🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 12 Kỳ Án Trung Hoa - Huyền Cơ full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
12 ĐẠI KỲ ÁN TRUNG HOA —★—
Biên soạn: Huyền Cơ
Phát hành: Nhà sách Văn Chương Nhà xuất bản Thời Đại 2012
ebook©vctvegroup
31-03-2019
MỤC LỤC
THAY LỜI TỰA
1 ĐỊCH NHÂN KIỆT HUYỆN QUAN SÁNG SUỐT 2 BAO CÔNG ĐỆ NHẤT PHÁN QUAN 3 BAO THANH THIÊN LINH MIÊU HOÁN CHÚA 4 TỐNG TỪ ĐẶT NỀN TẢNG PHÁP Y HỌC 5 HÀ VIÊN NGOẠI GIAN NGOAN XẢO QUYỆT 6 HÀN THỤY LONG ĐƯỢC VÀNG MẮC TỘI 7 NGÔ NGỌC SÁT NHÂN GIẤU XÁC
8 TIÊU SINH THẢM KỊCH GIA ĐÌNH 9 LAI PHÁP NGƯỜI NGAY ĐƯỢC PHÚC 10 LÝ TRINH TÚ HÀM OAN GIẾT CHỒNG 11 SỬ MINH XÉT ÁN TỎ TƯỜNG
12 BẠCH LƯƠNG NGỌC TRA THỔ THẦN PHÁ ÁN
THAY LỜI TỰA
Với chiều dài lịch sử hơn 5000 năm, các triều đại phong kiến Trung Hoa xưa kia chắc chắn phải đối mặt với muôn vàn vụ án khó khăn, tế nhị và không ít vụ án phán đoán sai lệch, làm cho nhiều người khác bị hàm oan, bởi thiếu rất nhiều lý luận khoa học như ngày nay. Tuy nhiên, cũng không ít các phán quan công minh sáng suốt xuất hiện, giúp cho người dân giải được hàm oan. Nổi bật nhất trong các phán quan là Bao Chửng, được dân gian biết đến qua tên Bao Công ở đời Bắc Tống. Sau đó đến thời Nam Tống, một phán quan khác còn nhiều công lao hơn, đó là Tống Từ, không những lấy việc giải oan cho người dân làm niềm đam mê mà còn có tinh thần rất tiến bộ, lấy pháp y học ra làm chứng cứ kết tội hoặc giải oan.
Trong khi Tây phương mãi đến thế kỷ thứ 17, 18 mới có hai nhà nghiên cứu pháp y học người Italia đứng ra phổ biến thì Tống Từ đã biết đến phương pháp khoa học này từ hơn 450 năm trước. Sau khi Tống Từ qua đời vào năm 1247, tức là vào thế kỷ thứ 13, ông để lại cuốn “Tẩy oan lục” rất có giá trị, giúp những phán quan đời sau có thêm tư liệu để hoàn thiện phương pháp để xử án. Trải qua mấy trăm năm nữa, hệ thống dùng Pháp Y học làm chứng cứ xét án đã được phát triển rất mạnh và lên tới tột đỉnh vào các đời nhà
Minh, Thanh với rất nhiều vị phán quan sáng suốt chẳng kém Bao Công.
Số lượng các vụ án ly kỳ trong lịch sử phong kiến Trung Hoa có thể lên đến hàng vạn, vì vậy chưa một cuốn sách nào có thể tổng kết một cách hoàn hảo. Do vậy, để góp phần giữ lại những kỳ án và oan án điển hình của triều đại phong kiến Trung Hoa, chúng tôi chỉ trích dẫn 12 truyện, bao gồm nhiều thời đại như Đường, Tống, Minh, Thanh mà thôi. Rất mong được bạn đọc thông cảm.
Trân trọng
Người biên soạn
1
ĐỊCH NHÂN KIỆT
HUYỆN QUAN SÁNG SUỐT
Triều đại nhà Đường trải qua một thời gian dài thịnh trị với sự cai trị anh minh của các Hoàng đế họ Lý. Thế nhưng dần dần ngồi trên ngai vàng, dòng họ Lý mất dần tính cách anh hùng thao lược của người đã sáng lập ra triều đại này là Lý Thế Dân, truyền ngôi cho đến Duệ Tông Lý Đán thì triều chính bắt đầu suy đồi, tạo điều kiện cho một người đàn bà vừa tuyệt sắc vừa có tham vọng điên cuồng là Võ Minh cướp ngôi Hoàng đế, xưng là Võ Tắc Thiên Thánh Thần Hoàng đế, thường được lịch sử gọi là đời Võ Hậu. Trước đó, ở triều đại của Đường Cao Tông Lý Trị, nơi đất Thái Châu đã sản sinh một nhân tài thông minh xuất chúng, học vấn rộng rãi tên là Địch Nhân Kiệt. Không ai có thể ngờ rằng chính ông là người đứng ra phục hưng triều đình nhà Đường sau này, thoát khỏi bàn tay độc ác tàn nhẫn của Võ Tắc Thiên.
Với sự cần mẫn học hành, khi lớn lên Địch Nhân Kiệt thi đậu kỳ thi Minh Kinh và được bổ nhiệm làm quan Tri huyện ở Xương Bình. Tuy là một chức quan nhỏ nhưng Địch Nhân Kiệt vẫn tận tâm lấy hết sức mình ra cai trị, chẳng bao lâu đã nổi tiếng là vị quan công minh liêm khiết, được người dân ca tụng, kính trọng xưng hô là Địch Công chứ không bao giờ dám gọi tên tục của ông
ra.
Một ngày kia Địch Công vừa mới thăng đường thì nghe có tiếng náo loạn từ ngoài cổng, lập tức sai nha lại chạy ra xem. Hóa ra đó là một đám đông đang lôi kéo chàng trai khoảng hơn 20 tuổi, ai nấy đều kêu khóc đòi phải giết chàng trai đó giải oan cho người nhà của họ, tất cả đều cư ngụ tại thôn Lục Lý Đôn. Địch Công liền bắt những người hiếu kỳ ở ngoài, chỉ cho các đương đơn và bị can liên hệ tới vụ án mạng vào công đường, quỳ dưới sân chia làm hai bên.
Ông nhìn xem thì phía bên nguyên cáo là một phụ nữ đã khá lớn tuổi, còn bên bị cáo là hai cha con, trong đó có một chàng trai trẻ tuổi nhưng không phải người bị đám đông lôi kéo, chắc còn đứng ở ngoài. Sau khi đôi bên đã ổn định, Địch Công liền hỏi lớn:
- Các bên khai tên tuổi ra trước đi, sau đó khiếu kiện gì thì hãy nói rõ rồi trình bày các bằng chứng cho bản quan xét xử. Người phụ nữ lớn tuổi chính là nguyên cáo nên vội vàng nói trước, giọng nói còn nghẹn ngào chứng tỏ chưa sao trấn tĩnh được: - Bẩm Tri huyện đại nhân, lão họ Lý, có chồng là học trò họ Tại. Vợ chồng lão đã lớn tuổi mới sinh được đứa con gái tên là Lý Lê Cô. Vì chồng chết sớm nên lão ở vậy khó nhọc nuôi con cho đến khi khôn lớn. Để cho con gái có tấm chồng học thức, mai sau được dựa bóng tùng phu làm vẻ vang cho gia đình, lão đã cất công nhờ cậy ngài Sử Thanh Lai làm mai mối, lấy con trai của Cử nhân Hoa Quốc Tường tên là Văn Tuấn.
Lý thị vốn là con nhà gia thế vọng tộc nên được người trong huyện thường tôn xưng gọi bà bằng Lý phu nhân mặc dù người
chồng chưa có công danh gì thì đã qua đời. Nói đến đây Lý phu nhân quay qua chỉ mặt chàng trai, vừa khóc vừa nói tiếp: - Chính hắn là Hoa Văn Tuấn, đã thông đồng với gia đình họ Hoa giết chết con gái của lão. Xin tri huyện đại nhân trừng trị. Địch Công biết Lý phu nhân đang lúc xúc động lời lẽ không rõ ràng nên cũng không chấp nhất, hỏi lại thì mới biết đám cưới của hai họ Lý và Hoa diễn ra rất linh đình bởi đôi bên đều môn đăng hộ đối. Thế nhưng chỉ ba ngày sau con dâu đã chết tại nhà chồng, khi Lý phu nhân được tin đến nơi nhận thấy có nhiều dấu hiệu khả nghi như người bị sưng phồng lên, da dẻ đều bầm tím, thất khiếu đều có máu ứa ra. Vì vậy Lý phu nhân đề quyết họ Hoa đã hạ độc giết chết con mình, kéo chú rể mới cùng với Cử nhân Hoa Quốc Tường lên công đường kiện cáo.
Địch Công nghe xong, quay lại hỏi Hoa Quốc Tường: - Theo lời tố cáo thì con dâu đang khỏe mạnh, về nhà chồng mới ba ngày đã chết thảm thì thật đúng là án mạng rồi. Ông là người có học vị của triều đình, tức là đã thông hiểu lễ nghĩa thánh hiền, chắc không phải thủ phạm, có lẽ đã giáo huấn con cái không nghiêm nên mới gây nên tội như vậy chăng? Hãy mau khai thực ra đi kẻo bản quan dùng tới cực hình thì không tránh khỏi đau đớn. Hoa Quốc Tường cũng khóc, quỳ xuống thưa:
- Cử nhân tôi là người gia giáo, ngược đãi con dâu cũng chưa dám nữa là xuống tay hạ thủ. Con trai tôi là Hoa Văn Tuấn tuy chưa có công danh nhưng vẫn là học trò tính tình hiền lương, trong huyện ai cũng biết, đâu thể nào là thủ phạm được? Con dâu chết bất đắc kỳ tử, gia đình họ Hoa chúng tôi cũng vô cùng đau xót, xin
đại nhân sáng suốt tìm ra thủ phạm thì thật là đại ân đại đức không bao giờ dám quên.
Nghe vậy Địch Công hoàn toàn không hiểu nổi tại sao lại xảy ra cái chết thương tâm như vậy, hạch hỏi Quốc Tường: - Ông nhất quyết cha con đều không thể là thủ phạm, vậy có nghi ngờ cho ai không?
Hoa Quốc Tường gạt nước mắt thưa:
- Họ Hoa chúng tôi đề quyết đó là tên Hồ Tác Tân chứ không sai.
Khi hỏi đến bằng chứng thì cả Lý phu nhân lẫn Hoa Quốc Tường đều không đưa ra được, chỉ dựa vào một lời hăm dọa mà đề quyết như vậy mà thôi. Nguyên lệ ở huyện này thường có mở tiệc vui trong tân phòng, cho các thanh niên thiếu nữ vào vui đùa, nếu tân lang và tân nương muốn yên thân hợp cẩn thì phải thuyết phục hoặc năn nỉ nhiều lần mới thoát được sự quấy rối của các thanh thiếu niên. Hoa Quốc Tường cũng theo lệ đó, cho khá nhiều bạn đồng học với Văn Tuấn vào náo tân phòng. Trong số ấy có một chàng trai tên là Hồ Tác Tân, tuy đã đậu Tú tài nhưng tính thích náo động nên nhân dịp thấy tân nương xinh đẹp thì càng ra sức trêu ghẹo phá phách, không cho họ động phòng, đến nửa đêm vẫn còn uống rượu và bắt ép Văn Tuấn phải cùng vui với mình. Hoa Quốc Tường thấy đêm đã khuya, sợ lỡ mất giờ tốt động phòng nên mời tất cả lên thư phòng của mình tha hồ uống tiếp.
Bọn thanh niên liền bắt cô dâu uống ba chén lớn gọi là tạ lỗi rồi mới bằng lòng rời khỏi tân phòng, thế nhưng chỉ riêng Hồ Tác Tân nhất định không chịu nên Hoa Quốc Tường nổi giận nói mấy lời
nặng nề, đuổi ra khỏi nhà. Hồ Tác Tân xấu hổ quá hóa hung, trước khi ra khỏi nhà còn hăm dọa: “Được rồi, trong ba ngày sẽ biết tay họ Hồ này”.
Hoa Quốc Tường đã bớt nóng, sợ rằng Hồ Tác Tân giận mãi nên ba ngày sau làm lễ lại mặt rồi, hoàn tất việc cưới xin liền mời hắn đến uống trà làm hòa. Đúng đêm hôm ấy cô dâu Lý Lê Cô trúng độc mà chết. Riêng Văn Tuấn vì không thích uống trà nên toàn mạng. Theo suy đoán của hai họ thì chính Hồ Tác Tân đã hạ độc trong trà chứ không ai khác, còn cách hạ độc như thế nào không biết, xin quan Tri huyện khám phá giùm.
Địch Công liền hỏi:
- Tuy chưa có bằng chứng xác thực nhưng theo lời khai thì Hồ Tác Tân cũng đã là nghi phạm, sao không giải tới đây? Hoa Quốc Tường thưa:
- Chúng tôi đã bắt giữ hắn rồi, còn đứng ngoài cổng nha môn chờ lệnh của đại nhân.
Địch Công lập tức ra lệnh, chỉ trong giây lát đã thấy chàng thanh niên trẻ tuổi kia cùng với một phụ nữ trạc tuổi trung niên, vừa khóc vừa đi vào, có lẽ đó là hai mẹ con. Thấy Hồ Tác Tân quỳ xuống, Địch Công liền mắng phủ đầu:
- Ngươi đã là Tú tài thì theo lệ triều đình không bị tra khảo. Thế nhưng ngươi cũng không dựa vào đó mà chối tội bởi đã có nhiều bằng chứng chính ngươi đã hạ độc trả thù. Bản quan cũng là người xuất thân từ khoa cử, vì vậy lấy lời lịch sự mong rằng ngươi khai thật ra đi.
Hồ Tác Tân chợt khóc ngất, cúi lạy rồi thưa:
- Đại nhân đã nói rõ ràng như vậy thì Tú tài tôi xin thưa thật rằng quả là oan ức. Đã là học trò thì lẽ nào chỉ vì một chuyện nhỏ mà tôi có thể hạ độc được? Vả chăng theo lệ thì bạn bè được tha hồ náo loạn tân phòng, có khi gia chủ hay tân lang phải năn nỉ hết lời họ mới chịu rút lui. Đằng này khách có đến hơn 40 người mà Hoa Cử nhân không trách một ai, cứ nhằm vào Tú tài tôi mà nói hãy dừng cuộc quấy phá. Tôi cũng đã định làm theo lời nhưng lại sợ người khác mất hết hứng thú nên có nói là sẽ vui chơi thêm ít nữa. Chẳng ngờ Hoa Cử nhân đột ngột nổi nóng mắng như tát nước vào mặt. Một học trò trọng danh dự như tôi thì làm sao chịu được nhục nhã ấy, vì vậy cũng nóng mặt nói dọa để trả đũa, ý định là làm cho họ Hoa phải lo lắng trong ba ngày bõ ghét. Vả chăng sáng ngày thứ ba Hoa Cử nhân đã mời tôi đến uống trà, như thế là đã giải hòa rồi, còn dám bỏ thuốc độc hay sao?
Thấy Địch Công chú ý lời mình nói, Hồ Tú tài thưa tiếp: - Hiện Tú tài tôi dạy dỗ mấy đứa học trò trong nhà, dù gì cũng là bậc sư phụ, chẳng lẽ đi làm chuyện phi pháp để thế gian chê cười, học trò phỉ nhổ hay sao? Tôi lại phải nuôi mẹ già nhiều bệnh, chữ hiếu đặt lên hàng đầu, chưa tính đến việc vợ con thì lẽ nào ganh ghét vì bạn lấy được vợ đẹp? Vì vậy xin đại nhân minh xét, đừng nghi cho học trò là kẻ giết người.
Khi Hồ Tú tài thưa xong thì đến lượt người mẹ cũng quỳ xuống kêu khóc, đoan quyết rằng con mình từ trước đến nay chưa hề tỏ ra là người độc ác, lại có chí tiến thủ vừa dạy học kiếm sống vừa chăm chỉ học hành để mai sau đoạt lấy công danh, làm vinh hiển cho dòng tộc. Bà mẹ của Hồ Tú tài vốn chỉ có một đứa con trai, chồng
chết sớm nên đặt hết hy vọng vào nó, nếu bây giờ bị khép tội giết người thì thật oan uổng, bà cũng khó mà sống nổi, vì vậy phải theo con đến công đường kêu nài.
Địch Công nghe xong ba lời khai thì hết sức phân vân, không sao quyết định được, trong lòng thầm suy tính:
“Nghi phạm thứ nhất là Hồ Tác Tân. Thế nhưng việc quấy nhiễu tân phòng tuy là hủ tục nhưng một người đã có chút học vị như họ Hồ không thể vì chút hiềm khích mà dễ dàng ra tay hạ độc. Vả chăng hắn làm như vậy tức là tự nhận tội hay sao bởi chỉ có mấy người trong lúc uống trà mà thôi. Riêng họ Hoa được con dâu xinh đẹp, mới ba ngày thì làm gì có xích mích đến nỗi phải giết người? Tất cả chỉ do họ Lý quá phẫn uất vì cái chết đột ngột của con dâu nên tố cáo cũng không thể trách họ được. Bây giờ lý lẽ chưa có gì chắc chắn, nếu ta xử án vội vàng tất sẽ có người mắc hàm oan, chi bằng tạm thời hoãn lại chờ tìm được chứng cứ khác rồi xử sau cũng không muộn”.
Do đó Địch Công nói với Lý phu nhân:
- Cái chết của Lý thị chưa đầy đủ chứng cứ rõ ràng. Ngày mai bản quan sẽ đến khám nghiệm tử thi rồi mới xem xét tình tiết đúng sai được. Các ngươi cứ tạm về nhà đi, bao giờ xét xong bản quan sẽ gọi đến công đường đối chất.
Địch Công lại nói với Hoa Quốc Tường:
- Còn ông thì về nhà nhớ giữ đúng hiện trường xảy ra vụ án, đừng xê dịch hay thay đổi bất cứ thứ gì, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng phải để nguyên chỗ.
Nghe vậy tất cả đều bằng lòng, chỉ riêng Hồ Tác Tân là nghi
phạm thì bị giữ lại huyện đường khiến người mẹ khóc ngất, rất lâu không chịu rời khỏi nha môn. Còn Hoa Quốc Tường theo lời dặn của Địch Công, về tới nhà sai gia nhân chuyển hết đồ vật nhà sau và nhà trước đi chỗ khác cho rộng rãi, riêng tân phòng thì vẫn giữ nguyên không dám di chuyển bất cứ đồ đạc nào.
Ngày hôm sau Địch Công cùng với nha lại và chức dịch của huyện kéo đến bày biện án thư ở nơi rộng rãi, chừa trống trước mặt để quan huyện gọi người ra thẩm vấn. Hôm đó Lý phu nhân cũng đến để xem tình hình ra sao, không còn trách cha con họ Hoa nữa nhưng cứ khóc ngất từng hồi rất đau thương.
Địch Công uống trà rồi trước tiên gọi Hoa Văn Tuấn ra hỏi: - Ngày thứ ba sau lễ cưới, uống trà xong ngươi cùng vợ về tân phòng lúc mấy giờ? Lúc đó ngươi thấy tình trạng của vợ ra sao, có lăn lộn kêu la hay không? Làm sao biết được ấm trà có thuốc độc mà nghi ngờ cho Hồ Tác Tân đã hạ độc?
