năm đó, tôi xin đổi về Berlin, vì lý do tôi buồn về tổ chức SS sau một vụ tố cáo nặc danh. Tôi được chấp nhận và trở thành thư ký của Bruckner, sĩ quan tùy viên của Hitler. Thỉnh thoảng Hitler cho gọi tôi khi ông cần đọc một bài dài để đánh máy. Một hôm thư ký riêng của ông bệnh, và tôi bị đặt vào công việc của cô ta. Từ đó tôi ở hàng ngày trong sự điều khiển Hitler trừ những ngày cuối tuần ông thường đến Munich.
Vào thời đó Hitler có một chương trinh làm việc đều đặn. Mười một giờ sáng, ông di qua bàn giấy của tôỉ, và dùng những giờ còn lại của buổi sáng để tiếp những cộng sự viên. Mười bốn giờ ông lại đi qua đó, nhìn liếc qua các quà tặng của những người hâm mộ ông đem đến đó đó mỗi ngày : Sách, tranh, các đồ thêu và các đồ thủ công khác. Trong thời gian ngắn ngủi đó, ông đọc nhanh vài điều ghi chú công việc hàng ngày hay ký các giấy tờ khẩn. Buổi chiều là những cuộc họp vàthường kéo đài đến tối.
Ông để dành vào buổi tổi những bài học quan trọng. Sĩ quan tùy viên báo tôi biết lúc nào ông định ở lại văn phòng ban đêm "Xếp sẽ đọc cho cô tối nay, hãy sẵn sàng đi."
Câu nói này gây báo động thực sự cho văn phòng. Tôi không dám vắng mặt. Nhưng không lâu tôi nhận thấy rằng với công việc ban đêm này Hitler không có sự chắc chẳn. Thường tôi đợi chín mười đêm liên tiếp không thấy ông ta xuất hiện. Điều này xảy ra nhất là khi ông soạn một bài diễn văn cho Reichstag hay cho Đại Hội Đảng. Sau nhiều lần hoảng hốt tôi phải để tâm rằng ông ta có thói quen đọc những bài diễn văn của ông vào phút chót buổi tối trước ngày đăng đàn.
Khi ngày biểu tình được đăng trước trên báo chí và khí tôi nghĩ rằng ông ta sẽ đọc bài, người ta trả lời thối thác rằng : xếp còn đợi phúc trình của một tòa Đại sứ "hay". Ông muốn theo dõi những phát triển ngoại giao mà vấn đề sẽ được quyết định bằng bài diễn văn của ông.
Có một điều rõ ràng là trong những trường hợp như vậy, công việc sẽ ở trong một trường hợp gấp rút và xáo trộn. Khi cuối cùng, giờ nghiêm trọng cũng đến, Hitler đòi chúng tôi (những bài quan trọng, ông cần hai người đánh máy một lúc nghỉ vào buổi chiều để chuẩn bị. Ông trải qua những lúc sau cùng này để suy nghĩ và ghi vài chữ trên góc trang giấy. Trong những phút suy tư như vậy không ai có quyền làm chộn rộn ông.
Ngay khi ông xong những nét chính của bài diễn văn, một tiếng chuông nghiêm trọng gọi tôi vào. Khi tôi vào văn phòng, tôi thấy ông đi qua đi lại một cách nóng nảy. Thỉnh thoảng ông dừng lại trước chân dung Bismark, ông nhìn đôi mắt mơ màng như khẩn nguyện. Ông gây cảm tưởng cầu xin Chancelier de Ter (tổng tư pháp cho cảm hứng trong công việc quốc gia. Với cử chỉ không suy nghĩ trong cơn mê, ông đi từ bàn này qua bàn khác để sửa chữa lại những vật nhỏ nhặt nẳm lộn xộn bên trên bàn. Rồi ông bắt đầu chạy quanh phòng một cách vội vã để dừng lại như bị tê. Ông không hề nhìn đến tôi. Cuối cùng bắt đầu đọc.
Lúc đầu nhịp điệu và giọng nói bình thường. Nhưng càng lúc, khi ý nghĩ đến, nhịp điệu càng dồn dập. Các câu theo nhau không ngừng, ngắt bởi những bước chân, mau dần khi ông đi quanh phòng. Bỗng chốc giòng chữ bị vấp lại và giọng
nói to lên. Hitler đọc bài diễn văn với cùng một trạng thái đam mê như ông phải nói ngày mai trước cử tọa.
Nói một cách văn chương, Hitler sống trong bài diễn văn của ông. Khi muốn thả lỏng cảm xúc, ông ngừng bước, mắt nhìn trần nhà, một diểm ảo nào đó mà hình như ông chờ đợi một ân huệ đặc biệt. Khi nói đến Bôn-sơ-vích, giọng ông cao lên một cách ghê sợ và những giòng máu dữ tợn làm ông đỏ gay mặt. Ông nhấn mạnh với một giọng hung hãn. Tiếng ông vang đến các văn phòng chung quanh, và mỗi lần như vậy những nhân viên đợi ở phòng bên lại hỏi tôi tại sao Xếp lại có thái độ hung dữ như thế.
Một khi đọc xong bài diễn văn Hitler lấy lại bình tĩnh, và cũng tìm được vài lời đẹp đẽ để nói với các thư ký của ông. Vài giờ sau, ông bắt đầu sửa. Nhưng ngay lúc đó cũng phải nhắc ông rằng công việc chưa xong. Thường ông chỉ đặt tay lên bản viết vài giờ trước lúc đọc diễn văn. Ông dành những phút sau cùng để đọc và chữa. Khi có thì giờ rảnh rỗi, ông thích sắp đặt một cách tỉ mỉ các bài nói chuyện, tìm những lời diễn tả luôn luôn thật khôn khéo và những công thức thật hiển nhiên. Ông tin rằng những sửa chữa của ông khó đọc được. Mỗi lần như vậy ông hỏi tôi : "Hãy nhìn kỹ, cô xem có đọc được những dòng ghi chú này không". Khi tôi đọc dễ dàng các câu sửa chữa của ông, ông nhìn tôi một cách lạ lùng với đôi mắt lướt trên cặp kính, rồi thú nhận với một sự nhân nhượng : "Tôi thấy rằng cô đọc chữ tôi còn dễ hơn tôi đọc nữa" Mặt khác trong mấy năm, thị lực của ông giảm sút. Vi ông muốn, với bất cứ giá nào, xuất hiện trước công chúng mà không mang kính. Ông cho đặt chế các máy chữ có cỡ chữ cao 12 mm để ông có thể đọc dễ dàng bài diễn văn của ông.
Khi đã sửa xong bài diễn văn, Hitler cho thấy đã quyết xong một mối to lớn. Lúc đó ông thường mời thư ký đi ăn cơm vời ông, Trong lúc ăn ông không bao giờ quên báo tin rằng, ông bằng lòng với bài của ông và tiên đoán ông sẽ thành công lớn. Luôn luôn ông không quên khen tặng khả năng nghề nghiệp của các thư ký của ông : "Họ quả thật nhanh với máy chữ của họ, đến nỗi tôi không đọc kịp. Họ thật là những bà hoàng đả tự".
Hitler thường kể cho tôi nghe những khó khăn của ông khi tìm những cô gái
giữ được bình tĩnh mỗi lúc gần ông. "Khi tôi thấy, với những tiếng đầu tiên của tôi, máu họ dồn lên đầu, tôi chỉ còn cách gửi trả họ và tìm người khác". Về phần tôi, tôi thú nhận rằng không phải một tay mơ có thể làm việc được với ông. Ngay khi đọc một cách bình thường, sự phát âm của ông cũng không chính xác. Tiếng bước chân, tiếng máy gõ và tiếng vang của ông trong một căn phòng rộng quá khổ làm cho một phần câu nói của ông trở thành khó hiểu. Tôi phải chú tâm hoàn toàn, và phải tập luyện về trực giác đáng kể để đoán được lúc nào câu chấm dứt, và để lấp vào các khoảng trống. Khi Hitler trở nên bực bội một cách đặc biệt, những cử động nóng nảy của ông truyền sang cả các cộng tác viên. Trong những lúc đó tất cảsức lực củatôi bị căng thẳng tột độ. Hitler hoàn toàn để ý rằng với cách thức này, chúng tôi sẽ bị kiệt lực, nhưng ông không thích đem thêm thư ký khác vào, vì ông không muốn khổ sở khi thấy những người mới quanh ông. Vì thế sự tự do cá nhân của tôi hầu như không có. Tôi ở đó ngày đêm và tôi không có quyền vắng mặt khỏi Đại bản doanh mà người ta không chắc rằng có thể liên lạc với tôi bằng điện thoại, điện tín hay bằng loa phóng thanh.
Nguyên tắc của Hitler về việc giữ bí mật các quyết định của ông cho đến khi thi hành đã tạo một áp lực đến nghẹt thở cho những người chung quanh ông. Những cuộc di chuyển hay du hành của ông đều được báo trước rất lâu nhưng chỉ vào phút chót ông mới báo cho công chúng biết giờ khởi hành. Trong những ngày chờ đợi vô ích đó, chúng tôi căng thẳng vô cùng. Khi trong lúc chuyện trò có người gợi đến ảnh hưởng của ông đối vói sự tự do của các nhân viên, ông giả bộ ngạc nhiên xác định rằng ông vẫn để mọi người sắp xếp một cách rộng rãi thì giờ nhàn rỗi của họ như ông đã cho phép. Nhưng thật ra ông không bao giờ chấp nhận cho ai có một đời tư riêng biệt.
Như vậy trong lúc chúng tôi lưu lại những ngày dài ở Berghof ông có thói quen tụ họp, mỗi buổi tối, tất cả thuộc hạ ông chung quanh lò sưởi ở phòng khách. Như những học sinh, chúng tôi đều bị cấm ra ngoài. Thật ra thì những buổi tối quanh ngọn lửa không phải không hay khi ông có khách. Nhưng thường thì cùng những khuôn mặt đó mỗi ngày hiện diện ở đây. Phải có một sức mạnh
thực sự để giữ vững tinh thần trong những buổi họp mặt kéo dài không dứt đó, trước những cảnh cố định của thanh củi cháy trong lò sưởi. Khi có ai dám không đến trong các buổi họp mặt, Hitler để ý vàtỏ vẻ không bằng lòng.
Năm 1938 một thư ký mới được đưa vào vì bạn tôi bị bệnh. Người mới đến được chú ý không những về khả năng màcòn về sắc đẹp củacô ta nữa. Từ đó, có hai thư ký tháp tùng theo Hitler trong các cuộc di chuyển của ông. Vì khó ngủ dù đã dùng thuốc ngủ, ông hay tổ chức những buổi trà đôi khi kéo dài thật khuyatrong đó có các cô thư ký, ông Bác sĩ riêng, và Bormann. Lúc đó, tôi trải qua một phần lớn cuộc sống trên chiếc tàu đặc biệt của Quốc trưởng. Trong lúc di chuyển Hitler cho kéo các màn cửa trong toa xa-lông của ông, ngay cả mùa hè. Ông chỉ thích ánh đèn điện vì ánh nắng làm ông khó chịu. Nhưng còn có một lý do khác là để ít bị thấy thình lình. Ông khoái sự "sửa soạn" của cô thư ký mới mà tôi đã nói đến trên kia. Ông còn thích cô ta hơn, dưới ánh sáng nhân tạo. Hitler không ngớt khen ngợi cô làm cho những người chung quanh ông cũng bắt chước theo. Bormann có trí óc chậm chạp, cũng khen ngợi một cách vụng về làm chúng tôi tức cười.
Cuộc thảo luận thường đặt nặng chung quanh vấn đề di chuyển bằng xe của ông. Chỉ vì lý do tiện nghi khiến ông không đi đường bộ. Hitler đi không ngừng qua suốt nước Đức, không phải chỉ tại ông thích tốc độ mà còn vì nó tạo cho ông có cơ hội tiếp xúc với dân chúng. "Là một tay lái cừ khôi, ông thích những canh tân của loại xe Mercedès".
Tuy nhiên, có những hôm sự vui thích quá độ cũng đến trên toa xe đặc biệt của ông khi Hitler vui đùa với đám tùy tùng trong các trò chơi tập thể. Chẳng hạn chúng tôi đếm số người có râu xồm mà chúng tôi gặp trong ngày. Một phần thưởng cho người nào thấy được nhiều người nhất. Một trò chơi khác cũng thích thú không kém làm Hitler thật vui vẻ. Trong những lúc giải trí đó, ông nhại nét mặt của các bạn cũ của ông, cử chỉ và cách thức họ nói chuyện của họ. Ông thật tài trong loại này. Ông cũng mô tả các khuôn mặt ngoại giao mà ông đã quan sát được bộ điệu và tật xấu của họ trong các kỳ hội nghị quốc tế. Ông bắt chước một cách hoàn hào nụ cười sắc nhọn của Victor Emmanuel, và chứng minh với chúng
tôi làm thế nào với đôi chân quá ngắn thân hình của Hoàng đế Ý vẫn giữ nguyên khi ngồi hay đứng.
Trong thời kỳ trước chiến tranh này, Hitler thích vui nhộn và khôi hài. "Một sự vui đùa đúng lúc, đã tạo ra những kỳ diệu trong các trường hợp khó khăn nhất" là câu ông thường nói. "Tôi đã thử nghiệm, không chỉ trong cuộc chiến 1914-1918 mà còn trong suốt thời kỳ trước khi chúng tôi lấy lại chủ quyền".
Tuy nhiên ông thay đổi tất cả từ khi những tai nạn đầu tiên giáng xuống dân Đức. Ông trở nên kín đáo và không để ai đến gần. Vòng người thân thích mà ông hay tụ họp mỗi chiều cứ thu hẹp dần lại mỗi ngày, và cuối cùng, chỉ những thư ký của ông mới được chia xẻ những mộng mơ trong nếp sống đơn độc của ông. Cho đến năm 1942, ông cần một lễ nghi và một gian phòng rộng rãi để sửa soạn một hoạt động ngoại giao quan trọng hay một cuộc hành quân cỡ lớn. Berghof thích ứng cho những suy tư của ông. "Chính trong sự yên lặng hoàn toàn của vùng núi non, tôi đã có những quyết định chính đáng" ông tuyên bổ như vậy. "Trên cao đó, tôi có cảm tưởng đứng trên những khổ đau của địa cầu, trên những khổ đau giáng xuống dân tộc tôi, trên những xáo trộn, những khó khăn của chúng tôi. Cái nhìn không bị giới hạn trên những cánh đồng vùng Sakbourg khiến tôi tránh được những vấn đề thuộc hạ giới và làm nảy nở trong tôi những quan niệm vĩ đại làm xáo trộn thế giới. Trong những lúc đó tôi không còn cảm thấy bị gắn liền vói sự chết chóc, nhưng trí óc tôi vượt quá giới hạn con người để đưa đến những hành động có âm hưởng vô biên"
Từ năm 1943, Hitler không còn cảm thấy cần một khung cảnh vĩ đại gợi hứng cho những ngông cuồng chết người của các chương trình mới nữa. Cuộc đời ông trở nên càng ngày càng khép kín. Như một con rắn sợ ánh nắng ông nằm dài trong hầm làm việc trống rỗng vàlạnh lẽo.
Trong tình trạng như vậy ông hoài bão một cuộc hành quân kháng cự ở Ardennes trong một căn bệnh kéo dài, vào tháng 9 năm 1944. Trong suốt ba tuần ông nằm trong hầm của bộ chỉ huy gọi là "Wolfsschanze" ở miền đông Phổ. Trong không khí nặng nề và ẩm thấp của căn phòng không ánh sáng mặt trời, với những bức tường bê tông, trí tưởng tượng của ông làm việc xa thế giới thực tại. Ánh đèn
điện không bao giờ tắt. Chỉ có tiếng nhảy tự động của bình oxy thay đổi không khí làlàm ngưng ý tưởng của ông trong chốc lát. Âm hưởng những biến động bên ngoài không vào tới ông. Những tin tức đến tai ông đều bị các người phụ tá ông lọc lại. Trong không khí đó sự vung vít của ông phát triển như một cây độc trong nhà ươn cây. Ông không chấp nhận sự bàn cãi nào hay lời khuyên nào. Trên những bức tường trơn nhẵn không có gì làm vướng mắt cái nhìn, sự tường tượng của ông phóng đến với một thị trường đa diện, thế giới, như nó đang bị lên máy chém, trong niềm tin tường sẽ thắng cuộc chiến tranh bởi trận đánh sau cùng này : Sự suy sụp này của một cơ thể chỉ còn sống bằng những mũi chích của vị Bác sĩ riêng Morell, ngưng lại trong không khí nhà mồ, những chương trình của cuộc kháng cự mới, không hề lo lắng đến sự hy sinh tính mạng của dân tộc ông đã đổ hết máu.
Khi Hitler dừng một động tác dụng binh, ông chờ đợi một cách nóng nảy lúc thích hợp để ra lệnh tấn công. Tuy nhiên trực giác của ông giữ vai trò quyết định trong việc xác định ngày "N". Chỉ còn có những nhà thiên văn mới có quyền nói. Ông hỏi tin bọ hàng ngày. Nhà chuyên môn bảo cho ông vào tháng chạp 1944 một thời kỳ đầy sương mù, thích họp để gom quân trước khi khỏi phát cuộc tấn công đã nhận được của ông, một chiếc đồng hồ vàng để cảm ơn sự tiên đoán hay ho đó.
"Bí mật của thành công nằm trong sự gan lì". Ông thương nhắc như vậy. Tất cảcuộc đời Hitler chỉ có cố gắng vàchiến đấu.
Từ lâu là kẻ chiến thắng đối với những đối thủ đáng ngại nhất, ông khó tưởng tượng được một ngày kia ngôi sao sáng của ông sẽ biết một kết cuộc bi thảm. Tuổi thơ buồn thảm, tuổi trẻ khó nhọc tại Vienne, chiến tranh thế giới, rồi 13 năm trong chiến đấu, đã cho ông biết sự thoái cảm của sức mạnh. Tất cả những thử thách chồng chất lên nhau là những biểu hiệu của một tính tình của kẻ chiến đấu không lùi bước và không biết thương hại. Hitler là một kẻ sinh ra để tranh chấp. Hơn thế nữa ông đã được trời cho tất cả những tính chất cần thiết của mặt trí óc như vậy. Ông đặt trước mọi sự một ý chí khó lay chuyển, một ý chí hầu như siêu nhân, một ý chí thường giữ sự vấp váp là không biết đo lường khi hình động
để quyết bỏ chưởng ngại.
Ở Hitler, ý chí này là kết quả của một chuỗi di truyền dài. Tổ tiên ông đã sống, từ nhiều thế kỷ, trong vùng núi Alpes, gần biên giới Đức Áo. Một dân tộc sống trong những điều kiện thô sơ và chỉ có một mối lo là rút ra ở vùng đất cằn cỗi sự sống nghèo nàn của họ. Nhưng nhà nhân chủng học đã nhận xét rằng, trong vùng đặc biệt gọi là "Waldvíertel" nơi cha Hitler sinh ra, sự bướng bỉnh gan lì là cá tính của dân chúng. Tranh đấu từ nhiều thế kỷ với các yếu tổ đất đai và thiên nhiên, dân quê, trong vùng thung lũng Alpes chỉ kiếm sống được với một sự cố gắng liên tục. Thế hệ này quathế hệ khác ở đó đãtruyền cho nhau những tính chất của một sức mạnh ý chí và một sự ương ngạnh ít có.
Hitler thụ hưởng của cha ông ý chí đó làm ông ta mạnh lên trong tuổi trẻ do sự giao thiệp với dân tộc cần cù vàcứng rắn này.
Sức mạnh ý chí này khơi động Hitler khi với sự tự huấn say mê, ông nhận một sự dạy dỗ nông cạn. nhưng rất rộng rãi, trong những năm thơ trẻ tại Vienne. Thực sự ông ta đã được thiên phú về trí tuệ, cần thiết cho mọi thành công. Ý chí này tạo Hitler thành một kẻ cai trị, cùng biểu lộ bằng những tia sáng của một sức mạnh ám thị ítai có thể tránh được.
Khi Hitler nói chuyện, dù trước một người hay một đám đông, đặc tính này cũng biểu lộ với một sức mạnh như nhau, ông mê hoặc bằng văn chương và ngự trị bằng ý chí.
Nhiều khi tôi tự hỏi không biết đó là một hiện tượng thôi miên hay chỉ là sự phát hiện ảnh hưởng bên ngoài. Thật thế Hitler biết lôi kéo tình cảm của người đối thoại bởi những cách thức đơn giản thiên phú và một tình thân thiện ít có. Trong huyết quản ông đã lưu hành giòng máu dân thành Vienne, mà còn được tinh vi hóa bằng những sắp xếp xảo thuật, đã tạo cho ông một nét duyên dáng, không chối cãi được. Cũng nên thêm rằng ngay trong những trình bày rộng rãi nhất, ông cũng biết cô đọng ý tưởng trong một công thức bao quát và đúng đắn, nói ra với một giọng tin tưởng như thật dễ dàng với ông để tạo một ấn tượng thích thú nơi người đối thoại.
Tuy nhiên, sự biểu lộ ra ngoài của cá tính, ông không đủ để cắt nghĩa ảnh
hưởng của ông đối với một vài người.
Ông phát huy giòng từ lực này khiến chúng ta thu hút những người khác hay làm tách rời khỏi họ. Ở ông, những tia từ lực nấy không sáng chói bởi sức mạnh, dù rằng ông vượt xa người trung bình, nhưng bởi sự dồi dào. Dãy sóng từ lực này rất rộng và hoạt động một cách bất ngờ trong những buổi họp công cộng và trước đám đông.
Chính sức mạnh lạ lùng của sự ám thị này đã cắt nghĩa sự việc những người đến thăm ông với nỗi thất vọng đã trở ra lòng đầy tin tưởng. Nó tác động trên các chiến hữu xưacủa ông với một sức mạnh đặc biệt.
Chẳng hạn tôi nhớ vào khoảng tháng 3 năm 1945, ông Gauleiter Porster, từ Dantzig đến Bá-Linh để xin gặp Hitler. Tôi thấy ông đến phòng giấy tôi, hoàn toàn bị bẻ bấp bởi những biến cố. Ông thú nhận vói tôi rằng 1100 xe tăng Nga tụ tập trước thành phố của ông và để chống cự, ông chỉ có bốn chiếc xe bọc sắt "Tiger" mà cũng không đủ xăng nhớt để xử dụng. Forster đã quyết định không giữ lời, vàsẽ trình bầy cho Hitler biết sự nguy ngập thực sự của vấn đề.
Thấy rõ được tình cảnh của ông ta, tôi khuyên nhủ Forster để ông tỏ bầy sự việc một cách khách quan hơn, và đưa Quốc trưởng đến một quyết định. Forster trả lời tôi: "Đừng lo ! Tôi không ngại trình bày mọi sự với ông ta vì sợ tống ra khỏi cửa đâu".
Tôi ngạc nhiên biết bao khi ông đi ngang qua phòng giấy tôi sau thi găp Hitler. Ông hoàn toàn thay dổi : "Quốc trưởng đã hứa với tôi cho một sư đoàn mới đến giữ Dantzig".
Trước cái nhìn nghi ngờ của tôi ông nói thêm: "Thật ra tôi không biết ông sẽ lấy quân ở đâu, nhưng khi ông tuyên bố là sẽ cứu Dantzig thì không có chỗ nào nghi ngờ được nữa."
Tôi thực sự chán nản với lời nói của Forster người mà trước đây tôi gặp trong phòng giấy đòi hỏi một cách quyết liệt là ông sẽ nói với Hitler công việc của ông, khi trở ra lại bị những lời nói trống rỗng thuyết phục. Đó là khả năng ám thị của Hitler đãtác động trên ông ta, không chối cãi được.
Tôi có thể kể vô số thí dụ về những người hùng dũng và có tước vị đã để cho
Hitler lừa bịp. Sau khi họ nhận biết đã bị lừa một cách trắng trợn, nỗi lo thấy rõ sự yếu đuối của mình khiến họ thực hiện ngay những mệnh lệnh nhận được. Hitler thấy rõ năng lực của ông. Bởi một sự tận tâm tập dượt, ông còn tăng thêm khả năng. Hơn thế nữa sử dụng một thái độ đơn giản và tự nhiên ông biết ông tác động nhiều hơn đối với những người đặt lòng tin nơi ông. Một hôm ông than mệt sau một hội Đảng ở Nuremberg. Trong khi cuộc diễn binh kéo dài nhiều giờ, ông ngồi dưới ánh nắng chói chang, tay đưa lên để chào, mắt nhìn từng khuôn mặt một đi qua ông . "Mỗi người phải có ấn tượng rằng tôi phân biệt họ từng người một và điều đó làm tôi một quá sức". Ông nói với tôi như vậy.
