🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 12 Đại Tướng Soái Trung Hoa - Huyền Cơ full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
12 ĐẠI TƯỚNG SOÁI TRUNG HOA —★—
Biên soạn: Huyền Cơ
Phát hành: Nhà sách Văn Chương
Nhà xuất bản Thời Đại 2012
ebook©vctvegroup
15-04-2019
THAY LỜI TỰA
Để bảo vệ đất nước trước nạn ngoại xâm và một phần cũng để củng cố địa vị phong kiến tập quyền của ngai vàng của Hoàng đế, suốt theo chiều dài lịch sử cổ đại Trung Hoa đã xảy ra không biết bao nhiêu trận chiến ác liệt đẫm máu. Trong số đó có những trận chiến cực kỳ bi thảm nhưng cũng có không ít trận chiến oai hùng nêu rõ được tài năng của các tướng soái cầm
quân, đi vào lịch sử như những bước ngoặt cho một triều đại. Thí dụ như trận chiến nổi tiếng ở Quan Độ với tài cầm quân đại lược của Tào Tháo, tuy chỉ với số ít quân mã vẫn dùng “kỳ binh” đánh tan được gần trăm vạn quân đội của Viên Thiệu, là bước ngoặt quan trọng để bình ổn thời cuộc Tam Quốc; gần nhất là cuộc chiến dữ dội ở hồ Phiên Dương giữa lực lượng nhỏ bé của Chu Nguyên Chương nhưng vẫn oai hùng đánh tan quân mã cực kỳ hùng hậu của thế lực quân phiệt Trần Hữu Lượng, là cột mốc dựng nên nhà Minh, v.v...
Những cuộc chiến ấy không đơn thuần là dùng sức mạnh hay số đông tàn sát đối phương mà chính là sự phát huy cao độ trí tuệ của người cầm quân. Vì vậy nghiên cứu lịch sử Trung Hoa cổ đại thì không thể không xem xét đến các trận đánh lẫy lừng ấy một cách khách quan, làm bài học kinh nghiệm cho hậu thế ngày nay, không những về mặt quân sự mà còn mang ý nghĩa về sự vận dụng trí tuệ để giải quyết các xung đột luôn luôn xảy đến trong cuộc sống.
Các cuộc chiến nổi tiếng với những tướng soái đầy tài năng tính ra có hàng trăm nhưng vì trang sách có hạn, ở đây chúng tôi chỉ xin được trình bày 12 trận đánh lớn mà tên tuổi của vị tướng soái ấy đã đi vào lịch sử.
Trân trọng
Người biên soạn
1
TÔN VÕ
CON RỒNG THẦN BÍ
Xuân Thu Chiến quốc là thời kỳ hết sức hỗn loạn bởi chính sách phong điền lập ấp của nhà Chu bởi kể từ khi Thiên tử nhà Chu không còn nắm được đại quyền chi phối các nước chư hầu như trước kia nữa thì các chư hầu bắt đầu nhen nhóm tham vọng. Vì muốn mở rộng thế lực nên các chư hầu luôn luôn nhòm ngó lẫn nhau, chỉ cần một chút sơ hở như là triều đình một nước nào đó suy yếu liền lập tức tiến hành chiến tranh xâm chiếm, mở rộng biên cương. Do tình hình này mà suốt thời kỳ Chiến quốc có nước hùng mạnh một thời gian rồi suy tàn, một nước khác lại nổi lên với tham vọng muốn làm bá chủ cả một phương, thậm chí còn ngấm ngầm mang ý muôn khuynh đảo cả Thiên tử nhà Chu nữa. Cuộc diện biến đổi làm cho người dân thời kỳ này vô cùng điêu linh lầm than nhưng riêng các Vương Hầu vẫn không bao giờ từ bỏ tham vọng của mình.
Vào năm 585 trước Công nguyên, một chư hầu nhỏ là nước Ngô đã bị nước Việt hùng mạnh hơn tiêu diệt. Nước Ngô phải chịu đựng nhục nhã suốt mấy chục năm, mãi đến khi Ngô vương Hạp Lư (tức Công tử Quang) lên ngôi đất nước mới thịnh trị và mở ra cơ hội báo thù cái nhục trước kia. Ngô vương Hạp Lư canh cánh bên lòng mối thù mất nước, vì vậy âm thầm chiêu mộ nhân tài, trọng dụng các tướng lãnh để hy vọng một ngày nào đó sẽ tấn công nước Việt báo thù. Sau này Hạp Lư thu nhận được một nhân tài là Ngũ Viên, thường được gọi là Ngũ Tử Tư người nước Sở.
Hạp Lư rất kính phục tài năng và ý chí của Ngũ Viên nên phong làm Tướng, giao cho Ngũ Viên nhiệm vụ xây dựng thành Cô Tô, chia làm 8 cửa rồi bắt đầu tiến hành việc tuyển mộ quân mã, sau đó huấn luyện cho họ về binh pháp, tích trữ lương thảo thật đầy đủ. Để đề phòng nước Việt biết tin tấn công trước, Ngũ Viên lại cho xây dựng một tòa thành nữa hết sức kiên cố ở Phượng Hoàng sơn, gọi là Nam Vũ thành.
Với mối thù không đội trời chung bị Sở Bình vương giết cha và anh, Ngũ Viên tận lực phát triển quân đội, mở rộng việc rèn đúc vũ khí và binh giáp, chẳng bao lâu đã hình thành một đội quân vừa tinh nhuệ vừa hùng hậu. Tuy nhiên mãi đến khi Ngũ Viên dùng kế lừa dối, sai Yêu Ly giết chết Công tử Khánh Kỵ một cách hèn hạ thì địa vị của Hạp Lư mới bước sang thời điểm
mới vững chắc hơn, không còn lo lắng đến nội loạn mà dồn sức cho việc báo thù. Trong đám tang của Công tử Khánh Kỵ, Ngũ Viên chợt ôm mặt khóc nức nở khiến Hạp Lư vô cùng kinh ngạc, hỏi thì Ngũ Viên nghẹn ngào đáp:
– Thù nhà của Đại vương đã trả xong, chỉ riêng tôi chưa thể báo thù cho cha anh nên quá xúc động mà không sao cầm được nước mắt. Xin Đại vương tha tội.
Hạp Lư nghe vậy cũng rất cảm động, lập tức hội quần thần lại bàn việc tiến đánh nước Sở. Hạp Lư phân vân nói với quần thần:
– Việc ra quân lần này vô cùng hệ trọng bởi nếu thất bại thì giấc mộng đánh Việt sẽ tiêu tan. Vì vậy cần phải có một danh tướng vô địch đứng ra cầm quân thì ta mới yên tâm được. Ngũ Viên đứng ra nói:
– Việc này Đại vương lo lắng rất đúng. Tuy nhiên ngay tại nước Ngô này có một nhân tài kiệt xuất mà Đại vương chưa biết đến đó thôi, đó là Tôn Võ. Chỉ cần ông ta chấp nhận cầm quân thì chẳng sá gì nước Sở mà cả Trung nguyên này cũng có thể bỏ vào túi dễ như bỡn.
Tuy Hạp Lư chưa tin lời tiến cử của Ngũ Viên hẳn nhưng nghe nói đó là người nước Ngô lập tức bằng lòng ngay, sai Ngũ Viên mang trọng lễ đến đất La Phù triệu Tôn Võ về kinh để trọng dụng.
Thật sự thân thế của Tôn Võ cũng chưa chính xác, theo sử ghi lại thì Tôn Võ tên tự là Trường Khanh, hoàn toàn không hề biết năm sinh và năm mất của con rồng thần này. Cũng theo chính sử thì Tôn Võ là hậu duệ của công tử Điền Hoàn nước Tần. Vào năm 672 trước Công nguyên, nước Tần xảy ra loạn lạc nên gia đình Công tử Hoàn mới chạy sang Tề, đổi thành họ Điền. Đời thứ năm của Điền Hoàn là Điền Thư làm Đại Phu cho nước Tề, do có công chinh phạt nước Cử nên được Tề Cảnh công ban cho họ Tôn. Con trai Tôn Thư là Tôn Phùng, làm tới chức Khanh ở triều Tề, đó là thân phụ của Tôn Võ. Khi còn thiếu niên, Tôn Võ đã tỏ ra là người say mê binh pháp nhưng không có ý định xuất hiện giúp đời tìm công danh. Lúc trốn chạy đến nước Ngô, Ngũ Viên đã có một thời gian gặp gỡ Tôn Võ, nhận biết đó là nhân tài về quân sự nên hai người đã kết giao làm bằng hữu.
Cũng có sách ghi chép mặc dù Ngũ Viên hết sức tiến cử, đến mức trong một ngày nhắc 7 lần nhưng cuối cùng Ngô vương Hạp Lư cũng chấp thuận cho ông ta đem lễ vật đi mời về kinh chứ không hề hứa hẹn sẽ trọng dụng. Cho đến khi diện kiến, Ngô vương Hạp Lư hỏi về binh pháp, hỏi đến đâu Tôn Võ trả lời như suối chảy, thật rành rọt và có nhiều ý kiến độc đáo về thuật hành binh thì Hạp Lư mới tin dùng.
Theo sử chép thì đối đáp giữa Hạp Lư và Tôn Võ được ghi lại trong phần Bình quyền mưu
của bộ Hán thư nhưng hiện này đã mất. Do vậy một số lời chất vấn giữa hai người được ghi lại đều không hoàn toàn chính xác, vì thế chúng tôi chỉ trích sơ lược mà thôi: “Ngô vương Hạp Lư hỏi:
– Địch bao vây thành, cướp đồng ruộng, đốt hoa màu rồi chận hết các đường giao thông quan trọng, đợi đến khi lương thảo trong thành đã cạn kiệt, sau đó mới tấn công chớp nhoáng thì chúng ta phải làm thế nào?
Tôn Võ trả lời:
– Địch tiến sâu vào đất chúng ta, rời xa quê hương mình. Tướng sĩ đều coi quân đội là nhà, chuyên tâm chiến đấu. Quân ta ở trong nước, dựa vào đất để chống lại, ý chí chiến đấu không kiên quyết bằng, lại không quen ra khỏi thành chiến đấu ở bên ngoài, nhưng nếu ta tích trữ đủ lương thảo, tập hợp quần chúng cố thủ, đồng thời cho những đội quân tinh nhuệ tập kích cắt đứt đường vận chuyển lương thảo của địch. Đợi đến khi địch cạn kiệt quân lương bởi tiếp tế khó khăn, lại bị chúng ta dùng kỳ binh đánh phá, lúc đó đồng ruộng cũng không còn thì có thể tiến ra khiêu chiến địch được.
Ngô Vương Hạp Lư lại hỏi:
– Ngược lại nếu như chúng ta tiến sâu vào đất địch, tướng sĩ xa nhà tinh thần lo lắng chỉ muốn quay về, phía trước lại có địch, tình thế khó tiến mà dễ lui, lại không có nơi nào hiểm trở để cố thủ, ba quân có phần hoảng sợ, tướng soái muốn tiến lên, nhưng quân sĩ lại muốn lui về, trên dưới không cùng một lòng, còn kẻ địch thì lại đang cố thủ trong thành lũy, chiến xa và quân kỵ của địch rất tề chỉnh. Địch có thể đánh ta từ phía trước hoặc tập kích ta từ phía sau, như vậy ta phải đối phó ra sao?
Tôn Võ đáp:
– Quân vào nước địch, nhiệm vụ chính là thọc sâu. Không nên chú trọng tới việc đánh nhau. Khi tiến vào nước địch không nên tiếp cận những đô thành lớn, không nên đi theo những con đường lớn. Sau khi đã vào đến đất địch, giả vờ rút quân, nhưng ngầm cho quân khinh kỵ đột nhập, cướp đi trâu ngựa gia súc của họ. Quân lính trông thấy những thứ cướp được, tinh thần yên ổn vì biết không thiếu lương thực thì sẽ vui vẻ mà tiến lên chứ không sợ gì nữa. Lúc ấy ta sẽ phái tướng giỏi và quân tinh nhuệ, rồi sau đó khiêu chiến dụ địch. Khi quân địch tiến vào chỗ quân chúng ta mai phục thì ta có thể đánh tiêu diệt chúng. Nếu kẻ địch không chịu ra chiến đấu mà rút lui ta cũng đã được lợi rồi.
Ngô Vương Hạp Lư lại hỏi:
– Quân của đôi bên cùng tranh nhau chiếm đất, mà quân kẻ địch lại đến trước, kiên trì cố
thủ, luyện tập quân sĩ, hoặc cho quân ra tập kích chúng ta, hoặc phòng thủ bằng kỵ binh thì chúng ta phải làm thế nào?
Tôn Võ trả lời:
– Đánh chiếm đất đai là để cho kẻ địch những cái chúng có thể lấy được và giành lấy những cái kẻ địch có thể mất. Khi kẻ địch đã chiếm được một khoảnh đất nào đó thì chúng ta không nên khinh suất mà đánh chiếm lại, mà phải dùng kế sách “hư trương thanh thế” rồi nhắm vào chỗ yếu kém nhất của địch. Sau đó ngầm chia quân tinh nhuệ ra mai phục. Địch sẽ sợ mất vùng đất hiểm yếu, tất đưa quân đến cứu và rơi vào chỗ phục binh, như vậy mới có thể giành được chiến thắng. Nếu chúng ta đến trước mà kẻ địch lại dùng phương pháp này thì chúng ta có thể chọn quân tinh nhuệ cố thủ mảnh đất đó, rồi phái quân truy kích quân địch và chia quân ra mai phục. Đợi đến khi kẻ địch mang quân trở về ta đổ quân ra đánh, đó là đạo dùng binh chắc thắng.
Ngô Vương hỏi tiếp:
– Chỗ vùng ranh giới giữa kẻ địch và ta, thì phải xây dựng những công trình phòng thủ ở những chỗ hiểm yếu. Nhưng nếu ta chưa kịp hoàn thành địch đã nhân thời cơ ấy mà tấn công, quân đôi bên lại ngang sức nhau, vậy thì ta cần phải làm thế nào để chống đỡ? Tôn Võ trả lời:
– Ta đã không thể tiến công, mà kẻ địch đến xâm phạm thì ta có thể chia quân ra mà mai phục, số còn lại biểu lộ sự yếu kém để dụ địch đánh thẳng vào đó, rơi vào vòng mai phục thì chắc chắn sẽ đại thắng.
Ngô Vương lại hỏi:
– Chỗ đường hành quân quan trọng, ta cần phải chiếm lấy trước tiên. Nhưng nếu phía ta, đường xa lại xuất phát chậm hơn quân kẻ địch, cho nên dù ngựa có phóng nước đại cũng không thể đến trước được thì ta phải làm thế nào?
Tôn Võ trả lời:
– Các nước chư hầu đều có ranh giới tiếp giáp với nhau, ta có thể phái sứ giả tới, mang theo tiền bạc lễ vật hậu để liên minh với các nước xung quanh. Quân kẻ địch tuy đến trước nhưng chúng ta lại được các nước giúp đỡ. Chúng ta có thể tuyển chọn, huấn luyện quân tinh nhuệ, chiếm cứ các địa thế có lợi ở các nước xung quanh, đồng thời chuẩn bị cho lương thực đầy đủ, quân ta thường xuyên cho người đi do thám, xác định rõ thời cơ tấn công kẻ địch. Ta được các nước giúp, nổi trống trợ chiến khi ta tấn công, làm cho kẻ địch hoang mang, thấy bốn phía đều có kẻ địch, không biết đánh cách nào, như vậy thì chúng ta chỉ đánh một trận là chiến thắng.
Ngô Vương hỏi tiếp:
– Quân ta ra khỏi ranh giới đóng trên quân địch. Quân địch kéo đến khá đông bao vây chúng ta vòng trong vòng ngoài. Quân ta muốn phá vây, mà tứ phía đều không có lối ra. Muốn khích lệ quân sĩ để họ liều chết phá vây xông ra thì phải dùng biện pháp gì?
Tôn Võ trả lời:
– Phải đào hào sâu đắp lũy cao, tăng cường phòng thủ. Phải giữ thật yên lặng, để che giấu thực lực của quân ta. Thông báo cho toàn quân biết tình hình nguy cấp đó, sau đó giết bò đốt xe, cho quân sĩ ăn no, đốt sạch lương thực, lấp giếng phá bếp, cắt tóc vứt mũ, để tỏ ý liều chết. Tiếp đó, động viên quân sĩ một lòng quyết chiến một trận với quân thù. Có thể một mặt, có thể tấn công hai bên, đánh trống vang trời dậy đất là thanh thế. Như vậy sẽ làm cho kẻ địch hoảng sợ không biết nên chống chọi thế nào. Đó chính là con đường rơi vào chỗ chết mà tìm đường sống. Bởi vậy mới nói: “Khốn mà không có mưu thì cùng, giỏi mưu thiện chiến thì ở vào chỗ chết nhưng cuối cùng vẫn sống”.
Ngô Vương hỏi:
– Nếu gặp trường hợp ngược lại, ta đang bao vây quân địch như vậy, thì cần làm thế nào? Tôn Võ trả lời:
– Địch cố thủ trong núi cao khe sâu hiểm trở, ta khó vượt qua, như vậy là quân kẻ địch cùng đường. Phương pháp đánh hay nhất là dùng quân tinh nhuệ mai phục, đồng thời cố ý để một đường thoát cho địch, khi ấy địch sẽ không còn tinh thấn liều chết mà cố sức tìm sự sống bằng cách theo đó mà thoát ra. Binh pháp có nói: “Nếu kẻ địch ở vào tử địa, mà quân lính lại dũng cảm thì tốt nhất là phải để cho chúng một con đường sống, tuyệt đối không nên dồn họ vào chỗ chết, càng phải ngầm mai phục quân tinh nhuệ, đồng thời cắt đứt đường tiếp tế lương thực của chúng, đợi tới khi chúng lọt vào ổ phục kích của quân ta, ta bất ngờ xông ra đánh thì mới đạt được thắng lợi”.
Ngô Vương lại hỏi:
– Nếu kẻ địch kiêu căng dũng cảm, quân của chúng đông và mạnh, thì ta phải làm thế nào để đánh bại chúng?
Tôn Võ trả lời:
– Chúng ta cần phải cố ý để lộ cho kẻ địch tưởng là ta yếu, từ đó mà làm cho chúng thêm kiêu ngạo, lười nhác việc phòng thủ, tiếp đó ta nhân lúc chúng chuyển quân mà bố trí quân mai phục, khi kẻ địch đã lọt vào ổ phục kích, đầu đuôi không thể hỗ trợ được cho nhau thì ta bất ngờ đánh chia cắt chúng ra thành từng khúc, kẻ địch tuy đông, nhưng ta có thể đánh bại chúng, cần nhớ cách đánh kiêu binh trong binh pháp là không được đánh trực diện”.
Nói chung, chắc chắn Ngô vương Hạp Lư hỏi Tôn Võ rất nhiều về binh pháp và được trả lời trôi chảy nên cuối cùng mới hài lòng, phong cho ông làm Nguyên soái. Tôn Võ cảm kích vì sự đối đãi trọng hậu của Ngô vương, tự tay viết một cuốn binh pháp gồm 13 thiên, gọi là “Tôn Tử binh pháp” mà ngày nay vẫn còn lưu truyền. Tuy ngắn gọn chỉ có 13 chương nhưng “Tôn Tử binh pháp” hết sức súc tích, có thể làm căn bản chiến đấu cho tất cả các thời đại, kể cả ngày nay với nhiều loại vũ khí tối tân.
Tuy nhiên, theo giả thuyết khác thì Tôn Võ chính là cháu mấy đời của Tôn Tẫn thời trước làm tướng ở nước Tề, dùng mưu lược thần sầu đánh bại người em đồng môn là Bàng Quyên. Sau đó Tôn Tẫn chán nản tình đời, lặng lẽ quy ẩn và viết sách về binh pháp truyền lại cho con cháu, vì vậy mà Tôn Võ không hề theo học bất cứ vị sư phụ nào cũng rất tinh thông binh pháp. Chính ông sau khi đại phá quân Sở cũng từ biệt Ngô vương Hạo Lư đi vào núi mất biệt, giống như một con rồng bí ẩn thấy đầu mà chẳng thấy đuôi. Tại sao Tôn Võ có gia đình quyến thuộc, được Ngũ Viên chính thức đón mời về triều, lập đại công rồi lại không trở về quê quán xum họp gia đình mà lại vào núi mai danh ẩn tích? Điều này khiến giả thuyết ông là con cháu của Tôn Tẫn được nhiều người tin tưởng hơn bởi tính cách của ông hoàn toàn giống với cha ông tể phụ và chỉ có binh pháp của thần nhân Quỷ Cốc Tử mới có thể giúp cho Tôn Võ lập công lớn lao như vậy.
Sau khi nghe Tôn Võ trình bày, Ngô vương Hạp Lư hết sức khâm phục nhưng chợt có vẻ trầm ngâm, hỏi:
– Ta biết ông là bậc đại sư về binh pháp rồi. Thế nhưng hiện tại quân Ngô quá ít so với quân Sở, e rằng khó mà thực hiện được cuộc chiến tranh quan trọng này.
Tôn Võ nghe vậy liền tâu:
– Theo binh pháp thì chỉ cốt quân tinh nhuệ chứ không không cần đông. Ngay cả phụ nữ chân yếu tay mềm nếu được huấn luyện binh pháp thuần thục thì vẫn có sức mạnh bằng mười lần quân địch ô hợp. Đông mà không tinh thì chỉ tạo ra sự hoảng loạn mà thôi. Ngô vương Hạp Lư cười ngất, hỏi lại:
– Thế những cung nữ ẻo lả trong cung cấm của ta có thể huấn luyện thành tinh binh được không?
Tôn Võ nghiêm mặt trả lời:
– Rất được.
Ngô vương Hạp Lư tưởng như câu nói đùa của mình sẽ làm Tôn Võ ngỡ ngàng, nghe vậy thì cả cười, nói:
– Ta sẽ giao cho ông 300 cung nữ phi tần xinh đẹp nhất, nếu như ông huấn luyện họ thành chiến binh thuần thục thì ta mới tin.
Tôn Vũ liền nhận lời, ngay sáng hôm sau tập trung tất cả cung nữ ở giáo trường, lại xin Hạp Lư cho mình hai nàng phi được sủng ái nhất để làm đội trưởng, chia 300 cung nữ ra làm hai đội gọi là Tả Cơ và Hữu Cơ. Sau đó Tôn Võ ban bố quân lệnh, trong ấy nhấn mạnh hai điều quan trọng: Đó là tuyệt đối phải tuân theo mệnh lệnh và không được nói cười, bất cứ ai vi phạm đều bị tội nặng.
Khi ban bố quân lệnh xong, Tôn Võ lấy hai lá cờ vàng làm hiệu lệnh, truyền đánh trống để các cung nữ theo hàng ngũ tiến lên lui xuống theo binh pháp. Thế nhưng dù đã mấy lần nghiêm lệnh mà các cung nữ vẫn không sao giữ được đội hình, lên xuống hết sức loạn xạ. Tôn Võ cả giận, truyền tất cả im lặng để ban bố quân lệnh lần nữa, đoán chắc nếu lần này không theo hiệu lệnh thì sẽ trừng trị thẳng tay. Tiếc rằng dù vậy mà khi tiếng trống nổi lên, hầu hết các cung nữ đều xem đó là trò vui, cười nói nghiêng ngả, xô đẩy nhau không ra thể thống gì.
Tôn Võ liền tự mình đứng ra đánh trống, nhưng cuối cùng tình hình vẫn không hề vãn hồi được. Ông bèn gọi viên chấp pháp đến hỏi:
– Không theo quân lệnh thì phải trị tội ra sao?
Viên quan chấp pháp thưa rằng trong bất cứ quân đội nào nặng nhất là việc trái quân lệnh, phải bị tội chết. Tôn Võ lập tức sai người đem hai đội trưởng là Tả Cơ và Hữu Cơ ra chém đầu làm gương. Đây là hai người thiếp mà Hạp Lư sủng ái nhất nên vội lên tiếng năn nỉ Tôn Võ nhẹ tay cho. Thế nhưng Tôn Võ nhất quyết thi hành theo quân pháp khiến tất cả cung nữ còn lại đều sợ đến mất mật, run như cầy sấy. Tôn Võ nói:
– Đại vương mất hai người thiếp thì còn cả trăm cả ngàn mỹ nhân có thể thay thế được. Nếu như lần này tha thứ cho họ thì tôi e rằng mất cả đại nghiệp, việc nào hại hơn? Vả chăng nếu tôi tuân theo sự yêu cầu của Đại vương thì ai ai cũng sẽ cho rằng tôi bất tài mà Đại vương là người tham sắc không nghĩ đến việc lớn, không biết trọng dụng hiền tài thì lại càng nguy hại cho tiền đồ hơn.
Ngô vương Hạp Lư nghe vậy rơi nước mắt để Tôn Võ thi hành. Sau khi Tôn Võ chọn hai người khác làm đội trưởng, bắt đầu hàng ngũ tiến lui đã có thứ tự, tiến lui theo trận pháp hết sức nhịp nhàng. Chỉ cần 3 ngày, đội quân yểu điệu ấy đã có tiến bộ rõ rệt khiến Ngô vương Hạp Lư hết sức khâm phục. Tuy nhiên Hạp Lư vẫn thương tiếc hai nàng ái cơ, sai an táng ở Hoàng sơn rồi lập miếu thờ gọi là Ai Cơ từ.
Sau sự cố này, Ngô vương Hạp Lư tỏ ra bất mãn, rất lạnh nhạt với Tôn Võ, hình như không
muốn sử dụng nữa khiến Ngũ Viên vô cùng lo lắng phải nhiều lần thuyết phục, cuối cùng Hạp Lư mới gắng gượng phong cho Tôn Võ làm Thượng tướng, toàn quyền điều động quân mã đi đánh nước Sở. Để yên nội bộ, Tôn Võ lại xin Hạp Lư trừ khử cả Yểm Dư và Chúc Dung thì mới yên tâm mà đem đại quân rời khỏi kinh thành. Ngô vương Hạp Lư nghe theo, thế nhưng khi ấy hai người này đang lẩn trốn ở nước Từ và nước Chung Ngô, vua hai nước lại không nghe lệnh của Hạp Lư để cho họ trốn sang Sở đầu quân chống lại Ngô. Vì vậy Hạp Lư cả giận, trước tiên sai Tôn Võ đem quân trừng trị nước Từ và nước Chung Ngô.
Tôn Võ không hề biện thuyết bằng miệng mà thực hành hết sức thần tốc, không những tiêu diệt cả hai nước mà còn nhân cơ hội lén đánh đất Thư Thành của Sở, giết chết cả Yểm Dư và Chúc Dung rồi mới chịu rút quân về. Trận đánh đầu tiên của Tôn Võ đã làm chấn động các chư hầu bởi hầu như không hề gặp trở ngại, lại tiến vào đất Sở rất thần tốc, giết tội phạm xong lập tức rút lui cũng nhanh chóng giống như lúc tiến binh, làm cho quân dân nước Sở đều ngỡ ngàng, khi biết tin Yểm Dư và Chúc Dung chết rồi thì quân Ngô đã lui về nước an toàn.
Sở vương vô cùng tức giận, đã toan huy động đại quân đánh báo thù nhưng Tôn Võ khôn ngoan chia quân ra làm 3 đạo, cứ 2 đạo lo việc cày cấy lấy lương thực thì đạo kia dùng kỳ binh quấy phá biên cương nước Sở, 3 đạo thay phiên nhau hoạt động nên không hề bị mệt mỏi mà vẫn chu toàn được vấn đề quân lương. Trong khi đó quân tướng nước Sở không thể biết quân Ngô sẽ tiến đánh chỗ nào, chăm chăm lo phòng bị thì còn tâm trí đâu nghĩ đến việc báo thù?
Sau một thời gian, vào năm 511 trước Công nguyên, Hạp Lư đột nhiên bị mất thanh kiếm báu Trạm Lư mà Sở Chiêu vương lại có nên hết sức giận, cho rằng đã có kẻ lấy cắp nên giết toàn bộ những cận thần thân tín vẫn thường hầu hạ bên mình, đồng thời quyết định sai Tôn Võ, Ngũ Viên và Bá Hi đem đại quân đi đánh Sở. Tôn Võ cho rằng chưa đến thời cơ, không thể tiến sâu vào đất Sở nếu như không có tiếp vận đầy đủ và kịp thời, xin được từ chối. Hạp Lư đành phải sai sứ giả đến nước Việt yêu cầu giúp sức việc lương thảo, lúc đó Tôn Võ mới bằng lòng dẫn quân đi.
Khi quân nước Ngô đã chiếm được đất Lục và đất Tiềm là hai địa đầu của nước Sở, đang tính tiến sâu hơn thì nghe tin nước Việt từ chối yểm trợ, đành phải rút về nước. Vì việc này Ngô vương Hạp Lư nổi cơn thịnh nộ, tự thân đem quân đi đánh Việt mặc dù Tôn Võ và Ngũ Viên hết sức khuyên can, cho rằng làm như vậy sẽ hao tổn quân tướng, lại gây thêm thù oán với nước Việt, không có lợi cho việc tiêu diệt Sở. Thế nhưng Hạp Lư không chịu nghe theo, hậm hực kéo quân tiến đánh nước Việt dữ dội, đánh tan đại quân Việt ở Huề Lý, cướp bóc vô số tài vật rồi mới chịu rút về.
Mối thù này làm sao nước Sở chịu được nên 3 năm sau, tức là năm 508 trước Công nguyên,
Sở Chiêu vương tập trung được quân mã liền ra lệnh tổng tấn công nước Ngô, phong cho Đại tướng Nang Ngõa làm Nguyên soái, đóng quân ở Dự Chương. Tiếc thay Nang Ngõa chưa phải là tay đối địch với Tôn Võ và Ngũ Viên nên không chuyển biến kịp thời, bị Tôn Võ một mặt áp dụng chiến thuật kết hợp giữa tấn công và tập kích, một mặt điều động chiến thuyền đến Dự Chương đánh trực diện vào quân Sở; mặt khác ngầm tập trung quân ở đất Sào. Sau nhiều trận chiến dữ dội, quân Sở đại bại, Tôn Võ bắt sống được Công tử nước Sở tên là Phàn, áp giải về nước Ngô dâng cho Hạp Lư lấy công. Tuy nhiên Hạp Lư không hề bằng lòng, nói:
– Bắt được một người thì chẳng ích gì, ý muốn của ta là muốn chiếm cả Sính Đô (đô thành nước Sở) mới hả lòng.
Nhờ sự thuyết phục của Tôn Võ và Ngũ Viên, cho rằng thời cơ chưa thể chín mùi, không nên vội vã mở một chiến dịch lớn lao như vậy nên cuối cùng Hạp Lư mới bất đắc dĩ bỏ việc tiến quân. Thế nhưng chỉ hai năm sau, tức là vào năm 506 trước Công nguyên, Ngô Vương Hạp Lư lại nôn nóng nhắc đến chuyện cũ, rất muốn Tôn Võ và Ngũ Viên tiến hành ngay. Tôn Võ phải phân tích thời cuộc rồi lần lượt đến Ngũ Viên trình bày:
– Hạ thần mang mối thù không đội trời chung với nước Sở, còn nôn nóng hơn cả Đại vương. Thế nhưng đúng như lời Tôn Đại tướng nói thì chưa thể tiến hành cuộc chiến ngay lúc này, dễ chuốc lấy thất bại. Người ta thường nói: “Quân tử báo thù 10 năm cũng chưa muộn”, xin Đại vương nén lòng chờ đợi, khi nào đúng thời cơ thì không cần Đại vương phải nhắc nhở, chúng thần sẽ quyết tiêu diệt nước Sở thành bình địa mới thôi.
Tiếc rằng Ngô vương Hạp Lư nhất định không nghe theo, phán bảo:
– Dù ta biết quân Sở hùng hậu nhưng hiện nay đã có hai vị cầm quân thì còn e sợ gì nữa? Ta vẫn muốn thử một lần xem sao.
Bất đắc dĩ Tôn Võ và Ngũ Viên phải bàn bạc cùng nhau, đưa ra kế sách khác: – Thật sự quân ta chưa đủ sức đánh thẳng đến Sính Đô, mà nếu được thì cũng không thể tiêu diệt Sở tận gốc ngọn. Nếu như Đại vương nôn nóng muốn tiến hành thì nay chỉ còn cách phải kết hợp với hai nước Đường và Sái thì mới mong thành công. Theo hạ thần thì hai nước này đều có mối thù với Sở, chắc chắn sẽ giúp chúng ta ngay.
Ngô vương có vẻ ngạc nhiên, hỏi lại thì Tôn Võ cho biết mối thù của Đường và Thái bắt nguồn từ câu chuyện xa xưa:
– Lúc ấy Nang Ngõa nắm quyền Lệnh doãn của nước Sở (tương đương với Tể tướng) nhưng lại là kẻ hết sức tham lam, thường bắt chư hầu hối lộ cho nên các chư hầu rất bất mãn. Hai năm trước, Sái Chiêu công nhân dịp Sở vương được thanh kiếm quý Trạm Lư thì liền đến triều bái
nước Sở, có đem theo hai miếng ngọc bội trị giá liên thành. Sái Chiêu công dâng một miếng ngọc bội cho Sở Chiêu Vương, còn lại một miếng định gắn vào mão. Thế nhưng Nang Ngõa nhất định đòi lấy miếng ngọc bội ấy bằng được, không được vừa ý thì liền bắt giữ Sái Chiêu công, không cho ông ta về nước. Cùng thời gian đó, Đường Thành công cũng sang triều cống Sở, ông có hai con tuấn mã, một con tên là Túc, còn một con tên là Sương. Nang Ngõa muốn lấy cả hai con ngựa Túc Sương nhưng Đường Thành Công không chịu. Nang Ngõa cũng bắt luôn Đường Thành công giam giữ giống như Sái hầu. Gần 3 năm sau, dù bọn tả hữu hết lời khuyên can nên giữ lấy mạng sống nhưng Đường Thành công quá yêu ngựa nên dù chết vẫn không bằng lòng. Bất đắc dĩ bọn tả hữu phải phục rượu cho Đường Thành công uống thật say rồi đem hai con ngựa đến dâng cho Nang Ngõa. Nhờ vậy Nang Ngõa mới ra lệnh thả cho phái đoàn sứ thần nước Đường về quê hương. Dĩ nhiên Đường Thành công không trách tả hữu mà oán hận nước Sở đến thấu xương.