Hoa Văn Tuấn liền thưa:
- Ngày hôm ấy mở tiệc trà là để cảm ơn các khách đã có công giúp cho lễ cưới hoàn thành, cũng là dịp để họ hàng đến chúc mừng nên người đến rất đông. Vợ chồng học trò chúng tôi tiếp khách cho đến khi mệt nhoài mới trở về tân phòng. Tân nương thấy khát nước nên sai hầu gái cho mình một chén, xong rồi sửa soạn chăn mền đi ngủ. Tiểu sinh cũng rất mệt nhưng tính không thích uống trà nóng nên nằm ra giường ngủ thiếp đi. Đến canh ba, tiểu sinh chợt nghe tiếng vợ kêu đau thì liền ngồi dậy, tưởng là ăn thứ gì nên lạnh bụng mà thôi. Ngờ đâu nàng càng lúc càng đau thêm, lăn lộn rên la dữ dội. Tiểu sinh đành phải trở dậy, định sai gia nhân
nhân đốt đèn đi tìm lang y nhưng còn ngần ngừ vì đêm hôm khuya khoắt. Thế là được một lát thì vợ tiểu sinh qua đời. Tiểu sinh liền nghĩ ngay đến chén trà vợ vừa uống, rót ra xem thử thì nước trong ấm đen xì, rõ ràng là bị người hạ độc, có lẽ còn toan tính giết cả tiểu sinh nữa đấy.
Địch Công hỏi tiếp:
- Việc ấy thì đương nhiên rồi, bây giờ phải tìm ra thủ phạm. Trong ngày hôm ấy Hồ Tác Tân có vào tân phòng lần nào hay không?
Hoa Văn Tuấn vì phải tiếp khách nhiều nên không nhớ chi tiết này, Hoa Cử nhân liền đáp thay cho con:
- Buổi trưa Cử nhân tôi có thấy họ Hồ cùng vài người bạn vào tân phòng.
Địch Công gật gù hỏi thêm:
- Trước lúc Hồ Tác Tân vào tân phòng thì ấm trà để ở chỗ nào? Sau buổi trưa ấy con dâu có uống trà không hay là để đến tối? Người nào đã pha ấm trà ấy? Ấm trà này được pha một lần hay cạn rồi đổi nước khác?
Thật sự Hoa Cử nhân cũng rất bận rộn nên không thể trả lời được một loạt câu hỏi hết sức chi tiết của Địch Công, đành phải thú nhận rồi nhất định gán tội cho Hồ Tác Tân dựa theo lời hăm dọa đêm động phòng hoa chúc, xin Địch Công cứ tra khảo thật dữ vào tất hắn không chịu nổi mà khai ra.
Địch Công nghe vậy sầm mặt nói:
- Án mạng đâu chỉ là trò đùa, cần phải xem xét thật tỉ mỉ và
khách quan mới thấy được sự thật. Bản quan không thể vì một lời hăm dọa mà có thể tra tấn một Tú tài, chắc chắn còn nhiều uẩn khúc. Bây giờ hãy thẩm vấn tới các phù dâu trước đã.
Hoa Quốc Tường tưởng là Địch Công đã ăn đút lót nên cứ bênh vực cho Hồ Tác Tân, lớn tiếng nói nhiều câu khinh miệt quan lại, cho rằng rốt cuộc cũng chỉ là hư danh mà thôi. Hoa Quốc Tường còn lấy danh vị Cử nhân ra đòi đưa vụ án lên quan cấp trên nếu như Địch Công không tra xét đúng đắn. Địch Công nghe vậy hết sức tức giận nhưng lại nghĩ Hoa Quốc Tường bị Lý phu nhân tố cáo mất hết danh dự nên quá nóng ruột, nói bừa bãi mà thôi. Địch Công lại nghĩ tới đêm tân hôn ấy, có lẽ chính Hoa Quốc Tường cũng ỷ mình là người tuổi tác cao, học vị lớn hơn Hồ Tác Tân mà buông ra những lời nặng nề, do vậy phản ứng của họ Hồ cũng là lẽ tự nhiên, góp thêm phần chắc chắn là họ Hồ không phải là thủ phạm. Địch Công nén giận nói với Hoa Quốc Tường:
- Bản huyện đặt ra nhiều nghi vấn không phải là muốn bênh vực Hồ Tú tài mà chính là để tìm ra cái chết của con dâu ông mà thôi. Việc này còn chưa khám nghiệm rõ ràng, sao phải nhất định đưa người ra khảo đả. Nếu nhỡ như Hồ Tác Tân bị oan thì ông có đền bù cho người ta được không?
Lời lẽ của Địch Công rất nghiêm nghị khiến Hoa Quốc Tường im miệng không dám nói gì thêm nữa. Sau đó Địch Công gọi người hầu gái thân cận nhất của nhà họ Lý là Cao thị ra thẩm vấn. Thế nhưng Cao thị là người hầu từ lâu, chính tay bồng bế nâng niu Lý Lê Cô, thậm chí được tin tưởng giao cho nhiệm vụ hầu hạ cả khi tiểu thư đã về nhà chồng. Theo suy nghĩ của Địch Công thì một
người có nhân thân như thế tất không bao giờ lại xuống tay với người mà mình đã yêu thương như con cái. Địch Công vẫn tiếp tục thẩm vấn, hỏi:
- Thế là ngươi đã theo sát bên cô dâu lúc về nhà chồng. Vậy thì ấm trà ấy có phải chính tay ngươi pha hay không? Và pha lần thứ mấy.
Cao thị trả lời có vẻ thành thật:
- Trà buổi trưa không có mang vào tân phòng. Chính tay tiểu dân pha trà vào buổi chiều, thấy uống hết thì pha thêm lần nữa đem vào tân phòng.
Địch Công gật đầu hỏi:
- Đó là ấm trà pha lần thứ hai vào chiều tối. Sau khi mang trà vào thì ngươi có túc trực ở đó hay là bỏ đi? Đã có ai uống trước khi Lý tiểu thư uống chưa?
Cao thị đoan quyết là không rời khỏi tân phòng lần nào và cũng không nhớ được có ai đã uống ấm trà ấy trước cả Lý tiểu thư hay không. Do đó những lời khai này thành vô bổ, sự việc vẫn không thể xét đoán được. Địch Công bèn nói với Hoa Quốc Tường:
- Rõ ràng là ấm trà giết người này được pha và mang vào tân phòng từ buổi chiều, tức là khi Hồ Tác Tân đã ra về. Như vậy không thể vì một lời nói lúc giận dữ mà đề quyết cho người ta tội hạ độc giết người. Vụ án phải tạm hoãn trong một thời gian chờ tìm ra chứng cứ mới. Các ngươi cứ chờ bao giờ nhận được lệnh gọi thì lên công đường nghe phán quyết.
Nghe Địch Công phán bảo như vậy, cả nhà họ Lý lẫn nhà họ Hoa đều khóc rầm lên, kêu xin hãy mau mau làm rõ án mạng, bắt
thủ phạm đền tội mới hả dạ. Địch Công rất khó chịu, bắt tất cả mọi người tránh ra bên ngoài, đi một vòng quanh tân phòng xem xét kỹ từng góc nhà, cây cột rồi sau đó mới gọi Hoa Quốc Tường theo mình vào tân phòng.
Lúc ấy ấm trà vẫn để nguyên trên bàn, có mấy hầu gái đứng quanh giường nơi xác của Lý tiểu thư nằm ở đó. Địch Công liền sai một hầu gái lấy chén đem ra rót thử. Quả nhiên màu nước trà khác hẳn thông thường, không những tím đen mà còn có mùi tanh hôi thoang thoảng, lúc đó đã để trà nguội lâu rồi mới có thể nhận ra. Muốn chứng nghiệm nước trà ấy có độc, Địch Công sai đem một ít thức ăn ra trộn nước trà vào rồi đưa cho con chó trong nhà ăn. Chỉ trong một thời gian ngắn, con chó đã lồng lên kêu rú điên cuồng hình như bị đau lắm, một lúc sau thì vật ra chết. Địch Công xem xét tình trạng con chó rồi so sánh với tình trạng khi chết của Lý tiểu thư thì nhận ra loại thuốc độc này thật ghê gớm, lập tức sai niêm phong lại.
Sau đó Địch Công ra ngoài, gọi tất cả các bên liên quan đến nói: - Đúng ra là phải mổ tử thi để khám nghiệm. Thế nhưng đôi bên đều là dòng dõi thư hương, có chút danh phận, vì vậy nếu khám nghiệm thì e rằng người sống lẫn người chết đều không yên. Theo bản quan thì cứ ghi vào văn án là Lý tiểu thư chết vì trúng độc. Còn trúng độc ra sao thì khi bắt được thủ phạm sẽ rõ ngay,
không cần phải khám nghiệm tử thi cho thêm đau xót. Nghe vậy tất cả đều chấp nhận, ký vào biên bản xin được miễn khám nghiệm tử thi, bắt đầu lo liệu việc khâm liệm, quàn lại trước đem đi chôn cất. Chờ cho nhà đòn mang xác của Lý tiểu thư ra
ngoài khâm liệm, Địch Công mới thong thả bước vào tân phòng lần nữa. Ông tiến đến gần giường người chết nằm, cúi sát xuống thì ngửi thấy một mùi tanh nồng từ đó bốc lên nhưng không thể xác quyết được loại chất độc ấy là gì. Ông phân vân đang định cho khám xét dưới gầm giường thì chợt ở phía ngoài có tiếng la hoảng của bọn phu khâm liệm:
- Trời ôi! Sao đã chết mà bụng còn máy động thế này, chắc là quỷ nhập tràng rồi!
Khi Địch Công chạy ra tới nơi thì bọn phu đòn hầu như đã kinh hoảng rời xa xác chết, ai nấy đều run rẩy như đã gặp ma giữa ban ngày, Địch Công vốn rất can đảm, lập tức tiến đến gần tử thi xem xét hồi lâu, chẳng hề thấy có chút gì khác lạ, bụng cũng không hề máy động như lời la hoảng vừa rồi, bằng quay lại nói với mọi người:
- Bản quan đã xét xử biết bao nhiêu vụ án mạng, có khi chết còn thê thảm hơn thế này và vào giữa đêm khuya mà chưa lần nào thấy ma quỷ lộng hành. Chẳng lẽ giữa ban ngày ban mặt, giữa chốn đông đảo người sống lại dám tác quái hay sao? Chắc là bọn phu phụ trách khâm liệm đêm qua uống rượu quá nhiều mờ cả mắt nên hôm nay nhìn lầm đấy thôi.
Nghe vậy bọn phu nhà đòn mới cố bậm môi xúm lại khâm liệm thật mau, lập tức đưa vào quan tài đóng chặt lại, hình chưa vẫn chưa hết sợ hãi. Trước khi về huyện đường, Địch Công chợt nhớ lại ý định khám xét dưới gầm giường vừa rồi, đích thân vào tân phòng lần nữa, nhìn rất kỹ dưới gầm thì thấy mấy giọt máu còn tươi, trong máu hình như có nhiều vật nhỏ chỉ bằng cái lông tơ màu đen đang chuyển động. Địch Công xem xét kỹ rồi, trong lòng đã có chủ
định, lập tức ra ngoài truyền cho Hoa Quốc Tường phải đưa Cao thị đến nha môn xét hỏi.
Thế nhưng khi về đến công đường, Địch Công không hề gọi Cao thị ra thẩm vấn mà sai giam vào ngục dành cho nữ nhân, rồi sau đó luôn mấy ngày không hề nhắc tới vụ án nữa. Mấy ngày không thấy động tĩnh gì, Hoa Quốc Tường hết sức tức giận, nhất định lên huyện hỏi cho ra lẽ, nếu Địch Công muốn ém nhẹm việc này thì sẽ làm đơn thưa lên Án sát tỉnh.
Khi tới huyện đường Xương Bình, Hoa Quốc Tường chất vấn Địch Công:
- Nếu không tìm ra được chứng cứ gì khác thì theo lẽ đại nhân phải xuống lệnh tra khảo nghi phạm duy nhất là Hồ Tác Tân. Tại sao lại loanh quanh hết thẩm vấn người này đến người kia. Cuối cùng còn giam cả Cao thị là người hầu rất mực trung thành mà vẫn không xét hỏi thì làm sao tìm được thủ phạm theo ý của đại nhân đây. Cử nhân tôi tuy bất tài nhưng nếu đại nhân nhất định cho chìm vụ án này thì sẽ lên tỉnh đệ đơn với cấp trên, khi ấy đại nhân không thể trách lão được đâu.
Trước đó Địch Công đã bàn rất nhiều với viên Khổng mục họ Mã, đưa ra bằng hết những lý luận nhưng cuối cùng vẫn không thể chắc chắn được hung thủ là ai. Địch Công lại muốn nhờ Mã Khổng mục tìm giùm cho mình một người giỏi về các chất độc để xác quyết Lý tiểu thư chết vì loại thuốc gì, từ đó mới có đầu mối mà thẩm vấn tìm ra sự thật. Vì vậy khi nghe Hoa Quốc Tường nói lời nặng nề thì Địch Công ngầm tức giận, cố nhịn đáp lại:
- Bản quan chỉ muốn xét xử thật rõ ràng, không để oan sai xảy
ra. Vì vậy mới chần chừ chưa muốn đưa người ra thẩm vấn chứ không hề bao che bất cứ người nào. Bản quan xuất thân từ khoa mục, lấy tài năng của mình ra phục vụ cho triều đình, lại được ăn lộc nước thì quyết phải làm gương sáng cho giới quan lại. Tuy nhiên nếu Cử nhân muốn được nghe tận mắt việc thẩm vấn thì bản quan cũng không tiếc gì mà chiều lòng.
Nói xong, Địch Công liền ra lệnh thăng đường, cho Hoa Quốc Tường dự thính. Sau đó ông gọi Hồ Tác Tân ra, trừng mắt quát hỏi:
- Bản huyện đã khám tử thi, rõ ràng là trúng phải chất kịch độc mà chết. Cả hai bên trai gái đều đồng lòng tố cáo ngươi là thủ phạm hạ độc. Vì vậy hãy khai thực ra đi, nếu không bản quan sẽ áp dụng luật mà dùng tới hình cụ đấy.
Hồ Tác Tân bình tĩnh đáp lại:
- Học trò đã khai rõ từ trước là việc hăm dọa đùa chơi là có thực nhưng hành động giết người thì nhất quyết không dám phạm vào. Bây giờ đại nhân cứ bắt khai thì phải khai thế nào mới vừa lòng đại nhân đây?
Địch Công đập án thư mắng lớn:
- Bản quan đã có lời khai của Cao thị là hôm ấy ngươi cùng bạn bè rất thường ra vào tân phòng, như thế đã thừa đủ cơ hội hạ độc vào ấm trà, còn chối được nữa sao?
Ngờ đâu Hồ Tác Tân cũng rất bén nhạy, chộp lấy câu nói đó của Địch Công mà vặn:
- Đại nhân đã nói Tú tài tôi thỉnh thoảng cùng mấy người vào tân phòng thì tại sao chỉ nghi ngờ mỗi mình tôi. Vả chăng nếu có
nhiều người như thế thì làm sao dám hạ độc? Tại sao người pha ấm trà ấy không bị thẩm vấn, chắc chắn đó sẽ là đầu mối vụ án, thế mà đại nhân bỏ qua định ép cung thì thật oan uổng quá. Địch Công nổi giận quát:
- Thực giỏi cho ngươi! Đến trước công đường mà còn nhiều lời vặn vẹo, chẳng coi bản quan ra gì? Nếu ngươi không khai thì cũng được nhưng từ nay nhất thiết không được nói những lời như thế nữa, bản quan là người đặt câu hỏi chứ không phải ngươi!
Hồ Tác Tân vội vàng xin lỗi Địch Công rồi xin được đối chứng với những lời khai của Cao thị. Địch Công bằng lòng, lập tức sai quân điệu Cao thị lên công đường rồi hỏi:
- Theo khiếu kiện của gia chủ ngươi thì Hồ Tác Tân đã hạ độc để trả thù mấy câu nói nặng nề đêm tân hôn. Bây giờ ngươi cố nhớ ra xem hắn đã hạ độc lúc nào?
Cao thị thưa:
- Hồ Tú tài ra vào tân phòng nhiều lần nhưng tính kỹ thì chỉ có thời gian sau lúc lên đèn cho đến tối, sau đó họ đã ra về để cho tân lang và tân nương nghỉ ngơi.
Hồ Tác Tân lập tức phản bác, mắng:
- Tên nô tài vô sỉ kia! Ngươi ăn lương của chủ rồi lẻo mép nói theo, không biết đó là lời hại chết người hay sao? Từ lúc lên đèn cho tới khi trời tối ta không hề bước chân vào tân phòng. Vả chăng trong thời gian ấy không có ai vào uống trà hay sao? Ngươi hầu hạ cô dâu thì phải biết khoảng thời gian ấy chú rể ra ngoài cảm ơn các khách đến chúc mừng, cô dâu ở trong phòng một mình thì người ăn học như ta há dám xông vào hay sao? Ngươi đã thấy ta vào tân
phòng một mình bao giờ chưa, nếu đi cùng nhiều người thì làm sao hạ độc vào bình trà nằm lộ ra trên bàn? Không biết rõ thì đừng có lắm lời dối trá vu oan giá họa mà trời đất thánh thần khiến ngươi phải tuyệt tự đấy. Ấm trà ấy chính tay ngươi pha thì chắc ngươi là thủ phạm rồi, cố đổ tội cho người khác đấy thôi. Bẩm Tri huyện đại nhân. Theo tiểu sinh thì cứ tra khảo tên nô tài này là rõ mọi chuyện ngay.
Cao thị nghe vậy mất hết hồn vía vì quả nhiên không thể nào xác quyết được Hồ Tác Tân có cơ hội hạ độc, trong khi chính tay mình pha trà, nếu Địch Công nghi ngờ mà tra khảo thì thật khó mà biện bạch. Vì vậy nghe Hồ Tác Tân mắng như tát nước mà y thị ngậm câm không đáp trả được lời nào.
Địch Công nhân cơ hội ấy nói luôn:
- Lời biện luận của Hồ Tú tài cũng khá chính xác. Cao thị! Ngươi đã hạ độc vào ấm trà phải không? Ngươi thù oán gì mà dám ra tay giết chết tân nương như thế?
Cao thị nghe vậy quỳ rạp xuống khấu đầu lạy như tế sao, kêu khóc ầm trời, miệng thì kêu oan. Thật ra Địch Công chỉ muốn đưa hai người này ra làm vừa lòng Hoa Quốc Tường mà thôi, nay họ đều kêu oan thì liền truyền bãi đường, Hoa Quốc Tường cũng lặng lẽ ra về, không còn khiếu nại nữa.
Sau khi ăn tối, Địch Công vẫn chưa hết suy nghĩ về vụ án, chống cằm ngẫm nghĩ tìm đủ mọi ngóc ngách để xem có phát hiện ra gì không, mãi đến khi đèn sắp hết dầu mà chưa ra một manh mối nào khả dĩ. Lúc đó tên quân lo việc trực nhật vào châm thêm dầu cho đèn, đồng thời cũng bưng một chén nước trà để quan
huyện giải khát. Địch Công mở nắp chén ra, bưng lên miệng định uống, nhờ gần mắt nên chợt phát hiện ra chén trà có một lớp bụi váng trên mặt. Tuy lớp váng này rất mỏng nhưng nó làm cho tâm trí của Địch Công bừng sáng, ông vội gọi tên lính vào quát hỏi:
- Tại sao chén trà đậy nắp mà vẫn có váng bụi? Ngươi làm việc thật vô ý vô tứ, ngày mai ta sẽ đuổi ngươi ra khỏi nha môn. Tên lính sợ quá vội thưa:
- Lúc pha trà xong, tiểu nhân rót vào chén, đang định đậy nắp thì chợt mái nhà bị rung rinh nhè nhẹ, tiểu nhân nhìn lên quan sát thì không thấy gì hết nên vô tình đậy nắp lại mang lên dâng cho đại nhân. Quả thực không dám làm việc cẩu thả.
