🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 100 Nhà Quân Sự Có Ảnh Hưởng Nhất Đến Lịch Sử Thế Giới
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Lời nói đầu
Lịch sử được hình thành bởi con người chúng ta. Lịch sử của toàn thế giới khi được liên hệ với từng sự việc cụ thể thì sẽ cung cấp thêm lượng thông tin, đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của độc giả. Khi biết nhìn lại quá khứ thì chúng ta sẽ nhìn xa trông rộng hơn, biết làm mọi việc tốt hơn. Con người có thói quen tư duy và bản năng nhận thức rằng đọc xong cuốn sách nào đó thì sẽ biết được điều gì, hiểu ra điều gì và như vậy chúng ta sẽ luôn không ngừng cố gắng.
Một trăm nhà quân sự nổi tiếng trên thế giới mà chúng tôi đề cập trong cuốn sách này rất cụ thể. Qua đó bạn sẽ hiểu được tính cách, tư duy và sự thành công cũng như thất bại của họ.
Dù chúng ta đang trong thời bình nhưng xã hội hiện đại luôn đầy tính cạnh tranh, đọc xong cuốn sách này bạn sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu cho chính bản thân mình, giúp bạn đứng vững hơn trong cuộc sống.
Lưu Hải Sinh - Phủ Quang Hải
Chương 1: Menes
Chương 2: Tôn Vũ (Sunzi)
Chương 3: Alexander
Chương 4: Hannibal Barca
Chương 5: Spartacus
https://thuviensach.vn
Chương 6: Gaius Julius Caesar
Chương 7: Octavian
Chương 8: Tào Tháo (Cao Cao)
Chương 9: Chu Du (Zhou You)
Chương 10: Gia Cát Lượng (Zhu Geliang) Chương 11: Lý Thế Dân (Li Shimin)
Chương 12: Nhạc Phi (Yue Fei)
Chương 13: Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khàn) Chương 14: Lý Thuấn Thần (Li Sun Sin)
Chương 15: Peter Alexeyvich Romanop (Đại đế Peter I) Chương 16: Alexander Danilovic Miansikov Chương 17: Alexander Vasilievich Suvorov Chương 18: Mikhail Illarionovich Kutuzov
https://thuviensach.vn
Chương 19: Napoléon Bonaparte Chương 20: Simon Boliver
Chương 21: Kelasaviz
Chương 22: San Martin
Chương 23: Romini
Chương 24: Guiseppe Garibaldi Chương 25: Otto von Bismarck
Chương 26: Antonovich Leyerv Chương 27: Stepan Auspovic Makarov Chương 28: Nogi Maresake
Chương 29: Alfred Thayer Mahan Chương 30: John Denton Pinstone French Chương 31: Mikhail Vassilievitch Frounze
https://thuviensach.vn
Chương 32: Ferdinand Foch
Chương 33: Giulio Douhet
Chương 34: Joseph Joffre
Chương 35: Johannes - Frideric - Leopold - Von - Hiket Chương 36: Michill
Chương 37: Trương Tự Trung (Zhang Zizhong) Chương 38: Dương Tịnh Vũ (Yang Jingyn) Chương 39: Isoroku Yamamoto
Chương 40: Erwin Rommel
Chương 41: Adolf Hitler
Chương 42: George S. Patton
Chương 43: Franklin D. Roosevelt
Chương 44: Joseph Warren Stilwell
https://thuviensach.vn
Chương 45: Yamashita Tomoyuki
Chương 46: Tojo Hideki
Chương 47: John J. Pershing
Chương 48: Henry Harley Arnold
Chương 49: Philippe Pétain
Chương 50: Khorlogiin Choibalsan
Chương 51: Gerd von Rundstedt
Chương 52: Vasily Iosifovich Dzhugashvili (Joseph Stalin) Chương 53: Guderian Heinz
Chương 54: Claire Lee Chennault
Chương 55: George Catlett Marshall
Chương 56: William Freder-ick Helsey
Chương 57: Trần Canh (Cheng Geng)
https://thuviensach.vn
Chương 58: La Vinh Hoàn (Luo RongHuan) Chương 59: Douglas MacArthur
Chương 60: Karl Doenitz
Chương 61: John Frederick Charles Fuller Chương 62: Dwight David Eisenhower Chương 63: Hạ Long (Xia Long)
Chương 64: Charles De Gaulle
Chương 65: Lâm Bưu (Lin Biao)
Chương 66: Trần Nghị (Chen Yi)
Chương 67: Erich von Manstein
Chương 68: Georgy Konstantinovich Zhukov Chương 69: Bành Đức Hoài (Peng De Huai) Chương 70: Tưởng Giới Thạch (Jiang Jiesh)
https://thuviensach.vn
Chương 71: Chu Đức (Zhu De)
Chương 72: Bernard Law Montgomery Chương 73: Mao Trạch Đông (Mao ZeDong) Chương 74: Chu Ân Lai (Zhou EnLai) Chương 75: Alexander Mikhailovich Vasilievski Chương 76: Hasso Eccard Freiherr Von Manteuffel Chương 77: Josip Broz Tito
Chương 78: Omar Nelson Bradley
Chương 79: Vasily Ivanovic Chuikov
Chương 80: Túc Dụ (Zu You)
Chương 81: Lưu Bá Thừa (Liu Bocheng) Chương 82: Diệp Kiếm Anh (Ye JianYing) Chương 83: Từ Hướng Tiền (Xu XiangQian)
https://thuviensach.vn
Chương 84: Nhiếp Vinh Trăn (Nie Rong Zhen) Chương 85: Ridgway Matthew
Chương 86: Kim Nhật Thành(Kim Il Sung) Chương 87: Đặng Tiểu Bình (Deng XiaoPing) Chương 88: Trương Học Lương (Zhang XueLiang) Chương 89: Võ Nguyên Giáp
Chương 90: Curtis Emerson Lemay
Chương 91: Phidel Castro
Chương 92: Donald Henry Rumsfeld
Chương 93: Norman Shwarzkopf
Chương 94: Conlin Luther Powell
Chương 95: Saddam Hussein
Chương 96: Dick Cheney
https://thuviensach.vn
Chương 97: Richard Marrs
Chương 98: Ehud Barak
Chương 99: Wesley Clark
Chương 100: Tommy Franks
Chương 1: Menes
Menes là vị vua đầu tiên thống nhất Ai Cập, ông sống trong khoảng thời kỳ năm 3100 - 2890 trước công nguyên (TCN).
Ai Cập cổ đại là một trong những cái nôi khởi nguồn nền văn minh đầu tiên của nhân loại, thời kỳ đầu của nền văn minh này đã thể hiện rất rõ ràng sự ảnh hưởng của người Sumale, những người đã sớm bước vào xã hội văn minh trước đó, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã rất nhanh chóng phát triển và trở thành nền văn hoá mang đậm bản sắc của riêng mình. Ai Cập là món quà tặng của sông Nile, nền tảng của văn minh Ai Cập là phù sa màu mỡ hai bên bờ sông do những con lũ hàng năm của sông Nile mang lại. Nhìn từ góc độ phòng thủ thì vị trí địa lý của Ai Cập cổ đại thật lợi hại. Người Ai Cập cổ đại dễ dàng giao lưu, buôn bán với các trung tâm văn minh cổ đại khác. Họ không hề phải lo lắng về sự xâm lược quy mô lớn theo đường biển trước khi kỹ thuật hàng hải phát triển. Sa mạc phía Tây đã tạo nên cho họ các tấm lá chắn khó có thể chọc thủng được.
Vào thời kỳ những năm 3100 TCN, khái niệm về lãnh thổ của toàn Ai Cập cổ đại khác rất xa so với bây giờ. Diện tích của Ai Cập cổ đại chỉ bao gồm dải đất có thể canh tác được vừa dài vừa hẹp dọc hai bên bờ vùng hạ
https://thuviensach.vn
du sông Nile, và đã hình thành 2 vương quốc: Ai Cập Hạ và Ai Cập Thượng. Ai Cập Hạ nằm ở vùng tam giác sông Nile. Ngày nay khi nhìn vào bản đồ hiện đại, xin hãy lưu ý, bởi vì diện tích và hình dáng của vùng tam giác sông Nile đã khác xa so với lúc bấy giờ, trải qua 5000 năm phù sa bồi đắp, diện tích vùng tam giác này đã có sự mở rộng trên quy mô lớn. Ai Cập Thượng là vùng đất phía Nam, cực nam giáp với con thác thứ nhất (những con thác vùng sông Nile theo thói quen được đánh số thứ tự từ vùng hạ du ngược lên vùng thượng du, con thác thứ nhất này là con thác nằm ở vùng cuối cùng của hạ du sông Nile).
Sau khi con đập Aswar được xây xong, con thác này đã bị hồ chứa nước Nassen nuốt chửng, hai vương quốc trên tuy độc lập về chính trị, nhưng văn hoá thì lại rất giống nhau.
Gia tộc của Menes là những người thống trị hai thành phố sinh đôi Nik Nike nằm ở cực nam của Ai Cập Thượng. Là những người trấn giữ biên giới phía Nam của Ai Cập, họ có được các kỹ xảo chiến đấu có lẽ là nhờ vào các cuộc xung đột với tộc người Mar ở phía Nam. Các kỹ xảo đó đã được thể hiện và phát huy trong cuộc nội chiến thống nhất Ai Cập về sau này. Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến thống nhất Ai Cập cho đến nay vẫn còn là bí ẩn, vì vậy bức phù điêu đá Narmo vẫn là tư liệu đáng tin cậy nhất hiện nay. Quan sát bằng trực quan ta có thể nhận thấy cuộc chiến chinh phục của vùng tam giác sông Nile là hết sức tàn bạo.