Sau đó tôi biết một số lớn người khoe là "đã được Hitler chú ý trong đoàn quân đông đảo".
Ngoài ra người ta còn biết sự hâm mộ do sự hiện diện của ông và bài diễn văn của ông đã tạo cho đám đông. Những toán người vây quanh ông mỗi bận ông di chuyển trở nên một ám ảnh thực sự cho đoàn tùy tùng. Trong lúc với Hitler, từ lâu họ tạo ra một thứ cần thiết, đám cuồng nhiệt đó về sau trở thành không chịu nổi nữa. Những người tụ tập trước khách sạn nơi chúng tôi xuống và rẽ ra như một làn sóng dội trong cơn biến động. Cơn sóng người này la hét không ngừng, đòi được thấy Quốc trưởng xuất hiện ở cửa sổ. Thường là một bản đồng ca nói lên đòi hỏi ân huệ đó. Những cuộc biểu tình này tái diễn sáng, chiều làm thần kinh chúng tôi nhọc mệt. Tôi tự hỏi không biết Hitler có chịu nổi không. Nhưng tôi biết rằng nó tác động trên người ông như một thứ thuốc bổ cần thiết. Một buổi sáng khi đám nhân viên hộ vệ ông giải tán đám đông, ông đã nổi giận vì không có những tràng pháo tay khi ông ra khỏi khách sạn.
Khi Hitler dùng xe vượt qua các đường xá ở Đức, toán hộ vệ phải làm việc hết mình để tránh tai nạn. Đã có lần những người đàn bà trông thấy ông, họ khựng lại như bị tê liệt và bị xe của đoàn tùy tùng cán. Phải luôn luôn đẩy lui đám đông làm cản trờ lưu thông. Các sĩ quan SS phải đứng trên lề đường để tránh các kẻ cuồng tín dùng xe tấn công.
Trong các nhà ga, cũng có cùng một cảnh tượng đó. Những toán người bị
nghiền nát khi vội vượt qua đường ray để đến kịp toa xe chở Quốc trưởng. Khi ông ta tựa vào cửa sổ bắt tay những người hâm mộ ông, y sĩ đi theo xe thường sợ bàn tay kia không chịu thả ra. Cũng tại đó nhân viên SS phải chống chọi để cản ngăn sự cuồng nhiệt này.
Vì những cuộc biểu tình làm mất một số thì giờ của Hitler, và thường làm chậm chương trình, các sự di chuyển của ông được đoàn tùy tùng giữ kín. Sự lo sợ những kẻ ám sát cũng đòi hỏi biện pháp này.
Hitler không những cứng rắn và có thiện chí với người khác mà còn đối với chính ông nữa. Trong thời kỳ trước chiến tranh ông đã biết tự chủ một cách đáng khen. Ý chí tự chủ của ông tác động trên chính ông và trên những người quanh ông. Ông không chấp nhận sự mệt mỏi và đặt trí óc trong một sự làm việc liên tục. Ông quên rằng đọc sách không ngừng không những làm hại mắt mà sự chống buồn ngủ liên tục còn làm hại đến khả năng trí tuệ nữa: Ông đạt được từ sự tin tưởng này rằng ý chí đủ để làm tất cả. Không gì ngạc nhiên bằng những cơn run của bàn tay mặt của ông, điều đã làm ông đau khổ kinh khùng vì niềm tự hào của ông. Điều cho rằng ông ta đã không làm chủ được một phần cơ thể làm ông lo sợ. Khi những người khác ngạc nhiên nhìn tay ông, Hitler trong một cử động do bàn năng, dùng bàn tay kiache nó. Dù cố gắng, ông không thể tự chủ được sự run rẩy này.
Nhưng dù ông có mất dần dần sự kiểm soát thần kinh, cho đến phút chót ông vẫn tự chủ được vì tình cảm của mình. Nhiều khi trong một cuộc nói chuyện riêng có người đưa cho ông một tin tức nói về một tai họa nào đó, Hitler vẫn tỏ ra bình tĩnh. Chỉ có cử động của hai hàm răng là biểu lộ sự xúc động của ông, và ông vẫn tiếp tục nói chuyện một cách bình tĩnh. Tôi nhớ lại vụ phá hoại đập nước ở Edertal của không quân đồng minh gây nên nạn lụt một phần lớn các thung lũng kỹ nghệ Ruhr. Khi đọc tin, khuôn mặt Hitler cứng lại như đá. Nhưng chỉ có vậy, không ai có thể thấy được một sự quan trọng như vậy vừa mới xảy ra. Chỉ sau đó nhiều giờ hay nhiều ngày ông mới nhắc trở lại biến cố cũ và lúc đó ông mời thả dàn cho cơn giận.
Hitler còn biết giữ bí mật với một sự tự chủ đáng ngạc nhiên. Ông luôn luôn
cho rằng các cộng tác viên của ông chỉ được biết những điều cần cho sự thi hành nhiệm vụ của họ. Không bao giờ ông cho chúng tôi biết những dự tính bí mật của ông, cũng không cho chúng tôi hay chương trình mà ông đang thiết lập. Không bao giờ ông bày tỏ trước chúng tôi một tí gì về các cuộc hành quân ông đang soạn thảo.
Bước khởi đầu ở mặt trận miền tây là một thí dụ cụ thể. Ngày 10-5-1940 ông tuyên bố với nhân viên là ông sẽ đi ngay chiều hôm đó. Không một lời nói nào về mục đích của cuộc hành trình. Khi người ta hỏi ông sẽ đi trong bao lâu, ông trả lời mơ hồ là khoảng nửa tháng, có thể một tháng, hay hơn nữa trong trường hợp cần thiết, một năm.
Tất cả mọi người theo ông đều được dùng xe đưa đi về hướng Staaken, và chúng tôi tin rằng sẽ bay trên không phận này. Nhưng ngạc nhiên, chúng tôi vượt qua Staaken và đến gặp Hitler trong chiếc tàu đặc biệt của ông đi về hướng bắc nước Đức. Các sự suy đoán đều trật đường ray. Có kẻ nào e ngại hỏi rằng chúng ta đi đến Thụy Điển chăng, ông xác nhận giả thuyết đó bằng cách hỏi lại: "Nếu chúng ta không quên mang áo tắm." Tàu tiếp tục hướng đến Ulsen, ở đó, đã khuya, ông lại trở hướng qua miền Tây. Thay vì xuống tàu tại Thụy Điển, chúng tôi thấy mình, vào bình minh sáng hôm sau, ở Munslen-Eifen, ở đó chúng tôi gặp bộ chỉ huy hành quân của Quốc trưởng.
Tôi biết rằng Eva Braun, chính nàng cũng không biết rõ bất cứ chương trình nào của ông. Mùa hè năm 1941, khi ông định đến mặt trận miền đông, ông xin lỗi nàng để đến Bá Linh trong vài ngày và hứa sẽ trở về ngay. Thật ra ông đi đến Bộ chỉ huy ở Đông Hồi. Ở đó ông chỉ huy cuộc tấn công đầu tiên vào Nga sô....
Không có vấn đề gì một người có thể nghĩ đến mà trước đó không có người làm rồi.
(HITLER)
CHƯƠNG II.
Khi phát biểu công thức đó; Hitler tự biết rằng ông ta không phải là một trí óc sáng tạo. Tất cả sự hiểu biết của ông chỉ là kết quả của cố gắng và trí nhớ, chồng chất theo năm tháng. Như một miếng bọt biển ném vào nước, trí nhớ của ông, kỳ diệu và đơn giản, thu hút trong sách báo, trong các cuộc nói chuyện tất cả cái gì có vẻ có ích cho ông.
Từ hồi trẻ, sự khát khao đọc sách của ông thật vô bờ. Ông kể cho tôi nghe ông đã đọc trong tuổi nhỏ khổ nhọc của ông ở Vienne 500 bộ sách, ở một trong các thư viện đô thành. Sự ham mê đọc qua và đồng hóa những tác phẩm nói về mọi vấn đề khác nhau đã khiến ông trải rộng sự hiểu biết đến mọi lãnh vực văn chương vả khoa học. Nhiều lần ông làm tôi ngạc nhiên khi ông phóng mình trong sự mô tả địa lý từng vùng hay trình bày với nhiều chính xác về lịch sử mỹ thuật hoặc suy diễn những đề tài kỹ thuật ở một mức chuyên môn cao.
Tất cả những người đã chiến đấu cạnh ông từ đầu trong nghiệp trị dân đều ngạc nhiên về sự hiểu biết rộng rãi của ông. Vào lúc đó ông đã biết tự đề cao trước những người chung quanh bằng cách dùng các năng khiếu lạ lùng mà trí nhớ đã cung cấp cho ông. Điều đó đưa ông đến sự gặt hái lòng hy sinh hoàn toàn của những kẻ thô thiển, toán người đầu tiên sát cánh bên ông. Với một sự khéo léo lạ lùng, ông biết trình bày cho họ về lịch sử Áo quốc, bài học thực sự về guồng máy bí mật của tòa nhà Herbsbourg và về sự mô tả những cơ cực của một nước Đức đang hấp hối. Cũng thế ông có thể nói liên tục về kiến trúc của các nhà thờ, nhà giòng, lâu đài, với các chi tiết tỉ mỉ làm người nghe chóng mặt.
Ngay cả trong những năm sau khi mãn tù ở Landsberg ông cũng say sưa tiếp tục việc nghiên cứu các tòa lâu đài lịch sử mọc lên trong các xứ khác nhau ở Âu
châu. Ông thường tự hào là biết rõ chúng vì các chi tiết kiến trúc hơn bất cứ nhà chuyên môn nổi danh nào dù họ sống ngay trong xứ họ.
Các sĩ quan trong Bộ tham mưu, và các nhà điều khiển các đơn vị lớn của Wehrmacht cững nhận rằng sự hiểu biết của ông về những liên lạc giữa Wehrmacht, cho đến những đơn vị nhỏ nhất vượt quá sức tường tượng và rằng khoa học về quân sự của ông là một hiện tượng.
Một hôm, một tay nổi tiếng về hàng hảỉ thảo luận với ông một cách sôi nổi về một chi tiết kỹ thuật trong việc gắn máy tu-bin hơi nước trên các tàu hộ tống tân tiến. Kẻ đối thoại bị Hitler bác những luận cứ đã nổi giận đến nỗi không còn giữ được bình tĩnh, ném cho ông một cái nheo mắt khỉnh khi : "Làm sao Ngài dám nói như vậy trong khi Ngài không hề biết gì về một vấn đề hoàn toàn kỹ thuật." Hitler không giận như ông thường làm trong các trường hợp khác. Ông mời vị chuyên môn ngồi xuống và trình bày vấn đề cho ông nghe với sự tỉ mỉ rõ ràng khiến ngay các giáo sư hàng hải cũng phải ngạc nhiên.
Trong các cuộc tranh luận hàng ngày, trong đó ông đặt vấn đề với những vị cố vấn của Wehrmacht, ông không ngừng làm ngạc nhiên mọi người. Ông luôn nắm vững các biến cố xảy ra trong suốt vùng biên giới dài vô tận. Những quá khứ lịch sử của các toán quân quan trọng, quân số thực hiện xử dụng trong mỗi cuộc hành quân, những chuyển dịch liên tục của các toán quân trong cuộc chiến. Không những ông quen thuộc với tổ chức mỗi lộ quân đến cấp sư đoàn, mà ngay cả các lực lượng đặc biệt nhỏ, như tiểu đoàn cơ giới nặng chống chiến xa cũng không thoát khỏi mắt ông.
Thị trưởng Munich, mà ông thường gặp để bàn định chương trình xây cất và chỉnh trang đô thị thường kể cho tôi nghe sự ngạc nhiên của ông ta khi thấy Hitler nhắc lại những chi tiết nhỏ nhặt nhất, rồi bàn luận về nó cả tháng. Ông ta đã nghe Hitler nói đến ông bằng một giọng thân mật :"Ông đã không nói với tôi cách đây sáu tháng rằng chi tiết đó không làm tôi thích sao ?", và khai triển từng nét một tất cảsự đổi ý của ông trên điểm dặc biệt này.
Trí nhớ này không có chỗ trống. Nó không chỉ phát triển trên các tên người, trong văn chương, hay các con số, mà nó còn có một sự ghi nhớ các khuôn mặt
thật dễ dàng. Ông thường nhắc lại không sai về thời gian và không gian cuộc gặp gỡ của ông với người đối thoại. Ông nhớ lại tất cả những người ông biết trong cuộc đời sống động của ông và ông thường nhắc lại những chi tiết nhỏ nhặt về mỗi người một cách hoàn toàn đáng ngạc nhiên. Ông có thể diễn tả tỉ mỉ diễn tiến, và không khí tất cả các cuộc hội họp cổ động mà ông có nói chuyện. Những người bạn trẻ mà ông gặp ở Vienne, những chiến hữu, những phụ tá trong cuộc chiển đấu tranh quyền và toán bộ binh lộn xộn của tất cả những người theo ông đến chiến thắng đã khắc sâu trong trí ông với tất cảtính tình của họ.
Khi Hitler vui vẻ, ông thích mô tả một cách trung thực những cuộc tiếp tân lớn tổ chức ở Chancellerie, trong những năm xưa. Trí nhớ thị giác của ông khiến ông có thể tả lại những trang sức của các nghệ sĩ hay hình dáng các vị khách chính đến dự tiệc, và diễn lại những cử chỉ lịch sự hay những cuộc nói chuyện trò nghiêm trang với người này hay người khác trong số khách khứa.
Ông cũng gợi lại cảm tưởng trong lúc xem kịch hay xem hát bóng. Ông làm sống lại các vở kịch ông xem hồi còn nhỏ vói nhiều chi tiết. Ông nhắc lại tên các diễn viên và những gì các nhà phê bình nói về họ.
Làm sao một trí óc con người lại cất giữ được nhiều hình ảnh và sự việc như thế.
Hiển nhiên rằng Hitler đã được trời phú cho từ lúc sơ sinh một trí nhớ hiếm có. Những sự bí mật nằm trong việc ông huấn luyện và phát triển nó hàng ngày. Ông cắt nghĩa cho chúng tôi, trong lúc đọc, ông cố nắm vững những nét chính cùa vấn đề và đào sâu vào đó. Tôi đã nói rằng ông ta có thói quen, trong các buổi trà đêm hay trong buổi chuyện trò bên ánh lửa, kể cho chúng tôi nghe điều ông đã được đọc trong sách báo để cố neo chặt nó trong trí óc. Sự luyện tập trí óc này trở thành cần thiết cho ông. Hitler tin rằng phần đông các độc già đều ngu dốt, không biết rút tỉa nguồn lợi trong sự tập luyện đó. Trong khi ông làm việc một cách lộn xộn và ghét tìm kiếm hay ghi chép hồ sơ Hitler sắp đặt một trí nhớ gọn gàng một cách đáng phục, một trí nhớ ngăn nắp trong đó ông biết cách thâu nhận những lợi ích lớn lao nhất.
Tuy nhiên ông luôn luôn muốn nâng cao các người đối thoại và làm họ ngạc
nhiên về sự hiểu biết rộng rãi của ông. Ông giữ chặt sự phát triển những nguồn hiểu biết của ông. Ông biết làm cho người nghe ông tin rằng những điều ông trình bày là kết quả của suy tư và khiếu phê bình của ông. Ông có thể đọc hàng trang đầy mà vẫn cho cảm tưởng rằng văn chương đó phát tự chính lòng ông, và nó biểu thị chiều sâu của trí tưởng ông. Tất cả những người tôi nói chuyện với họ về điểm này đều cho rằng Hitler là một nhà tư tưởng sâu sắc, được phú một trí óc phân tích sâu xa vàtrong sáng.
Một hôm tôi muốn biết rõ về điều đó. Hitler làm chúng tôi kinh ngạc về một bài triết trên vấn đề ông thích. Với sự ngạc nhiên của tôi, tôi thấy rằng tất cả những điều ông nói ra chỉ là trích lại trong một trang của Schaupenhauer mà tôi vừa mới đọc. Tôi lấy hết can đàm và nhắc ông về sự trùng hợp này. Hitler hơi ngạc nhiên, ném cho tôi một cái nhìn khó hiểu rồi với một giọng giáo huấn và che đậy ông bảo tôi : "Này con, đừng quên rằng sự hiểu biết của một người hầu như để bắt nguồn từ người khác. Mỗi người chỉ bổ túc cho toàn thể khoa học một phần nhỏ nhặt mà thôi!"
Cùng một cách đó Hitler nói về những người nổi danh, những xứ xa lạ, những thành phố, những kiến trúc v.v... mà ông chưa hề được nhìn đến. Cách thức quyết đoán và chắc chắn mà ông diễn tả, và bài nói chuyện rõ ràng, trong sáng trong đó ông đặt vào tư tưởng của ông khiến người nghe tin rằng ông thực sự đã thấy, đã sống về những gỉ ông nói đến. Người ta có thể tin rằng ông đã suy nghĩ, đã kinh nghiệm những điều ông vẽ lại trong những chuyện kể của ông với đầy sự đứng đắn. Nhưng chính đó tôi cũng khám phá ra sự phỉnh gạt của ông. Một hôm ông phê bình cho chúng tôi nghe một màn hát mà tôi biết ông không dự. Tôi nói cho ông hay về sự ngạc nhiên của tôi khi thấy ông chỉ trích một cách mạnh bạo nhà đạo diễn và các nghệ sĩ trong khi ông không hề xem tuồng đỏ. Ông nhảy dựng lên như bị nhện chích và trả lời tôi: "Cô có lý, song... cô Braun có mặt hôm đó và đã nói với tôi các cảm nghĩ trên."
Khả năng thiên phú đó mà các vị tiên đã đặt trong nơi ông, càng ngày càng tăng lên. Tôi phải tin rằng, vào những năm cuối cùng của cuộc chiến trí nhớ của ông, vì thất vọng ê chề không còn cho phép ông giữ vai trò của nhà tư tưởng và
nhà kỹ thuật tài ba nữa. Trong lãnh vực này và trong các lãnh vực khác ông đều bị trở lại ngang hàng với kẻ khác. Sự yếu kém về "khả năng này đã làm ông mất đi nhiều uy tín".
Đừng bao giờ tin rằng Hitler có cùng đam mê đối với các lãnh vực khác nhau của tâm trí. Nếu nghệ thuật, kỹ thuật và lịch sử là các đề tài ưa chuộng của ông, học thức của ông cũng không thiếu các lỗ trống đáng ngại. Ông chỉ có những ý tưởng rất mơ hồ về luật và về các vấn đề pháp lý. Nền tài chính công cộng làm ông ngất ngư. ông không có chút hiểu biết nào về các vấn đề hành chánh. Một tay tổ chức cừ khôi trong việc điều khiển Đảng, Hitler hoàn toàn bị chặn họng bởi các "Gauleiters" và các công chức cao cấp trong việc tổ chức nền hành chánh lớn lao của quốc gia. Có thể có các sự quá đáng không tha thứ được chỉ tại vì Hitler không ưathích vấn đề này.
Sự đần độn và sự ghê tởm này giải thích phần nào việc Bormann tiếm quyền ông. Nhà tổ chức vượt bực và tay giỏi về giấy tờ, Bormann bao quát công việc của Hitler và giúp Hitler các công việc ông không ưa thích. Phần khác, ông dần dần trở nên một ông chủ bí mật của Đức bằng cách che dấu Hitler các biến cố làm hại tinh thần quốc gia.
Hitler cho rằng Bormann là người hợp tác độc nhất biết thiết lập công thức một cách thông minh và sáng sủa về quan niệm và tư tưởng của ông. Thường thường, khi chúng tôi dám báo cáo cho ông hay rằng quan niệm công chúng cho rằng nền hành chánh của Bormann là vô nhân đạo. Ông trả lời với chúng tôi bằng một giọng không chấp nhận sự chống đối nào : "Tôi biết Bormann hung bạo. Nhưng mọi việc tôi giao cho ông ta, ông thi hành một cách hoàn hảo. Tất cả mọi việc ông làm đều có ý tốt".
Hitler biết Bormann đòi hỏi thuộc hạ một sự hy sinh và một năng suất hoàn toàn. Khi lời than thở của những người này đến tai ông, ông đuổi chúng đi vời lời giải thích rằng Bormann chính ông ta, cũng làm việc như một con vật : "Chính nhờ sự cứng rắn và phương pháp không nhượng bộ, ông đã thực thi các chương trình khó khăn tôi phó thác cho ông".
Một lần khác ông khen Bormann : "Các phúc trình của ông ta đầy đủ và tỉ mỉ
đến nỗi tôi chỉ còn việc đặt bút ký. Với Bormann, tôi giải quyết một đống hồ sơ trong mươi phút trong khi với kẻ khác tôi phải mất hàng giờ. Khi tôi nói với ông trong một cuộc tiếp kiến : Hãy nhắc tôi trong vòng sáu tháng vấn đề này hay vấn đề khác, tôi tin chắc là ông ta nhớ rõ từng ngày. Ông ta trái hẳn anh ông, cái gì cũng quên."
Albert Bormann, người anh, cũng là thư ký của Hitler bị chú em Martin ghét bỏ.
Chính sau khi Hess đi Anh quốc mới bắt đầu sự tiếm quyền của Bormann. Buổi chiều hay tin Hess trốn đi ông mở một cuộc tiếp tân ở biệt thự Obersalzberg, như để ăn mừng một biến cố vui. Rồi nhờ mưu lược khôn ngoan ông thành công trong việc đẩy Wilhem Bruckner ra khỏi chức vụ quan trọng bên cạnh Hitler từ thời tranh quyền. Từ đó, Bormann hoàn toàn tự do hành động, và bắt đầu mở một hoạt động nóng sốt. Ông đưa người vào giữ các chức vụ quan trọng trong Bộ tham mưu của Hitler. Với tài chính trị kiểu Machiavele, ông biết cách xâm nhập vào mọi việc và hiếm có những người cộng tác của Quốc trường không bị ở trong màn lưới của Bormann đã dệt sẵn. Bormann trở thành người mà Hitler không qua mặt được. Nhờ ông mà Schaub, một kẻ vô tài, đã thay được Bruckner. Vai trò của Schaub làthì thầm bên tai Hitỉer những câu do âm mưu của Bormann đặt ra.
Trong những năm cuối chiến tranh, Reichlciter ngự trị ở Bản doanh. Tất cả mọi nhân viên đều được thay vào người của ông và các người này hy sinh cho ân nhân của mình và phúc trình cho ông ta những tai tiếng nhỏ nhặt nhất.
Một khi làm chủ được địa vị và không còn sợ thuộc hạ Hitler, Bormann đẩy xa những nguy hiểm từ bên ngoài có thể hại cho ông. Ông tạo lập quanh Hitler một bức tường thành kiên cố không ai vượt qua được nếu không phải là kẻ vô hại và đã trình cho ông ta mục đích cuộc viếng thăm. Bormann là nhà kiểm soát tuyệt đối guồng máy của Reich.
Để thí dụ tôi nhớ lại tháng 3 năm 1945, các Gauleiter Hofer và Forster, các quận tỉnh ủy mặt trận miền Tây đến Bá Linh để tường trình lên Hitler, mà không báo trước cho Bormann. Khi các mật báo viên đưa tin này cho Borman, ông chấm dứt ngay ngày nghỉ ở Obersalzberg và trở về Bá Linh để chống đối ý định của hai
vị Gauleiter đó, vì sợ quân Nga tiến gần đến vùng đất trách nhiệm của họ. Bormann hứa với họ để có thể bỏ qua vụ tường trình và khuyên họ nên trở về để sửasoạn việc chống cự hơn là đến Bá Linh để bày mưu đặt kế.
Bormann không có bạn, người độc nhất mà tôi biết là Hermann Fegelein, anh rể cô Braunn. Một tình bạn bền chắc gắn bó hai con người, điều đó không ngăn Bormann ra lệnh bắn ông ta để có thể âm thầm rời Bá Linh vài ngày trước khi thành phổ này thất thủ.
Bormann là hung thần của Hitler. Lòng khát khao quyền hành thật vô độ. Ông không những tách biệt xếp ông về thể chất và tâm hồn, và đưa người mang ơn ông vào làm thuộc hạ cho Hitler, mà còn biết xoay sở mỗi khi có dịp để tự nâng cao giátrị mình.
Tôi có thể kể ra vô số thí dụ.