Địch Công vui vẻ tha tội cho hắn rồi tắt đèn đi ngủ, trên miệng nở một nụ cười khoan khoái. Sáng hôm sau Địch Công cho gọi Hoa Quốc Tường lên công đường, cũng gọi cả Hồ Tác Tân lẫn Cao thị nhưng chỉ thẩm vấn mỗi y thị mà thôi. Địch Công không quanh co, hỏi ngay đến việc pha trà:
- Ngươi pha trà bằng nước gì, ai đã đun sôi và pha ở tân phòng hay dưới bếp?
Cao thị khá ngạc nhiên vì những câu hỏi nhỏ nhặt này, thành thực đáp:
- Theo lệ của nhà họ Hoa thì không bao giờ mua trà ở ngoài, mỗi khi có việc đều sai gia nhân tự nấu nước rồi tự pha trà. Vì khách khứa đến quá đông nên bếp không còn chỗ, tiểu nhân phải sai một người khác xuống gian nhà bỏ trống phía sau vườn mà đun nước, sau đó đem nước sôi đến tân phòng tự tay tiểu nhân pha trà, không dám để người khác làm thay.
Địch Công nghe xong vui vẻ nói với Hoa Quốc Tường: - Bây giờ ông có thể về được rồi, bản quan đã biết nên điều tra ở đâu để tìm ra manh mối. Bản quan hẹn chắc ngày mai sẽ làm sáng tỏ việc này, nếu sai lời tha hồ cho ông lên tỉnh kiện cáo với cấp trên.
Hoa Quốc Tường chưa tin hẳn, nói vớt:
- Chỉ tại Cử nhân tôi quá nóng ruột vì cái chết của con dâu nên có khi mất khôn mạo phạm đến đại nhân mà thôi. Nếu đại nhân đã quả quyết như vậy thì Cử nhân tôi xin về bày tiệc trước, đón đại nhân cho xứng đáng vậy.
Hoa Quốc Tường về rồi thì Địch Công cũng bãi đường khiến Mã Khổng mục rất lo lắng, hỏi:
- Vụ án hầu như chưa có chút đầu mối nào mà đại nhân dám đoan quyết ngày mai sẽ xét xử rõ ràng thì e rằng quá hấp tấp chăng?
Địch Công liền kể cho Mã Khổng mục nghe việc đêm qua quan sát chén trà mà tìm ra manh mối, cười nói:
- Chuyện đời thật muôn hình vạn trạng, một vụ án chết người chỉ nhờ vào một chi tiết nhỏ nhặt tưởng như không liên quan gì mà có thể gợi được manh mối cho ta. Do vậy người làm quan ngồi trên công đường xử án phải vận dụng hết tâm trí của mình, xem xét không từ một chi tiết nhỏ nhặt nào thì mới mong xét xử công minh, không đẩy người khác lọt vào oan ức.
Mã Khổng mục hết sức khen ngợi Địch Công là người có trí tuệ sáng suốt, như người khác thì dù có uống đến trăm chén trà cũng không chú ý được những điều nhỏ nhặt như thế, sửa soạn giấy bút
để ngày mai sẽ thiết lập phiên xử án ở trang viên Hoa Cử nhân. Sáng hôm sau Địch Công chỉ dẫn theo 3 người là Mã Khổng mục, Kiều Bổ đầu và một tên nha sai đi bộ đến trang viên của Hoa Quốc Tường, ông ta đã chờ sẵn từ sáng sớm, lập tức mời vào. Hoa Quốc Tường thấy Địch Công không mang theo mũ áo quan nha thì đã khá ngạc nhiên, sau định dọn án thư thì Địch Công lại cũng bác bỏ thì rất ngạc nhiên. Địch Công liền giải thích:
- Bản quan không câu nệ hình thức, đây lại là cái chết của người trong gia đình không có thủ phạm thì hà tất gì phải bày vẽ lôi thôi. Bản quan đến đây chỉ muốn vạch rõ cái chết của Lý tiểu thư để hai gia đình cùng với bạn bè của Hoa Văn Tuấn được hòa thuận mà thôi. Nếu thiết lập công đường thì càng tai tiếng thêm, chẳng ích gì.
Hoa Quốc Tường hoàn toàn không hiểu ý định Địch Công ra sao nhưng cũng theo lời, bắc ghế mời ông ngồi giữa sảnh đường. Địch Công liền bảo Hoa Quốc Tường:
- Hôm qua ở công đường, Cao thị khai là sai một gia nhân khác đến gian nhà bỏ trống phía sau vườn nấu nước. Người này là ai hãy gọi ra đây.
Hoa Quốc Tường lại càng ngơ ngác nhưng vẫn cho gọi một người hầu gái còn rất trẻ, chỉ chừng 18 tuổi ra trước mặt Địch Công. Ông không cho người hầu gái này quỳ xuống vì không phải là công đường, ôn tồn hỏi:
- Ngươi tên là gì, làm việc ở trang viên này bao lâu rồi, có làm việc khác không hay chỉ chuyên nấu nước?
Người hầu gái thưa:
- Tiểu nhân tên là Thái Cô, từ trước tới nay hầu hạ phu nhân nhưng mấy ngày lễ cưới diễn ra ai cũng tất bật lắm việc nên tạm giao việc nấu nước cho tiểu nhân, không phải chuyên môn. Địch Công gật đầu, hỏi tiếp:
- Ngươi kể lại buổi chiều hôm trước khi Lý tiểu thư thất lộc xem ai đã đến lấy nước cho bản quan biết, đừng bỏ sót chi tiết nào. Thái Cô cũng khá nhanh nhẹn, lập tức thưa:
- Hôm ấy tiểu nhân nấu nước cho đến lúc nhà đã đốt đèn, chợt có lệnh gọi lên nhà trên, vì vậy khi Cao bà đến lấy nước sôi thì không có tiểu nhân ở đó. Cao bà thấy nước chưa thật sôi nên bỏ thêm củi, quạt lửa đun tiếp. Cao bà pha nửa ấm nước sôi, thấy ấm đã vơi nên đem ra ngoài định lấy thêm nước, chẳng ngờ già yếu mắt mờ vấp phải bậc thềm nhà, đổ hết nước trong ấm. Lúc đó tiểu nhân đã xong việc trở lại, giúp bà ta lấy đầy ấm nước bắc lên bếp, còn Cao bà thì trở lên nhà trên. Đó là những gì tiểu nhân đã làm trong buổi chiều ấy, còn chi tiết thế nào xin đại nhân xem xét.
Địch Công nghe xong liền sai Mã Khổng mục về huyện đường đưa Cao thị về trang viên. Vừa thấy mặt Cao thị, Địch Công đã mắng lớn:
- Nô tài họ Cao kia! Ngươi quả thật gian xảo nên mới khai không đúng sự việc. Chiều hôm ấy ngươi khai là lấy nước đã nấu sôi sẵn, bây giờ lòi ra là ngươi phải tự đun nước rồi đổ hết một nửa. Như vậy ngươi quả là thủ phạm không sai!
Cao thị nghe xong sợ đến mất cả hồn vía, quỳ xuống van lạy rồi thanh minh là mình không nhớ gì hết, ra công đường cứ khai bừa mà thôi, thật ra không hề che giấu bất cứ ý đồ nào, cũng không
phải là thủ phạm. Địch Công liền chỉ mặt mắng:
- Cứ cho là ngươi không phải thủ phạm đi nhưng ngươi khai gian dối khiến bản quan không thể nào lần ra đầu mối. Bản quan không sáng suốt thì đã kết án oan cho Hồ Tú tài rồi, như vậy là ngươi hại chết người ta còn gì? Sau khi xử xong vụ án này, ngươi khó mà thoát được sự trừng phạt của bản quan.
Mắng xong, Địch Công nói với Hoa Quốc Tường theo mình xuống bếp, bắt cả Thái Cô và Cao thị đi theo chứng kiến. Khi qua khỏi bếp, nhìn thấy căn nhà nhỏ sát bên, mái nhà đã hơi mục nát xô lệch nhiều chỗ. Địch Công chỉ gian nhà ấy hỏi:
- Có phải đó là gian nhà các ngươi nấu nước pha trà không? Thái Cô đáp:
- Bẩm đại nhân! Chính là gian nhà đó, hiện giờ vẫn còn để cái bếp chưa kịp dọn vào.
Địch Công gật đầu rồi cùng mọi người bước vào trong. Hóa ra gian nhà này mục nát hơn nhìn từ phía ngoài, cột kèo đều mục ruỗng nhiều nơi, ngói cũng xô lệch để nước mưa thấm vào khiến cột kèo bằng gỗ luôn luôn có mùi hôi mốc. Bất chợt Địch Công sai Cao thị:
- Cái tội khai dối của ngươi sau này sẽ định phạt, bây giờ ta bắt ngươi phải chụm bếp nấu nước, còn ta sẽ ngồi đây uống chút trà giải khát xem sự thể ra sao.
Hoa Quốc Tường không thấy Địch Công xử án mà lại bày trò đun nước uống trà thì rất giận, cố nén mà nói:
- Người chết không phải chuyện chơi, sao đại nhân lại bày trò
làm gì cho mệt? Nếu như Cao thị khai gian thì cứ đem về công đường mà tra khảo, còn hơn là ngồi đây uống trà.
Địch Công nghiêm mặt trách lại:
- Ông tưởng bản quan thích đùa chơi hay sao? Đây chính là thẩm tra bằng thực tế, nếu còn nhiều lời thì đừng trách bản quan xuống tay trừng phạt đấy.
Nghe vậy Hoa Quốc Tường mới chịu thôi, lẳng lặng theo dõi xem Địch Công sẽ làm gì tiếp theo. Thế nhưng Hoa Quốc Tường càng lúc càng giận dữ bởi Địch Công cứ thúc giục Cao thị phải đun nước thật sôi, pha trà xong lại không uống bắt nấu nước tiếp, đến hơn chục lần làm những người có mặt đều không thể hiểu được tra xét án mạng thế nào mà quá kỳ quái. Riêng Hoa Quốc Tường không sao nhịn nổi, bỏ lên nhà trên không thèm theo dõi nữa, Địch Công cũng để mặc ông ta.
Ngay khi Cao thị phồng mang trợn mắt thổi lửa lần thứ mấy không nhớ nổi, ngọn lửa phừng lên rất cao thì chợt có đám bụi đất từ mái nhà rơi xuống đúng vào đầu tóc của Cao thị. Cao thị vội lấy tay định phủi nó đi thì Địch Công ngăn lại, gọi:
- Ngươi đừng phủi, mau đến đây.
Cao thị tuân lệnh, Địch Công liền nói tiếp:
- Ngươi không nên đứng ở đó, chỉ trong chốc lát con vật giết người sẽ xuất hiện.
Sau đó Địch Công nhìn chằm chằm vào mấy cài kèo nhà mục nát rỗng ruột, nơi đã phát sinh ra đám bụi đất bay xuống đầu Cao thị. Chỉ một lúc sau chợt có một con vật màu hồng ló đầu ra khỏi chỗ mục, thò ra thụt vào mấy lần, hình như thấy đông người nên
chưa dám ra hẳn. Tuy chưa thấy rõ đó là con gì nhưng Địch Công cũng mừng rỡ nói với mọi người:
- Các ngươi đã nhìn thấy con vật này chưa, thử đoán xem nó là con gì.
Thuộc hạ của Địch Công thưa rằng đã thấy nhưng không nhận rõ đó là con vật gì, xin được dùng gậy để khều nó ra. Địch Công ngăn lại, nói:
- Đây chính là thủ phạm, vì vậy phải có mặt gia chủ mới xong, các ngươi mau gọi Hoa Cử nhân vào đây chứng kiến sự việc đã làm hại chết con dâu của ông ta. Nếu chưa cho ông ta thấy tận mắt thì chưa biết tài xét việc của bản quan đâu.
Thái Cô liền chạy lên nhà trên mời Hoa Quốc Tường xuống. Địch Công chỉ cho ông ta thấy cái đầu con vật màu hồng đang chuyển động, cười nói:
- Cử nhân cứ ngồi im, đừng gây tiếng động mà nó chạy mất. Tất cả đều theo lời, nín thở theo dõi. Quả nhiên không lâu sau cái đầu ấy trườn ra từ từ, lộ nguyên hình là con rắn có vằn đen khoang trắng rất ghê sợ. Con rắn này khá tinh ranh, thấy có nhiều người lập tức thụt vào trong kèo nhà nhưng mọi người đều đã thấy rõ cái miệng của nó tuôn đầy nước dãi, chắc chắn là có độc. Địch Công nói với Hoa Quốc Tường:
- Vì Cử nhân cứ cho bản quan là bênh vực Hồ Tác Tân nên phải cho nhìn tận mắt. Đó chính là lỗi của ông đã để cho nhà mục nát, làm tổ cho bọn rắn độc sinh sống. Bây giờ đã biết rõ nguyên nhân thì có thể phá bỏ gian nhà này đi, đập chết con ác thú ấy đừng để nó gieo hại cho người khác nữa.
Hoa Quốc Tường bằng lòng, sai mấy gia nhân hợp cùng nha dịch chặt gẫy cột, kéo hết kèo nhà xuống. Con rắn bị động từ trong kèo phóng vụt ra nhanh như chớp, toan chạy ra phía vườn cây trốn thoát. Bổ đầu Kiều Thái vốn là tay nhanh nhẹn, lập tức rút đao chém một nhát làm con rắn đứt làm đôi. Mọi người còn sợ thể nào cũng còn mấy con rắn khác nên hè nhau đập phá gian nhà tan tành nhưng rốt cuộc không tìm được con nào khác, chứng tỏ nó chính là thủ phạm không sai.
Giết con rắn rồi, mọi người kéo lên nhà trên mời Lý phu nhân ra xem xác con rắn. Địch Công nói với mọi người:
- Như đã nói trước, đây không phải công đường xử án vì bản quan chỉ muốn cho mọi người thuận hòa mà phải vất vả tìm ra bằng chứng. Ngay khi khám nghiệm tử thi bản quan đã nhận ra mùi hôi tanh, trong lòng đã có chút nghi ngờ Lý tiểu thư chết vì chất độc của loài động vật. Do vậy mà có nhiều lần cố bênh vực cho Hồ Tú tài. Thật ra sự việc hết sức đơn giản, Cao thị đun nước khiến khói lửa bốc mạnh lên, con rắn bị ngạt liền thò đầu ra, nhỏ nước dãi chứa chất độc vào ấm nước, Cao thị không biết nên đem nửa ấm nước đi pha trà. Nếu xét kỹ thì đó là tội của Cao thị lẽ ra phải trừng phạt nhưng bản quan thấy thị già cả, lại là vô tình nên bỏ qua. Vả chăng nếu quá khó tính thì có thể xét tội cả Hoa Cử nhân bởi chính ông đã duy trì gian nhà mục nát ấy mới gây thành nông nỗi.
Địch Công ngừng lại một chút, thấy không ai có ý kiến gì phản bác thì nói tiếp:
- Lý tiểu thư chết oan là số mệnh trời sắp đặt, có lẽ còn nhiều
tội nghiệp từ kiếp trước nên mới uống ngay vào ấm trà có độc của con rắn, vì vậy nên mời một số cao tăng đến lập trai đàn siêu độ cho vong hồn mau được siêu sinh. Hồ Tú tài không hạ độc mà bị giam cầm khổ sở, đáng ra phải được đền bù nhưng bản quan cho rằng cái tội ăn nói đùa giỡn hàm hồ, không giữ tư cách Nho gia thì bị như vậy cũng là vừa, không cho khiếu nại nữa.
Mọi người đều ngạc nhiên và kính phục tài xét đoán của Địch Công, nhất nhất xin nghe theo. Sau đó Địch Công liền sai Mã Khổng mục viết văn án cho mọi người ký tên vào, kết thúc vụ án không thủ phạm. Địch Công trở về công đường hạ lệnh thả Hồ Tác Tân ra, còn răn đe là phải cố hết sức giữ gìn phẩm hạnh của một Nho sĩ đã có học vị, làm gương cho kẻ khác. Hồ Tác Tân giống như chết rồi sống lại, cúi đầu cảm tạ Địch Công hết lời.
Nhờ vào trí tuệ ấy, sau này Địch Công được triều đình biết đến, triệu về kinh thành giữ chức quan lớn, dần dần được thăng lên tới Thừa tướng, ông đem hết tâm huyết phò giúp triều Đường, trở thành một công thần nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.
2
BAO CÔNG
ĐỆ NHẤT PHÁN QUAN
Trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến Trung Hoa, rất nhiều quan lại dựa vào quyền thế tham lam lũng đoạn bức hiếp dân lành nhưng cũng không ít vị quan nổi tiếng thanh liêm, xét xử các vụ án hết sức công minh và sáng suốt. Trong số những vị quan xử án ấy, nổi tiếng nhất vẫn là Bao Công và Tống Từ. Đến đời Minh, Thanh xuất hiện khá nhiều vị quan lại anh minh sáng suốt nhưng xét về số lượng các vụ án ly kỳ oan ức thì không thể bằng được Bao Công và Tống Từ. Thí dụ như Hải Thụy, còn được gọi là Hải công, cũng rất nổi tiếng vì tính tình chính trực nghiêm minh, không sợ cường quyền nhưng tiếc rằng ông chỉ là một huyện quan ở nơi xa xôi nên tuy rất được người dân địa phương ngưỡng mộ mà chẳng bao giờ được triều đình để mắt tới để cất nhắc lên chức vụ cao hơn.
Hải Thụy sinh năm 1514 và mất năm 1587, tức làm quan dưới thời Minh Thần Tông Chu Hủ Quân. Đó là thời kỳ nhà Minh sắp sửa tiêu vong, chế độ vô cùng hủ bại, quan lại toàn bọn nịnh bợ xu thời nên việc Hải Thụy bất đắc chí là có thể hiểu được. Số mệnh của ông lại long đong, nhiều lần thi cử mà không đậu, mãi cho đến khi 36 tuổi mới được triệu ra làm quan. Vì những lý do đó, Hải Thụy tuy cũng là một vị quan rất giỏi về xử đoán nhưng tư liệu để
lại của ông ít khi được lịch sử nhắc nhở tới.
Trong khi ấy, Bao Công có lẽ là người nổi tiếng xử đoán công minh, lại được truyền thuyết cho rằng ông chính là “người trời, ngày xử án dương thế, đêm xử án Diêm La” nên lịch sử ghi chép khá nhiều về các vụ án ly kỳ mà ông đã từng giải quyết, không hề ngán ngại thế lực cường quyền hay hoàng thân quốc thích. Người ta nói: “Hoàng đế anh minh thì có hiền thần xuất hiện”, một phần có lẽ là nhờ ở sự nể trọng của Tống Nhân Tông Triệu Trinh nên ông mới phát huy được hết khả năng phán đoán sự việc và sẵn sàng xét xử không hề e ngại bị các đại thần hay hoàng thân quốc thích chống đối, như vậy mới có thể ra phán quyết một cách trung thực khiến người ta phải “tâm phục khẩu phục”.