Bọn tùy tùng nước Sái nghe tin này liền bắt chước, khuyên Sái Chiêu công dâng tặng cả hai món bảo vật cho Nang Ngõa, quả nhiên cũng được tha cho về nước. Sái Chiêu Công sau khi về nước, muốn hả cái hận thù đó, đã từng đề nghị nước Tấn hợp quân với mình đi đánh nước Sở nhưng bị Tấn từ chối. Do vậy nếu có yêu cầu chắc chắn Đường và Sái sẽ giúp chúng ta đánh Sở ngay.”
Ngô Vương Hạp Lư nghe vậy cả mừng, lập tức sai sứ giả đến Đường và Sái bàn việc xuất quân. Đương nhiên việc thu xếp hoàn toàn thành công, Sái Chiêu công còn cho con là Thái tử Càn sang Ngô để biểu hiện sự đồng lòng kết hợp.
Ngô vương Hạp Lư rất mừng, không chờ đến năm sau mà ngay mùa đông năm ấy đã thân chính cùng với Tôn Võ và Ngũ Viên kéo đại quân 3 nước tiến đánh Sở dữ dội. Sở Chiêu vương liền sai Nang Ngõa làm Đại tướng dẫn toàn bộ binh hùng tướng mạnh đến Hán thủy bày trận chống đỡ. Nang Ngõa nóng lòng muốn lập chiến công, toan tính rằng phải đánh phủ đầu nên vừa mới đóng quân xong liền cho quân Sở vượt sông Hán thủy tiến đánh quân Ngô. Kết quả bị Tôn Võ liên tiếp đánh cho ba trận đại bại. Chưa cam chịu, quân Sở lại bày trận đối đầu với liên quân ba nước ở Bách Cử nhưng cuối cùng giao tranh 5 trận đều đại bại cả 5 vì tài cầm quân hết sức tài tình của Tôn Võ. Nang Ngõa phải cùng tàn quân chạy sang nước Trịnh. Nhân cơ hội này, Hạp Lư xua quân tiến thẳng tới Sính Đô khiến Sở Chiêu vương không kịp trở tay, phải cùng quân thần bỏ chạy đến đất Vân rồi cuối cùng phải chạy sang nước Tùy lánh nạn.
Ngô Vương Hạp Lư đem quân tiến thẳng vào Sính Đô, thỏa chí giấc mộng bá vương của mình. Tất cả đều nhờ vào tài năng của Tôn Võ và phần nào của Ngũ Viên. Thế nhưng, tiên đoán tình thế của Tôn Võ và Ngũ Viên hoàn toàn đúng với thực tế, nước Sở chưa thể bị tiêu diệt tận
gốc.
Chỉ sau một thời gian, Đại phu nước Sở là Thân Bao Tư, sau khi chạy khỏi Sính Đô đến nước Tần cầu cứu, được Tần Ai công bằng lòng xuất quân đi lấy lại Sính Đô. Cùng thời gian đó, Việt vương là Doãn Thường liền nhân cơ hội Ngô bỏ trống, đem quân xâm phạm khiến quân Ngô lúng túng không biết nên giữ Sính Đô hay rút về bảo vệ đất nước. Thấy thế quân của Tần quá mạnh, Hạp Lư liền sai em mình là Công tử Phu Khái đem quân chống đỡ. Kết quả Phu Khái đại bại dưới tay Thân Bao Tư và quân nước Tần ở đất Nghi.
Sự việc vẫn chưa kết thúc, khi Công tử Phu Khái bỏ chạy về Ngô đã nhân cơ hội ngai vàng bỏ trống, phao tin lên là Hạp Lư đã mất tích tự lập lên làm vua, sai con là Công tử Phù Tang đem quân chặn ở Hoài thủy không cho Hạp Lư có đường về nước. Hạp Lư nghe tin nổi cơn thịnh nộ, cùng Tôn Võ và Ngũ Viên dẫn đại quân mau chóng về nước, ngay trận đầu đã đánh tan quân của Công tử Phù Tang, hắn phải chạy đến Cốc Dương. Phu Khái cả sợ, tự mình dẫn quân chống đối nhưng không làm sao sánh với tài cầm quân của Tôn Võ, cuối cùng cũng phải thua chạy đến Cốc Dương rồi cùng Phù Tang trốn qua Tống lánh nạn. Ngô vương Hạp Lư chấn chỉnh triều đình xong dự định phong cho Tôn Võ chức tướng lớn nhưng ông từ chối, xin được về ở ẩn.
Lúc ấy Hạp Lư không còn nghĩ đến việc đánh Sở nữa mà căm hận nước Việt phản bội, tiến đánh mình bất ngờ nên dồn hết lực lượng để trả thù. Tuy nhiên vì không có Tôn Võ và Ngũ Viên theo cố vấn nên cuối cùng Hạp Lư đại bại ở trận chiến Túy Lý, bị thương khá nặng khi về tới đất Ngô chẳng bao lâu thì mất.
Theo giả thuyết này thì Tôn Võ cũng qua đời sau năm đó, không hề thi thố tài năng một lần nào nữa. Trong cuôn sách Việt Tuyệt thư viết: “Ở nơi cách Vũ Môn của Ngô huyện khoảng mười dặm, có một ngôi mộ lớn của Tôn Võ”. Nếu tài liệu này là có thể tin được thì có thể suy đoán được là Tôn Võ qua đời vào khoảng năm 473 trước Công nguyên, tức là trước khi Việt diệt Ngô. Bởi vì nếu Tôn Võ còn sống đến sau khi Ngô diệt vong thì sẽ không cố người nào lại đi xây một ngôi mộ to như thế cho một quan chức vong quốc. Tuy nhiên theo hầu hết các tư liệu thì sau khi giúp Hạp Lư hoàn thành mộng ước được vào đến Sính Đô, đồng thời giúp cho Ngũ Viên đạt được việc báo thù trả hận thì Tôn Võ lập tức từ quan, xin về qui ẩn. Hạp Lư rất thương tiếc, nhiều lần cố nài nỉ ở lại nhưng ông nhất quyết từ chối. Theo tư liệu này thì lúc đó Tôn Võ mới trao tặng cuốn binh pháp 13 chương cho Hạp Lư chứ không phải đưa ngay từ đầu.
Bất đắc dĩ Ngô vương Hạp Lư phải chuẩn tấu, ban cho ông mấy xe gấm lụa và một số lớn châu ngọc. Thế nhưng khi đi dọc đường, Tôn Võ phân phát toàn bộ tài vật ấy cho dân nghèo rồi một mình vào núi, từ đó không còn ai biết tung tích của ông ra sao. Tính cách thần thoại như “con rồng thấy đầu mà chẳng thấy đuôi” của Tôn Võ có lẽ phù hợp với giả thuyết này hơn. Nếu
như ông chỉ có một trận đánh nước Sở thì sao có thể được người sau xưng tụng như bậc tổ sư về binh pháp, nổi tiếng là danh tướng cao trọng hơn bất cứ người nào khác? Dù theo giả thuyết nào, cuối cùng Tôn Võ đã để lại cho người đời sau một bộ sách bất hủ, đó là bộ Tôn Tử binh pháp 13 thiên nổi tiếng khắp nơi, thường được gọi là “Tôn Tử binh pháp”, được liệt vào hàng đầu trong Võ kinh thất thư (7 cuốn binh thư quan trọng nhất gồm Tôn Tử binh pháp, Ngô Tử binh pháp, Tư Mã pháp, Úy Liễu Tử, Lý Vệ công vấn đối, Tam lộ và Lục thao). So sánh thì “Tôn Tử binh pháp” vẫn thực dụng hơn 6 cuốn binh pháp kia nên được xếp hạng thứ nhất.
Có thể nói, ngoài là một vị tôn sư về binh pháp, Tôn Võ còn chứng tỏ là một tướng soái kiệt xuất, chưa trận nào thất bại. Tuy rằng thời kỳ rút khỏi Sính Đô vì phần lớn quân mã đã giao cho Hạp Lư nên một lần Tôn Võ và Ngũ Viên thất bại ở đất Ung Thệ nhưng tổn thất không đáng kể và rất mau lẹ rút lui để bảo toàn lực lược. Qua việc này người đời sau càng kính trọng Tôn Võ hơn nữa bởi tính cách quyền biến của ông, không xem trọng thắng thua trong một vài trận mà có chiến lược lâu dài hơn bất cứ danh tướng nào khác.
2
PHẠM LÃI
DANH TƯỚNG ĐA TÌNH
Sau khi Hạp Lư chết vì trọng thương trong chiến trận với nước Việt, mối thù hằn giữa hai nước Ngô, Việt càng thêm sâu đậm. Người kế vị Hạp Lư không phải là con trai mà là đứa cháu tên Phù Sai. Ông là người có chí khí cao ngạo, sức mạnh hơn người, phong thái uy dũng ngang tàng, vì vậy quyết chí phải tiêu diệt nước Việt báo thù cho ông. Để đừng bao giờ quên mối thù này, Phù Sai bắt nội thị thay nhau đứng ở sân cung cấm, mỗi khi thấy mình đi qua thì liền quát lớn:
– Phù Sai, ngươi còn nhớ mối thù nước Việt giết tổ phụ của ngươi không? Phù Sai vừa khóc vừa cúi đầu cung kính đáp lại:
– Phù Sai này chẳng bao giờ dám quên mối thù ấy.
Với ý chí dũng mãnh nên chỉ vào năm sau đã ban lệnh xuất quân tiến đánh nước Việt qua con đường Thái hồ. Câu Tiễn là vị vương gia nhiều tài năng, lại có hai hiền tài kiệt xuất theo hầu cận, đó là Văn Chủng chuyên về triều chính, còn Phạm Lãi là danh tướng chuyên về quân sự. Khi nghe tin quân Ngô rất đông đảo và hùng dũng, Câu Tiễn không hề lo sợ, hỏi ý kiến thì Phạm
Lãi xin nên cố thủ, còn Văn Chủng thì đề nghị nhà vua tìm cách cầu hòa chờ bao giờ lực lượng hùng mạnh ngang sức thì hãy giao chiến. Câu Tiễn không nghe theo hai lời đề nghị này, tự mình xuất quân giao chiến ở Tiêu sơn, cuối cùng thất trận, hối hận đã không nghe lời Phạm Lãi thì đã muộn mất rồi, coi như cái chết sắp đến gần.
Cũng may Văn Chủng vẫn bí mật tiến hành việc cầu hòa, dùng một số vàng ngọc lớn mua chuộc tên gian thần Bá Hi, nhờ hắn nói giúp với Phù Sai. Câu Tiễn đành phải chấp nhận những điều kiện nghiệt ngã làm tôi đòi cho Phù Sai, dâng hết đất đai, bao nhiêu của cải đều đưa về nước Ngô bằng hết. Nhờ vậy Phù Sai mới bằng lòng, mặc cho Ngũ Viên hết lời khuyên can. Sau đó Phù Sai cho phép Câu Tiễn trở về nước Việt từ biệt quần thần trước khi cùng với gia đình sang nước Ngô chịu nhục nhã. Câu Tiễn buồn bã hỏi các quan:
– Ta vì không nghe lời hiền thần nên mới đến nông nỗi này. Mốì thù này không thể không trả nhưng hiện giờ ai là người có thể giữ nước, ai là người đủ tài trí theo ta sang đất Ngô mà tùy
cơ ứng biến trợ giúp cho ta?
Văn Chủng thẳng thắn tâu bày:
– Về mặt quốc chính an nước trị dân, phát triển kế hoạch báo thù thì Phạm Lãi tướng quân không thể bằng tôi được; còn như tùy cơ ứng biến thì tôi không bằng Phạm tướng quân, vì vậy xin để Phạm tướng quân đi theo Đại vương vậy.
Nếu tính ra địa vị của Phạm Lãi và Văn Chủng gần tương nhau, mỗi người chuyên trách một mặt, Văn Chủng nói thẳng như vậy mà Phạm Lãi không hề tức giận, lại còn khen Văn Chủng nói đúng, xin được cùng với Câu Tiễn qua đất Ngô mặc dù tự biết con đường trước mặt vô cùng nguy nan, chỉ sơ sẩy một chút là cả vua lẫn bầy tôi đều có thể mất mạng hoặc là không bao giờ còn đường trở về cố quốc nữa. Lòng trung trinh và sự can đảm của Phạm Lãi khiến người đời sau hết sức ca tụng.
Ông không những là danh tướng của nước Việt mà còn được biết đến nhờ vào “cuộc tình Tây Thi” - một trong “Tứ đại mỹ nhân” Trung Hoa thời xưa - một cuộc tình đầy éo le nhưng cũng đầy cảm động, không vì chữ tình mà quên bỏ đại sự quốc gia.
Phạm Lãi tên tự là Thiếu Bá, sinh trưởng ở Tam Hộ ấp thuộc vùng Uyển của nước Sở. Phạm Lãi có thân hình dong dỏng cao nhưng rất giỏi võ nghệ, lại chuyên tâm học hành thi thư binh pháp nên ngay lúc thiếu thời đã nổi danh là người anh hùng văn võ toàn tài. Ông cũng nổi danh là người đa tình - đã có người vợ rất xinh đẹp - mặc dù vẫn mang hoài bão lớn muốn "trị quốc bình thiên hạ”. Lúc đó Văn Chủng đang làm Huyện lệnh đất Uyển, nghe danh tiếng của Phạm Lãi liền sai người mời đến đàm đạo. Thế nhưng nhiều lần mà Phạm Lãi vẫn từ chối, lấy cớ có bệnh không chịu đến huyện đường. Người thân cận của Văn Chủng rất khó chịu, cho rằng không nên quen biết với một kẻ ngông cuồng và lắm bệnh như vậy nhưng riêng Văn Chủng có mắt tinh đời, thản nhiên bảo với người nhà:
– Những người có tâm huyết với nước nhà không dễ gì một lời mà xuất đầu lộ diện. Gia dĩ ngày nay nước Sở chính trị suy đồi, vua quan hèn kém, không xứng đáng để nhân tài ra tay giúp nước thì Phạm Lãi từ chối là đúng lắm.
Sau đó tự thân Văn Chủng đánh xe đến xin gặp mặt nhưng vẫn bị Phạm Lãi từ chối. Nhiều lần như vậy, Phạm Lãi nhận ra Văn Chủng là người thành tâm, quyết định gặp gỡ và hai người trở thành bạn thân thiết.
Một thời gian sau, Phạm Lãi bàn với Vản Chủng sang nước Việt tìm công danh bởi lúc ấy Ngô và Việt là hai nước đang thời kỳ phát triển rất mạnh, đúng là thời cơ để họ thi thố tài năng. Tuy đang là Huyện lệnh nhưng Văn Chủng cũng biết cái chức vụ nho nhỏ ấy không phải là chỗ
mình dung thân nên vui vẻ nghe lời Phạm Lãi, quả nhiên cả hai đều được Việt vương Câu Tiễn trọng dụng, sau đó đều giữ chức Đại phu, tức ngang hàng với các đại thần cao trọng nhất ở các triều đại sau này.
Trong thời kỳ Ngô Việt phân tranh, nhiều lần Phạm Lãi đã cầm quân chiến thắng lẫy lừng nhưng cuối cùng ông vẫn nhận ra hùng tâm tráng chí của Phù Sai, khuyên Câu Tiễn nên tìm cách cầu hòa, tạo cơ hội xây dựng binh mã hùng hậu rồi mới tính đến việc đấu tranh. Tiếc rằng Câu Tiễn quá kiêu ngạo tự phụ, không nghe lời nên cuối cùng mới thất bại phải chịu làm thân tôi
đòi cho Phù Sai. Phạm Lãi không vì thế mà bỏ rơi chủ nhân, trung theo hầu, hy vọng nhờ tài quyền biến của mình sẽ giúp cho Câu Tiễn nhẫn nhục qua thời điểm nhục nhã nhất của một vị Vương hầu.
Khi Câu Tiễn và Phạm Lãi đến nước Ngô, Phù Sai liền sai Vương tôn Hùng dựng một cái nhà bằng đá bên cạnh mộ phần của Hạp Lư, cho vợ chồng Câu Tiễn cùng Phạm Lãi ở đó ngày ngày lo việc chăn ngựa và săn sóc mộ phần cho Hạp Lư. Tất cả đều phải mặc áo xấu, làm việc hèn hạ vất vả, thức ăn cũng không đầy đủ nhưng Phạm Lãi không hề lấy thân phận Đại tướng của mình mà kêu than, trái lại bình tĩnh kiên trì thuyết phục Câu Tiễn nên cố gắng làm vừa lòng Phù Sai mới hy vọng có ngày được về nước tìm cách báo thù.
Cũng nhờ Văn Chủng ở nước Việt hết lòng lo liệu, đút lót cho tên gian thần Bá Hi nên vua tôi cũng không đến nỗi chết đói. Mỗi khi Phù Sai đi đâu đều bắt Câu Tiễn đi chân đất, dắt ngựa đi trước để bêu xấu với dân chúng nước Ngô. Đây là cái nhục mà đến như người dân thường cũng khó chịu đựng được nhưng Câu Tiễn nghe lời của Phạm Lãi, cúi gầm mặt xuống, nghiến răng mà chịu đựng, mỗi khi Phù Sai kêu gọi đều tươi cười vâng dạ. Dần dần như vậy, tất nhiên Phù Sai đã có chút ít tin tưởng rằng Câu Tiễn đã hoàn toàn khuất phục mình.
Riêng Phạm Lãi là thân phận Đại phu nhưng sớm tối đều hầu hạ Câu Tiễn hết lòng, không lúc nào rời khỏi. Chính Phù Sai cũng rất khâm phục Phạm Lãi, nhiều lần gọi riêng vào cung khuyến dụ:
– Ta thấy ngươi là người tài năng tất phải biết thời thế. Hiện nay Câu Tiễn đã là tù nhân, ngươi vẫn đi theo thì chỉ làm phí tài năng của mình mà thôi. Nếu ngươi bằng lòng làm quan cho Ngô thì ta sẵn sàng ban chức tước lớn. Người anh hùng phải nhìn ra thời thế, đừng nên quá câu nệ chữ trung như vậy mới tuấn kiệt.
Phạm Lãi nhẹ nhàng tìm cớ từ chối khiến Phù Sai không khỏi tức giận, đập bàn quát lớn: – Ngươi cứng đầu như vậy chỉ thiệt vào thân. Câu Tiễn còn ở nhà đá suốt đời, ngươi cũng không bao giờ có cơ hội thoát khỏi nơi đó đâu. Phạm Lãi cúi đầu nhận lỗi rồi lặng lẽ lui ra, biểu
lộ một lòng kiên quyết không gì thay đổi.
Mấy năm sau, vợ chồng Câu Tiễn càng thêm tồi tàn, quần áo rách rưới, người toàn là mùi phân ngựa, cặm cụi từ sáng cho đến chiều tối lo việc kiếm củi cắt cỏ cho ngựa nhưng chưa bao giờ có một lời oán hận. Phù Sai đã ngầm cho người theo dõi rất sát mà không phát hiện ra điều gì sai trái của vua tôi nước Việt nên dần dần cũng không để ý đến nữa.
Thật sự, có lúc Phù Sai cũng đã muốn nghe lời của Ngũ Viên giết chết Câu Tiễn đề phòng hậu họa nhưng thấy cảnh cam chịu của vua tôi Câu Tiễn thì lại do dự, lại thêm Văn Chủng bỏ rất nhiều vàng bạc đút lót cho Bá Hi nên hễ có dịp là hắn luôn luôn nói tốt cho Câu Tiễn, còn tìm lời khôn khéo khuyên Phù Sai tha cho vua tôi nước Việt trở về cố quốc, dương cao lòng nhân ái để các chư hầu kính nể.
Một lần kia, Phù Sai ngồi trên đài Cô Tô tráng lệ nhìn xuống lăng mộ của Hạp Lư, thấy vợ chồng Câu Tiễn lúi húi dọn dẹp các đống phân ngựa, còn Phạm Lãi tuy quần áo còn tồi tàn hơn cả Câu Tiễn vẫn uy nghiêm cầm chổi đứng hầu thì cảm xúc than rằng:
– Phạm Lãi thân là quan lớn, thế mà lúc hoạn nạn nhất vẫn giữ được lễ vua tôi thì thật đáng kính trọng. Câu Tiễn làm nên tội thì phải đền không nói gì, riêng Phạm Lãi có thể tha cho về nước mới đúng.
Bá Hi đang hầu bên cạnh, nghe vậy liền mở lời xin cho vợ chồng Câu Tiễn về nước một thể. Thật ra trong lòng Phù Sai cũng đã vơi đi hận thù rất nhiều nhưng không thể quyết được, đành nói:
– Ta sẽ nhờ quan Thái sử bói một quẻ xem tốt xấu ra sao đã.
Phạm Lãi không chỉ là danh tướng kiệt xuất mà mặt kiến thức cũng hết sức rộng rãi, nghe tin này liền tự thân bói trước một quẻ rồi than với Câu Tiễn:
– Theo quẻ bói thì việc này có chút lợi nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, chúa công đừng vội mừng mà hãy cố ẩn nhẫn thêm một thời gian nữa mới được.
Câu Tiễn rơi nước mắt xin nghe theo, ngày ngày vẫn chăm chỉ làm việc nhọc nhằn, tỏ ra không hề nghe chút tin tức gì. Riêng Ngũ Viên cũng nghe tin này, tức tốc vào yết kiến Phù Sai, hậm hực nói:
– Tôi nghe rằng trước vua Kiệt giam giữ Thang, Trụ vương giam giữ Văn vương mà không chịu giết đi, sau này Kiệt bị Thang đuổi, nhà Thương bị nhà Chu diệt. Tôi e rằng Đại vương nghe lời bọn nịnh thần thì cũng sẽ xảy ra sự việc y như vậy, nước mất nhà tan sắp xảy ra trước mắt mà Đại vương chưa tỉnh ngộ hay sao?
Thế nhưng Phù Sai vẫn chưa thể quyết định được. Cho đến một hôm Phù Sai bị phong hàn
khá nặng, Ngũ Viên một lần nữa vào vấn an, nhắc lại việc cũ:
– Hiện tại Đại vương khó mà nói trước được, nếu như không may thất lộc thì Câu Tiễn chắc chắn sẽ tìm cách thoát về Việt, rồi sẽ tổ chức chống lại nước Ngô. Khi ấy tôi e rằng khó còn ai có thể giữ vững được cơ đồ. Giết Câu Tiễn vừa làm hả dạ tiên đế vừa diệt hẳn hậu họa, nhất cử lưỡng tiện, sao Đại vương còn chần chừ?
Lần này Phù Sai nghe theo lời Ngũ Viên, lập tức lấy cớ cần người dọn vệ sinh cho mình, triệu Câu Tiễn vào cung. Nghe tin, Câu Tiễn vô cùng kinh sợ vì biết rằng đó chỉ là cái cớ, chắc chắn lần này sẽ mất mạng. Một lần nữa Phạm Lãi phải gieo quẻ bói rồi cho biết:
– Mạng số của Phù Sai chưa hết mà số mệnh của chúa công cũng chưa tuyệt. Tuy nhiên có lẽ lần này phải bị một phen kinh sợ mà thôi.
Nghe vậy Câu Tiễn mới gắng gượng theo bọn thị vệ vào cung cấm. Quả nhiên luôn mấy ngày không hề thấy bóng dáng Câu Tiễn bước ra, ai cũng lo sợ rằng có lẽ Câu Tiễn đã bị giết chết rồi. Riêng Phạm Lãi vẫn cung kính đứng chờ ở cửa cung, mặc cho sương nắng, sẵn sàng đón chủ nhân trở về. Thái độ nghiêm cẩn của ông khiến Phù Sai nghe biết lại đâm ra phân vân, không sao quyết định được là nên giết Câu Tiễn hay tha về. Đồng thời vợ của Câu Tiễn cũng lén đút lót cho bọn quân canh báo cho Bá Hi biết tin dữ.
Bá Hi liền lấy cớ vấn an, vào cung thăm hỏi bệnh tình Phù Sai xong liền nói: – Bệnh của Đại vương hết sức thất thường, khi nhẹ khi nặng. Nếu như Đại vương tha cho Câu Tiễn về nhà đá như trước, biết đâu ân đức ấy làm động lòng trời mà mau chóng khỏi bệnh chăng? Câu Tiễn hiện như con cá trong giỏ muốn bắt giết lúc nào chẳng được, cần gì phải giam giữ hay giết chóc trong cung làm tổn hại âm đức của Đại vương đi?
Phù Sai nghe vậy liền ban lệnh cho Câu Tiễn được trở về gian nhà đá như cũ. Tuy nhiên bệnh tình của Phù Sai vẫn là mối lo của Câu Tiễn, ông nhờ Phạm Lãi bói thêm một quẻ nữa xem tình hình ra sao. Phạm Lãi bói xong liền cho biết:
– Theo quẻ bói thì số của Phù Sai còn làm vua được mấy năm nữa. Bệnh này đến ngày Kỷ Tị thì bớt chút ít, đến ngày Nhâm Thân thì khỏi hoàn toàn. Nhân cơ hội này chúa công nên xin vào vấn an, chịu nhục nếm phân mà đoán bệnh theo quẻ bói. Nếu Phù Sai qua khỏi thì sẽ hết sức cảm động mà tha tội cho chúa công vậy.
Câu Tiễn ứa nước mắt, khóc mà nói:
– Dù sao ta cũng là vua một nước, bây giờ có chịu nhục đến đâu cũng được nhưng việc này quá sức, làm sao ta có thể thi hành được?
Phạm Lãi cũng khóc theo, cố thuyết phục:
– Trước kia Trung vương giam giữ Văn vương ở Dũ Lý rồi giết con là Bá Ấp Khảo đem làm mắm. Thế mà Văn vương cũng chịu được đau đớn nhục nhã ăn thịt của con. Việc này tuy nhơ bẩn nhưng nếu quyết tâm tìm sự sống để quật cường trở lại thì tôi nghĩ chúa công có thể nghiến răng mà làm được, xin đừng câu nệ tiểu tiết mà hỏng hết đại sự.
Câu Tiễn phân vân suy nghĩ mãi mới chấp nhận lời khuyên của Phạm Lãi, xin Bá Hi tiến dẫn cho mình được vào vấn an Phù Sai. Lúc ấy Phù Sai nằm bệnh lâu ngày cũng hơi buồn chán, nghe Bá Hi xin thì liền bằng lòng ngay, vả chăng cũng muôn thử xem thái độ của Câu Tiễn ra sao. Câu Tiễn vấn an xong liền nói:
– Trước kia tôi có học một y sư ở Đông Hải biết cách xem bệnh tình bằng cách nếm phân. Có thể Đại vương không tin nhưng cứ cho tôi thử một lần.
Phù Sai vô cùng kinh ngạc nhưng lại tò mò nên bằng lòng. Mọi người đều bịt mũi đứng ra xa, riêng Câu Tiễn giữ bộ mặt nghiêm nghị, nếm xong đứng lên vái lạy chúc mừng: – Theo tôi thì đến ngày Kỷ Tị thì thuyên giảm, đến ngày Nhâm Thân sẽ khỏi hẳn. Phù Sai nửa kinh ngạc nửa buồn cười, hỏi:
– Ta chưa hề thấy cách xem bệnh như vậy bao giờ. Ngươi dựa vào đâu mà dám đoán mò, không sợ tội khi quân hay sao?
Câu Tiễn thản nhiên đáp:
– Tôi thật chẳng dám đoán mò. Theo y lý thì phân là cốc vị nên thuận theo thời khí thì người sống mà trái với thời khí thì người chết. Nay tôi thấy vị đắng mà chua, rất hợp với tiết xuân hạ nên đưa ra lời suy đoán mà thôi. Nếu sai xin Đại vương dung thứ.
Phù Sai vẫn chưa hết cười nhưng tinh thần đã thư thái đôi chút, vẫy tay gọi Bá Hi lại hỏi rằng có thể nếm thử hay không. Bá Hi vội vàng cúi đầu tạ tội, lấy cớ rằng mình chưa được học về y lý nên cũng chưa dám nếm thử như vậy. Qua ngày hôm sau bệnh tình của Phù Sai chỉ bớt rất ít nhưng tinh thần sảng khoái hơn trước lập tức xuống lệnh cho vua tôi Câu Tiễn rời khỏi nhà đá, đến một căn nhà khác sạch sẽ hơn, đồng thời cũng ban cho một số thực phẩm đầy đủ.
Chẳng biết Phạm Lãi tài tình hay số mệnh của Câu Tiễn đã đến lúc vinh quang, ngày Nhâm Thân quả nhiên Phù Sai khỏi hẳn bệnh. Nhà vua mừng rỡ sai mở yến tiệc khánh hạ, cho phép Câu Tiễn đến dự. Câu Tiễn theo lời của Phạm Lãi giả như không biết, vẫn mặc quần áo tù nhân rách rưới bẩn thỉu mà vào cung.
Phù Sai vừa nhìn thấy lập tức quát bảo nội thị đưa Câu Tiễn vào phía sau tắm rửa, thay quần áo mới cho xứng đáng với địa vị của vua một nước. Triều thần thấy vậy đều tung hô khen ngợi Phù Sai khoan dung độ lượng khiến ông ta rất đắc chí, nhân lúc ngà say liền tuyên bố sẽ cho Câu
Tiễn về nước. Ngũ Viên bị bất ngờ không sao phản ứng kịp bởi vì lời của nhà vua đã ban ra, nếu đứng ra chống lại thì mang tội khi quân nên hầm hầm bỏ ra khỏi tiệc, không nói lời nào. Bá Hi nhân cơ hội ấy bèn nói móc:
– Đại vương là bậc đại nhân mà Câu Tiễn là bậc đại hiền, vì vậy Tướng quốc không dám ngồi chung là phải lắm! Ha ha!
Câu nói này rất lọt tai nên Phù Sai hài lòng, không thèm để ý đến Ngũ Viên nữa, mấy hôm sau mở tiệc ở Sà Môn để tiễn Câu Tiễn về nước. Thật sự Câu Tiễn cũng không thể tin mình được tha dễ dàng như vậy, trong lòng hồi hộp không yên mãi khi đoàn xe về đến Tích giang, nhìn thấy triều thần do Văn Chủng dẫn đầu đứng chờ đón thì mới biết mình không nằm mơ. Lần trước Câu Tiễn đại bại ở Cối Kê nên về nước rồi quyết định xây dựng lại thành trì ở đó để mãi mãi nhớ đến sự nhục nhã, đồng thời trao hết toan tính cho Văn Chủng và Phạm Lãi.
Phạm Lãi được trao toàn quyền về binh bị, lập tức huy động dân chúng xây dựng thành Cối Kê, ba mặt đều hết sức chắc chắn, chỉ riêng mặt phía tây bỏ trống, nói với mọi người rằng như thế để tiện cho việc triều cống nước Ngô, đồng thời cũng biểu thị ý là không hề đề phòng quân Ngô. Thật sự, Phạm Lãi cố ý để trống là sau này dễ dàng tiến quân mà không ai nghi ngờ gì được. Nhờ Văn Chủng chấn chỉnh quốc chính, Phạm Lãi ra sức chiêu binh mãi mã, huấn luyện cực kỳ tinh mật mà chẳng bao lâu nước Việt đã hùng mạnh lên thấy rõ nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra nghèo đói, không để lộ chút tin tức gì cho Phù Sai hay biết.
Từ khi về nước, Câu Tiễn không ngày nào quên mối thù nhục nhã, hạ lệnh cho treo một trái mật ngay nơi làm việc, lâu lâu lại nếm một ít để vị đắng nhắc nhở mối thù. Khi ngủ, Câu Tiễn sai người tìm một số cây gai trải làm nệm, nằm trên đó mặc cho đau đớn, luôn miệng nhắc hai chữ “Cối Kê” để hun đúc thêm lòng căm thù nước Ngô. Vì vậy sau này để biểu thị sự nhẫn nại chịu đau khổ để nhằm mục đích nào đó, người ta hay dùng bốn chữ “nằm gai nếm mật”, lại dần trở thành điển tích.
Lúc đó nước Ngô hoàn toàn vô sự, lại được nước Việt triều cống rất nhiều của cải nên sung túc hẳn lên, Phù Sai lại tự biết mình không thể sống lâu nên bắt đầu muốn ăn chơi xa xỉ hưởng lạc. Văn Chủng và Phạm Lãi đã toan tính với nhau từ trước, tung tiền bạc ra mua chuộc không ít cận thần nước Ngô nên khi nghe tin Phù Sai định mở rộng Cô Tô đài cao hơn ngàn trượng, chứa được hơn ngàn cung nữ nên vào xin với Câu Tiễn nhanh chóng ban lệnh sai người dân Việt vào rừng sâu tìm đủ loại gỗ tốt và thật lớn để dâng cho Phù Sai.
Đương nhiên Câu Tiễn biết dây là một trong 7 sách lược làm suy yếu nước Ngô mà trước đây Văn Chủng đã dâng lên, bằng lòng ngay, tuyên bố ai tìm được loại gỗ quý và to nhất sẽ trọng thưởng ngàn vàng. Bảy sách lược của Văn Chủng gồm có:
– Sẵn sàng chịu hao tốn để vua tôi nước Ngô ăn chơi hưởng lạc bỏ bê triều chính. – Bỏ nhiều tiền ra mua lương thảo nước Ngô để đến khi cần gấp sẽ bị thiếu hụt. – Dùng “Mỹ nhân kế” để chia rẽ vua tôi nước Ngô, làm cho người dân bất mãn không đồng lòng chiến đấu.
– Khuyến khích Phù Sai xây dựng cung thất nguy nga tráng lệ để ngân khố bị tổn hại đến mức trống rỗng, không còn kinh phí cho quân mã nữa.
– Đút lót cho các quan tham làm lũng đoạn triều chính.