Một hôm, DNB công bố một tin về vụ một trại chủ bị hai tháng tù vì đã uống hai lít sữa một ngày. Nhà chụp hình Hoffman, cũng là trại chủ, khi nghe câu chuyện đó đã thốt lên : "Trong trường hợp này thà tôi bị tù, vì mỗi lần ở trại về tôi đều mang theo 5 lít sữa."
Sự bất cẩn này đã bị mật báo và Bormann đã dùng cây bút đẹp nhất của mình để viết những giòng chữ này: "Quốc trưởng bảo tôi nói với ông rằng, theo luật, ông chỉ dùng nửa lít sữa."
Mỗi lần một người bạn xưa của Hitler nói thoáng qua rằng ông ta để ý đến kẻ này hay kẻ khác có uy quyền phạm vào những luật cấm. Bormann khai thác ngay sự kiện bằng cách gửi một láthư đến kẻ đó bằng những chữ: "Theo lời của ông nào đó, các sự kiện sau đã được ghi nhận trong công việc của ông... "
Một thí dụ chót nói lên cái cách mà Borman đã dùng để tách Hitler ra khỏi các người mà ông ta nghi ngờ lời nói và sự chỉ trích của họ. Một hôm Hoffmann nhận một cú điện thoại của Bormann báo tin rằng ông được tin là ông ta bị nghi có mang vi trùng thương hàn, vậy từ nay ông không được gần Quốc trưởng nữa. Hoffman lo sợ về vụ này, phải đến Vienne để theo dõi bệnh tình trong sáu tháng ở các nhà chuyên môn lừng danh, kết quả không có gì. Tháng 3 năm 1945 ông đến Bá Linh để minh chứng sự tố cáo bậy bạ đó. Trong khi ông đang ăn cơm ở
Chancellerie, Bormann đến bàn ăn và lo sợ nói : "À ông đã về đấy à ! Tốt hơn ông nên ở yên một chỗ. Thay vì làm việc với các bức hình, ông nên phát minh những tia sáng bắn hạ các máy bay địch."
Nửa giờ sau, Hitler đi qua phòng đó. Với một dáng điệu chán nản ông yêu cầu khách khứa ở yên. Hoffmann đứng ngay dậy để trình diện Quốc trưởng. Quốc trưởng lạnh lùng chào ông và hỏi với giọng dọa nạt là ông đã hết bệnh chưa. Những lời phản đối và chứng chỉ y khoa chứng minh ông không mang bệnh thương hàn không làm Hitler tin. Từ đó Hitler xa lánh "nhà chụp hình trong triều" và bịt tai trước những lời cho rằng ông này vô bệnh.
Sau đó tôi biết rằng Bormann đưa tin là có thể Hoffmann đã gửi con trai ông cùng tên với ông đi Vienne và rằng chứng chỉ y khoa là do ông này xin. Hitler tin ngay sự lừa dối này một cách dễ dàng.
Và tấn bi hài kịch làm hư hại tinh thần quốc gia đó vẫn tiếp tục.....
Nói hoài về một vấn đề ta sẽ đạt đến những nét chính và thấu rõ chúng (HITLER)
CHƯƠNG III.
Trong những năm cuối, Hitler sống một cuộc sống càng ngày càng thiếu đều đặn. Trong khi ở nhiều người, những bữa ăn dự phần vào ngày làm việc theo một thứ tự không thay đổi. Hitler định hướng cuộc đời một cách đặc biệt về những "bữa nói chuyện" nổi danh, trong đó ông bàn luận tình hình với các cộng sự viên.
- Thời gian các buổi đó hoàn toàn co giãn, từ một giờ đến bốn giờ hay hơn nữa, những bữaăn vì thế lùi dần.
- Ông có thói quen ăn điểm tâm vào 11g30. Bữa ăn chính ở trong khoảng 14g và I7g, buổi ăn tối trong khoảng 20g và 24g.
- Sau khi ăn tối ông nghỉ một giờ rồi họp tiếp cuộc họp thứ hai, thường kéo dài đến sáng.
- Sau khi đã giải quyết những lo lắng thuộc về chỉ huy, Hitler dùng trà vào khoảng 4 đến 5 giờ sáng. Trong những năm sau cùng, chỉ có các thư ký, đôi khi Bác sĩ Morell hay phụ tá Schaub cùng hiện diện. Năm 1944, thỉnh thoảng tôi ở lại đến 8 giờ sáng, ngồi trước mặt Hitler, giả bộ chú ý nghe ông nói.
- Hitler có thể nói, nói không ngừng! Thường thường, chính Hitler tạo những xung lực cần thiết cho cuộc nói chuyện và, thường ông trở nên độc thoại, nói không ngừng ông trình bày quan điểm của ông về các vấn đề khác biệt.
- Trong những cuộc nói chuyện đầu Ngô mình Sở này, nhiều vấn đề bất ngờ được đề cập đến. Thật thế, Hitler diễn giải về mỗi đề tài với một niềm vui sướng và một nhiệt tâm như nhau. Đến nay tôi còn tự hỏi tại sao ông chịu hy sinh giấc nghỉ ban đêm để trình bày những định lý trước một cử tọa thường thích ngủ hơn sự lắm mồm đơn độc của ông.
- Khi một vấn đề xâm chiếm ông, ông muốn bàn luận không dứt. Ông nói với
chúng tôi rằng trong khi trình bày một vấn đề, lời nói, mỗi lần lại mở cho ông một chân trời mới, và khiến ông có thể hiểu những nguyên nhân và kết quả màlúc đầu ông không biết đến.
"Lời nói, ông nói, bắc những cây cầu về một chân trời xa lạ. Nhất là ngôn ngữ Đức, với sự tế nhị và đứng đắn, cho phép thăm dò những vùng mới lạ của trí óc. Đó chính là lý do khiến Đức quốc là nơi khai mở nhiều nhà tư tưởng và thi nhân".
- Tôi không thể kể hết những điều Hitler nói với tôi trong các buổi trà đàm ban đêm trong suốt mười năm. Tôi thú thật rằng sự mỏi mệt vượt quá sự chú ý của tôi, và tôi chỉ bày tò quan niệm bằng chiếc mũ dạ, tư tưởng hoàn toàn mất hẳn.
- Trong những buổi dạ đàm đó, Hitler thường nhắc lại những kỷ niệm thơ ấu. Nhất là trong khi ông bị nhiều công việc, tuổi trẻ vươn lên dễ dàng từ đám lẫn lộn ý tưởng làm ông xao động : "Tôi không bao giờ thương cha tôi, ông thường nói, nhưng tôi sợ ông nhiều hơn, ông dễ bị kích động và hay đánh tôi vô cớ. Khi ông dạy tôi, mẹ tôi run sợ cho tôi. Một hôm tôi đọc trong một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu thấy rằng để chứng tỏ can đảm, phải che dấu sự đau đớn. Tôi quyết định không la khóc khi bị cha tôi đánh. Vài ngày sau đó, tôi có dịp thực thi ý chí của tôi. Mẹ tôi sợ hãi chạy trốn ra trước cửa. Còn tôi, tôi thầm đếm từng cú ba toong đánh xuống mông tôi. Đến tối, tôi thắng lợi báo tin cho bà rằng tôi đã nhận ba mươi hai roi, bà tưởng tôi mất trí. Điều lạ lùng là từ hôm đó, tôi không còn được trở lại kinh nghiệm cũ, cha tôi không đụng đến tôi nữa. Sau đó, Hitler kể tiếp sau khi chạm trán với những thực tế khó nhọc của cuộc đời, ông chứng tỏ một sự kính trọng lớn lao đối vói cha ông. Người cha từ mồ côi, và lớn lên ở đồng quê, đã thành công trong công việc bao quát nghề nghiệp của một công chức nhỏ về quan thuế. Nhờ tiết kiệm và cần mẫn, ông đã tậu được một trang trại nhỏ."
- Hitler cũng thích nói đến tài nội trợ của mẹ ông, nhờ vậy gia sản đã tròn đầy dần dần.
- Trái lại, ông thường đối xử vói các bà chị ông như những người đàn bà "ngu ngốc". Ông thú nhận với chúng tôi là, trong dịp lễ hứa hôn của chị Angles của ông, ông đã khuyên vị hôn phu, mà ông có cảm tình, nên dứt bỏ tất cả, đừng để chiếc
bánh cưới làm trở ngại mình.
- Ở trường Hitler là đầu nậu một băng, luôn luôn sẵn sàng làm bậy. Từ nhỏ, ông đã là kẻ tự kiêu và hay chỉ trích. Một hôm, vị giáo học, đãng trí, gọi tên ông là Hitter, ông không đứng dậy. Vị giáo học nhìn thẳng ngay ông và một lần nữa gọi lớn : "Hitter," ông vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng, ông thầy mất kiên nhẫn, Hitler vẫn ngồi, trảlời từ tốn : "Tôi không tên Hitter mà là Hitler".
- Trong lúc học giáo lý, ông thường giở những trò quỷ quyệt để chọc giận ông thầy tử tế ở nhà quê. Ông cố chứng minh với bạn học rằng tôn giáo không thể học một cách đứng đắn. Một hôm, ông can đảm bày tỏ trước lớp học rằng Thượng đế không hề sinh ra con người, mà rằng ông đọc trong sách thì con người xuất thân từ loài khỉ. Hôm sau ông mang lại để làm chứng tập sách dày của Darwin, trước sự xúc động của giáo sư giáo lý. Mẹ ông được hiệu trưởng mời đến, dọa sẽ trừng phạt nếu bà không ngăn cản con bà đùa giỡn bằng những bài học sai quấy như vậy.
- Từ lúc còn rất trẻ, Hitler đã thích con gái. ông kể rằng, một buổi chiều ở Linz, khi ông nhận biết một cô gái thích ông, ông lại thẳng ngay. Khi cô gái theo mẹ, ông xin bà được theo đến nhà bằng cách giúp họ mang các vật nặng trong trường hợp cần. Ở sở cũng vậy, ông tìm cách lôi kéo sự chú ý của các cô gái bằng cách làm những trò khỉ. Ví như ông chà bộ râu mép tưởng tượng của ông với bàn chải của cha ông. Các trò hề này khiến các cô gái cười như điên và Hitler sung sướng vì những thành công nhỏ đó của mình. Ồng cũng thích kể cho chúng tôi nghe những thử thách đầu tiên trong việc hút thuốc của ông. Ổng đã hút hết nửa điếu xì gà, sau đó, ông bị bệnh nặng và phải chạy về nhà. Ông kể với mẹ ông là ông bị trúng thực anh đào. Y sĩ được mời ngay đến, đã lục các thứ của ông và tìm thấy mẩu tàn thuốc. Sau đó, ông tiếp, tôi mua một ống điếu dài bằng sứ. Tôi hút như một tay chữa lửa, ngay cả lúc đi ngủ. Một lần tôi buồn ngủ, và khi thức dậy thì chăn nệm đang cháy. Tôi đi đến sự giải quyết là không bao giờ hút thuốc nữa, và tôi vẫn trung thành với lời hứacủatôi.
- Một tai nạn tương tự đã xảy ra khi còn trẻ, Hitler bắt đầu uống rượu mạnh. Tôi luôn luôn có cảm tưởng là ông ta khó cắt nghĩa lý do tại sao ông ta lại ghét
rượu đến thế. Sự việc ông ta che dấu này chỉ càng kích thích tôi thêm. Cuối cùng sự nài nỉ củatôi làm ông hết dấu diếm.
- Ông kể câu chuyện như sau :
"Sau khi đỗ xong cuộc thi cuối niên học, bạn bè và tôi ăn mừng với rất nhiều lít rượu tại một quán ở nhà quê. Tôi bị bịnh và phải vội trở về nhà sau nhiều cố gắng. Sáng hôm sau, tôi không tìm ra chứng chỉ mà cha tôi hỏi. Tìm mãi không thấy tôi quyết định xin bản sao ở ông hiệu trưởng. Chính ông này xóa bỏ giùm tôi sự hổ thẹn lớn lao nhất của tuổi trẻ khi đưa cho tôi bản chính văn bằng. Một nông dân đã nhặt được trong đống rơm và gởi về trường. Tôi xấu hồ đến nỗi rằng, trong suốt đời tôi, tôi không uống một giọt rượu nào nữa."
- Trong những cuộc dạ đàm đó, Hitler bao gồm hầu hết mọi lãnh vực của tư tưởng con người. Tuy nhiên tôi cảm thấy một cách không chắc chắn rằng ông có vài điều không đúng. Ngay cả ngày nay, tôi cũng chưa biết định nghĩa nó cho rõ ràng. Trong những cuộc nói chuyện vô ích đó, theo tôi, ông thiếu một ghi chú thuộc về nhân loại sự cao quí của tâm hồn một người học thức. Thư viện của Hitler, thiếu các tác giảcổ vàtất cảcác tác phẩm cổ điển và duy tâm luận.
- Ông luôn luôn tiếc nuối với tôi là không có thì giờ đọc văn chương hoa mỹ, nói đến trí tuệ con người, và chỉ ham mê đọc sách về kỹ thuật. Sự thiếu sót này trong học thức của ông cắt nghĩa nhiều mặt trái mà ông xóa bỏ trong kế hoạch thuộc tâm lý.
- Nghệ thuật chiếm một địa vị quan trọng trong những bình giải của ông. Ông cho cổ Hy Lạp và La Mã là nền tảng của văn minh trong đó các quan niệm về thiên văn, khoa học và thuần túy luân lý đã tìm thấy những diễn tả đầu tiên của chúng, ông thường nói với tôi sự thỏa mãn của ông, khi ông được ngắm, trong lúc du hành qua La Mã và Florence những kiệt tác bất hủ mà cho đến lúc đó ông chỉ biết quacác hình thức sao chép.
- Hitler chê nền hội họa mới. Ông xem nó như quá được chú ý của những khuynh hướng biểu tượng vàấn tượng. "Nghệ thuật suy đồi" này - danh từ do ông rèn đúc - là, theo ông tác phẩm của tụi Juif, những kẻ đã làm quảng cáo huyên náo, chung quanh những bức tranh xấu xa, điên cuồng, để bán cho đắt giá, trong
khi chính họ lại chọn lựacho bộ sưu tập của họ toàn làcác "thầy xưa." Ít có họa sĩ Đức nào ở thời đại chúng ta tỏ vẻ dịu dàng trước những chỉ trích quá khích. Tuy nhiên, ông mua các tranh ông không thích, trong mục đích khuyến khích các nghệ sĩ.
"Các họa sĩ ngày nay, ông nói, không có sự tỉ mỉ và kiên nhẫn trong chi tiết như những họa sĩ vào thời vàng son của nghệ thuật"
- Cuối cùng chỉ còn hai thứ đối vói ông : Đồ cổ và tiểu thuyết. Ồng tìm lại thời trung cổ và phục hưng vì ông không thấy họ không theo những qui tắc của Thiên chúa giáo.
- Hitler dàn xếp để trở thành người sưu tầm đồ cổ. Tôi thấy ông sung sướng như trẻ con ngày mà ông, qua trung gian của Mussolini, mua được cổ vật nổi danh "Discobole" của Myron. Mỗi lần như thế, tôi không biết sự ham thích tràn trề này chỉ là do sự vui thích hoàn toàn nghệ sĩ hay còn pha thêm lòng thỏa mãn sự khoe khoang đãcó một kiệt tác như vậy.
- Hitler thích đem ra ánh sáng các vị thầy xưa đã đi vào quên lãng. Khi một nhà bán đồ cổ mua cho ông tác phẩm nổi danh "Dịch hạch ở Florence" của Hans Makart lòng hăng hái của ông xoắn lại trong sự ngưỡng mộ. Ông mời chúng tôi đến xem tác phẩm đó. Ông đứng thẳng trước bức tranh rộng lớn phóng mình trong sự ngắm nhìn thán phục mà tôỉ hoàn toàn không hiểu nổi. Đề tài chết chóc, màu vàng lục của những tử thi khắp nơi làm tôi thực sự không thích tí nào. Nhưng tôi không dám cho ông hay sự không thích củatôi sợ làm ông mất vui.
- Sự chê bai "phái mới" của ông lớn đến nỗi ông tổ chức, trong khi khánh thành "Kunst hall" ở Mu-nich năm 1937, một cuộc triển lãm song song những tác phàm gọi là "suy đồi". Cuộc triển lãm này dùng để dọa những kẻ vì tính quí phái, có khuynh hướng lại gần nghệ thuật mới.
- Trước khi khánh thành viện bảo tàng nghệ thuật ở Mu-nich, những tay chuyên môn, chứa đầy những ý tưởng đặc biệt của Hitler, đã giữ 1450 bức tranh họ cho là thích hợp trên 20000 bức gửi tới góp phần của mọi nơi trên Đức quốc. Nhưng sự rủi ro đến với họ. Buổi tối trước ngày khánh thành Hitler dạo qua phòng triển lãm và ông đã loại bỏ thêm 500 bức mà ông cho là không xứng đáng
được treo lên. Một cú đơn giản của ngón tay cái ông đủ để làm biến đi những đại tác phẩm giá trị. Tôi kinh ngạc bởi một số lớn các bức khỏa thân ông không loại bỏ và nói với ông, rất lâu về sau sự ngạc nhiên của tôi. Ông trả lời tôi, làm vậy vì binh sĩ. Những hình khỏathân đẹp thường được những kẻ chiến đấu ưachuộng.
- Fuhrer luôn luôn ham thích tậu những cái mới.
- Vị Bộ trưởng giao thông và bưu điện sau cùng có ý phát hành những bộ tem phụ trội trong dịp kỷ niệm những biến cố quốc gia. Tiền bán được đổ vào trong một quĩ riêng trong đó Hitler có thể dùng tự do để mua các nghệ phẩm. Ý tưởng lớn của ông là để nâng đỡ những thành phố nhỏ, thành lập các bảo tàng viện vùng "Trong những thành phố lớn, ông nói, có nhiều bảo tàng viện đầy tranh mà ngay một tay chơi nghệ sĩ cũng khó quan sát kỹ trong khối lộn xộn đó. Tôi đề nghị phân phối các tranh này đến các bảo tàng viện vùng, bằng cách xem xét quá khứ của nơi chốn, đặc tính của phong cảnh chung quanh và đặc tính của giống dân cư ngụ. Thành phố quê hương của mỗi nghệ sĩ phải có một bảo tàng viện trữ một ít sáng tác của họ". Hitler cũng muốn thu thập những bộ sưu tập khác, những khí giới lịch sử chẳng hạn, những thứ đã ngủ yên trong quên lãng hay ở trong tay những kẻ khác. Như vậy đã có thể tạo cho những bảo tàng viện địa phương một sự lôi cuốn về những thành phố nhỏ, khiến ai thích có thể nghiên cứu tại chỗ những tác phẩm nghệ thuật mà không phải di chuyền xa xôi vàtốn kém...
- Nhưng tại Lenz, nơi ông xem như thành phố chôn nhau cắt rốn của ông, ông muốn dựng một bảo tàng viện giàu có nhất nước Đức. Những họa phẩm sẽ không phải treo trên tường, trong một đống lộn xộn, nhưng mọi tác phẩm phải được nâng cao giá trị trong một khung xứng đáng. Mỗi tác giả phải được đặt một trong phòng riêng, trưng bày và trang trí theo cách thức của thời đại của tác giả đó. Như vậy, tất cả các giòng nghệ sĩ của lịch sử sẽ mở ra trong chính bầu không khí củachúng.
- Nhưng Hitler không phải chỉ bị cắn rứt bởi lòng đam mê sưu tầm. Thời niên thiếu, ông có tham vọng lớn lao là được vào hàn lâm viện mỹ nghệ ở Vienne. Họa phẩm dự thi của ông đã được hài lòng nhưng ông không được nhận vào vì sức học của ông không đủ để theo các lớp học. Mỗi lần Hitler kể lại sự chán nản đau
đớn đó, ông trở nên u tối và hung tợn. Ông thường không thiếu lời nhục mạ sự bất công của số mạng đã khiến những thanh niên thường hay sống tàn tạ trong bóng tối vì xuất thân từ một gia đình nghèo khổ.
- Thời nay và cả thời kỳ chiến tranh 1914-1928 cũng còn những tác phẩm của Hitler bằng màu nước không phải không có tài, vẽ những dinh thự công cộng với một sự cẩn thận như chụp hình những chi tiết.
- Vẽ và họa vẫn là "hobby" của cuộc sống của ông. Ngay cả trong cuộc sống bận rộn của ông khi làm nguyên thủ quốc gia, ông cũng dành được nhiều thì giờ để tập luyện tài năng này. Trong phòng giấy của ông, luôn luôn có trong tầm tay một chồng cát tông láng ông dùng trong những lúc muốn nghỉ ngơi để vẽ những gì mà nguồn cảm hứng trong lúc đó gợi lên cho ông. Ông rất hãnh diện về các bảng vẽ đó và giữ nó không cho ai động đến. Khi ông muốn làm tôi vui hay để thường công tôi sau một ngày kiệt lực trong công việc, ông tặng tôi một bức, nhưng không bao giờ gợi sự chú ý củatôi về giátrị cử chỉ của ông.
- Hitler có một đam mê thật tình về kiến trúc, ông đã đọc nhiều sách và biết những đặc tính của các thời đại khác nhau, đến cả những tiểu tiết. Nếu ông ít hiểu về nghệ thuật La Mã, trái lại ông chối bỏ nghệ thuật Gô-tích vì ông thấy trong đó có quá nhiều dấu tích của những huyền bí thuộc về Thiên chúa giáo. Ông ca tụng nhất là kiểu Baroque mà những danh phẩm trong sáng nhất được dựng lên ở Desde và ở Wuszburg. Thật vô ích mà nhấn mạnh sự thích thú của ông về kiểu mới của Đức mà trên phương diện nào đó ông là người sáng lập. Chính kiến trúc sư Troost đã dựng nên, theo những chỉ dẫn của ông, nhưng nguyên tắc của lối kiến trúc này nó mang nhiều dấu tích của cổ Hy Lạp. Hitler giữ một sự biết ơn sâu xa vì những thực hiện của ông ta. Mọi kỳ sinh nhật ông cho đặt trên ngôi mộ của ông ta vô số loại hoa.
- Những hiểu biết của ông về việc này thật đáng ngạc nhiên. Ông nhớ lại những kích thước và đồ bản của tất cả kiến trúc quan trọng trên thế giới. Về quan điểm thành phố, Paris và Budapest theo ông hơn hẳn các đô thị khác. Trong thời chiến ông nhiều lần nói với tôi, rằng niềm hạnh phúc nhất của ông là cởi bỏ bộ quán phục và hiến mình cho nghệ thuật.
- Hitler đãlập một chương trình rộng lớn để xây dựng lại những đô thị và dinh thự đổ nát vì chiến tranh, ông khoe rằng đã cho chụp hình màu bên trong và bên ngoài mọi đền đài lịch sử để sau khi hòa bình đến, có thể tái tạo y như cũ. Ông muốn rằng những chứng tích đời sống văn hóa của các thế kỷ trước tái sinh từ sự đồ nát trong toàn vẻ đẹp xứng đáng của nó. Hitler tin là những bức hình màu cho phép các kiến trúc sư thành công trong thực hiện của họ. Nói chuyện với các kiến trúc sư, sự hăng hái của những ý kiến đó trở thành lan rộng. Ồng cầm một mảnh giấy và phát họa vài nét đơn sơ nhưng không thiếu sự 1ớn lao. Tôi thấy những kiến trúc sư, những nhà xây cất có tiếng đều sợ sự hiểu biết và những quan niệm vượt bực của ông. Ngay trong thời chiến, ông cũng tìm được thì giờ để bàn về kiến trúc và nghệ thuật.
- Những chương trình mới cho hậu chiến ở Bá Linh và Ham-bua thật lớn lao. Mỗi lần trong lúc diễn tả, Hitler lập lại : "Tôi sẽ làm Bá Linh thành thành phố đẹp nhất thế giới", ông thẳng người trong một thái độ kiêu căng không chế ngự được... Giọng ông như chuông vàcử chỉ như muốn quét sạch mọi lề lối cũ.
- Trong những thời kỳ khó khăn nhất. Ý tưởng về sự tái thiết Đức quốc làm ông kích động một sức sống không ngờ. Khi ông họp xong trở về mệt mỏi, kiệt sức, đôi mắt thâm quầng, ông sẽ lấy lại sinh lực nhanh chóng bất ngờ nếu có một vài tay chuyên môn đề nghị ông quan sát những đề án và kiểu mẫu mới.
- Tháng ba năm 1945, tôi còn thấy Hitler đứng lặng yên trước mô hình bằng gỗ thành phố Linz như ông dự định thay đổi. Trong những lúc đó, Hitler quên cuộc chiến, ông không còn biết mệt và ông cắt nghĩa cho chúng tôi hàng giờ về những chi tiết đổi thay mà ông đã bằng lòng về thành phố quê hương của ông.