Bao Công tên thật là Bao Chửng. Chữ “Chửng” trong tiếng Hán có nghĩa là cứu vớt, không phải âm đọc Chuẩn như nhiều người lầm tưởng. Tên tự của ông là Hy Nhân nhưng người ta không bao giờ nhắc tới, thường gọi nhất là Bao Công, Bao Thanh Thiên hay Bao Hắc Tử bởi ông có nước da nâu đậm, không trắng trẻo như thư sinh. Bao Công cũng nổi tiếng vì đã dám giết cả hoàng thân quốc thích nên còn được gọi là Bao Long Đồ (Đồ Long là giết rồng, ám chỉ ông dám cả gan giết thân thích của Hoàng đế nếu như phạm trọng tội, không hề sợ bị trách phạt). Nhưng cũng có người giải thích là Bao Công được phong Đại Học sĩ ở gác Long Đồ nên mới có tên ấy.
Lúc đó triều Bắc Tống đóng đô ở phủ Khai Phong, Bao Công là Tri phủ Khai Phong nên quyền thế rất lớn, chức là Hình bộ Thị lang, quan hàm tam phẩm, tức là ngang hàng với các đại thần
trong triều, lại được Tống Nhân Tông ban đặc ân được vào cung bái kiến mỗi khi gặp cản trở. Ngoài ra, theo truyền thuyết thì Bao Công còn được sự trợ giúp tận tình của một hoàng thân là Bát Hiền vương. Chính ông này đã nhiều lần tiếp trợ cho Bao Công điều tra tới nơi tới chốn và hết lòng bênh vực ông trước mặt Hoàng đế mỗi khi có việc đối đầu với các đại thần.
Với hoàn cảnh khá thuận lợi như vậy, Bao Công đã đem hết tài sức của mình ra phụng sự quốc gia, phá được vụ án tưởng như không còn đầu mối. Nếu so sánh giữa Bao Công và Hải Thụy hay Tống Từ thì quả là khập khiễng bởi mỗi người có một hoàn cảnh riêng để phán đoán sự việc nhưng tựu trung tất cả những phán quan nổi tiếng tài giỏi trong thời phong kiến Trung Hoa đều nhờ vào sự suy nghĩ tận tâm tận tình của mình với công việc, không coi thường các chi tiết nhỏ trong vụ án, nhờ vậy mới sáng tỏ được những khúc mắc trong vụ án.
Theo ghi chép thì Bao Công bắt đầu nổi danh từ khi được bổ về làm Tri huyện Phụng Phù phủ Duyên Châu. Lúc đó ông còn rất trẻ nhưng đã biểu lộ là người thông minh chính trực, thích xem xét các vụ án ly kỳ khó giải quyết. Khi đến Phụng Phù nhậm chức, Bao Chửng (lúc đó tên Bao Công chưa phổ biến) rất nhàn hạ vì ở huyện hầu như không có vụ trọng án nào xảy ra. Ông đem hết hồ sơ văn án ra nghiên cứu nhưng xét kỹ thì toàn là những vụ việc đơn giản, đã được quan huyện trước kia giải quyết rốt ráo.
Thế nhưng khi đọc đến việc viên Áp ty của huyện tên là Tôn Văn vì nghe lời thầy bói mà tự mình nhảy xuống sông tự vẫn thì đã có chút nghi ngờ. Ông cho rằng dù mê tín dị đoan như thế nào cũng
không thể vì một lời tiên đoán số mệnh mà tự mình hủy hoại thân thể do cha mẹ khổ công sinh thành dưỡng dục.
Khi Bao Chửng còn đang suy nghĩ thì chợt ông gục đầu xuống bàn mà ngủ. Trong khi ngủ ông mơ thấy mình ngồi trên công đường, phía dưới không hề có tội nhân hay nghi phạm nào. Bao Chửng hết sức ngơ ngác, nhìn về phía sau thì thấy có câu đối lời lẽ rất lạ: “Muốn biết việc canh ba, gạt lửa mà xuống nước”.
Bao Chửng còn cố nghĩ xem ý tứ của câu đối ấy muốn nói gì thì giật mình thức dậy. Ông liền nghĩ ngay đến việc tự vẫn của viên Áp Ty Tôn Văn chắc chắn là có uẩn khúc, quyết định sẽ từ đó lần ra manh mối xem sao.
Ngày hôm sau Bao Chửng thăng đường, tiếng là ra mắt các thuộc hạ nhưng lợi dụng cơ hội tụ tập đầy đủ ấy đưa hai câu đối ra nhờ họ giải thích. Tất nhiên là không ai có thể hiểu được. Bao Chửng có tính rất kiên định, đã làm việc gì thì nhất định không chịu bỏ qua nên sai người viết hai câu đối ấy treo trước nha môn, tuyên bố rằng bất cứ ai giải được ý nghĩa của nó thì sẽ trọng thưởng 10 lạng bạc. Một người có nét chữ tốt được giao nhiệm vụ viết yết thị là viên Áp ty mới, cũng họ Tôn nên người ta phân biệt gọi viên Áp ty cũ là Đại Tôn, còn người Áp ty mới gọi là Tiểu Tôn. Một phần cũng do tuổi tác hai người già trẻ khác nhau, dần dần cái tên này trở thành thông dụng.
Khi Tiểu Tôn viết xong yết thị, treo ngoài nha môn thì người người kéo đến xem rất đông, ai nấy đều nặn óc ra tìm lời giải đáp để có số bạc khá lớn ấy. Trong số người chen lấn để xem yết thị có một người nổi tiếng về khoản mê cờ bạc, lại uống rượu như hủ chìm
nên dù tên thật là Vương Hưng vẫn thường bị người dân Phụng Phù gọi bằng biệt hiệu Vương Tửu Tửu. Lúc đó Vương Hưng đang thèm rượu mà tiền bạc không còn một đồng nên dù không biết bao nhiêu chữ nghĩa vẫn cố chen vào đọc hai câu đối, trong ý cầu nguyện sao tự nhiên mình giải đáp trúng thì đủ tiền uống rượu trong một thời gian.
Khi đọc đến hai câu đôi, Vương Hưng giật mình kinh sợ vì đó là hai câu mà vợ của hắn đã đem về từ miếu Đại Nhạc ở ngọn Đông Phong. Sự việc hết sức kỳ lạ nên Vương Hưng không dám tự tiện, vội vàng chạy về kể lại cho vợ là Nghinh Nhi biết. Nghinh Nhi cũng hoảng sợ không kém, nói với chồng:
- Đây là lần thứ ba Tôn Áp ty hiện hồn báo mộng, có lẽ muốn nhờ tôi giải oan cho ông ấy. Lần trước Áp ty đã cho không chúng ta một ít bạc vụn, nếu lần này vẫn kín miệng không đi trình báo quan trên thì e rằng Áp ty sẽ nổi giận hại lây đến cả hai vợ chồng đấy. Vả chăng tôi vừa nghe quan huyện mới bổ về là người công minh sáng suốt, may ra có thể làm sáng tỏ được vụ án này chăng?
Vương Hưng vốn là tên vô lại, tự biết nếu mình lên huyện tố cáo thì chẳng có ai tin nên sau khi suy nghĩ liền tìm đến một người quen họ Bùi đang làm chức Khổng mục ở huyện đường. Vương Hưng cũng không dám tiết lộ cho nhiều người biết, kéo Bùi Khổng mục đến một chỗ vắng vẻ mới đem toàn bộ sự việc kể hết cho ông ta nghe, đoan quyết rằng mình đang giữ một tờ giấy do thần nhân ở miếu Đông Nhạc, trong đó có ghi hai câu đối mà quan huyện vừa yết thị. Bùi Khổng mục cũng lấy làm kinh dị, hỏi chắc:
- Hiện giờ ngươi còn giữ tờ giấy ấy hay không?
Vương Hưng gật đầu đáp:
- Sau khi đem về, vợ chồng chúng tôi không dám tiết lộ, để kín ở dưới rương, chắc chắc không đi đâu được.
Bùi Khổng mục nghe vậy mới bằng lòng, dặn Vương Hưng: - Bây giờ tôi phải vào huyện đường bẩm báo trước với quan, còn ngươi thì cứ về nhà lấy tờ giấy ấy, bao giờ quan hỏi đến thì trưng ra làm bằng chứng.
Vương Hưng nghe theo, vội vã trở về nhà tìm tờ giấy. Trong khi ấy Bùi Khổng mục vào huyện, chờ khi Bao Chửng đã xét hết việc, mọi thuộc hạ đều về nhà, kể cả viên Áp ty Tiểu Tôn, mới quỳ xuống thưa rằng:
- Bẩm tri huyện! Thuộc hạ thật không dám làm phiền đại nhân bởi vì chuyện sắp nói ra rất kỳ quái và hoang đường. Thế nhưng người quen là Vương Hưng cứ nhất định sẽ giải được câu đối ấy nên phải thưa trước với đại nhân, nếu đại nhân chấp thuận thì mới dám cho hắn bái kiến khai rõ mọi việc.
Bao Chửng đang nôn nóng về ý nghĩa hai câu ấy, liền hỏi: - Vương Hưng là ai, có tài cán gì mà có thể giải được hai câu đối nát óc ấy?
Bùi Khổng mục thưa thật:
- Hắn chỉ là tên bợm rượu, ngoài việc moi tiền bạc của vợ ra đánh bài và uống rượu thì chẳng có tài cán gì. Thế nhưng việc này liên quan đến vợ của hắn là Nghinh Nhi, trước kia là hầu gái của Áp ty Đại Tôn. Chính Nghinh Nhi khi đến miếu Đông Nhạc đã được thần nhân đưa cho tờ giấy, ngoài hai câu đối ấy ra còn mấy
dòng chữ nữa cũng rất bí hiểm. Lần này thấy đại nhân là người trung thực sáng suốt mới quyết định nhờ thuộc hạ thưa trình lên vụ việc.
Bao Chửng rất mừng, lập tức sai người giải Vương Hưng về nha huyện thẩm vấn. Chuyện này vẫn chưa đến hồi kết thúc bởi vẫn còn nhiều điều kỳ bí xảy ra. Đó là khi Vương Hưng về nhà bàn với vợ xong, liền mở rương quần áo, lấy mảnh giấy có viết câu đối ấy ra thì hỡi ôi, chẳng hiểu tại sao chỉ còn là giấy trắng, bao nhiêu chữ biến đâu mất hết. Vì vậy Vương Hưng không đúng lời hẹn với Bùi Khổng mục, sợ bị bắt tội vu cáo bừa bãi, đành nằm co ở nhà mà run sợ. Hắn cũng không phải sợ hãi lâu bởi ngay khi đó đã có công sai của huyện đến gõ cửa, không cho hắn giải thích câu nào, lập tức bắt dẫn đến công đường.
Lúc đó chỉ còn lại Bao Chửng và Bùi Khổng mục nên ông không sợ người khác nhòm ngó, hỏi ngay:
- Ngươi là Vương Hưng phải không? Ngươi nói với Bùi Khổng mục là có tờ giấy do thần nhân ở miếu Đông Nhạc ban cho. Nay tờ giấy ấy đâu, mau đưa cho bản quan xem thử.
Vương Hưng xanh mét mặt mũi, khấu đầu lạy như tế sao rồi mới dám thưa:
- Quả là vợ tiểu dân năm vừa rồi có đến đốt hương ở miếu Đông Nhạc, khi vừa tới cửa thì chợt có một thần nhân hiện hình giống hệt Tôn Áp ty ngày trước đưa cho mảnh giấy, trên đó viết mấy câu mà trong số câu ấy lại là hai câu đối mà đại nhân vừa yết thị sáng nay. Tiểu dân đã cất tờ giấy ấy rất kỹ tận dưới đáy rương quần áo, thế mà... thế mà... hôm nay lấy ra định trình lên đại nhân thì nó
đã thành giấy trắng mất rồi.
Bao Chửng nghe vậy rất bực tức, đập tay xuống bàn đánh “chát” một cái khiến Vương Hưng giật bắn cả người, vội vàng thưa luôn:
- Bẩm đại nhân, tiểu nhân không nói dối đâu, hiện tờ giấy ấy đang mang theo đây. Nếu đại nhân là người sáng suốt tất sẽ biết nó không phải ngụy tạo, đừng bắt tội tiểu dân.
Bao Chửng gật đầu, chờ Vương Hưng lấy tờ giấy ra đưa lên. Ông nhìn xem thì quả nhiên đó chỉ là giấy trắng nhưng màu sắc đã ngà vàng chứng tỏ là đã để khá lâu, Vương Hưng là tên ngu dân không thể ngụy tạo được.
Trầm ngâm suy nghĩ một lúc, Bao Chửng hỏi Vương Hưng: - Ngươi còn nhớ được một số chữ nào trong tờ giấy này không? Vương Hưng mừng như chết đi sống lại, dập đầu đáp: - Tuy tiểu dân không giỏi văn chương nhưng vì sự việc quá kỳ
lạ nên hai vợ chồng đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, cố sức giải đáp ẩn ý trong đó nên đến bây giờ vẫn còn thuộc, không sót chữ nào.
Bao Chửng liền sai Vương Hưng đọc từng chữ, lấy giấy bút ra ghi lại. Quả nhiên những câu chữ trong đó đều bí hiểm nên ông phải hỏi thêm Vương Hưng:
- Thần nhân giao tờ giấy cho vợ ngươi rồi có dặn gì nữa không? Vương Hưng mau mắn đáp:
- Bẩm đại nhân! Thần nhân có dặn là hãy giải oan ức cho ông ấy.
Bao Chửng chợt đập bàn rất mạnh, chỉ mặt Vương Hưng mà mắng:
- Hay cho tên tiện dân kia! Ngươi định đặt điều lừa dối bản quan hay chăng? Thần nhân nào mà phải nhờ người dương thế thấp cổ bé miệng như vợ ngươi giải oan giùm cho?
Vương Hưng sợ quá dập đầu lạy mấy cái rồi mới thưa: - Tiểu dân thật không dám lừa dối đại quan. Tất cả đều có nguyên nhân của nó và chuyện này theo lời kể của vợ tiểu dân thì đã xảy ra cách đây gần ba năm rồi, nhiều lần ông Tôn Áp ty đã hiện thân chứ không phải một lần ở miếu Đông Nhạc đâu. Bao Chửng nghe vậy càng tò mò hơn, lại biết người như Vương Hưng không đủ trí tuệ để đặt ra những điều kỳ bí lạ lùng như vậy nên dịu giọng ôn tồn nói:
- Ta đến đây nhậm chức chưa được mấy ngày, chưa xét xử vụ án nào. Bây giờ nếu ngươi kể thật thì dù không giải được oan án ta cũng trọng thưởng, nếu như ngươi dối trá thì sẽ là người mở hàng mấy cái trượng của ta đấy.
Vương Hưng được cho đứng lên, uống chút nước để lấy lại bình tĩnh rồi mới bắt đầu kể chuyện ba năm trước đây:
- Vợ của tiểu nhân là Nghinh Nhi, người hầu của vợ Tôn Áp ty trước kia.
... Hôm đó Áp ty Đại Tôn có chút rảnh rỗi nên đi dạo quanh chợ một vòng xem có sự cố gì xảy ra không. Ông ta chợt thấy ở góc phố có treo một thanh kiếm lồng trong bảng hiệu ghi bằng loại chữ rất to thì liền bước tới đọc. Hóa ra đó là người thầy bói mới từ đâu đến
đây lập cửa hàng, chắc là rất tự tin về tài tướng số của mình nên mới dám treo bảng khoa trương: “Xem không đúng có thể dùng thanh Thái A này chém đầu thầy bói”.
Lúc ấy Đại Tôn vẫn còn mặc quan phục màu đen, giày vớ sạch sẽ, thấy thầy bói có vẻ khoa trương thì rất tức, liền bước vào ngồi ngay xuống ghế xin xem một quẻ Âm Dương. Thầy bói không biết đó là quan chức của huyện đường, bình thản bảo Đại Tôn ghi ngày tháng năm và giờ sinh vào mảnh giấy nhỏ rồi trầm ngâm nhìn mãi mà không đoán một câu nào. Đại Tôn càng thêm tức giận, nghĩ thầm: “Hóa ra ngươi chỉ là thứ bịp bợm, nay gặp tay ông thì khó mà sống nổi ở đất Phụng Phù này rồi”. Nghĩ vậy nên Đại Tôn cứ thúc giục thầy bói xem số cho mình. Mấy lần như vậy người thầy bói mới chậm rãi nói:
- Số của ông không xem được đâu.
Đại Tôn càng thêm nóng ruột, nhất định phải xem số cho bằng được. Bất đắc dĩ người thầy bói phải xin ông ta ghi lại ngày tháng năm sinh lần nữa cho thật chắc chắn, không bị lầm lẫn rồi mới nói: - Theo tôi thì ông không nên xem bói thì hay hơn.
Đại Tôn cười ha hả, nói:
- Ngươi cho rằng quẻ bói sẽ xấu lắm nên không dám bói chứ gì? Ta là người chưa hề làm gì lầm lỗi, cũng chẳng hà hiếp ai nên không hề kiêng sợ điềm xấu.
Thế nhưng lão thầy bói vẫn ngần ngừ không muốn nói ra quẻ bói nên Đại Tôn càng thắc mắc, nói luôn:
- Ông cứ thẳng thắn nói cho ta biết số mệnh sẽ thế nào, nếu không ta sẽ liệt vào hạng lừa dối dân lành kiếm tiền đấy.
Nghe khẩu khí đầy vẻ hăm dọa của Đại Tôn, thầy bói nhìn kỹ mới biết đó là quan chức trong huyện, thở dài mà nói: - Đã vậy thì tôi đành phải nói thôi. Thế nhưng báo trước cho ông biết là quẻ có tượng hết sức xấu, liên quan tới sống chết đấy. Ông có bằng lòng thì tôi mới dám nói thẳng ra.
Đại Tôn là người khỏe mạnh, tính tình trung thực, làm việc cần mẫn nên từ đó tới nay không hề bệnh tật hay phải lo lắng chút gì, nghe vậy liền cười mà nói thầy bói hãy cứ nói thật quẻ như thế nào, dù không tốt mà hiệu nghiệm thì cũng sẽ trọng thưởng chứ không trách cứ. Người thầy bói liền nói:
- Thực không dám nói bừa, quẻ này đoán rằng ngày hôm nay, tháng này ông sẽ mất mạng một cách oan uổng đấy! Đại Tôn nghe vậy bật cười lớn, nói:
- Ta đang khỏe mạnh, sức lực tràn đầy, không hề có bệnh tật gì, dễ đến 10 năm nữa cũng chưa chết nổi huống gì hôm nay? Theo ông thì giờ nào ta sẽ chết?
Thầy bói tỏ ra nghiêm trọng, đoán:
- Theo quẻ thì giờ Tí canh ba hơn một chút thì vận số của ông sẽ hết.
Lời đoán giống như trù ẻo người ta chết sớm nên Đại Tôn hết sức tức giận, đứng bật dậy chỉ mặt thầy bói mà mắng: - Được lắm! Nếu canh ba đêm nay ta chưa chết thì thể nào cũng lôi đầu ngươi ra trước công đường... hà hà! Để ngươi đoán xem tri huyện lão gia xét xử ra sao.