Mặt chính của bức phù điêu bằng đá có vẽ một người tay cầm cây gậy, người này rất có khả năng là Menes, một tay ông ta cầm lấy tóc kẻ bại trận, góc phải phía trên là hình một con chim ưng hiện thân của vị thần Horus, một trong những vị thần tiêu biểu của Ai Cập cổ đại, vị thần này tượng trưng cho quốc vương, dùng dây thừng kéo cái đầu người có râu hình bầu dục - biểu tượng cho vùng lãnh thổ bị chinh phục; chân chim ưng giẫm lên chân của 6 cái cây biểu tượng cho 6.000 tù binh; cái xiên cá và ô vuông có hình sóng có lẽ tượng trưng cho vùng biển của nước bị chinh phục.
https://thuviensach.vn
Câu chuyện này miêu tả lại cuộc chiến giữa các vị thần, Horus đã giết chết người chú gian ác của mình là Seth để báo thù cho cha và đoạt lại ngôi vua đã bị cướp.
Mặc dù bức phù điêu đá Narmo chủ yếu là biểu đạt ý nghĩa tượng trưng, nhưng chúng ta vẫn có thể hiểu được một số thông tin chính trong đó. Phiến đá đã cho thấy cuộc chiến chinh phục Ai Cập Hạ có thể đã trải qua một trận chiến có tính quyết định, sau khi giành được thắng lợi, Menes đã chiếm lĩnh toàn bộ khu tam giác sông Nile kéo dài đến tận bờ biển. Điều này rất phù hợp với câu chuyện trong truyền thuyết. Nhìn vào con số tù binh và đội quân chiến thắng, thì quy mô số quân của hai bên đều ở vào khoảng trên dưới 10.000 người, hoặc ít hơn một chút. Không có bằng chứng xác đáng về địa điểm chính xác diễn ra cuộc chiến, theo truyền thuyết thì địa điểm diễn ra cuộc chiến là vùng giáp với Memphis sau này, tức là vùng cực bắc của tam giác, điều này có lẽ chỉ cuộc chiến diễn ra tại vùng biên giới giữa hai nước, tình hình cơ cấu và trang bị của quân đội Menes cũng không được rõ ràng.
Đội quân chiến đấu dưới mặt đất của Menes đều do bộ binh hợp thành, còn việc sử dụng xe và ngựa thì phải đợi đến mãi 1400 năm sau mới được người Hiksos đưa vào Ai Cập, việc thuần hóa lạc đà thậm chí còn diễn ra sau thời đó lâu hơn nhiều. Quân đội hai bên có lẽ đều được trang bị vũ khí bằng đồng thau. Mặc dù còn thiếu tư liệu về sự phân chia các giai tầng xã hội trong thời kỳ đầu của vương quốc cổ đại, nhưng chúng ta có thể suy đoán được là những chiến binh được trang bị vũ khí bằng đồng thau chắc chắn thuộc tầng lớp giàu có, có lẽ là cũng giống như các xã hội cổ đại khác, Ai Cập cổ đại có một tầng lớp quân nhân chuyên nghiệp, quốc vương chính là thủ lĩnh của tầng lớp này, điều này có thể được chứng minh bằng cuộc chiến đấu và sự thỏa hiệp giữa quốc vương và giới tăng lữ vào thời kỳ triều đại thứ năm. Nếu như giả thuyết này là đúng, thì rất có thể là Menes đã đích thân chỉ huy cuộc chiến như trong bức phù điêu Narmo và truyền thuyết đã ghi chép lại. Theo truyền thuyết, Menes đã cho xây một toà thành mới ngay tại nơi cuộc đại chiến giành thắng lợi để làm thủ đô mới cho vương quốc
https://thuviensach.vn
liên hợp, đây chính là Memphis sau này. Cuộc di dời xuống phía Bắc của giai cấp thống trị Ai Cập sau khi thống nhất được hoàn thành theo từng bước, đầu tiên là chuyển đến thành Nik-Nike ở cực nam, sau đó là Thinis rồi mới đến Memphis.
Rất nhiều học giả đều cho rằng việc Menes thống nhất Ai Cập là sự khởi đầu cho nền văn minh Ai Cập cổ đại. Menes đã lập ra vương triều đầu tiên trong 6 vương triều thời vương quốc cổ đại, mở ra thời kỳ bình yên kéo dài đến gần 1.000 năm. Cho mãi đến tận năm 2181 TCN sau khi Pharaon (quốc vương) cuối cùng của vương triều thứ 6 là Pery II qua đời. Sự thống nhất Ai Cập đã mang lại sự ổn định chính trị trong một thời gian rất dài. Chính trong thời kỳ này nền văn minh Ai Cập cổ đại đã đạt được những thành tựu rực rỡ, điều này được đánh dấu bằng việc xây dựng quần thể kim tự tháp vào thời kỳ vương triều thứ tư, đến nay nó vẫn còn đứng sừng sững bên cạnh con sông Nile ngàn năm tuổi.
Chương 2: Tôn Vũ (Sunzi)
Tôn Vũ hay còn có tên là Tôn Vũ Tử (Sunzi), tự là Trường Khanh; khoảng cuối thế kỷ sáu đầu thế kỷ thứ năm TCN. Ông thuộc tầng lớp quý tộc nước Tề thời Xuân Thu, là một nhà quân sự, lý luận quân sự kiệt xuất của Trung Quốc. Tác phẩm "Binh pháp Tôn Tử" nổi tiếng của ông được mệnh danh là "Kinh Binh" (Quyển kinh về binh pháp), "Bách thế đàm binh chi tổ" (Tổ tiên binh pháp muôn đời). Những vĩ nhân trên thế giới cùng thời với Tôn Tử có: Thích Ca Mâu Ni của Ấn Độ, Socrates và Aristotle của Hi Lạp cổ đại.
https://thuviensach.vn
Tôn Vũ nguyên là hậu duệ của công tử Trần Hoàn nước Trần. Năm 672 TCN nước Trần xảy ra nội chiến, Trần Hoàn đã rời nước Trần sang lánh nạn tại nước Tề, Tề Hoàn Công đã phong cho Trần Hoàn chức "Công chính", chuyên phụ trách việc sản xuất thủ công nghiệp, sau này Trần Hoàn đổi tên thành Điền Hoàn. Trải qua mấy đời, gia tộc họ Điền đã dần dần lớn mạnh và trở thành đại diện cho thế lực mới nổi của nước Tề. Đến thời Tề Cảnh Công, đời thứ tư của Điền Hoàn là Tôn Tử Điền Hằng Tử (hay còn gọi là Điền Vô Vũ) đã trở thành đại phu nước Tề.
Nước Tề thời Xuân Thu nằm ở vùng Đông Bắc của tỉnh Sơn Đông ngày nay, giáp với biển Bột Hải, rất có lợi về làm muối và đánh bắt cá. Trong số các nước chư hầu, nước Tề là nước lớn phía Đông, có sản vật vô cùng phong phú và có thực lực rất mạnh. Năm 685 TCN khi Tề Hoàn Công lên ngôi đã trọng dụng Quản Trọng, tiến hành cải cách chính trị, quân sự, tập trung phát triển sản xuất, cuối cùng đã trở thành bá chủ Xuân Thu một thời. Nước Tề trong một trận chiến đánh nước Cử đã giành được chiến thắng nhờ công lao của Điền Thư, cháu 5 đời của Điền Hoàn và là ông nội của Tôn Vũ, vì vậy Tề Cảnh Công phong tặng vùng đất Lạc An cho con Điền Thư và còn cho mang họ Tôn để biểu thị sự khen thưởng.
Năm 532 TCN, nước Tề đã xảy ra loạn 4 họ "Tức là họ Điền liên kết với họ Bào nhân lúc họ Loan và họ Cao (hai dòng họ quý tộc cũ đang chấp chính lúc bấy giờ) mở tiệc ăn uống đã tiến hành bao vây bất ngờ, cuộc chiến đã nổ ra. Sau cùng, họ Loan và họ Cao đã bị thảm bại, người đứng đầu hai họ là Loan Thi và Cao Cường đã phải chạy trốn sang nước Lỗ. Cục diện đấu đá, tranh giành phức tạp này không những đem lại cho Tôn Vũ cơ hội nhìn thấu cuộc chiến tranh ngầm giữa các tập đoàn thống trị, mà còn tôi luyện nên tài năng, mưu trí tuỳ cơ ứng biến cho Tôn Vũ. Hơn nữa, Tôn Vũ lại xuất thân trong một gia đình có truyền thống quân sự, điều này rõ ràng đã tạo điều kiện cho ông có cơ hội kế thừa và học hỏi tư tưởng quân sự của các bậc tiền bối.