– Đồng thời ra sức tích trữ lương thảo, luyện tập quân binh thuần thục, tăng cường nhuệ khí cho quân binh để khi cần sẽ xuất phát như sấm nổ vang trời. Việc này hoàn toàn giao cho Phạm Lãi đảm trách.
Nhờ vào sự ban trưởng trọng hậu này mà có đến mấy ngàn người hăng hái đi tận vào rừng sâu tìm kiếm, quả nhiên tìm được hai cây gỗ hết sức chắc chắn, lại có nhiều vân đẹp. Hai cây này không ai biết tên là gì, mọc ở phía nam nên được đặt tên là gỗ Nam. Câu Tiễn cả mừng, thân hành đến nơi xem thử, làm lễ tạ ơn trời đất rồi sai nhiều nhân công ra sức chạm trổ cực kỳ hoa lệ, sau đó chính Văn Chủng đích thân dẫn đoàn người vận tải hai cây gỗ quý ấy đến triều Ngô dâng lên. Phù Sai đang lo lắng không có vật liệu xây dựng một cái đài cao như ý định, nay được tiến cống thì vô cùng mừng rỡ, mở tiệc lớn khoản đãi Văn Chủng, đồng thời hết lời khen ngợi Câu Tiễn là tôi thần trung hiếu.
Dù đã có gỗ lớn, vậy mà cũng phải mất đến 5 năm mới xây dựng xong Cô Tô đài cao hơn 300 trượng, hao tổn ngân khố kể đến hàng triệu, phu dịch lao khổ chết nhiều như rạ khiến nhân dân nước Ngô vô cùng oán thán. Không hề nhìn ra sự oán thán của người dân, Phù Sai còn bắt lao dịch phải làm một con đường cong 9 khúc đi từ chân núi lên tới Cô Tô đài làm cho người dân càng căm phẫn.
Đồng thời lúc ấy Ván Chủng cũng sai Phạm Lãi phụ trách cả việc tìm kiếm mỹ nhân, vì vậy ngay khi Cô Tô đài chưa xong đã có dâng lên cho Câu Tiễn danh sách hơn 2000 mỹ nhân, trong đó đặc biệt nhất là Tây Thi và Trịnh Đán. Đây là một “kỳ công” nhờ vào sự gắng sức của Phạm Lãi và cũng là một cuộc tình hết sức diễm lệ theo như tương truyền.
Trong suốt thời gian tìm kiếm mỹ nhân, Phạm Lãi và đoàn tùy tùng gặp hàng ngàn cô gái sắc nước hương trời nhưng cuối, cùng vẫn chưa có ai toàn vẹn, đạt được yêu cầu là phải làm cho Phù Sai mê đắm đến điên cuồng, đồng thời có đủ tài trí khôn ngoan làm nghiêng đổ triều đình nước Ngô. Khi đã gần hết thời gian hạn định, Phạm Lãi vô cùng lo buồn, quyết định đi đến ngọn núi Trữ La ở tận cùng biên cương phía bắc. Nơi đây phong cảnh hết sức hữu tình, non xanh
nước biếc, không khí trong lành u tịnh nên Phạm Lãi hy vọng sẽ là nơi sản sinh ra người đẹp nhất thế gian. Quả nhiên không ngoài mong ước của ông, khi vừa đến Trữ La thôn nằm nhỏ bé dưới chân núi, Phạm Lãi đã được nghe đồn đến sắc đẹp tuyệt thế của Tây Thi, lập tức tìm đến.
Tây Thi vốn không phải là tên thật, nàng chỉ là một cô gái dân dã mộc mạc nhưng nhờ vào thiên nhiên hun đúc, sắc đẹp không ai sánh nổi. Ở làng bên phía Đông cũng có không ít mỹ nhân nhưng thật sự vẫn không ai có thể sánh bằng, mặc dù thôn Đông rất tự hào về một người con gái tên là Trịnh Đán. Phạm Lãi không muốn kinh động người dân, giả như một Nho sinh nhàn du tìm đến Trữ La thôn, đúng vào lúc cả một đoàn con gái vui cười tíu tít kéo nhau ra bờ suối giặt quần áo.
Chỉ cần thoáng nhìn qua, Phạm Lãi đã nhận ra ngay Tây Thi bởi từ vóc dáng đến dung nhan và tư cách của nàng nổi bật trong đám đông, không thể nào lẫn lộn được, giống như chim thiên nga đi cùng với bầy vịt trời. Qua lần đầu trò chuyện, Phạm Lãi lại càng sửng sốt bởi trí tuệ thông minh tuyệt vời của nàng, mặc dù không hề được học hành thi thư. Chỉ một lần nói sơ lược việc sẽ bị tiến cống qua đất Ngô, lập tức Tây Thi đã hiểu ngay đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn nhưng vẫn can đảm nhận lời, buồn bã từ biệt người thân để cùng với phái đoàn tìm kiếm về triều đình nước Việt.
Về mặt sắc đẹp, Trịnh Đán cũng không thua gì Tây Thi nhưng xét theo trí tuệ thì không sao bằng được nên dù vẫn được kết nạp nhưng chỉ xếp vào hạng thứ hai. Hai nàng sau khi về tới kinh đô nước Việt, được Câu Tiễn hết sức tán tụng và cho người chăm sóc Tây Thi, Trịnh Đán một cách đặc biệt, không những được mặc những loại quần áo lụa là gấm góc sang trọng mà còn được nhiều danh sư về múa hát dạy dỗ tận tình, lại cấp riêng nơi ở bí mật ở Thổ thành để tin tức không bị tiết lộ. Cho đến khi Cô Tô đài hoàn thành thì cũng đúng lúc Tây Thi và Trịnh Đán đã “lột xác” trở thành hai mỹ nhân tuyệt thế, cầm kỳ thi họa, ca múa không ai sánh bằng.
Câu Tiễn thấy đã đúng thời cơ, sai Phạm Lãi dẫn đầu đoàn sứ giả đưa Tây Thi và Trịnh Đán cùng một số mỹ nhân khác làm thị tì sang đất Ngô tiến cống. Sở dĩ Phạm Lãi được đặc trách việc này là do Văn Chủng còn rất nhiều chuyện phải lo toan và trải qua mấy năm tù đày cùng Câu Tiễn nơi đất khách quê người, Phạm Lãi thông thạo đường lối và quen biết khá nhiều quan lại triều Ngô, rất thuận tiện cho sứ mệnh.
Sử sách không ghi lại chi tiết nhưng theo truyền thuyết thì trong thời gian Phạm Lãi hộ tống Tây Thi sang Ngô chính là thời gian mối tình nảy nở giữa hai người. Thế nhưng, cả hai cũng đều biết đây là nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, tuy yêu nhau say đắm vẫn ý thức được phải làm những gì. Họ cùng nhau thề nguyền nếu sau này hoàn thành nhiệm vụ sẽ cùng nhau se tơ kết tóc mãi mãi.
Quả nhiên, khi Phù Sai vừa nhìn thấy Tây Thi là đã mê mẩn hồn phách, dù Ngũ Viên không biết bao nhiêu lần cảnh tỉnh vẫn như kẻ mộng du, bỏ hết những lời can gián ngoài tai. Lúc đó Phù Sai đã có Hoàng hậu và rất nhiều phi tần, ông không hề phong chức cho Tây Thi nhưng lại đặc biệt cho nàng được ở Cô Tô đài, cung ứng đầy đủ thức ngon vật lạ còn hơn cả Hoàng hậu. Riêng Trịnh Đán tuy cũng được Phù Sai sủng ái nhưng để lại cung cấm, chịu nhiều đau khổ vì sự ganh tị của các phi tần triều Ngô nên đâm ra buồn rầu thành bệnh, một năm sau khi tiến cống thì mất. Phù Sai cũng không phải vô tình, sai người an táng Trịnh Đán theo lễ phi tần rất trọng hậu ở Hoàng Mao sơn, rồi lập cả miếu thờ để an ủi vong linh cửa nàng phần nào.
Phạm Lãi chọn không nhầm người, khi đã được Phù Sai sủng ái, Tây Thi ra sức thi hành những kế sách làm lũng đoạn cả về kinh tế lẫn chính trị triều Ngô. Nàng đòi hỏi hầu như không biết đâu là đủ nhưng Phù Sai vẫn u mê nghe theo lời, dù những yêu cầu đó tốn kém ngân khố và sức người không ít. Tây Thi có ý thích được sống trên các ngọn núi cao, giống như tiên nữ tách biệt riêng với trần gian, Phù Sai lập tức chiều theo, cho xây dựng Quán Khuê cung trên núi Linh Nham rồi sau đó là Ngoạn Hoa trì (Hồ thưởng hoa), Ngoạn Nguyệt trì (hồ thưởng trăng), Thái Liên hình, Tiên Hạ Loan, Cẩm Phàm hình, v.v... Những cung điện này nhiều không kể xiết nhưng Phù Sai vẫn sợ rằng Tây Thi chưa vừa lòng, đặc biệt cho xây dựng Tây Thi động, phải đào sâu vào trong núi đá, tạo lập một cảnh sắc riêng biệt giống như tiên cảnh, vì vậy vô cùng khó nhọc và tổn phí không sao tính nổi.
Từ khi có Tây Thi, hầu như Phù Sai vắng mặt ở triều đình, không ở Tây Thi động thì cũng Cô Tô đài, chỉ đặc biệt cho Bá Hi vào vấn an còn lại bất cứ đại thần nào từ Ngũ Viên trở xuống đều từ chối không tiếp. Triều chính nước Ngô bắt đầu suy sụp hôn ám, bọn tham quan lợi dụng cơ hội này ra sức vơ vét của cải khiến người dân đã quá lao đao vì phải phục dịch cho Phù Sai nay còn bị bóc lột đến mức đói khổ điêu linh, cả nước vang lên tiếng kêu oán than mà Phù Sai làm sao nghe được?
Phạm Lãi từ giã triều Ngô về nước, để lại một số tay chân thân tín làm gián điệp dò la tin tức, đồng thời mau chóng báo về nên bao nhiêu việc tồi tệ ở triều Ngô đều nắm rõ, bàn với Văn Chủng tiến hành kế sách tiếp theo. Văn Chủng liền cho người sang Ngô xin mượn một vạn thạch thóc, hứa rằng đúng ngày này năm tới sẽ trả lại. Ngũ Viên cực lực phản đối việc này, liên tiếp dâng hàng chục tấu thư nhưng Phù Sai không hề để mắt tới, vui vẻ chấp thuận yêu cầu của Văn Chủng.
Năm sau nước Ngô bị mất mùa, Phù Sai chưa kịp hỏi thì nước Việt đã mau chóng mang số thóc mượn đến trả, số lượng lên đến hai vạn chứ không phải một vạn làm cho Phù Sai càng thêm tin tưởng rằng nước Việt luôn luôn trung thành với mình. Thật sự số thóc ấy Văn Chủng đã
ngầm cho người nấu lên, nóng đến một mức độ nhất định, nhìn bề ngoài không hề thấy khác lạ nhưng hoàn toàn đã chín rồi. Do vậy khi người dân Ngô dùng số thóc ấy gieo trồng thì chỉ tốn công vô ích, nạn đói càng thêm hoành hành.
Tin tức này lọt đến tai Phù Sai, thế nhưng nhà vua đã quá u mê, cho rằng việc thóc giống không thành cây lúa là vì phong thổ khác nhau chứ không phải nước Việt dụng tâm xấu. Đến khi Ngũ Viên tâu về việc nước Việt tăng cường huấn luyện quân binh thì Phù Sai vẫn không thèm để ý, ung dung phán bảo:
– Nước nào mà chẳng cần tới quân binh giữ gìn? Việc huấn luyện quân mã thì có gì lạ lắm đâu mà Tướng quốc phải quan tâm?
Ngũ Viên nhiều lần mang nỗi tức về nhà nên đã khôn khéo hơn, nghe vậy cố nuốt giận mà tâu:
– Nếu Đại vương tin tưởng nước Việt trung thành thì cứ thử một lần đem quân giả như sắp tiến đánh thì sẽ biết ngay hư thật. Nếu không đúng thì đó cũng là thái độ thị uy với nước Việt vậy.
Phù Sai là người hùng tâm tráng chí, tuy đang lúc mê đắm nữ sắc vẫn còn mang hoài bão làm bá chủ một phương nên nghe lời của Ngũ Viên ngay, xuống lệnh cho quân binh chuẩn bị. Khi ấy quân nước Việt thừa sức đương cự nhờ vào tài huấn luyện của Phạm Lãi, lại có cơ may được một người con gái chẳng biết từ đâu tới, nói rằng mình rất giỏi về kiếm pháp Nam Lâm, sẽ dạy cho binh tướng. Khi dạy xong kiếm pháp này, đột nhiên người con gái ấy biến đâu mất, ai cũng tin rằng đó là thần nữ xuống giúp cho nước Việt nên hùng khí lên rất cao. Riêng Văn Chủng có mời một dũng sĩ tên là Trần Am, cực giỏi về bắn cung, đến dạy cho quân sĩ phép bắn ‘liên nỗ” (bắn nỏ liên tiếp ba phát), nếu toàn quân cùng lúc bắn ra thì tướng đối phương tài giỏi đến mấy cũng phải tử thương. Sau khi huấn luyện phép bắn xong, đột ngột Trần Am cũng mất, lại càng làm cho quân tướng nước Việt tin rằng đó là thần nhân được trời sai xuống.
Do vậy nếu như cuộc chiến Ngô-Việt có xảy ra thì chưa biết thắng bại ra sao. May thay lúc ấy nước Tề đang tiến quân định chiếm nước Lỗ. Cả triều đình nước Lỗ xáo động kinh hoàng phải nhờ tới Khổng Tử. Ông bèn sai Tử Cống đi du thuyết, dùng phương cách khích động nước Tề nên đánh Ngô rồi lại sang Ngô trình bày là nước Tề đánh Lỗ xong thể nào cũng xâm phạm đến Ngô. Phù Sai nghe vậy hết sức tức giận, bãi bỏ việc đánh Việt mà dồn quân đánh Tề để thị
uy. Tử Công thành công rồi liền sang nước Việt hiến kế, Câu Tiễn nghe theo, xin Phù Sai cho quân Việt cùng kết hợp đánh Tề khiến bao nhiêu nghi ngờ của ông ta với nước Việt tan biến, gọi Ngũ Viên vào nặng lời trách móc.
Khi ấy quân binh của nước Ngô vẫn còn hùng mạnh như sự đánh giá của Phạm Lãi nên chỉ trong vài trận đã đại thắng quân Tề, danh tướng Triển Như bắt sống được Công tôn Hạ; Đại tướng Tư Môn Sào của Ngô giết chết Công tôn Huy; riêng Phù Sai cũng bắn chết Tôn Lâu của Tề, bắt sống được Lư Khâu Minh. Nhờ trận đại thắng này, Phù Sai vô cùng thỏa mãn, quên hẳn việc phải đề phòng hay thị uy với nước Việt.
Thế nhưng Ngũ Viên đã không chúc mừng chiến thắng của Phù Sai mà còn nhiều lời chê trách khiến Phù Sai không sao chịu được nữa, ban cho ông ta thanh kiếm Chúc Lâu để tự xử. Ngũ Viên đường hoàng tự đâm cổ mà chết. Sau khi Ngũ Viên chết rồi, lại đến lượt Thế tử Hữu cả gan đưa ra lời cảnh tỉnh, rốt cuộc cũng bị Phù Sai nổi giận trách phạt. Từ đó trở đi triều thần nước giống như câm điếc, để mặc cho Phù Sai tha hồ thi hành những chuyện hại dân hại nước như bắt hàng vạn dân phu đào kênh dẫn nước sông Giang, sông Hoài chảy vào sông Nghi, thông sang nước Tề để mai này tiện việc tiến quân.
Chưa được một năm, thế nước càng lúc càng suy yếu mà Phù Sai vẫn không nhìn ra, lại muốn cùng nước Tấn tranh giành ngôi bá chủ nên ban bố ước thư hẹn các chư hầu phải đến Hoàng Trì hội họp. Để phô trương thanh thế, Phù Sai kiểm điểm hầu như toàn bộ quân tướng, tiền hô hậu ủng, cờ xí rợp trời, xe ngựa kéo dài hàng trăm dặm không dứt, ầm ầm tiến đến Hoàng Trì. Đây là lần đầu tiên Phù Sai phát binh đi xa nhất, vào sâu nước Tề với toàn bộ quân tướng nên hầu như nước Ngô bị bỏ trống.
Trước đó đã khá nhiều lần Câu Tiễn thúc giục Văn Chủng và Phạm Lãi tiến quân đánh báo thù nhưng cả hai đều đồng ý kiến là quân Ngô còn rất mạnh, không thể khinh suất. Trải qua nhiều biến loạn nơi triều đình Ngô, từ việc quá phung phí ngân khố cho Phù Sai ăn chơi hưởng lạc cho đến cái chết oan ức của Ngũ Viên, bây giờ tới cơ hội Phù Sai dẫn toàn quân đi xa thì không còn dịp may nào lớn hơn. Do vậy khi Câu Tiễn hỏi Phạm Lãi:
– Ta thường nghe khanh nói: “Khi đã có thời cơ thì phải hành động nhanh như vũ bão”. Bây giờ đã đúng thời cơ chưa.
Lần này Phạm Lãi không phản đối nữa mà tươi cười đáp lời:
– Đã đến lúc Đại vương báo thù trả hận rồi.
Câu Tiễn cả mừng, ngay hôm đó xuống lệnh cho ba quân sửa soạn tề chỉnh rồi hôm sau đồng loạt xuất phát đi qua con đường phía tây đã bỏ trống từ lâu. Đó là vào năm 476 trước Công nguyên, toàn quân nước Việt chia làm hai đường tiến đánh nước Ngô, một do Câu Tiễn đích thân chỉ huy, một do Phạm Lãi thống suất. Phạm Lãi còn vạch ra kế hoạch bao vây, cho một cánh quân đi thuyền lớn vượt biển vào đất Hoài, cắt đứt đường về của quân Ngô. Đại quân nước
Việt thì theo đường bộ tiến lên phía bắc thẳng tới Cô Tô.
Bao nhiêu oán hờn nhục nhã tích chứa từ lâu nay, bây giờ phát lộ bằng khí thế ngất trời, trong khi đó quân tướng nước Ngô theo gương chủ nhân hết sức chểnh mảng trong phòng bị, ngay lúc nhìn thấy quân Việt tiến công thì đã mất hết tinh thần, hoảng loạn tranh nhau chạy trốn. Nhờ vậy quân nước Việt tiến nhanh như chẻ tre, chưa đầy một tháng đã công phá kinh thành Cô Tô, mau chóng giết chết tướng giữ thành là Công tôn Dung Dị. Riêng Thế tử Hữu là người rất can trường, tuy biết quân mình ít hơn đối phương nhiều lần cũng liều chết lên mặt thành hô hào chiến đấu, cuối cùng bị trúng luôn mấy mũi tên do phép bắn “liên nỗ” quá lợi hại. Thế tử Hữu biết rằng mình khó sống, lại không muôn bị nhục nên tự kết liễu đời mình.
Tuy nhiên lúc ấy Công tử Địa vẫn can đảm chống giữ thành rất vững, đồng thời sai người cấp tốc đến Hoàng Trì cấp báo với Phù Sai. Câu Tiễn chiếm được ngoại thành rồi, truyền lệnh nổi lửa đốt cháy Cô Tô đài nhưng không giết các cung nữ phi tần của Phù Sai. Trong số ấy, Tây Thi là người được Phạm Lãi đón về trước nhất bởi nàng không những đã “thề non hẹn biển” với mình mà còn là một công thần xứng đáng được nêu danh. Cô Tô đài quả nhiên danh bất hư truyền, bị cháy đến hơn một tháng mà lửa vẫn chưa tắt hẳn, khói đen mù mịt cả một vùng lớn, bao nhiêu tài vật cùng các chiến thuyền của nước Ngô đều được Câu Tiễn thu thập đem về Thái hồ, rảnh tay chờ đợi một cuộc kịch chiến nếu như Phù Sai đem quân về kịp.
Khi ấy ở Hoàng Trì, Phù Sai và Tấn Định công còn mải lo tranh chấp chức vị Bá chủ nên không hề nghe tin tức gì, mãi đến khi người của Công tử Địa chạy đến mới rụng rời cả tay chân. Bá Hi là tên gian thần xu nịnh nhưng vào thời điểm này quyết đoán cũng khá khôn ngoan, lập tức rút kiếm chém chết người đưa tin để không còn ai hay biết. Phù Sai liền cùng Bá Hi bàn cách rút quân sao cho thật kín đáo, nếu không các chư hầu - nhất là quân Tấn - tất sẽ nhân dịp này truy sát thì không còn đất sống. Dựa vào kế sách của Bá Hi, Phù Sai đột ngột kéo toàn bộ quân mã đến đàn thề, nổi trống vang trời rồi thúc giục các chư hầu nội trong ngày phải ưng chịu tôn xưng nước Ngô làm bá chủ.
Sứ giả của nước Tấn là Đổng Cát rất tinh đời, quan sát sự việc thì nghi rằng nội bộ nước Ngô đã xảy ra biến sự nhưng vẫn còn sợ bị Phù Sai liều lĩnh tiêu diệt nên bàn với Tấn Định công vẫn ưng chịu xưng Ngô là bá chủ nhưng không được xưng Vương. Dĩ nhiên Phù Sai chấp nhận ngay rồi sau đó lập tức rút quân về Việt. Phù Sai cho rằng Bá Hi có nhiều quan hệ với nước Việt nên cử ông ta làm sứ giả xin cầu hòa. Thật sự Bá Hi không có tài biện thuyết, tất cả là do Phạm Lãi nhận định nước Ngô đã quá suy yếu, không cần dồn đối phương vào đường cùng cũng tự tan rã nên xin với Câu Tiễn chấp nhận lời cầu hòa, quân Việt ca khúc khải hoàn rút về nước.
Thế nhưng tình hình đúng như sự tiên liệu của Phạm Lãi, dù Phù Sai cố hết sức chấn chỉnh
triều đình nhưng lực bất tòng tâm, càng lúc càng suy bại. Vì vậy 3 năm sau, tức là vào năm 473, Câu Tiễn một lần nữa lại kéo đại quân tiến đánh. Lần này tự thân Phù Sai thống lãnh chống trả nhưng thế cùng lực kiệt, đại bại không còn manh giáp, các Đại tướng như Tào Cô, Tư Môn Sào đều tử trận. Phù Sai rút vào thành cố thủ, bất đắc dĩ phải sai Công Tôn Lạc làm sứ giả sang quân doanh nước Việt cầu hòa lần nữa.
Lời lẽ của Công Tôn Lạc rất nhũn nhặn, chịu hết những điều kiện sỉ nhục khiến Câu Tiễn nghĩ đến lúc sa cơ của mình trước kia cũng xúc động, đã toan bằng lòng thì Phạm Lãi bước ra ngăn cản, nói:
– Không được, thần đã từng chủ trương thời cơ chỉ đến một lần, cần lợi dụng thời cơ ấy để tiêu diệt tận gốc ngọn. Nay nếu chúa công chấp nhận cầu hòa thì thần e rằng chỉ trong vòng 5 năm, mối nhục Cối Kê sẽ tái diễn.
Nghe đến tên Cối Kê, bao nhiêu oán hờn bừng dậy, Câu Tiễn liền cự tuyệt đề nghị giảng hòa của Phù Sai. Thế nhưng Phù Sai không còn cách nào khác, một mặt cố chống đỡ, một mặt vẫn sai sứ giả đến thuyết phục xin cầu hòa, đi lại đến 7 lần vẫn không sao lung lạc được Câu Tiễn, Công Tôn Lạc phải vừa bưng mặt khóc vừa cùng phái đoàn sứ giả trở về thành. Tuy nhiên, thành Cô Tô vẫn còn rất vững chắc, nhiều lần quân Việt không tấn công mà sao phá nổi khiến Phạm Lãi vô cùng lo lắng.
Chợt một đêm Phạm Lãi và Văn Chủng cùng mơ một giấc mộng giống hết như nhau, đó là Ngũ Viên mũ áo chỉnh tề như lúc còn sống, đến nói rằng: “Nước Ngô đã hết mệnh, ta tuy là trung thần của Ngô nhưng vẫn không sao cãi được số trời. Các ông cứ dẫn quân theo Đông môn thì sẽ đoạt được thắng lợi”. Nói xong hồn của Ngũ Viên biến mất. Sáng hôm sau Văn Chủng và Phạm Lãi kể lại cho nhau nghe, hết sức kinh ngạc nhưng vẫn tiến hành theo lời chỉ dẫn của Ngũ Viên.
Chẳng biết tại sao hay là quả do trời định mà Đông môn lúc ấy không hề có quân nước Ngô canh giữ, đại quân của Phạm Lãi tràn vào hết sức dễ dàng. Cuộc tiến công này bất ngờ đến mức lúc ấy Phù Sai chưa kịp ăn cơm, đành để bụng đói cùng một số quân tướng quần thần chạy đến Dương sơn. Bá Hi không chạy theo vị vua sắp mất nước mà mau lẹ đầu hàng quân Việt để bảo toàn tính mạng.
Khi ấy quân Việt đã vây chặt Dương sơn, Phù Sai không còn cách nào khác đành phải buộc thư xin đầu hàng vào đầu mũi tên bắn ra ngoài thành. Lần này Câu Tiễn cũng toan chấp nhận nhưng Phạm Lãi cương quyết phản đối, đáp lại bằng một bức thư khác hạch ra 6 tội lớn của Phù Sai, mà trong đó tội thứ 6 là “quên kẻ thù của tiên vương, tức tội bất hiếu không thể tha thứ”. Phù Sai đọc xong thư của Phạm Lãi, quá hổ thẹn, tự đâm cổ mà chết. Trước đó Phù Sai cũng
nhớ tới Ngũ Viên, phải lấy lụa che mặt để khi chết không dám nhìn Ngũ Viên nơi chốn suối vàng nữa.
Đây chính là kế sách khích động của Phạm Lãi khiến Phù Sai phải tự xử, Câu Tiễn không phải xuống tay giết chóc mà mang tiếng với chư hầu. Sau khi Phù Sai chết rồi, quân tướng dưới quyền đương nhiên tan rã, quân Việt không tốn xương máu vẫn ung dung chiếm được toàn bộ nước Ngô. Câu Tiễn làm lễ an táng Phù Sai rất trọng hậu, theo lễ nghi vương hầu ở ngay Dương sơn, nơi mà trước kia Phù Sai rất thích đến đó hưởng lạc. Riêng Bá Hi là tên gian thần đáng khinh, Câu Tiễn liền xuống lệnh giết toàn bộ gia tộc của hắn để làm gương cho các tôi thần.
Nhờ chiến công lừng lẫy này, Câu Tiễn được các chư hầu nể sợ mà tôn lên làm Bá chủ, đồng thời cũng được Thiên tử nhà Chu mời về triệu kiến. Công thành danh toại xong, Câu Tiễn cũng giống như các vị Vương hầu khác, bắt đầu cho xây dựng nhiều cung điện lâu đài, tráng lệ nhất là Hạ đài ở ngay Cối Kê.
Phạm Lãi có công lớn nên được phong làm Đại tướng, nắm hết binh quyền trong tay. Thế nhưng ông là người minh trí, tự biết “thỏ chết thì ná cũng dẹp bỏ” nên tự ý từ chức, cáo quan về quê tĩnh dưỡng tuổi già. Câu Tiễn đời nào để mất một danh tướng như Phạm Lãi, vả chăng nếu so ra thì ông vẫn còn tráng kiện khỏe mạnh, đâu đến nỗi phải dưỡng già nên nhất quyết không chấp nhận việc từ quan. Phạm Lãi mấy lần thỉnh cầu không được, một đêm đột ngột cùng gia quyến đi một chiếc thuyền nhỏ qua ngã Tề Nữ môn, thẳng đến Ngũ hồ. Câu Tiễn toan mang quân đuổi theo nhưng Văn Chủng can gián, nói rằng:
– Phạm tướng quân là người đa mưu túc trí, một khi đã bỏ đi như vậy tất đã bố trí sẵn sàng nhiều phương án nghi binh. Đại vương muốn truy đuổi cũng vô ích mà thôi. Câu Tiễn nghe hữu lý, thở dài, bãi bỏ việc này. Sau khi Phạm Lãi đi rồi, Văn Chủng nhận được một bức thư của ông khuyên nên ưu thời mẫn thế, biết rút lui đúng lúc. Văn Chủng đọc xong chỉ biết thở dài, mãi đến khi Câu Tiễn ngỏ ý nghi ngờ, nói:
– Ta nghe Tướng quốc có đến 7 kế sách để diệt nước Ngô, nay mới dùng có 3 đã thành công hoàn toàn. Vậy 4 kế sách còn lại là gì? Phải chăng để đối phó với ta? Ta nghĩ rằng Tướng quốc nên đem 4 kế sách ấy xuống tuyền đài mà sử dụng.
Nói xong, Câu Tiễn để lại thanh bảo kiếm rồi ra về. Văn Chủng ngửa mặt lên trời than thở: – Ta không nghe lời Phạm tướng quân, nay chết là đáng lắm rồi.
Sau đó Văn Chủng tự đâm cổ mà chết. Riêng tung tích của Phạm Lãi có nhiều giả thuyết khác nhau, người thì quả quyết đã nhìn thấy ông cùng với Tây Thi rong chơi Ngũ hồ, đôi trai tài gái sắc thực hiện lại lời thề năm nào trước khi đến nước Ngô. Cũng có giả thuyết cho rằng Phạm
Lãi đem Tây Thi về ở chung, ngày ngày mê đắm khiến Phu nhân nổi cơn ghen, bí mật sai thị tì bắt Tây Thị buộc đá ném xuống sông dìm chết. Vì vậy Phạm Lãi mới chán nản từ quan, đi tìm niềm vui nơi sông nước để quên đi mối tình dang dở với mỹ nhân.
Theo một giả thuyết khác thì Phạm Lãi đến đất Tề, đổi tên thành Chi Di Tử Bì và làm quan tới chức Thượng khanh, sau một thời gian mới qui ẩn ở Đào sơn, xưng là Đào Chu công, chuyên viết sách mà nay còn truyền tụng một cuốn của ông tên là “Trí phú kỳ thứ’. Theo giả thuyết này thì cuối đời ông mất ở đất Đào nhưng không ai biết rõ ngày tháng.
Trong bộ Sử ký của danh gia Tư Mã Thiên có một đoạn viết về Phạm Lãi, cho rằng: “Ông là vị danh tướng kiêm thông văn võ, biết thời thế, ba lần dời chỗ ở mà vẫn thành công, làm đến Thượng khanh rồi sau đó nổi danh buôn bán thịnh vượng”. Như vậy Phạm Lãi xứng đáng là một Đại danh tướng không ai bì kịp bởi lối sống rất hài hòa giữa danh và lợi; làm việc và vui chơi; sắt đá nghiêm minh nhưng đồng thời lại đa tình, biết thương hoa tiếc ngọc.
Tương truyền có một câu chuyện có thể biểu hiện trí tuệ của ông phi phàm khác người. Đó là lúc Phạm Lãi ở nước Sở, lấy tên Đào Chu công, gia sản nhờ buôn bán lên tới hàng triệu, giàu có khắp chư hầu không ai sánh bằng. Thế nhưng người con thứ của ông vô tình phạm tội giết người, bị xử phải đền mạng.
Phạm Lãi vốn quen biết với Tướng quốc nước Sở là Trang Sinh, nghĩ rằng ông ta có thể cứu vãn được nên định sai người con út đem số vàng cực lớn là 1000 dật (tức khoảng 24.000 lượng) để chuộc tội chết cho con. Thế nhưng người vợ nhất định sai người con trưởng đi làm việc này. Bất đắc dĩ Phạm Lãi phải nghe theo. Người con trưởng đem vàng đút lót cho Trang Sinh, ông này liền lấy cớ nước Sở xuất hiện quá nhiều điềm xấu nên đề nghị Sở vương ban lệnh đại xá. Sở vương nghe theo, hạ lệnh tha hết các tù nhân, kể cả người bị tội chết.
Tiếc rằng người con trưởng của Phạm Lãi quá thiển cận, khi nghe tin Sở vương đại xá thì nghĩ rằng Trang Sinh chẳng có công lao gì, lập tức quay lại đòi vàng. Thật ra Trang Sinh không tức giận vì mất số vàng mà hổ thẹn vì nghĩ rằng đã bị đứa trẻ lừa gạt, lập tức vào triều tâu lại:
– Tôi nghe đồn rằng hiện có người con của Đào Chu công đem số vàng lớn đến đây để đút lót cho Đại vương ban lệnh đại xá thiên hạ. Như vậy chính họ Đào được phúc chứ không phải Đại vương. Lệnh đại xá đã được ban ra, làm vua không nói đùa, bây giờ Đại vương cứ cho thi hành, chỉ riêng người nhà họ Đào không tha thứ, tất thiên hạ sẽ biết ai là người nhân đức ngay.
Sở vương liền nghe theo, sai tiếp tục thi hành lệnh đại xá nhưng riêng người con thứ của Phạm Lãi thì đem ra chém không tha. Khi người con trưởng đem thi hài em về nhà, người mẹ khóc ngất không thôi. Phạm Lãi thong thả nói:
– Sở dĩ tôi muốn sai đứa út đi là vì nó sinh ra lúc nhà giàu sang, như vậy sẽ không tiếc rẻ số vàng quá lớn. Còn đứa lớn sinh ra lúc còn khó khăn, tất có tính tiết kiệm, vì thế chắc chắn sẽ tiếc rẻ mà đòi lại số vàng đó. Nó đem xác đứa em về là đúng lắm rồi.