Người thầy bói vẫn bình tĩnh, chỉ thanh kiếm Thái A treo trước
cửa, nói:
- Sáng mai ông còn sống thì chẳng cần đưa tôi lên huyện đường làm chi cho mất công, cứ lấy thanh kiếm kia chém đầu tôi là xong. Tôi đã treo bảng chấp nhận đoán sai thì mất đầu, ông sẽ không bị bắt tội giết người đâu.
Áp ty Đại Tôn nghe vậy càng giận, đã toan lôi luôn lão thầy bói đến huyện đường nhưng nhiều người quen biết nghe to tiếng thì liền chạy vào khuyên can, cho rằng hơi sức đâu chấp nhất với những tiên đoán mê tín dị đoan ấy. Thấy Đại Tôn bớt giận, một người lớn tuổi đứng ra nói với thầy bói:
- Này ông! Xưa nay việc bói toán mười điều chưa chắc trúng một bởi thầy bói không phải là cha của Diêm Vương mà cũng không hề thân thích gì với Ngọc Hoàng, làm sao có thể đoán chính xác đến ngày giờ chết của một người đang khỏe mạnh được? Nay ông đã gây hấn với Áp ty thì khó sống nổi nơi huyện Phụng Phù này rồi, nếu khôn ngoan thì hãy dọn đi nơi khác kiếm ăn. Nhưng ta cũng khuyên ông một điều, đó là có đoán sống chết cho người thì cũng chỉ nên nói tương đối chứ không nên cố chấp nói từng giờ từng ngày khiến người ta phải tức giận.
Lão thầy bói thở dài đáp:
- Từ trước tới nay tôi cứ theo quẻ mà bói, xấu tốt gì cũng không cần biết. Tôi cũng không thể chiều lòng người mà đoán bừa, từ tốt thành xấu, từ xấu ra tốt được. Thôi thì sự việc đã xảy ra, tôi đành phải đi nơi khác vậy.
Nói xong ông ta lập tức tiến hành dọn dẹp cửa hàng, dọn đi nơi nào đó không ai thấy nữa. Tuy nhiên Áp ty Đại Tôn vẫn không
thấy thoải mái trong lòng, trên đường về nhà cứ đăm chiêu nghĩ đến lời bói. Người vợ của Đại Tôn họ Lý, thấy chồng về nhà mà mặt mũi không tươi vui như mọi ngày thì ngạc nhiên hỏi:
- Chẳng hay hôm nay có gì khó xử hay là phu quân bị quan huyện mới quở trách chăng? Theo thiếp thì phu quân vốn làm việc cẩn thận, đâu đến nỗi như thế, chắc là đã xung đột với ai phải không?
Nghe Lý thị nhắc đúng đến nỗi niềm, Đại Tôn liền trợn mắt kể lại việc sáng nay xem bói, bị người đoán rằng sẽ chết bất đắc kỳ tử. Lý thị nghe vậy cũng tức giận lây, hầm hầm nói với chồng:
- Lão thầy bói quả là ngang ngược, dám đoán đêm nay phu quân chết thì còn coi vương pháp ra gì? Sao phu quân không lôi cổ hắn đến công đường rồi giam vào ngục cho biết mùi đau khổ? Áp ty Đại Tôn gật đầu đáp:
- Ta cũng định như vậy nhưng mọi người xúm lại khuyên can. Vả chăng nếu sáng mai lời tiên đoán không hiệu nghiệm thì ta hẵng lôi cổ hắn đến công đường cũng chưa muộn.
Thật ra Đại Tôn không muốn nói cho vợ biết là lão thầy bói đã dọn đi rồi, vì thế trong lòng vẫn không nguôi buồn bực, nói với vợ: - Chuyện đâu còn có đó. Hãy dọn ít rượu thịt ra cho ta uống mà thức đến sáng mới được. Ta nghe kể chuyện là nhiều tên thầy bói đoán người ta chết, thế rồi để ứng nghiệm thì đúng giờ đó sai âm binh đến lấy mạng. Ta sẽ thức đến sáng xem canh ba đêm nay có gì lạ xảy ra không.
Lý thị liền gọi đứa hầu gái là Nghinh Nhi dọn rượu thịt ra. Thế nhưng mọi ngày Đại Tôn nổi tiếng là tửu lượng cao, có khi uống vài
ba chục chén vẫn không say, vậy mà đêm nay chỉ mới uống tới chén thứ ba thì đã thấy đầu óc quay cuồng. Ông cho rằng có lẽ bị ám ảnh bực tức quá nên tâm thần yếu đuối, dễ bị men rượu làm say nên quên cả việc sẽ thức đêm, sai vợ dọn giường lăn ra ngủ.
Lý thị thấy vậy liền cùng Nghinh Nhi lấy vải vóc kim chỉ ra thêu thùa, quyết sẽ thức đến sáng canh chừng cho chồng. Đến khi có tiếng trống báo canh ba, Lý thị càng hồi hộp, dặn Nghinh Nhi:
- Lão thầy bói ấy đoán canh ba hơn một chút thì phu quân ta hết số. Bây giờ là giây phút quan trọng, ngươi phải mở thật to mắt mà xem có gì lạ, không được ngủ đấy.
Thế nhưng chẳng hiểu sao đôi mắt Nghinh Nhi cứ nhắm tít lại, chẳng mấy chốc đã gục trên bàn mà ngủ. Lý thị chợt nghe có tiếng động trong phòng chồng rồi thấy Đại Tôn trùm cái chăn trắng đi ra rất vội vã. Lý thị kinh hoảng gọi Nghinh Nhi dậy châm đèn cho sáng thì lúc đó bóng trắng của Đại Tôn đã ra đến cổng, mau lẹ mở cái then cài cửa rồi vùn vụt chạy thẳng đến bờ sông gần đó, nhảy xuống luôn. Từ xa cũng nghe rất rõ tiếng động của vật nặng rơi xuống dòng nước, không cần nhìn cũng biết đó là Đại Tôn nhảy xuống sông tự vận.
Con sông này tuy nhỏ nhưng thông nước với Hoàng Hà nên chảy rất mạnh, đến khi láng giềng nghe tiếng Lý thị và Nghinh Nhi gào khóc kêu gọi cứu người chạy đến thì đã muộn mất rồi, chẳng sao mò tìm được xác Đại Tôn nữa. Sáng hôm sau sự việc được đưa lên quan huyện, vì có nhiều người láng giềng làm chứng nên ông ta không truy cứu, cho rằng Đại Tôn bị ám ảnh bởi lời tiên đoán ma quái ấy tự mình nhảy xuống sông. Việc chết người bị xếp
lại, không còn ai nhắc tới nữa.
Mấy tháng sau đến ngày giỗ trăm ngày của Đại Tôn, chợt có mấy bà mối đem hoa quả nhang đèn đến phúng viếng rồi nhân lúc thân mật ướm lời khuyên Lý thị nên lấy chồng khác kẻo hoài tuổi xuân. Lý thị cương quyết thủ tiết cùng chồng, đưa ra điều kiện rất ngặt nghèo là nếu có tái giá cũng phải lấy một người làm Áp ty giống chồng mình, cũng thuận thảo biết làm ăn và chiều chuộng vợ như người chồng trước kia.
Tưởng như điều kiện này là không thể có, ngờ đâu mấy bà mối cười ngất, nói:
- Ông Áp ty Đại Tôn đã chết thì huyện này tất phải đưa người khác lên thế chỗ, đó cũng là người họ Tôn, hiện giờ được gọi là Tiểu Tôn, thật xứng đôi vừa lứa.
Lý thị giả như không tin là có chuyện phù hợp đến thế, chờ bọn mai mối nói đi nói lại nhiều lần mới cúi đầu ưng thuận. Thật ra tất cả đều là sắp đặt nhưng không ai biết nên đều khen Lý thị là người chung thủy vẫn nhớ đến người chồng quá cố. Thấy Lý thị đã bằng lòng, lập tức bà mối nói rằng ngày hôm nay rất tốt, có thể tiến hành ngay việc nhân duyên.
Nguyên Tiểu Tôn là người lang thang cơ nhỡ nhưng có diện mạo rất điển trai. Lần đó hắn lỡ đường bị tuyết vùi sắp chết cóng, tình cờ Đại Tôn đi qua, sai người lấy chăn ấm cứu được, đem về nhà săn sóc. Thấy Tiểu Tôn nhanh nhẹn, Đại Tôn rất yêu quý, không những chỉ dạy cách làm văn thư trong huyện đường mà còn cho ở chung, ăn uống như anh em ruột thịt vậy. Nhân lúc Đại Tôn bận việc quan, ở nhà Tiểu Tôn mở lời chòng ghẹo Lý thị, chẳng bao lâu
đã thành đôi gian phu dâm phụ.
Lý thị không muốn cứ mãi lén lút, bàn với Tiểu Tôn tìm cách ly dị với Đại Tôn rồi sau đó sẽ chính thức thành vợ chồng. Hai đứa quấn quít nhau nhiều lúc công khai nên Đại Tôn dù không ở nhà bao nhiêu cũng biết được, lập tức cho Tiểu Tôn ra ở riêng, nghĩ rằng như vậy đã cắt đứt được cuộc tình vụng trộm trái đạo đức của hai người mà mình vốn yêu mến. Tiếc rằng chính việc đuổi Tiểu Tôn đi lại làm cho hắn nung nấu thêm ý định giết chết Đại Tôn chiếm lấy vợ người.
Do vậy Lý thị cũng không chống cự, sai Nghinh Nhi viết thiếp ghi rõ họ tên, ngày sinh tháng đẻ đưa bà mối đem về cho Tiểu Tôn. Chẳng hiểu sao việc nhân duyên này hết sức xuôi thuận, chưa đầy hai tháng thì Tiểu Tôn Áp ty đã về nhà ở chung với Lý thị, ăn ở còn mặn nồng hơn Đại Tôn ngày trước. Một lần kia cả hai ăn uống no say, cười cợt trêu đùa vui thú với nhau mãi đến đêm mới tàn tiệc. Thấy trong người còn men rượu, Tiểu Tôn liền sai Nghinh Nhi xuống bếp nấu bát canh nóng uống cho giã bớt.
Lúc đó trời đã tối đen, bếp ở xa lại thiếu đèn lửa nên Nghinh Nhi rất sợ, oán trách nói một mình:
- Chủ nhân trước kia uống rượu rất lịch sự, đâu có bao giờ nửa đêm nửa hôm còn bắt gia nhân người hầu phải vất vả đến thế này đâu. Tiếc thay người tốt bao giờ cũng đoản mệnh.
Thế nhưng mấy lần không sao nhóm được lửa vì cái ống thổi bị nghẽn sao đó, Nghinh Nhi tức bực đập mạnh nó xuống bàn bếp. Đột nhiên từ trong bàn bếp nhô lên một cái đầu người, cổ còn đeo sợi dây, lưỡi thè dài như người bị thắt cổ chết, thanh âm gọi nho
nhỏ như từ nơi âm ty vọng lên:
- Nghinh Nhi! Ta chết oan ức lắm, ngươi tìm cách giúp ta giải oan để đi siêu sinh được không?
Chưa nghe hết lời Nghinh Nhi đã sợ đến chết ngất, hét lên một tiếng thất thanh rồi ngã ngửa ra sau bất tỉnh, mặt mày xanh tái không còn chút máu. Vợ chồng Tiểu Tôn nghe tiếng thét liền chạy xuống rồi tìm dầu nóng, thuốc an thần đổ vào miệng Nghinh Nhi, một lúc sau mới cứu tỉnh đứa hầu gái được.
Vợ chồng Tiểu Tôn liền hỏi nhìn thấy gì mà kinh hoảng đến như vậy. Nghinh Nhi thực tình kể lại mà người vẫn còn run bắn lên vì sợ hãi. Nghe xong, Lý thị chẳng những không an ủi mà còn dang tay tát cho đứa hầu gái một cái nên thân, hậm hực nói:
- Thôi! Ngươi đừng giả vờ lòe bịp vợ chồng ta. Chắc là ngươi làm biếng xuống bếp nấu nước nên đặt điều ra đấy thôi. Nhà ta ở bao nhiêu năm nay làm gì có ma có quái?
Thế nhưng Lý thị không bắt Nghinh Nhi nấu nước nữa mà cho đi ngủ, rồi sau đó hai vợ chồng cũng vào phòng riêng nói nhỏ: - Không ngờ hắn lại có thể hiện hồn lên cầu cứu Nghinh Nhi như vậy. Nó đã nhìn thấy rồi thì không thể để trong nhà này được nữa.
Tiểu Tôn Áp ty đồng ý nhưng không biết làm cách nào, hỏi thì Lý thị cười đáp:
- Cứ lấy cớ gả chồng cho nó là xong, đừng để mang tiếng là đuổi gia nhân vô cớ.
Tiểu Tôn cả mừng, dặn vợ ngay ngày mai phải thu xếp cho
xong. Lý thị liền gọi Nghinh Nhi tới hỏi:
- Dạo này ngươi hầu hạ vợ chồng chúng ta không được cẩn thận cho lắm, tâm hồn để đâu đâu, chắc là đã muốn lấy chồng rồi phải không? Con gái tới tuổi thì mơ tưởng chồng con là lẽ thường, ta sẽ tìm người mai mối cho ngươi.
Mặc dù Nghinh Nhi cãi là không hề muốn lấy chồng nhưng Lý thị vẫn tiến hành, chẳng bao lâu đã tìm ra được Vương Hưng là tên bợm rượu hoang đàng nhất huyện, lập tức gả Nghinh Nhi cho hắn. Nghinh Nhi lấy chồng chưa được mấy tháng thì bao nhiêu của hồi môn và công sức dành dụm mấy năm nay đều bị Vương Hưng đem nướng vào sòng bài bằng hết. Sau khi thua bài, Vương Hưng còn đi uống rượu đến say mèm rồi về nhà hạch sách vợ:
- Chủ của ngươi giàu có nhất nhì huyện này, thế mà ngươi để cho chồng khổ sở không vốn liếng làm ăn được ư? Ngày mai hãy đến nhà chủ nhân mượn hay xin cho ta vài trăm lạng bạc làm vốn đi buôn, khỏi phải long đong vất vả kiếm từng đồng từng xu nữa.
Nghinh Nhi không chịu thì bị Vương Hưng túm tóc đánh rất đau, túng quá đành phải nghe lời. Tuy nhiên một người keo kiệt bủn xỉn như Lý thị thì làm gì có lòng tốt đến thế, cho Nghinh Nhi vài lạng bạc vụn rồi đuổi về, mắng chửi:
- Ngươi đã lấy chồng thì sướng khổ đều do ở chồng. Mai này có túng đến mấy cũng đừng đến đây nữa, ta không giúp thêm một trinh nào nữa đâu.
Nghinh Nhi vâng dạ trở về nhà đưa bạc cho Vương Hưng. Hắn rất mừng, lập tức cầm đi luôn, nói là sẽ hùn vốn với người ta vì số tiền quá ít. Thế nhưng Vương Hưng lại nướng cả vào sòng bài. Sợ
bị vợ mắng chửi, Vương Hưng liền vay ít bạc lẽ của người quen rồi đem đi uống rượu tới say mèm, lấy men rượu để có gan trở về đánh mắng vợ lần nữa. Vương Hưng uống rượu vào rồi nổi tính côn đồ, đánh đập Nghinh Nhi rất dữ nên người vợ đáng thương kia đành phải để đầu tóc rối bù, mặt mày lem luốc, hai mắt đỏ húp vì khóc nhiều, tới van xin Lý thị lần nữa.
Quả nhiên Lý thị rất cứng lòng, dù Nghinh Nhi van lạy đến mấy, khóc lóc nếu không có tiền tất sẽ bị chồng đánh đến chết, Lý thị vẫn nhất định không cho vay thêm, đuổi ra khỏi nhà. Lúc đó trời đã chập choạng tối, Nghinh Nhi vừa đi vừa khóc, đi dọc theo một con hẻm nhỏ thì chợt có người gọi:
- Nghinh Nhi này! Ta cho ngươi ít tiền, đừng khóc nữa. Nghinh Nhi quay lại nhìn nhưng không thể thấy rõ mặt được bởi người ấy mặc quần áo đen, đội khăn trùm đầu che hết nửa mặt, lại đứng dưới cái mái hiên tối, chỉ để lộ thân hình ra mà thôi. Nếu như Nghinh Nhi không quá lo lắng tất sẽ nhận ra bộ quần áo người đó chính là quan phục mà trước kia Áp ty Đại Tôn thường hay mặc, bên hông còn lủng lẳng cái túi đựng giấy tờ nha môn. Lo lắng làm át chế sự sợ hãi, Nghinh Nhi thò tay ra lấy gói tiền nhỏ thì người ấy lập tức biến mất. Lúc đó Nghinh Nhi mới kinh hồn bạt vía bỏ chạy thục mạng về nhà. Thấy vợ tỏ ra hoảng hốt, Vương Hưng hỏi ngay:
- Có gì mà ngươi sợ hãi vậy? Sao ta bảo đến nhà chủ cũ vay mượn mà lâu quá vậy, hay còn lang thang nhiều chuyện ở đâu bây giờ mới chịu về?
Nghinh Nhi hổn hển đáp:
- Tôi làm gì dám lang thang trò chuyện với ai. Chẳng qua là đến nhà chủ cũ không vay được đồng nào. Còn đang lo lắng thì khi qua ngõ hẻm, bất chợt... hình như ông Áp ty Đại Tôn hiện hồn về cho tôi chút bạc vụn này đây, hãy cầm lấy tiêu đỡ vài ngày.
Nghe vậy Vương Hưng liền đẩy vợ vào nhà, đóng cửa lại rồi mới nói nhỏ:
- Trước kia ngươi có kể việc ông Áp ty hiện hồn trong bếp, nay lại hiện ra lần nữa thì tất phải có gì uẩn khúc, hồn vía mới cứ lẩn quẩn không siêu thăng được. Ngày mai tôi sẽ lên huyện trình báo việc này xem sao, có khi chính vợ chồng Áp ty Tiểu Tôn đã gây ra oan ức này đấy.
Thế nhưng sáng hôm sau Vương Hưng lại nghĩ Áp ty Tiểu Tôn hiện đang làm việc trong huyện, không thể trình báo quả việc có liên quan tới ông ấy. Mới chỉ suy đoán vậy thôi, chưa có chứng cứ gì không chừng mất toi số bạc nho nhỏ này, rồi còn bị đòn đau nữa. Vì vậy Vương Hưng bỏ ý định trình báo, mua một ít bánh ngon đem về nói với vợ:
- Chúng ta thử đem biếu số bánh này rồi dò xét xem thái độ của vợ chồng Áp ty Tiểu Tôn ra sao trước đã, khi đã chắc chắn thì mới nên trình báo.
Hai vợ chồng bàn xong, đem mấy hộp bánh đến nói dối với Lý thị:
- Chúng tôi vừa được ông Áp ty giúp cho mấy việc thuận lợi, kiếm được ít tiền nên hôm nay có chút quà đem biếu, gọi là lòng thành, xin bà Áp ty chớ ngại.
Lý thị cũng mừng cho hai người, chợt nói với Vương Hưng:
- Ta với Áp ty đã sống với nhau một thời gian khá lâu mà chưa có đứa con nào. Vì vậy sáng mai ta định đến miếu Đông Nhạc cầu tự, ngươi hãy về trước đi, để vợ ở lại ngày mai cùng đi với ta cho có bạn.