Sau khi họ Điền và họ Bào giành được thắng lợi sau sự kiện "loạn 4 họ", Tôn Vũ và những thành viên khác trong gia tộc họ Tôn đã rời bỏ quê hương
https://thuviensach.vn
nước Tề di chuyển đến nước Ngô - một nước mới nổi lên ở phía Nam (nằm ở dải đất trung tâm vùng trung nam bộ tỉnh Giang Tô ngày nay), họ sống ẩn cư tại vùng gần thành Cô Tô, mở đầu một cuộc sống điền viên. Những lúc nông nhàn, ông tổng kết và chỉnh lý lại những kinh nghiệm đấu tranh quân sự do thế hệ trước truyền lại và đã viết nên cuốn "Binh pháp Tôn Tử".
Lúc này trên phương diện lý luận quân sự, Tôn Vũ đã có một trình độ vô cùng uyên thâm và rồi cơ hội để thi triển tài năng quân sự của ông cũng đã đến. Năm 512 TCN, quốc vương nước Ngô là Hạp Lư quyết tâm một trận sống còn với nước Sở, nhưng hiềm một nỗi là đội quân thiếu mất chủ tướng. Đang trong lúc do dự thì mưu thần của Hạp Lư là Ngũ Tử Tư đã nhân cơ hội bàn luận về cách dùng binh với Hạp Lư để liên tiếp 7 lần liền tiến cử Tôn Vũ với Hạp Lư, vì thế Hạp Lư đã cho mời ông đến để xem Tôn Vũ có thể đảm đương được chức vụ này không.
Khi bái kiến Ngô vương Hạp Lư, Tôn Vũ đã tặng cho Ngô vương cuốn "Binh pháp 13 chương" do mình biên soạn. Trong lúc trả lời các câu hỏi của Ngô vương, ông đã đưa ra những cách dụng binh kỳ lạ, điều này làm cho Ngô vương không ngớt gật đầu khen ngợi, Ngô vương còn vô cùng yêu thích lý luận quân sự xuất chúng của ông. Sau khi có được kỳ tài Tôn Vũ rồi, quyết tâm muốn bá chủ một phương của Ngô vương ngày càng lớn, ngay lập tức phong cho Tôn Vũ làm đại tướng quân. Từ đó trở đi, Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư cùng nhau phò tá Ngô vương, nước Ngô nhờ vào hai người này mà nhanh chóng lớn mạnh.
Sau khi trở thành tướng quân của nước Ngô, Tôn Vũ đã lập nên chiến công hiển hách cho nước Ngô. Năm 506 TCN, đại quân nước Ngô đã tập kích bất ngờ vào nước Sở làm cho nước Sở đại bại, quân Ngô công chiếm kinh đô nước Sở, Tôn Vũ đã lập công đầu. Năm 484 quân Ngô đánh cho quân Tề tan tác, tại hội thề Hoàng Chi năm 482 TCN, nước Ngô đã trở thành bá chủ thay nước Tấn, công đầu thuộc về Tôn Vũ.
Do có được hệ thống lý luận quân sự dẫn đường nên Tôn Vũ đã lập được những chiến công hiển hách, đồng thời thông qua thực tiễn của các cuộc
https://thuviensach.vn
chiến tranh ông đã kiểm nghiệm được tính đúng đắn và chính xác của hệ thống lý luận quân sự của mình. Từ đó có thể thấy, Tôn Vũ vừa là nhà lý luận quân sự lại vừa là nhà hoạt động quân sự rất có tài tổ chức quân sự.
Cuốn "Binh pháp Tôn Tử" tổng cộng có 13 chương với hơn 6000 chữ, nét chữ đanh thép hoành tráng, nội dung sâu rộng vạn trượng, tư tưởng tinh tuý bao trùm, logic chặt chẽ gắn kết, là tác phẩm lý luận quân sự nổi tiếng lâu đời nhất được lưu truyền lại của Trung Quốc và thế giới. "Binh pháp Tôn Tử" đã chỉ ra rất nhiều quy luật phổ biến trong chiến tranh, tường thuật một cách tương đối đầy đủ về nhân tố giành thắng lợi trong chiến tranh, tiềm ẩn tư tưởng duy vật sơ khai và phép biện chứng nguyên thủy. Tư tưởng quân sự về "Lợi thế địa hình" trong "Binh pháp Tôn Tử" là phần chuyên luận về địa lý và địa hình quân sự, nó có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Chương 3: Alexander
Alexander (356 - 323 TCN), còn gọi là Alexander III đại đế, là một thống soái quân sự lỗi lạc. Vĩ nhân trên thế giới cùng thời ông còn có: Nhà tư tưởng vĩ đại Hi Lạp cổ đại Aristotle, nhà triết học Hy Lạp cổ đại Platon.
Thời thơ ấu, Alexander chịu sự giáo dục cung đình hết sức nghiêm khắc, ông vô cùng say mê binh pháp. Năm 16 tuổi theo cha đi chinh chiến, năm 338 TCN trong trận đánh Chaeronea ông đã anh dũng chiến đấu và giành được thắng lợi, đặt nền móng vững chắc cho địa vị bá chủ của Macedon trong các vương quốc, thành trì ở Hy Lạp.
Mùa hạ năm 336 TCN, cha ông bị ám sát, ông đã thừa kế ngôi vị của cha. Tiếp theo đó, ông đã bình định được nội chiến trong cung đình, trấn áp được sự nổi loạn của các bộ tộc phương Bắc. Mùa thu năm 335 TCN,
https://thuviensach.vn
Alexander lấy quân đội Macedon làm chủ lực, kết hợp với lực lượng đánh thuê và liên quân của các vương quốc, thành trì tạo nên một đội quân viễn chinh hùng hậu (khoảng 30.000 bộ binh, 5.000 kị binh, 160 chiến hạm).
Mùa xuân năm 334 TCN, ông giao quyền nhiếp chính cho tướng quân Antipater, còn mình thì thân chinh dẫn quân xuất phát từ Payra, vượt qua eo biển Hellespontor (eo biển Dardenelles ngày nay) bắt đầu tiến về phía Đông.
Tháng 5 năm 334 TCN, sau khi đội quân viễn chinh của Alexander vượt qua eo biển Hellespontor, sông Granicus đến bờ nam biển Marmara thì gặp quân của Persian. Quân Persian có khoảng 30 nghìn, triển khai dọc bờ đông của con sông, bố trí theo hai tuyến, một tuyến là kỵ kinh, một tuyến là bộ binh, tất cả cố thủ bên bờ sông không cho quân Alexander vượt qua sông. Đội quân viễn chinh thì lại bố trí khác hẳn, bộ binh dàn trận theo hình vuông ở trung tâm, hai bên cánh là quân kị binh, Alexander ra lệnh cho quân tiên phong vờ chuyển động để dụ cho quân địch di chuyển sang bên trái, đợi đến khi đội hình địch xuất hiện kẽ hở, ông dẫn đội quân chủ lực cánh phải vượt sông đánh thẳng vào giữa trận của quân địch. Trong trận chiến, quân Macédoine đã phát huy được lợi thế của những chiếc giáo dài nên đã tiêu diệt quân địch rất nhanh.
Quân kị binh Persian thương vong lên đến hơn 1000 quân, còn quân bộ binh thì bị quân Macédoine tấn công từ bốn phía, nên nhanh chóng bị vỡ trận, hơn 2000 quân đã bị bắt sống. Trong khi đó số quân thương vong của đội quân viễn chinh chỉ có hơn 100.
Đại thắng trận đầu, Alexander thừa thắng dẫn quân men theo bờ tây biển Asiaminor đi xuống phía Nam, lần lượt chiếm lĩnh Lydia, Kalia, Lycian, sau đó ngược lên phía Bắc chiếm Ankara, phía Đông tiến vào Cappaclocian, rồi lại xuống phía Nam đến Cilician.
Tháng 10 năm 333 TCN, đội quân viễn chinh đã đánh bại đại quân hơn 12 vạn do Darius III thống lĩnh trong trận đánh tại Issus ở phía Đông Silesia, từ đó mở ra cánh cửa tiến đến Syrian và Phoenicia. Sau thảm bại,
https://thuviensach.vn
Darius III đã tháo chạy, một mặt thu thập tàn quân, mặt khác phái sứ giả đến cầu hòa nhưng đã không được chấp nhận. Alexander dẫn quân tiếp tục tiến theo hướng Nam đến Phoenicia, đập tan cứ điểm quân sự Persian, từ đó mở ra con đường lưu thông thuận tiện cho đội quân viễn chinh đến Hi Lạp.
Đầu năm 332 TCN, đội quân viễn chinh đến cứ điểm trọng yếu trên bờ biển Tyrian (ngày nay là Soule thuộc Lebarnon) thì gặp phải sự kháng cự quyết liệt, phải mất 7 tháng trời tấn công bằng cả 2 đường biển và đường bộ mới phá được thành này. Kết thúc chiến dịch, đã có hơn 8.000 người Tyrian bị tử trận và hơn 3.000 người bị bắt sống. Tiếp đo, Alexander lại tiếp tục dùng khoảng thời gian là 2 tháng để công chiếm Gaza. Lúc này, đội quân viễn chinh đã dẹp bỏ cứ điểm quân sự hải quân của Persian, cắt đứt đường liên thông trên bộ và trên biển, đồng thời giành được quyền thống trị biển Địa Trung Hải.
Tháng 11, Alexander tiến quân vào Ai Cập, không mất một giọt máu ông đã chiếm lĩnh được cả Ai Cập Hạ và Ai Cập Thượng.