Có nhiều người đọc câu chuyện này chê trách là Phạm Lãi “có thể phục hưng được cả nước Việt mà không đủ khôn ngoan cứu con mình”. Thật ra câu chuyện chưa chắc đã là thật sự, chỉ nói lên một điều: “Phạm Lãi không những là danh tướng nhiều mưu trí mà còn là một người minh trí, biết xét đoán mọi việc rất rõ ràng, đến ngay cả Văn Chủng cũng phải nể nang khen ngợi. Ông cũng đã bố trí kế sách thoát khỏi sự truy bắt của Câu Tiễn hết sức tài tình thì tại sao lại để cho vợ mình giết chết Tây Thi, người mà ông vẫn hằng yêu mến, thề non hẹn biển từ khi chưa hiến thân cho Phù Sai?
Có lẽ câu chuyện Tây Thi bị người vợ cả ghen dìm chết dưới sông cũng là do Phạm Lãi tung tin ra chăng? Một khi Tây Thi đã chết thì sẽ không còn ai chú ý tới và ông sẽ cùng giai nhân vui hưởng hạnh phúc suốt đời? Dù là giả thuyết nào đi nữa, suốt chiều dài lịch sử phong kiến cổ đại Trung Hoa chưa hề có vị danh tướng nào vừa đạt chiến công vang dội vừa biết tìm hạnh phúc cho mình hài hòa như Phạm Lãi. Hậu thế phải nghiêng mình kính phục tài trí quân sự của ông, đồng thời cũng ngưỡng mộ cách sống của một người quân tử Trung Hoa đúng nghĩa.
3
BẠCH KHỞI
CHẾT VÌ DANH TIẾNG
Cuối thời Xuân Thu Chiến quốc tình hình chiến tranh càng thêm khốc liệt bởi lúc đó hầu như nước nào cũng không giấu dã tâm thôn tính của mình. Trong số “Thất Hùng” (7 nước lớn mạnh nhất) thì Tần là một quốc gia có quân đội hùng hậu hơn hẳn, lại được một mưu sĩ kiệt xuất tên là Phạm Thư phò tá nên Tần vương càng lộ rõ tham vọng của mình. Các nước thi nhau phát triển quân binh, thu nạp tướng giỏi và cũng không ít người thành danh trong thời kỳ này. Tuy nhiên, nếu nước Triệu có một Liêm Pha lão tướng tài danh thì nước Tần cũng có một danh tướng còn nổi tiếng hơn nữa với nhiều trận đánh hào hùng dữ dội, đó là Bạch Khởi. Thế nhưng Bạch Khởi đồng thời nổi tiếng về các trận đánh thần tình nhưng cũng không ít tiếng xấu vì ông quá tàn nhẫn, nhất là trong trận Trường Bình nổi tiếng với quân nước Triệu.
Bạch Khởi là người huyện Mi của nước Tần. Ngay từ khi còn nhỏ, Bạch Khởi đã tỏ ra là người thích quân sự, rất thường hỏi phụ thân về binh pháp, nếu không thỏa mãn ông ra sức tìm tòi các sách vở viết về việc quân để học hỏi. Sau khi lớn lên, trong tình trạng các nước giao tranh liên miên, đó là cơ hội để ông biểu lộ được tài năng quân sự của mình. Quả nhiên trong suốt 37 năm cầm quân tham gia các chiến trận ông đã trải qua không biết bao nhiêu trận đánh lớn nhỏ,
có lúc vào sinh ra tử nhưng gần như chưa có trận nào bị thua. Nhiều chuyên gia nghiên cứu về Bạch Khởi đưa ra con số thống kê: đánh phá khắp 4 nước chư hầu Ngụy, Hàn, Triệu và Sở, giết chết hàng 100 vạn quân tướng lớn nhỏ, hạ hơn 70 thành trì. Chiến công to lớn này của ông giúp cho nước Tần bước đầu làm chủ bốn phương và tiến đến thống nhất lãnh thổ, gồm thâu lục quốc. Thân phụ của Bạch Khởi cũng là tướng quân, rất hâm mộ danh tướng Ngô Khởi thời trước nên đã đặt tên cho ông theo vị danh tướng ấy. Do vậy rất nhiều người đã lầm lẫn giữa Bạch Khởi với Ngô Khởi, một danh tướng người nước Vệ gắn liền với điển tích “giết vợ cầu công danh”.
Riêng trong thời điểm Bạch Khởi còn sống, nước Sở lớn mạnh ngang hàng với Tần và cũng có tham vọng không kém. Thế nhưng kể từ khi Bạch Khởi cầm quân, hầu như nước Sở lâm vào thế thụ động, dần dần suy yếu rồi sau cùng cũng bị nước Tần chinh phục. Với những công lao hãn mã ấy, Bạch Khởi lên tới chức Nguyên soái, được Tần vương phong tước là Võ An quân.
Bước đầu tiên vào năm 294 trước Công nguyên Bạch Khởi chỉ giữ chức Tả Thứ trưởng
nhưng sau khi tấn công chiếm được đất Tân Thành của Hàn, ông bắt đầu nổi danh với nhiều mưu lược quyền biến. Lúc đó Tướng quốc nước Tần là Ngụy Nhiễm có mắt tinh đời, nhận ngay ra tài năng kiệt xuất về quân sự của Bạch Khởi, hết lời tiến cử với Chiêu Tương vương của Tần và được thăng lên làm Tướng quân.
Được Ngụy Nhiễm để ý tới, chẳng bao lâu sau Bạch Khởi lại được tin tưởng cho thống lãnh một đội quân lớn đối phó với liên quân Hàn và Ngụy tại núi Y Khuyết. Một trận chiến nhiều khó khăn và cũng là trang sử oai hùng của Bạch Khởi bắt đầu vang dội.
Khi ấy nhờ liên kết nên quân hai nước Hàn Ngụy rất đông, nhiều tướng soái mà không ít người đã nổi danh từ lâu. Thế nhưng với số quân ít hơn nhiều lần, Bạch Khởi vẫn can đảm đối địch, không dùng sức mạnh mà đưa ra kế sách đánh phá từng phần một dựa vào tâm lý các tướng hai nước không đồng lòng đoàn kết, ai cũng muốn bảo toàn lực lượng, đùn đẩy dể quân nước khác phải xông pha hao tổn.
Nhân ra tình thế có lơi cho mình, Bạch Khởi liền nhắm vào quân nước Hàn trước tung tin đồn là không dám đối đầu với quân tướng nước Ngụy. Thế nhưng sau khi tiêu diệt được quân Hàn, đột ngột Bạch Khởi cho quân tấn công quân Ngụy như vũ bão. Quân Ngụy không ngờ tới đành chịu đại bại, khi ấy số quân còn lại của Hàn cũng rất đông nhưng nghe tin lập tức táng đởm
kinh hồn, thi nhau rút chạy.
Bạch Khởi vốn chủ trương “đã đánh thì phải đánh đến nơi đến chốn” nên lập tức cho quân truy kích giết được hơn 24 vạn quân Hàn và Ngụy. Đồng thời ông cũng bắt sống được Công tôn Hỷ của nước Ngụy, liên tiếp hạ luôn mấy thành trì mới chịu ngưng tay. Với chiến công này, danh tiếng của Bạch Khởi bắt đầu được các triều đình chư hầu nhắc tới. Tần Chiêu Tương vương cũng hài lòng không kém, gọi về triều thăng lên làm Quốc úy.
Nhờ chiến trận này, Tần Chiêu Tương vương hiểu rõ thêm một điều: không cần tới quân số đông đảo vẫn có thể chiến thắng, nếu như có tướng lãnh tài giỏi lãnh đạo, đồng thời thực lực hai nước Hàn và Ngụy cũng không ghê gớm như sự lo lắng của mình. Do đó, vào năm Tần Chiêu Tương vương thứ 15 (tức năm 292 trước Công nguyên), Tần vương muốn thôn tính hai nước láng giềng nằm bên cạnh đã đặc phái Bạch Khởi mở chiến dịch tấn công, mau chóng chiếm
được đất Viên trù phú của Hàn.
Do Bạch Khởi liên tục lập được kỳ công, Tần Chiêu Tương vương đã thăng ông lên chức Đại Lương Tạo, là chức quan lớn nhất chuyên trách về quân sự của triều nhà Tần. Nắm binh quyền trong tay cũng đồng thời được nhiều người nể sợ mặc dù ngôi vị cao nhất vẫn là Tướng quốc. Với tham vọng ấy, Tần vương không chờ đợi lâu, qua năm sau lại tiếp tục sai Bạch Khởi đi đánh nước Hàn lần nữa và ông cũng mau chóng chiếm được đất Uyển, một vùng đất hết sức
quan trọng bởi có nhiều mỏ kim loại cung ứng làm võ khí cho quân đội, nền tảng cho quân nước Tần sau này đủ sức cùng lúc đánh chiếm cả 6 nước.
Dù Hàn và Ngụy đã nhận ra sức mạnh của quân Tần, chấp nhận dâng một số đất đai nữa theo yêu cầu nhưng như vậy vẫn chưa đủ, vào năm 289 trước Công nguyên, một lần nữa Bạch Khởi nhận lệnh Tần vương xua quân qua nước Ngụỵ. Lần này ông đã là Thượng tướng nên cầm đầu đoàn quân cũng tương xứng, tức là đông đảo hơn những chiến dịch trước nhiều. Với tài chỉ
huy của Bạch Khởi, quân Tần tiến như chẻ tre, liên tiếp hạ được 61 thành khiến nước Ngụy phải co cụm về một góc, hầu như mất gần hết đất đai.
Thế nhưng nước Hàn và Ngụy được tạm yên một thời gian bởi khi ấy tình hình nước Tề xảy ra nhiều biến cố. Tề Mân vương lên ngôi rồi, tiến hành nhiều việc tàn ác, cho quân đánh chiếm nước Tống, bắt các nước nhỏ như Vệ, Trần, Lỗ phải thần phục và triều cống. Tề Mân vương còn ngang ngược toan lấy luôn 9 cái đỉnh của Thiên tử nhà Chu, đồng thời giết hại công thần rất
nhiều nếu mở lời khuyên ngăn.
Nặng nề nhất là Yên Chiêu vương với mối thù không đội trời chung với Tề, không tiếc tiền bạc chiêu hiền đãi sĩ, cuối cùng thu nhận được một danh tướng tên là Nhạc Nghị. Để tiến hành việc đánh Tề báo thù, Nhạc Nghị đề nghị yên Chiêu vương nên kết hợp với ba nước Triệu Hàn và Ngụy. Nước Tần thấy vậy cũng lợi dụng xin được cùng kết hợp, sai Bạch Khởi làm Đại tướng quân, Nhạc Nghị làm Thượng Tướng quân chỉ huy quân binh 5 nước.
Năm 284 trước Công nguyên, Yên Chiêu vương tập kết binh lực trong toàn quốc, rồi hợp nhau với các quân đội các nước Tần, Triệu, Ngụy và Hàn ồ ạt tấn công nước Tề. Tuy Tề Mân vương có quân binh rất hùng hậu nhưng làm sao chống nổi với liên quân 5 nước dưới sự chỉ huy tài ba của hai danh tướng Bạch Khởi và Nhạc Nghị, liên tiếp bị đại bại, chết vô số kể. Danh tướng Hàn Nhiếp của Tề cố sức gom góp quân tướng chống đỡ nhưng vẫn bị em của Nhạc Nghị là Nhạc Thừa giết chết. Thế là quân Tề đại loạn, Tề Mân vương phải chạy về Lâm Tri cố thủ, đồng thời cầu cứu nước Sở.
Quân Sở chưa thấy đâu mà Lâm Tri rúng động bởi các thành chung quanh đều bị chiếm giữ hết, không còn tiếp tế nên cuối cùng Tề Mân vương phải bỏ chạy sang Vệ rồi đến Lỗ. Khi đến nước Trâu, Tề Mân vương bị đóng cửa đuổi đi, đành phải quay về Cử châu, cố thủ nơi Tức Mặc có dũng sĩ là Điền Đan đang cố thủ.
Lúc đó Nhạc Nghị đã liên tiếp chiếm được 72 thành của nước Tề, chỉ còn lại 2 thành Cử châu và Tức Mặc. Khi đã xong, quân Tần và Hàn đều rút về nước, để Yên Chiêu vương tự xử việc nước Tề. Đây không phải là hành động nhân nhượng nước Yên mà trong ý Tần vương thì nước Sở mới là kình địch đáng tiêu diệt, những nước nhỏ như Yên, Triệu nằm trong kế hoạch
thôn tính sau.
Trước tiên Tần vương ký kết với Triệu một hòa ước để khỏi phải đề phòng cạnh sườn rồi mới xuống lệnh sai Bạch Khởi dẫn đại quân tiến đánh nước Sở. Quân Tần chia thành hai đường, một đường do Bạch Khởi chỉ huy, từ vùng Hán Bắc tiến xuống phía nam, toan tính trước tiên chiếm lấy Yên thành rồi chiếm Sính Đô. Một đường khác do tướng giữ đất Thục là Trương Nhược chỉ huy, từ Tứ Xuyên tiến xuống tấn công các đất Vu, Tạc, Kiềm, rồi theo Trường giang tiếp tục tiến xuống phía đông, phối hợp với quân của Bạch Khởi chia cắt quân Sở thành hai phần không còn liên kết với nhau được nữa.
Thế nhưng Yên thành là một căn cứ địa hết sức quan trọng của Sở, nếu để mất thì Sính Đô chắc chắn không giữ vững được, do vậy Bạch Khởi gặp sự chống cự mạnh mẽ của quân binh nước Sở, lại được Sở vương tăng cường rất đông tinh binh và danh tướng nên ông đành phải bao vây, toan tính kế sách khác, không thể trực diện tấn công.
Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến, lại thông thuộc binh pháp, Bạch Khởi quyết định dùng thủy công để triệt phá Yên thành. Nguyên thành nằm gần con sông cũng có tên là Yên thủy nằm giữa hai ngọn núi nên dòng nước chảy rất xiết. Bạch Khởi liền sai quân sĩ ngăn dòng sông, sau khi nước đã dâng thật cao mới bất ngờ phá đập. Thế là dòng nước lũ kinh người ào vào thành, cuốn trôi toàn bộ những vật cản trở, kể cả tường thành lẫn nhà cửa dân chúng, lâu đài gác thự. Nhân cơ hội ấy Bạch Khởi cho quân ào ạt tiến lên và chẳng khó khăn gì cũng chiếm được Yên thành bởi quân dân lo chạy chết nước lũ còn chưa xong, không hề còn tinh thần chống trả.
Cửa ngõ đã mở, Bạch Khởi mau chóng cho quân tiến chiếm An Lục rồi thẳng đường tới Sính Đô. Quân Tần đi tới đâu quân nước Sở tan rã bỏ chạy đến đó, giết chết vô số kể. Với chủ trương tận diệt không để đối phương có cơ hội phục hồi sức mạnh, Bạch Khởi truy sát đến tận Động Đình hồ mới tạm dừng. Trên con đường hành quân, khi qua Di Lăng, Bạch Khởi cho quân sĩ nổi lửa đốt cháy toàn bộ đình miếu lâu đài, tiêu hủy lăng mộ các đời vua Sở.
Quá sợ hãi trước sức mạnh của quân Tần, Sở vương không còn cách nào khác là phải cùng quần thần bỏ chạy đến đất Trần, bỏ mặc Sính Đô cho người Tần thành lập quận huyện. Đây là chiến công lớn lao nhất nên sau khi bình định xong vùng đất Sở đã chiếm được, Tần vương lập tức phong cho ông tước Võ An quân và kể từ đó để kính trọng ông, người ta thường gọi bằng tước hiệu chứ không gọi bằng tên thật.
Việc Bạch Khởi chiếm Sính Đô, đánh dấu giai đoạn hoàn toàn suy sụp của nước Sở. Từ đó trở đi, nước Sở không còn là một cường quốc nữa và cũng không còn là một kình địch quan trọng với nước Tần như trước. Bạch Khởi đã xóa bỏ được một chướng ngại lớn để thống nhất thiên hạ cho nước Tần sau này, nếu xét công lao của ông thì rất xứng đáng là công thần bậc nhất
của triều Tần.
Sau khi tiêu diệt xong nước Sở, Tần vương lại bắt đầu quay về phía tây. Khi đó hai nước Hàn và Ngụy không còn là đối thủ nữa, duy nhất chỉ còn lại nước Triệu với khá nhiều danh tài phò tá như Mạnh Thường quân, Tín Lăng quân, v.v... Lúc ấy nước Triệu cũng lo lắng về hiểm họa nước Tần nên đã cùng với nước Ngụy liên kết bảo vệ dọc biên cương. Thế nhưng vào năm 273 trước Công nguyên, Bạch Khởi nhận lệnh của Tần Chiêu Tương vương, bất ngờ tiến đánh Hoa Dương. Đây là vùng đất hết sức quan trọng, được liên quân Triệu-Ngụy bảo vệ nhưng họ quá lơ đễnh bởi còn cách đất Tần khá xa. Lần này Bạch Khởi dùng kế sách “tốc chiến tốc thắng” bí mật cho quân tiến nhanh như vũ bão khiến các tướng Triệu-Ngụy không kịp trở tay, đến mức Bạch Khởi bắt sống được một lúc 3 tướng lãnh, số binh sĩ Triệu-Ngụy chết thôi vô số.
Thừa thắng xông lên, khi chưa kịp ổn định Hoa Dương, Bạch Khởi lại tiếp tục tiến đánh đoàn quân chủ lực của nước Triệu do Giả Yển chỉ huy. Đã biết tin tức những trận vừa qua, vừa nghe thấy tên Bạch Khởi, quân nước Triệu đã hoảng loạn, thi nhau bỏ trốn nên quân Tần càng hăng hái, cuối cùng dồn hơn hai vạn quân nước Triệu lọt vào thế phải vượt sông tìm đường thoát, chết đuối không biết bao nhiêu mà kể. Chính Ngụy Nhiễm cũng tự thân dẫn quân đi đánh chiếm được đất Kiềm Trung thành ra nước Sở hầu như đã bị xóa tên danh sách các nước hùng mạnh.
Con đường công danh của Bạch Khởi có thể còn tiếp tục dài thêm nếu như không có một biến chuyển chính trị trong nội bộ triều Tần, đó là việc mưu sĩ Phạm Thư, tên tự là Thúc vượt bao gian khổ mới đến được nước Tần và được Tần vương trọng dụng. Phạm Chuy chính là người đối đầu với Ngụy Nhiễm và cũng là người hại chết Bạch Khởi sau này.
Ngay lần đầu tiên được Tần vương tiếp kiến Phạm Thư đã vạch rõ những sai lầm của Ngụy Nhiễm:
– Nước Tần có địa thế hết sức hiểm trở, giáp binh hùng cường vậy mà không sao làm nên bá chủ, tất cả đều do các đại thần toan tính sai lầm. Thí dụ như Nhương hầu (Ngụy Nhiễm) sắp đem quân vượt ngàn dặm, vượt qua đất Hàn, đất Ngụy chỉ vì muốn đánh Tề thì là việc có hại, lợi cho Hàn, Ngụy mà hại cho Tần. Nếu thắng thì cũng tổn phí quá nhiều, bằng như thua thì là nhục lớn,
bao nhiêu công sức bấy lâu nay đều vô ích. Theo tôi thì muốn kiêm tính thiên hạ thì chẳng gì hay hơn là áp dụng kế sách “viễn giao cận công”, tức giao hảo với các nước ở xa, thôn tính dần dần các nước ở gần như tằm ăn dâu, chẳng bao lâu thiên hạ sẽ là của Đại vương vậy.
Đã vậy nước Tần hiện nay coi như là của Thái hậu và Nhương hầu thì Đại vương có chí lớn đến đâu cũng chỉ là kẻ lệ thuộc mà thôi.
Tần vương như người ngủ mơ mới tỉnh, lập tức ngày hôm sau cách chức của Ngụy Nhiễm, đuổi các cận thần của Thái hậu ra ngoài cửa quan, riêng bà ta thì bị an trí không cho dự bàn chính trị nữa. Đồng thời Tần vương cũng phong cho Phạm Thư làm Ứng hầu, thay chức của Ngụy Nhiễm.
Theo kế sách của Phạm Thư, Tần vương triệu đoàn quân của Bạch Khởi khi ấy đang ở nước Tề trở về để sửa soạn đánh chiếm hai nước Hàn và Ngụy ở phía đông. Năm 264 trước Công nguyên, Bạch Khởi tuân lệnh Tần vương tiến đánh nước Hàn, giết được hơn 5 vạn quân địch, chiếm một lúc 5 thành trì bao gồm cả một phần nhỏ của nước Tấn nằm sát cạnh. Có thể thấy rõ, càng tham gia chiến trận Bạch Khởi càng phát huy hết sở trường quân sự của mình, hầu như chưa có trận nào thua thiệt mà luôn luôn áp dụng phương châm “tốc chiến tốc thắng” cũng như “diệt tận gốc ngọn” khiến bất cứ nước chư hầu nào nghe thấy tên của ông đều kinh hồn bạt vía. Những trận đánh này mở đầu cho một chiến công lừng lẫy trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, đó là trận Trường Bình.
Trước đó Tần vương vẫn theo kế sách “viễn giao cận công” kết giao với nước Tề và Sở rồi mới ban lệnh cho Bạch Khởi xuất quân đi đánh nước Hàn. Bạch Khởi mau chóng chiếm được đất Giã Vương rồi tiến thẳng đến Thượng Đãng. Tướng chỉ huy ở Thượng Đãng là Phùng Đình liệu bề khó có thể chống giữ, liền dâng Thượng Đãng cho nước Triệu, hy vọng nhờ kế sách này nước Tần sẽ tức giận Triệu mà khoan cho nước Hàn. Bình Dương quân ở Triệu hết sức can ngăn, bày rõ đó là kế “giá họa” của Phùng Đình nhưng một công thần khác là Bình Nguyên quân Triệu Thắng lại ủng hộ nên cuối cùng Triệu vương vui vẻ tiếp nhận đất Thượng Đãng, phong cho Phùng Đình làm Hoa Lăng quân, ban cho 3 vạn hộ thực ấp.
Phùng Đình không dám nhận tước Hoa Lăng quân mà xin được trấn giữ Thượng Đãng. Mặc dù Phùng Đình đã cố xin Bình Nguyên quân khi trở về triều đình mau mau cho quân tiếp viện nhưng vua tôi nước Triệu quá vui mừng mà quá chậm trễ trong việc tiếp ứng cho Phùng Đình. Trong khi ấy Tần vương nghe tin Phùng Đình đã dâng thành cho Triệu thì nổi giận, xuống lệnh cho Vương Hạt bằng bất cứ giá nào phải chiếm được Thượng Đãng, nếu bắt sống được Phùng Đình đem về Tần trị tội thì càng có công lớn.
Phùng Đình cũng là một nhân tài nên chỉ huy quân đội chống cự với Vương Hạt rất kiên cường, trải qua hơn 2 tháng mà quân Tần vẫn không sao triệt phá được thành Thượng Đãng. Phùng Đình cố sức chống đỡ là vì hy vọng quân Triệu sẽ tới tiếp viện, hai đầu cùng đánh mới mong đẩy lùi được quân Tần. Thế nhưng trải qua hơn 2 tháng không hề thấy bóng quân Triệu đâu, quân nước Hàn bắt đầu thối chí khiến Phùng Đình cũng không sao chỉ huy được nữa, đành phải bỏ thành chạy về biên giới nước Triệu.
Lúc ấy Triệu vương mới kinh sợ, vội sai lão tướng Liêm Pha điểm 20 vạn quân Triệu cấp tốc chi viện. Tiếc thay, khi Liêm Pha đến địa phận Trường Bình thì gặp Phùng Đình và biết tin Thượng Đãng đã rơi vào tay Vương Hạt. Liêm Pha liền dùng kế sách cố thủ, cho quân binh trải dài theo chiến tuyến, đồng thời sai đào giếng tìm nước làm kế lâu dài, chờ khi nào quân Tần mỏi mệt, thiếu thốn lương thực thì sẽ phản công sau. Lão tướng Liêm Pha rất nhiều kinh nghiệm, bố trí chiến lũy dày đặc, cắt cho Phùng Đình 3 vạn quân giữ thành Quang Lăng; sai hai tướng Cáp Phụ và Cáp Đồng giữ Chương thành làm thế liên kết.
Đồng thời Liêm Pha cũng sai tướng Triệu Giã đem một số quân đi thám thính tình hình đối phương.
Tuy lệnh chỉ đi thám thính nhưng Triệu Giã thấy Tư Mã Ngạnh của Tần thì rất khinh địch, lập tức giao chiến, kết quả bị rơi vào thế mai phục của Trương Đường, chết tại trận. Nhân cơ hội ấy quân Tần theo kế sách của Bạch Khởi, không vội đánh thẳng vào chiến lũy Trường Bình mà chia nhau ra đánh các thành nhỏ. Khi đã hạ xong Chương thành, đánh đuổi Phùng Đình khỏi Quang Lăng, tất cả quân Tần liền hội tụ ở chiến lũy Kim Sơn môn, bao vây Liêm Pha trùng trùng điệp điệp. Liêm Pha còn ra lệnh:
– Bất cứ ai bàn việc xuất quân đều bị chém đầu không tha.
Do vậy dù Vương Hạt cố sức khiêu chiến, nhục mạ đủ điều, quân Triệu vẫn án binh bất động. Mỗi khi quân Tần nóng nảy tấn công thì đều bị thương vong bởi sự cố thủ nghiêm mật của Liêm Pha. Ông là danh tướng trụ cột của nước Triệu, tuy tuổi đã cao vẫn còn đủ kinh nghiệm đối phó khiến quân Tần nhiều phen vất vả mà đành chịu chôn chân một chỗ.
Thấy Vương Hạt bó tay ngồi thở dài, một thuộc tướng dưới quyền liền hiến kế: – Phía dưới Kim Môn có con sông nhỏ tên là Dương Cốc, cả chúng ta lẫn quân Triệu đều phải sử dụng nước của con sông ấy. Nếu bây giờ chặn dòng chảy thì có thể quân Triệu thiếu nước uống, khi ấy chúng ta thừa cơ địch rối loạn sẽ tiến đánh, chắc phải thành công. Vương Hạt nghe theo, thế nhưng Liêm Pha thật nhiều kinh nghiệm, đã cho đào khá nhiều giếng phía trong chiến lũy nên thừa đủ để dùng. Vương Hạt kiên nhẫn chờ luôn mấy tháng, hoàn toàn không thấy quân Triệu loạn động thì vô cùng kinh ngạc, sai người dò xét, khi ấy mới biết tính toán của Liêm Pha cao hơn mình một bậc, đành phải sai người cấp báo tình hình với Tần vương. Tần vương cũng lo lắng không kém, triệu Phạm Thư vào bàn kế sách. Phạm Thư liền tâu:
– Liêm Pha là một tướng tài của nước Triệu, kinh nghiệm chiến trường rất phong phú. Ông ta biết sĩ khí của quân Tần đang lên, không thể giao phong được, nên xây lũy cao đào hào sâu để
cố thủ. Liêm Pha cũng biết quân Tần từ xa kéo đến tất nhiên phải gặp khó khăn về mặt địa lợi, nhân hòa, khó khăn về mặt tiếp tế lương thực, vũ khí nên bao giờ cũng sử dụng phương pháp “tốc chiến”. Vì vậy không loại trừ được Liêm Pha thì không có cách nào khác để đánh bại quân Triệu.
Tần vương càng thêm lo lắng, hỏi:
– Theo Tướng quốc thì phải làm sao?
Phạm Thư ung dung đáp:
– Phải dùng kế phản gián. Xin Đại vương cho tôi một số vàng lớn để thực thi kế sách này. Tuy hao tổn nhưng loại trừ được Liêm Pha thì lo gì không lấy lại được.
Tần vương bằng lòng, giao cho Phạm Thư 1000 nén vàng. Phạm Thư liền sai người thân tín đem số vàng ấy đến Hàm Dương (kinh đô nước Triệu), mua chuộc các quan lại rồi tung tin đồn là Liêm Pha đã quá già yếu, nhút nhát nên cứ cố thủ, không muốn ra đánh, nếu như vị trí chỉ huy nằm trong tay Triệu Quát (con của danh tướng Triệu Xa) thì quân Tần đã nếm mùi đại bại từ lâu rồi. Thật sự Triệu Xa là viên Đại tướng rất tài giỏi của Triệu, nhiều lần dẫn quân đương cự khiến nước Tần không làm gì được. Ông có công hãn mã nên được Triệu vương phong cho chức Mã Phục quân ngang hàng với hai danh thần là Lạn Tương Như và Liêm Pha. Triệu Quát là con của Triệu Xa, tính tình ngông cuồng, trí mưu thấp kém nên mặc dù làu thông binh pháp vẫn không nắm rõ sự quyền biến mới thực là căn bản của chiến trận.
Triệu Quát dựa vào uy thế của cha, càng ngày càng tỏ ra ngông cuồng tự kiêu không coi bất cứ danh tướng nào ra gì. Hắn nhiều lần chê bai từ Liêm Pha cho đến Tín Lăng quân, Mạnh Thường quân, và cho đến cả phụ thân hắn không biết cầm quân, nếu như hắn được làm Đại tướng thì nước Triệu đâu đến nỗi thất thế với các chư hầu. Quá biết tính nết của con, khi Triệu Xa lâm bệnh nặng sắp lìa đời, triều đình định phong cho Triệu Quát thay chức thì Triệu Xa cố gắng dặn dò là không nên để Triệu Quát cầm binh quyền trong tay. Chính ông cũng gọi Triệu Quát đến bên giường bệnh trăn trối. Thế nhưng Triệu Quát không để vào tai, cười mà nói với thuộc tướng:
– Phụ thân của-ta đã già nên đâm ra lẩm cẩm. Nước Triệu đã có ta thì lo gì bị các nước khác uy hiếp. Hiện tại nước Tần ngang dọc là vì ta chưa được nắm binh quyền đó thôi. Lời nói ngông cuồng này rất được Triệu vương tán thưởng nên sau khi Triệu Xa chết, Triệu vương liền cho Triệu Quát thừa kế chức Mã Phục quân, càng làm cho hắn vênh vang tự phụ. Riêng Triệu vương cũng đã mấy lần thúc giục Liêm Pha mở chiến lũy ra giao tranh nhưng vị lão tướng nhất quyết từ chối. Triệu vương rất tức giận việc này, không dám trị tội Liêm Pha nhưng
không sao chịu được. Nay nghe tin đồn nếu có Triệu Quát cầm quân thì quân Tần sẽ sợ hãi mà rút lui thì rất mừng, lập tức triệu Triệu Quát vào hỏi xem kế sách chống Tần. Triệu Quát vênh mặt lên trả lời:
– Nếu quân Tần do Võ An quân (Bạch Khởi) chỉ huy thì Quát này còn phải tính toán đôi phần. Riêng tên Vương Hạt thì chỉ một trận đã đánh cho hắn không còn manh giáp mà chạy về Tần.
Triệu vương cả mừng, không đắn đo gì nữa, lập tức xuống lệnh phong cho Triệu Quát làm Thượng tướng thay chỗ của Liêm Pha. Mẹ của Triệu Quát nghe tin kinh sợ, vội vào triều khuyên can:
– Trước khi mất, lão tướng công của tôi đã dặn đi dặn lại nhất định không nên để thằng Quát cầm quân. Xin Đại vương nghĩ lại.
Thấy Triệu vương vẫn khăng khăng theo ý mình, mẹ của Triệu Quát liền nói: – Đây là ý của Đại vương, không liên quan gì đến gia đình họ Triệu. Nếu như mai này có việc gì xảy ra, xin Đại vương đừng làm liên lụy đến họ Triệu là được rồi.
Triệu vương phải nhận lời, mẹ của Triệu Quát mới chịu lui ra. Riêng Tần vương nghe Phạm Thư báo lại tin này thì cả cười, bí mật sai Bạch Khởi đến cầm quân, vẫn để Vương Hạt xuất đầu lộ diện ra lệnh cho ba quân như trước.
Khi Triệu Quát đến Trường Bình nhận binh phù từ tay Liêm Pha, lập tức cho sửa đổi lại cách bố phòng, tập trung quân mã để quyết chiến chứ không thèm rải đều theo chiến lũy nữa. Liêm Pha rất tức giận nhưng không dám trái mệnh vua, đành phải cùng hơn trăm tùy tùng thân tín trở về Hàm Đan. Sau khi Liêm Pha đi rồi, Triệu Quát lại thay đổi toàn bộ các tướng lãnh, đưa người
của mình vào thay thế. Lúc ấy Phùng Đình cũng có mặt, dùng lời khuyên can nhưng rốt cuộc bị Triệu Quát mắng cho một trận.
Khi đã bố trí xong, Triệu Quát hội tướng sĩ ra hiệu lệnh: “Các người phải sửa soạn tinh thần để sẵn sàng xuất trận. Khi nào xông ra phải đánh cho địch một trận thất điên bát đảo, nếu chúng bỏ chạy cũng không tha, phải truy kích đến cùng. Ai nhút nhát không tuân lệnh sẽ bị chém đầu”.
Riêng Bạch Khởi khi đến nhậm chức, bí mật sai Vương Hạt đem quân khiêu chiến, sau đó lần lượt đến các tướng Vương Lăng, Vương Bôn, lần nào cũng bại trận bỏ chạy khiến Triệu Quát càng thêm nghênh ngang. Riêng Bạch Khởi lén ngồi trên cao quan sát cách hành binh của Triệu Quát, hiểu rõ rồi liền bố trí quân Tần làm 4 cánh trước khi bày trận dụ địch. Theo cách xếp đặt của Bạch Khởi, trước tiên Vương Bôn và Vương Lăng ra giao chiến, giả thua dẫn dụ Triệu Quát đánh thẳng vào trung quân. Triệu Quát đã một lần giao chiến với hai tướng Tần này, rất
khinh thường nên lập tức xua quân đuổi theo truy kích, rốt cuộc bị quân của Hồ Thương mai phục xông ra cắt đứt làm hai phần, không tiếp ứng nhau được nữa.