- Âm nhạc, kịch nghệ và phim ảnh ông ít thích hơn. Ông thích Richard Wagner mà ông xem như thiên thần tái sinh của huyền thoại Đức. Ngôn ngữ âm nhạc của vị sư ở Bayreuth dội trong tai ông như một thi phẩm của Thượng đế. Ông đã dự đến một trăm bốn mươi lần ở một vài cuộc trình tấu của ông ta. Chính "Niebelungen" và "Crépuscule des Dieux" đã để lại ở ông những cảm tưởng sâu đậm. Ông giúp tiền của cho Bayreuth và dự tính làm dễ dàng cho dân chúng Đức đến dự hội như một cuộc hành hương quốc gia. "Mặt trận lao động Đức" tổ chức
những cuộc du hành chung cho thợ thuyền và phu. Hitler và thuộc hạ của ông giữ bổn phận phổ biến sâu rộng tác phẩm của Wagner trong mọi tầng lớp dân chúng. Sau Wagner chỉ còn Beethoven và Bruckner là đáng được ông chú ý. Một vài "Lieder" của Brahm và những đoạn của Hugo Wolff và của Richard Strauss cũng chiếm được chỗ trước sự loại bỏ của ông.
- Hitler có một cảm quan về âm nhạc rất phát triển. Khi ông huýt gió một điệu trước Eva Braun và khi bà ta nói là ông huýt sai, ông lấy dáng bộ giảng giải để trả lời : "Không phải tôi nhầm mà nhà soạn nhạc đã làm sai".
- Vào một thời, ông cũng thích các nhạc kịch : "La chauve souris" và "La veuve joyeuse". Tôi nhớ một thời kỳ, tối này qua tối khác, ông nghe hoài các đĩa hát trước ánh lửacủalò sưởi. Ngay cả ở phòng làm việc, ông cũng bỏ mọi công việc để huýt gió những điệu đó, trước cửa sổ, tay thọc túi, mắt hướng về một khung trời vô định. Ông là một người ngôi sao khiêu vũ. Ông thưởng họ những món quà xứng đáng. Trong thời chiến, ông thích thú gửi cho họ những bọc cà phê và thức ăn vàsung sướng nhận được các thư cảm ơn của họ.
- Trong lúc có những hành động thù nghịch, ông từ chối tiếp đón hàng năm những đại nghệ sĩ trong một dạ hội lớn. Ông chỉ thăm hội trường hội "Bạn nghệ sĩ Đức" - nhà đạo diễn von Abrendt. Ông này đến thăm chúng tôi tại Bản doanh luôn và dự vào các buổi trà đàm nổi tiếng. Hitler hỏi ông tin tức về các nghệ sĩ ông biết. Khi Anrendt từ giã, Hitler bắt tay với ông với sự cảm động và lập lại bằng một giọng than vãn : "Thật sung sường ông đã thỉnh thoảng đến thăm tôi trong sự cô tịch. Ông, đối với tôi là gạch nối sống động với thế giới mơ mộng mà tôi không còn tới lui gì được nữa."....
Tôi không thể cho phép mình ngã
(HITLER)
CHƯƠNG IV.
Câu nói này xác định cá tính của Hitler nhiều hơn những trình bày dài dòng. Như những người tưởng được gọi đến để hoàn thành một sứ mệnh lịch sử, Hitler lo lắng đã không có đủ thì giờ để thực hiện công việc của ông. Vì vậy, dưới sự kích động cá nhân ông, tất cả mọi dự định lớn đều được chấp nhận và thi hành với sự vội vã không thích hợp vói tinh thần làm việc có phương pháp của dân Đức. Chương trình tứ niên, sự tái trang bị, sự chỉ huy các mặt trận khác nhau, tất cả những ý tưởng đó, những cuộc hành quân đó đều được thúc đẩy với một sự vội vã, một sự xáo trộn hoàn toàn đến nỗi người ngoài chẳng hiểu gì ráo. Dân Đức thường có thói quen làm việc có suy tính và thứ tự, đã bực bội bởi nhịp điệu nóng sốt và khó chịu đó mà những biến cố và công việc đã đảo ngược dưới sự hướng dẫn không biết mệt của chính Hitler. Biết bao lần, tôi đã nghe lời ta thán này của những người điều khiển nhà máy và những chính trị gia Đức :
"Nước Đức đã thực sự trở thành một nhà điên. Người ta thay đổi, tái tạo với một sự vội vã đến nỗi trật tự phải bị xáo trộn. Ở chúng ta, mọi sự theo chiều trên dưới. Miễn là kết quả không đem lại tai biến."
- Hitler buộc thuộc cấp sử dụng tối đa khả năng của họ nên cứng rắn với chính ông và mài miệt với công việc đến kiệt sức. Đó là lý do tại sao vấn đề sức khỏe của ông vàcông việc lạlùng củacác y sĩ riêng của ông quan trọng như vậy. Người tacó thể tự hỏi tại sao lý tưởng điên cuồng của người này, tại sao những hành động thiếu kiểm soát và biểu lộ dưới ảnh hưởng của sự kích động phi lý của ông, được xem như kết quả của trạng thái sức khỏe yếu kém của ông, thêm vào không khí nóng nảy của căn phòng trong đó ông buộc phải thích ứng, hay tại sao, trái lại, bản chất suy vì đã cần không khí nhân tạo này để nay nở những ý tưởng và những nhận thức điên cuồng.
- Có một điều là vào cuối cuộc đời của ông, Hitler chỉ còn là nỗi khổ của thể xác và tâm hồn. Sự suy sụp của sức khỏe và sự yếu kém về trí óc xảy ra cùng lúc với nhau.
- Trong những năm đầu nắm giữ uy quyền, ông không còn cần những nhà chuyên môn lo cho những bệnh nội thương của ông. Người độc nhất chịu trách nhiệm về sức khỏe của ông là Bác sĩ Karl Brandt mà Hitler xem như một người bạn. Trong nhiều năm Brandt mời thêm hai y sĩ giải phẫu cỡ lớn, Bác sĩ von Hasselbach và giáo sư Verner Haase để cùng chia xẻ trọng trách săn sóc sức khoẻ ông. Từ lâu Hitler bị đau bao tử và ruột. Nhưng dần dần, bệnh của ông tăng lên đến nỗi ông phải chịu một chế độ ăn uống thực gắt gao. Đã phải ăn rau cỏ từ 1931, biện pháp này lại còn thu hẹp số các thức ăn mà người đầu bếp bị buộc phải nấu nướng cho ông.
- Theo lời khuyên của nhà nhiếp ảnh Hoffman. Bác sĩ Morell đến trình diện ông. Ngay lần khám bệnh đầu tiên, ông này chẩn đoán ra bệnh ở màng trong của ruột. Morell tái lập lại đám vi khuẩn trong ruột của Hitler. Trong một năm rưỡi, Hitler dùng đều đặn một loại thuốc của Morell gọi là "Mutoflore". Tôi không biết chất này có đem lại sự lành bệnh ruột không, nhưng có điều là bệnh phong lở ở chân mà Hitler luôn luôn đau đớn đã lành rất mau chóng. Kết quả bất ngờ này đã khiến Hitler tin tưởng bác sĩ Morell rất nhiều. Luôn luôn vội vã thực hiện công việc tối đa trong ngày những triệu chứng của một bệnh cúm thường đã gây cho ông một sự lo lắng chán nản. Ông sợ phải nằm trên giường. Điều này cắt nghĩa sự thành công lớn lao phương pháp của Morell luôn ngăn chặn căn bệnh từ trứng nước bằng những mũi thuốc đặc biệt.
- Guồng máy bí mật thắt chặt chung quanh bệnh nhân và những chống chọi phát sinh từ những người có trách nhiệm săn sóc ông không đem lại một ngày vui nào cho đám thân cận mà Hitler đã chọn lựa. Các giáo sư và các cụ hàn đã tỏ bày sự khinh bỉ ngầm bác sĩ Morell, người với cá tính hay lo lắng không có chút gì xã giao, ông ta luôn luôn là cái mốc của sự chỉ trích cay chua về giác quan quá nhậy trong công việc, về sự lo lắng không ngừng sợ bị quên trong những lần phân phối huy chương, về những đáng dấp đông phương, thiếu sự cao lớn, về nghi ngờ sự
sạch sẽ trong các dụng cụ của ông và nhất là các loại thuốc bí ẩn và thường được coi như độc dược mà ông cho quốc trưởng uống.
- Tuy vậy, Hitler không để bị ảnh hưởng bởi sự chống đối đó : "Những kẻ ngu xuẩn (ông ám chỉ Brandt, von Hasselbach v.v.,. không đủ khả năng làm tôi hết đau hay kiếm cho tôi những thứ thuốc làm lành bệnh. Họ đúng khi cho Morell là lang băm nhưng Morell chữa tôi lành bệnh. Bệnh phong ngứa của tôi đã biến mất và tôi có thể ăn lại như thường. Họ quên rằng tôi không có thì giờ để chữa bệnh cúm trên giường, Từ 1920, tôi không có một ngày nghỉ thật sự. Tôi theo sát tất cả, tôi biết tất cả những gì xảy ra. Khi tôi nghỉ ngơi ở vùng núi non thân yêu, công việc vẫn tiến hành ở Bá Linh theo sự điều khiển của tôi, như tôi vẫn hiện diện. Tôi không có thì giờ để bệnh. Đó là tất cả những gì mà các ông đó phải hiểu rõ".
- Nhưng công việc không ngơi nghỉ và những lo lắng do đối phương tạo ra trong chiến tranh đã đào sâu sức khoẻ của Hitler. Từ mùa đông 1941-1942 Morell săn sóc ông ngày đêm. Cứ ba ngày lại chích gân máu hay chích thịt một lần. Cuối cùng những mũi chích bí ẩn xảy ra mỗi ngày. Morell cắt nghĩa cho tôi rằng chất xê rum đó gồm có : nước nho, sinh tố A,B,C,E và các kích thích tố. Trong những năm sau cùng khi Hitler sống trong cơn cuồng nộ dữ dội, những cơn đau của ông kéo theo những cơn co thắt dạ dày. Trong những lúc đó Morell được triệu tới để áp dụng những phương thuốc mà ông giữ bí mật, nhưng có tài làm cho bệnh nhân dịu cơn đau. Thang thuốc đó được Hitler xem như một sự tuyệt đối huyền bí. Sự yếu ớt của Hitler tăng lên rất mau từ đầu năm 1944. Chân phải và tay trái của ông bị một cơn run thường trực. Phải tin rằng chân đó hơi bị liệt vì ông phải kéo lê nó chút ít. Người bồi phòng của ông phải vội vã lót một tấm nệm đặc biệt mỗi khi Hitler muốn nằm nghỉ. Tôi đoán được lúc đó, trong cái nhìn của Hitler, một ý muốn ngăn cấm người bồi phòng làm như vậy, nhưng sự dễ chịu làm ông chịu diệt tính kiêu căng hơn làchịu đau đớn.
- Sau cuộc mưu sát 20-7-1944 Bác sĩ Gising, người săn sóc tai cho Hittler một hôm khám phá trên bàn một gói Antigas. Ông hỏi Hitler đã dùng bao nhiêu gói ? Hitler trả lời : "Đến 17 gói mỗi ngày !" Bác sĩ Gising sợ hãi với ý nghĩ rằng Bác sĩ Morell đã để Hitler dùng một lượng lớn như vậy. Các y sĩ điều trị được báo động
và sau một cuộc họp hội đồng quân sự họ quyết định chính thức báo cho Hitler về ảnh hưởng tai hại của những gói đó đối với cơ thể. Họ cho rằng sự run tay và chân cũng như sự suy nhược càng ngày càng tăng của thị giác đã do thứ thuốc đó gây ra. Trong lúc đó Reichsleiter Bormann đã cho phân tích gói đó và đã nhận được một y chứng xác nhận nó hoàn toàn vô hại, và một người có thể dùng một lượng như vậy. Bormann không có ý xấu gì thuyết phục Hitler tin Morell và sự ngẫu trùng này đưa đến việc Bác sĩ Branđt và von Hassebach bị nghỉ việc tức khắc.
- Tuy nhiên không nên suy ra rằng Hitler hoàn toàn tin tưởng Morell. Trái lại là khác. Sự bất tín nhiệm càng ngày càng tăng thêm. Mỗi thứ thuốc Morell đề nghị đều được Hitler kiểm soát lại. Ông đọc kỹ cách dùng và phân tích chất thuốc. Nếu chẳng may công thức của thuốc hơi đổi một tí Hitler đòi hỏi giải thích ngay, cho đến những tiểu tiết nhỏ nhặt nhất, ông cũng muốn biết tại sao lại thay đổi. Ở đấy ông cũng sử dụng trí nhớ. Ông dễ dàng nhớ rõ tất cả những gì mà thuốc men mang lại. Ông thường giữ Morell trong các cuộc bàn luận dài dòng vì công hiệu chữa bệnh của các thang thuốc đưa ra. Ông thử một cách máy móc để bảo đảm tránh những lỗi lầm của Morell. Vì trí nhớ Morell đã suy ông này khó chịu được những tra hỏi gián tiếp đó và khó trả lời đúng đắn những câu hỏi tỉ mỉ đặt ra cho ông. Mỗi khi ông lầm lẫn trong một chi tiết Hitler la mắng và lòng khinh bỉ lại tăng lên.
- Hitler đau khổ kinh khủng với sự ám ảnh liên tục mà trong đó ông phải sống. Ông thú nhận với tôi là ông đã cố gắng một cách vô vọng để thoát khỏi nó. Thực vậy, khó mà tìm thấy trong lịch sử một thí dụ khác về vị nguyên thủ quốc gia sống trong một trạng thái tâm lý khinh bỉ và lo sợ như vậy. Sự lo lắng gần như điên cuồng này không phải tạo ra để cho Hitler sự trong sáng của trí óc và sự phán đoán, điều cho phép ông tránh những lầm lẫn tai hại gặp phải với một sự ương ngạnh mù quáng trong những năm cuối cùng củatriều đại ông.
- Sự lo sợ trở thành nạn nhân của một bệnh truyền nhiễm còn lớn hơn nỗi ám ảnh về một cuộc mưu sát có thể xảy ra. Khi một trong các cộng sự viên của ông bị cúm, ông cấm ngặt họ không được lại gần ông. Hitler tạo những biện pháp đó bằng cách nhắc lại luôn luôn câu nói này : "Tôi không có quyền và không có thì giờ
để bệnh." Khi đủ sự giáo huấn nghiêm khắc, vài người bị bệnh đến gần ông, ông vội dùng những biện pháp phòng ngừa chống lại một sự lây bệnh có thể có. Trong trường hợp đó, ông gần như đi đến việc chế trong trà vài giọt rượu cồn. Các bác sĩ của ông thường kể cho tôi nghe ông ta đã bị một bệnh khó chữa như thế nào. Sự việc cần phải biết mọi thứ và hiểu mọi thứ của ông buộc phải cắt nghĩa hàng giờ mỗi khi cần phải có một giải phẫu nho nhỏ. Mỗi lần như vậy ông tra cứu một cuốn tự điền dày cộm. Khi ông nghi ngờ về công dụng chữa trị của một loại thuốc, ông từ chối dùng nó một cách mạnh mẽ. Những sự giải thích khoa học và tình cảm không có tác dụng gì. Cuộc bàn cãi luôn luôn chấm dứt bằng sự bột phát cơn thịnh nộ của Hitler, nhưng, tuy vậy, không có sự giận dữ điên cuồng như ông đối với các tướng lãnh.
- Hitler thực sự khó chịu khi phải cởi bỏ áo quần trước người lạ nào. Cho đến tháng 10 năm 1944 ông đãtừ chối dưới những chiêu bài khác nhau, lời khuyên của bác sĩ Morell là ông phải chụp hình quang tuyến. Thời đó, khi y sĩ nhắc lại với ông là ông đã hứa sẽ để chụp hình quang tuyến, Hitler mất bình tĩnh và giọng đanh thép của ông vang dội đến phòng kế bên nơi tôi đang có mặt. Hitler không hề thay đổi hiểu biết trong những cơn giận dữ trước mặt các bác sĩ: "Cái gì cho phép ông ra lệnh cho tôi". Chính tôi điều khiển ở đây, không ai khác. Mọi người có vẻ quên điều đó một cách dễ dàng từ lâu nay. Nếu các ông đẩy sự liều lĩnh đến cùng tôi sẽ trả các ông lại tức khắc. Tôi đủ lớn để biết phải làm gì để giữ gìn sức khoẻ ! Một hôm Morell dám hỏi ông lý do chính đáng khiến ông từ chối sự điều trị này nọ, Hitler lạnh lùng trả lời ông : "Chỉ tại tôi không thích thế thôi". Morell vói sự hăng hái không biết mệt, tiếp tục đề nghị với ông các thuốc khác. Một hôm thất vọng bởi sự từ chối của Hitler, Morell la lên : "Nhưng thưa quốc trưởng, không phải tôi có trách nhiệm săn sóc sức khoẻ ngài hay sao ? Nếu một lúc nào đó có chuyện gì cho ngài thì sao ?" Hitler nhìn suốt ông bằng con mẳt bí ẩn trong đó sáng lên ánh lửa dữ dằn. Nhấn mạnh từng tiếng, tách rời từng vần trong một sự thích thú ác độc, ông nói câu này : "Morell, nếu có gì xảy ra cho tôi thì đời ông cũng không ra gì". Và với một cử chỉ nóng nảy, ông nắm tay như nghiền nát một nắm không khí.
- Thật đáng ngạc nhiên tình trạng sức khoẻ của Hitler và sự liên hệ giữa ông và các y sĩ đã có những vang dội kinh khủng nhất đến những kẻ quanh ông. Tôi không thể kể những ví dụ đúng, song chắc chắn rằng hơn một lần quyết định hơn một lần diện kiến với một nhà ngoại giao ngoại quốc đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng của Hitler.
- Vấn đề sức khoẻ của Quốc trưởng trở nên một vấn đề quốc gia thực sự. Tôi biết rằng Himmler, người điều khiển trong bóng tối những biến cố của đệ tam Reich cũng muốn canh chừng về vấn đề này. Hẳn nhiên Morell luôn luôn bày tỏ những cách thức huyền bí về phần ông, khi giáo sư Brandt và Bác sĩ von Hassclbach mất lòng tin ở Hitler, một bác sĩ trẻ SS, bác sĩ Sturmfeger, thế vào. Nhờ ông ta không còn gì thoát khỏi Xếp của đoàn quân áo đen. Mắt của Himmler có khắp nơi trong điệp vụ kiểm soát những hành động của Morell. Ông này nhận thấy điều đó và sống, từ lúc đó, trong một sự sợ hãi thường trực. Khi vào đầu năm 1944, Himmler mời ông một cách bất ngờ vào Bản doanh, Morell trước khi đi, đã nói với tôi nỗi lo lắng sợ hãi của ông. Nhưng ông quá ngạc nhiên khi nói rằng Himmler không hỏi tí gì về sự để ý của ông trên những tự liệu pháp đặc biệt. Rất tử tế, ông xin Morell giúp ông bằng cách khuyên nhủ bệnh nhân để ông ta chấp nhận người tẩm quất riêng của ông, người đã rất điêu luyện trong nghề. Morell từ chối lời yêu cầu này vì ông biết trước rằng Hitler không bao giờ để cho một kẻ mới tới tẩm quất ông. Đó không hẳn do bản tính khinh bỉ của ông mà còn một lý do khác là ông e ngại trần truồng trước kẻ khác. Chỉ trong những tháng sau cùng, Hitler mới nhờ đến tay đấm bóp này. Mưu chước của Himmler cuối cùng đãthành công theo dự định.
- Morell hoàn toàn để ý rằng ông ta không còn là một con tốt trong trò chơi tàn ác của Himmler nữa. Nỗi lo sợ chết chóc của ông đã cân bằng giữa tính tình càng ngày càng khó chịu của bệnh nhân ông săn sóc và canh chừng nghiêm nhặt của vị chỉ huy cảnh sát của Đệ tam Seich.
- Hitler bị ám ảnh bởi ý nghĩ đã đến tuổi già. Trong câu chuyện ông luôn luôn trở lại vấn đề này. Ông tin rằng khoa học một ngày nào đó sẽ đẩy lui giới hạn số mạng của cuộc sống nhân loại. Nhiều cuộc thí nghiệm đã cho những kết quả đáng
được khuyến khích. Morell đã làm cho Hitler tin rằng loài voi đã sống rất lâu nhờ đã ăn một loại cỏ mọc bên Ấn độ. Tôi tin rằng Hitler sẽ gửi một đoàn quân đi Ấn độ để nghiên cứu nếu điều kiện cho phép.
- Nhờ thức ăn hoàn toàn rau cỏ và nhờ ông từ bỏ thuốc lá và rượu Hitler đã sống thêm được vài năm trong tuổi già để hoàn thành công việc trong sứ mạng hạ giới của ông.
- Trái lại, ông không chú ý tí gì đến cuộc sống giả tạo và trái thiên nhiên mà ông phải đưa đến, không tránh được, một sự sút kém thể chất rất sớm. Khía cạnh bất thường này của cuộc sống ông, công việc gắng sức về đêm chỉ cho ông ngủ những giấc ngắn nhờ thuốc ngủ, càng ngày càng tăng lượng đã khiến ông trở thành người già yếu vào tuổi mà người bình thường đang ở vào lức khỏe mạnh nhất của họ.
- Tôi phải thêm rằng Hitler không chơi một môn thể thao nào. Ngựa làm ông sợ. Ông không ưa tuyết và nắng làm ông nhức đầu. Ông cũng rất sợ nước. Không bao giờ ông chấp nhận một cuộc đi chơi bằng ca nô. Tôi không tin là ông biết bơi. Có hôm nói với tôi : "Những cử động mà con người dùng để hoàn thành công việc hàng ngày của họ đã đủ cho họ giữ một thân thể cường tráng" Nhưng điều đó không ngăn ông có một sự thán phục lớn lao các lực sĩ điền kinh Đức,
- Hitler vô hình chung đã làm cho sức khỏe ông tàn tạ. Sự sụp đổ bắt đầu được nhận ra từ năm 1942. Các cơn run tay càng ngày càng nhiều. Những cơn sợ hãi theo sau các sự suy sụp thần kinh và những cơn co thắt dạ dày khiến ông vùng vẫy trong đau đớn. Trong các cơn đau đó, Morell luôn luôn hiện diện với ống chích trong tay để làm dịu sự đau đớn. Cuối năm 1944, ông bị vàng da, sau một sự giải thích dữ dội với Goering. Lại một lần nữa, Morell và ống chích của ông tác động để làm dịu ông, và tái tạo sinh lực cho manh vải được nuôi dưỡng bằng thuốc men này....
Không bao giờ tôi ôm một người đàn bà hút thuốc.
(HITLER)
CHƯƠNG V.
Hitler sống rất nghiêm khắc, ông chỉ ăn những món rau đậu, và không uống cà phê, trà đen hay rượu. Ông tin rằng thịt rất độc một cách chắc chắn, cả thuốc lá và rượu cũng vậy, đến nỗi trong các cuộc nói chuyện, ông luôn luôn nhắc lại về vấn đề này và tìm cách làm chúng tôi cùng chia sẻ sự ghét bỏ này của ông. Thói quen ăn thịt, ông nói, đưa đến sự cần uống rượu. uống rượu mời mọc hút thuốc và như thế cái xấu này kéo theo cái xấu kia và xô đẩy dân chúng vào trong một tinh cảnh đáng sợ. Chất ni-cô-tin, theo ông cũng đáng ngại như rượu, ông xem nó như loại độc dược tai hại mà ảnh hưởng chết chóc chỉ xảy ra hàng năm sau. Sự hút thuốc làm trí óc bị cùn lụt và mạch máu bị teo lại. Sự suy kém toàn diện thể chất là điều thông thường ở những tay ghiền thuốc lá. Một hôm ông nói đùa : "Thật ra, một cách hay để làm bối rối đổi phương là mời họ hút thuốc".
Khi có ai nói trái lại về điều đó, Hitler giận tím người. Kẻ khốn nạn đó mất ngay sự qui trọng trong tia nhìn của ông. Biết bao lần ông đã từng nói tôi với giọng nghiêm trang : "Nếu một hôm nào tôi thấy Eva hút thuốc lén, tôi sẽ chấm dứt ngay sự liên hệ vời nàng".