Vương Hưng bằng lòng, để Nghinh Nhi ở lại, ra về một mình. Sáng hôm sau Nghinh Nhi phụ giúp Lý thị sửa soạn mâm quả cùng đi với nhau đến miếu Đông Nhạc ở ngọn núi Đông Phong. Hai người vào chính điện thắp hương cầu khấn xong thì ra hai bên hành lang thắp hương tiếp. Chợt lúc đó dây dải quần của Nghinh Nhi bị lỏng ra, phải để Lý thị đi trước, tránh vào một chỗ tối bên cạnh pho tượng phán quan ở âm ty buộc chặt lại.
Còn đang loay hoay, Nghinh Nhi chợt thấy pho tượng nhúc nhích, nhìn kỹ thì chẳng hiểu tại sao diện mạo giống hệt Áp ty Đại Tôn. Pho tượng Đại Tôn đưa cho Nghinh Nhi một gói nhỏ, nói mà âm thanh giống như ở đâu vọng về:
- Ngươi là người hầu gái hiền lương, nếu còn nhớ chủ cũ thì cố sức giải oan cho ta nhé.
Nghinh Nhi nhận gói giấy xong, dụi mắt nhìn lại thì vẫn là pho tượng bằng đất, chẳng biết tại sao mà cử động được. Nghinh Nhi hoảng quá, nhét gói giấy vào người, không dám hở môi cho Lý thị biết, thắp hương xong vội vã lấy cớ yếu mệt trong người rồi xin về nhà.
Nghinh Nhi lập tức kể lại cho Vương Hưng biết việc lạ lùng vừa xảy ra, sau đó mở gói giấy xem thử. Hóa ra trong cái gói đó lại là một tờ giấy nhỏ, ghi mấy hàng chữ: “con gái lớn con gái nhỏ, người trước cày người sau ăn. Muốn biết việc canh ba gạt lửa mà xuống
nước. Tháng hai ba năm câu dĩ giải được”.
Hai vợ chồng Vương Hưng đọc đi đọc lại chẳng hiểu tí gì, đành phải cất vào đáy rương, bảo nhau cố nhớ ba năm sau vào tháng hai xem có sự cố gì xảy ra không, lúc ấy sẽ giải được ý nghĩa của mấy câu bí hiểm trên.
Khi Vương Hưng quyết định nhờ Bùi Khổng mục trình bày các việc lạ với Bao Chửng, bấm đốt ngón tay tính ra đúng là ba năm, Bao Chửng về nhậm chức cũng nhằm vào tháng hai.
Bao Chửng nghe Vương Hưng kể xong, không cần hỏi gì thêm, lập tức sai Bùi Khổng mục viết trát, sai quân đến bắt vợ chồng Áp ty Tiểu Tôn về công đường. Vì là người của huyện đường nên Tiểu Tôn tuy rất ngạc nhiên nhưng không hề chống cự, cùng với vợ theo chân bọn sai nha đi ngay. Thấy vợ chồng Tiểu Tôn tới nơi, Bao Chửng muốn thử lòng hắn nên lập tức mắng phủ đầu:
- Các ngươi thật là kẻ lòng lang dạ thú, dám toa rập giết người. Tiểu Tôn giả ngơ ngác thưa:
- Bẩm đại nhân! Chúng tiểu dân suốt đời làm ăn lương thiện, sao lại thế được? Theo vương pháp Đại Tống thì chưa có bằng chứng tang vật thì chưa thể khép tội, xin Bao đại nhân xem lại cho tiểu dân nhờ.
Bao Chửng liền bắt hai vợ chồng quỳ xuống trước rồi mới thong thả lật tờ giấy viết mấy hàng chữ bí hiểm ra giải thích: - “Con gái lớn con gái nhỏ” tức là ám chỉ Đại Tôn và Tiểu Tôn; “Người trước cày người sau ăn” là nói Đại Tôn xây dựng cơ nghiệp, lấy vợ rồi Tiểu Tôn cướp mà hưởng; “Muốn biết việc canh ba, gạt lửa mà xuống nước” chỉ việc Đại Tôn chết vào canh ba và chết là do
bị ngạt thở rồi dìm vào nước. Như vậy bản quan suy đoán vợ chồng ngươi giết chết Đại Tôn bằng cách siết cổ đưa thòng xuống giếng, sau đó xây bếp lửa để lên che giấu; hai chữ câu và dĩ ghép lại thành chữ Bao chính là họ của bản quan đây. Ta giải nghĩa như vậy đã rõ ràng chưa?
Áp ty Tiểu Tôn giật mình xanh mặt nhưng vẫn cố cãi: - Đó mới chỉ là suy đoán của đại nhân dựa theo mấy chữ vớ vẩn mà thôi, thực sự vẫn chưa có chứng cứ gì xác thực thì tiểu dân quyết không nhận tội.
Bao Chửng cười nhạt, nói “Được lắm” rồi sai quân sĩ giải cả vợ chồng Tiểu Tôn lẫn Vương Hưng tới nhà hắn. Tất cả người chứng kiến xử án đều nửa tin nửa ngờ nên xin đi theo khá đông, Bao Chửng đều chấp nhận hết.
Khi vào trong bếp nhà họ Tôn, đúng ngay chỗ Nghinh Nhi đã thấy hồn của Đại Tôn hiện ra, quân sĩ liền xúm nhau đập bỏ, lộ ra một phiến đá lớn bằng phẳng. Quân sĩ lại lật phiến đá lên thì lộ ra cái miệng giếng đen ngòm. Bao Chửng lập tức sai mấy tên quân gan dạ theo dây trèo xuống giếng, không bao lâu đưa lên một cái xác vẫn chưa rữa nát, nhìn mặt nhận ra ngay đó là Áp ty Đại Tôn, trên cổ xác chết vẫn còn sợi dây bao quanh. Thấy vậy mọi người đều kinh hoảng, khen thầm quan tri huyện Bao Chửng tuy trẻ tuổi mà tài cao, xét đoán việc như thần.
Hai vợ chồng Tiểu Tôn và Lý thị xanh xám cả mặt mũi, cứng đờ người không nói được câu nào. Theo như chứng cứ thì ai cũng có thể đoán được án mạng xảy ra như thế nào, đó là khi Đại Tôn đòi uống rượu chờ đến đêm để xem lời thầy bói có đúng không thì Tiểu
Tôn bắt Lý thị phải bỏ thuốc mê vào rượu khiến Đại Tôn mới uống mấy chén đã say mèm.
Vì quá lo lắng với lời tiên đoán nên Đại Tôn không hề để ý là lúc đó Tiểu Tôn đã ẩn nấp trong nhà, khi thấy Đại Tôn thấm thuốc mê thì liền cùng Lý thị tròng dây thắt cổ Đại Tôn cho đến chết, sau đó khiêng xác quăng xuống giếng, xây bếp đè lên để phi tang. Khi giết xong Đại Tôn, Tiểu Tôn mặc quần áo quan phục, che mặt rồi la lên cho mọi người biết, chạy ra mé sông. Nơi đó hắn đã đặt sẵn một tảng đá lớn, ném xuống tạo thành tiếng động giống như người nhảy. Vì vậy ai cũng tưởng là Đại Tôn tự mình nhảy xuống sông tự vẫn. Cũng vì lý do này mà mấy ngày sau Lý thị bỏ tiền ra nhờ người chèo thuyền tìm xác chồng mà không sao thấy được.
Đã đủ bằng chứng, Bao Chửng liền thăng đường, làm án văn bắt hai vợ chồng gian dâm giết người kia phải điểm chỉ vào rồi kết án tử hình, giải lên tỉnh phê duyệt. Từ đầu chí cuối hai vợ chồng Tiểu Tôn biết thân phận không phản kháng một câu nào, cúi đầu chịu tội, khi bị giải đi bị người dân chửi đổ ra xem mặt và mắng chửi hết lời.
Khi án đã xong, chính ra là do Bao Chửng giải được câu đối chứ không phải Vương Hưng nhưng ông vẫn thưởng cho hắn 10 lạng bạc như đã yết thị. Vương Hưng quá mừng, chia cho Bùi Khổng mục 3 lạng gọi là đền ơn. Vụ án ly kỳ này đã được kết thúc nhờ vào tài suy đoán thần tình của Bao Chửng, từ đó trở di danh tiếng của ông bắt đầu vang dội, đến mức sau này triều đình phải gọi ông về thăng lên làm Tri phủ Khai Phong, trở thành vị Bao Công mặt sắt đen xì lẫy lừng trong lịch sử hành pháp Trung Hoa.
3
BAO THANH THIÊN
LINH MIÊU HOÁN CHÚA
Trong số những kỳ án mà Bao Công dám đứng ra giải quyết có liên quan rất nhiều đến lai lịch của Hoàng đế Tống Nhân Tông, đó là câu chuyện nổi tiếng “Linh miêu hoán chúa”. Truyền kỳ này được rất nhiều người biết đến vì nó biểu trưng cho sự can đảm không hề khiếp sợ cường quyền của Bao Công, nhất quyết không vì cản ngại của bọn có quyền thế mà từ bỏ công lý.
Đó là năm 1023, khi Thái tử Triệu Trinh lên nối ngôi thì Bao Công đã ngồi ở địa vị Tri phủ được mấy năm, nổi tiếng là thanh liêm. Vì vậy khi đất nước có thiên tai, Tống Nhân Tông liền xuống chiếu đại xá thiên hạ, đồng thời phái Bao Công đi các tỉnh xem xét dân tình, cứu tế nếu quả nơi đó dân chúng đang đói khổ. Một lần kia, Bao Công cùng tùy tùng đi ngang trấn Tang Lâm thì trời đã tối, liền quyết định dừng lại ở miếu Đông Nhạc cho mọi người nghỉ ngơi. Nhân dịp này Bao Công cũng yết thị bố cáo cho dân chúng biết nếu ai gặp hàm oan thì có thể vượt cấp dâng thư lên ông cứu xét.
Qua hôm sau, chợt có một lão nhân ăn mặc rách rưới nghèo hèn đến trước cửa miếu, tay cầm lá thư và xin được gặp mặt Bao Công để tố cáo một việc quan trọng. Thấy bà lão này ốm yếu xơ xác,
quân lính liền nói:
- Ngươi hãy đưa thư tố cáo đây. Lát nữa lão gia thức dậy ta sẽ trình lên cho.
Chẳng ngờ bà lão hừ một tiếng, gằn giọng nói:
- Quan là cha mẹ của dân mà giờ này chưa ngủ dậy hay sao? Ngươi hãy vào báo là có người muốn gặp tận mặt, tố cáo một việc hết sức quan trọng đến quốc sự được không?
Nghe đến hai chữ “quốc sự”, tên lính cũng hơi kinh hoảng, vội dặn bà lão đợi ở ngoài, mau mau vào thưa với Bao Công. Thật ra lúc ấy Bao Công đã thức dậy từ lâu, nghe tên lính báo lại thì hơi ngạc nhiên nhưng vốn tính rất thân thiện với người dân, ông cũng chẳng nề hà đó là bà lão nghèo đói xác xơ, lập tức thăng đường rồi mời vào. Bà lão cứ cầm lá thư ở tay, không đưa lên, đôi mắt nhìn chằm chặp vào Bao Công, hình như chưa biết chắc vậy. Bao Công liền hỏi:
- Nữ nhân đứng dưới kia là ai, tên tuổi là gì, muốn tố cáo oan ức gì thì mau đưa thư lên đây.
Chẳng hiểu sao bà lão lại mắng chửi:
- Hừ! Cái tên của ta thật khốn khiếp, chẳng đáng nói ra. Nếu ông là Bao Công thật sự thì chỉ cần nghe lời tố cáo trước đã, sau đó hãy hỏi tên tuổi của lão có được không?
Bao Công nghe vậy cũng vui vẻ bằng lòng. Thế nhưng bà lão vẫn chưa dừng thái độ khó hiểu, nhìn chằm chặp vào mặt ông rồi hỏi:
- Ông có thật phải là Bao Chửng? Người mà người ta đồn đại là
Bao Thanh Thiên xử án hết sức công minh, không biết sợ cường quyền đấy không?
Bao Công vẫn không giận, đáp:
- Quả đúng bản quan đây là Bao Chửng. Nhìn mặt đen xì của bản quan, ngươi không nhận ra là Bao Hắc Tử hay sao? Nghe những lời nói nhẹ nhàng khoan dung, không nạt nộ hạch sách như các quan lại khác, bà lão hình như đã tin tưởng mấy phần, nhưng vẫn tỏ ra ngần ngại hồi lâu mới nói:
- Lão đây tuổi già mắt kém, làm sao nhìn được cho rõ. Nếu ông thật là Bao Công thì phía sau cổ có một cục thịt thừa nho nhỏ. Ta sờ vào là biết ngay chân giả.
Bao Công thoáng ngạc nhiên bởi cục thịt dư này hầu như rất ít người biết tới, tại sao một lão nhân già yếu ở địa phương xa xôi này lại tường tận như vậy? Bao Công liền cho phép bà lão được tới gần, trật cổ áo ra sờ vào phía sau. Bà lão run run lấy tay mò mẫm, sau khi sờ trúng cục thịt thừa thì liền mừng rỡ la lên:
- Quả là Bao Công thật rồi!
Bao Công tưởng đâu bà lão sẽ quỳ mọp xuống như mọi người rồi thưa lên những oan ức đã gặp. Chẳng ngờ bà lão đang tiện đứng gần liền đưa tay tát luôn hai cái vào hai má của Bao Công khiến quân lính và bọn nha lại đều xanh mặt sợ hãi, hồi hộp chờ đợi cơn thịnh nộ của đại quan. Thật ra Bao Công cũng hơi tức giận vì bất ngờ nhưng rất mau trấn tỉnh lại được, trầm giọng hỏi:
- Thật ra ngươi là ai? Tại sao lại dám đánh quan lại của triều đình?
Bà lão không hề sợ sệt, nói nho nhỏ:
- Ta đã nói đây là quốc sự. Việc này chỉ có ta và ngươi được biết mà thôi. Hãy mau cho tả hữu lui ra ngoài rồi ta kể cho nghe. Thấy bà lão đổi giọng xưng hô, tỏ ra là người trên chứ không còn giữ dáng điệu dân thường nữa, Bao Công bắt đầu nhận ra có lẽ đó là việc rất quan trọng, bằng lòng cho tả hữu lui hết ra ngoài. Khi biết trong miếu không còn ai, bà lão chợt khóc to một hồi, sau đó mới nức nở nói:
- Ngươi đã làm quan từ khi Hoàng đế hiện nay còn là Thái tử thì chắc phải biết ta là ai. Ta chính là Lý Tài nhân, con của Tiết Độ sứ Lý Tông Hoa đây!
Cái tên này nghe rất quen bởi Bao Công đã nhiều lần vào cung nhưng nhất thời không thể xác nhận. Ông còn đang ngỡ ngàng suy nghĩ thì Lý Tài nhân hình như đang mơ màng đến việc xưa kia, nói rất nhỏ:
- Năm lên 13 tuổi, ta được phụ thân đưa vào Thái Thanh viện tu hành, lấy pháp danh là Kim Quán đạo cô. Những tưởng cuộc đời mai một thanh xuân ở nơi thâm u ấy, chẳng ngờ một hôm Hoàng đế (tức Tống Chân Tông Triệu Hằng) đến thắp hương. Nhìn thấy ta có chút nhan sắc nên đem lòng thương yêu, lập tức đưa về cung phong làm Tài nhân. Ta cùng Hoàng đế mặn nồng biết bao thắm thiết, vì vậy đã hoài thai ngay từ tháng thứ hai. Lúc đó Lưu Quý phi cũng hoài thai, theo lời ngự y thì có lẽ cả hai sẽ sinh cùng ngày cùng tháng. Ta không hề để ý đến chuyện đó, chẳng ngờ đâu...
Lý Tài nhân chợt thở dài ảo não. Càng nghe càng hồi hộp vì biết sẽ có chuyện tày đình xảy ra, Bao Công cũng không hối thúc, chờ
một lúc thì Lý Tài nhân nén cơn xúc động, nói tiếp: - ... Ta không ngờ rằng Lưu Quý phi sinh hạ không vuông tròn, công chúa vừa mới ra đời thì đã tắt thở. Lúc đó ta hết sức vui mừng vì đã hạ sinh một hoàng tử nên không đề phòng chút nào, ngu dại để bọn thái giám toa rập với Lưu Quý phi bắt con trai của ta đi mất, thế vào đó là xác một con mèo nhỏ. Việc ám muội này không qua mắt được tên thái giám Trương Viện Tử, vì vậy ta toan tính đi tố cáo thì Lưu Quý phi biết trước, lén sai người giết chết Trương Viện Tử.
Nói tới đây Lưu Tài nhân khóc ngất một hồi, mãi sau mới nói tiếp được:
- Không hiểu vì sao khi nhìn mặt con thì đó không phải là hoàng tử hay công chúa mà là xác một con mèo mới chết, còn ướt đẫm máu me. Ta vì sinh ra một con mèo nên bị bọn tay chân của Lưu Quý phi tung tin là hồ ly, rốt cuộc không làm sao minh oan nổi, phải chịu bị giam vĩnh viễn nơi lãnh cung. Cũng may khi con ta lên ngôi Hoàng đế đã xuống chiếu đại xá thiên hạ, ta nhân dịp này mới ra khỏi lãnh cung, lưu lạc đến đây làm nghề ăn xin qua ngày. Bao nhiêu uất ức bấy lâu nay dồn nén trong lòng nhưng ta tuyệt đối không dám hở môi cho ai, biết rằng chỉ có ngươi, người không sợ trời không kiêng đất mới có thể giải nỗi oan tình này cho ta mà thôi.
Việc này vô cùng trọng đại nên Bao Công cũng thoáng sợ hãi, hỏi lại:
- Việc có thật hay không? Ai có thể làm chứng được? Nếu sơ suất thì ta và bà có thể bị tru di ba họ đấy.
Bà lão tự nhận là Lý Tài nhân gật đầu nói:
- Tuy Trương Viện Tử đã chết, hoàn toàn không có nhân chứng nhưng tất cả mưu mô đều do tên thái giám Quách Hòe cầm đầu. Chỉ cần làm sao bắt hắn phải khai ra là mọi việc sáng tỏ ngay. Bao Công nghe vậy ngần ngừ nói:
- Nếu thật sự do tay của Quách Hòe thì chắc chắn hắn sẽ không bao giờ khai thật. Việc điều tra này sẽ rất khó khăn. Tuy nhiên nếu như bà quả là Lý Tài nhân thì phải biết rõ Hoàng đế khi mới sinh ra có đặc điểm như thế nào thì bản quan mới dám tin tưởng.
Lý Tài nhân ung dung đáp ngay:
- Khi mới sinh ra, hai tay Thái tử nắm chặt, cung nữ phải khéo léo nắn nhẹ rồi mở ra, thấy tay trái có hai chữ “Sơn hà”, tay phải có hai chữ “Xã tắc”. Như thế đã rõ chưa?
Bao Công nghe xong biết chắc đây là Lý Tài nhân, lại là mẫu thân của Hoàng đế hiện tại thì thất sắc, vội đỡ bà lão ngồi lên ghế, rồi quì xuống thưa:
- Xin Nương nương tha tội cho Bao Chửng này không biết nhìn người.