Trong khi đó hai tướng Tần là Tư Mã Thúc và Tư Mã Ngạnh thì luồn phía sau tiến đánh chiến lũy. Lúc ấy Triệu Quát đã nhận ra mình lọt vào thế trận của địch, kinh hoảng dẫn quân chạy sang phía đông, nghĩ rằng nơi ấy không có quân Tần. Chẳng ngờ Bạch Khởi đã sai hai danh tướng là Mông Vụ và Vương Tiễn chờ sẵn. Quân Triệu đại bại, chết thôi vô số, thây nằm
chật đất. Thế nhưng Triệu Quát vẫn chưa tỉnh ngộ, truyền cho quân chạy đến chỗ có nguồn nước đóng trại, chấn chỉnh để giao tranh tiếp. Phùng Đình vô cùng lo lắng nhiều lần khuyên giải mà Triệu Quát nhất định không nghe theo, còn mắng chửi:
– Việc binh thắng bại là thường. Nay ta mới thua một trận mà người cứ nhất định rút lui thì là làm nản lòng quân tướng. Ta đã ra lệnh nếu ai bất tuân thượng lệnh sẽ bị chém đầu. Ngươi cố mà giữ mạng sống đấy.
Phùng Đình biết có khuyên chỉ mang lấy cái chết oan uổng, từ đó trở đi không thèm mở lời nào nữa.
Ngay lúc ấy lại có tin đích thân Tần vương dẫn đại quân tiếp sức, rải quân đánh khắp vùng để ngăn chặn việc tiếp vận lương thảo càng làm cho tướng sĩ nước Triệu kinh sợ. Không những thế, sau khi đã bao vây Triệu Quát đâu đó, Bạch Khởi liền sai quân trương cờ hiệu của mình lên. Lần này không chỉ tướng sĩ nước Triệu mà chính Triệu Quát khi biết có Bạch Khởi chỉ huy thì cũng rụng rời cả tay chân, muốn bỏ chạy cũng vô phương nữa rồi.
Quân Triệu cố thủ được 46 ngày thì hết lương thực, bắt đầu xảy ra chém giết vì tranh giành thức ăn, số người chết vì đao kiếm không ít mà số người chết đói thì không sao đếm xuể. Triệu Quát mấy lần cho quân đánh ra ngoài tìm đường sống nhưng Bạch Khởi không đấu chiến trực diện mà bố trí cung thủ hết lớp này đến lớp khác. Do vậy quân Triệu chết nhiều mà chẳng sao thoát khỏi trận mưa tên, đành rút lui về chiến lũy như cũ.
Thêm một thời gian ngắn nữa thì tình hình quân Triệu càng thêm thê thảm, đến củi cũng không còn để nấu nước. Triệu Quát túng thế không làm sao được đành phải mặc mấy lớp áp giáp, cùng chư tướng liều chết phá vòng vây. Quả nhiên nhờ giáp dày mà Triệu Quát sắp sửa thoát khỏi vòng vây. Ngờ đâu Bạch Khởi quan sát rất tinh, lập tức hô quân cứ nhắm ngựa mà bắn. Rốt cuộc con ngựa của Triệu Quát bị trúng thương ngã lăn ra đất. Thế là quân Tần ào ào xông đến, chớp mắt đã chém chết Triệu Quát.
Hai viên phó tướng theo hộ vệ Triệu Quát là Phó Bảo và Vương Dụng cũng không thoát khỏi cái chết theo chủ tướng. Trong chiến lũy nhìn ra, Phùng Đình tự biết cuộc chiến đã chấm
dứt, lại biết rằng Tần vương oán ghét mình đã dâng thành Thượng Đãng cho Triệu nên nếu đầu hàng cũng không xong, phải tự đâm cổ chết theo. Quân sĩ dưới quyền thấy mấy chủ tướng cùng chết thì thành đại loạn.
Bạch Khởi xét theo tình hình biết rằng không cần phải đánh nữa cho tốn sức, cho quân kéo cờ chiêu hàng. Toàn bộ quân Triệu lập tức qui hàng, tính ra có đến hơn 20 vạn. Riêng số giáp mã, khí giới quân Tần thu được thì chất cao như núi. Bạch Khởi chia số quân Triệu đầu hàng ra làm 10 trại riêng biệt rồi phái 10 tướng kết hợp với 20 vạn quân Tần để kiểm soát. Bạch Khởi cũng xuống lệnh giết bò ban rượu cho quần Triệu đầu hàng ăn uống. Nhưng đêm hôm đó Bạch Khởi bàn với các tướng:
– Hàng quân của Triệu nếu tính cả trận Giã Vương và Thượng Đãng thì đến hơn 40 vạn. Chúng ta giữ họ sẽ tốn phí lương thực không biết bao nhiêu, lại bó tay không thể tiến quân mau được. Bằng như tha về thì đó là mối họa rất lớn sau này. Đằng nào cũng không được, chỉ còn mỗi cách vẹn toàn mà thôi, đó là giết hết. Tuy sẽ mang tiếng tàn nhẫn nhưng vì đại sự không nên câu nệ.
Các tướng đều đồng ý như vậy. Bạch Khởi liền xuất rượu thịt trong kho ra cho bọn hàng binh uống thật say rồi ngay đêm ấy truyền tướng sĩ canh giữ phải lấy vải trắng buộc ngang đầu làm hiệu. Bất cứ ai không buộc vải trắng trên đầu đều bị giết sạch.
Tuân lệnh Bạch Khởi, chờ khi hàng quân Triệu mê mệt ngủ say, quân Tần nhẹ nhàng tiến vào rồi ra tay chém giết, trong đêm tối mịt mù chẳng ai nhìn rõ ai chỉ có tiếng kêu khóc vang trời, toàn bộ số hàng binh tính ra khoảng 45 vạn đều bị giết sạch. Máu chảy đến mức lan ra toàn bộ đất Dương Cốc, sông suối đều có màu đỏ tanh nồng, tưởng tượng ra cũng đủ rùng mình sởn óc. Bạch Khởi sai quân thu nhặt cái thủ cấp của bọn hàng binh, chất thành ngọn núi cao ngất, gọi là Lâu sơn. Tổng số 45 vạn hàng binh ấy chỉ còn lại 240 người sống sót. Đáng ra Bạch Khởi giết luôn nhưng muốn thi hành kế sách trấn áp tinh thần quân dân nước Triệu nên tha cho về Hàm Đan. Từ đó danh tiếng của Bạch Khởi lan rộng khắp các chư hầu, quân của ông đi đến đâu người ta cũng khiếp sợ bỏ chạy, chưa tướng nào dám chống cự.
Cả Hàm Đan vang dậy tiếng khóc cho cha anh, người thân bỏ mạng oan ức. Riêng Triệu vương cùng triều thần đều kinh hoàng thất sắc, run rẩy không nói ra lời. Triệu vương cố sức sai người mang lễ vật đến nhà họ Triệu vừa báo tin Triệu Quát tử trận vừa ngỏ lời xin lỗi đã không nghe theo sự can gián ngày trước. Như thế vẫn chưa hết, vài hôm sau Triệu vương lại nhận được một tin chấn động, đó là Bạch Khởi tuyên bố sửa soạn quân mã tiến thẳng đến Hàm Đan.
Triệu vương còn đang bối rối thì may sao có một vị Đại phu tên là Tô Đại xin được sang Tần thuyết khách, nói:
– Phạm Thư dùng phản gián khiến Đại vương chê bỏ lão tướng Liêm Pha của Triệu nên mới thắng được trận này. Nay tôi cũng xin thi hành kế phản gián để cứu nước Triệu vậy. Dù Triệu vương chưa tin tưởng nhưng không còn cách nào khác, đành phải cấp vàng bạc cho Tô Đại sang Tần. Khi ấy Tô Đại xin yết kiến Phạm Thư, nói:
– Võ An quân dụng binh như thần, chắc chắn chỉ trong vài ngày sẽ tiến tới Hàm Đan. Như vậy công lao của ông ta lớn lao hơn ngài nhiều. Ngài tuy là Tướng quốc nhưng không phải dân nước Tần, liệu có được Tần vương tin tưởng mãi không?
Phạm Thư tuy có trí tuệ siêu việt nhưng tính tình nhỏ nhen, nghe vậy thầm hoảng sợ, ngay hôm sau tìm cách tước bớt binh quyền của Bạch Khởi đi. Tần vương rất tin tưởng Phạm Thư, nghe theo lời tâu, cấp tốc triệu Bạch Khởi về triều đồng thời bãi bỏ ý định tiêu diệt Triệu. Theo mệnh của vua, Bạch Khởi về đến triều đình, tức giận nói:
– Theo thần thì nhiều lắm chỉ một tháng đã chiếm xong toàn bộ nước Triệu. Chẳng hiểu vì đâu Đại vương lại gọi thần trở về?
Tần vương đáp:
– Ta cũng biết vậy nhưng hiện quân tướng nước Tần chinh chiến đã quá lâu, e rằng sẽ mỏi mệt. Nước Triệu vẫn còn đó, muốn đánh giờ nào mà chẳng được. Vả chăng Phạm Tướng quốc đã thuyết phục được hai nước Hàn và Triệu cắt đất thần phục, kể cả 17 thành vùng Thượng Đãng mà khanh đã chiếm được thì kể ra cũng khá nhiều. Ban ân cho họ rồi sau lấy lại cũng chẳng muộn.
Bạch Khởi biết ngay đó chính là kế sách của Phạm Thư, thở dài mà lui ra. Thế nhưng chính Tần vương nghĩ lại cũng hết sức hối tiếc, chưa được mấy ngày lại triệu Bạch Khởi vào triều xuống lệnh xuất quân đi đánh Hàm Đan. Bạch Khởi liền cáo bệnh không đi, để tướng Vương Lăng dẫn 10 vạn quân tiến đánh Hàm Đan. Tiếc rằng cơ hội tới rồi đi trong chớp mắt, lúc đó Triệu vương trọng dụng lại lão tướng Liêm Pha, ai ai cũng kính phục nên theo về rất đông. Liêm Pha lại ban bố quân lệnh chỉnh đốn quân mã rất nghiêm, chẳng bao lâu đã phục hồi được sức mạnh như trước.
Do vậy dù Vương Lăng bao vây Hàm Đan mà không làm gì được, Liêm Pha lại dùng cách đánh du kích, đêm đêm cho quân trèo ra ngoài thành đánh phá, làm cho quân Tần canh phòng hết sức vất vả. Thấy đã lâu mà Vương Lăng không chiếm nổi thành Hàm Đan, Tần vương lại gọi Bạch Khởi vào trao cho quyền Thượng tướng. Thế nhưng Bạch Khởi biết rằng ngay lúc ấy quân Triệu hoàn toàn mất hết nhuệ khí, có thể không đánh cũng chiếm được Hàm Đan, nay đã được Liêm Pha củng cố quân binh thì việc trở nên rất khó khăn, nhất quyết từ chối.
Tần vương càng thêm nóng lòng sốt ruột, liên tiếp mấy lần gọi Bạch Khởi vào nài ép phải ra quân nhưng ông một mực không chịu. Tần vương không biết làm sao, đành phải sai Vương Hạt đem thêm 10 vạn quân nữa tiếp trợ cho Vương Lăng nhưng trải qua gần nửa năm tình hình vẫn không thay đổi được.
Đang lúc Tần vương tức giận thì vô tình Bạch Khởi trong lúc đàm đạo với thuộc hạ, cho rằng Tần vương không biết chớp thời cơ thì thất bại là đúng lắm rồi. Chẳng ngờ câu nói này lọt đến tai khiến Tần vương vô cùng tức giận nhưng vẫn còn nể nang Bạch Khởi, chưa có ý định trừng phạt ông. Tiếc rằng Phạm Thư nghĩ khác, cho rằng mình đã lỡ ám hại Bạch Khởi, nếu không “diệt cỏ tận gốc” thì sau này chỉ cần Bạch Khởi chấp nhận yêu cầu của Tần vương rồi lập thêm nhiều công trạng mới tất mình sẽ khó yên thân nổi.
Vì vậy nhân lúc Tần vương đang nóng giận, Phạm Thư liền gièm pha thêm khiến nhà vua không sao kềm được nóng nảy, lập tức xuống lệnh thu hết quan tước và đất phong của Bạch Khởi, giáng ông xuống làm quân sĩ ở Âm Mật, là vùng đất khô khan hoang vắng, phải rời khỏi Hàm Dương ngay trong ngày. Bạch Khởi nhận lệnh này chỉ buồn rầu chứ không phản kháng, một thân một mình đi đến trạm Đỗ Bưu rồi nghỉ ở đó chờ hành lý đến sau.
Thế nhưng Phạm Thư vẫn chưa cho là đủ, vu cáo với Tần vương:
– Trong lúc ra đi, Bạch Khởi oán giận nói nhiều lời khó nghe. Thần chỉ biết là ông ta dẫn lời danh tướng Phạm Lãi ngày trước than thở rằng “Con thỏ bị bắt thì chó săn tất bị mổ”. Thần lại biết họ Bạch hoàn toàn không có bệnh gì, nếu như sang nước khác đầu quân thì thật nguy cho Tần, xin Đại vương vì đại sự mà toan tính dứt khoát mới được. Tần vương nghe vậy cũng hơi kinh hoảng bởi quả thật nếu Bạch Khởi đến nước khác phò tá thì chắc chắn tham vọng của mình sẽ tiêu tan thành mây khói. Nghe nói Bạch Khởi vẫn còn ở Đỗ Bưu chờ đợi hành trang, Tần vương liền sai một viên cận thần đem thanh bảo kiếm đến đó ban cho ông tự xử. Bạch Khởi nhận thanh kiếm, ngửa mặt lên trời than thở: - Ta cả đời làm tướng giết chóc không biết bao nhiêu, đó chẳng qua phải như vậy thôi. Thế nhưng ở Trường Bình ta đã quyết định giết hơn 40 vạn hàng binh nước Triệu thì là quá tàn ác. Có lẽ đây là quả báo, bao nhiêu vong hồn hàng binh nước Triệu tố cáo với trời đất nên ta mới rơi vào tình trạng thế này. Đã là số trời thì làm sao tránh khỏi, ta không thể tham sống sợ chết làm nhục tới tiếng tăm từ bao lâu nay. Than xong, Bạch Khởi dùng bảo kiếm đâm cổ mà chết. Danh tướng lẫy lừng một thời mà phải chết oan ức chỉ vì sự tranh giành địa vị trong triều đình khiến ai ai cũng thương tiếc, người dân Đỗ Bưu liền lập miếu thờ cúng Bạch Khởi ở đó, suốt tháng năm nhang khói. Thế nhưng hậu quả việc lạm sát quá nhiều hàng binh vẫn như là một vết nhơ ngàn đời, dù kính phục Bạch Khởi đến đâu mỗi khi nhắc tới trận đánh Trường Bình người ta cũng không khỏi rùng mình kinh sợ.
Do vậy mãi cho đến đời nhà Đường, tức là hơn 800 năm sau, đột nhiên có một con trâu bị sét đánh chết ngoài đồng. Khi lật lên, người ta thấy vết sét đánh ngoằn ngoèo giống như hai chữ “Bạch Khởi” thì liền đồn đại đó chính là vị danh tướng nhà Tần, do giết người nhiều quá nên vẫn bị trời hành tội, thành kiếp trâu rồi bị sét đánh. Điều này hoàn toàn không thể tin được nhưng vẫn biểu hiện ấn tượng về việc giết hàng binh nước Triệu của Bạch Khởi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người dân Trung Hoa.
Khi giết xong Bạch Khởi, Tần vương lại sai Trịnh An Bình (bạn của Phạm Thư) mang thêm quân đến Hàm Đan tiếp viện. Sau đó vẫn không có biến chuyển nên Tần vương thân chinh đem quân đến Hàm Đan, tình thế cực kỳ nguy cấp. May sao Tín Lăng quân của nước Triệu lập kế trộm binh phù, hội họp các nước chống lại mới đẩy lui được quân Tần.
Cái chết của Bạch Khởi khiến cho tham vọng của nước Tần bị chậm lại rất lâu, cơ hồ bị mai một nếu sau này không xuất hiện một nhân tài anh hùng đại lược là Tần vương Doanh Chính với những danh tướng lưu danh trong lịch sử như Mông Điềm, Vương Tiễn, v.v...
4
VƯƠNG TIỄN
LÃO TƯỚNG NƯỚC TẦN
Vào cuối thời Chiến quốc, nước Tần phát triển hùng hậu nhất, có dã tâm thôn tính 6 nước còn lại trong Thất Hùng. Lúc đó Tần Chiêu Tương vương Doanh Tắc (306 đến 250 Trước Công nguyên), tức ngồi trên ngai vàng 56 năm đã đặt nền móng cho nhà Tần gồm thâu thiên hạ sau này. Tần vương có dưới tay rất nhiều danh tướng và theo kế sách “tằm ăn dâu” của Phạm Thư dần dần xâm chiếm các nước gần như Triệu, Hàn, Ngụy, v.v... đồng thời kết giao với các nước xa như Sở và Tề. Kế sách “viễn giao cận công” (nước gần đánh chiếm, nước xa giao hảo) này có tác dụng rất hiệu quả bởi các nước xa hầu như khoanh tay ngồi mà nhìn, cho rằng Tần sẽ chiếm các nước nhỏ và gần chứ không thể đụng đến mình. Đây là suy nghĩ thiển cận, đưa đến kết quả nước Tần từng bước tiến tới ngôi Hoàng đế Trung nguyên.
Vào khoảng năm 274, Tần Chiêu Tương vương sai danh tướng Bạch Khởi tiến đánh nước Triệu. Sau khi đạt chiến thắng lẫy lừng ở Trường Bình, Bạch Khởi đã tiến quân đến bao vây thành Hàm Đan rất gấp, toan tính rằng chỉ trong một tháng sẽ tiêu diệt được nước Ngụy. Thế nhưng, với lòng đố kỵ của Phạm Thư, Tần vương dại dột triệu Bạch Khởi về triều, cuối cùng ban cho ông cái chết oan uổng.
Khi Bạch Khởi chết rồi, Tần vương mới nhận ra sai lầm của mình, lần lượt sai Vương Hạt rồi đến Ngũ Đại phu Vương Lăng dẫn quân tiếp trợ vẫn không làm sao hạ được thành Hàm Đan. Cơ hội ngàn năm một thuở đã di qua mất rồi. Tần vương hết sức nóng nảy, một lần nữa lại sai một tướng tên là Vương Tiễn đến Hàm Đan kết hợp đánh chiếm. Nguyên Vương Tiễn là bộ tướng dưới quyền Bạch Khởi, đã học được rất nhiều kinh nghiệm của danh tướng này nên biết rằng không còn thời cơ nữa, vì vậy yêu cầu Tần vương thân chinh đi cùng với mình để khích động tinh thần ba quân. Đồng thời Vương Tiễn khéo léo đưa ra lý do tiến đánh Hàm Đan là muốn đòi cái đầu của Ngụy Tề, kẻ thù của Ứng hầu Phạm Thư. Việc báo thù đáng ra là phải do tay Phạm Thư, Vương Tiễn không hề có trách nhiệm trong đó, vì vậy đây chỉ là cái cớ để nếu thất bại cũng không mang tiếng thua nước Triệu, đồng thời ông tự biết đòi hỏi này có thể được Triệu vương đáp ứng. Đó chính là biểu hiện sự quyền biến và trí tuệ khôn ngoan của Vương Tiễn vậy.
Nhờ vào trí tuệ này, suốt cuộc đời Vương Tiễn trải qua 4 triều đại nhà Tần vẫn ung dung giữ chức vụ Đại tướng, danh vọng lên đến tột đỉnh mà không hề bị đại thần này ganh ghét so bì. Những chiến công của Vương Tiễn rất đáng cho người đời sau ngưỡng mộ nhưng chính triết lý sống của ông mới là bài học đối nhân xử thế đáng suy ngẫm.
Theo một số sử liệu thì Vương Tiễn sinh vào khoảng năm 303 trước Công nguyên và mất năm 213 trước Công nguyên, tức thọ được 90 tuổi, một số tuổi đáng nể trong các hàng danh tướng vốn hầu như đã chấp nhận “da ngựa bọc thây, chết trước khi đến tuổi già lão”. Vương Tiễn là người ở Tân Dương Đông, có sức mạnh hơn người nhưng tính tình điềm đạm, ngay từ lúc nhỏ đã biểu lộ sự khôn ngoan trong cách đối xử với mọi người.
Trong tình hình thời Chiến quốc với những chiến tranh xảy ra liên miên, để dương danh thiên hạ không gì tốt hơn là môi trường quân đội, vì vậy bước đầu ông hoạt động ra sao sử sách không ghi chép. Ông chỉ được người ta biết đến khi là tướng dưới quyền của Bạch Khởi.
Khi Tần vương và Vương Tiễn kéo 20 vạn đại quân đến Hàm Đan với danh nghĩa lấy đầu Ngụy Tề thì Triệu vương vừa mới mất, Thái tử Đan lên nối ngôi xưng là Hiếu Thành vương. Tuy rằng Hiếu Thành vương nghe theo kế sách của Liêm Pha, một mặt cố sức chống đỡ, một mặt kêu gọi các nước mà trong đó hy vọng nhất là Tề với binh lực hùng hậu do Điền Đan chỉ huy. Thế nhưng Hiếu Thành vương cũng không dám ỷ lại, vẫn nghe theo lời yêu cầu của Tần vương, tìm mọi cách bắt bằng được Ngụy Tề, rốt cuộc ông ta trốn đến nhà Tín Lăng quân Vô Kỵ rồi biết đã cùng đường đành tự sát.
Dựa vào lý do ấy, Tần vương liền cho rút quân. Đó là lần đầu tiên Vương Tiễn được giữ chức Đại tướng, được toàn quyền điều động binh sĩ. Khi về nước rồi, Tần vương hết lời khen ngợi, cho rằng Vương Tiễn dụng binh ngang hàng với Bạch Khởi nhưng mưu trí cao sâu hơn bởi không tốn một tên quân nào cũng giết được Ngụy Tề và làm cho các nước kinh sợ. Tần vương liền phong cho ông tước Võ Thành hầu, cấp cho 10 vạn hộ thực ấp.
Thế nhưng vì tuổi đã cao, năm sau đó Tần Chiêu Tương vương mất, lên nối ngôi là Doanh Trụ xưng hiệu Hiếu Văn vương. Chỉ 1 năm sau Doanh Trụ chết, Doanh Tử Sở nối ngôi xưng hiệu Trang Tương vương. Thế nhưng cũng không lâu, chỉ 3 năm sau Trang Tương vương cũng qua đời và bắt đầu một vị vua mới hùng tài đại lược lên nắm quyền, đó là Tần vương Doanh Chính, người sau này tự xưng Tần Thủy Hoàng đế khét tiếng thiên hạ về nhiều mặt.
Ngay từ thời Trang Tương vương, Lã Bất Vi đã được phong làm Tướng quốc nắm đại quyền lấn át cả nhà vua. Vương Tiễn là đại quan trong triều, nhìn thấy rất rõ mối quan hệ giữa Hoa Dương công chúa, Lã Bất Vi và Doanh Tử Sở nên không hề có một thái độ nghiêng về phe nào.
Ông giữ vững quan điểm này của mình cho đến tận cuối đời, tức là giữ tròn bổn phận làm tướng, không có tham vọng gì thì sẽ không rước lấy tai họa giống như Bạch Khởi. Vì vậy ông luôn tự giữ thái độ trung dung, không bao giờ ỷ vào các chiến công mà kiêu ngạo với mọi người, không chỉ trích hay bàn bạc về quốc chính, luôn luôn biết thế nào là đủ.
Với quan điểm như vậy, Vương Tiễn được hầu hết quần thần yêu mến và kính trọng. Trải qua 8 năm khi Tần vương Doanh Chính ngồi trên ngai vàng, ông ta đã 21 tuổi, tức đã được nắm đại quyền, không cần tới Trọng phu Lã Bất Vi nữa. Tần vương Chính nắm đại quyền rồi liền hạ lệnh tiến đánh nước Triệu, trước tiên là tỏ thiên uy, sau nữa muốn tiếp nối tham vọng của các tiên vương nhà Tần trước kia đã bỏ lỡ cơ hội.
Tần vương Doanh Chính định cử Vương Tiễn làm Đại tướng nhưng Lã Bất Vi gạt đi. Nguyên trước đó khi Bàng Noãn kêu gọi các nước hợp tung đánh Tần, phong cho Xuân Thân quân làm chủ tướng, Hoàng Yết của Sở làm Phó tướng, theo toan tính đồng lượt tấn công Hàm Cốc. Thế nhưng Hoàng Yết kiêu căng tự phụ, cho rằng nên đánh vào chỗ yếu của địch mới thắng, tự ý dẫn quân Sở đánh vào Đông Quan. Nhìn rõ sự bất đồng của đối phương, Vương Tiễn liền hiến kế cho Lã Bất Vi cứ nhắm vào quân Sở mà đánh, chỉ cần Sở thua là mấy nước kia tự tan vỡ. Lã Bất Vi nghe theo, sai Mông Ngao, Vương Tiễn, Hoàn Xỉ, Lý Tín, Nội sử Đằng đem quân chống cự. Hoàng Yết chưa ra quân nhưng được mật báo tin này, hết sức kinh sợ không chịu tiến nữa, thành ra mưu đồ hợp tung của Bàng Noãn chưa thực hiện thì đã tan vỡ, đành thở than rồi cùng quân các nước kéo về. Sau này Sở vương trách mắng Hoàng Yết rất dữ nhưng sự việc đã xong, không còn làm gì được nữa.
Lần đó Vương Tiễn không phải đánh một trận nào nhưng vẫn có công lao rất lớn nên Tần vương mới tin dùng, định sai ông làm Đại tướng đánh Triệu. Không phải Lã Bất Vi ghét bỏ Vương Tiễn mà cho rằng việc đánh Triệu không khó khăn gì, chỉ cần các tướng nhỏ như Mông Ngao, Trương Đường, Vương Hạt là đã đủ sức đối phó với các tướng của Triệu rồi. Vì vậy Tần vương chia quân làm hai đường, một do Mông Ngao làm chủ tướng, Trương Đường làm phó tướng; đường khác do Trường An quân Thành Kiệu (là con của Trang Tương vương, dòng dõi chính thống họ Doanh) làm chủ tướng, Phàn Ô Kỳ làm phó tướng, ồ ạt tiến quân qua biên giới nước Triệu. Vương Tiễn không hề bài bác kế hoạch của Lã Bất Vi nhưng nói riêng với Tần vương:
– Thần e rằng lần ra quân này sẽ thất bại bởi tuy Mông Ngao và Trường Đường là tướng giỏi nhưng với 5 vạn quân trong tay thì khó đối phó được với quân Triệu vốn hùng hậu và đông đảo gấp nhiều lần. Riêng Phàn Ô Kỳ có nhiều cử chỉ kỳ lạ, e rằng sẽ không tiếp trợ cho Mông Ngao. Thần cho rằng nếu Phàn Ô Kỳ dốc hết sức với Đại vương thì quân Tần sẽ đại thắng, bằng trái lại
thì chắc chắn thất bại bởi Mông Ngao không mưu trí bằng danh tướng Bàng Noãn của Triệu. Quả nhiên tình hình diễn ra đúng với tiên đoán của Vương Tiễn. Quân của Mông Ngao đụng độ với quân của Bàng Noãn, hai bên đồng tài đồng sức, quân Triệu lại có tiếp viện thêm mỗi ngày nên Mông Ngao đành phải sai người đến đạo quân của Thành Kiệu thúc giục phối hợp với mình. Chẳng ngờ Phàn Ô Kỳ từ trước đã biết rõ việc “buôn vua” của Lã Bất Vi, trong lòng bất mãn cả ông ta lẫn Tần vương Chính nên nhân cơ hội này kể hết cho Thành Kiệu nghe, đồng thời nói:
– Tại sao còn nhiều tướng già kinh nghiệm mà Văn Tín hầu (Lã Bất Vi) không dùng tới, lại sai ngài cầm quân. Đó là Văn Tín hầu muôn dùng tay quân Triệu giết chết ngài, rồi đó bao nhiêu cơ nghiệp của nước Tần sẽ về tay nhà họ Lã hết. Bây giờ phải nhân dịp này toan tính việc lớn mới xong.
Thành Kiệu còn nhỏ tuổi, nghe vậy rất căm tức, liền cùng Phàn ô Kỳ bàn việc mưu phản với số quân nắm trong tay. Phàn Ô Kỳ lập tức viết thư hứa hẹn với Mông Ngao, để mặc cho ông ta chống đỡ với quân Triệu, có thời gian truyền hịch đi khắp nơi kể tội Lã Bất Vi. Tần vương Chính nghe được hịch văn này, nổi trận lôi đình, sai ba tướng là Vương Tiễn, Hàm Xỉ và Vương Bôn xuất quân đi đánh dẹp phản loạn. Lúc dó Mông Ngao cũng đã biết tin Thành Kiệu và Phàn Ô Kỳ làm phản, sợ rằng hai đầu thọ địch nên vội vã rút quân về. Ngờ đâu Bàng Noãn rất khôn ngoan, biết ngay toan tính của Mông Ngao nên cấp tốc cho quân đi trước chặn đường mai phục.
Mông Ngao lọt vào ổ phục kích, bị thương rất nặng nhưng dù sao vẫn khét tiếng anh hùng, còn lấy hết sức tàn giương cung bắn trúng Bàng Noãn một mũi rồi mới chịu chết dưới chân núi Thài Hàng. Vì vậy Bàng Noãn tuy là thắng trận nhưng về đến đất Triệu thì vết thương tái phát, cũng chết theo.
Khi ấy Phàn Ô Kỳ phò Thành Kiệu đóng quân ở Đồn Lưu, tuy bị Vương Tiễn và Trương Đường vây hãm rất ngặt vẫn còn dũng mãnh, quân Tần không làm được gì. Thế nhưng Phàn ô Kỳ chỉ biết dựa vào sức mạnh chứ mưu trí thì thua xa Vương Tiễn. Thấy đánh đã lâu không tiêu diệt được phản loạn, Vương Tiễn liền lập mưu sai một tân khách trước kia của Thành Kiệu tên là Dương Đoan Hòa lén vào thành đưa thư khuyên hàng. Đồng lúc, Vương Tiễn sai quân đánh mạnh vào hai địa điểm bố phòng tiếp ứng của Phàn ô Kỳ là Trường Tử và Hồ Quan. Phàn ô Kỳ còn mải cho chống giữ Đồn Lưu, khi định mang quân đi cứu viện thì hai căn cứ này đã mất do cách đánh “tốc chiến tốc thắng” của Vương Tiễn học hỏi được nơi Bạch Khởi.
Phàn ô Kỳ thấy thanh thế quân triều đình quá mạnh, xin với Thành Kiệu ra đánh, nếu có thể sẽ mở vòng vây bỏ chạy. Dương Đoan Hòa liền nhân dịp ấy đưa thư khuyên hàng cho Thành Kiệu rồi chờ khi Phàn Ô Kỳ chạy về liền đứng trên thành hô lớn:
– Trường An quân đã bỏ tối về sáng. Ai bắt được phản tặc Phàn Ô Kỳ đều được trọng thưởng, người nào theo phản tặc sẽ bị tru lục toàn gia.
Thành Kiệu tuy chưa toan tính cặn kẽ nhưng quân tướng ở Đồn Lưu nghe vậy liền náo loạn, hầu hết đều buông võ khí khiến Thành Kiệu chỉ còn biết bưng mặt mà khóc. Vương Tiễn dễ dàng chiếm được Đồn Lưu, bắt Thành Kiệu đưa về triều cho Tần vương xét xử. Riêng Phàn Ô Kỳ thì chạy thoát qua nước Yên ẩn trốn.
Đây lại là chiến công bằng mưu trí của Vương Tiễn khiến Tần vương Chính hết sức hài lòng, rất tin cậy ở ông. Lúc đó là năm thứ 9 Tần vương Doanh Chính, ông là người mình cao vai rộng, mặt vuông mắt mày rậm, tư chất thông minh, lại có ý chí cao ngạo khác người nên từ khi nắm đại quyền thì dần dần tước bớt chức vụ của Lã Bất Vi và Thái hậu Triệu Cơ.
Trước khi Doanh Chính lên ngôi và ngay khi đã nắm đại quyền, Lã Bất Vi vẫn thường tư thông với Thái hậu rồi sau đó lại giới thiệu tên du thủ du thực Lao Ái hầu hạ bà ta. Nhiều người lấy làm lạ về việc này bởi Doanh Chính là người thông minh, lẽ đâu không nhìn được sự việc mà để mặc tình Lã Bất Vi, Thái hậu và Lao Ái thao túng làm nhục quốc thể. Chỉ riêng Vương Tiễn nhìn đời với cặp mắt trầm tĩnh là nhận ra ý đồ sâu xa của Tần vương Chính bởi nhà vua đã quyết định trao cho ông nắm hết binh quyền trong tay, chắc chắn là sẽ có dịp dùng tới.
Chẳng mấy chốc đã tới kỳ lễ tế giao, Tần vương Doanh Chính đã sửa soạn xong thì đột ngột có sao chổi rất lớn xuất hiện trên bầu trời làm cho dân chúng vô cùng xao động. Viên quan Thái sử bói một quẻ cho là điềm chẳng lành, tâu với Tần vương tạm hoãn việc tế giao ở Ung thành. Trước đó, để tránh tai tiếng, Tần vương đã cho Thái hậu và Lao Ái đến Ung thành, hai người này được thể lại càng thao túng tệ hại, kết nạp rất nhiều tay chân và còn tính đến chuyện làm
phản để đưa con của Lao Ái và Thái hậu lên làm vua. Vì vậy lời khuyên can của Thái sử lo ngại là vì có Lao Ái chứ không phải vì sao chổi.
Tần vương Doanh Chính nghe xong cười nhạt, gằn giọng nói:
– Sao chổi là điềm có tai họa nhưng theo ta thì tai họa của người khác chứ không phải ta, người cứ tiến hành lễ tế như bình thường.
Thế nhưng Tần vương không hề khinh suất, trước khi đến Ung thành đã sai Vương Tiễn tập hợp đại quân dương oai diễu võ suốt 3 ngày ở Hàm Dương. Sau đó Vương Tiễn cùng đại quân đóng giữ ở kinh thành rất nghiêm, thật sự là đã được lệnh canh chừng Lã Bất Vi. Còn một bí mật khác mà chỉ riêng Tần vương và Vương Tiễn biết, đó là Hoàn Xỉ đã được lệnh âm thầm đem
3000 giáp binh đến đóng ở Kỳ sơn chờ lệnh. Vương Tiễn càng thêm phục ông vua trẻ mà có tâm cơ rất sâu sắc, dám đương đầu với thử thách.