Mùa xuân năm 331 TCN, Alexander dẫn 4 vạn bộ binh, 7.000 kị binh từ Ai Cập vượt qua Palestine, Phoenicia tiến vào phía bắc lưu vực sông Lưỡng Hà, rồi tiến quân về Babylon và cao nguyên Iran. Tháng 10 ông đã giành được toàn thắng trong trận đánh tại Gaugemela. Darius III lại phải tháo chạy đến Media.
Đội quân viễn chinh thừa thắng tiến xuống phía Nam, nhanh chóng chiếm được Babylon và thủ đô của Persian là Sonsa rồi tiến quân vào cao nguyên Iran, vơ vét sạch của cải tại cố đô Persepolis của Persian. Mùa hạ năm 330 TCN, khi Alexander men theo bờ Nam biển Caspian tiến về phía Đông, tiến vào Parthica thì Darius III bị thuộc hạ là tổng đốc Bactria giết chết. Đế quốc Persian ủng hộ vương triều Achaemenid từ đây bị diệt vong, Alexander trở thành người thống trị Persian.
Sau khi đế quốc Persian bị diệt vong, Alexander tiếp tục dẫn quân tiến về phía Đông. Mùa xuân năm 329 TCN Alexander tiến quân vào Bactria, truy kích tổng đốc Bactria đến Sogdia thì bắt sống được, Alexander đã hạ lệnh
https://thuviensach.vn
xử trảm tổng đốc Bactria. Tại sông Sogdia, Alexander gặp phải sự kháng cự quyết liệt của người dân bản địa, trong đó các cuộc nổi dậy do giới quý tộc địa phương cầm đầu là có sức mạnh lớn nhất.
Phải mất hơn 2 năm chinh chiến ở vùng Trung Á, Alexander mới trấn áp được các cuộc nổi dậy. Mùa hạ năm 327 TCN, trước sức hấp dẫn của vùng lưu vực sông Ấn màu mỡ trù phú, Alexander đã quyết định dẫn 3 vạn quân rời khỏi Bactria đi dọc theo con sông Kabul vượt qua chân núi Khyber tiến vào vùng hạ du sông Ấn. Tháng 4 năm 326 TCN, đội quân viễn chinh từ Bukphara tiến đến con sông Hydapes (nay là Helum) dàn trận chuẩn bị tiến đánh quân của vương quốc Porus đang dàn trận bên kia bờ sông. Alexander dẫn quân vượt sông tiến đánh, kết quả đã tiêu diệt gần 2 vạn quân bộ binh và 3000 kị binh của Porus, quốc vương Porus phải vội vã xin đầu hàng.
Đội quân viễn chinh tiếp tục tiến theo hướng Đông đến bờ sông Hiphares (nay là Beas), lúc này bệnh dịch bắt đầu hoành hành trong đội quân, tâm trạng chán ghét chiến tranh của quân sĩ ngày một tăng lên. Vì vậy, vào tháng 10 năm 326 TCN, Alexander quyết định buộc phải chấm dứt cuộc chinh chiến phía Đông và rút quân về. Ông chia quân theo 2 cánh thủy - bộ, men theo sông Ấn rút lui, đến gần cửa sông Ấn lại chia lại quân ra làm 3 cánh: Cánh quân đường biển sẽ vượt qua biển Ả Rập vào vịnh Persian rồi đến cửa sông Euphrate (tuyến đường biển mới này người Hi Lạp chưa từng đi qua bao giờ); cánh quân đường bộ đi men theo theo bờ biển Ấn Độ hướng về phía Tây, cánh quân này do Alexander trực tiếp chỉ huy; một cánh quân bộ khác đi lên phía Bắc đến Arachosia, sau đó sẽ đi về phía tây để hợp với cánh quân do Alexander chỉ huy.
Mùa xuân năm 324 TCN, Alexander về đến Babylon, kết thúc cuộc Đông chinh. Đội quân viễn chinh đã chiến đấu liên tục trong vòng 10 năm với hành trình hơn vạn dặm, tiến hành hơn trăm lần vượt sông, công phá thành và tác chiến trên vùng núi, đồng bằng và sa mạc, lập nên đế quốc Alexander III rộng lớn phía Tây bắt đầu từ bán đảo Balkon, sông Nile, phía đông đến tận sông Ấn Độ. Ông đã phát triển thể chế quân sự và chiến thuật đánh trận
https://thuviensach.vn
của Hi Lạp cổ đại, lập ra đội quân "Long kị binh" (vừa có thể cưỡi ngựa lại vừa có thể đi bộ trong khi tác chiến).
Về mặt chiến lược, các quyết sách của ông vô cùng quyết đoán và linh hoạt, ông rất giỏi lợi dụng hình thế để cô lập và tấn công quân địch. Xét về mặt chiến thuật, ông rất coi trọng việc hiệp đồng trong tác chiến giữa bộ binh và kị binh, phát huy tác dụng đột kích của kị binh, ông cũng rất giỏi vận dụng các chiến thuật đan xen, bao vây, đánh úp táo bạo, bất ngờ, ông đã mở ra một trang vàng chói lọi trong lịch sử học thuật quân sự thế giới.
Chương 4: Hannibal Barca
Hannibal (247 - 182 TCN), tướng quân của Carthage, được người phương Tây tôn danh là "bậc thầy về chiến lược", và là người chỉ huy trận đánh Cannae nổi tiếng. Vĩ nhân trên thế giới cùng thời ông có: hoàng đế Asoka của vương triều Maurya, Ấn Độ cổ đại và nhà toán học cổ đại Hi Lạp Acsimet.
Đế quốc La Mã cổ đại từng uy chiến bốn phương với những chiến công hiển hách, hầu như thống trị cả thế giới văn minh trong một thời gian dài. Nhưng đã từng có một vị tướng quân đến từ một nước nhỏ của Bắc Phi dẫn theo một đội quân do nhiều chủng tộc và dân tộc khác nhau hợp thành, trang bị rất thô sơ và thiếu thốn
lương thực, nhưng dưới sự lãnh đạo của vị tướng này, sau 10 năm chinh chiến, đội quân đánh đâu thắng đó đã khiến cho đế quốc La Mã gần như bị đẩy đến bờ vực thẳm. Ông chính là người được người phương Tây tôn danh là "người cha về chiến lược" - tướng quân Hannibal của đất nước Carthage.
Sự sinh tồn của người Carthage trên đảo Sialy đã trực tiếp đe dọa đến lợi ích của người La Mã, vì vậy đã dẫn đến nhiều lần chiến tranh giữa người
https://thuviensach.vn
Carthage và người La Mã. Trong cuộc chiến lần thứ nhất, người Carthage đã bị thất bại, buộc phải cắt đất bồi thường. Người Carthage đã phải nếm mật nằm gai, phát triển về phía bán đảo Iberia (Tây Ban Nha ngày nay).
Tháng 5 năm 218 TCN, Hannibal dẫn 75.000 bộ binh và 12.000 kị binh rời khỏi thành Carthage mới trên bán đảo Iberia. Trước khi vượt qua những dãy núi Pyrenean, để đảm bảo hậu cần, Hannibal đã biên chế lại quân đội: Bộ binh từ 75.000 quân rút xuống còn 50.000 quân, kị binh từ 12.000 xuống còn 9.000, ngoài ra còn điều động thêm khoảng 40 con voi chiến đấu.
Bằng những món lễ vật hậu hĩnh, Hannibal đã liên minh được với bộ lạc Gallic ở phía Nam nước Pháp, vì vậy mà rất nhanh chóng quân Hannibar đã tiến đến cửa sông Rhone. Lại bằng những kế sách nhỏ, quân Hannibal đã nhanh chóng vượt qua sông Rhone, bỏ xa đại quân của đế quốc La Mã lại phía sau để thẳng tiến về dãy núi Anples. Trải qua trăm ngàn vất vả, cuối cùng quân đội của Hannibal cũng đã vượt qua được dãy núi Anples, tiến đến dải đất lưu vực sông Po ở miền bắc nước Ý. Tính từ khi đội quân rời khỏi Carthage đến lúc này, thời gian đã trải qua 5 tháng.
Trong hành trình, họ phải chịu những tổn thất rất lớn, đi được trọn vẹn hành trình chỉ có 20.000 bộ binh và chưa đến 6000 kị binh, số voi chiến cũng còn lại chẳng đáng là bao. Nhưng chính đội quân mệt mỏi này trong vòng 16 năm sau lại trở thành kẻ vô cùng dũng mãnh và đáng sợ nhất kể từ khi quân đội La Mã ra đời. 16 năm chinh chiến của Hannibal tại Ý là một bức tranh lớn vô cùng hoành tráng.
Bây giờ chúng ta hãy tập trung vào 2 trận chiến để hiểu rõ cho dù là bậc thầy về chiến lược như Hannibal thì sự lựa chọn chiến lược đúng đắn, tức là sự nhạy bén trong việc thực thi chiến lược, vẫn là yếu tố quyết định sự thắng bại của toàn trận chiến, thậm chí cả cuộc chiến.
Đầu tiên hãy xem thắng lợi lớn nhất mà Hannibal giành được trên đất Ý, đó là trận chiến Cannae diễn ra vào ngày 2 tháng 8 năm 216 TCN. Khi đó Hannibal dùng khoảng 4 vạn quân để đọ sức với hơn 8 vạn quân của La
https://thuviensach.vn
Mã. Hannibal hạ lệnh cho bộ binh trung lộ vừa chống trả quyết liệt vừa từ từ rút lui để dụ cho quân La Mã dồn vào trung tâm thành một khối dày đặc, vì vậy mà ngay cả việc đưa vũ khí lên cũng khó chứ chưa nói gì đến chiến đấu.