Lý Tài nhân đang lúc hy vọng, tràn trề vui sướng, không chấp nhất chút nào, đỡ Bao Công dậy rồi muốn hỏi ngay kế sách để điều tra sự việc. Ông không vội vã, sai người đưa Lý Tài nhân đi tắm rửa, thay quần áo mới rồi mở tiệc chúc mừng trước khi bí mật đưa về Đông Kinh. Bao Công suy nghĩ rất nhiều về việc làm sao để có thể sáng tỏ mọi điều, chỉ cần một chút sơ sẩy hay phạm thượng đến tôn nhan là mất đầu như chơi. Do vậy ông trằn trọc suốt đêm
mới nghĩ ra một phương cách. Hôm sau Bao Công vào chầu liền tâu với Hoàng đế Tống Nhân Tông:
- Thần theo lệnh hoàng thượng đi công cán nhiều nơi, nhờ ân đức của hoàng thượng nên mọi việc đều trôi chảy hoàn tất, nhân dân hết lời ca tụng. Thế nhưng lúc về đến trấn Tang Lâm thì gặp một việc rất lạ. Đó là giữa đường có một đạo nhân dáng vẻ nghèo đói gầy gò, mặc hoàng bào rách nát, theo lời người dân kể lại thì đã khóc đến 3 ngày 3 đêm, cứ lẩm bẩm trong miệng là “Sơn hà Xã tắc nghiêng đổ mất rồi”. Hạ thần thấy việc này nghiêm trọng nên dừng xe hỏi tại sao thì đạo nhân ấy trả lời: “Sơn hà xã tắc hiện nay không phải là chân Thiên tử thì tất phải nghiêng đổ mà thôi”. Trả lời xong đạo nhân ấy bỏ đi ngay, tìm mãi không gặp được nữa, vì vậy chẳng biết chuyện này đúng hay sai. Trong lòng thần hết sức phân vân nên mới bạo gan kể lại chuyện này cho bệ hạ nghe.
Tống Nhân Tông nghe vậy cười nói:
- Bọn đạo sĩ thường hay lắm chuyện, thích nói hoang đường để lừa bịp người nhẹ dạ đó thôi. Khanh cứ yên tâm, trẫm sinh ra đã có hai chữ “Sơn hà” và “Xã tắc” trong lòng hai bàn tay thì là chân Thiên tử, nào phải giả Thiên tử mà hiền khanh phải lo lắng?
Bao Công liền xin được Tống Nhân Tông ban ân sủng cho xem hai lòng bàn tay. Khi đọc rõ hai chữ “Sơn hà” và “Xã tắc” rồi, ông giả vờ ngần ngại, tâu:
- Quả hoàng thượng là chân Thiên tử. Rất tiếc rằng chữ “vương” có bộ “thảo” ở đầu mà thôi.
Bao Công cố ý đặt điều là có bộ “thảo” ở đầu để ám chỉ mẫu thân của Hoàng đế đang phải chịu cảnh bần hàn như kẻ thảo dân.
Toàn bộ quần thần nghe Bao Công tâu vậy thì đều giật mình kinh sợ bởi tội phạm thượng khi quân khó tha thứ được. Quả nhiên Tống Nhân Tông nổi cơn lôi đình, đập tay xuống ngai vàng, quát lớn:
- Thái tổ Hoàng đế xuất thân nơi quyền quý, lấy nhân nghĩa làm gốc mới giành được thiên hạ, truyền ngôi từ đó đến nay ai ai cũng ca tụng. Trẫm là dòng dõi của Thái tổ, tại sao ngươi lại dè bỉu là Vương có bộ “thảo” ở đầu?
Thái tổ Hoàng đế triều Tống mà Tống Nhân Tông vừa nhắc tới là Triệu Khuôn Dẫn, một người kiêu hùng vũ dũng, khôn ngoan tài lược, đã dựng lên vở kinh “Trần Kiều binh biến” lật đổ ngai vàng của nhà Hậu Chu, kiến lập triều Tống khá thịnh trị, kéo dài nhiều năm, được người dân Trung Hoa khen ngợi. Nhân Tông nhắc tới Thái tổ tức là đã hết sức tức giận. Vì vậy ai cũng tưởng Bao Công sẽ quỳ mọp xuống xin tha tội chết, ngờ đâu ông vẫn bình tĩnh như thường, lại còn nói nho nhỏ:
- Bệ hạ cho mình là chân Thiên tử, thế sao không biết mẫu thân của mình là ai?
Nghe câu nói lạ lùng này, Tống Nhân Tông giảm bớt giận dữ, đáp luôn:
- Hoàng mẫu của ta là Lưu Thái hậu, hiện đang ở cung Triêu Dương, ai cũng biết rõ, sao ngươi lại dám nói là trẫm không biết? Từ trước tới nay trẫm rất kính trọng khanh là người công minh chính trực, không hiểu tại sao lại hồ đồ phạm thượng đến vậy, nếu không giải bày được thì e rằng trẫm khó dung thứ nổi.
Bao Công liền cúi người, nói lớn:
- Hạ thần e rằng không phải như vậy. Hạ thần nghe rằng hoàng mẫu của bệ hạ hiện nay đang phải ăn xin từng miếng cơm ở trấn Tang Lâm mà bệ hạ ngồi trên ngai vàng không biết gì hết thì giang sơn xã tắc có thể nghiêng đổ chẳng sai. Trong số bá quan văn võ có người biết đó là sự thật, bệ hạ chưa tin thì cứ tra hỏi sẽ rõ ngay. Nếu hạ thần sai lời thì xin đưa đầu chịu tội, không oán thán nửa lời.
Thái độ ung dung của Bao Công làm cho Tống Nhân Tông cũng phải bất ngờ, do vậy lửa giận vơi đi gần hết. Hoàng đế lại vốn biết Bao Công nghiêm chính, không bao giờ nói bừa bãi, chắc hẳn đây phải là việc rất hệ trọng nên nén giận hỏi:
- Như vậy là thế nào? Ai trong triều biết rõ hoàng mẫu của trẫm hơn cả trẫm?
Bao Công đáp thẳng luôn:
- Đó là Quách Hòe, thái giám thân cận của Lưu Thái hậu. Một đại thần là Vương Thừa tướng cũng không thể bỏ qua việc hệ trọng như vậy, lập tức tiến ra tâu:
- Theo hạ thần thì Bao Hắc Tử có ý định phanh phui chuyện gì rất hệ trọng, liên quan cả đến bệ hạ. Nếu có thực thì chắc chắn Quách Hòe là người thân tín trong tam cung lục viện, am hiểu rõ nhất những ẩn tình, xin bệ hạ cứ gọi hắn đến hỏi thử xem phản ứng ra sao rồi hãy kết tội Bao Hắc Tử chưa muộn.
Tống Nhân Tông nghe vậy liền xuống lệnh triệu Quách Hòe đến, nôn nóng hỏi luôn:
- Ai là hoàng mẫu thật sự của trẫm? Trước mặt bá quan văn võ
ngươi cứ nói thật ra đi.
Quách Hòe không hề lộ chút bối rối nào, mau mắn tâu ngay: - Lưu Thái hậu chính là mẫu thân của bệ hạ! Việc này rõ ràng cả thiên hạ cũng biết. Hạ thần hết sức thắc mắc tại sao bệ hạ lại hỏi như thế. Chắc chắn đã có kẻ nào gièm pha định lăng nhục quốc thể đây.
Tống Nhân Tông nghe xong lửa giận lại bùng lên, đã toan hạ lệnh đem Bao Công ra pháp trường xử trảm về tội khi quân phạm thượng. Thế nhưng thấy ông vẫn ung dung, chẳng hề tỏ ý lo lắng gì, Vương Thừa tướng liền tâu:
- Bất cứ vụ án nào cũng đều xảy ra đôi bên nói trái ngược nhau. Hiện Bao Hắc Tử nói khác mà Quách Hòe xác nhận khác thì cần phải điều tra thêm cho rõ ràng. Theo ý hạ thần thì bệ hạ cứ theo trình tự, đưa Quách Hòe sang Tây Đài Ngự sử thẩm vấn rồi sau đó trình lên bệ hạ sau cũng chưa muộn.
Tống Nhân Tông vốn là người anh minh, nghe vậy liền chuẩn tấu, sai Ngự sử Đại phu là Vương Tài phụ trách việc thẩm tra Quách Hòe, còn Bao Công thì được về phủ, bởi Quách Hòe là người bị tố cáo. Nghe tin này, Lưu Thái hậu lập tức sai tên thái giám thân tín nhất, đem rất nhiều vàng bạc đến mua chuộc Vương Tài. Rốt cuộc Vương Tài tối mắt, chỉ lấy lời khai qua loa rồi thả Quách Hòe ra, cùng với tên thái giám của Lưu Thái hậu bày tiệc linh đình ăn uống. Ngay khi ba tên gian thần ấy đang ngồi uống rượu phè phỡn nơi phủ Ngự sử, cười nói huênh hoang thì chợt có một tráng hán mặt mũi đen đũi nhưng quần áo theo lối nhà quan khá sang trọng, xông vào nói lớn:
- Ta là Tiết Độ sứ nơi biên cương, rất ít khi có dịp về triều báo công. Hôm nay thấy nơi đây có tiệc tùng linh đình nên mạo phạm vào xin chút rượu thịt được không?
Vương Tài rất tức bực, nhìn kỹ người này có nét quen quen nhưng lúc đó đã uống khá nhiều nên không sao nhớ nổi. Hắn đang lúc hứng chí không muốn bị người khác quấy nhiễu nên cau mặt nói với tả hữu:
- Cho hắn mấy bát rượu, uống xong cho thêm mấy quan tiền rồi đuổi đi khuất mắt ta mau. Tiết Độ sứ hay không cũng mặc kệ, ta không thèm giao du với bọn này làm gì cho thêm phiền phức.
Thế nhưng tráng hán kia uống xong ba bát rượu thì đã tỏ vẻ khá say, nằm lăn ra trước thềm kêu rầm lên:
- Đại quan nhận đút lót của người không tra cứu là chuyện nhỏ, Thiên tử không biết đến mẫu thân của mình mới là chuyện lớn lao. Trời ôi! Có ai giải oan khuất này cho ta không?
Vương Ngự sử nghe vậy thoáng kinh sợ, mắng mấy câu rồi lập tức sai quân sĩ đưa tráng hán ra hậu viên treo lên chờ giải quyết sau. Bọn quân sĩ tuân lời, còn đang giằng co thì chợt có quân vào báo tin là Bao Công đang tới, xin gặp mặt Ngự sử bàn chuyện cơ mật.
Vương Tài nghe vậy cả sợ bởi chưa làm xong văn án đã cùng với phạm nhân uống rượu, vội vã đưa Quách Hòe tạm trở lại ngục thất. Thế nhưng khi Vương Tài ra cửa đón thì chỉ thấy bọn tả hữu của Bao Công đang đứng chờ mà thôi. Vương Tài kinh ngạc hỏi:
- Các ngươi nói là Bao Hắc Tử đến đây sao chẳng thấy?
Bọn này ngơ ngác đáp:
- Chúng tôi nghe lệnh là Bao tướng công đang bàn việc cơ mật ở phủ Ngự sử, nay đến đón về mà thôi.
Vương Ngự sử cố nói là không hề thấy Bao Công đến nhưng bọn tả hữu nhất định không chịu, xông luôn vào trong nhà tìm kiếm. Khi ấy tráng hán bị treo trong vườn liền kêu ầm lên, bọn tả hữu chạy đến, nhận ra đó chính là Bao Công thì kinh hoảng nói:
- Chết rồi! Sao Ngự sử lại treo Bao tướng công của chúng tôi lên cây thế này.
Kêu xong, bọn tả hữu lập tức trèo lên tháo dây thả Bao Công xuống. Hóa ra Bao Công hóa trang rất tài tình, đến như Vương Tài cũng không nhận ra. Theo quan hàm thì Bao Công còn cao hơn Vương Tài nên hắn sợ đến xanh mặt, quì xuống vái lạy xin tạ tội. Bao Công không thèm để ý đến hắn, sai tả hữu lục soát toàn nha phủ, rốt cuộc tìm được số vàng ngọc trân châu rất lớn mà Lưu Thái hậu đã sai đem tới hối lộ.
Bao Công liền mắng Vương Tài:
- Cẩu quan kia! Ngươi đã làm tới chức Ngự sử, phụ trách việc thẩm vấn làm án, thế mà tham lam đi nhận đút lót, toan tính việc làm sai lệch vụ việc thì đã phạm vào tội nặng. Ta sẽ tâu với hoàng thượng chém đầu ngươi làm gương cho các đại quan khác mới được.
Nhân lúc hỗn loạn ấy, tên thái giám thân tín của Lưu Thái hậu đã mau lẹ chuồn ra cửa sau trốn về cung. Tuy Bao Công không bắt được y nhưng số vàng ngọc đã đủ để làm tang chứng, liền tâu trình lên Tống Nhân Tông. Hoàng đế lập tức cho gọi tên thái giám này đến đích thân hạch hỏi:
- Tên nô tài khốn khiếp kia! Ngươi theo lệnh ai mang số vàng ngọc lớn lao như vậy đến phủ Ngự sử? Hối lộ để toan tính việc gì thì mau khai ra ngay.
Trước mắt Hoàng đế và Bao Công, tên thái giám sợ đến mất vía, không dám giấu diếm, khai rõ đó là lệnh của Lưu Thái hậu, nhờ Vương Ngự sử làm văn án xác nhận Quách Hòe khai đúng sự thật. Tống Nhân Tông nghe xong buâng khuâng hồi lâu rồi mới thở dài nói:
- Thái hậu nếu thật là hoàng mẫu của ta, tại sao lại phải dùng số vàng ngọc lớn lao như thế đi hối lộ? Chắc chắn trong chuyện này có nhiều bí ẩn và lời tâu của Bao khanh có lý do của nó vậy. Bây giờ trẫm giao Quách Hòe cho khanh thẩm vấn, mau mau tìm ra sự thật cho trẫm.
Bao Công cúi đầu bái tạ, tuân lệnh trở về phủ Ngự sử đưa Quách Hòe đến công đường của phủ Khai Phong mở cuộc thẩm vấn. Thế nhưng Quách Hòe quả là tên to gan lớn mật, dù Bao Công dùng đủ mọi khảo hình vẫn nhất định không khai nhận có chuyện mờ ám. Bất đắc dĩ Bao Công phải giam hắn vào đại lao, tìm mưu kế để hắn tự cung khai.
Sau khi mưu tính xong, Bao Công gọi hai tên tả hữu là Đổng Siêu và Bách Bá dặn dò:
- Các ngươi phải làm như thế này... cho ta.
Đổng Siêu và Bách Bá vốn rất ít khi xuất đầu lộ diện như Triển Chiêu và Tứ Hổ nên Quách Hòe cũng không biết mặt, chỉ tưởng là hai tên quân coi ngục bình thường. Đổng Siêu và Bách Bá đem rượu thịt đến, lén lút nói với Quách Hòe:
- Chúng tôi là tay chân của Thái hậu, được lệnh vào đây bàn với công công vài lời.
Nghe vậy Quách Hòe hơi yên tâm, nhân lúc đang đói khát liền cùng ngồi với Đổng Siêu và Bách Bá ăn uống. Đổng Siêu liền ghé tai Quách Hòe nói nhỏ:
- Nương nương đã biết việc này rồi, đang tìm cách cứu ngươi ra đó. Vì vậy dù đau khổ đến mấy cũng nhất định đừng khai nhận gì hết. Sau khi thoát nạn Nương nương sẽ trọng thưởng. Nương nương phải sai bọn ta tới đây bí mật cho ngươi biết.
Quách Hòe chẳng ngờ đó là mưu của Bao Công, mừng rỡ đáp: - Hai ngươi thật là cứu tinh của ta. Hai ngươi cố gắng nhẫn nại làm việc dưới quyền của tên Bao mặt sắt kia ít lâu, lúc nào xong việc ta sẽ tâu với Nương nương đưa vào cung, tha hồ ăn sung mặc sướng.
Quách Hòe vừa dứt lời thì đột ngột Đổng Siêu và Bách Bá đứng phắt dậy, chỉ tay vào mặt hắn mắng chửi:
- Chúng ta đã nghe ngươi nói rõ ràng rồi. Chúng ta chính là người của Bao Tướng công sai đến đây, hãy mau khai sự thật ra đi kẻo tan da nát thịt, hối cũng không kịp đấy.
Quách Hòe giật bắn cả người, suy nghĩ một chút thì biết ngay mình đã trúng kế của Bao Công. Bây giờ đã lỡ lời, có hai nhân chứng xác nhận thì không khai cũng không xong, chỉ thêm tan da nát thịt vô ích mà thôi. Vì vậy sau cùng Quách Hòe chấp nhận khai toàn bộ sự thật. Đổng Siêu và Bách Bá không bỏ lỡ cơ hội, lập tức viết lời khai rồi bắt Quách Hòe điểm chỉ vào.
Ngày hôm sau, Bao Công nhận được tờ khai của Quách Hòe thì rất mừng, mau lẹ đem vào cung cho Tống Nhân Tông xem xét. Thế nhưng khi Hoàng đế sai người điệu Quách Hòe vào để tự mình minh xác những lời khai thì hắn lập tức phản cung, kêu khóc:
- Tâu bệ hạ, đó là vì Bao Hắc Tử đã khảo dữ quá, thần chịu đau đớn không nổi nên mới khai bừa theo lời của ông ta. Thần biết rằng hoàng thượng anh minh, thể nào cũng thẩm tra lại lần nữa nên mới chịu nhục mà khai sai sự thật, bây giờ trước mặt hoàng thượng, thần đoan chắc Lưu Thái hậu chính là mẫu thân của hoàng thượng không sai.
Tống Nhân Tông vô cùng lúng túng, hết nhìn Quách Hòe lại quay qua nhìn Bao Công. Ai cũng tưởng lần này Bao Công sẽ thất thế, không ngờ rằng ông đã minh trí đoán trước thể nào Quách Hòe cũng lật lọng trước mặt Hoàng đế. Vì vậy Bao Công thản nhiên nói:
- Bệ hạ cứ giao hắn cho hạ thần. Hạ thần sẽ treo hắn lên cây trong vườn công phủ, trước sau gì mọi việc cũng sáng tỏ mà thôi. Tuy không tin tưởng lắm nhưng Tống Nhân Tông không còn cách nào khác, đành phải chuẩn tấu. Bao Công liền sai Đổng Siêu và Bách Bá đưa Quách Hòe về phủ trước, ông ở lại nói nhỏ với Tống Nhân Tông...
Không biết vì quá bận rộn hay là vì Bao Công muốn nhờ đến tối uy hiếp tinh thần của Quách Hòe mà mãi đến canh ba đêm ấy mới bày án thư ra ngay chỗ Quách Hòe bị treo để thẩm vấn. Trước tiên Bao Công cho bày hoa quả làm lễ trời đất, thế nhưng vừa mới cúi đầu lạy mấy cái thì tự nhiên cuồng phong ở đâu nổi lên dữ dội, cát bay đá chạy hết sức kinh khủng, không còn thấy trăng sao đâu cả.
Quách Hòe tối tăm cả mắt mũi, chợt có cảm giác như bị hai người nào đó kè hai bên bắt giải đi. Trận cuồng phong này kéo dài khá lâu, đến khi chấm dứt thì Quách Hòe mới mở mắt ra được.