Quả nhiên khi Tần vương Chính ở Ung thành, Lao Ái vì quá say nên tiết lộ nhiều điều phạm thượng, sau đó tỉnh rượu, liều mạng cùng với bọn tay chân là Tá qua Kiệt và Nội sử Tứ họp hết bọn tay chân kéo đến cung Kỳ Niên để bắt giết Tần vương.
Doanh Chính thật xứng đáng là “chân thiên tử”, khi ấy chỉ có vài trăm võ sĩ đi theo nhưng không hề kinh sợ, đứng thẳng người trên lầu cao chỉ mặt Lao Ái mà mắng, tuyên bố bất cứ ai giết được hắn thì sẽ phong Vạn hộ hầu. Thật ra đó là kế hoãn binh, vừa đủ cho Hoàn Xỉ kéo giáp binh đến, đánh tan bọn phản loạn, giết chết bọn Nội sử Tứ, Tá qua Kiệt, còn Lao Ái thì bị phanh thân; hai đứa con của Thái hậu và Lao Ái bị cho vào bao đập đến chết.
Tổng cộng vụ án này liên lụy có đến hơn 4000 người khiến kinh thành bị một phen xáo động tuy vẫn không xảy ra việc gì trầm trọng hơn bởi đã có sự canh phòng nghiêm mật của Vương Tiễn.
Khi phản loạn đã dẹp yên, Tần vương Chính liền bãi chức Tướng quốc của Văn Tín hầu Lã Bất Vi, cho ông về đất phong ở Lạc Dương. Thế là bao nhiêu mầm mống nguy hiểm đã diệt trừ xong, Tần vương Chính bắt đầu tiến hành tham vọng bình thiên hạ của mình. Đáng lẽ sự việc đến đây là kết thúc, thế nhưng khi Lã Bất Vi về đất phong, hầu như ngày nào cũng có sứ giả của các nước chư hầu lén đến dâng tặng lễ vật, đồng thời thuyết phục ông về làm Tướng quốc cho nước mình.
Vương Tiễn nghe được tin tức này, vội vã vào báo cho Tần vương biết. Nhà vua liền viết một bức thư gởi cho Lã Bất Vi, Ông ta đọc xong thư , ngửa mặt lên trời than thở: Ta vốn dĩ chỉ là thương buôn, chỉ vì quá tham lam nên mới tính đến chuyện “buôn vua”. Vì việc ấy mà ta từ một người bình trở thành tồi tệ, không những thông dâm với vợ người mà còn giết vua để mau chóng đưa người của mình lên thay thế. Những tội lỗi ấy chắc chắn trời đất không tha thứ được, ta đành phải tự xử mà thôi.
Than thở xong, Lã Bất Vi sai người lấy rượu độc ra uống. Các tân khách của ông còn sợ Tần vương làm nhục thi hài nên lén trộm xác đem chôn ở núi Bắc Mang. Vì việc này xảy ra chuyện trục hết các tân các nước khác ra khỏi Hàm Dương và rồi Tần vương Chính gặp được Lý Tư. Sau đó Lý Tư lại nhỏ mọn tìm cách hại chết Hàn Phi Tử nên Tần vương rất giận, Lý Tư dành phải chuộc lỗi, tiến cử một binh lược gia nổi tiếng ở Đại Lương tên là Úy Liêu Tử, được Tần vương trọng đãi gọi bằng sư phụ.
Tuy vậy, không phải vì có Úy Liêu mà Tần vương ruồng bỏ Vương Tiễn, trái lại khi hai người gặp nhau rất tâm đầu ý hợp, nhiều phen bàn về binh pháp rất hợp ý. Theo kế sách của Úy Liêu, Tần vương liền sai Hoàn Xỉ đem quân đi đánh nước yếu kém nhất là Hàn, sau đó sẽ thôn
tính tới Triệu và Ngụy. Sau khi Tam Tần mất thì sẽ đến lượt Sở và Tề. Hoàn Xỉ mau chóng hoàn thành kế hoạch này nhưng đến khi muốn tiến đánh nước Triệu thì không có nguyên cớ gì, phải sai Úy Liêu giả như đi đánh nước Ngụy. Nước Ngụy liền cầu cứu với Triệu hợp binh chống lại, thế là đã danh chính ngôn thuận để tiêu diệt Triệu. Hoàn Xỉ cũng nhanh chóng đánh bại quân Triệu trong mấy trận khiến Triệu vương vô cùng lo lắng, muốn mời lão tướng Liêm Pha ra cầm
quân. Thế nhưng tên gian thần Quách Khai đã nhận vàng đút lót của Úy Liêu, tìm cách lừa gạt nên cuối cùng Liêm Pha đành phải qua nước Sở, sau đó vì uất ức mà chết. Tần vương Chính nghe tin Triệu không dùng Liêm Pha thì rất mừng, lập tức thúc giục Hoàn Xỉ xuất quân đánh thật rát. “Họa vô đơn chí” ngay lúc ấy Triệu vương Vi quá lo buồn mà mất, con của ông là Công Gia lên nối ngôi, chỉ biết ăn chơi xa xỉ. Hoàn Xỉ liền nhân cơ hội ấy tiến đánh Nghi An, chém chết tướng chỉ huy là Hổ Tiếp, giết hơn 10 vạn quân Triệu rồi thừa thắng kéo đến vây Hàm Đan. Triệu vương hoảng sợ, vội mời một lão tướng khác là Lý Mục ra cầm quân, nhờ vậy đánh tan quân Tần ở Phi Lũy, giết vô số quân tướng nước Tần. Hoàn Xỉ đang tiến đánh Cam Toàn, nghe tin này vội vã trở về Phi Lũy nhưng cũng bị Lý Mục đánh cho một trận thất điên bát đảo, mang tàn quân chạy về Hàm Dương. Chiến công của Lý Mục oai hùng không kém Bạch Khởi ngày trước nên ông được Triệu vương phong tước Võ An quân giống như Bạch Khởi trước kia để dương danh với thiên hạ.
Lúc này Tần vương Chính mới biết đại cuộc nếu không có một tướng nhiều mưu trí thì rất khó đối phó với Lý Mục, sau khi giáng Hoàn Xỉ xuống làm thường dân liền phong cho Vương Tiễn làm Đại tướng, cùng với Dương Đoan Hòa đem quân đi đánh nước Triệu báo thù.
Tiếc rằng Lý Mục là lão tướng rất cao tay ấn, không trực tiếp giao chiến với Vương Tiễn mà đóng quân cố thủ hết sức nghiêm mật ở núi Hội Toàn, quân Tần không làm sao vượt qua ngọn núi này dược. Tần vương Chính đang lúc tức giận nước Triệu, lại sai Vương Ngao đến tham mưu cho Vương Tiễn. Hai tướng bàn nhau phải dùng kế lý gián mới loại trừ được Lý Mục.
Một mặt Vương Tiễn đến xin giao hảo với Lý Mục, cho rằng thật sự vẫn có thể giải hòa. Lý Mục tin vậy nên cùng với Vương Tiễn đi lại khá thân mật, nhiều khi uống rượu bàn việc quân cho đến khi say khướt mới thôi. Trong khi đó Vương Ngao lén sang Triệu, xin gặp Quách Khai báo là Lý Mục muốn cùng với Vương Tiễn tư thông. Theo ông ta thì hai tướng này đã hứa hẹn với nhau nếu chiếm được nước Triệu sẽ chia làm hai, mỗi người thành một ông vua nho nhỏ là thỏa mãn lắm rồi.
Quách Khai liền báo với Triệu vương và bí mật sai người đi dò xét, quả nhiên lời của Vương Ngao không sai, hai bên hàng ngày vẫn đi lại rượu chè với nhau, không hề tỏ ra đang đối đầu chút nào. Triệu vương liền gọi Lý Mục về thăng lên làm Tướng quốc, thực sự là cắt binh quyền
của ông ta, cho Triệu Thông thế chức. Chẳng ngờ Lý Mục biết việc này, chán nản không giao ấn tín cho Triệu Thông, ngửa mặt than thở:
– Ta thường nghĩ Nhạc Nghị và Liêm Pha không trọn đạo làm tướng. Nay mới biết nỗi khổ tâm của họ ra sao, ta có thể đem quân về triều đánh giết bọn gian thần nhưng làm thế lại mang danh phản nghịch.
Than xong Lý Mục treo ấn tín lên cành cây rồi nửa đêm lẳng lặng bỏ đi. Triệu Thông rất giận việc này, cho quân truy đuổi và giết chết Lý Mục trong một quán rượu nhỏ bên đường. Vương Tiễn biết tin Lý Mục đã ra đi, lập tức cùng Dương Đoan Hòa chia quân làm hai cánh tấn công dữ dội. Triệu Thông cố sức chống giữ nhưng tài hèn sức kém, rốt cuộc bị Vương Tiễn chém chết tại trận, quân Triệu như rắn mất đầu đua nhau bỏ chạy về Hàm Đan.
Vương Tiễn không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, xua quân truy kích và tiến đến bao vây Hàm Đan. Tên gian thần Quách Khai thấy vậy sợ quá, nói với Triệu vương:
– Nước Hàn đã bị diệt. Nước Yên và Ngụy tự giữ mình không xong thì còn ai cứu được nước Triệu. Chi bằng đầu hàng Tần may ra còn giữ được địa vị phong hầu mà tế tự. Triệu vương tức giận lấy kiếm chỉ mặt Quách Khai mà mắng khiến hắn ôm đầu rút lui về phủ. Thế nhưng tên gian thần này đã nhất quyết bán nước, lén sai người báo cho Vương Tiễn biết:
– Thật sự Triệu vương đã run sợ lắm rồi nhưng nói rằng nếu như Tần vương thân chinh mang quân đến nơi thì sẽ đầu hàng ngay.
Vương Tiễn liền báo tin này cho Tần vương Chính. Nhà vua vui vẻ nghe theo, thân dẫn 3 vạn tinh binh, cờ xí rợp trời, chiêng trống vang lừng kéo đến trước thành Hàm Đan. Triệu vương liền nghe thoe lời xúi giục của Quách Khai, đem viên ngọc họ Hòa và bản đồ thành Hàm Đan, mở cửa thành phía Tây dâng thư đầu hàng Tần vương Chính. Khi vào thành xong, Tần vương ngồi chễm chệ trên ngai vàng cho Triệu vương làm lễ tôi thần khiến các cựu thần nước Triệu có mặt đều rơi nước mắt.
Doanh Chính cầm viên ngọc Hòa mà nói:
– Cũng viên ngọc này, trước kia tiên vương ta lấy 15 thành mà không đổi được. Nay nhờ có Vương Tướng quân mà nó nằm trong tay của ta.
Sau đó Triệu vương bị giam giữ trong một cái nhà bằng đá, buồn rầu sinh bệnh mà chết. Riêng Quách Khai được tha cho về quê quán, hắn chuyển tải mấy xe vàng bạc về đến nửa đường thì bỗng có bọn cướp xông ra giết chết toàn bộ, bao nhiêu vàng bạc đều cướp sạch. Có người cho rằng đó chính là các tân khách của Lý Mục báo thù nhưng cũng có người cho rằng đó là
hành vi của Tần vương Doanh Chính.
Trước đó một năm, Thái tử Đan của nước Yên đang làm con tin nơi nước Tần, dùng kế lén trốn về Yên tổ chức quân binh chống đỡ nếu một khi bị quân Tần xâm lăng. Tần vương còn đang lo việc đánh Hàn và Triệu nên bỏ qua việc này nhưng chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ “tính sổ” chứ không đời nào tha thứ. Thái tử Đan tuy đã chiêu mộ được khá nhiều dũng sĩ như Hạ Phù, Tống Ý và Tần Võ Dương, ngay cả Phàn Ô Kỳ cũng đến đầu quân và được phong làm Thượng tân, nhưng vẫn thừa nhận như thế vẫn không đủ sức đánh lại quân Tần, bàn với các mưu sĩ kế sách ám sát Tần vương Chính.
Đại thần là Cúc Võ liền giới thiệu một mưu sĩ nổi tiếng là Điền Quang. Khi đến diện kiến, biết Thái tử Đan đang nuôi dưỡng các dũng sĩ để thi hành kế ám sát, Điền Quang lắc đầu nói: – Hạ Phù có máu nóng nên mặt luôn luôn đỏ bừng, Tống Ý có mạch nóng nên trên mặt lộ ra màu xanh, Tần Võ Dương có khí cố nóng nên lộ ra mặt màu trắng. Những màu sắc ấy biểu hiện tính tình mừng, giận. Người đã biểu lộ tính tình thì không thể dùng vào việc hệ trọng này. Điền Quang liền tiến cử một kiếm khách nổi tiếng tên là Kinh Kha. Thật ra Kinh Kha nhận ra đây là việc còn khó hơn là lên trời hái sao bởi Tần vương tự biết rất nhiều người oán ghét ông ta, đề phòng rất cẩn mật. Kinh Kha nhiều lần từ chối nhưng Thái tử Đan qua nài ép, lại hậu đãi hết mức nên cuối cùng đành phải nhận lời. Khi đã luyện tập xong, Kinh Kha cùng với Tần Võ Dương lên đường làm sứ giả, lấy cái đầu của Phàn Ô Kỳ để trong hộp gỗ và bản đồ thành Hàm Đan làm lễ vật, toan tính thế nào Tần vương Chính cũng chăm chú nhìn xem, nhân cơ hội ấy mà ám sát.
Rất tiếc là khi đến gần Tần vương Doanh Chính, Kinh Kha sơ hở để lộ chuôi kiếm nên Tần vương nhanh nhẹn chạy quanh cột rồng khiến mấy lần Kinh Kha không thể đâm trúng. Tần vương Chính định rút thanh bảo kiếm Lộc Lư ra đối phó nhưng vì kiếm quá dài, mãi không rút ra được. May sao có một tên hoạn quan là Triệu Cao la lớn:
– Sao Đại vương không xoay vỏ kiếm về phía sau?
Tần vương nghe lời, nhờ vậy mới rút kiếm ra chém chết được Kinh Kha. Hôm sau Tần vương ban thưởng cho quần thần rất hậu, tùy theo vết thương mà lãnh thưởng, riêng Triệu Cao được thưởng 100 cân vàng và từ đó Tần vương Chính rất tin dùng hắn. Khi đã tự xưng Tần Thủy Hoàng đế, Triệu Cao còn được ưu ái thăng làm Thừa tướng nhưng chính hắn là kẻ phản bội khiến cho nước Tần bị suy yếu rồi tiêu vong vào tay Hán Cao tổ Lưu Bang. Vì việc hành thích này Tần vương không kềm được tức giận, lập tức sai hai cha con Vương Tiễn và Vương Bôn mang đại quân tiến đánh nước Yên, lệnh nếu không thắng thì đừng trở về triều.
Đương nhiên quân Yên không thể nào chống lại được, bị quân Tần bao vây kinh thành rất chặt chẽ, Thái tử Đan phải phò Yên vương chạy đến Liêu Đông tránh nạn, bỏ mặc kinh thành cho quân Tần chiếm đóng. Mọi sự tạm yên ổn, Vương Tiễn thấy mình già yếu, hay bị bệnh nên viết thư dâng lên Tần vương, xin được cáo lão về đất phong ở Dĩnh Dương yên hưởng tuổi già. Nhờ vậy quân Tần mới không đuổi theo ngay, Thái tử Đan mới có thời gian lập lại triều đình ở Liêu Đông.
Trong việc từ chức này cũng có một số nghi ngờ xảy ra giữa Vương Tiễn và Tần vương nhưng với chủ trương mềm dẻo, cuối cùng Tần Vương Chính cũng đánh tan được sự nghi ngờ ấy và Tần vương chấp thuận cho ông về hưu dưỡng, sai Lý Tín cầm quân thay thế. Vương Bôn là con của Vương Tiễn, tuổi trẻ như Lý Tín, lại có nhiều kinh nghiệm do thân phụ truyền lại. Thế nhưng khi Tần vương hỏi Vương Tiễn muốn dùng ai thay thế mình trong chức vụ Đại tướng thì ông thẳng thắn tâu:
– Theo thần thì Vương Bôn có đủ tài năng đảm nhận chức vụ này.
Tần vương cười nhạt, hỏi:
– Theo ta thì Lý Tín cũng tài năng không kém. Khanh tiến cử con mình mà bỏ qua người tài khác, như thế có thiên vị lắm không?
Vương Tiễn khôn khéo đáp:
– Đó là ý của thần, còn quyết định là của Đại vương. Đại vương sáng suốt tất sẽ không bổ nhiệm sai lầm.
Rốt cuộc Tần vương cho Lý Tín cầm quân, hạ lệnh tiếp tục đuổi theo giết bằng được cha con Yên vương. Yên vương cầu cứu khắp nơi không được, lại không nỡ giết Thái tử Đan theo yêu cầu của Tần vương nên đành phải cùng triều thần trốn đến Đào Hoa đảo. Thế nhưng quân Tần vẫn không buông tha, cho quân đuổi theo quyết liệt đến Thủ sơn thì bắt kịp, bao vây bốn phía, đồng thời viết thư hạch tội Thái tử Đan, cương quyết cho rằng nếu chưa giết được thì sề chưa dừng binh.
Yên vương bất đắc dĩ phải phục rượu Thái tử Đan đến say mèm rồi thắt cổ giết chết, mang thủ cấp đứa con đến dâng cho Lý Tín. Việc này hết sức đau lòng, oán khí bốc lên tới trời xanh nên có nhiều hiện tượng lạ xảy ra, Tần vương cũng xúc động hạ lệnh cho Lý Tín rút quân về.
Không để cho quân sĩ ngơi nghỉ, Tần vương lại theo hiến kế của Úy Liêu, bắt đầu tấn công nước Ngụy, sai Vương Bôn làm Đại tướng. Nước Ngụy đã cầu cứu nước Tề nhưng chính họ cũng sợ bị Tần trách cứ nên từ chối. Vì vậy Vương Bôn mấy trận đều đại thắng, tiến quân đến bao vây kinh thành Đại Lương. Vương Bôn thừa kế trí mưu của cha, thấy trời mưa to, nước dâng
lên rất nhanh liền dùng thủy kế đưa nước tràn vào thành rồi tiến đánh. Sự việc xảy ra bất ngờ đến nỗi Ngụy vương không kịp trở tay, đành bị bắt sống cùng toàn bộ triều thần, giải về Hàm Dương cho Tần vương xét xử. Khi đi giữa đường, Ngụy vương vì quá đau buồn uất ức, bệnh rồi chết.
Thế là Vương Bôn thừa cơ đánh chiếm luôn đất Giã Vương, giáng chức Vệ quân xuống làm thường dân. Đây là chiến công rất lớn của Vương Bôn, mở đầu cho những chiến công lừng lẫy chẳng khác gì cha mình sau này.
Khi tiêu diệt xong Ngụy, Tần vương toan tính tiếp tới việc diệt Sở và Tề, theo ý kiến của Úy Liêu thì hai nước này mất rồi, còn lại những nước nhỏ khác tất sẽ đầu hàng, không cần phải đánh. Thế nhưng nước Sở là một nước rất hùng mạnh, người đông, quân tướng kiêu dũng, cần phải có kế hoạch kỹ lưỡng trước khi tiến binh. Lúc ấy nước Sở cũng đã sửa soạn sẵn sàng, Sở vương là Phụ Sô mời danh tướng Hạng Yên đem 20 vạn quân ra biên giới đào hào đắp lũy chống cự nên việc đánh Sở không phải dễ dàng.
Tần vương cũng không khinh suất, bàn bạc với Úy Liêu xong tự thân đến Dĩnh Dương hỏi ý kiến của Vương Tiễn, trong ý vẫn muốn ông cầm quân đánh Sở thì mới yên tẩm. Lão tướng này liền tâu:
– Thần đầu quân khi mới 16 tuổi, làm tướng khi mới 20, trải qua mấy chục năm chinh chiến, nay đã 80 tuổi, sức yếu trí kém hẳn ngày trước nhiều nhưng nếu Đại vương tin tưởng thì vẫn cố đem hết sức tàn ra báo đáp. Thế nhưng nước Sở rất rộng lớn, quân tướng hùng mạnh, lại có danh tướng Hạng Yên ra sức chống đỡ thì phải cần tới 60 vạn quân mới hy vọng tiêu diệt được họ.
Tần vương giật mình nói:
– 60 vạn quân là toàn bộ số quân trong nước. Nếu xuất toàn bộ quân đội đi, trong nước trống rỗng thì rất nguy hiểm, khanh có thể tính toán lại được không?
Vương Tiễn cứ nhất quyết phải đủ số 60 vạn mới dám xuất quân khiến Tần vương đành phải về triều hỏi ý kiến của Lý Tín. Viên tướng trẻ này sau mấy trận đại thắng, hùng khí lên cao, kiêu ngạo nói:
– Bình định nước Sở cần gì đến số quân nhiều như vậy? Theo thần thì chỉ cần độ 20 vạn quân là thừa sức lắm rồi.
Tần vương cả mừng, nói:
– Thế mà lão tướng Vương Tiễn đòi đến 60 vạn. Ta sẽ giao cho khanh số quân 20 vạn, khi nào chiến thắng thì hãy mở tiệc thật lớn cho Vương Tiễn biết mình đã quả già yếu nhút nhát lắm rồi.
Thế là Tần vương Chính phong cho Lý Tín làm Đại tướng, Mông Vũ làm Phó tướng, dẫn 20 vạn quân tiến đánh nước Sở. Mấy trận đầu quân Tần chiến thắng liên tiếp, chiếm được Bình Dư và Tẩm địa, cả đất Yên đất Sính cũng rơi vào tay quân Tần. Tiếc rằng Lý Tín quá tự phụ, không đợi kết hợp với đoàn quân của Mông Vũ mà cứ thế xua quân tràn lên phía trước. Quân của Lý Tín tiến nhanh như vũ bão, khi gần đến Chân thành thì quân của Hạng Yên cũng đã dàn sẵn đối địch.
Hạng Yên một mặt cho quân dàn trận ở Tây Lăng, một mặt sai Khuất Định mai phục sẵn, vì vậy Lý Tín trúng kế, bị quân Sở đánh cho một trận tan tác. Lần này quân Tần mới nếm mùi đau khổ, chạy suốt ba ngày ba đêm vẫn không sao thoát được sự truy đuổi của quân Sở, chết đến mấy tướng, còn binh sĩ tử thương thì không sao kể xiết. Lúc ấy Mông Vũ chỉ mới tiến quân đến Thành Phụ, nghe tin Lý Tín đại bại cũng không làm gì được, đành phải lui về đất Triệu phòng giữ và phi báo cho Tần vương biết tin xấu. Tần vương vô cùng giận dữ, truyền lệnh tước hết chức vụ và đất phong của Lý Tín, giáng xuống làm thường dân.
Khi ấy Tần vương mới hiểu ra Vương Tiễn quả là người nhiều kinh nghiệm, không những ông đòi hỏi số quân lớn mà còn không hề tin tưởng Lý Tín. Ông tiến cử Vương Bôn là có ý muốn truyền đạt kinh nghiệm chiến đấu cho con cháu, đồng thời có thể theo dõi để sửa chữa những sai lầm mà thường khi những tướng trẻ cao ngạo hay phạm phải.
Tần vương liền thân đến Dĩnh Dương, nói với Vương Tiễn:
– Ta không nghe lời lão tướng nên nước Tần bị một phen nhục nhã. Ta cũng biết khanh già yếu nhưng có thể giúp ta rửa mối nhục này không?
Vương Tiễn bình tĩnh đáp:
– Như thần đã nói trước kia. Tuy thần đã bát tuần nhưng nếu nước nhà cần tới thì vẫn có thể cố gượng sức tàn mà báo đáp công ơn của Đại vương. Thế nhưng nếu không đủ 60 vạn quân thì thần e rằng khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ khó khăn ấy. Thần cho rằng 60 vạn quân là vừa đủ chiếm được nước Sở, còn nếu muốn giữ thì e rằng phải thêm nữa mới xong.
Tần vương liền lấy xe ngựa của mình, mời Vương Tiễn về triều, lập đại lễ phong cho ông làm Đại tướng, Mông Vũ làm Phó tướng, chỉ huy 60 vạn quân tiến đánh nước Sở lần nữa. Trước khi xuất binh, Vương Tiễn xin với Tần vương:
– Lần này chắc là lần cuối thần cầm quân ra đi. Thế nhưng trải qua bao nhiêu chiến trận mà gia đình vẫn còn rất khó khăn về kinh tế, sang trọng không bằng ai. Vì vậy nhân cơ hội cuối cùng này, thần cúi xin Đại vương ban cho một số ruộng tốt ở Hàm Dương cùng với một số phủ đệ để gia đình được vinh hiển. Nếu Đại vương chấp thuận thì dù da ngựa bọc thây thần vẫn mỉm
cười nơi chín suối.
Tần vương Chính nghe vậy cả cười, đáp:
– Chưa xuất quân mà sao khanh bi quan như vậy? Khi nào chiếm được Sở, nước Tần gồm thâu thiên hạ thì khanh là công thần của Tần, giàu sang phú quý tới cùng cực, lo gì nghèo đói mà phải lo lắng xin trước?
Vương Tiễn cố nằn nì:
– Thần tự biết tuổi đã quá cao, dù Đại vương chiếm được thiên hạ thì thần cũng không làm quan được bao lâu nữa để hưởng giàu sang. Chi bằng lúc này còn sống thì hãy kiếm cho con cháu chút ít đất ruộng, đời đời hưởng ân huệ của Đại vương thì hoàn toàn thỏa mãn, yên tâm lao vào vòng lửa đạn.
Nghe vậy Tần vương đành phải chiều theo. Thế mà khi quân Tần đã đến Hàm Cốc, tức sửa soạn vượt biên giới, một lần nữa Vương Tiễn lại sai người về triều cố xin thêm mấy chỗ đất tốt nữa, rốt cuộc đều được Tần vương ban cho.
Phó tướng Mông Vũ thấy vậy phàn nàn:
– Tướng quân xin mãi như vậy chẳng là quá đáng lắm ư? Một khi thắng trận trở về tất Đại vương còn ban thưởng nhiều gấp bội, chưa có công lao gì mà xin mãi thì tôi sợ rằng Đại vương không hài lòng đấy.
Nhân lúc ấy chỉ có hai người, lại đã quá hiểu nhau nên Vương Tiễn nhỏ giọng thú thực: – Ông thừa biết Đại vương tính tình rất tàn nhẫn, lại hay đa nghi. Nay bất đắc dĩ phải giao cho ta và ông 60 vạn quân, tức không còn bao nhiêu quân ở bên mình. Nếu như chúng ta đồng lòng phản nghịch thì Đại vương làm sao chống nổi, tất không khỏi băn khoăn nghi ngờ. Ta cốt xin nhiều ruộng đất là để cho Đại vương yên tâm, không còn nghi ngờ nữa đấy thôi. Ta không hề tham lam chút của cải phù hư đó đâu.
Khi ấy Mông Vũ mới hiểu ra, hết lời khen ngợi Vương Tiễn không những mưu trí sâu xa mà còn hiểu biết nhân tình thế thái rất rõ ràng. Cách hành xử của ông từ lúc bắt đầu cầm binh quyền cho đến khi cuối đời càng tỏ rõ “gừng càng già càng cay” là bài học thâm thúy để người đời sau suy nghĩ.
Về mặt nước Sở, khi nghe tin chính Vương Tiễn cầm quân, lại có dưới tay 60 vạn tinh binh, cả Sở vương lẫn triều thần đều phải kinh hoảng. Sở vương không còn cách nào khác là phải sai tướng Cảnh Kỳ chiêu mộ thêm 20 vạn quân đến Đông Cương tiếp trợ cho Hạng Yên.
Thế nhưng khi đại quân của Vương Tiễn đến nơi lại không hề ra trận, cứ đóng quân ở đó. Hạng Yên vô cùng kinh nghi, mấy lần cho quân ra khiêu chiến nhưng Vương Tiễn vẫn án binh
bất động khiến ông ta không thể hiểu nổi đối phương đang toan tính gì. Các tướng Sở bàn bạc cùng nhau, sau cùng đều đồng ý có lẽ Vương Tiễn đã quá già yếu nên đâm ra nhút nhát, bất đắc dĩ mới phải theo lệnh cầm quân, hoàn toàn không muốn giao tranh chút nào. Vì vậy việc canh phòng cũng có chút lơi lỏng.
Riêng Vương Tiễn không những cho quân tướng nghỉ ngơi thỏa thích mà còn bày ra những trò chơi như nhảy cao, ném đá, khiêng gạch, rồi phân thắng thua mà ban thưởng. Thật sự Vương Tiễn hoàn toàn không bày chuyện vô ích, những trò chơi ấy vừa có tác dụng cho quân tướng vận động tay chân, rèn luyện sức khỏe vừa nhìn ra được ai dũng cảm, ai khỏe mạnh hay yếu đuối mà ngầm ghi vào sổ rồi biên chế vào các đội khác nhau. Thế nhưng Hạng Yên không hiểu được điều này, đến hơn một năm thì bắt đầu tin rằng các tướng nói đúng, không đốc thúc phòng bị nữa.
Ngay trong thời gian này, Tần vương cũng bị nhiều lời gièm pha, cho rằng nên cách chức của Vương Tiễn. Nhà vua đã tin tưởng Vương Tiễn tuyệt đối, không nghe theo nhưng mật sai người đến hỏi. Vương Tiễn liền đáp:
– Trước kia có danh tướng Nhạc Dương kéo quân đi đánh nước Trung Sơn, ba tháng ròng không hề động binh. Ngụy Văn hầu cũng nhận được vô số tấu thư gièm pha nhưng đọc xong đều cất hết vào hộp gỗ. Đến khi Nhạc Dương thắng trận trở về, Ngụy Văn hầu bèn đưa cái hộp gỗ ấy ra cho Nhạc Dương xem. Nay thần cũng muốn Đại vương làm như Ngụy Văn hầu được chăng?
Tần vương nhận được lời đáp này liền hiểu ra mưu kế của Vương Tiễn, từ đấy trở đi mỗi khi có triều thần dâng tấu đều cười mà xếp vào góc. Đúng thời cơ, Vương Tiễn liền mở tiệc đãi đằng quân tướng rồi hiệu triệu quyết đánh một trận sống còn. Lúc đó quân tướng nước Tần rất khỏe mạnh nhờ nghỉ ngơi lâu ngày, ăn uống đầy đủ nên hăng hái xin liều chết, tranh nhau xin đi đầu. Vương Tiễn liền theo danh sách ghi từ trước, chọn ra 20 vạn quân binh tinh nhuệ nhất, mỗi người có thể chống nổi 10 người làm quân tiên phong.
Hạng Yên không thể ngờ quân Tần lại đột ngột tiến đánh, quân tướng Sở lại không có chuẩn bị hay luyện tập gì nên vừa thấy quân Tần xông lên liền đại loạn, tranh nhau chạy trốn. Ngay trận ra quân đầu tiên, quân Tần đã giết được Khuất Định, còn Hạng Yên và Cảnh Kỳ dẫn tàn quân chạy trối chết. Chủ trương của Vương Tiễn trước sau như một, đó là “tránh mũi nhọn của đối phương, tốc chiến để đạt thắng lợi, truy kích không để đối phương có cơ hội phục hồi sức mạnh” nên lập tức cho quân đuổi theo ráo riết. Đến đất Vĩnh An thì quân Tần đuổi kịp, hai quân lại giao chiến lần nữa nhưng kết quả vẫn không có gì thay đổi: quân Sở đại bại, mất luôn đất Tây Lăng.
Vương Tiễn liền sai Mông Vũ để một số quân đóng lại còn bao nhiêu thì tiến thẳng đến Hồ
Nam. Riêng Vương Tiễn thống lãnh đại binh tiến đến Thọ Xuân, bao vây kinh thành. Chưa được bao lâu, Vương Tiễn nghe tin Hạng Yên đã lên sông Hoài chiêu mộ quân sĩ, liền lợi dụng cơ hội ấy đánh thành rất gấp. Cuối cùng quân Sở không sao giữ được thành, Cảnh Kỳ tự đâm cổ mà chết, còn Sở vương Phụ Sô bị Vương Tiễn bắt sống.
Chờ đợi bao nhiêu ngày tháng, vừa nghe tin đại thắng, Tần vương Chính vô cùng mừng rỡ, cùng triều thần đến Phàn Khẩu nhận tù nhân Phụ Sô, truất ông ta xuống làm thứ dân. Đồng thời Tần vương nhân đà thắng, lại sai Vương Tiễn và Mông Vũ tiến đánh luôn Kinh Dương. Khi ấy Hạng Yên mới biết tin kinh thành thất thủ, vội vàng vượt Trường giang chạy trốn, lập Xương Vinh quân làm Sở vương rồi tổ chức phòng thủ ở Ô Lăng.
Thế nhưng chỉ hơn năm sau, Vương Tiễn đóng thuyền xong liền xuất quân tiến đánh. Xương Bình quân, tức Sở vương mới lập đi tuần trên thành bị trúng tên chết nên Hạng Yên chán nản đến mức không còn lòng dạ nào chiến đấu nữa, tự đâm cổ mà chết. Thế là nước Sở bị tiêu diệt, duy nhất chỉ còn lại nước Tề.
Sau đại thắng này, Vương Tiễn được Tần vương ban thưởng ngàn dật vàng, rồi chấp nhận cho ông về Dĩnh Dương hưu dưỡng như trước. Tần vương còn ưu ái phong cho con Vương Tiễn là Vương Bôn làm Đại tướng, sai đi tiêu diệt nước Yên. Quả là “hổ phụ sinh hổ tử”, Vương Bôn không phụ lòng mong đợi của phụ thân và Tần vương, sau khi tiêu diệt nước Yên xong còn thừa thắng đánh luôn nước Tề. Lúc đó nước Tề ỷ lại Tần sẽ không bao giờ đánh mình, vì vậy trở tay không kịp, Vương Bôn lại khôn khéo từ phía bắc đánh xuống chứ không theo phía tây nhưng thường lệ nên đến đâu đều đại thắng, tiến nhanh như chẻ tre, chẳng bao lâu đã bao vây kinh thành Lâm Tri của Tề.