Hitler vuốt ve ý nghĩ ban hành luật cấm hút thuốc thời hậu chiến. Ông tin rằng ông sẽ mang lại sự giúp ích lớn lao cho dân tộc ông.
Ý niệm tiền bạc và tài sản tạo ở ông những quan niệm mơ hồ trong đó ông không có chút thực tế nào. Sự sang trọng ông cần chỉ là một phòng lớn trang hoàng cẩn thận với Gobelins, vói những bức tranh xưa, với những vật lạ đáng giá và hoatươi.
Chính ông thì sao cũng được, một người luộm thuộm. Tủ áo của ông không nhiều và thiếu sự chăm sóc, ông không theo thời trang, ông chỉ đòi hỏi các đôi giầy không quá bó chân và những bộ đồ lớn không làm ông khó chịu là được. Vì
có thói quen trong lúc nói hay dùng những cử chỉ mạnh và rộng rãi để nhấn mạnh câu nói, các tay áo vét của ông được cắt rất rộng. Ông ngán những lúc thử áo quần ở thợ may. Để có thể tránh đến đó càng nhiều càng hay ông thường đặt may 3 hay 4 bộ cùng một lúc, chúng được cắt cùng một kiểu và cùng một thứ hàng Ông không hề tìm kiểu cà vạt. Khi để ý thấy cái nào thích ông mua ngay một lúc nửatá, cùng một hình vẽ.
Trong thời chiến, ông may với bộ đồng phục một cà vạt làm sẵn mà ông chỉ móc vào bằng một cử chỉ máy móc, như vậy ông khỏi mất thì giờ để thắt nút. Vào đầu lúc ông cầm quyền, người ta thấy ông luôn luôn khoác mình trong một áo choàng màu xám đội một chiếc nón bằng nỉ đen. Trong những năm cuối cùng khi xuất hiện ở Obersalzberg, ông mặc một áo kép không hình dáng màu xám bẩn và đội một nón kết xám có một vành đen lớn quả khổ, vành này che gần hết phần trên khuôn mặt ông và tạo thành một đề tài bất ngờ cho các vị khách, Nhưng ông xem thường tất cả những phê bình có tính cách thân mật dành cho ông, lấy cớ rằng vành này bảo đảm mắt ông khỏi nhìn thấy mặt trời, điều làm ông khó chịu. Mỗi khi những kẻ thân cận hay khách đến gần ông và khuyên ông ăn mặc chải chuốt một tí, Hitler cằn nhằn và bày tỏ ra ngoài sự không bằng lòng của ông. Chỉ có những áo quần trong đó ông được tự nhiên là ông thích, ông ghét mặc những lễ phục để dự những buổi lễ chính thức. Ông không thể hiểu tại sao ông phải thun vai rút cổ trong tấm mu rùa cứng ngắt này để tiếp những nhà ngoại giao ngoại quốc. Bộ xì-mô-king cũng không được thích trước tính thực tiễn của ông. Năn nỉ mãi, ông đặt may một bộ xì- mô-king với hai hàng nút và được một số đông những kẻ thuộc hạ bắt chước ngay.
Ông không bao giờ mang trang sức hay đồng hồ tay. Suốt đời ông chỉ mang một đồng hồ trái quýt bằng vàng đặt trong túi áo vét-ton, không có giây treo. Chiếc đồng hồ này hầu như không bao giờ chạy vì ông thường quên lên giây, đến nỗi ông thường hỏi giờ các nhân viên hay khách khứa. Ông hay tự khôi hài rằng : "Một lần nữa máy tiết chế của tôi lại ngưng chạy".
Thực sự thì chiếc đồng hồ dưới mắt ông không có cùng một công hiệu như đối với mọi người. Chính người bồi phòng đã thay thế nó. Chính ông ta thức ông
dậy mỗi buổi sáng và nhắc ông các cuộc tiếp kiến chính trong ngày. Hitler luôn luôn ngủ sau một cánh cửa đồng và khóa cẩn thận. Người bồi phòng đập cửa vào giờ đã định trước (thường lối 11 giờ sáng kêu lên : "Kính chào ngài Hitler, đã đến giờ ngài thức giấc". Cùng lúc đó, ông ta đặt các tờ báo và những bản tường trình buổi sáng trước cửa. Hitler nhặt lấy đọc lướt qua. Không bao giờ người bồi phòng thấy ông thay quần áo hay ăn mặc lôi thôi. Vào buổi trưa, Hitler gọi chuông để điểm tâm gồm có, vào những năm đầu, một ly sữa, một ít bánh mì đặc biệt. Ít lâu sau, ông chỉ ăn một quả bom (theo đúng nguyên bản, không hiểu là ăn quả gì nữa - ND nghiền sẵn và cuối cùng chỉ còn một loại mứt táo làm theo công thức của một y sĩ Thụy sĩ. Nó gồm sữa, bột lúa mạch, khoai nghiền, hạt dẻ, chanh và một ít chất khác. Trong khi ăn điểm tâm người sĩ quan tùy viên mang đến cho ông những tin tức khẩn cấp vàtrình báo cho ông những biến cố trong đêm. Sau đó ông lập chương trình làm việc trong ngày. Khi đi nghỉ tại Berghof, ông có thói quen hội họp các công sự viên trong phòng lớn để phúc trình buổi sáng. Ông chứng tỏ như một cần thiết thể chất được ở trong căn phòng rộng lớn này. Ông đi tới, đi lui trong lúc bàn luận với mọi người. Thỉnh thoảng tia nhìn của ông dừng lại trên đỉnh đầy tuyết của dãy núi Alpes đóng khung trong một cửa sổ vĩ đại có kích thước của cửa kính của một gian hàng tạp hóa.
Trong các buổi họp đó, Hitler thường quên luôn buổi ăn sáng, khách khứa lúc đó kiên nhẫn chờ trên sân thượng hay trong phòng, khi ông đến, ông chào Eva Braun trước hết, rồi mỗi người khách, đồng thời xin lỗi về sự chậm trễ. Trong những năm đầu, ông chỉ hôn tay những đàn bà có chồng nhưng về sau, ông thường làm như thế cả với các cô gái. Tiếp theo, Hitler chào các ông khách và chuyện vãn rất nhiều với họ cho đến lúc người quản gia thông báo : "Thưa ngài Fuhrer, thức ăn đã dọn sẵn. Mời ngài đưa bà hay cô gái nào vào bàn."
Lúc đó Hitler tìm chọn người đàn bà ngồi cạnh, đưatay cho nàng, và đưa nàng đến phòng ăn. Eva Braun theo ông trong tay người bạn ông và theo sau là các cặp khác.
Ở bàn ăn, Hitler luôn ngồi chỗ ở giữa, đối diện cửa sổ. Bên trái ông luôn luôn
là Eva Braun. Buổi ăn dài ngắn tùy theo công việc buổi chiều. Không khí bữa ăn không giống nhau, mà tùy theo biến cố trong ngày, khi lên cao, khi xuống thấp. Tính tình Hitler phản ảnh trong mọi cử chỉ và hành động của ông. Điều ngạc nhiên là những buổi ăn có hôm chìm ngập trong một sự thờ ơ lạnh giá để hôm sau lại ồn ào, nhộn nhịp. Tất cả đều tùy thuộc tình cảm lúc đó của ông chủ tiệc.
Rất đơn giản, Hitler thích nhất các đĩa món một và ít chú ý đến món đậu quyên. Rồi đậu Hòa lan và đậu lăng-ti. Không có gì khác nhau giữa thức ăn của ông vàcủa khách, tuy nhiên sự khác biệt là không bao giờ có thịt và mỡ trong thức ăn của ông. Ông từ chối dùng cả nước thịt nghiền, ông thực sự ghét thịt. Ông tin rằng thức ăn của ông xa hẳn thức ăn của người có cuộc sống bình thường. Khi chúng tôi bàn cãi về điều đó, ông thí dụ với chúng tôi về ngựa và voi, là những thú có một sức mạnh phi thường, trong khi chó ăn thịt thì nó lại chổng mệt khi phải gắng sức. Để đưa các khách ăn ra ngoài việc dùng thịt, ông thích diễn thuyết ở bàn ăn rằng thịt gồm các chất chết và sình thối. Khi một bà ném cho ông một cái nhìn van xin để ông thôi những diễn tả siêu thực, thì điều đó chỉ mời ông đi quá hơn mà thôi. Vì cuộc nói chuyện về nguồn gốc thịt làm ăn mất ngon, ông thấy được một khẳng định cho những nguyên tắc của ông. Thường khi trước khách ngoại quốc, ông không bao giờ nói những điều bậy bạ quá khích như vậy.
Trái lại khi ông khoe khoang thực đơn rau cỏ của ông, ông phóng minh trong sự mô tả khoái chí về những chất mà các yếu tố tạo thành. Ông mô tả người nông phu gieo hạt giống trên ruộng với một cử chỉ rộng rãi và oai nghi. Rồi lúa bén rễ, lớn lên và trở thành một biển xanh, vàng dần dưới ánh nắng. Bức tranh đồng quê này, dưới mắt ông, biện hộ cho sự trở về đất đai và các thức thiên nhiên đất mang lại cho thực phẩm nhân loại. Nhưng những trích dẫn thi vị đó thường kết thúc điều hợp với ông : sự chán ghét ăn thịt phải được mọi người hưởng ứng. Ông có cách mô tả công việc khát máu ở các nhà chủng sinh hạ súc vật, cắt thành từng phần, làm thực khách nôn mửa, làm nỗi giận kẻ ngon miệng nhất. Rồi để tiếp nối, ông kết thúc bằng cách tuyên bố rằng ông không hề có ý ép ai ăn theo cách của ông, cho rằng điều đó có thể đưa đến kết quả là không ai nhận lời mời đến ăn với ông nữa.
Sau bữa ăn, Hitler thường hội họp các khách khứa để nói chuyện. Rồi nhóm người làm một cuộc tản bộ đến căn nhà nhỏ mùa hè, cách Berghof nửa giờ đi bộ. Hitler dẫn đầu với người khách danh dự. Các người khác theo sau, cách một khoảng đủ để câu chuyện của hai người không bị nghe thấy, cả nhóm lên trên sân nhỏ củacăn nhà và ngắm cảnh hùng vĩ của núi Alpes. Rồi họ dùng trà.
Khi câu chuyện trở nên buồn nản, Hitler cố gắng kích động bẳng cách khai triển các định lý mù mờ về các giống người hay gợi lại nỗi sung sướng trong thời gian tranh quyền của ông. Nhưng thường bỗng nhỉên ông mệt mỏi bất ngờ sau khi ăn một miếng chocolat "ti-dơn" và một ít táo nghiền. Người ta thấy ông bỗng nhiên khô héo trong chiếc ghế bành và đặt tay trước mắt. Ông chỉ thiếp đi một lúc thôi.
Lúc đó, Eva Braun bắt đầu nói chuyện huyên thuyên, vì nàng biết theo kinh nghiệm rằng sự im lặng nghiêm trang sẽ làm xáo trộn giấc ngủ của Xếp. Khi đến lúc đi, nàng bí mật làm thức giấc Hitler. Cuộc trở về Berghof luôn luôn đi bằng xe.
Hitler ít khi đến nhà "Teehaug" nổi danh ở cao độ 2000m trên đỉnh một ngọn núi đá dựng, nhìn xuống Berchtesgaden. Ý tưởng và sự thực hiện "Ổ phượng hoàng" này là tác phẩm của Bormann. Sự kiến tạo con đường và đào đường hầm đưa đến kiến trúc lạ lùng này tốn một số tiền điên rồ. Một đạo binh thợ thuyền được trưng dụng. Hitler rất hãnh diện về "Ổ phượng hoàng" của ông, nhưng khi lên bằng thang máy làm tim ông đập nhanh. Ông chỉ đến đó vào dịp đón các nguyên thủ quốc gia mà khung cảnh thần tiên của những bờ đá dựng, vươn lên tới mây làm họ chóa mắt.
Tôi đã nói rằng Hitler là một người làm việc về đêm. Khi chiều xuống, con người ông có một cá tính cởi mở và sống động. Như vậy các buổi ăn ở Benghof cũng có một khung cảnh khác hẳn các buổi ăn sáng.
Hitler thích các bàtrang sức bằng hoathật, ông thường nhặt các hoatươi trang hoàng trên bàn tiệc và ném các bàthực khách với một cử chỉ quyến rũ. Những bà được ông bày tỏ lòng cảm mến như vậy bèn gắn hoa trên tóc hay trên ngực họ và Hitler thường ca tụng họ những câu thật duyên dáng. Khi một bà đến bàn tiệc, có gắn trên người một đóa hoa có màu ông không thích, ông tức
thời chọn một hoa khác trong bình và đưa tặng bà ta, nói rằng chúng sẽ nổi hơn với màu datrắng hay màu áo của họ. Ông ít khi nói đến thời trang. Tuy nhiên ông biết, với thị hiếu sẵn có, phân tách toàn thể và khen ngợi người mặc đúng thời trang. Trái lại ông bày tỏ một cách trắng trợn sự khó chịu của ông đối với vài loại hàng mới, chẳng hạn giầy đế bằng điên điền.
Nhưng tôi cho rằng mọi sự đều có tính toán. Tôi thường nghe Hitler bày tỏ sự thán phục Eva Braun về chiếc áo "mới" của bà và bà ta trả lời ông một cách vui vẻ là bà đã mặc nó hơn một lần.
Sau bữa ăn tối thực khách hội họp trong một phòng khách nhỏ. Phòng này đặc biệt dành cho các bà vì nó được sưởi bằng một lò rộng lát gạch hoa. Tôi phải giải thích rằng Hitler, ghétánh nắng đãtậu nhà ở Berghof vì nó ở trên sườn phía bắc của Obersalsberg. Căn nhà vì thế suốt ngày ở trong bóng núi, và các tường dày chận ánh nắng ban ngày dội vào. Ở đó mùa hè thật mát mẻ và mùa mưa thì khí hậu như vùng hàn đới. Hitler thích sự lạnh lẽo này, nhưng khách thì thấy khó chịu và khi có thể là vội đi đến chiếc ghế dài bên cạnh lò sưởi, bằng đất tráng men.
Trong một góc phòng có một bộ sưu tập về từ điển. Trong lúc nói chuyện, nếu ý kiến của khách khác nhau về những chi tiết như bề rộng của một con sông hay dân cư một thành phố v...v... Người ta nhờ chúng để giải quyết vấn đề. Hitler, với sự rõ ràng tỉ mỉ đối với việc tra cứu hai bản khác nhau để chắc ăn hơn. Chính ở trong căn phòng này ông thường tiếp đón riêng một hai người khách. Khi chấm dứt ông yêu cầu mọi người theo ông ra phòng lớn để ngồi trước lò sưởi quí giá. Đối với những bà hay bị lạnh như tôi, lò sưởi không phải luôn luôn được đốt lên, vàchỉ Hitler làcó quyền quyết định đốt hay không màthôi.
Ở đó, Eva Braun ở bên phải Quốc trưởng, ông ta chỉ định người được dành cho vinh dự ngồi bên trái. Hitler hầu như luôn luôn nói. Khi trong ngày ông tiếp đón một nhà ngoại giao ngoại quốc, ông cho chúng tôi hay cảm tưởng của ông và tiếp theo là những giải thích dài dòng về xứ đó. Nhưng trong lúc nói ông quan sát tất cả vì ông tacó bệnh tò mò.
Khi một nhóm khách thì thầm ở một góc hay một vài người bỗng cười vô cớ
ông muốn biết lý do tức khắc. Trong thời kỳ trước chiến tranh chúng tôi thường dùng cách này để thông báo cho ông những điều mà khi khác không thể nói cho ông nghe. Hai chiếc đầu ghé lại thì thầm. Khi Hitler muốn được biết có gì xảy ra, người ta trình với ông những tin tức mà một cách chính thức ông không đòi hỏi được nói đến.
Những buổi ngồi trước lò sưởi chấm dứt vào ba giờ sáng, Eva Rraun rút lui trước ông.
Những ngày chúa nhật cũng không mang lại một thay đổi hay ho nào cho chương trình hàng ngày, ông ghét các ngày lễ Phục sinh, Giáng sinh v.v... Từ khi cháu ông, Geli Raubal chết đi, lễ giáng sinh đối với ông là một niềm thương tiếc. Ông chịu đặt một cây thông trong góc phòng nhưng cấm hát các bài thánh ca. Trong những năm sau cùng ông còn cấm cả việc đốt nến lên cây thông. Tôi không biết gì buồn hơn và nản bơn là dự lễ Giáng sinh bên cạnh Hitler.
Năm mới, trái lại, được tổ chức theo truyền thống. Các buổi ăn tốn kém hơn và người ta cho nổ sâm banh đều đều. Vào lúc giao thừa, Hitler chìm môi trong một ly đầy bọt, cụng ly vời các thực khách mừng năm mới. Mỗi lần như vậy ông nhăn mặt như nuốt phải thuốc độc. Ông hoàn toàn không hiểu rằng tại sao các người khác lại thích loại "nước dấm" này. Chỉ một lần tôi thấy ông uống thích thú một ly rượu chát cổ ông nhận mời vào mùa Giáng sinh 1944. Khi người ta muốn rót đầy ly khác, ông kịch liệt phản đối. Sáng hôm sau, ông thử uống thêm một lần nữa, nhưng sự chê bỏ rượu đãthắng ông.
Trong đêm Thánh Sylvestre. Hitler cùng khách lên sân thượng nhà ông để chào dân chúng Berchtesgaden đang bắn trọng pháo mừng ông. Tiếp theo ông chỉ định thực đơn cho mỗi người khách rồi cả nhóm chụp hình chung.
Ngày sinh nhật của ông không mang sắc thái gì đặc biệt. Khi nhân viên trực thuộc dâng tặng lời chúc mừng, ông cụng ly với chúng tôi, mỗi lần lại nhăn mặt khó chịu trước ly sâm banh. Buổi chiều ông tụ họp trẻ còn Obersakberg và cho chúng cacao và bánh ngọt
Thú tiêu khiển độc nhất của ông là tiếp đón chủ tịch hội ảo thuật gia của Munich. Hitler theo dõi những cuộc trình diễn với sự thích thú và không tiếc lời
khen ngợi. Tuy nhiên tôi không hề nghe ông cười lớn tiếng. Khi có một buổi hội vui vẻ và ông ta dự phần trong cuộc vui chung, ông phát ra những âm thanh nhỏ sắc nhọn như tiếng gà mái kêu con. Cũng như trong khi đọc sách, ông thích thú về những rủi ro xảy đến cho những kẻ ác độc. Hitler không biết bày tỏ niềm vui bằng nụ cười chân thực.
Chỉ có hai lần tôi thấy ông bị lôi cuốn : Trước hết, mùa xuân năm 1939, các biến cố gần kề đã đặt thần kinh những kẻ chung quanh Hitler căng thẳng tột độ. Từ 3 giờ, Quốc trường họp với Hacha, Tổng thống Cộng hòa Tiệp. Chúng tôi biết cuộc họp quan trọng, chiến tranh hay hòa bình tùy thuộc ở đó. Trong phòng chúng tôi, cô bạn học lớn tuổi vàlo lắng theo dõi từng giờ.
Bỗng nhiên cửa mở, do hai tay SS bự con đẩy ra, Hitler bước vội đến chúng tôi, nét mặt thay đổi hẳn : "Các con, ông ta la lên, hôn ta mỗi bên má một cái, mau lên." Chúng tôi hôn ông, hoàn toàn ngạc nhiên bởi sự vui nhộn này. "Các con, ta vừa có một tin hay cho các con. Hacha vừa ký xong. Đó là thắng lợi lớn nhất trong đời ta. Ta sẽ đi vào lịch sử như một người Đức vĩ đại nhất."
Lần thứ hai, ở tại Eifel, tháng 6 năm 1940, lúc người ta báo cho Hitler rằng nước Pháp đòi ngưng chiến.
Ông đã bị chấn động bởi một sự bồng bột mạnh mẽ. Ông chủ của một triều đại vĩ đại bước những bước theo nhịp nhảy múa trước sự ngạc nhiên của các tướng lĩnh....
CHƯƠNG VI.
Tại sao Hitler không kết hôn ? Câu hỏi thỉnh thoảng chúng tôi đặt ra cho ông... Các câu trả lời của ông không để lộ tí nào lý do xảy ra khiến ông tự nguyện sẽ ở độc thân. Lời hứa mà ông chỉ phản lại vào đêm trước khi ông tự tử.
Ông gói ghém sự giải thích trong một câu khô khan rằng hôn nhân làm phân tán sức mạnh trí thức của ông. Ông còn thêm rằng một vị nguyên thủ quốc giachỉ có thể hy sinh hoàn toàn cho hạnh phúc của dân tộc với điều kiện là ông ta có một cơ thể được trời phú cho hoàn toàn và theo đuổi với một sức mạnh tuyệt đối mục đích đề ra. Ông kể những ví dụ về các nguyên thủ quốc gia mà những sự lo lắng, nảy sinh từ những buồn rầu gia đình, đã làm quên đi các bó buộc đã hứa với dân chúng. "Những cá tính được trui luyện nhiều nhất, ông nói, cũng đã sụp đổ vì lý do này và người ta thấy nhiều kẻ quyết định tàn bạo để thành công theo con đường họ tự vạch, đã rơi vào sự không quyết đoán và bất động". Ông kết luận bằng cách bày tỏ rằng sự quan trọng trong nhiệm vụ của ông đã ngăn ông đạt tới một hạnh phúc như vậy.
Điều đó được nói với sự nghiêm trọng và với một giọng quyết đoán đến nỗi Hitler đã làm chúng tôi thỏa mãn tính tò mò và thuyết phục được những kẻ đa nghi nhất. Nhưng động lực chính khiển ông không lấy vợ cho đến vài giờ trước khi đi vào hư vô, tạo thành khíacạnh bi đát nhất của đời ông.
Ông yêu Geli Raubal, con gái của chị dâu ông, Angela, vói sự đam mê đến nỗi ông không thể nghĩ đến cưới một người đàn bà nào khác sau cái chết đau khổ của cháu ông. Ông thường thú nhận với tôi nàng là lý tưởng tuyệt đối mà ông thấy ở một người đàn bà và rằng ông sẽ cưới nàng một ngày nào đó nếu những biến cố đau buồn đã không mang nàng đi.
Geli độ 16 hay 17 tuổi khi chú cô gọi cô đến Vienne. Đó là một cô gái trẻ da hung, dáng cao lớn, mắt hạt dẻ và giọng nói thánh thót. Hitler lúc đầu, đối với cô như một đứa trẻ lớn, ông dạy cô học hát và kiểm soát một cách ghen tuông những
giao thiệp củacô với người khác.
Năm 1927, khi nàng bí mật kết hôn với Emil Maurice, tài xế của nàng, Hitler trong cơn thịnh nộ ra lệnh cho người đàn ông dứt ngay dự định kết hợp đó, dọa rằng sẽ cho nghỉ việc tức khắc nếu không kịp thời ngưng ngay mọi sự. Với tính ngang bướng cố hữu, Hitler làm mọi sự để ngăn cách hai người. Không những ông dọa sẽ đuổi Geli về Munich mà còn không chu cấp tiền bạc cho nàng nữa, số tiền mà ông vẫn thường cung cấp cho mẹ nàng và các người thân trong gia đình nàng. Mùa hè năm 1928, ông thắng lợi trong việc đổi chác đó, và ông thành công trong việc ngăn cách vĩnh viễn Geli và tài xế của nàng. Ít lâu sau, cô gái lại quen một họa sĩ ở Linz, vẻ đẹp của cô đã quyến rũ ông ta đến nỗi ông đòi cưới cô ngay. Hitler thông tư ngay cho cảnh sát riêng của ông và dùng lại phương pháp cũ để ép chị ông chống lại sự gắn bó này.
Không có gì nghi ngà nữa về động lực thúc đẩy ông vào những hành động như vậy. Ông đã bày tỏ với cháu ông nhiều hơn một tình bạn đơn giản giữa chú cháu và một sự bảo hộ. Ông luôn mang một tình cảm giận dữ của sự ghen tuông do một tình yêu đam mê mà ông chưa dám bày tỏ.
Tôi đã có dịp thấy bức thư trong đó người thanh niên đau khổ và thất vọng đã dùng những luận cứ cuối cùng để khiến Geli quyết định theo ông. Tôi đã chép nó cho Hitler. Vậy tôi sẽ ghi ra đây các đoạn chính, đặc biệt trong đó.