Không thấy thì thôi, khi thấy mình đang quỳ giữa sân thì Quách Hòe thất kinh hồn vía. Hắn lén nhìn ra hai bên, có tới mấy chục quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa cầm vũ khí sáng lòa, phía trên là Diêm vương oai vệ với đôi mắt trợn trừng, mặt mày hung dữ giống hệt những bức tranh mô tả địa ngục mà hắn từng đã thấy, hai bên có các phán quan mặt mày hung dữ ngồi nhìn chằm chằm vào tội nhân dưới sân như muốn ăn tươi nuốt sống thì hắn lại càng chết ngất cả người. Chợt Diêm vương quát lớn:
- Các ngươi kiểm điểm xem đã có mặt đầy đủ chưa, để bản Diêm La bắt đầu tiến hành việc tra khảo tên Quách Hòe vô nhân này.
Một phán quan mặt mũi đen xì, mặt mũi còn hung hãn hơn cả Diêm vương, chợt bước ra tâu:
- Tên Quách Hòe này vẫn còn số mệnh sống thêm mấy năm nữa, xin Đại vương đừng làm trái với mệnh trời. Đại vương có tra khảo thì cũng xin nhẹ tay một chút kẻo hắn chết tại đây thì thật khó nói với thiên đình.
Quách Hòe nghe vậy rất mừng, biết rằng chưa thể chết ngay được nên nén sợ hãi, run run thưa:
- Tất cả việc này đều do Lưu Thái hậu sai xử, tội thần chỉ thi hành mà thôi. Nếu như Đại vương giúp hóa giải được nạn này thì sau khi về trần, tội thần sẽ tâu với Nương nương lập trai đàn cúng tế, làm công quả thật lớn đền ơn. Như thế có được không?
Diêm vương cười nhạt, nói:
- Ngươi đã xuống địa ngục mà vẫn còn trả giá được thì thật to gan. Thế nhưng số mệnh của ngươi chưa tuyệt thì ta cũng nương nhẹ cho. Hãy khai ra mọi việc rồi ta sẽ tha cho về dương thế.
Quách Hòe không ngờ tới Diêm vương cũng thích ăn hối lộ nên mừng rỡ khai toàn bộ sự việc, không giấu diếm chút nào. Diêm vương sai phán quan ghi chép thật cẩn thận, bắt Quách Hòe điểm chỉ vào xác nhận. Mọi việc tưởng đâu xong xuôi êm thắm, Quách Hòe đang hớn hở chờ lệnh tha về thì chợt vị Diêm vương đứng bật dậy, lột cái mặt nạ hung dữ ra, chỉ mặt Quách Hòe mà mắng:
- Tên cẩu nô tài kia! Ngươi nhìn xem ta có phải là Diêm vương hay không? Trẫm là Thiên tử Đại Tống mà ngươi không nhận ra hay sao? Còn phán quan mặt mũi đen xì kia chính là Bao khanh chứ chẳng phải là ai khác. Ngươi đã điểm chỉ vào tờ khai, bây giờ còn chối cãi được nữa không?
Nghe vậy Quách Hòe chẳng còn hồn vía nào nữa, cứ phục xuống lạy như tế sao, tự biết rằng có nói gì đi nữa cũng bằng thừa. Nhân Tông cũng không thèm hỏi gì thêm, cởi bỏ áo mũ Diêm vương, truyền lệnh hồi giá về cung, đồng thời hạ chỉ sai Bao Công mau mau đưa Lý Nương nương đến gặp mặt cho thỏa tình mẹ con xa cách bấy lâu nay. Khi trời sáng, mọi việc đã thu xếp xong, Tống Nhân Tông thiết triều trọng thể, lấy kiệu vàng đón Lý Tài nhân từ phủ Khai Phong vào cung trùng phùng. Hoàng đế sai quần thần văn võ đứng hai bên kính cẩn chào đón hết sức long trọng. Nhìn thấy mẫu thân sắc mặt tiều tụy, hai mắt lờ đờ không nhìn thấy đường, Tống Nhân Tông vô cùng cảm xúc, rơi nước mắt khiến quần
thần cũng phải khóc theo.
Càng đau đớn bao nhiêu, hoàng đế càng căm hận Lưu Thái hậu bấy nhiêu, đã hạ chiếu cách chức của bà ta mà còn muốn trừng trị thật nặng mới cam tâm. Bao Công liền tâu:
- Dù phạm tội gì đi nữa, bậc Thiên tử cũng như bậc mẫu nghi thiên hạ đều được ban ân chết toàn thây, vì vậy trừng trị đánh đập là sai với vương pháp từ trước tới nay. Theo hạ thần thì bệ hạ chỉ nên ban cho Lưu thị một dải lụa là xong. Riêng Quách Hòe là kẻ bày mưu đặt kế xúi giục làm bậy, khiến cho mẫu tử xa lìa thì tội ác cao như núi, phải ném vào vạc dầu giữa chợ làm gương cho mọi người mới xứng đáng.
Tống Nhân Tông tuy vẫn còn tức hận nhưng biết những lời can gián của Bao Công chính đáng, lập tức chuẩn tấu. Thế là vụ án bí mật này đã được Bao Công sử dụng liên tiếp mấy kỳ mưu vạch rõ, quả xứng dáng với danh hiệu “Đệ nhất phán quan”. Từ đó trở đi Tống Nhân Tông càng tin tưởng Bao Công, thăng cho ông thêm chức hàm để đủ quyền lực đối phó với những vụ án xảy ra trong cung đình.
Cũng vì việc giả làm Diêm Vương này mà nhân gian đồn đại là Bao Công “ngày xử án dương thế, đêm xử án Diêm La”. Thật sự những lời đồn đại ấy nhuốm màu sắc mê tín dị đoan, mang ý nghĩa đề cao tài xử án của Bao Công hơn là sự thật.
4
TỐNG TỪ
ĐẶT NỀN TẢNG PHÁP Y HỌC
Đề cập đến các phán quan có trí tuệ sáng suốt, biết nhận định đúng sai thì trong thời kỳ Nam Tống, tức là sau thời kỳ Bao Công nổi danh trong thời kỳ Bắc Tống, phải nói đến một nhân vật còn cao siêu hơn nữa, đó là Tống Từ. Ông cũng giống như Bao Công, suốt đời giữ chức vụ chuyên về các vụ án, tập trung trí tuệ giải đáp được khá nhiều vụ án tưởng chừng như không có đầu mối nhưng hơn Bao Công ở chỗ đã đưa ra ý tưởng mới là dùng “Pháp y học” để bổ sung cho các lời khai còn nhiều chỗ chưa sáng tỏ. Tống Từ sinh năm 1186, mất năm 1249, tức là sống và làm quan từ các đời Tống Quang Tông, Ninh Tông và Lý Tông. Ông tên tự là Huệ Phụ, quê ở Kiến Dương tỉnh Phúc Kiến. Khi ấy triều đình Nam Tống đã chạy về Đại Danh phủ, sau đổi thành Ứng Thiên phủ và lập kinh đô ở đó, gọi là Nam Kinh.
Tống Từ sinh ra trong một gia đình quyền quý, phụ thân làm quan lớn nên cuộc sống rất đầy đủ, được rèn tập kinh sách ngay từ khi còn nhỏ. Thế nhưng ông đã bộc lộ bản tính thông minh hiếu học, đặc biệt rất thích theo dõi các vụ án lớn. Khi lớn lên, Tống Từ thường hay bàn luận với bằng hữu về những cách thức điều tra vụ án sao cho hoàn hảo, đừng để người hiền lương bị mắc hàm oan.
Tống Từ cũng có một thời gian theo học danh sĩ Ngô Trĩ, là đệ tử đắc ý của nhà học giả nổi tiếng Chu Hi đời Nam Tống. Vì vậy Tống Từ có rất nhiều cơ hội giao tiếp với các bậc học giả khác, kiến thức trở nên uyên bác hơn người.
Vào năm 20 tuổi, Tống Từ nhờ là con cháu quan lại nên được vào trường Thái học, nơi đây có đủ điều kiện và sách vở nên Tống Từ chuyên tâm vào việc học tập, không bao lâu sau đã nổi tiếng là người có kiến thức rộng rãi, không những vậy Tống Từ còn được rất nhiều người yêu thích nhờ vào tài văn chương ưu mỹ.
Riêng văn chương của Tống Từ không những ý tứ rõ ràng, bút pháp khoáng đạt mà còn biểu lộ một phong cách hào phóng khác người. Học giả Lưu Khắc Trang đã từng so sánh ông với nhà viết từ thuộc phái hào phóng là Tân Khí Tật. Với sự chuyên tâm học tập như thế, vào năm Gia Định thứ mười đời Nam Tống (năm 1217 đời Tống Ninh Tông Triệu Khuếch), Tống Từ dễ dàng thi đậu Tiến sĩ, được điều đi giữ chức Tri huyện Trường Định, bắt đầu bước vào quan trường.
Triều đại Nam Tống sắp bị diệt vong nên chính trị rất hắc ám, quan lại triều đình hủ bại, mặt trong thì tham quan hoành hành nhũng nhiễu dân chúng, mặt ngoài thì quân Kim và quân Nguyên luôn luôn tìm cách xâm lược, vì vậy thế nước hết sức suy nhược. Tống Từ không thuộc vào hàng các quan hủ bại đó, ông làm việc rất thanh liêm công đạo, tiếng tốt lan truyền khiến triều đình cũng phải biết tới và cất nhắc trọng dụng. Tống Từ đã từng giữ qua các chức Thông pháp Nam Kiếm châu, Đề Điểm hình ngục, Quảng Đông Kinh Lược An phủ sứ.
Trong cuộc đời làm quan, lâu nhất là lúc Tống Từ giữ chức quan ở Ty pháp hình ngục. Chính trong thời gian này ông đã viết bài “Minh” (là một thể văn khuyên răn) tên là “Tuyết oan cấm bạo” (Rửa nỗi oan ức, ngăn trừ việc bạo ngược) dán ở chỗ ngồi, lấy đó làm gương để xử lý án ngục cho cẩn thận, không dám sơ suất và cố tránh sai lầm để đừng bao giờ xảy ra việc người tốt bị xử oan. Muốn được như thế, bất cứ vụ án nào Tống Từ cũng xem xét án văn kỹ lưỡng, tìm mọi phương cách để phân biệt được đúng sai.
Một trước tác của Tống Từ đã đem lại luồng sinh khí mới cho phương pháp kiểm chứng các vụ án, đó là cuốn “Tẩy oan tập lục”. Đây là cuốn sách viết về “Pháp y học” ra đời sớm nhất trên thế giới. Nó được ấn hành vào năm Thuần Hựu thứ bảy đời Nam Tống (năm 1247) tức là trước cuốn sách đầu tiên về Pháp y học của Tây phương hơn bốn trăm năm mươi năm. Riêng ở Trung Hoa, từ sau triều Nam Tống, các quan hình án triều đại Nguyên, Minh, Thanh đều dùng cuốn “Tẩy oan tập lục” làm y cứ pháp điển trong việc xử lý những vụ án gây ra tử thương. Vì vậy hầu hết các vụ oan án được ghi chép lại đều tập trung nhiều ở các thời đại Minh và Thanh, do vì các quan lại hai triều đại này đã học tập được khá nhiều kiến thức từ cuốn “Tẩy oan tập lục” của Tống Từ. Như vậy có thể gọi ông là tôn sư của ngành “Pháp y học” Trung Hoa và các phán quan đời sau đều xưng tụng ông như vị phán quan bậc thầy. Cuốn “Tẩy oan tập lục” không những có uy tín ở Trung Hoa mãi cho đến thời cận đại mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các pháp quan các nước tham khảo.
Trong cuộc đời phụ trách về hình án của Tống Từ, ông trải qua
khá nhiều vụ án ly kỳ thú vị, có những vụ tưởng như rất nhỏ như tranh chấp gia tài, ẩu đả vì một số tiền nhỏ hay tranh giành đứa con thừa tự v.v... cho đến những vụ án lớn giết người phi tang, ông đều chú tâm tìm chứng cứ và giải quyết thỏa đáng, không để bất cứ oan sai nào xảy ra.
Một lần khi còn là Tri huyện Trường Định, một người đàn bà họ Cao đến trình báo chồng mình bị giết chết, vất xác ra ngoài đồng. Tống Từ lập tức tới hiện trường khám nghiệm tử thi, ông khám phá ra rằng người đó bị chết bởi một vật rất sắc và hình dạng không thẳng bởi vết thương sâu ở hai bên mà hơi nông ở chính giữa. Nếu như một hung khí thẳng lưỡi dao hay lưỡi kiếm thì vết thương phải nông sâu bằng nhau. Tống Từ lại thấy trong người nạn nhân không hề mất một đồng xu nào thì nhận định đây không phải là ăn cướp giết người, nguyên nhân chắc chắn do thù oán. Tống Tri huyện liền gọi người đàn bà đưa đơn đến công đường thẩm vấn, hỏi:
– Chồng của ngươi có xích mích hay thù oán gì với ai không? Người đàn bà khóc đáp:
– Bẩm đại nhân, gia đình tiểu dân suốt đời cày sâu cuốc bẩm, ông ấy tính tình lại hiền lành nhỏ nhẹ nên không hề có ai tức ghét hay thù hận, chẳng biết tại sao lại bị chết oan ức như thế. Tống Từ liền nói:
– Bản quan đã điều tra kỹ rồi, quả nhiên nạn nhân họ Cao các ngươi rất chí thú làm ăn, biết an phận thủ thường, không tham lam dù rằng tiền bạc tích cóp không bao nhiêu, vì vậy chẳng thể có người thù hận đến mức giết người trả thù được. Thế nhưng, ngươi
cứ suy nghĩ lại đi, chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một hành động khác lạ thì đã đủ cho bản quan tìm ra đầu mối ai là thủ phạm rồi. Cao thị nghe vậy gạt nước mắt ngẫm nghĩ một lúc, chợt nhớ ra nên vội thưa ngay:
– Mấy ngày trước đây có người hàng xóm đến xin vay tiền. Lúc đó tiểu dân ở dưới bếp pha trà nên không biết mặt mũi, tên họ của người đó ra sao. Sau khi người này ra về rồi, chồng tiểu dân mới kể lại, tức giận cho biết vốn không thân quen mà người đó đòi mượn số tiền khá lớn nên ông nhà thẳng thừng từ chối. Đó là việc rất thường tình, thế nhưng người này ra về có vẻ rất hậm hực, trừng mắt nhìn chồng tiểu dân mấy lần rồi mới chịu ra khỏi cổng. Đây có thể là nghi phạm được không?
Tống Từ nghe vậy tươi tỉnh đáp:
– Được lắm chứ...
Rồi cho người đàn bà về. Ngày hôm sau Tống Từ truyền lệnh cho toàn bộ người trong phạm vi thôn ấy đem lưỡi liềm ra đồng gặt lúa giùm đại quan. Ai nấy đều ngạc nhiên bởi lúc đó là mùa hạ làm gì có lúa chín mà gặt hái nhưng lệnh quan đã truyền xuống không thể không tuân theo. Khi đến ruộng, tất cả còn ngạc nhiên hơn bởi không thấy đại quan Tri huyện đâu mà có một toán sai nha cầm vũ khí đứng chờ, lùa tất cả đến huyện đường.
Lấy lý do là không được mang vũ khí vào công đường, Tống Từ bắt tất cả để lưỡi liềm của mình ở trước sân, nơi có ánh sáng chiếu vào sáng sủa. Sau khi xong, Tống Từ chẳng hỏi đến ai, lững thững đi quanh cái sân chú ý xem xét từng lưỡi liềm một, không ai biết ý định của ông ra sao.
Tống Từ chợt ngừng bước, chỉ vào một cái liềm sáng bóng rồi hỏi:
– Đây là liềm của ai?
Một người họ Trương đứng ra nhận đó là lưỡi liềm của mình. Tống Từ nhìn mặt hắn thì quả nhiên là một kẻ hung dữ nên biết ngay suy đoán của mình đã đúng, lập tức thăng đường, truyền sai nha trói họ Trương lại, mắng lớn:
– Họ Trương kia! Tại sao ngươi giết người? Hãy khai rõ ra ngay. Tên họ Trương giả vờ ngơ ngác nói:
– Bẩm đại nhân nói gì tiểu nhân không hiểu?
Tống Từ cười nhạt, nói:
– Ngươi đừng ngoan cố, giết chết họ Cao ra sao thì hãy khai ra đi, nếu không bản quan sẽ dụng hình thì đừng oán trách đấy nhé. Thế nhưng hắn nhất định chối tội, còn nói rằng dù có tra khảo đến đâu cũng nhất quyết không thể nhận tội mà mình không hề phạm.
Tống Từ liền nói:
– Bản quan đã nắm được các chứng cứ ngươi là thủ phạm giết người. Nếu như bản quan dùng hình cụ thì chắc chắn trước sau ngươi cũng phải cúi đầu nhận tội. Thế nhưng ngươi là tên cứng đầu cứng cổ, bản quan không cần tới hình cụ làm gì, hãy nghe cho rõ đây rồi liệu mà thú tội đi.
Nói xong, Tống Từ ung dung giải thích:
– Bản quan đã cho người dò xét, biết rằng ngươi đang có mối làm ăn bất chính cần tới nhiều vốn. Có như vậy dù không thân
thiết ngươi mới liều lĩnh đến nhà họ Cao xin vay tiền. Đó là chứng cứ thứ nhất. Ngươi hãy nhìn lại xem, lệnh đem lưỡi liềm ra ruộng rất bất ngờ, bây giờ lại không phải mùa gặt hái thì ai lại đi nhòm ngó tới lưỡi liềm của mình, đều cất một chỗ nên hầu hết đều có chỗ rỉ sét. Riêng lưỡi liềm của ngươi sáng bóng như vừa mới chùi thì đó là chứng cứ không thể chối cãi. Chỉ vì không vay được tiền mà ngươi giết họ Cao trả thù, thấy lưỡi liềm dính máu nên về nhà cố sức chùi cho sạch, khiến nó sáng bóng như vậy, còn chối cãi được không? Chẳng lẽ ngươi chùi liềm để định gặt lúa vào mùa này sao?
Họ Trương nghe vậy giật bắn người, thẫn thờ một hồi rồi cúi đầu xin nhận tội. Lúc đó mọi người mới nhận ra quan huyện họ Tống quả là kỳ tài về việc phá án, không cần tra tấn cũng thừa đủ lý lẽ bắt thủ phạm phải “tâm phục khẩu phục” mà nhận tội.
Còn khi Tống Từ giữ chức Quảng Đông Kinh lược An phủ sứ, lúc ông đang đi trên đường thì có một phụ nữ rất xinh đẹp tên là Kiều Châu phục ở giữa đường, hai tay dâng lá đơn khiếu oan. Tống Khâm sai dừng kiệu, tiếp nhận đơn xong, khi đến phủ đường thì liền sai người đem hồ sơ án mạng ra xem xét.
Nguyên ở thông Đại La có hai người ở gần nhau, một họ Lai nghèo khổ nhưng lại lấy được người vợ xinh đẹp tuyệt trần họ Chu tên Kiều Châu, chính là người đệ đơn khiếu tố; còn người kia họ Tiền tên Lợi Hanh, không có học hành nhưng chẳng hiểu làm sao mà giàu lên rất nhanh. Nhiều người đồn rằng Tiền Lợi Hanh trước kia là tên cướp nổi tiếng vùng Sơn Đông, có lẽ bị bại lộ tung tích, sợ bị quan quân bắt giam nên mới vượt đường xa đến Quảng Đông này thay tên đổi họ.