Thế cùng lực kiệt, Tề vương nghe theo lời của Hậu Thắng mở cửa ra đầu hàng. Thế là Vương Bôn không tốn một tên quân cũng đã tiêu diệt được nước Tề, công trạng còn huy hoàng hơn cả Vương Tiễn. Khi ấy là năm thứ 26 của Tần vương Doanh Chính, tất cả 6 nước trong “thất hùng” đều bị tiêu diệt, thống nhất Trung nguyên thành một đất nước duy nhất.
Người minh trí đều biết rằng một khi công thành danh toại thì các công thần cũng khó sống sót, vì thế Vương Tiễn nhất quyết không ra mặt, ẩn cư ở Dĩnh Dương, còn Úy Liêu thì đột ngột đi đâu mất.
Tần vương đã đạt đại công, cũng không nghĩ gì nữa, không truy xét tung tích úy Liêu mà cũng không nhắc gì đến Vương Tiễn, để cho ông sống nhàn nhã cho đến khi 90 tuổi thì mất. Xét theo công trạng thì Vương Tiễn ngang bằng với danh tướng Bạch Khởi ngày trước, cũng được phong tước Võ An quân nhưng mưu trí hơn rất nhiều, hễ không đánh thì thôi, đánh là phải thắng, xứng đáng cho người đời sau ngưỡng mộ.
Ông là vị đại tướng lớn tuổi nhất trong lịch sử, trải qua 4 triều đại nhà Tần vẫn giữ vững được lòng trung thành và được nhiều người tôn trọng. Vương Tiễn mất vào năm 213 trước Công nguyên, tức là chưa tới 5 năm sau thì Thủy Hoàng đế Doanh Chính cũng mất trên đường tuần du, rồi 3 năm sau nhà Tần diệt vong dưới tay Lưu Bang và Hạng Võ.
5
HẠNG VÕ
HỮU DŨNG VÔ MƯU
Năm 246 trước Công nguyên, Tần vương Doanh Chính đã tiêu diệt được 6 nước, thống nhất thiên hạ và theo kiến nghị của Lý Tư xưng là Tần Thủy Hoàng đế rồi đặt ra những chế độ cực kỳ hà khắc để cai trị. Những chế độ này quả nhiên giúp cho nhà Tần yên ổn được một thời gian nhưng đó là bề mặt, trong lòng người dân các nước chư hầu bị thôn tính vẫn mang nặng ý chí muốn phục quốc. Khi vào thời kỳ nhà Tần sắp suy tàn, khắp nơi nổ ra những cuộc khởi nghĩa, trong đó đáng kể nhất là của Trần Thắng, Ngô Quảng. Tuy nhiên hai cuộc nổi dậy này không có người tài trí lãnh đạo, lại không có liên kết với các lực lượng khác nên chẳng gây khó khăn cho nhà Tần. Mãi đến khi đồng thời có hai cuộc nổi dậy của Hạng Võ nước Sở và Lưu Bang ở Cối Kê thì cuộc diện mới trở nên dữ dội. Đúng lúc căng thẳng nhất thì Tần Thủy hoàng băng hà, càng làm cho hao thế lực của Lưu Bang và Hạng Võ phát triển mạnh hơn. Lưu Bang chỉ là người Đình trưởng, trí mưu cũng tầm thường nhưng lại được sự phò tá của mấy hiền nhân mưu sĩ kiệt xuất như Trương Lương, Tiêu Hà, Trần Bình nên cuối cùng đoạt được thiên hạ.
Riêng Hạng Võ là một danh tướng có sức mạnh không ai bì kịp, đến như Hàn Tín của quân Hán cũng không thể đối đầu nhưng lại thiếu một “bộ óc” chiến lược, cuối cùng đành ôm hận mà chết. Tuy nhiên nếu so về tài năng tướng soái thì ngoài Hàn Tín ra, trong thời gian Hán-Sở tranh hùng chỉ có Hạng Võ mới xứng đáng là Tướng soái với nhiều trận đánh long trời lở đất.
Hạng Võ tên thật là Hạng Tịch, Võ là tên hiệu, người ở Hạ Tương nước Sở thời Xuân Thu chiến quốc. Hạng Võ là cháu nội của Hạng Yên, tướng nước Sở bị Vương Tiễn nước Tần giết chết, vì vậy dòng họ Hạng luôn luôn ghi nhớ mối thù này đối với nhà Tần. Thật sự họ Hạng trước kia là họ khác nhưng mấy đời làm Tướng nên được Sở vương ban cho đất phong ở Hạng, bèn lấy tên đất làm họ của mình để ghi nhớ.
Phụ Thân của Hạng Võ mất sớm nên ông phải sống nhờ vào người chú là Hạng Lương, con thứ của Hạng Yên. Ngay từ nhỏ hạng Võ đã biểu lộ là người có sức mạnh, có thể đọ sức cùng người lớn tuổi và cao lớn hơn mình được rồi. Khi lớn lên, có lần Hạng Võ biểu diễn với bạn bè, nâng một chiếc đỉnh nặng mấy trăm cân lên rất dễ dàng. Thế nhưng Hạng Võ rất lười nhác việc luyện tập võ nghệ kiếm cung, thậm chí đến binh pháp cũng ít khi nhìn nhõi tới, chỉ cậy vào sức
mạnh hơn thua với người.
Lúc Tần Thủy hoàng mới lên ngôi, đất nước chưa ổn định, Hạng Lương phạm vào tội giết người nên cùng gia quyến bỏ trốn đến đất Ngô Trung. Hạng Lương có học hành và cũng là người tướng có tài nên chẳng bao lâu đã nổi tiếng trong vùng đất mới, được nhiều người kính phục. Đó là điều kiện rất tốt để ông ta toan tính đến việc khởi binh chống Tần. Hạng Võ chỉ dựa vào Hạng Lương mà trở thành danh tướng.
Vào năm 209 trước Công nguyên, tức là khi Tần Thủy hoàng đã trị vì được 36 năm, ông tuần du đến đất Cối Kê. Khi mọi người đổ ra đường xem mặt Hoàng đế, Hạng Võ buột miệng nói:
– Nếu muốn mau chóng thì có thể giết hắn rồi lên chiếm ngôi thay thế.
Hạng Lương nghe vậy cả kinh bởi Tần Thủy hoàng thiết lập một chế độ rất tinh vi, chỗ nào cũng có tai mắt theo dõi, lộ ra thì có thể chết cả dòng họ. Hạng Lương vội vàng bịt miệng Hạng Võ rồi kéo về nhà. Tuy không bàn đến việc này nữa nhưng trong lòng Hạng Lương tự biết nếu nổi dậy thì chắc chắn phải nhờ cậy vào đứa cháu lớn gan lắm mật này.
Thái thú Cối Kê là Ân Thông đã nghe biết tên tuổi của Hạng Lương, tìm đến bàn: – Nay Thủy Hoàng đế sắp tuần du đến đây, nếu nhân dịp này hành thích rồi chiêu mộ người dân nổi dậy, có hy vọng sẽ thành đại nghiệp được đấy.
Hạng Lương biết Ân Thông chẳng có tài cán bao nhiêu, không muốn hợp tác với hắn nhưng Hạng Võ nghe thấy đúng ý mình thì hăng hái bước ra xin ủng hộ. Nhưng Hạng Lương gạt đi, cho rằng rất khó hành thích Tần Thủy hoàng, làm việc này tất sẽ “rút dây động rừng”, nên tính đến việc nổi dậy thì hay hơn. Được Ân Thông đồng ý, hai chú cháu Hạng Võ hôm sau đến nha môn, chưa kịp bàn soạn gì thì Hạng Võ đã rút kiếm chém rơi đầu Ân Thông, lấy thủ cấp của hắn làm hiệu lệnh hô hào mọi người đứng sau lưng Hạng Lương nổi dậy chống Tần.
Hầu như ai cũng đem lòng căm hận triều Tần nên lập tức có hai nhà lại là Quý Bá và Chung Ly Muội bước ra xin theo, Hạng Võ liền phong họ làm Đô úy. Thấy vậy rất nhiều người cũng xin theo, ngay từ lúc đầu thanh thế của chú cháu Hạng Võ đã khá mạnh. Chỉ mấy tháng sau, số người đi theo Hạng Lương lên tới gần một vạn nhưng vẫn chưa thấm tháp vào đâu đối với việc chống quân Tần. Quý Bá liền bàn đến Đồ Sơn thuyết phục hai tướng cướp là Hoàn Sở và Vũ Anh cùng về theo mình. Nếu thành công thì quân dưới tay hai tướng đó cũng gần một vạn.
Hạng Võ lập tức xin đi, một mình hùng dùng tiến vào hang ổ của Hoàn Sở và Vũ Anh, lấy danh phận dòng dõi Tướng nước Sở mà chiêu dụ. Hai tướng này đòi Hạng Võ phải trổ tài mới chịu quy phục. Hạng Võ liền xuống cái miếu Vũ vương ở chân núi, vận sức nâng cái đỉnh đồng
cao hơn bảy thước, ước chừng nặng đến 5000 cân. Sau đó Hạng Võ còn giở thần oai mang cái đỉnh đi ba vòng miếu mới bỏ xuống, sắc mặt vẫn không biến đổi, hơi thở vẫn bình thường. Trước thần oai kinh người như vậy, lập tức Hoàn Sở và Vũ Anh xin theo dưới trướng ngay. Thế là lực lượng của Hạng Lương đã được tăng cường sức mạnh, khắp vùng Ngô Trung đều biết tiếng.
Khi cùng Hoàn Sở và Vũ Anh kéo quân đến Cối Kê, dọc đường Hạng Võ lại trổ tài bắt một con thần mã thường hay đến quấy phá giúp cho dân làng. Nhân vậy Hạng Võ có ngựa hay, lại được Ngu công gả con gái cho, đó là Ngu Cơ, một trang giai nhân sắc nước hương trời. Dân làng cũng xin đi theo không ít, nhờ vậy chỉ mấy tháng sau Hạng Võ đã có trong tay 10 vạn quân cùng một viên tướng tài ba là Anh Bố nên thanh thế vang lừng. Theo lời của Quý Bá, Hạng Võ sai người mời một mưu sĩ ở thôn Cư Sào tên là Phạm Tăng ra làm Quân sư. Đêm hôm ấy Phạm
Tăng ra sân xem thiên văn, thấy khí số nước Sở đã hết, chắc chắn Hạng Võ không làm nên đại nghiệp nhưng đã lỡ nhận lời, đành thở dài mà theo phò tá.
Hạng Võ còn toan tính kết nạp cả Trần Thắng, thế nhưng lúc ấy Trần Thắng đã bị quân của danh tướng nước Tần là Chương Hàm đuổi chạy về Nhữ Âm rồi bị tên Trang Giả giết chết. Vì việc này Hạng Võ đâm ra lo lắng chẳng biết làm sao, đành nghe lời Phạm Tăng đi tìm một đứa cháu của Sở Hoài vương tên là Mễ Tâm đưa lên ngôi Sở vương cho chính danh, xưng hiệu là Hoài vương.
Hoài vương phong cho Hạng Lương làm Võ Tín quân, Hạng Võ làm Đại tư mã Phó tướng quân, Phạm Tăng làm Quân sư, Quý Bá và Chung Ly Muội làm Đô Kỵ tướng quân, Anh Bố làm Thiên tướng quân, Hoàn Sở và Vũ Anh làm Tán Kỵ tướng quân. Tiếng đồn lan xa, Hoài vương lại được một tướng nước Sở trước kia là Tống Nghĩa đem ba vạn quân đến quỉ phục, thanh thế càng hùng hậu. Sau khi đã chỉnh đốn triều đình xong,
Hạng Võ lấy danh nghĩa Hoài vương dẫn quân tiến đánh các châu quận chung quanh. Những châu quận này rất ít quân binh nên đến đâu Hạng Võ thắng trận đến đó.
Thừa thế, Hoài vương lại sai Hạng Lương mang quân vượt sông Hoài, đồng thời Hạng Võ đem quân tiến đánh Tương thành. Dù rất oán ghét chế độ nhà Tần nhưng quân sĩ của triều đình vẫn chống giữ rất kiên cường, rất lâu sau Hạng Võ mới phá được thành. Ông ta nổi nóng hạ lệnh giết hết toàn bộ người trong thành khiến chính nghĩa phần nào bị hoen ố.
Khi triều đình nhà Tần biết tin, lập tức sai Chương Hàm đem quân tiêu diệt. Ngay trận đầu Chương Hàm đã giết được Hạng Minh khiến Hoài vương hết sức lo lắng, sai Hạng Lương đem đại quân đi chống với Chương Hàm. Quả nhiên lần này Hạng Lương đã thắng luôn mấy trận vây hãm quân của Chương Hàm trong thành Định Đào. Thế nhưng Hạng Lương quá khinh địch
không đề phòng, nửa đêm bị Chương Hàm đánh úp, giết được Hạng Lương. Trong khi ấy Hạng Võ và Lưu Bang còn bận tiến đánh Trần Lưu, nghe tin Hạng Lương tử trận thì liền rút quân về Bành Thành cố thủ. Sau khi thắng được Hạng Lương, tướng Chương Hàm kiêu ngạo cho rằng quân Sở không có gì đáng phải lo ngại nên hạ lệnh vượt Hoàng Hà tiến đánh nước Triệu, vây hãm Triệu vương Yết và tướng quốc Trương Nhĩ trong thành Cự Lộc. Tướng Triệu là Trần Dư đem quân đến nơi nhưng thấy thanh thế của quân Tần quá mạnh, đành án binh bất động không dám ra giao chiến, cho người báo tin với Hoài vương. Nghe tin này, Hoài vương liền phong cho Lưu Bang làm Bái công, kéo quân đánh chính diện, còn quân của Hạng Võ thì theo hướng bắc cứu nước Triệu trước. Để kềm chế Hạng Võ, Hoài vương cho Tống Nghĩa làm Đại tướng, Hạng Võ tuy được phong làm Lỗ công nhưng lại là Phó tướng.
Việc phân công này có phần thiên vị, như thế cánh quân của Hạng Võ sẽ phải gánh thêm nhiệm vụ cứu Triệu, do đó Hạng Võ đã thầm bất mãn trong lòng. Thế nhưng khi đến nơi Tống Nghĩa lại hạ lệnh:
– Ta đã có tính toán sẵn rồi, bây giờ phải án binh bất động, ai trái lệnh sẽ bị chém đầu. Hạng Võ đang nôn nóng muốn trổ tài, nghe vậy hết sức tức giận, lẻn vào trướng của Tống Nghĩa mà mắng chửi. Bị Tống Nghĩa lấy danh Đại tướng mắng lại, Hạng Võ liền rút kiếm chém rơi đầu, cầm thủ cấp của Tống Nghĩa bước ra nói quân tướng:
– Tống Nghĩa âm mưu với Tần nên không chịu tiến quân, ta theo lệnh của Hoài vương chém đầu làm gương, ai không tuân theo hiệu lệnh của ta cũng bị rơi đầu giống như vậy. Sau đó cũng với lý do ấy, Hạng Võ cho người về báo với Hoài vương. Tuy Hoài vương không tin tưởng nhưng đành phải bỏ qua việc này, phong Hạng Võ làm Thượng Tướng quân. Nắm được binh quyền rồi, Hạng Võ liền sai Anh Bố đem 2 vạn quân vượt Hoàng Hà đến cứu thành Cự Lộc. Thế nhưng Chương Hàm quả là danh tướng của Tần, giao tranh bất phân thắng bại, cuối cùng Hạng Võ phải cho quân vượt Hoàng Hà. Trước khi qua sông, Hạng Võ bắt tất cả đập vỡ nồi nấu cơm, dốt lều trại, sau đó đánh chìm các thuyền để biểu lộ quyết tâm liều chết, chỉ có thắng mới sống sót.
Với khí thế ấy, quân của Hạng Võ đánh 9 trận thắng cả 9 trận, giết mấy tướng của đối phương. Từ đó trở đi danh tiếng của Hạng Võ chấn động khắp các chư hầu, nước nào nghe đến tên của ông đều run rẩy khiếp sợ. Chương Hàm cũng không khỏi lo lắng, triệu tập toàn bộ các tướng dưới quyền đến bàn soạn. Ngay khi ấy Triệu Cao đã tráo di chiếu, phò Doanh Hồ Hợi lên làm Nhị Thế, rồi sai Triệu Thường mang chiếu chỉ đến bắt tội Chương Hàm đã nhiều lần thất
trận. Bất đắc dĩ Chương Hàm phải bằng lòng quy thuận quân Sở sai Trần Hy làm sứ giả. Hạng Võ nghe kể lại mọi chuyện, cười lớn:
– Chính Triệu Cao đã giúp ta diệt Tần mau hơn vậy. Nhưng Chương Hàm giết chú của ta (Hạng Lương), làm sao quên được mối thù này.
Phạm Tăng phải phân tích lợi hại, Hạng Võ mới chịu nghe theo, chấp nhận cho Chương Hàm về đầu hàng quân Sở. Vì việc này Triệu Cao hạ lệnh giết toàn bộ gia quyến của Chương Hàm, ông ta quá uất ức liền hiến kế sách cho Hạng Võ:
– Hiện giờ tình hình đang rối loạn, triều Tần chưa kịp cử tướng đến giữ các cửa quan, Tướng quân nên thừa cơ hội này mau mau tiến quân vượt qua sông Chương. Có thể diệt được nhà Tần mau hơn dự định.
Thế nhưng Hạng Võ lại nghe theo lời của Phạm Tăng rút quân về Bành Thành nghỉ ngơi, đồng thời bệ kiến Hoài vương dâng công. Trong khi Hạng Võ phải đánh với Chương Hàm thì Lưu Bang theo đường thẳng tiến về phía tây, không những được Trương Lương ra phò giúp mà còn đánh thắng Hàn Vinh, thừa thế kéo quân đến đất Bái Thượng đóng trại. Lúc đó trong triều nhà Tần đã xảy ra nội loạn, Triệu Cao giết chết Nhị Thế, phò Tam Thế Doanh Tử Anh lên ngôi.
Nhận ra không còn cách nào chống đỡ, Tam Thế rơi nước mắt, gói ngọc tỷ vào một cái khăn, rồi mặc áo trắng đến xin đầu hàng Lưu Bang. Thế là Lưu Bang vào thành Hàm Dương trước. Hạng Võ nghe tin này hết sức tức tối, hội toàn bộ quân chư hầu kéo đến trước ải Quan Trung. Lúc đó quân của Lưu Bang đã trấn giữ ải này nên Hạng Võ tạm thời đóng binh xem xét tình thế. Trong lúc chờ đợi, Hạng Võ giả trang đi tuần, nghe được những lời oán trách của bọn hàng binh nước Tần thì nổi cơn giận dữ, về trại hạ lệnh giết toàn bộ, chỉ giữ lại ba tướng Tần là Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế.
Đêm hôm ấy Anh Bố đem 30 vạn quân đến chỗ các hàng binh, bắt toàn bộ 20 vạn quân Tần chôn sống, tiếng kêu khóc vang động cả một góc trời. Hành động này của Hạng Võ còn tàn ác hơn cả Bạch Khởi khi xưa đã giết 40 hàng binh nước Triệu bởi vì tính cách của nó khác nhau. Bạch Khởi đang trên đà tiến quân không thể nuôi hay giữ số hàng binh lớn như vậy, còn Hạng Võ chỉ vì một vài lời than vãn mà xuống tay, khiến ai nấy đều rùng mình. Đây cũng là một phần nguyên nhân Hạng Võ sau này thất bại trước Lưu Bang luôn luôn lấy nhân nghĩa ra thu phục thiên hạ.
Sau đó Hạng Võ phong cho Chương Hàm làm Tần vương, đồng thời bày trận sửa soạn đánh chiếm Hàm Cốc. Lưu Bang tự biết không thể nào đối địch với Hạng Võ nổi nên phải xuống nước điều đình, Hạng Võ liền mở yến tiệc tại Hồng Môn, trong ý muốn giết chết Lưu Bang tại
chỗ, nhưng nhờ nhiều người giúp đỡ, cuối cùng Lưu Bang chạy thoát về Bái Thượng. Hạng Võ cũng không vội, kéo quân đến Hàm Dương bắt Tam Thế Doanh Tử Anh đem chém đầu. Thật thương cảm cho ông vua trẻ tuổi mới làm Hoàng đế được 43 ngày đã phải rơi đầu vì tội lỗi của cha ông. Chưa hả giận, Hạng Võ còn sai quân nổi lửa đốt cháy cung A Phòng mấy tháng chưa tắt lửa. Xong việc Hạng Võ liền sai người về xin Hoài vương phong Vương, thế nhưng Hoài vương trả lời với Hạng Võ:
– Là vua không nói chơi. Ta đã ước hẹn trước rồi, không thể trái lời.
Hạng Võ nghe báo thì lại nổi cơn giận, tự lập mình làm vua, xưng hiệu là Tây Sở Bá vương, quyết định đóng đô ở Bái Thượng để cai trị. Với danh nghĩa này, Hạng Võ bắt buộc Hoài vương phải thiên đô đến Giang Nam nhưng giữa đường bí mật sai Anh Bố giết chết. Phạm Tăng sợ quân chư hầu cùng với quân của Lưu Bang cứ đóng ở Hàm Dương thì rất nguy hiểm, nói với Hạng Võ phong chức rồi truyền cho họ trở về là hay hơn. Hạng Võ nghe theo, phong cho Lưu Bang làm Hán vương đóng đô ở Nam Trịnh, Ba Thục; Chương Hàm làm Ung vương đóng đô ở Phế khâu, Tư Mã Hân làm Tắc vương đóng đô ở Lịch Dương; Đổng Ế làm Địch vương đóng đô ở Cao Nộ; Thần Dương làm Hà Nam vương đóng đô ở Lạc Dương; Anh Bố làm Cửu Giang vương đóng đô ở Lục Hợp; Ngụy Báo làm Tây Ngụy vương đóng đô ở Bình Dương; Tư Mã Ngang làm Ân vương đóng đô ở Triều Ca; Trương Nhĩ làm Thường Sơn vương đóng đô ở Tương châu; Cung Ngao làm Lâm Giang vương đóng đô ở Giang Lăng; Yên vương Hàn Quảng làm Liêu Đông vương; Tề vương Điền Thị làm Giao Đông vương; Điền Đô làm Tề vương đóng đô ở Lâm Tri; Điền An làm Tế Bắc vương đóng đô ở Bắc Dương.
Nam Trịnh là đất hoang vu, đường đi lại rất cheo leo hiểm trở, chỉ độc nhất mỗi con đường Sạn đạo nên Lưu Bang không muốn nhận đất phong, Trương Lương phải thuyết phục nhiều lần ông ta mới ưng chịu. Trong khi vua tôi Lưu Bang kéo nhau vào đất Ba Thục thì nội bộ của Hạng Võ cũng không yên ổn, các chư hầu hết sức bất mãn về việc phân phong nên sau khi về tới đất phong thì một số liền nổi dậy chống lại Hạng Võ. Đã quá thoả mãn với ngai vị của mình, Hạng Võ đóng đô ở Bành Thành không còn nghĩ đến việc chinh phạt nữa. Tuy nhiên để đề phòng Lưu Bang, ông ta cũng sai ba hàng tướng Tần là Chương Hàm, Đổng Ế và Tư Mã Hân phải tích cực trấn giữ Tam Tần.
Những sự việc sai lầm của Hạng Võ khiến một viên tướng nhỏ là Hàn Tín bất mãn, lẻn trốn đến Ba Thục đầu quân với Lưu Bang và được phong làm “Phá Sở Đại Nguyên soái”. Nhờ tài trí của Hàn Tín, quân hán lập kế “Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương” bất ngờ theo đường nhỏ tiến ra Quan Trung, liên tiếp đánh bại ba hàng tướng trấn Tam Tần, thẳng tiến đến Hàm Dương.
Thừa thế Lưu Bang sai Hàn Tín đem quân đi đánh các nước chư hầu như Ngụy, Tề, Triệu,
đến đâu danh tướng này cũng đều chiến thắng. Cùng lúc ấy Lưu Bang lấy cớ là báo thù cho Hoài vương, tiến quân tấn công Bành Thành. Lúc ấy Hạng Võ còn đang bận ở nước Tề, vội vàng sai Chung Ly Muội và Long Thư ở lại tiếp tục đánh phá, còn mình thì dẫn đại quân về Bành Thành. Khi còn cách 30 dặm. Hạng Võ oai phong viết chiến thư đưa sang thách thức Lưu Bang.
Ngay trận đầu Hạng Võ đã tỏ oai phong, hét lên một tiếng lớn khiến Tư Mã Ngang đã về đầu hàng Hán vương kinh sợ đến nỗi ngã xuống ngựa, bị Hạng Võ xông đến đâm cho một thương chết tốt. Thấy hai tướng cũng của mình là Thân Dương và Trương Nhĩ hợp sức cùng đánh, Hạng Võ cả giận một mình đấu với hai tướng, rốt cuộc giết được Thân Dương, còn Trương Nhĩ chạy thoát. Thừa thắng quân Sở tràn lên đánh giết quân Hán một trận tơi bời.
Trận thứ nhì tuy Hán vương đã điều động nhiều tướng giỏi ra đánh nhưng vẫn không thể chống nổi với sức mạnh kinh người của Hạng Võ, quân Hán đại bại lần nữa, máu chảy thành sông. Lưu Bang chạy trối chết về thành nhưng hai hàng tướng là Tư Mã Hân và Đổng Ế một lần nữa trở mặt, mở cửa thành đón Hạng Võ vào mất rồi. Lưu Bang rụng rời cả tay chân, tìm đường nhỏ chạy thục mạng Lưu Bang tưởng đâu đã bỏ mạng khi bị quân của Đinh Công chặn đường. May sao Đinh Công vốn rất hâm mộ Lưu Bang, chỉ đường cho ông ta chui xuống một cái giếng cạn bên góc rừng mới thoát thân.
Hạng Võ không giết được Lưu Bang nhưng thấy toàn quân của đối phương đã tan vỡ thì không truy sát nữa, mấy hôm sau tiếp tục đem quân đi đánh nước Tề. Với tài sức vô cùng anh dũng, chẳng bao lâu Hạng Võ đã tiêu diệt xong nước Tề, để một tướng ở lại trấn thủ, còn bao nhiêu kéo về Bành Thành an dưỡng, chờ sau khi quân tướng khỏe mạnh sẽ tiến đánh tiêu diệt Hán vương Lưu Bang bằng được.
Khi đã chấn chỉnh xong quân mã, Hạng Võ không quên được đối thủ khó chịu đang cản trở việc thống trị thiên hạ của mình, lập tức điểm quân tiến đến Huỳnh Dương. Tiếc rằng lúc đó Tiêu Hà đã tăng viện thêm cho Lưu Bang mấy vạn quân, đồng thời chuyển vận lương thảo đầy đủ nên mấy lần Hạng Võ tiến đánh mà không thành công. Sau đó Hạng Võ lại dùng mưu kế sai Tôn Thúc Thông trá hàng làm nội ứng nhưng rốt cuộc cũng bị Trương Lương và Trần Bình nhìn ra, chém đầu Tôn Thúc Thông. Trong chiến dịch này Hạng Võ không cho Phạm Tăng theo quân nên khi nghe tin Tôn Thúc Thông bị giết thì chán nản nói với các tướng:
– Mưu kế dùng Tôn Thúc Thông làm nội ứng của ta hỏng mất rồi. Nếu cứ chần chừ ở đây mãi, Hàn Tín kịp đem quân về chiếm Bành Thành thì ta nguy mất, phải mau rút về thôi. Long Thư lo lắng nói:
– Tất nhiên là phải rút quân nhưng chỉ sợ quân Hán sẽ thừa cơ truy kích. Cần phải có kế sách
vẹn toàn mới được.
Hạng Võ nghe theo, mỗi ngày cho một ít quân lặng lẽ rút lui nhưng đồng thời vẫn đánh trống phất cờ như cũ. Nhờ vậy quân Sở rút đi êm thắm, khi Hán vương Lưu Bang biết tin thì quân Sở đã đi khá xa rồi. Hạng Võ về đến Bành Thành kể lại cho Phạm Tăng nghe mọi chuyện. Phạm Tăng liền đập tay xuống bàn than lớn:
– Thôi rồi, Đại vương đã trúng kế của Trương Lương rồi vậy. Cái tin Tôn Thúc Thông bị chém đầu chính là để Đại vương rút quân, hắn chưa chết đâu. Hạng Võ hết sức tức giận nhưng vẫn còn lo ngại Hàn Tín mạng quân về kịp nên đành nuốt giận hạ lệnh cho ba quân xếp giáp nghỉ ngơi.
Một thời gian sau Hạng Võ nghe tin Hàn Tín đã bình định xong nước Yên, sửa soạn kéo quân đánh nước Tề thì rất kinh sợ, bàn với Phạm Tăng tiến đánh Huỳnh Dương lần nữa để trừ hậu họa. Được sự tán đồng của Phạm Tăng, Hạng Võ liền điểm 10 vạn quân mã rầm rộ kéo đến thành Huỳnh Dương. Lưu Bang nghe tin cũng hốt hoảng bởi vì lực lượng của Hạng Võ còn hùng hậu hơn lần trước nhiều lần, Trần Bình liền hiến kế sách:
– Quả nhiên chúng ta không thể chống với Hạng Bá vương nổi. Theo thần thì phải dùng kế ly gián, tức là loại trừ Phạm Tăng trước. Hạng Bá vương tuy sức địch muôn người nhưng hữu dũng vô mưu, không có Phạm Tăng trước sau gì cũng thất bại.
Lưu Bang rất mừng, lập tức trao cho Trần Bình bốn vạn nén vàng để thi hành. Trước tiên, Trần Bình thuê nhiều người phao tin đồn rằng Chung Ly Muội, Long Thư lập công lớn mà không được Hạng vương ban phong đất đai, vì vậy trong lòng muốn thông đồng với Hán vương, hợp sức đánh Sở. Lời đồn này đến tai Hạng Võ, ông ta đâm ra hoang mang, vì vậy khi bao vây thành Huỳnh Dương không cho bất cứ tướng nào theo hầu, một mình cưỡi ngựa quanh thành dò xét tình hình.
Vì bị nghi ngờ nên hầu hết các tướng Sở đều không hết lòng chiến đấu, do vậy công phá luôn 7 ngày vẫn không thành công. Đợi đến lúc đó, Trần Bình mới tiếp tục thi hành kế sách ly gián, sai Tùy Hà làm sứ giả đến quân doanh Sở thương lượng cắt đất giải hòa. Hạng Võ đang lúc phân vân, nghe vậy ý muốn bằng lòng nhưng Phạm Tăng can ngăn, nói:
– Đây là do Đại vương tiến đánh quá dữ dội nên Hán vương mượn cớ cầu hòa để củng cố lực lượng đó thôi. Xin Đại vương chớ nghe lời dối trá của bọn chúng mà hãy đốc thúc đánh thành mạnh hơn nữa tất đoạt được ngay.
Hạng Võ không biết nên tính ra sao, cho Tùy Hà về trước rồi sẽ cho sứ giả vào thành trả lời sau. Lợi dụng cơ hội ấy, khi sứ giả của Hạng Võ là Ngu Tử Kỳ vào thành thì Lưu Bang theo kế
của Trần Bình, sai người bày tiệc hết sức linh đình nhưng lúc Ngu Tử Kỳ đến dự tiệc thì Trần Bình và Trương Lương đứng ra cho biết Hán vương đêm qua uống rượi quá say không tiếp kiến ngay được.
Trần Bình chợt hỏi:
– Phạm quân sư lâu nay vẫn mạnh khỏe phải không? Ông có dặn gì riêng cho ngài thì cứ cho tôi biết cũng được?
Ngu Tử Kỳ ngơ ngác không hiểu, sau đó chau mày đáp:
– Tôi là sứ giả của nước Sở, đâu phải người của Phạm quân sư mà các ông hỏi lạ vậy? Trần Bình và Trương Lương vờ nhìn nhau kinh ngạc rồi giả như ghé tai nhau nói nhỏ, thật sự là vừa đủ cho Ngu Tử Kỳ nghe được:
– Tưởng là người của Phạm quân sư nên mới bày tiệc lớn thế này. Hóa ra không phải mất rồi.
Sau đó hai người quay đi ngay, sai gia nhân đưa Tử Kỳ đến một căn phòng chật hẹp, cơm nước dọn lên rất tầm thường khiến Tử Kỳ vô cùng thẹn thùng. Hôm sau nghe tin Hán vương đã tỉnh táo, Ngu Tử Kỳ sợ mất thời gian, vội vã đến thẳng quân doanh xin tiếp kiến. Viên quan hầu cận cho biết Hán vương chưa sửa soạn xong, dẫn Tử Kỳ vào một căn phòng rất kín đáo ngồi
chờ. Mãi không thấy Hán vương ra tiếp kiến, Ngu Tử Kỳ đi quanh một vòng, chợt thấy bức thư nằm lấp ló dưới quyển sách thì tò mò rút ra đọc thử. Thư viết rất ngắn: “Hạng vương không được thiên hạ tâm phục, thế lực yếu dần. Đại vương đừng chấp nhận giải hòa, hãy mau chóng gọi Hàn Tín về giúp sức đối địch, phía trong đã có chúng tôi làm nội ứng. Số vàng mà Đại vương ban cho quyết không dám nhận”.
Bức thư để trống không ký tên nhưng Ngu Tử Kỳ đọc xong thì liền liên tưởng ngay tới những lời đồn đại gần đây, lén giấu mật thư vào túi rồi trở về chỗ cũ ngồi như trước. Lúc đó Hán vương mới đăng triều, mời Ngu Tử Kỳ vào bàn bạc vớ vẩn vài câu là cho sứ giả về ngay. Ngu Tử Kỳ lập tức yết kiến Hạng vương trình bày mọi việc. Hạng vương đọc xong bức mật thư thì bừng bừng sát khí, quát lớn:
– Tên giặc gì ấy đã bất mãn ta từ lâu, quả nhiên nay dám giở trò nội ứng, định làm phản thì ta quyết không thể tha chết cho hắn được.