Quân trung lộ Carthage từ từ tách ra hai bên, dần dần tạo thành thế vòng vây. Cùng lúc đó, Hasdrubal đã vòng ra phía sau quân La Mã và đánh thẳng vào quân kị binh cánh tả của quân đội La Mã làm cho quân kị binh này bị vỡ trận, đúng lúc này hai cánh kị binh tả, hữu Carthage nhất tề quay lại tạo nên thế vòng vây bao quanh quân La Mã ở trung lộ. Sau cùng, quân đội Carthage đã giành được chiến thắng vang dội, với sự hi sinh của 6.000 quân nhưng đã tiêu diệt được 50.000 quân La Mã, trong đó có 80 đại thần của Viện Nguyên lão. Thành tựu lớn nhất của Hannibal là đã nêu lên tấm gương điển hình về nghệ thuật quân sự có một không hai trong lịch sử chiến tranh cổ đại về sự chính xác tuyệt đối trong việc lựa chọn thời cơ và sự phối hợp tác chiến nhịp nhàng trong chiến thuật bộ binh và kị binh.
Trận chiến thứ hai là trận chiến sông Metorus, diễn ra vào mùa đông năm 208 TCN. Trận đánh này là một bước ngoặt của người Catharge trên chiến trường Italia, cuộc đời chinh chiến lẫy lừng của Hannibal cũng từ đây trượt xuống vực thẳm. Nhân vật chính của trận chiến là Hasdrubal, em trai của Hannibal và đại tướng của La Mã là Nero. Khi đó Hasdrubal dẫn khoảng 2000 quân từ Iberia đến miền Trung Italia để chuẩn bị hợp với quân đội của Hannibal đóng ở miền Nam Italia.
Địa hình của trận chiến bên sông Metorus cũng giống như của trận chiến Cannae, hai bên chọn thế trận 3 đội hình: trái, giữa, phải. Hasdrubal lợi dụng địa hình, bố trí cánh quân bên trái trên một vùng đất cao bên bờ sông, ông lựa chọn phía chính diện đối mặt với quân địch là vách đá để tránh khỏi cánh quân bên phải do Nero chỉ huy, còn ở trung lộ và hữu lộ thì cho quân hai bên giao chiến với nhau.
Nhưng kết quả đã chứng minh sự bố trí chiến thuật hư hư, thực thực này là một sai lầm chết người: Cánh trái của quân Carthage tuy được bảo hộ
https://thuviensach.vn
nhưng lại mất đi địa thế chiến đấu nên trong lúc giao chiến ác liệt lại chẳng làm nên trò trống gì. Cánh quân bên phải do Nero chỉ huy lại vòng ra phía sau đại quân Carthage, từ phía sau tấn công cánh phải do Hasdrubal đích thân chỉ huy, thế trận của quân Carthage bị loạn. Hasdrubal biết rằng thế trận đã mất, bèn quất ngựa xông thẳng vào trận địa địch và đã "chiến đấu anh dũng đến hơi thở cuối cùng, không hổ danh là em trai của Hannibal". Đội quân của Carthage do Hasdrubal chỉ huy bị tiêu diệt hoàn toàn, quân La Mã dùng nỏ đá bắn thủ cấp của Hasdrubal, vượt qua tường cao vào doanh trại Hannibal.
Hannibal đau khổ, tuyệt vọng. Cùng lúc đó, tin thắng trận bay khắp La Mã, toàn thành Roma sục sôi, người La Mã từ đó tin rằng cơ hội chấn hưng đã đến. Hasdrubal đã đích thân tham gia trận chiến Cannae, nên việc bày binh bố trận trong trận đánh ở sông Metorus ít nhiều đã có phần ảnh hưởng của người anh trai Hannibal, nhưng chỉ vì thiếu đi sự nhạy cảm trong việc thực hiện các chiến thuật mà dẫn đến kết cục trái ngược. Đúng là sự thắng, bại thực sự chỉ cách nhau trong gang tấc.
Chương 5: Spartacus
Spartacus (năm 73 - 71 TCN) là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nô lệ sớm nhất ở La Mã cổ đại. Mác đã gọi ông là "một vị thống soái vĩ đại có phẩm chất cao đẹp và là đại diện chân chính cho giai cấp vô sản cổ đại". Lênin ca ngợi ông là "vị anh hùng kiệt xuất trong cuộc khởi nghĩa lớn nhất của giai cấp nô lệ khoảng 2000 năm trước". Vĩ nhân trên thế giới cùng thời ông có: Nhà độc tài, nhà chính trị La Mã Julius Caesar.
https://thuviensach.vn
Spartacus là người Thrace (vùng đất Thrace nằm ở phía đông nam bán đảo Bankan, giữa biển Aegine và biển Đen). Ông vốn là người tự do, nhưng trong một lần tham gia vào phong trào phản đối sự xâm lược của La Mã, ông đã bị bắt và bị bán làm nô lệ. Chủ nô đã bán ông cho một trường đấu vật tư nhân ở Capua làm nô lệ đấu vật. Spartacus không cam chịu cuộc đời của một kẻ đấu vật, năm 78 TCN, ông đã bí mật tổ chức cho 200 đấu vật được huấn luyện tại trường đấu vật Capua đứng lên hành động, họ tự trang bị vũ khí, sau đó chạy trốn đến phía Nam rồi xây dựng doanh trại khởi nghĩa tại núi Vesuvius. Họ tiến hành các hoạt động huấn luyện hết sức khẩn trương ở trên núi, liên tục tập kích các cánh quân nhỏ lẻ của quân đội La Mã, cướp đoạt vũ khí, lương thực trong các trang viên của các chủ nô. Trong đấu tranh, đội quân khởi nghĩa không ngừng phát triển lớn mạnh, số quân rất nhanh chóng đã tăng lên 1 vạn người.
Để giành được quyền chủ động, quân khởi nghĩa đã liên tục dùng các mưu kế bất ngờ, tiến hành bao vây, đánh úp, khiến cho quân địch chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Giai cấp thống trị La Mã ý thức được quân khởi nghĩa này là một sự uy hiếp nghiêm trọng đối với đế quốc La Mã nên đã cử quan hành pháp là Claudius đem quân đội đi trấn áp. Xét thấy đặc điểm địa hình của núi Vesuvius là sườn núi giáp biển, hai bên là vách đá, chính diện chỉ có một con đường nhỏ quanh co thông lên đỉnh núi, nên Claudius đã bố trí cho 3000 quân binh tập trung bao vây quanh con đường nhỏ này, đồng thời bố trí nhiều vòng mai phục với ý đồ vây hãm quân khởi nghĩa trên núi, làm cho họ phải khốn đốn, không đánh mà phải tự ra hàng. Spartacus ra lệnh cho quân khởi nghĩa đi lấy thân cây nho dại bện thành những chiếc thang dây rồi từ vách đá theo thang dây xuống núi nhằm tránh xa con đường độc đạo đầy mai phục. Quân khởi nghĩa bám vào thang dây, lần theo vách đá hiểm trở, từ từ xuống núi, sáng sớm tinh mơ hôm sau, quân khởi nghĩa bất ngờ tập kích doanh trại quân đội La Mã khiến cho quân La Mã hoảng sợ, luống cuống trở tay không kịp và lương thực đều bị quân khởi nghĩa đoạt lấy hết.
https://thuviensach.vn
Từ đó, tiếng tăm quân khởi nghĩa Spartacus vang lừng khắp nơi, không lâu sau, đội quân này hầu như đã khống chế cả vùng đồng bằng Campania.
Đặc điểm tác chiến của Spartacus có thể tổng kết như sau:
Thứ nhất là, giỏi bày bố nghi binh. Nhờ vậy mà Valonnie bị trúng kế, quân khởi nghĩa có thể phá vòng vây và thoát được. Sau trận thảm bại của Claudius ở núi Vesuvius, Viện Nguyên lão La Mã lại phái quan hành pháp Valonnie dẫn khoảng 12.000 quân sĩ tiến hành bao vây quân khởi nghĩa. Spartacus đã đánh lừa kẻ địch bằng nghệ thuật nghi binh. Ông đã dẫn quân khởi nghĩa theo kế hoạch vượt ra khỏi vòng vây dày đặc theo con đường trên núi mà kẻ địch không thể ngờ tới được. Tiếp theo đo, ông lại lợi dụng địa hình, cho quân nghỉ ngơi lấy sức, đợi khi quân địch mệt mỏi, tập kích doanh trại.
Valonnie không thấy quân khởi nghĩa đâu thì tức giận ra lệnh cho quân đội truy kích ngay lập tức, kết quả là quân đội mệt mỏi của Valonie cứ lần lượt đi vào thế trận mai phục của quân khởi nghĩa. Sau trận chiến ác liệt, quân khởi nghĩa đã đại thắng. Từ đó, cái tên Spartacus lan truyền khắp nước Italia, nô lệ và nông dân nghèo khổ khắp nơi đã lũ lượt kéo nhau quy tụ dưới trướng của ông khiến cho số quân khởi nghĩa tăng lên vùn vụt, đến hơn 7 vạn người.