"Giờ đây, chú của cô hiểu biết ảnh hưởng của ông đối với mẹ cô, khám phá ra sự yếu đuối của bà với một sự bỉ ổi vô bờ. Khốn thay, chúng ta sẽ chỉ trả lời cuộc đổi chác này khi cô đến tuổi trưởng thành. Ông chồng chất những trở ngại trước hạnh phúc chung của chúng ta. Tuy nhiên ông biết rằng chúng ta sinh ra cho nhau. Một năm xa nhau mà mẹ cô đặt ra trước khi đồng sự kết hợp giữa chúng ta chỉ làm cho chúng ta gắn bó nhau nhiều hơn mà thôi. Lòng trung thực của tôi thật khó chấp nhận những cách thức đê tiện như vậy.
Tuy vậy tôi chỉ giải thích thái độ của chú cô bằng những động lực hoàn toàn do lòng ích kỷ đối với cô. Ông ta chỉ muốn một ngày nào đó cô không còn thuộc về ai khác ngoài ông ta."
Trong một đoạn khác, người họasĩ phát biểu :
"Chú cô vẫn tiếp tục nhìn cô như một cô bé thiếu kinh nghiệm và không thể hiểu rằng cô đã trở thành người lớn, có quyền tạo hạnh phúc bằng cách riêng của mình. Chú cô là một tay dữ tợn. Trong đảng ông, mọi người đều chỉ là những tên nô lệ đối với ông. Tôi không hiểu trí thông minh tột độ của ông như thế nào mà lại không để ý rằng những lý thuyết gàn bướng và lạ lùng của ông về vấn đề hôn nhân chỉ có thể bẻ gãy tình yêu và thiện chí của chúng ta mà thôi. Ông mong rằng trong năm nay sẽ thành công trong công việc chiến thắng chúng ta, nhưng ông ta thật đã hiểu rất ít tâm hồn của cô".
Vào thưở đó, Hitler đã quyết định sẽ cưới Geli khi ông thực hiện xong mục đích chính trị của ông. Năm 1930, ỏng thuê một tầng của một ngôi nhà ở số 16 đường Prinz Regenten Platz, Geli cùng đến ở đó. Những năm sống chung với Geli, theo Hitler nói lại, là một thời kỳ đầy hạnh phúc.
Về sau, khi nhắc lại những kỷ niệm đó, nét mặt ông biến đổi. Ông mô tả lại từng chi tiết nhỏ mà hai người đã trải qua về những buổi dạ tiệc vui thú như thế nào. Họ đi mua sắm cùng nhau, đi xem hát với nhau và đưa nhau đi nghe những buổi tấu nhạc. Với một chút cay đắng, ông kể lại những tật xấu của Geli: "Khi nàng theo tôi vào các nhà trưng bày thời trang, nàng bắt họ gỡ tất cả các chiếc nón để trên kệ và bảo mang lại những chiếc khác trưng bày trong tủ kính. Khi các chiếc nón của nhà hàng đã thử qua đầu nàng, nàng nhận thấy không tìm được cái nào vừa ý và nói với cô bán hàng một giọng thối thác rằng tôi không thích. Khi tôi thì thầm vói Geli là nàng không thể rời gian hàng mà không mua gì cả, sau khi suy hơn tính thiệt, nàng ném cho tôi một cái nhìn trấn an và đôi môi mấp máy : "Nhưng cậu Adolphe à, những người này không phải ở đây để làm việc đó sao ?"
Hitler chăm giữ Geli vói một lòng ghen tuông luôn luôn được cảnh giác. Mỗi khi ông đi cổ động ở đâu nàng phải hứa với ông một cách nghiêm trọng rằng sẽ không lợi dụng sự vắng mặt của ông để nối lại những quen biết cũ. Chỉ khi nàng trở về nhà mẹ ông, ông mới thôi để ý đến nàng. Mọi sự tiến hành như vậy đến tháng 9 năm 1931. Vào thuở đó Hitler gặp trong một gian hàng ở Munich Hoffmann một cô bán hàng trẻ tên Eva Braun, người say mê ông như điên và bắt đầu chinh phục ông. Hitler cũng tán tỉnh nàng cho vui, không hậu ý.
Ngày 17 tháng 9 năm 1931, Hitler gọi giây nói cho Geli ở Berchtesgaden, nơi nàng đang nghỉ. Ngày hôm sau, một cảnh dữ dội đã xảy ra giữa họ vì ông bỗng quyết định đi Nuremberg. Geli giận cậu cô vì đã gọi cô tới không lý do, và sợ ông cấm nàng đi Vienne, trong thời gian ông vắng mặt, để giáo sư âm nhạc thử lại giọng hát của cô. Sáng hôm sau họ lạnh lùng rời nhau. Sự giận hờn của Geli trở thành thất vọng khi cùng hôm đó, trong lúc lục túi áo cậu cô, bắt gặp lá thư tỏ tình do chính tay Eva Braun viết. Chiều hôm đó, nàng tự vận với một viên đạn bắn thẳng vào miệng.
Hitler được gọi ngay về từ Nuremberg. Ông chấn động tâm can về cái chết của cháu ông đến nỗi không còn muốn sống nữa. Hess khó khăn lắm mới giằng được khẩu súng trong tay ông. Trong nhiều ngày ông không ăn một tí gì, chỉ đi quanh quẩn trong phòng tự hỏi lý do gì đã đưacháu ông đến hành động tự vẫn đó.
Khi ông ăn uống lại như thường, ông không thể nuốt trôi một miếng thịt nào nữa. Từ ngày đó ông ăn trường trai.
Trong nhiều tháng, Hitler từ chối gặp mặt bạn bè và sống trong kỷ niệm của Geli. Phòng của cô được để yên như lúc chết. Ông chưng hoa trong đó suốt ngày, và trong những năm sau, ông cũng làm như vậy vào ngày sinh nhật của nàng. Cho đến khi chiến tranh bắt đầu, ông luôn luôn giữ chìa khóa phòng đó. Ngay cả căn phòng Geli ở Berghof cũng luôn luôn đóng cửa. Về sau, khi ông cho sửa sang lại căn nhà cho rộng rãi hơn, khu vực có căn phòng cô cháu vẫn được giữ nguyên. Áo quần, trang sức và mọi thứ của nàng đều được ở yên vị trí cũ. Hitler từ chối mẹ Geli khi bà xin vài vật dụng hay thư từ của Geli để làm kỷ niệm. Tất cả thư từ của Geli được ông cậu cất giữ cẩn thận và tháng tư năm 1945 ông ra lệnh cho ông sĩ quan phụ tá Schaub, thiêu hủy nó nếu may mắn không cho Hitler rời khỏi Bá Linh, ông cho vẽ những bức tranh theo hình chụp của Geli đem treo khắp nơi ở Munich, ở Bálinh và ở Berghof.
Sáu tháng sau cái chết đó, các bạn của Quốc trưôrng hội họp để kéo Hitler ra khỏi sự cô đơn của ông về tai nạn này. Một tối Henrich Hoffmann đưa ông đến xem hát và đặt một cách bất ngờ Eva Braun ngồi cạnh ông.
Từ đó giữa Hitler, và Eva Braun lại tán tỉnh nhau trở lại và sự gắn bó thật bền
chắc trong nhiều năm. Một hôm Hitler thú nhận với tôi ông không bao giờ yêu thắm thiết Eva Braun nhưng ông thấy thành thói quen phải gần nàng. Một lần ông nói với tôi "Eva thật khả ái, nhưng trong đời tôi, chỉ Geli là có thể tạo ra một đam mê thật sự. Tôi không bao giờ có ý định cưới Eva. Người đàn bà độc nhất mà tôi có thể gắn bó cuộc đời là Geli!"
Đầu năm 1945 trong một câu chuyện, có người nhắc lại ba người đàn bà mà đối với ông đã có lần toan tự tử là Geli, Eva và miss Mitford, Hitler nói về trường hợp Geli : "Nàng là người đàn bà độc nhất đã giữ được tim tôi và tôi đã có thể cưới nàng. Cái chết của nàng là một nỗi kinh hoàng cho tôi. Nhưng với những biến cố đã qua, tôi bắt đầu tin rằng như vậy còn hơn vì tôi không thể mang lại cho nàng hạnh phúc mà nàng mong muốn."
Một tối trong một tiệm cà phê ở Munich, Hitler nhận ra một cô gái có nét giống Geli kinh khủng, ông gọi nàng đến để làm quen. Trong nhiều năm, ông đưa cô ta đi xem hát mặc dù cũng sợ rằng cô ta được sắp đặt để đưa ông vào bẫy. Trong lúc đó, cô nàng lại có một cuộc sống rất phung phí, khi Hitler biết điều đó ông ngưng gặp cô ta và ngừng trợ cấp cho cô ta.
Trong những năm đầu quen thân Hitler, Eva Braun có thể là một cô gái không ai biết và không bảo đảm. Sự việc nàng biết che đậy các cuộc gặp gỡ với Hitler khiến Hitler có mộtấn tượng tốt về nàng.
Nàng không hề dự một cuộc tiếp tân chính thức nào, và Hitler không nói về nàng với khách khứa. Thuở đó nàng thôi sống ở Berghof, nơi bà mẹ cô gái đau khổ Geli làm người gát-dan hung tợn. Một phòng nhỏ dành cho nàng ở "Platerhof" cạnh đó. Thỉnh thoảng Eva đến gặp Hitler ở Berghof vài tiếng đồng hồ.
Bà Raubal rất cay cú sự liên lạc này của cậu em. Bà tỏ ra khinh bỉ cô gái, và vì lo sợ không kéo nàng ra khỏi Hitler được, đã đối đãi với nàng một cách ỷ quyền cậy thế. Bà thường đề nghị với Hitler cưới một người vợ nghệ sĩ như loại bà Sonnemann, người đã trở thành vợ Goering. Một hôm, bà nói với ông này những ý nghĩ của bà như sau : Tôi thích ông, ông Thống chế Reich vì hai điểm, trước hết là đã cưới bà Sonnemann và tiếp theo là đã sắp đặt công việc cho một người bồi
phòng hoàn hảo như Robert. Thật đáng tiếc rằng cậu em tôi không được như ông. Goering trả lời với nụ cười khoái trá: "Tôi có thể nhường cho ông ta Robert nhưng còn Sonnemann thì không bao giờ".
Vào dịp đại hội Đảng năm 1936 nàng đã thắng được tình bạn chính thức của người yêu của nàng. Bà Raubal đã khiển trách nàng dữ dội vì nàng đã không giữ đúng khoảng cách khi những đám biểu tình ở Nuremberg đi qua. Bà ta nói điều đó với ông em họ, nhưng với sự ngạc nhiên của bà, ông đã bênh vực cô bạn gái của ông. Thật tình Eva toan tự vận sau những lời mắng nhiếc chua cay của bà Raubal mà nàng phải chịu. Cử chỉ thất vọng này đã làm Hitler hết sức chấn động đến nỗi ông cho bà chị họ nghỉ việc không có lý do và cho Eva ở vĩnh viễn tại Berghof.
Từ đó nàng chính thức đi vào cuộc đời của vị Quốc trưởng Đệ tam Reich. Hitler cấp cho nàng một biệt thự ở Munich, và một xe hơi. Ông tặng nàng nữ trang, áo quần đắt giá và cung cấp một món tiền thường niên để nàng tự do tiêu thụ.
Eva Braun biết thích hợp với giới thượng lưu. Nàng dự tính trong đầu sẽ trở thành một bà lớn và khéo léo bắt chước dáng dấp bà Goebbels mà nàng lấy làm kiểu mẫu. Tuy vậy dù với nhiều cố gắng và chi phí, nàng không làm người khác quên được nguồn gốc của nàng. Nàng vẫn là một cô gái như muôn ngàn cô gái khác, họ chỉ có một thích thú là trang sức lố lăng và luôn có ý nghĩ lo sợ trong đầu làsẽ bị mập thêm vài gram thịt. Evacũng vì lý do đó ăn uống rất bất thường vàsau mỗi buổi ăn lại uống thuốc xổ. Do thói quen này và do sự kiêng cữ của nàng, nàng bị đau bao tử. Khi nàng bị những cơn ích bụng, Hitler rất lo lắng. Ông có thái độ như những sinh viên si tình. Ông vuốt ve không ngừng bàn tay cánh tay và gọi nàng làcô bé nhỏ "khốn khổ" của ông.
Eva có một vẻ đẹp thất thường. Mắt màu hạt dẻ lông mi rất dài, có thể làm mê hoặc người khác. Nhưng tất cả sự duyên dáng biến mất đi khi nàng trề môi vì giận dữ. Hai nếp nhăn nặng nề rơi xuống khóe môi và làm nàng già hẳn đi. Nàng dễ xúc động vì mặc cảm về địa vị không đúng chỗ của mình. Nàng sợ hãi những mưu kế khôn ngoan của những người đàn bà bên cạnh Hitler đối với nàng. Trong lúc
đó nàng đầy mặc cảm tự ti, muốn biết tất cả những chuyện ngồi lê đôi mách nàng cảm thấy lạc lõng mỗi khi có người cho nàng biết những tiến bộ mà người yêu nàng có đối với một bà khách nào đó.
Eva thường khó tính. Không biết tự chủ, với một trạng thái dễ kích động, nàng có những cơn bừng giận hay thích thú thái quá. Nàng bày tỏ sự ghét bỏ hay cảm tình với những người gần nàng một cách không kiềm chế được. Nàng ích kỷ, trừ với thân nhân hay bạn thân tình. Nhưng sự mất quân bình trong tính tình khiến nàng thay đổi người thân luôn. Sự tức giận vì Hitler ít cùng nàng ra nơi công chúng gặm nhấm nàng. Nàng trở nên điên cuồng trong ý nghĩ là trong các buổi dạ tiệc, nàng chờ ông trong phòng riêng, trong khi ông bị bao vây bởi một khu vườn đầy các đóa hoa biết nói xinh đẹp, ở đó dâng lên những tặng phẩm say mê như hương thơm của những lời khen tặng.
Nàng chỉ xuất hiện bên cạnh Hitler khi ông tiếp đón một nhóm nhỏ. Tôi nhận thấy trong các trường hợp đó, nàng tìm cách tự làm sáng chói bằng mọi phương tiện. Nàng cũng cố chấp khi đưa ra ý kiến về mọi sự. Ở Berghof nàng được khách khứa xem như bà chủ nhà. Mỗi bữa ăn Hitler thay đổi bà khách danh dự nhưng ở bàn ăn Eva luôn luôn ngồi bên trái ông. Khi rời bàn, Hitler luôn luôn hôn tay nàng trước vàtiếp theo là bà ngồi bên phải.
Trong bữa ăn, Eva Braun ít nói chuyện nhất là vào những năm đầu. Về sau, khi nàng tự tin hơn nàng nhập cuộc theo cảm tình của nàng lúc đó. Tôi thấy nàng nóng nảy mỗi khi Hitler tiếp tục diễn giảng về một vấn đề ông thích thay vì rời bàn ăn khi bữa cơm chấm dứt. Nàng bày tỏ sỗ sàng sự nóng ruột đó. Trong những năm chiến tranh, chắc chắn về sự đi lên của mình đối với Hitler nàng dám nhìn ông với nhìn chê bai hay lớn tiếng hỏi giờ. Những lúc đó Hitler ngưng ngay câu chuyện và đứng dậy khỏi bàn ăn, xin lỗi về sự dài giòng của ông.
Hitler quen với tính tình bốc đồng của cô bạn ông, nhưng không nhường cô ta bất cứ một điều gì. Nàng bị đặt trong những cấm đoán rất nghiêm khắc. Chẳng hạn nàng không được tắm nắng vì ông không thích da nâu và chỉ lén lút dự các dạ hội khiêu vũ vì Hitler rất sợ khiêu vũ. Là một thể thao gia có tài, Eva bơi lội, chơi trượt tuyết và thể dục. Thích thú vật, nàng nuôi một chú chó giống berger một
chú chó chân lùn và một chú chó fox. Tháng 4 năm 1945, thêm vào đó một con giống koccer. Ngoài ra Evacó nuôi hai con két thả bay tự do khắp nhà. Nhưng đa số thời giờ của nàng dùng để trang điểm. Trong lãnh vực đặc biệt này, nàng áp dụng một cách hơi khác người. Nàng tự tạo một cuốn sổ trong đó ghi lại và đánh số tất cả áo dài của nàng với mẫu hàng tương ứng. Như vậy nàng có một cái nhìn bao quát và nhanh về tủ áo của mình, cảm quan về sự sắp xếp mà Eva dùng trong một công việc ảnh hưởng riêng đến nàng thật là hoàn hào, đáng khen. Hitler thích tính này. Ông nói rằng nàng hoàn toàn ngăn nắp và ông không bao giờ phàn nàn về sự vô ý của nàng.
Eva thường thích đi xem chiếu bóng. Hitler hay hỏi ý nàng về các vở kịch nàng đã xem, Nhưng ông thường bị sai lầm vì Eva không bình luận các buổi diễn theo giá trị thực của chúng mà theo cách ít nhiều tâng bốc của các nghệ sĩ khi đón tiếp nàng. Tôi không thấy nàng đọc sách một cách nghiêm chỉnh. Nàng chỉ chọn đọc các sách trinh thám và tiểu thuyết mới, điều đó tương ứng vói trình độ học thức của nàng.
Đầu năm 1938 Miss Mitiford gặp Hitler nhiều hơn thường. Eva Braun bị đè bẹp. Nàng dàn cảnh vụ toan tự tử lần thứ hai, và người yêu đãtrở lại với nàng. Từ đó, địa vị của nàng vững bền vĩnh viễn. Hitler lo sợ khi nghĩ rằng nàng có thể làm lại một vụ toan tính tương tự và một ngày nào đó, sẽ bùng ra công chúng một vụ xì căng đan. Trong mọi trường hợp, tôi có ý tưởng rất rõ ràng là từ đó, Eva đã có đà. Nàng khẳng định dần dần cá nhân của nàng trong xã hội và được bao bọc bởi nhiều sự kính trọng hơn.
Mỗi năm nàng được đi nghỉ mát ở Ý với một số bạn gái của nàng. Thỉnh thoảng nàng cùng được quyền xuất hiện ở Bá Linh. Tuy nhiên ở đó ít được trọng vọng hơn ở Berghof, Hitler không cấm nàng dạo phố Bá Linh, đi mua sắm, đi làm tóc, may sắm quần áo, ông còn cho phép nàng đi coi hát, nhưng trong mọi trường hợp phải giấu tên.
Lễ cưới của em Eva là Gretel với Henmann Fegelein, đại diện Himmler bên cạnh Hitler, đánh dấu một tiến bộ mới trong sự vươn lên của nàng. Trước mọi người, từ đó, nàng được giới thiệu như chị dâu của Fegelein, nàng cũng lại tạo với
ông em rể một sự gắn bó thực sự. Nhưng nàng đã thất bại trong việc cứu ông khi Hitler ralệnh xử tử ông trong những ngày cuối cùng ở Bá Linh. Đầu năm 1945 nàng nói với tôi : "Cô không thấy tôi tự do hơn trước nhiều sao ? Lúc trước tôi không biết giữ thái độ như thế nào trong các cuộc tiếp tân chính thức, nhưng bây giờ tôi đã trở thành một nhân vật : Tôi là chị dâu của Fegelein, phụ tá Quốc trưởng, ông ta giới thiệu tôi với một số người tôi chưa hề quen biết, và tôi đã biết hàng lô việc mà tôi chưa hề có một ý niệm nào về chúng trước đây !" Hai dịp Eva đến Bá Linh vào đầu năm 1945 làm nàng rất hài lòng Hitler từ hơn một năm ăn uống trường trai rất gò bó, đòi hỏi nàng chia xẻ với ông. Nàng phàn nàn : "Suốt ngày chúng tôi gây gổ nhau về đến vấn đề đó. Lần chót tôi không thể nuốt loại pha trộn ghê sợ do ông ta chọn nữa. Tôi cũng thấy không khí ở đây thay đổi. Tôi hết sức vui thích đã được đến Bá Linh, nhưng tôi bắt đầu hối hận. Adolf không săn sóc tôi hơn thực phẩm và các con chó của ông. Con vật bẩn thỉu Blondy (loại chó berger Đức mà Hitler rất thích đã làm tôi khó chịu tột độ. Đôi khi tôi đá nó dưới bàn và Adoif lo lắng trước phản ứng dữ tợn của con vật. Đó là cách trả thù của tôi."
Người ta có thể nói rằng về vấn đề chính trị Eva Braun hoàn toàn ngu dốt và hoàn toàn vô lo. Khi nàng thấy trên các nét mặt lo nghĩ của các cộng sự viên của Hitler và các thư ký của ông một vài điều bất thường sắp xảy ra, nàng lo sợ hỏi chúng tôi để biết lý do.
Nàng luôn phàn nàn rằng không ai cho nàng hay tin gì về các biến cố. Khi người ta giải thích cho nàng một tin bất lợi, nàng la lên với giọng khờ khạo : "Nhưng mà, các người, tôi chẳng biết gì ráo về các sự khủng khiếp đó".
Thường khi, ngày hôm sau các buổi tiếp tân, nàng thú nhận với tôi : "Fegelein đã giới thiệu tôi với những ông khách. Họ kể cho tôi nghe những việc thật lạ lùng đến nỗi tôi không tin nổi tai mình. Tôi như bị mang đi đến một thế giới khác". Nhưng vội thêm : "Thật ra, tôi không biết những việc khác lại chẳng hay hơn sao ? Đối với mọi sự, tôi chẳng thay đổi gì cả". Nàng cởi bỏ trách nhiệm với sự vô lo của một cô bé. Sau những lời nói đó, nàng vẫn vui vẻ như thường. Nàng khuyến khích chúng tôi uống rượu và hưởng cuộc sống, và đi quá những điều cấm kỵ,
nàng còn hút thuốc nữa. Nhưng sau cử chỉ giải phóng đó, nàng vội vã súc miệng thật kỹ trước khi về nhà người yêu của nàng.
Ngoài ra, nàng để ý đến những điều chờ đợi nàng khi nước Đức sụp đổ. Nàng biết là không hy vọng gì sống sót trong cơn biến loạn đó. Tháng tư năm 1945, nàng nói với tôi : "Nếu chúng ta thất trận và tôi bắt đầu tin điều đó dù Adolf lạc quan, tôi biết cái gì đợi tôi, song tôi đã thắng trong canh bạc của tôi". Mọi sự khẩn khoản của Hitler để đưa nàng đi Berchtesgaden trước khi kinh đô hoàn toàn bị bao vây hoàn toàn đều thất bại trước sự khẳng định mạnh bạo của nàng ở lại bên cạnh Hitlcr bên cạnh ông đến phút chót. "Trong lá thư cuối cùng gửi cô em Gretel Fegelein ghi rõ ràng ": "Mỗi ngày, mỗi giờ chúng tôi chờ đợi sự kết thúc. Nhưng chúng tôi không có vấn đề chịu để kẻ thù bắt sống".
Trái nghịch Quốc trưởng, Eva Braun rất dị đoan. Tất cả chăn nệm của nàng đều thêu những con số tạo bởi những chữ chính của tên nàng trong đó những chữ đầu tạo thành một con bài chuồn mà bốn lá được đơn giản hóa cho mỹ thuật. Eva biết may mắn đã khiến nàng chọn được trong số các đàn ông người có mọi quyền lực của Reich. Sau một sự liên kết lâu dài, sự may mắn này đã đưa nàng vào lịch sử : Nàng cưới người bạn đời, đêm hôm trước phút lâm chung của họ. Lễ hôn phối tang tóc này, bên ngưỡng cửa hư vô, đã tạo nên vòng vương miện và cuộc phong thần cho cuộc đời kẻ cận thần bé bỏng thiếu rực rỡ của nàng.....
Về chính trị phải có điểm tựa đàn bà, lúc đó đàn ông sẽ tự theo anh (HITLER
CHƯƠNG VII.
Với đàn bà, Hitler luôn luôn trọng đãi và có sự thần tình hoàn toàn tự nhiên. Cách thức nịnh đầm của ông, dấu tích của giọng nói " Người Áo ngày xưa " đã tạo nên với các bà một sự duyên dáng không chê được. Ông đối xử với các nữ nhân viên thật nhiều nể nang và không có tiên kiến đối với ai cả. Hẳn nhiên, ông đòi hỏi ở họ phải làm việc nhiều và hy sinh hoàn toàn sự tự do cá nhân, nhưng ông biết công việc của họ đúng giá trị của nó, trả công rộng rãi và khi đau ốm ông ân cần săn sóc. Với chúng tôi, thư ký riêng của ông, ông luôn luôn tỏ ra lịch sự hiếm có, mỗi lần chào chúng tôi ông đứng dậy, và ông nhường bước chúng tôi với cùng sự nhanh nhẹn như khi ông ở ngoài xã hội. Khi đến ở với ông tại Berghof, ông đưa chúng tôi lại bàn ăn, khi đến lượt, như ông vẫn làm với các nữ khách của ông.