Ngu Tử Kỳ cố gắng khuyên giải, cho rằng bức mật thư không đề tên tuổi rõ ràng thì chưa có chứng cứ, xin Hạng vương giấu kín để điều tra cho minh bạch rồi hãy có quyết định sau. Nghe vậy Hạng vương giảm bớt cơn giận. Thế nhưng Phạm Tăng có nhiều tai mắt, lập tức nghe biết chuyện này, tự mình vào yết kiến Hạng vương để thanh minh. Chờ Phạm Tăng thanh minh
xong, Hạng vương đáp thõng:
– Ngu Tử Kỳ là kẻ thân tín của ta, đời nào lại đi nói dối!
Phạm Tăng nghe vậy biết rằng khó có thể lay chuyển được tâm ý của Hạng vương nữa rồi bởi vì ông ta gần như không thèm nghe lời của mình vào tai, đành xin được về quê an dưỡng tuổi già, sau đó vì quá uất ức chết trên đường đi, thọ được 71 tuổi.
Sau đó Hạng Võ mới nhận ra mình đã trúng kế ly gián, lập tức tiến quân đánh rất dữ. Lúc ấy Hạng Võ cũng sai quân tướng chia nhau ra đánh chặn các đường tiếp tế khiến trong thành hết sức khôn đốn. Cuối cùng Trần Bình phải đưa ra kế sách khác, thuyết phục một viên tướng có diện mạo khá giông Lưu Bang là Kỷ Tín đóng giả Hán vương. Nhờ vậy quân Sở ùn ùn kéo đến bao vây chiếc xe do Kỷ Tín mặc hoàng bào ngồi phía trong, Lưu Bang mới thừa cơ lẻn ra phía sau tẩu thoát.
Hạng Võ liền sai Quý Bá và Long Thư dẫn quân truy kích, luôn ba ngày ba đêm không nghỉ nhưng Lưu Bang đã chạy đến Thành Cao mất rồi, đành phải dẫn quân trở về báo lại. Hạng Võ nghe vậy hết sức tức giận, tạm hoãn việc đánh Thành Cao, dồn lực lượng chiếm thành Huỳnh Dương. Khi ấy trong thành vẫn còn hai tướng nhà Hán là Trung Thu và Chu Hà cố thủ, chém
đầu Ngụy Báo làm hiệu lệnh nên quân sĩ liều chết giữ thành, 10 ngày sau vẫn đứng vững như đồng.
Khi ấy không còn Phạm Tăng, Hạng Võ phải đưa thúc phụ là Hạng Bá lên làm Quân sư. Hạng Bá liền xin cứ quyết đánh thì mới thành công được. Hạng Võ nghe theo, hạ lệnh cho quân sĩ nếu lui về thì chém đầu. Do vậy quân Sở không còn cách nào khác là phải tử chiến, cuối cùng hạ được thành, bắt sống cả Trung Thu lẫn Chu Hà đem chém đầu làm gương. Khi xong việc, Hạng Võ theo kế sách của Hạng Bá, vỗ yên dân chúng Huỳnh Dương, đồng thời tiến quân bao vây Thành Cao, tiến quân đánh cả bốn mặt.
Thế nhưng đúng lúc ấy quân của Vương Lăng đang đánh Bành Thành và quân của Anh Bố cũng đang kéo về nên phải theo lời khuyên của Hạng Bá chia quân ra đón đỡ hai đường kia, đồng thời vẫn tiếp tục tiến đánh Thành Cao. Mấy lần Hán vương Lưu Bang cho gọi quân của Hàn Tín về cứu giá nhưng không được hồi âm, bất đắc dĩ đang đêm phải lén trốn ra khỏi thành, đến nước Triệu mà trách cứ Hàn Tín. Đó là thời điểm năm 204 trước Công nguyên.
Thế nhưng Lưu Bang không dám cách chức của Hàn Tín, chỉ mắng vài lời rồi xuống lệnh đi đánh nước Tề. Với tài cầm quân tài ba của ông, chỉ trong một thời gian ngắn đã tiêu diệt được quân đội nước Tề. Hạng Võ nghe tin thì thất sắc, sai Long Thư và Chu Lan điểm 3 vạn quân mã cấp tốc đi cứu Tề vương. Chẳng may Long Thư quá kiêu ngạo, không nghe lời khuyên của Chu
Lan nên trúng kế ngăn nước sông Duy thủy của Hàn Tín, bị Tào Tham chém rơi đầu. Lúc ấy Hạng Võ đã cho quân đến đất Bái bắt toàn bộ gia quyến của Lưu Bang, nên thấy Hàn Tín đã ổn định được nước Tề thì liền sai hợp quân cùng mình tiến đánh Hạng Võ.
Lần này Lưu Bang thu phục được viên tướng người Thổ Phiên là Lâm Phiền, có thân hình cao to, mặt mày hung hãn, sức mạnh muôn người không địch lại nên mới ra trận đầu đã đánh tan tành quân Sở. Hạng Võ nghe vậy hết sức tức giận, quát mắng các tướng:
– Chỉ là một tên Thổ Phiên mà các ngươi không địch nổi thì còn mong gì chiếm hết thiên hạ?
Mắng xong tự thân Hạng Võ đem quân đến đấu với Lâm Phiền. Được mấy hiệp quả nhiên Lâm Phiền không sao địch nổi Hạng Võ, phải quay ngựa bỏ chạy. Hạng Võ quyết đuổi theo nên Lâm Phiền toan tính sẽ quay người bắn ngược lại một mũi tên. Thế nhưng Hạng Võ nhìn thấy, quát một tiếng như sấm nổ. Lâm Phiền ghê gớm như vậy mà cũng bị tiếng quát làm run rẩy cả tay chân, vội vàng quất ngựa bỏ chạy. Thấy Hạng Võ quyết đuổi theo, Lưu Bang phải thân cùng các tướng kéo binh ra cứu trợ, Lâm Phiền mới chạy thoát. Thế nhưng vì việc này mà Lưu Bang bị trúng tên, tuy chỉ bị thương nhưng về khi lên ngôi Hoàng đế rồi, vết thương tái phát mà chết. Tuy thắng trận nhưng Hạng Võ cũng biết tình thế chưa thể đại thắng, cho quân rút rút lui. Lưu Bang bị vết thương ấy hành hạ mê man, cụng phải lui về Thành Cao nhờ Hàn Tín giúp sức.
Sau khi chỉnh đốn quân mã xong Hàn Tín đem đại quân đến thách chiến với Hạng Võ. Thấy thanh thế của Hàn Tín rất mạnh, Hạng Võ liền dùng Thái công, phụ thân của Lưu Bang ra làm điều kiện quân Hán phải lui binh. Thế nhưng Lưu Bang theo lời của Trần Bình, nói với sứ giả nước Sở:
– Ta và Hạng Võ đã kết nghĩa anh em, phụ thân của ta cũng là phụ thân của hắn. Nay muốn giết hay muốn nuôi dưỡng là tùy ý.
Vì việc này Hạng Võ rất bối rối, bất đắc dĩ phải đem quân đối chiến. Trận đánh này hết sức dữ dội bởi hai bên đều có danh tướng tài ba xuất trận, Hạng Võ giao chiến với Hàn Tín, các tướng nhà Hán giao chiến với các tướng Sở, tiếng quân reo ngựa hí vang trời động đất. Hạng Võ quả nhiên là thần tướng, đến như Hàn Tín đánh vài hiệp đã bủn rủn tay chân, thúc ngựa bỏ chạy. Hạng Võ thúc ngựa đuổi theo, khi đến chân núi Quảng Vũ thì không thấy Hàn Tín đâu nữa. Chung Ly Muội vội ngăn cản, nói:
– Hàn Tín vốn là người đa mưu túc kế. Vì vậy nếu bại trận chắc cũng đã bố trí đâu đó sẵn sàng. Nếu như Đại vương tiến vào đây là lối đi độc đạo thì e rằng có phục binh sẽ không còn đường thoát.
Hạng Võ nghe theo, cho dừng quân chứ không đuổi theo. Quả nhiên quân Hán mai phục thấy vậy liền nổ pháo hiệu xông ra, ba mặt bao vây. Thấy quân tướng Sở đều kinh hoảng, Hạng Võ liền tức giận nói lớn:
– Ta từ khi cưỡi ngựa chiến chinh đến nay giết hàng chục vạn quân sĩ, chém đầu hàng chục tướng địch. Bây giờ đã có ta thì các ngươi còn sợ hãi gì nữa, mau xông lên đánh bại quân Hán cho ta.
Nói xong chính Hạng Võ tiến lên trước, tả xung hữu đột đánh phá khiến quân Hán vô cùng kinh sợ, phải dạt qua hai bên thành một lối thoát nhỏ. Thấy Hạng Võ sắp ra khỏi trận địa, phía quân Hán sai Anh Bố, Lâm Phiền, Tào Tham, Sài Vũ cùng lượt xông ra; phía quân Sở các danh tướng như Chung Ly Muội, Hoàn Sở, Quý Bá cũng xông lên đấu chiến kịch liệt khiến bụi đất tung bay mù mịt cả một vùng. Hai bên đấu nhau đến khi trời sụp tối thì quân Sở yếu thế hơn, Hạng Võ đành phải dẫn quân theo đường núi mà chạy. Chẳng ngờ Hàn Tín đã sắp đặt sẵn dùng hỏa công đánh phá khiến quân Sở chết thôi vô số.
Thấy quân mình đang thắng thế, tướng Thổ Phiên là Lâm Phiền hung hăng thúc ngựa thẳng vào trung quân, định giết Hạng Võ lập công. Tuy đang thất thế nhưng Hạng Võ vẫn còn uy phong hơn người, hét lên một tiếng vang trời rồi vận lực chém Lâm Phiền một đao đứt làm hai đoạn. Cùng lúc ấy hai tướng Chu Ân và Hoàn Sở đánh bọc hậu phía sau quân Hán mới dưa Hạng Võ ra khỏi vòng vây, thu góp tàn quân đóng trại nghỉ ngơi. Tuy trận này Hàn Tín thắng trận nhưng đó là nhờ vào một loạt mưu kế bày sẵn, trong khi đó Hạng Võ thất thế mà vẫn đánh giết được khá nhiều quân tướng nước Hán thì đủ biết sự dũng mãnh của ông ta thật kinh người.
Hai bên nghỉ ngơi xong lại tiếp tục bày trận giao chiến. Lần này Hạng Võ tưởng như đã chết không còn đường nào thoát thân, bất ngờ tự nhiên quân Hán đại loạn vẹt ra thành một con đường trống, Hạng Võ theo đó mà chạy về doanh trại. Hóa ra là do công của các tướng Quý Bá, Chu Lan, Chu Ân và Chung Ly Muội đồng lòng phá trận. Hạng Võ liền hỏi thế trận kỳ lạ của Hàn Tín là gì thì Chu Lan thưa:
– Hạ thần trước kia theo học trận thế của Lý Thiếu ở Hoa sơn, biết đó là trận Thái Ất chia làm nhiều cửa sinh tử, âm dương, nên liền cùng các tướng đánh vào cửa sinh, may mắn mới cứu được Đại vương.
Hạng Võ hết lời khen ngợi, ban tặng cho Chu Lan một chén ngự tửu rồi lập mưu đem Thái công ra làm áp lực với Hán vương. Tuy đã được Hạng Bá lén giúp đỡ nhưng Lưu Bang vẫn biết đó chỉ làm tạm thời, nghe theo lời Trương Lương chấp nhận nghị hòa. Thật sự Hạng Võ đang có phần thắng thể nhưng tự nghĩ: “Ta cùng với quân Hán đã nhiều phen giao tranh, đôi bên đều
thiệt hại nặng nề. Thêm vào đó bây giờ quân tướng cũng đã quá mỏi mệt, lương thực thiếu thốn, chi bằng tạm thời hòa hoãn, lúc nào đánh mà chẳng được?”.
Vì vậy Hạng Võ quyết định cho Hán vương giải hòa, lấy đất Hồng Câu làm ranh giới. Sau đó Hạng Võ giữ đúng lời hứa, giao vợ chồng Thái công về cho Hán vương Lưu Bang. Thế nhưng khi đã cứu được phụ thân, Lưu Bang lại trở mặt cho quân tiếp tục đánh chiếm các đất bên kia ranh giới. Hạng Võ cũng đã sẵn sàng, lập tức cho hội quân ở cố Lăng, viết chiến thư hẹn ngày tái đấu.
Hán vương Lưu Bang không ngờ Hạng Võ lại sửa soạn mau chóng như vậy, lại còn thách chiến tức là hùng khí vẫn còn mạnh mẽ nên hơi kinh hoảng, lập tức viết thư gọi Hàn Tín mang quân trở về. Chẳng ngờ Hạng Võ nói là làm ngay, chưa thấy quân tiếp viện đâu thì quân Sở đã chiếm luôn mấy thành. Hán vương Lưu Bang đành theo kế của Trương Lương án binh bất động, lấy tĩnh chế động.
Mấy ngày sau Lưu Bang lại nghe theo lời của Chu Lan, cho mấy tướng đem quân giao chiến thử xem thực lực của quân Sở mạnh yếu thế nào. Chẳng ngờ Hạng Võ rất hùng dũng, một mình giao chiến với mấy tướng Hán mà vẫn thừa sức đuổi họ chạy dài. Lưu Bang phải cho Ngạn Hấp dẫn một lúc 10 viên tướng ra đánh chặn lại. Dù vậy quân Hán cùng đại bại, chết rất nhiều, các tướng Hán đành phải chạy về thành Cố Lăng không dám ra đấu chiến nữa.
Một lần nữa Hán vương đại bại dưới tay của Hạng Võ, phải lén thừa cơ quân Sở bất ý, đánh phá một đường thoát thân, chạy về Thành Cao. Khi nào Hạng Võ lại bỏ qua việc này, kéo hết binh mã đến vây đánh Thành Cao, nhưng sau 3 ngày thì quân lương thiếu thốn, phải tự rút lui.
Thấy thế quân của mình không sao chống nổi với sức mạnh thần dũng của Hạng Võ, Hán vương Lưu Bang vô cùng lo lắng, triệu các mưu sĩ lại bàn bạc. Trương Lương liền hiến kế phong chức cho các tướng ở xa, rồi sau đó gọi họ về hợp binh. Khi đã được làm Vương và có đất phong riêng, các tướng ấy tất sẽ đồng lòng đánh Sở. Như vậy mới có thể tiêu diệt được Hạng Võ hoàn toàn.
Hán vương nghe theo, phong cho Hàn Tín làm Tam Tề vương, cai trị Lâm Tri và 9 quận huyện; Bành Việt làm Đại Lương vương cai trị đất Lương; Anh Bố làm Hoài Nam vương cai trị đất Hoài Nam. Chính Trương Lương đích thân cầm sắc phong đi đến các đất chư hầu và nhân cơ hội ấy thuyết phục họ đem hết quân sĩ đến hội họp, quyết đánh một trận cuối cùng với Hạng Võ. Nghe tin Hán vương đã hội tụ đến 100 vạn quân, Hạng Võ thất kinh, nghĩ đến lời khuyên của Phạm Tăng là phải giết Lưu Bang thì vô cùng hối hận. Tiếc rằng một lần nữa Hạng Võ tính toán sai lầm, thay vì phải khôn khéo phủ dụ gọi quân của Chu Ân ở Giang Đông về tiếp trợ thì lại sai Lý Ninh đem hai đạo hịch văn đi triệu Chu Ân, đồng thời chiêu tập số quân mã ở Giang Đông.
Trong hịch văn lời lẽ rất ép buộc nên Chu Ân bất mãn quyết định không tuân lệnh. Việc này làm cho Hạng Võ hết sức tức giận nhưng ngay lúc ấy Thái thú Cối Kê là Ngô Đan đem quân đến kết hợp, tính ra được hơn 50 vạn nên tạm thời Hạng Võ không tính đến việc trừng trị Chu Ân nữa. Hàn Tín cũng biết tin này, tính toán hai bên số lượng quân tướng khá ngang bằng, khó có thể trong một trận mà giết được Hạng Võ nên bàn với Lý Tả Xa lập mưu dụ Hạng Võ vào chỗ chết. Lý Tả Xa bằng lòng, đến quân doanh của Hạng Võ trá hàng, sẽ tìm lời ngon ngọt dẫn dụ quân Sở lọt vào thế trận mai phục.
Thời điểm này là mùa thu năm 202, đại quân của Hán vương kéo ra khỏi Thành Cao, đến núi Cửu Lý thì hạ trại. Hạng Võ đang tính đem đại quân đánh luôn thì Chu Lam khuyên can nên nghe theo, tạm thời án binh bất động. Tiếc rằng Lý Tả Xa là gian tế, thấy vậy liền tranh cãi với Chu Lan, cho rằng phải tiến quân ngay mới xứng mặt anh hùng. Hạng Võ bị đánh trúng vào điểm yếu, quyết định xuất binh, không nghe lời của Chu Lan nữa. Đúng lúc xuất quân, đột nhiên có một cơn cuồng phong rất mạnh, cuốn gẫy cây đại kỳ ở Trung quân. Các tướng Sở đều cho đó là điềm chẳng lành, xúm lại tâu xin Bá vương tạm thời đừng xuất quân. Hạng Võ liền cười mà nói với các tướng:
– Trước kia Vũ vương xuất quân đi phạt Trụ vương cũng xảy ra việc quân kỳ bị gió cuốn gẫy. Khương Thái công cho đó là việc tự nhiên của trời đất, khuyên Vũ vương cứ động binh, rốt cuộc thành công. Nay ta là một danh tướng không ai địch lại, quân mã cũng hùng tráng, lại rầm rộ kéo đi muôn người đều biết. Sao lại có thể vì chuyện nhỏ nhặt ấy mà dừng binh được?
Lý Tả Xa cũng nhân vậy dùng lời lừa dối là Hàn Tín đang định đem quân trở về, còn Hán vương thiếu lương thực phải đưa một số quân tướng về Thành Cao rồi. Nghe vậy Hạng Võ lại càng quyết tâm, nhất định cho đại binh tiến phát, ai ngăn trở sẽ bị chém đầu. Chẳng ngờ khi đã bày binh bố trận thì đột nhiên Lý Tả Xa cùng bọn tùy tùng trốn đi hết. Lúc ấy Hạng Võ mới biết mình đã trúng kế của Trương Lương nhưng đã lỡ đem binh đến nơi, mặt mũi nào rút lui. Hạng Võ liền cắt đặt Chung Ly Muội thống lĩnh 3 vạn quân đóng ở phía tả; Quý Bá thống lĩnh 3 vạn quân đóng ở phía hữu; Hoàn Sở làm Tiền quân, Ngu Tử Kỳ đi hậu hợp.
Với thế trận nghiêm minh chặt chẽ của quân tướng nước Sở, thật khó lòng đánh phá nổi nên Hàn Tín lại xin đích thân Lưu Bang ra trận, dùng những lời xấc láo mới dẫn dụ Hạng Võ vào chỗ chết được. Lưu Bang nghe theo.
Hai bên dàn trận xong xuôi lập tức nổi trống khua chiêng tiến đánh luôn mấy trận, hầu hết Hạng Võ đều thắng thế bởi không có tướng nào của nhà Hán địch lại. Ngay lúc ấy Lưu Bang xuất hiện, từ trên gò cao mắng chửi xuống khiến Hạng Võ hết sức tức giận, lận tức đuổi theo. Quý Bá quan sát hai bên hình như có quân Hán mai phục thì kinh hoảng thúc ngựa chạy theo
Hạng Võ, lớn tiếng kêu gọi:
– Lưu Bang bỏ chạy mà quân sĩ vẫn còn đứng lại thì là mưu kế của Hàn Tín đó. Hạng Võ nghe được, giật mình quay ngựa lại ngay. Thế nhưng đến lượt Lý Tả Xa xuất hiện, vừa cười khanh khách vừa đưa ra lời bỡn cợt khiến Hạng Võ nổi giận đỏ bừng cả mặt, không sao kềm hãm được nữa, thúc con ngựa Ô Truy phóng tới như bay. Lý Tả Xa đã tính toán sẵn đời nào để Hạng Võ bắt được, lượn lờ một hồi đột nhiên biến vào đâu mất. Hạng Võ còn đang ngơ ngác thì từ bốn phía quân Hán ầm ầm để ra, tên cũng bắn như mưa.
Hạng Võ cùng với Chung Ly Muội và Quý Bá hết sức xung phá vòng vây, giết hết lớp này đã có lớp kia xông lên, càng đánh càng thấy quân Hán hình như nhiều hơn chứ không vơi đi chút nào. Hạng Võ nhìn xa xa thấy có cờ hiệu của Hàn Tín đi tới thì than dài:
– Lần này ta khó mà thoát được.
Lâm vào hoàn cảnh sinh tử, Hạng Võ vận hết thần lực, hét lên một tiếng rồi múa đao đánh tả chém hữu, giết vô số quân tướng nhà Hán. Thế nhưng ông liếc mắt nhìn lại, chung quanh mình chỉ còn hai tướng và mấy ngàn quân, người nào cũng máu me đầy mình thì không khỏi chán nản. May sao lúc đó Chu Lan dẫn quân đến kịp thời, hợp cùng với Hạng Võ, Quý Bá và Chung Ly Muội mở một con đường máu chạy về tới doanh trại. Lúc ấy trời đã tối, quân sĩ vừa định dâng thức ăn lên thì Hạng Võ lại nghe Ngu Tử Kỳ báo tin là Bành Thành đã bị chiếm. Ngu Tử Kỳ cũng khuyên Hạng Võ nên đến Kinh Sở, Hồ Tương tạm đóng quân, nghe ngóng xem tin ấy có đúng không. Hạng Võ nhất định không nghe, cùng đại quân suốt đêm chạy về Bành Thành. Khi đến Tiêu quận, nhìn lên đã thấy cờ Hán bay phấp phới. Hạng Võ nghiến răng tức hận, nói với các tướng:
– Từ khi ta khởi binh cho đến nay cũng có thắng có thua nhưng chưa bao giờ nặng nề nhục nhã như ngày hôm nay. Ta quyết đến Bành Thành tử chiến mấy trận nữa để khỏi mất danh tiếng. Tiếc rằng Bành Thành đã thất thủ thật chứ không phải tin đồn, Hạng Võ nghiến răng gầm lên như sấm rồi quất ngựa Ô Truy chạy ngược về phía trận Cửu Lý. Lúc này ông đã gần như điên dại, xông pha vào chỗ quân Hán huy động đại đao chém bừa bất kể đó là quân hay tướng. Một mình Hạng Võ xông pha giữa muôn ngàn quân Hán giống như mãnh hổ đang vùng vẫy, đi đến đâu đầu rơi máu chảy đến đó, thật là kinh khủng chưa ai được chứng kiến. Kiểm điển lại, ngày hôm ấy Hạng Võ đấu chiến với hơn 60 tướng Hán mà sức lực vẫn mạnh mẽ như thường. Cuối cùng quân Hán tuy đông mà cũng phải khiếp sợ tự lui dần. Hạng Võ cũng không truy đuổi, rút quân về đóng trại, cùng đối ẩm với Ngu Cơ cho vơi nỗi sầu thất trận.
Trong khi ấy Hàn Tín cùng với Hán vương bàn soạn, cho rằng đến như thế vẫn không sao
giết nổi Hạng Võ thì thật không còn cách nào khác. Trương Lương liền trấn an, nói đêm nay sẽ thi hành một kế làm cho quân Sở tự tan vỡ, không cần phải đánh. Khi ấy quân Tướng nước Sở vì phải giao tranh suốt ngày, không thể mang lương thực theo nên ai nấy đều đói khát, số thương vong rất lớn càng khiến cho không khí thêm bi thảm trầm trọng.
Đêm hôm ấy lại là cuối thu, ánh trăng mờ mờ vàng vọt chiếu xuống càng làm cho cảnh sắc thê lương ảo não, chợt từ xa có tiếng tiêu vọng đến. Tiếng tiêu này là của Trương Lương, mỗi lúc càng thêm bi ai khiến quân nước Sở bấn loạn cả tinh thần, ai nấy vô cùng chán nản khi nghĩ đến gia đình đang chịu khổ nơi Bành Thành. Tiếng than vãn của một người cất lên giống như làn điện, ai nấy đều sụt sùi. Ngay kúc đó tiếng tiêu càng cất lên thánh thót bi ai, quân tướng nước Sở không còn chịu đựng được nữa, thi nhau bỏ trốn, các tướng Sở cố gắng ngăn trở nhưng đành bất lực. Sáng ra khi nghe báo lại, Hạng Võ không khỏi thất sắc, than dài:
– Đúng là số trời đã hại ta rồi. Vận số nước Sở đến đây cũng chấm dứt.
Than xong, Hạng Võ một mình một ngựa xông thẳng vào vòng vây tận lực đánh giết cho hả cơn đau lòng. Sức mạnh của Hạng Võ quả là vô địch, đánh tan một lúc 8 vòng vây, thúc ngựa chạy thẳng về hướng Giang Đông. Tiếc rằng đường lối không thông thuộc, lại bị một nông phu ghét bỏ chỉ sai đường. Cuối cùng Hạng Võ rơi vào chỗ toàn là sình lầy, không còn lối nào khác trong khi đại quân Hán vẫn truy đuổi sát sau lưng. Nếu như người khác thì chắc chắn chết rồi, nhờ con Ô Truy rất thần diệu, lấy sức nhảy lên một chỗ đất cứng, cầm đại đao chờ sẵn.
Một tướng Hán là Dương Hỷ chạy đến, toan giết chết Hạng Võ lấy công đầu, liền bị ông ta giết chết. Thấy quân Hán kinh sợ lùi lại, Hạng Võ liền thúc ngựa chạy đến một nơi gọi là Hưng Giáo viện xin cơm ăn nước uống. Khi trời sáng, thấy quân Hán lại đuổi tới nơi, Hạng Võ không còn hơi sức nữa, đành phải phóng ngựa bỏ chạy, đến bến Ô Giang thì hết đường.
Không để bị nhục nhã, Hạng Võ liền tự đâm cổ mà chết, khi đó mới được 31 tuổi, ngồi ở ngai vị Tây Sở Bá vương được 5 năm. Theo chính sử thì bốn tướng Hán là Dương Hỷ, Dương Võ, Vương Ê và Lã Thắng xúm nhau lấy thủ cấp của Hạng Võ đem về dâng công và đều được phong hầu. Thế nhưng theo đồn đại thì Lưu Bang đã có hứa bất cứ ai lấy được tính mệnh của Hạng Võ sẽ phong hầu. Vì vậy khi thấy Hạng Võ lâm vào đường cùng kiệt sức, có đến 5 tướng Hán xúm lại đâm chém, chặt ông ra làm 5 mảnh, mạnh ai nấy đem về lãnh thưởng. Lưu Bang cho sắp lại, thấy đúng đó là thi thể của Hạng Võ , liền phong hầu cho cả 5 tướng.
Nếu quả như vậy thì cái chết của ông quá bi thảm, làm cho hậu thế phải ngậm ngùi. Xét kỹ thì Hạng Võ hầu như không thua trận nào nếu đối chiến trực diện, tất cả trận thua đều do bị trúng kế của Trương Lương, Trần Bình hay Hàn Tín. Rõ ràng người tướng soái ngoài võ nghệ cao cường, sức mạnh hơn người còn phải có trí tuệ dùng binh, biết tiến biết lui đúng lúc.
6
HÀN TÍN
BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG
Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, có rất nhiều danh tướng được gọi là “trăm trận không thua”, thí dụ như Mã Viện, Nhạc Phi, v.v... Thế nhưng trong cuộc đời của các danh tướng ấy vẫn có ít nhiều trận bị bại, tuy rằng với kinh nghiệm của mình họ đã không để tổn thất quá nặng hoặc bắt buộc phải rút lui vì tình thế bất lợi. Riêng một danh tướng mà hầu như hậu thế đều biết danh, đó là Hàn Tín thì không hề có chiến bại, rất xứng đáng được gọi bằng “trăm trận trăm thắng”.
Hàn Tín là người Hoài Âm, từ nhỏ ông đã tỏ ra là người ham thích võ nghệ, rất thích đọc binh pháp mặc dù thân thể không cường tráng cao lớn. Vì xuất thân từ gia đình nghèo nên khi thiếu thời Hàn Tín phải làm nhiều việc khó nhọc vất vả mưu sinh qua ngày. Có lúc ông phải làm nghề đồ tể, mổ lợn đem bán ngoài chợ kiếm lời, cũng có lúc phải đi câu cá qua ngày.
Vốn bản chất khá phóng khoáng, lại lăn lộn nơi chốn giang hồ nên tính tình của Hàn Tín không câu nệ vào những chuyện vụn vặt, cho rằng đã có chí lớn thì phải nhịn nhục vượt qua được những khó khăn nho nhỏ. Nếu không vượt nổi chuyện nhỏ thì làm sao thành công việc lớn. Do vậy trong thời gian nghèo khổ, Hàn Tín vẫn cố gắng tụ tập học hỏi về binh pháp, không chấp nhất những lời chê bai đàm tiếu của những người chung quanh. Khi mẹ qua đời, Hàn Tín không có tiền để lo việc tang, ông đành phải chọn một chỗ cao rộng rãi, bên cạnh có một khoảng đất hoang làm nơi chôn cất cho mẹ.
Quan điểm nhịn nhục việc nhỏ để mưu cầu việc lớn được Hàn Tín coi trọng, suốt đời lấy đó làm châm ngôn xử thế. Kể cả khi đã bị Lưu Bang u mê bắt giam lỏng ở Hàm Dương, Hàn Tín vẫn cố nhẫn nại, hy vọng Lưu Bang hồi tâm chuyển ý nhớ lại những công lao ngày trước. Cũng vì vậy mà Hàn Tín rơi vào cái bẫy đơn giản của Lã hậu. Quan điểm này đã được Trương Lương nhìn ra và âm thầm khuyên dụ ông về với Lưu Bang. Đó là lần Bá vương Hạng Võ đã vào Hàm Dương tranh công với Lưu Bang. Hạng Võ muốn dời đô về Bành Thành, cùng các quan bàn soạn nhưng bị quan Gián nghị là Hàn Sinh đứng lên ngăn cản khiến Hạng Võ đâm tức, quát tháo:
– Hiện ta đã xưng Vương, thích đóng đô ở đâu là tùy ý ta, có can gì mà người cứ lải nhải mãi thế?
Hàn Sinh vẫn không sợ, dùng lời của Phạm Tăng ra cãi lại rồi ra trước cửa ngửa mặt lên trời than lớn:
– Người ta thường nói “người nước Sở thật giống khỉ, khi tắm vẫn còn đội mũ”. Bây giờ ta mới nhận ra câu nói ấy quả thật không sai.
Hạng Võ nghe được, nổi giận lôi đình sai Hàn Tín khi ấy là Chấp Kích lang bắt Hàn Sinh bỏ vào vạc dầu trị tội. Thấy Hàn Sinh vẫn lớn tiếng chê bai, Hàn Tín liền nói: – Theo tôi thì ông đáng chết trăm lần. Ông làm chức Gián nghị sao khi Bá vương giết Tống Nghĩa ông không can gián? Khi Bá vương chôn sống 20 vạn hàng binh Tần sao không can? Khi Bá vương giết Doanh Tử Anh, bốc mộ Tần Thủy hoàng, đốt cháy cung A Phòng, toàn những việc tày trời sao chẳng thấy mặt mũi ông đâu. Chính ông tự làm cho Bá vương quen tính ngông cuồng, bây giờ chỉ vì chuyện nhỏ mà gân cổ lên cãi bằng được thì chết là đáng lắm rồi. Lúc ấy Trương Lương đứng gần nên nghe được lời đối đáp này, giật mình, nhận ra Hàn Tín đúng là nhân tài mà Lưu Bang đang cần.
Thời gian ngắn mà Hàn Tín làm nghề mổ lợn đem ra chợ bán có đụng chạm mối lái với bọn đồ tể, vì vậy bọn chúng rất tức giận, cho là Hàn Tín cố ý cướp miếng cơm. Bọn này biết Hàn Tín có võ nghệ, đi đâu vẫn kè kè thanh kiếm thì không dám gây sự, hùn tiền nhờ một tên côn đồ khét tiếng ở đấy ra tay giùm.
Một lần kia, khi Hàn Tín vừa mới ra chợ thì tên côn đồ tên là Đỗ Trung giả vờ để cho Hàn Tín đụng phải rồi lớn tiếng mắng chửi, sau đó lại nhục mạ rất nặng. Thoạt đầu Hàn Tín cũng đã nổi giận nhưng suy nghĩ một chút thì thấy hình như trong chuyện này có điều gì khuất tất, dùng lời nhẹ nhàng giải hòa. Thế nhưng Hàn Tín cố nhịn bao nhiêu thì tên Đỗ Trung càng hung hăng vô lối bấy nhiêu, cuối cùng dùng cách sỉ nhục tồi tệ nhất là đứng dạng hai chân ra, cười vào mặt Hàn Tín rồi nói:
– Hàn Tín, ngươi là thân trai tráng mà kiếm không đủ cơm ăn thì thật là hèn hạ, đã thế còn dám cầm kiếm để khoe khoang nữa sao? Ngươi có gan giết người không? Nếu có thì hãy rút kiếm ra đâm chết ta thử xem nào, bằng không thì hãy vất kiếm đi mà bò qua háng của ta đây. Ta sẽ tha mạng cho ngươi.
Hàn Tín nghe vậy tức giận đỏ bừng cả mặt nhưng suy nghĩ một lúc thì chẳng hiểu sao lẳng lặng cúi người bò qua háng tên hàng thịt ấy. Cả chợ nhìn thấy đều cười chê Hàn Tín là người hèn nhát. Duy nhất chỉ có một người tên là Hứa Phủ vốn giỏi nghề xem tướng, kéo Hàn Tín ra