Thứ hai là, thẳng tay trừng trị kẻ ngoan cố. Khi rút quân tiến lên phương Bắc, bất ngờ bị đánh giáp công, nghĩa quân đã chiến đấu anh dũng, kiên cường. Sự uy hiếp của nghĩa quân đối với giai cấp thống trị La Mã mỗi ngày một lớn, tập đoàn thống trị La Mã như ngồi trên đống lửa, lo sợ không yên.
Đầu năm 72 TCN, đế quốc La Mã lại phái 2 viên quan hành pháp dẫn binh đi chinh phạt nghĩa quân. Quân La Mã chia làm 2 cánh, cánh thứ nhất hành quân thần tốc, vượt lên chặn đầu nghĩa quân, cánh thứ hai bám sát theo sau nghĩa quân, tạo nên thế gọng kìm siết chặt vòng vây đối với nghĩa quân. Spartacus rất nhanh chóng đoán ra được ý đồ của kẻ địch, ông nhận định kẻ địch khinh suất, mạo muội tiến công nên binh lực nhất định là sẽ bị
https://thuviensach.vn
phân tán. Ông chủ động dùng tập trung để đánh phân tán, vì nếu như dùng tập trung để đánh phân tán thì có thể xoay chuyển tình thế từ bất lợi sang có lợi.
Spartacus chỉ huy quân tập trung phân tán các lực lượng địch rồi lần lượt tiêu diệt từng bộ phận của cánh quân đón đầu. Sau khi cánh quân đón đầu của địch bị đánh tan, Spartacus thừa thắng cho quân quay lại đánh thẳng vào cánh quân địch đang bám phía sau, kết quả cả 2 cánh quân của địch đều bị đánh tan, chướng ngại vật trên con đường tiến lên phương Bắc đã được dẹp bỏ.
Kế hoạch tiến quân lên phương Bắc của Spartacus sắp sửa tiến hành thì không hiểu vì lý do gì mà ông lại hủy bỏ kế hoạch đã dự định, dẫn 12 vạn quân khởi nghĩa đi xuống phía Nam. Để phòng ngừa quân khởi nghĩa tấn công thành Roma, Crassus đã bố trí mấy cánh quân đóng tại vùng biên giới Pisa ngoài thành Roma, dựa vào địa hình hiểm yếu để chuẩn bị quyết chiến với quân khởi nghĩa. Spartacus đã mưu trí tránh xa thành Roma, dẫn quân đi tiếp xuống phía Nam. Spartacus tuy thoát khỏi sự truy kích của địch nhưng lại bị quân đội La Mã vừa từ Asia Minor trở về chặn mất đường đi. Phía trước có đại quân chặn đường, phía sau có đội quân hùng hậu đuổi đánh, nghĩa quân đã rơi vào tình thế bị bao vây ở thế gọng kìm. Do sự chênh lệch quá lớn về lực lượng nên cuối cùng nghĩa quân bị thảm bại, Spartacus đã hi sinh anh dũng trên chiến trường.
Chương 6: Gaius Julius Caesar
Julius Caesar (khoảng năm 100 - 44 TCN) tên đầy đủ là Gaius Julius Caesar, là một thống soái quân sự, một nhà văn, nhà chính trị kiệt xuất của
https://thuviensach.vn
La Mã cổ đại. Vĩ nhân thế giới cùng thời ông có: Hán Vũ Đế của triều đại Tần - Hán ở Trung Quốc và lãnh tụ phong trào khởi nghĩa của nô lệ La Mã cổ đại là Spartacus.
Năm 100 TCN, Caesar đã cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình quý tộc danh giá ở La Mã. Bố và chú của ông là những người nắm giữ các chức vụ quan trọng, mẹ ông lại xuất thân từ một gia đình quan lại, vì vậy mà Caesar rất tự hào về gia tộc mình. Ông thường nói rằng mẹ ông mang huyết thống dòng dõi đế vương La Mã, thông qua bố ông có thể đến được với thần vĩnh hằng.
Thời niên thiếu, Caesar cũng giống như con em giới quý tộc, gia nhập đội quân huấn luyện để được huấn luyện về quân sự. Sau đó, ông rời Roma để đi thực tập ngắn hạn tại một tỉnh ở phía Đông, lúc này ông đã học được những kiến thức sơ bộ về quân sự. Ông ngưỡng mộ danh tướng Hi Lạp cổ đại là Alexander và đã từng đọc đi đọc lại các cuốn truyện ký về cuộc viễn chinh của Alexander. Truyền thuyết kể rằng, thời thanh niên, có lần ông nhìn thấy bức tượng của Alexander bên cạnh một cái miếu thần, ông đã nhỏ lệ và than rằng lúc bằng tuổi mình bây giờ thì Alexander đã chinh phục được một nửa thế giới rồi, trong khi đó mình lại chẳng ai biết đến cả. Caesar mơ ước thông qua việc chinh phục bằng quân sự để có được vinh dự và địa vị, từ đó thực hiện tham vọng quyền lực của mình.
Năm 19 tuổi, Caesar gia nhập quân đội, bắt đầu cuộc đời chinh chiến 10 năm của mình. Lúc đầu ông chỉ là một quan chức quân đội rất nhỏ, sau này được phụng mệnh đi sứ tại nước đồng minh là Biltainia, trong một trận chiến, ông đã dũng cảm lập công nên đã được ban thưởng vành hoa kết bằng lá cây cao su. Ông từng tham gia vào cuộc viễn chinh vùng Tiểu Á, tham gia truy quét bọn cướp biển trên biển Địa Trung Hải. Cuộc sống nhiều năm trong quân đội không những vun đắp cho tài năng quân sự của ông mà còn tôi tuyện tinh thần chịu đựng gian khổ và nghị lực kiên cường cho ông. Đây chính là cơ sở nắm binh quyền và thực hiện hoài bão của ông sau này.
https://thuviensach.vn
Sau khi rời khỏi quân đội, ông liền chú ý ngay đến phong trào dân chủ của La Mã đang bắt đầu bùng lên. Ông chuyên tâm dốc sức vào các hoạt động chính trị, lần lượt đảm nhận các chức vụ quan tài chính và quan thị chính. Để lấy lòng người dân Roma, ông đã không tiếc tiền bạc để cho người dân có được những bữa ăn trưa thịnh soạn, những buổi xem kịch, xem đấu vật. Ông còn phân phát bánh mì miễn phí, ông cũng bỏ ra rất nhiều tiền bạc vào việc xây dựng chính quyền.
Tất cả những việc làm này không chỉ làm cho ông khuynh gia bại sản mà còn khiến cho ông trở thành một con nợ khổng lồ. Nhưng bù lại thì danh tiếng của ông cũng tăng lên vùn vụt và ông đã trở thành lãnh tụ của phái dân chủ. Với tầm nhìn chính trị, ông đã kết giao với những nhân vật thế lực nhất La Mã như Pompei và Crassius, lịch sử gọi là "Đệ nhất tam hùng". Pompei còn cưới cô con gái độc nhất của ông làm vợ. Không lâu sau, Caesar đã giành được chức vụ thống đốc Gallo. Bằng một loạt các hoạt động chính trị, ông đã giành được sự ủng hộ của tầng lớp bình dân và giới thương nhân giàu có ở thành phố. Trên diễn đàn chính trị, ông bắt đầu xuất đầu lộ diện và được đánh giá là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất thành Roma. Tuy vậy, ông vẫn chưa cảm thấy hài lòng và còn muốn gây thêm thanh thế trên mặt trận quân sự.
Ông muốn chinh phục vùng ngoài Gallo chưa được La Mã hóa để làm bàn đạp tiến tới nắm binh quyền và leo lên địa vị cao hơn. Chính vì lí do này mà ông đã phát động cuộc chiến Gallo kéo dài 10 năm, rồi tiếp tục là cuộc nội chiến kéo dài 4 năm, nhưng cuối cùng, ông đã giành thắng lợi và lập nên vương quốc La Mã của riêng mình. Ông làm quan độc tài, trị vì 10 năm, và được coi như là một vị Hoàng đế đầy quyền lực của La Mã, có thể thấy quyền lực quân đội, chính trị và tư pháp đều nằm trong tay ông. Nhưng sự độc tài và những cải cách của ông làm cho Viện Nguyên lão và giới quý tộc cảm thấy bất mãn, kết cục là ông đã bị ám sát.
Sau đó, các phe phái đã tranh giành, đấu đá nhau, ít lâu sau, cháu trai của ông là Octavian đã lần lượt tiêu diệt các đối thủ chính trị để lập nên chế độ
https://thuviensach.vn
nguyên thủ, nắm toàn quyền trong tay. Kể từ đó, nước cộng hòa La Mã diệt vong, mở đường cho sự ra đời của đế quốc La Mã.
Caesar đã giúp cho La Mã hùng dũng bước đi trên lãnh thổ châu Âu, ông đóng vai trò quyết định trong việc La Mã chuyển từ chế độ cộng hòa sang chế độ đế chế, đồng thời, ông cũng có được địa vị quan trọng trong lịch sử nhờ vào tài năng quân sự kiệt xuất của mình. Ông đã cho ban hành các đạo luật nhằm mở rộng phạm vi quyền công dân La Mã, thiết lập các vùng đất phong cho các quan binh giải ngũ, thực thi chế độ tự trị, thiết lập thêm các chức quan cao cấp, mở rộng Viện Nguyên lão. Ngoài ra, ông còn sửa đổi những điều luật hà khắc. Là một vị thống soái quân sự, ông rất giỏi kết hợp các biện pháp quân sự với biện pháp chính trị, làm phân hóa, tan rã và tiêu diệt kẻ địch; ông cũng vô cùng coi trọng tác dụng của kị binh và sự hiệp đồng tác chiến giữa kị binh với bộ binh.