Trong các cuộc di chuyển không ngừng của ông khắp nước Đức, ông quen với sự hiện diện của các thư ký đến nỗi ngay ở Bá Linh, ông cũng thường mời chúng tôi dự buổi uống trà năm giờ. Trong những giờ giải trí ông đến nói chuyện gẫu với chúng tôi trong căn phòng nhỏ dành cho chúng tôi trong khu nhà của ông ở tòa nhà Chancellerie. Đó là một phòng đa dụng ở đó chúng tôi viết thư, ăn cơm chung khi không được mời, may vá bít tất và... chờ đợi. Căn phòng được trưng bày một cách khác thường. Ở đó có một ghế nệm dài, một bàn bát giác lớn làm cản trở mọi người. Nhưng ở đó Hitler cảm thấy rất tự do thoải mái. Ông đến trú ngụ khi muốn thay đổi ý tưởng hay muốn nghỉ ngơi một lát.
Quốc trưởng rất nhạy cảm trước vẻ đẹp đàn bà, nhưng trong sự ham thích của ông, ông bằng lòng với vẻ duyên dáng bên ngoài của những phẩm tính không phải luôn luôn chính đáng. Ông nhìn thấy trong vẻ đẹp của một vài bà dấu hiệu của một tài năng do ông tường tượng ra. Khi có ai nói đến sự lầm lẫn của ông, sự
bình phẩm đó không ảnh hưởng gì đối với tính cứng đầu của ông, cho rằng những người đàn bà đẹp quanh ông có một trí thông minh và một kiến thức hoàn toàn do tưởng tượng. Điều đó đưa đến sự việc là những người trẻ, bên ngoài trông hấp dẫn được ông cấp tiền cho theo học các lớp đào tạo nghệ sĩ kéo dài hàng nhiều năm và không mang lại kết quả nào.
Hitler là một nhà tâm lý đàn bà kém cỏi vì ông ta, với bản tính khôi hài, không phân biệt được vẻ đẹp trau chuốt và vẻ đẹp tự nhiên. Tất cả những người đến cạnh ông, nhất là đàn bà đều tìm cách hiện diện vào những lúc họ xinh đẹp nhất và Hitler thường hay nhận sự hăng hái của họ và tác phong giả đạo đức của họ để trao tiền mặt. Ông có một sự lựa chọn trước rõ ràng về một trong các thư ký của ông. Cô này hẳn nhiên luôn luôn có một tính tình sáng sủa, luôn luôn cho ông hợp lý về mọi sự và phải biết khen ngợi nịnh hót sự khoe khoang của ông. Sự có mặt củacô talàm Hitler bớt nhăn nhó vàcâu chuyện của ông hướng về tâm linh.
Hiler không có một ý niệm nào về những điều thuộc lý trí và tình cảm. Chẳng hạn, ông không hiểu rằng trong hôn nhân hai người bạn đời phải bày tỏ sự thích hợp về cá tính và tình cảm. Với ông, đôi lứa lý tưởng được phán đoán đơn độc trên bề ngoài của họ. ông cho biết kết hôn với một người đàn bà đẹp và thánh thiện hẳn phải hạnh phúc đương nhiên. Trong mọi cuộc kết hợp do ông sắp xếp, ông chỉ thích dựa trên những quan niệm trên, và hậu quả của hạnh phúc thường được thanh minh bằng các sự kiện. Một hôm tôi gợi sự chú ý của ông về số gia tăng các cuộc ly hôn xảy ra ở những người thuộc hàng đầu của Đảng, dưới những lý do sai lầm rằng vợ họ không biết tiến triển để thích hợp với địa vị mới của chồng trong xã hội. Tôi giải thích cho ông rằng dân chúng chỉ trích nặng nề chiến dịch ly hôn này và rằng sự sáng chói của những người nổi tiếng trong Đảng đang bị sasút.
Hitler kể lại với sự vui nhộn : "Theo ý tôi, những người đàn bà xinh đẹp nhất đều trở về với những chiến sĩ gan dạ của họ." Điều đó chứng tỏ rằng Hitler thẩm định về con người, và đặc biệt vấn đề sinh lý, hoàn toàn ở trên phương diện vật chất.
Trên kia tôi đã nói rằng chính ông không kết hôn, vì một gia đình với tất cả
những trách nhiệm mà nó lôi kéo làm ngăn trở ông rất nhiều trong nghề nghiệp và trong sự chiến đấu. Ông thú nhận với tôi là hôn nhân làm ông mất ở nơi các nữ cử tri một phần lớn cảm tình và uy thế mà ông thường lấy làm kiêu hãnh: "Sự việc tôi không trở thành người riêng của một bà nào khiến ảnh hưởng của tôi trên nữ giới của Reich tăng lên, Tôi không bao giờ có thể cho phép tôi mất tính cách bình dân đối với nữ giới Đức, vì họ biểu thị một thành phần quan trọng trong các thời gian tranh cử."
Nội điều đó, một lần nữa, Hitler chứng tỏ ông là một kẻ tính toán sâu xa và là một người sẵn sàng hy sinh tất cả để thực hiện mục tiêu.
Thực sự thì rất nhiều bà đã yêu say mê ông ta. Một số khác thì bị ám ảnh mãi với ý tưởng có một đứa con với ông. Một hôm, một cô gái đến được trong phòng ông tại Munich, khi cô ta thấy sự hiện diện của ông, cô ta đã kéo trần ngực trong một cử chỉ đam mê điên cuồng.
Từ hôm đó, Hitler không tiếp một mình các bà không quen biết mà ông đã nhận cho diện kiến, sợ rằng việc đó làm ông mất mặt về các vụ xì căng đan. Hitler bị ám ảnh bởi sự lo sợ rằng đàn bà có thể phổ biến những lời đồn đại không tốt về sự nổi danh của một người đàn ông đứng đắn. Chính sự ám ảnh này giải thích sự bảo vệ bí mật các mối tình của ông. Trước mặt chúng tôi ông giữ gìn các mối liên hệ bằng một sự im lặng tuyệt đối. Ông tỏ ra thật cẩn thận trong việc lựa chọn các nữ khách ngay cả trong các buổi tiếp tân chính thức. Chẳng hạn khi ông biết có một nữ nghệ sĩ khai thác trong mục đích cố đạt những ích lợi cá nhân, cái vinh dự được ông mời dự một buổi dạ tiệc, ông bèn phổ biến sự kiện đó và ghi tên kẻ bất cẩn vào sổ đen. Cô tasẽ không bao giờ được mời nữa...
Trong nhiều năm, tôi có dịp quan sát thái độ và phản ứng của Hitler một cách khách quan nhất. Với lòng chân thật tôi có thể bác bỏ những điều xấu xa theo đó ông ta có một cuộc sống sinh lý bất thường. Với việc sử dụng thức ăn chay tuyệt đối, việc từ chối dùng rượu, công việc trí óc nhọc nhằn, tôi nghĩ rằng ông khó cho phép mình đi quá lố. Tôi hoàn toàn tin là về vấn đề này ông thật bình thường. Trái lại, nhiều khi tôi có ấn tượng rằng ông tỏ ra hung bạo để không tỏ vẻ lẳng lơ trước cái duyên dáng củacác nghệ sĩ mà ông hay gặp.
Trong 12 năm, ông gắn bó với Eva Braun. Tôi đã nói rằng ông đã có ấn tượng tốt vào lúc đầu bởi sự bí mật tuyệt đối mà nàng đã biết giữ gìn. Vì thân hình mảnh dẻ và mái tóc màu hung không thích hợp với thể chất lý tưởng của ông. Ông khoái loại đàn bà miền nam nước Đức. Tóc nâu, to lớn và màu datự nhiên.
Hitler nhận biết trong các cuộc tiếp kiến, rằng đàn bà giữ một vai trò quan hệ trong nghiệp chính trị của ông. Vậy nên, trong các thời gian tuyển cử, ông đã khen ngợi máy móc thị hiếu và thiên tư của các nữ cử tri. Ngay từ đầu, đàn bà là những kẻ hăng say, mê thích đổi chủ nghĩa của ông. Tôi biết trong thời gian bị cầm tù ở Landsberg, ông nhận được vô số quà và thư từ của những bà vô danh. Mỗi lần ông cảm thấy, trong công việc hoạt động của ông, những khó khăn không vượt nổi, đàn bà thường giúp ông ra khỏi bước khó khăn đó. Ông hay khôi hài kể lại cho chúng tôi nghe thí dụ sau đây : "Một hôm tôi nhân danh Đảng xuất một số tiền 40.000 đồng mark. Tôi thất vọng vì tiền tôi xuất ra đã không được trả lại. Tủ sắt trống rỗng. Kỳ hạn đến gần. Tôi không biết làm thế nào để gỡ danh dự cho chữ ký của tôi. Tôi đã có ý nghĩ tự tử để khỏi sống với niềm tủi nhục đó. Bốn ngày trước ngày định mệnh, tôi đến báo tin sự tuyệt vọng của tôi với bà Bruckmann. Bà ta đi ngay cùng tôi về vùng quê. Sáng hôm sau ông Kirrdori, chủ tịch hợp tác xã than đá mời tôi lại nhà. Sau lời hỏi han của ông, tôi trình bày rõ ràng chương trình của tôi mà sự thích hợp đã đập mạnh ông. Tôi đã làm, không khó khăn gì, môn đệ quan trọng của phong trào quốc xã, nhưng hơn thế ông yêu cầu tôi nhận sổ tiền tôi cần và cho phép tôi trả nợ khi nào tôi muốn. "
Hitler cho rằng nền đệ tam Reich sản xuất 4 người đàn bà cao quí. Trước hết là bà Scholtze - Klinck, tay tổ chức tài năng của phong trào quốc xã phái nữ. Rồi đến bà Wagner người đã thành công trong sự tái tạo ở Bayreuth không khí huyền bí của những tác phẩm của nhà soạn nhạc xuất chúng. Tiếp theo là bà Troost, ông tán tụng ở bà sự chắc chắn nghệ sĩ mà bà đã dùng để tiếp thụ công việc của người chồng quá cố. Khi Hitler dựng căn nhà ở Munich, ông đưa bà Bruckmann đến xưởng kiến trúc của Troost, người sáng tạo các kiểu trưng bày mới lạ. Hitler say mê sự thanh nhã đơn sơ của ông ta. Troost trong dịp này trình với ông đồ án ông lập để xây cất lại lâu đài Glace ở Munich (hành lang hội họa và không được hội
đồng chấp thuận. Hitler bảo trợ dự án đó và thực hiện chúng khi xây "Nhà nghệ thuật Đức" ở Munich. Cũng chính Troost là kiến trúc sư của "Căn nhà màu nâu ở Munich và một phần của tòa nhà Chancellcrie ở Bá Linh." Troost được phong chức giáo sư, và chức vị danh dự này đã được chuyển sang bà vợ khi ông từ trần. Bà Troost, tiếp tục tạo ảnh hường lớn đối với thị hiếu nghệ thuật của Hitler. Bà thành công trong công việc cùng ông chia sẻ quan niệm cá nhân trong sự hòa hợp màu sắc. Một mình bà lãnh trách nhiệm trang hoàng các căn nhà của Hitler ở Bá Linh, Munich và Berghof. Chỉ có căn nhà riêng ở Munich còn giữ bản chất xưa cũ, ở đó Hitler đã trải qua những thời gian hạnh phúc nhất với cháu gái Geli của ông.
Người đàn bà thứ tư mà Hitler quí trọng đặc biệt là Leni Riefenstahl, ông xem bà như một kịch sĩ đáng chú ý, một nhà sản xuất phim có tài năng vững chắc. Báo chí quốc tế bị kích thích bởi những liên hệ xảy ra giữa sự say mê của Quốc trưởng với nữ tài tử điện ảnh này. Chắc chắn rằng Eva ghét Leni với tất cả tính đàn bà của nàng. Nhưng vì chỉ có kết quả mới đáng kể, cuối cùng nàng hẳn đã không chiến thắng "Pompadour" bằng cách gắn chặt nàng với kẻ độc thân đa nghi của Reich trong một cuộc hôn nhân đánh dấu bằng ngọc tỷ củatử thần.
Con người đương nhiên có khuynh hướng bội nghĩa.
(HITLER)
CHƯƠNG VIII.
Phải biết rằng, Hitler, trong cuộc sống thường nhật có thể, vói những vấn để nhỏ nhặt, là một con người biển lận, lại luôn luôn tỏ ra biết ơn đối với những người đã giúp đỡ ông. Trong trường hợp này ông là một ngươi cao thượng đáng chú ý. Giải thích sự cao thượng này, không phải chỉ là lo lắng gọt giũa một sự nổi danh dễ dàng của một người rộng rãi và biết ơn, mà cử chỉ cho và tưởng thưởng đối với ông trở thành một thú vui và một sự thỏa mãn thực sự.
Trong những năm cầm quyền, ông còn có thói quen tự mình chọn các món quà ông định tặng. Hơn một lần, tôi thấy ông suy nghĩ nhiều để đoán ra món gì có thể làm vừa lòng một người. Ông nhắc lại vói tôi như một cách ngôn : " Tôi biết sự vô ơn làm khó chịu biết bao và tỏ ra biết ơn là một điều thật dễ dàng ".
Sự hăng hái khi Hitler tưởng thưởng một sự giúp đỡ nhỏ nhặt nhất và cả sự hăng hái mà người ta sẵn sàng làm theo ý muốn ông đã trở nên một nguồn lợi cho những kẻ ưa lợi dụng. Một sự tranh dành hơn kém xảy ra giữa một số trong những cộng sự viên của ông về việc tặng những món quà nhỏ trong các trường hợp khác nhau. Thường khi những sự tính toán lạnh lùng mong rằng sẽ được đền đáp nhiều hơn. Thói quen tặng quà như vậy đã là một sự cống hiến chính thức trong Đệ tam Reich.
Goering biết khai thác một cách tài tình hiện trạng đó. Sự say mê trong việc tìm kiếm chức vụ hội trưởng danh dự trong các hiệp hội và hội đoàn khác nhau, từ hội các nhà bán kim hoàng đến hiệp hội các nhà săn bắn lớn, không chỉ giải thích sự khoe khoang khôn lường của ông, mà còn do các món quà của hoàng cung mà chức vụ đó sẽ mang lại cho ông. Hitler thì ít có tính ưa sang trọng như ở nhà Goering. Ông hoàn toàn sung sướng và bằng lòng khi ở tại nhà ông ở Munich, trong đó chất đống, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, một số đồ
gia dụng lộn xộn mua được trong những năm tranh quyền, ông hay nói : "Ở Munich tôi cảm thấy thật sự ở nhà mình đưa mắt nhìn ở đâu, bàn ghế, các bức tranh, giường, nệm, cũng đều gợi lại trong tôi những kỷ niệm tranh đấu, tù đầy, cũng như hạnh phúc. Cả nhà do tôi đã mua từ từ với vốn liếng của riêng tôi, thường là mua lại. Cháu gái Geli cũng theo tôi hồi đó, nhưng đó không phải là lý do khiến lòng tôi bị gắn liền với nơi này."
Hitler mến trẻ con. Trong những năm đầu cầm quyền, ông luôn luôn có trong túi đầy kẹo sô cô la để phân phát với niềm vui chan chứa cho đám trẻ con chạy theo để xem "ông Hitler". Tôi không thể nói với mức độ nào các sự phân phát lòng nhân từ đó đã do một sự tuyên truyền rẻ tiền mà ra. Tôi tin rằng, nó đáp lại một phần nào tình bạn hữu thân yêu mà ông mang trong mình hồi còn trai trẻ. Như mọi điều Hitler làm, phải biết rằng ở đây có hai khuynh hướng. Tốt và xấu, đúng và sai, lý tưởng và vật chất đã kết họp trong ông một cách mạnh mẽ đến nỗi thật khó phân tách phần đạo đức ra khỏi sự bất lương. Chỉ có những kẻ thông suốt tình hình mới đâm thủng trò chơi quỷ quyệt mà ông dùng để giữ thể diện trong các trường hợp tai tiếng nhất, như khoa bắt chước tài tình của ông.
Hitler yếu về khoa tâm lý. Cũng như vẻ bên ngoài của một người đàn bà : dáng dấp cao lớn, quần áo đẹp đẽ, vẻ cứng rắn và quyết định củacác người đàn ông, hay điệu bộ của lính tráng đều ảnh hưởng ông rất nhiêu. Nhưng trong lãnh vực nhi đồng, sự phán đoán của ông có nhiều lầm lẫn...
Tôi muốn vẽ lại hình ảnh những cuộc phiêu lưu lạ lùng và sai lầm của ông bởi câu chuyện của bé Bernendi, một bé gái 5 tuổi, mắt xanh lớn và tóc hung mà một hôm ông để ý trong đám trẻ con đến thăm ông ở Berghof. ông mến đứa bé gái đó vô cùng đến nỗi ông khuyến khích nó đến thăm ông mỗi chiều khi nó rảnh rỗi. Bà mẹ, trong ba năm, biết tự làm nổi tiếng bằng cách đưa người con gái đến thăm Hitler trong nhiều trường hợp khác nhau. Hitler đối với cô bé luôn luôn với sự tử tế như tình cha con và nhiều lần chụp hình chung với nó. Một hôm có một bức thư nặc danh đến làm chấm dứt cuộc gặp gỡ vui thú đó. Bức thư cho biết mẹ cô bé là một bà lai Do Thái. Hitler thành thật buồn rầu cho bà ta biết là đừng bao giờ để cô bé tìm cách đến gần ông ta nữa và ông cho thủ tiêu hầu hết tất cả các bức
ảnh chụp ông vui đùa với cô bé Bernendi. Sự kiện này thật làm ông đau đớn, nó nhắc nhở một cách tàn bạo một lần nữa sự cô độc của ông. Sự cô độc đè nặng một cách đáng sợ lên ông vì nó đoạt mất những tình cảm tự nhiên đã gắn bó thật sâu đậm trong lòng ông.
Trong những năm tranh quyền, Hitler thích thú thắp những ngọn nến trên cây Noel trong dịp Giáng sinh. Sự dịu dàng của niềm vui gia đình là một cần thiết với ông. Tuy nhiên ông không bao giờ chứng tỏ bằng hôn nhân sự ham thích trẻ con của ông. Hạnh phúc đích thật của gia đinh ở nơi ông hoàn toàn bí mật. Người đàn bà trừ vài trường hợp qua đường và sự liên hệ của ông với Eva Braun, ông xem như vợ một người đàn ông khác. Và con cái của những kẻ khác ông chỉ gần gũi chúng trong niềm vui ngây thơ của những đám trẻ con. Hitler là một người bị dồn ép về tinh thương, về niềm vui gia đình, về tất cả gì tạo ra hạnh phúc trong phần tử tự nhiên của xã hội và ông đau khổ về điều đó. Tâm hồn thiếu thốn này, đãtự phản đối để đi đến hạnh phúc tự nhiên và đơn giản, luôn luôn đi tìm sự quân bình. Trong cuộc sống riêng rẽ của ông, ông tạo ra một thế giới mộng tưởng, khinh rẻ tất cả những tình cảm cao quí của con người. Sự lo lắng thường trực và sự mất thăng bằng trong tình cảm này đã nhanh chóng biến đổi thành sự lãnh đạm rồi đến sự vô luân. Cuối cùng Hitler chỉ còn là một con quái vật hung tợn và quyền năng.
Ý tưởng gia đình và hôn nhân thật xa lạ đối với ông, nên không ngạc nhiên gì khi ông lạnh lùng gửi hàng triệu thanh niên đến chỗ chết, với một sự thỏa mãn là hy sinh họ cho một trách vụ mà ông tưởng họ được ban cho. Cái chết của một người đối với ông hoàn toàn không có gì cảm động. Ông chỉ thấy nhân loại dưới dạng thức một chuỗi người dài mà ông ta là cái khóa chính đầu tiên. Dưới mắt ông, trẻ con không gì khác hơn là một yếu tố cho phép chiếc khâu một khoảng sống rộng hay hẹp. Ném qua bên kia mọi quan niệm triết lý, ông thấy thật bình thường khi dùng đống tro của các thân thể bị thiêu sống trong các trại giam làm phân bón cho các vườn rau để nuôi sống lính SS.
Tuy vậy, Hitler thường không tự chủ được cái đà tự nhiên đó. Có những lúc, lo lắng, ông tìm cách bám víu vào một điều gì có thể đem lại cho ông sự an bình
nội tâm màthiếu nó không ai có thể sung sướng được.
Trong các cuộc họp mặt của chúng tôi bên cạnh ngọn lửa, ông luôn luôn là đề tài của kỷ niệm thơ ấu. Khi nhắc đến nó, tôi cảm thấy ông run lên dây tơ hạnh phúc, hạnh phúc nguyên thủy mà ông biết trong căn nhà khiêm tốn của ông, bảo bọc trong tình mẫu tử. Chính trong sự gợi lại tuổi thơ mà ông đã được trú ngụ trong cuộc sống đơn độc của mình.
Một khoảng đời sung sướng khác của ông là những năm chiến đấu trước khi lên cầm quyền. Thuở đó ông không có thì giờ suy tư. Với một sự lì lợm có một không hai, ông theo đuổi mục tiêu cao quí của mình. Ông hoàn toàn bị thu hút trong trách vụ. Ông không còn tỏ ra cần tìm một quân bình tâm lý. Nhưng trong những năm thử thách của ông, ông có bên cạnh những đồng chí hy sinh, những người bạn thật sự, chứ không phải những chú cừu của Panurge, chứ không phải những kẻ lợi dụng, luôn luôn là nơi nương tựa cho một sự nối kết hạnh phúc. Vào thuở đó, nhóm của ông, thể xác và tâm hồn đều hiến cho lý tưởng, chung nhau mọi đau khổ, mọi quân thù và mọi niềm vui.
Từ đó, Hitler đã giữ rất lâu sự trung thành phi thường đối với các đồng chí của ông. Ở các người đó, đa số già dặn, nhưng nhuốm mình trong môi trường khó khăn của hoạt động chính trị thực sự xáo trộn, ông tìm được một nơi an trú cho tâm hồn. Một vài người trong bọn họ đã say sưa với thành công kỳ lạ mà họ đã biết, một số khác chưa biết thích hợp với những biến chuyển hay gánh chịu những trách vụ nặng nề về phần họ. Một số khác nữa đã phản bội ông và trở thành đối thủ. Nhưng luôn luôn người ta đau đớn nhận ra rằng những người quanh ông đểu ở một trình độ dưới mức trung bình.
Điều đó không cấm Weber, Gratt và cả một tay Maurice mày tao với ông. Hamann và Holfmann gọi ông một cách cụt ngủn " ông Hitler ". Trong trạng thái lo lắng của bệnh thần kinh và mất quân bình tâm hồn, những người đó xuất hiện như một cái phao để ông bấu víu trong những lúc ngã lòng. Sự trung thành và tình bạn của các đồng chí đầu tiên này đối với ông là một thứ thuốc bổ mang đầy sinh lực. Do đó, số tiền hàng tháng mà Hitler phải trả nặng nhất là cho những người ông bảo trợ.
Tôi chỉ kể ra một thí dụ về Streicher mà ông phải cho nghỉ việc khi ông hay tin rằng ông này đã bảo bạn gái ông làm một cái hộp bằng vàng khối với những chiếc nhẫn được sưu tập để cung cấp cho kho tàng chiến tranh của Đức. Hitler rất bối rối về biện pháp này của ông. Nhiều năm sau, ông muốn bỏ qua và muốn phục chức cho Le Gauleiter de Franconie.