Chương 7: Octavian
"Tôi tiếp nhận một tòa thành xây bằng gạch nhưng tôi đã để lại một tòa thành xây bằng đá hoa cương", đây là câu nói đầy tự hào của người đã sáng lập ra đế quốc La Mã - Gaius Octavian (năm 63 - 14 TCN).
Trong 43 năm dưới sự thống trị của Octavian, nền kinh tế La Mã cổ đại đã phát triển đến đỉnh cao và cũng là thời đại hoàng kim của nền văn học cổ đại La Mã. Vĩ nhân cùng thời ông có: Nhà chính trị gia La Mã Caesar. Ông xuất thân trong một gia đình kị sĩ. Ông nội của ông từng làm quan địa phương, bố ông là đại thần của Viện Nguyên lão.
https://thuviensach.vn
Cũng có tư liệu nói rằng ông nội của Octavian là một vị thương nhân chuyên kinh doanh ngoại tệ. Đến thời bố của ông thì gia đình ông đã trở nên rất giàu có, và cũng rất có uy danh. Octavian là cháu của Caesar. Caesar đã nhận Octavian làm con nuôi để làm người kế thừa mình sau này, và quyết định cho Octavian thừa hưởng 3/4 gia sản của mình sau khi mất. Khi Caesar bị giết thì viên quan chấp chính thành Roma là Antony (đại tướng trung thành của Caesar) đã tự nhận mình là người thừa kế Caesar.
Khi Octavian từ nước ngoài trở về Roma, Antony đã đối đãi với Octavian bằng thái độ miệt thị, Antony còn ngạo mạn nói với Octavian rằng: "Hỡi tên nhóc kia, ngoài cái tên Caesar ra, ngươi còn muốn cái gì nữa, tiền hả? Tao chẳng có một xu nào đâu. Hay là mày vẫn còn muốn chính quyền của Caesar?" Octavian quay lưng bỏ đi, ông biết rất rõ rằng ông và Antony sẽ khó tránh khỏi một cuộc đấu tranh giành quyền lực, mà muốn giành được chính quyền thì điều quan trọng nhất là gì, đó là quân đội!.
Trên quảng trường Roma, Octavian đã bán đấu giá toàn bộ tài sản của mình, sau đó, ông dùng tiền để chiêu nạp những thuộc hạ cũ của Caesar, chẳng mấy chốc ông đã có được một đội quân thiện chiến.
Tháng 7 năm 43 TCN, nhân lúc Antony dẫn quân đi chinh chiến, Octavian đã tiến quân vào thành Roma và ép Viện Nguyên lão phải bổ nhiệm ông làm quan chấp chính. Các đại thần của Viện Nguyên Lão cũng muốn dùng Octavian để khống chế Antony, và thế là Octavian và Antony đã trở thành kẻ địch của nhau. Lepidus nguyên là thủ lĩnh kị binh của Ceaser, rất nhiều người ủng hộ Caesar ở các tỉnh miền tây La Mã đều quy thuận theo Lepidus. Octavian, Antony, Lepidus đều có thực lực rất lớn, nhưng không ai có thể xây dựng được chính quyền độc tài của riêng mình. Để khống chế và lợi dụng lẫn nhau, vào năm 43 TCN, ba người này đã kết thành đồng minh, cùng nhau nắm giữ chính quyền. Năm 42 TCN, liên minh này đã cùng nhau tiêu diệt kẻ địch chung là Viện Nguyên lão, nhưng sau đó ba thế lực này lại quay ra đấu đá nhau. Năm 36 TCN, Lepidus đã bị Octavian thôn tính, cục diện đối đầu ba cực giờ đây chỉ còn lại hai cực, đó là sự đối đầu giữa Octavian và Antony.
https://thuviensach.vn
Năm 42 TCN, Antony nhậm chức tổng đốc tại một tỉnh thuộc miền đông La Mã, sau đó ông đến Ai Cập. Nữ hoàng Ai Cập là một phụ nữ tài sắc vẹn toàn, bà đã từng có hôn ước với cha nuôi Caesar của Octavian nhưng sau khi Caesar qua đời, bà ở vậy để trị vì vương quốc của mình. Antony đã say mê nữ hoàng Ai Cập đẹp như tiên nữ này, và họ đã yêu nhau. Một thời gian sau, hai đứa con sinh đôi ra đời. Antony đã tặng vùng đất mà mình làm tổng đốc cho nữ hoàng Ai Cập và các con của mình. Hành động phá hoại sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ La Mã của Antony đã làm cho người dân La Mã vô cùng phẫn nộ.
Nhân cơ hội này, Octavian đã thổi bùng lên ngọn lửa căm phẫn trong lòng mọi người. Sau cùng, Viện Nguyên lão và Quốc hội La Mã đã tuyên bố tước bỏ quyền lực của Antony và quyết định tiến hành cuộc chinh phạt đối với Antony và nữ hoàng Ai Cập. Tháng 9 năm 31 TCN, một cuộc chiến trên toàn vùng biển Tây Bắc Hi Lạp đã nổ ra giữa hạm đội của quân thảo phạt La Mã với hạm đội của Antony và nữ hoàng Ai Cập.
Hai bên ngang tài ngang sức nên trận chiến bất phân thắng bại, nhưng đúng vào lúc quyết liệt nhất của trận chiến thì nữ hoàng Ai Cập bất ngờ dẫn hạm đội Ai Cập rút lui khỏi trận chiến và chạy về Ai Cập. Nữ hoàng rút lui, Antony như rắn không đầu, nhanh chóng bị quân thảo phạt của La Mã tiêu diệt. Mùa hạ năm sau, Octavian đã tiến quân vào thủ đô Ai Cập. Vào lúc thế cục đã mất, Antony đã đòi quyết đấu với Octavian, nhưng Octavian đã trả lời: "Không cần thiết phải như vậy, nếu nhà ngươi muốn chết thì vẫn còn nhiều cách khác". Antony không còn cách nào khác, buộc phải rút kiếm tự sát ngay trong doanh trại.
Khi Octavian quay trở về La Mã thì ông đã trở thành nhân vật vĩ đại giống như Caesar. Đế quốc La Mã của ông ở phía Bắc bắt đầu từ sông Danube, phía Nam đến châu Phi (vùng đất Bắc Phi bao gồm cả Ai Cập), phía tây đến tận bán đảo Iberia, phía đông đến lưu vực sông Lưỡng Hà và bán đảo Asia Minor, tạo nên một đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử cổ đại, biến Địa Trung Hải trở thành một cái hồ trong lòng đế quốc La Mã.
https://thuviensach.vn
Octavian đã đem lại hòa bình cho người dân La Mã đã phải chịu nhiều chinh chiến. Kể từ đó, La Mã đã duy trì được nền hòa bình trong suốt 200 năm.
Tháng 1 năm 27 TCN, thể theo lời thỉnh cầu của toàn dân, Octavian đã đón nhận danh hiệu "Thánh đế" cao quý do Viện Nguyên Lão phong tặng, danh hiệu này sau này đã trở thành danh hiệu cao quý nhất của các bậc đế vương phương Tây. Octavian còn nhận được danh hiệu cao quý" Công dân đứng đầu Viện Nguyên lão" (tức là nguyên thủ) và danh hiệu thống soái. Một mình ông đã nắm toàn bộ đại quyền hành chính, quân sự, tư pháp và tôn giáo của La Mã. Từ "Nguyên thủ" từ đó được sử dụng thông dụng trên toàn thế giới, lúc đó Octavian mới 36 tuổi. Octavian trị vì La Mã 45 năm và mất vào năm 14 TCN.
Chương 8: Tào Tháo (Cao Cao)
Tào Tháo (155 - 220), tự là Mạnh Đức, Sinh tại huyện Bặc thuộc tỉnh An Huy ngày nay, mất tại Lạc Dương. Vĩ nhân cùng thời với ông có: Cha đẻ thuyết giải phẫu Galin của Hi Lạp.
Năm 174 SCN, Tào Tháo bắt đầu con đường quan chức khi mới 20 tuổi, ông từng nhậm chức hiệu úy quân điển, sau được bổ nhiệm chức huyện lệnh Đốn Khâu, ít lâu sau được triều đình cho gọi và nhậm chức Nghị lang.
Sau do em họ bị bọn hoạn quan hãm hại và giết chết nên ông bị liên lụy và mất chức. Sau đó, ông đã trở về quê dùi mài binh thư, sách cổ. Năm 189, sau loạn Đổng Trác, Tào Tháo và thân tín là Hạ Hầu Đôn đã chiêu binh mãi mã, lập nên một đội ngũ vũ trang. Năm 191, nhân cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Khăn Vàng ở Thanh Châu và nghĩa quân ở Hắc Sơn - Hồ Bắc,
https://thuviensach.vn
Viên Thiệu đã lấy tư cách minh chủ, phái Tào Tháo đi trấn áp, Tào Tháo vì muốn tiến thân nên đã dẫn quân đi trấn áp nghĩa quân Hắc Sơn.