Đối với Schaub cũng thế. Schaub trở thành sĩ quan tùy viên của Hitler nhờ Bormann khi ông này thành công trong việc hạ bệ Buckner vì sự ganh tị. Schaub là một hội viên sáng lập của phong trào Quốc xã. Hitler thường kể cho chúng tôi nghe rằng vào lúc khởi đầu của thời kỳ hoạt động, ông bị đập vào mắt bởi một người hiện diện một cách trung thành vào các buổi họp và theo dõi mọi cuộc diễn hành. Từ những gặp gỡ đầu tiên đã nảy nở một tình bạn thân thiết, nhất là khi Schaub đã cùng Hitler chia xẻ sự tù tội ở Landsberg. Từ khi được tự do, ông ta phụ tá việc nhà cho Hitler. Schaub không chỉ giải quyết các công việc thuộc riêng cá nhân Quốc trường, mà còn trở thành người thân tình của Quốc trưởng trong các công việc quốc sự bí mật nhất. Schaub lo việc cung cấp tin tức cho Hitler về các chương trình chiếu bóng, kịch nghệ, sắp đặt các cuộc thăm viếng riêng tư, trả các ngân khoản bằng chi phiếu, sắp đặt các tài liệu riêng, giữ tủ sắt đựng các văn kiện nguyên bản về những hợp đồng quốc tế và các bản ghi chú quan trọng của Hitler, và giúp ông tiến hành các công việc riêng tư nhất. Người ta có nói là Schaub, trong mắt chủ ông, là kẻ đáng tin cậy nhất. Với tính tình bất thường, nhưng hay dụng mưu, khốn thay ông ta lại hay lợi dụng đặc ân của mình để thõa mãn vài sự trả thù cá nhân. Biết rằng Hitler hay thích các bài "xã luận tai tiếng" của bộ tham mưu, ông thấy có bổn phận mang về các việc nhỏ nhặt mà những người quanh ông gặp phải. Hitler nghe một cách thích thú và thường dùng các biện pháp kỷ luật đối với các cộng sự viên một cách không tương xứng tí nào so với các lỗi nhẹ thuộc về tình cảm của họ.
Vì lý do đó, Schaub bị mọi người ghét bỏ, nhưng không ai dám công khai đương đầu, vì ảnh hưởng mạnh của ông ta đối với Quốc trưởng. Quốc trưởng không hay rằng Schaub có tật xấu là uống rượu. Nhưng nếu Hitler biết ông có một cô bạn là một cô gái sống ở hè phố Bá Linh, thì khó mà ông tha thứ cho sự
phóng túng này. Tuy nhiên, ông chịu đựng được tất cả mọi sự. Khi có ai cho ông hay là người tùy viên của ông vừa tạo một vụ xì căng đan vì say sưa, trong một dịp tiếp tân nào đó, Hitler chỉ đưa tay đập mạnh vào không khí một cách chán nản và trả lời bằng một câu bất di dịch : "Tôi biết tật xấu của hắn ta, thật đáng buồn. Nhưng bạn muốn gì, tôi chỉ có mình hắn ta, và không ai thay thế hắn ta được".
Những cuộc cãi cọ của Hitler với Ley thì lại thuộc lãnh vực múarối vĩ đại. Dưới mắt Hitler, chủ tịch "Mặt trận lao động Đức" là một người tổ chức có tài năng và có lý tưởng, với những tư tưởng kỳ quặc. Hitler hay nói về sự thán phục của ông trong các công việc xã hội của ông ta, thực hiện cho giới thợ thuyền. Ông vẫn biết rằng Ley khó thành một vị thánh. Ngay cả vào những năm cuối, tính tình Ley trở nên dần dần tai tiếng và các bài ông cho xuất hiện trên báo chí làm khó chịu con mắt các nhà điều khiển đảng. Hitler không để mình bị ảnh hưởng, và xác định là một vài tầng lớp dân chúng cần loại văn chương của Ley. Thời bà Igna Ley còn sống, Hitler là khách mời thường xuyên của bà. Ông thấy ở bà Ley một nét đẹp đáng chú ý và xem bà như một vị thánh của chồng bà khi ông tin rằng bà đã thành công trong việc làm ông bỏ thói quen hút thuốc và uống rượu bằng mọi cách. Tuy vậy mọi người đều biết rằng hai thói xấu đó, với những cơn mạnh mẽ tột độ, đã tiếp tục tàn phá Ley. Cho đến bây giờ tôi chẳng hiểu làm thế nào Hitler có thể tin tưởng được kẻ say sưa kinh niên đó có thể thay đổi được thói quen đáng thương hại của ông ta dưới ảnh hưởng tốt của bà vợ. Hitler thấy vui thú trong môi trường nghệ sĩ mà ông tìm thấy ở họ hàng Ley. Hơn nữa bà Ley lại là hậu bối của một gia đình nghệ sĩ xa xưa. Sự tự vẫn của người đàn bà trẻ đó làm Hitler thương tiếc vô cùng. Sự đoạn giao trong công việc với Goebbel, và cái chết của bà Ley, đã cùng lúc cướp mất sự vui thú ở ông trong việc thỉnh thoảng lại đắm mình trong một không khí khiến ông thay đổi hẳn trong các buổi tối bên ngọn lửa.
Ley si tình vợ một cách khôi hài. Vời sự hiện diện của bà vợ, ông tạo cảm tưởng như một chú công múa may bên cạnh con mái. Một hôm, ở Berghof ông đưa tôi đến bàn ăn, ông bảo tôi, với sự cảm động khi chỉ vợ ông đi trước, trong tay Hitler : "Nàng tuyệt diệu quá, rực rỡ quá phải không cô ?" Tôi phải cố nở một nụ
cười trước sự khoe khoang phi lý như vậy.
Tôi phải kể sự kiện đó để cho thấy Ley gắn bó với vợ ông đến độ nào, ông bày tỏ sự đam mê như thế nào, và để giải thích thái độ của ông, sau cái chết của bà vợ, khiến ông đã trở nên, đối mọi người, kể cả Hitler, một động lực của sự đau đớn đến thành ngu dại. Quốc trưởng xúc động khi hay tin Ley nối kết với một người đàn bà nguy hiểm, chừng 19 tuổi người Estonie mà mục đích là để nhắc lại cho ông người vợ đã mất. Bác sĩ Morell lãnh trách nhiệm chuyền trong chúng tôi các bức ảnh của bà vũ nữ đó, những bức ảnh mà mọi người thấy có một sự giống nhau đặc biệt với bà Ley. Với sự khẩn khoản của Ley, cách để tóc, sự trang điểm và trang sức của cô ta đều hoàn toàn làm giống bà Ley, khiến người ta có thể tưởng mình bị ám ảnh bởi một ảo tưởng. Tuy nhiên, tôi phải thêm rằng cô nàng Estonie này vượt xa bà Ley về trí thông minh và tài khéo léo. Ley có ý nghĩ sẽ được Hitler dễ dàng tha thứ khi nhấn mạnh sự giống nhau giữa cô nàng ông bảo trợ và bà vợ mới mất của ông. Ông hy vọng sẽ được phép cưới cô ta. Nhưng sự sắp xếp của ông đã bị hố. Hitler cho rằng sự làm sống lại người vợ đã mất bằng những nét của một người đàn bà khác như là một sự miệt thị người quá cố. Ông nói vói tôi rằng trong những sự kiện đó, ông không bao giờ còn bước chân đến nhà Ley nữa.
Tôi tưởng rằng Hitler chỉ chú ý đến một người bạn vĩ đại độc nhất đã ảnh hưởng thật sự ở ông, đó làthi sĩ Eckharh.
Người ta có thể tự hỏi tại sao Hitler, sau chiến tranh 1914-1918, có thể đến những nơi mà bình thường phải cấm từ cấp cai trong cuộc đại chiến. Nhiều người không biết rằng từ 1930 ông đã quen thi sĩ Eckharh. Sự ngẫu nhiên khiến thi sĩ dự kiến trong một cuộc họp trong khung cảnh buổi họp mặt trẻ trung NSDAP, Hitler với sự hăng hái cố hữu, đã mô tả trạng thái hỗn độn trong đó Đức quốc phải tranh luận với nhau, ông cầu mong dân chúng hãy hoàn thành một cố gắng bùng dậy trong sự chấp nhận một chủ thuyết mới về Quốc xã. Nguồn từ lực ông phát ra, những luận cứ ngọc ngà, tài ăn nói đam mê đã đập mạnh vào phần sâu thẳm của nhà thi sĩ già yêu nước. Eckharh hoàn toàn bị thu hút, ông tỏ ý rằng sẽ theo Hitler mà ông cho như người được toàn thế giới nói đến. Tức khắc, ông về ở vùng quê để thu góp tình cảm dân chúng trong các chỗ xã giao ở Munich. Ông
giới thiệu Hitler với các xưởng kỹ nghệ, với các công chức cao cấp, các nghệ sĩ và chứng tỏ một kẻ đầy nhiệt tâm không biết mệt để thu góp những người quốc gia Baviere vào phong trào quốc xã. Eckharh chống đối mạnh mẽ tiên kiến mà một vài nơi không chấp nhận một hạ sĩ, không địa vị, không gốc tích, cầm đầu một phong trào với mục đích thống nhất ý chí nước Đức. ông không lùi bước trước một hy sinh nào để làm giảm sự do dự của các môi trường về tiền tệ và kinh tế trước "kẻ vô danh hôm qua" tự đặt mình là kẻ giải phóng quê hương. Thi sĩ trở thành một nguồn thu hút của những kẻ gia nhập đảng mới. Không hề biết mệt nhọc, ông tổ chức các cuộc hội họp, khiến sự tuyên truyền dè dặt lúc đầu bùng nổ thành một tổ chức thực sự.
Nhưng sự giúp đỡ vật chất này không bao nhiêu so với ảnh hường trực tiếp mà Eckharh tác động trên các môn đồ của ông. Già hơn 20 tuổi, Hitler xem ông như một ân nhân và một người bạn trung thành. Sự hiểu biết rộng rãi, tính khôi hài tinh mẫn và sự thông minh sâu sắc làm ông cảm động đến nỗi Hitler là ngưòi đa nghi về vấn đề này, đã coi ông như môn sinh. Hai người sống trong tình bạn chân thật. Ảnh hưởng của Eckhah hẳn nhiên đã xác định trên tính tình và sự hiểu biết của Hitler. Ảnh hưởng đó đã tránh cho ông những bước đầu nhiều dò dẫm đẳng cay và đau đớn.
Khi Eckharh cho trình diễn tác phẩm của ông phỏng theo một vở kịch của Henri Ibsen, ông thường lui tới Bá Linh. Mỗi lần như vậy, Hitler lại đi theo thi sĩ, và ông có dịp dạo trong các môi trường của giới quyền quí cao sang ở Bá Linh, những người còn bướng bỉnh với ý tưởng của ông hơn ở Munich nữa. Hitler nhờ bạn, đã giao thiệp với các văn sĩ nổi danh, các nhà kinh tế giá trị và các nghệ sĩ tài ba.
Cái chết của Eckharh đối với Hitler là một cú nặng. Trong đời ông, ông không bao giờ còn tìm được một người bạn mà ông đã chung sổng trong một sự hòa điệu về tư tưởng và tình cảm. Mỗi lần nhắc lại thi sĩ với tôi, mắt ông mờ lệ. Sau khi cầm quyền, Hitler thường nhắc lại sự tiếc nuối cái chết quá sớm của nhà thi si đến nỗi bây giờ ông có thể giao cho ông ta tài sản mà trước kia ông ta đã xài cho ông.
Tuy vậy, nếu tôi đã nói từ đầu chương này rằng Hitler hoàn toàn trung thành với các chiến hữu đầu tiên của ông, mặc cảm mang ơn này nảy nở trong những năm sau cùng của cuộc sống, dưới những biến cố dồn dập. Tôi biết nhiều người, nhất là các vị tướng lãnh những người mà ông ta đã bày tỏ tình bạn đáng trọng trong nhiều năm dài và bỗng nhiên, rơi vào trong quên lãng. Một số lớn những người bạn đầu tiên của ông đã làm ông phẫn nộ mà không có sự giải thích có thể thừa nhận được nào về sự thay đổi thái độ của ông. Tôi muốn kể thí dụ đặc biệt về Bác sĩ Brandt, người màtừ năm 1933 đãtheo Hitler đi khắp nước.
Cũng nên giải thích, bằng cách nào, vị Bác sĩ trẻ này đã được lòng Hitler, vì ông ta, trong trường hợp đặc biệt này đã tỏ bày mọi sự vong ân và thù ghét mà ông có thể làm khi có người làm ông mất lòng tin.
Trong thòi gian ở tù của Hitler và các người trung thành đầu tiên với ông ở Lansberg, những người này thường trao đổi thư từ cho qua thì giờ, trong khi vị chỉ huy của họ viết cuốn kinh thư chủ nghĩa quốc xã "Mein Kampf". Ernil Maurice, người tài xế đầu tiên của ông, viết một bức thư thán phục cho Anni Rehborn, người vô địch thế giới về bơi lội thời đó. Tiếp theo là một cuộc trao đổi thư từ đều đặn khi Hitler mãn tù, nhà nữ thể thao gia được tài xế ông giới thiệu với ông. Hitler và cô Rehborn kết tình thân hữu. Một hôm cô ta cho ông biết vị hôn phu của mình, một y sĩ phụ giáo ở Bochum. Đó là bác sĩ Karl Brandt.
Thời đó, Hitler có thói quen chạy xe bơi bạt mạng qua các vùng quê nước Đức. Trong một cuộc di chuyển ông bị một tai nạn, trong đó vị tùy viên của ông, Bruchner bị thương nặng. Sự ngẫu nhiên đưa đẩy Bác sĩ Brandt và cô Rehborn đi theo đoàn tùy từng. Sự khéo léo của Bác sĩ Brandt khi săn sóc cấp thời các người bị thương với phương tiện biến chế đã gợi sự chú ý của Hitler. Ông phong ngay chức y sĩ riêng cho Brandt. Brandt nhận chức vị đó với sự cảm động và tiếp tục theo học ở đại học Bá Linh, ở đó ông xuất thân với tước vị bác sĩ giải phẫu nổi tiếng. Tuy nhiên sự hợp tác giữa Quốc trường đệ tam Reich và y sĩ của ông bị xáo trộn khi Bác sĩ Morell xuất hiện, và được phong làm y sĩ hộ thân của Hitler.
Brandt chối bỏ cách thức chữa bệnh của Morell và công nhiên xem ông ta như lang băm. Ông làm trò cười về sự khoe khoang và sự khao khát lợi dụng của "thầy
lang" của Hitler. Không những chỉ có những cãi vã đầy sóng gió giữa Brandt và Morell mà cũng có những trận dữ dội giữa Hitler và Brandt, về Morell vội vã mang lại cho vị chỉ huy của ông tất cả những sự xúc phạm mà ông là đề tài. Hitler chịu sự trị liệu của Morell và hay nghe những điều Morell kể lể. Để tránh những âm mưu làm hại Morell ông cho hai đối thủ chức giáo sư.
Trong thời kỳ chiến tranh, Hitler ít nhờ Brandt săn sóc, Brandt chỉ còn săn sóc y tế cho các toán ở mặt trận miền đông. Được giữ chức Tổng ủy viên Y tế công cộng và vệ sinh toàn quốc, chính nhờ tước vị này ông đã làm những cuộc nghiên cứu vàthí nghiệm khiến ông bị khiển trách dữ dội ở Nuremberg.
Tuy nhiên, thời đó Brandt còn được Hitler nể nang. Hitler thường mời ông hội kiến tay đôi. Điều không thể làm Bormann không ganh tị và khinh khi. Nhiều âm mưu sâu độc nhất được thiết lập đề làm Hitler xa Brandt. ông này, khốn thay lại quá ngay thẳng nên không rơi vào cạm bẫy nguy hiểm vàcay độc quanh ông.
Brandt luôn luôn đặt Hitler trong sự cảnh giác về các trị liệu của Morell. Một hôm ông mời các cộng sự viên thân cận của Quốc trưởng đến để cắt nghĩa cho họ là không nên để sức khỏe yếu ớt của Hitler trong tay một lang băm. Chính Hitler, tháng 9 năm 1944 đã làm một trận dữ dội khi Brandt khuyên ông tự chữa bằng cách dùng các loại thuốc đã được biết. Khi Brandt chứng minh cho ông rằng một vài gói mà Morell cho ông uống có chứa các loại độc dược, Hitler quay lưng lại và cho ông nghỉ việc luôn.
Tình cảm Hitler thường bộc lộ vói Brandt đã trở thành sự thù hận một cách mù quáng đến nỗi ông có cảm tưởng chính Brandt tìm cách đầu độc ông. Với ông, sự thù nghịch giữa 2 y sĩ là bằng chứng rằng Brandt đã dự vào một băng đồng mưu quyết gây khó cho ông. Sự thù hận tăng lên trong các tháng cuối của chiến trận. Tháng 3 năm 1945, ông hay tin Brandt sửa soạn đến miền tây Đức, trong một vùng mà tối hôm trước đã bị Đồng minh chiếm đóng. Hitler cho cử chỉ này là một sự phản bội và tuyên án tử hình Brandt. Các toán quân Hoa kỳ đến đúng lúc để cứu vị y sĩ ra khỏi pháp trường. Nhưng chỉ một phần, tòa án Nuremberg trong lúc tuyên án giảo hình Brandt đãlàm hài lòng Hitler dưới suối vàng....
Từ sự kính trọng đến sự lố bịch chỉ một bước
(HITLER)
CHƯƠNG IX.
Từ trước chúng ta đã thấy rằng Hitler có hai cách để thành công, được phát triển đến mức độ tài tình : ý chí vàtrí nhớ. Điều lạ hơn nữalàsự cứng rắn và ương ngạnh của ông kết hợp thành một nét khác của tính tình luôn luôn nhẹ nhàng và đầy âm mưu của ông.
Nếu Hitler là một quái vật của ý chí, một thiên tài về trí nhớ, thì cũng là, tôi không dám nói nhất là, một bậc thầy của các trò hề và đạo đức giả. Một tính đạo đức giả tự nhiên đến nỗi, chính ông cũng bị lầm, và tính toán đến nỗi được thực hiện trong từng cử chỉ, từng hành động.
Hitler chất chứa trong mình cái định lý ghi ở đầu chương. Trong các cuộc nói chuyện với chúng tôi, ông nhắc lại mãi câu nói đó và giải thích rằng ông dùng nó như một nguyên tắc để không bao giờ bị mất mặt trước kẻ đối thoại hay trong mắt những kẻ chung quanh.
Thường ông nhấn mạnh câu đó bằng cách nháy lại câu ca dao bình dân xác định rằng : "Với người bồi phòng, không có kẻ cao quí".
Với một nghệ thuật khéo léo trong niềm lo lắng không có được hào quang trên vương miện, Hitler trong mọi trường hợp biết cách tự tạo chiếc mặt nạ cho mình. Sự lo sợ đi sai đường ở ông đã trở thành một cơn bệnh. Nó giải thích sự man trá mà Hitler hay dùng trong nhiều trường hợp.
Trên kia, tôi đã nhấn mạnh sự khó khăn của Morell, y sĩ trẻ, khi làm cho ông chịu để đấm bóp hay chụp hình quang tuyến X. Hitler bị ám ảnh bởi sự khó chịu khi cởi áo quần trước người lạ, sợ rằng người này sẽ lợi dụng điều đó để làm hư tiếng tăm của ông. Hơn nữa, người bồi phòng không bao giờ được quyền vào phòng ông khi ông chưa ăn mặc từ đầu đến chân. Sự lo lắng "Không biết người ta sẽ nói gì" được biểu lộ trong mọi sự nhỏ nhặt nhất. Chẳng hạn, từ khi cầm quyền
Hitler không mặc chiếc quần ngắn bằng da, hay dùng ở xứ Bavière nữa. Ông tiếc không được ăn mặc tự do như vậy, song, ông nói, để mặc các quần ngắn thì phải có cặp đùi sạm nắng mà tôi không được như vậy. Một cách đơn giản ông ta sợ với ý tưởng làsẽ lố bịch trong cách ăn mặc bậy bạ như vậy ở tư thế Quốc trưởng.
Theo nguyên tắc, ông cũng tránh cả việc thư từ với các bà quen biết. Một hôm một bức thư tỏ tình của Streicher rơi vào tay một kẻ bẻm mép. Các chữ dùng trong thư nóng bỏng đến nỗi vị Gauleiter ở Franconie trở nên trò cười cho công chúng. Vì thế Hitler cho rằng các người tai mắt cấm viết thư tình. Rõ ràng là ông tacó thư từ với cô bạn Eva. Nhưng tôi biết thư của ông luôn luôn gồm những câu ngắn gọn và không bao giờ chứa chất tính cảm. Nó được đưa tay từ người viết đến người nhận do Bormann, Schaub hay Fegelein và không bao giờ gửi bằng đường bưu điện.
Hitler săn sóc với sự chú ý đặc biệt các cuộc tổ chức tiếp tân của ông. Ông lo sợ với ý nghĩ rằng nhân viên của ông có thể nhầm lẫn trước các khách khứa, sự nhầm lẫn có thể làm lu mờ uy thế của ông. Tôi đã nghe ông dọa nạt Kallenberg, viên quản gia của ông, những trừng phạt nặng nề về việc làm bậy trong một buổi dạ hội. Ông có thói quen hội họp nhân viên trước mỗi buổi tiếp tân để nhắc nhở họ về các điều quan trọng trong phần việc của mỗi người. Trước khi khách đến ông thường nhìn qua trên bàn để xem xét có món gì thiếu không. Năm 1939 khi Ribbentrop từ Moscou trở về, ông hỏi dài dòng vị sĩ quan tùy viên, người đã đi theo ông ta. Khi ông này nói cho ông hay rằng Staline trước khi mời khách vào bàn ăn đã quan sát bàn ăn rất lâu để xem có thiếu gì ở đấy không, tôi cẩn thận nhận xét rằng : "Staline hình như có cùng mối lo như ngài về một sự trình diễn không chê trách được". Và tôi đã tự quyến rủ bởi câu nói này : "Các gia nhân của tôi và căn nhà của tôi luôn luôn hoàn toàn".
Tôi có thể kể vô số thí dụ chứng tỏ mối ám ảnh của Hitler muốn tránh sự xâm phạm vào uy tín của ông. Đoạn sau đầy là biểu trưng mà tôi không thể không ghi chép nó.
Trước khi cầm quyền, có người biếu ông một con chó nhỏ loại scotch — tenier mà ông xem như bạn. Những cử chỉ âu yếm của chú chó nhỏ làm ông thích
thú thấy rõ. "Burly", tên nó, có toàn quyền, nó dẫm lên ghế bành, nó cắn rách các hồ sơ bí mật nhất. Hitler chơi với nó như một đứa trẻ. Nhưng ông luôn luôn coi chừng không để sự giải trí này lọt vào mắt người ngoài. Ngay cả trước mắt tôi, ông đẩy con vật một cách tàn bạo khi nó lại gần, để rồi gọi nó lại với những câu dịu dàng âu yếm nhất khi tôi rời khỏi phòng. Ông cấm Hoffmann, người thợ chụp hình, đưa ra công chúng bức hình chụp ông đang đùa với Burly, giải thích rằng một người trong địa vị ông không thể trình diện trước công chúng bên cạnh một con chó.
Nếu Hitler săn sóc tỉ mỉ dáng vẻ bên ngoài của ông, ông cũng mang cùng sự lo lắng cho danh tiếng của ông mà ông muốn không ai động đến. Không bất cứ trường hợp nào ông chịu mất danh tiếng để dàn xếp các cuộc cãi cọ hay làm trọng tài để phân xử các trận tranh luận. Cảm quan về trách nhiệm của ông rất co giãn. Với những âm mưu gần như đê tiện, ông biết đặt mình ra ngoài trong những hoàn cảnh có thể làm hư danh.
Tôi đã thấy ông hành động như vậy với một sự thiếu hẳn sự cẩn thận. Người biết mọi việc như ông lại luôn luôn thiếu sáng suốt để có thể tránh cho mình những vấn đề gai góc. Ông biết dùng vật hy sinh một cách tài tình. Ông dùng những chiêu bài công lý, thật thà để che đậy những lý do sâu xa các hành động của ông và để đẩy xa mọi sự làm hư danh có thể xảy đến cho ông.
Khi ông muốn tẩy chay ai, ông ít khi thú nhận những động lực thực sự, mà luôn luôn dùng những chiêu bài đưa mọi người vào lầm lẫn. Tôi chỉ nêu ra thí dụ về Thống chế von Blomberg nạn nhân của một âm mưu đê tiện nhất đã đưa ông ra khỏi chức vụ cầm đâu quân lực. Khi ông cho Hitler hay tin ông ta sẽ cưới cô thư ký của ông ta Hitler tìm ra những chiêu bài tưởng tượng để đẩy ông ta ra khỏi địa vị hiện tại khi ông đang thành hình những chương trình tổ chức quốc gia. Quốc trưởng đồng ý cho ông kết hôn và giữ vai trò nhân chứng bên cạnh Goering. Von Blomberg ngạc nhiên vô cùng khi người ta đưa ra một biên bản của Gestapo ghi những chi tiết nghi ngờ về quá khứ của cô vợ trẻ của ông để đưa ông ra khỏi quân đội. Hitler tiên đoán tất cả, ngay cả vụ ly dị của von Blomberg điều có thể làm đảo lộn chương trình của ông. Trong đơn xin từ chức ông bị buộc phải