Sau này, Tào Tháo đã thực thi chính sách vừa đánh vừa xoa nên đã dụ hàng được hơn 30 vạn quân khởi nghĩa, rồi chọn ra những tinh binh, biên chế thành "Thanh Châu binh", từ đó, Tào Tháo mở rộng địa bàn của mình và nắm trong tay quân đội quy mô lớn. Đội quân này trở thành lực lượng chủ yếu để Tào Tháo đoạt được thiên hạ sau này.
Tào Tháo vừa khởi nghiệp tại Duyễn Châu thì bị Viên Thuật và Công Tôn Toản tiến đánh từ hai phía, Tào Tháo đích thân dẫn quân nghênh chiến và giành được thắng lợi buộc Công Tôn Toản phải tháo chạy đến U Châu, Viên Thuật thì phải lui về Hồ Bắc.
Cuộc chiến bảo vệ Duyễn Châu đã cho thấy rõ khả năng tranh đoạt thiên hạ từ các hào kiệt trong thiên hạ của Tào Tháo. Nhưng hai lần chinh phạt Từ Châu của Tào Tháo sau đó đều thất bại. Lúc này Tào Tháo đã ý thức được rằng muốn thống nhất thiên hạ thì buộc phải dựa vào quyền lực tối cao của đế vương, vì vậy, ông đã tìm cơ hội để có được sự sủng ái của Hán Hiến Đế. Hán Hiến Đế đã phong cho ông chức hiệu Uý Tư Nô, và được tham gia vào công việc triều chính, đồng thời dời đô từ Lạc Dương đến huyện Hứa của Doãn Châu (Hứa Xương - Hà Nam ngày nay), cải niên hiệu thành Kiến An. Tào Tháo uy hiếp thiên tử để ra lệnh cho các chư hầu, rồi từ đó chiếm đoạt quyền chủ động về chính trị. Ông đưa ra chế độ đồn điền, từ đó giải quyết được vấn đề lương thực, vừa lấy được lòng dân lại vừa tăng tích lũy cho quân đội.
Tiếp đó, Tào Tháo bắt đầu mở rộng địa bàn về phía Nam sông Hoàng Hà để mở rộng thế lực. Lúc đó, Tào Tháo có khá nhiều địch thủ như: phía Bắc có Viên Thiệu ở Ký Châu, phía Nam có Viên Thuật ở Hoài Nam, phía Đông có Lã Bố ở Từ Châu, phía Tây có Chương Tú ở Nam Dương, ngoài ra còn có Mã Đằng, Hàm Toại hùng cứ một phương. Tào Tháo nhận định rằng: muốn chiếm được Trung Nguyên, thống nhất miền Bắc thì phải tiêu diệt các nước chư hầu này.
https://thuviensach.vn
Để tránh sự tấn công của kẻ địch từ bốn phương, Tào Tháo đã dùng mưu lôi kéo, dụ dỗ, phân hóa chia rẽ để tiêu diệt từng đối thủ một. Trước tiên, Tào Tháo tìm cách vỗ về hai tướng là Mã Đằng và Hàm Toại, đối với Viên Thiệu ở phương Bắc thì ông dùng chính sách hòa giải, sau đó thì tập trung lực lượng đánh chiếm khu vực Từ Hoài, phía Nam sông Hoàng Hà.
Trong khi Tào Tháo dẫn quân đi thảo phạt Viên Thuật thì Lã Bố ở Từ Châu đã đem quân ra chặn đánh. Lúc này, Tào Tháo ý thức được thời cơ tiến đánh Viên Thiệu đã chín muồi bèn cất quân đi đánh Viên Thiệu. Vì không chịu nghe theo mưu kế của quân sư nên Viên Thiệu đã bị trúng kế của Tào Tháo. Sau khi tin thất trận tại Ô Sào truyền đến Quan Độ, quân sĩ của Viên Thiệu hoang mang, dao động, nội bộ chia rẽ, đại tướng Trương Cáp đã dẫn đội quân đầu hàng Tào Tháo, vì vậy quân đội của Viên Thiệu không đánh mà loạn.
Nhận thấy thời cơ đã đến, Tào Tháo bèn hạ lệnh tổng tấn công, kết quả 7 vạn quân của Viên Thiệu bị tiêu diệt, bản thân Viên Thiệu thì vội vã dẫn theo 800 quân vượt sông Hoàng Hà tháo chạy về phía Bắc.
Năm 202, sau thảm bại không thể gượng lại được, Viên Thiệu lâm bệnh nặng và đã qua đời tại Nghiệp Thành. Tào Tháo thừa thắng tiến quân xuống phía Bắc chiếm lĩnh Nghiệp Thành - Kí Châu, Thanh Châu, U Châu, tiêu diệt tận gốc thế lực tàn dư nhà họ Viên, thống nhất toàn miền Bắc.
Năm 208, Tào Tháo dẫn quân quay về Nghiệp Thành để chuẩn bị cho cuộc chinh chiến xuống phía Nam. Tào Tháo đã lên kế hoạch, trước tiên sẽ tiến đánh Lưu Biểu ở Kinh Châu, sau đó sẽ thôn tính Tôn Quyền ở Giang Đông. Khi Tào Tháo vừa xuất quân thì Lưu Biểu lâm bệnh nặng qua đời, cháu đích tôn của Lưu Biểu là Lưu Tông khiếp sợ trước uy thế như vũ bão của quân Tào nên đã xin ra hàng, Tào Tháo thừa cơ truy kích Lưu Bị.
Cũng đúng vào lúc này, nhận biết trước được tình thế nên Lưu Bị đã ra sức tập trung chuẩn bị cho những trận đánh sắp tới. Thật tình cờ, Lưu Bị, Gia Cát Lượng và đại thần của Đông Ngô là Lỗ Túc đã gặp nhau tại Trường
https://thuviensach.vn
Bản - Đương Dương, hai bên đã nhân cơ hội này ngồi lại với nhau bàn kế hoạch liên minh chống Tào Tháo.
Tôn Quyền vốn là người hay do dự, không quyết đoán, nhưng sau khi nghe xong lời khuyên của Gia Cát Lượng đã phong Chu Du làm đô đốc, Trình Phổ làm phó đô đốc, Lỗ Túc làm hiệu úy, dẫn 3 vạn tinh binh theo đường thủy tiến lên phía Tây, hợp với quân của Lưu Bị tạo thành đội quân liên minh hùng mạnh. Liên quân Lưu - Tôn và quân Tào đã khai chiến tại Xích Bích.
Do quân của Tào Tháo phải vượt đường xa tới nên mệt mỏi, vì vậy sĩ khí giảm sút, trong khi đó Chu Du lại dùng kế hỏa công, khiến cho các chiến thuyền của quân Tào bốc cháy và biến thành một biển lửa. Sau bao nhọc công lập mưu tính kế, Tào Tháo cũng đã bị thảm bại bởi liên quân Lưu - Tôn.
Sau trận đại chiến Xích Bích, cục diện 3 nước Ngụy, Thục, Ngô đã hình thành. Kể từ đó, Tào Tháo chủ yếu lựa chọn kế sách phòng ngự đối với Tôn Quyền và Lưu Bị, để tập trung sức lực vào khống chế Quan Tây, Hàm Trung và củng cố phương Bắc. Năm 211, Tào Tháo và tướng trấn thủ Quan Trung là Mã Siêu và Hàm Toại đã khai chiến tại sông Vị Thủy.
Trong trận chiến này, Tào Tháo đã dùng kế cố thủ không chịu ra đánh, giả vờ xin giảng hòa và đánh giáp công khiến cho 2 tướng Mã Siêu và Hàm Toại bị thua và phải tháo chạy về Kinh Châu. Sau khi chiếm được Quan Trung, Tào Tháo thừa cơ chiếm luôn vùng Hồ Nam của Tôn Quyền, khiến cho thế lực của Tôn Quyền và Lưu Bị từ đó dần yếu đi. Đúng và lúc đại nghiệp thống nhất Trung Quốc của Tào Tháo sắp hoàn thành thì ông lâm bệnh nặng và qua đời vào năm 220.
Cuộc đời của Tào Tháo hầu như là trên chiến trường, hơn 30 năm xông pha trên lưng ngựa, hơn 50 lần đích thân chỉ huy trận chiến, một tay thao lược chinh chiến trên một nửa lãnh thổ Trung Quốc, tài năng quân sự phi phàm và nghệ thuật dùng binh xuất chúng của ông đã được thể hiện trong các trận đánh lớn có tính chất quyết định. Kinh nghiệm quân sự của ông là
https://thuviensach.vn
sự đúc kết từ "Binh pháp Tôn Tử". Tào Tháo rất giỏi trong việc chọn dùng các tướng sĩ và rất coi trọng vai trò của các tướng sĩ trong chiến đấu.
Tập trung binh lực, tác chiến thống nhất là đặc điểm lớn nhất trong thuật dùng binh của ông. Ông cũng là người rất giỏi dùng kế phân hóa, gây chia rẽ, khiến cho nội bộ kẻ địch tự đánh lẫn nhau, từ đó tiến hành tiêu diệt từng bộ phận. Ông cũng là người chỉ huy quyết đoán, ứng biến như thần, chính vì vậy mà ông thường xuyên giành thắng lợi trong các trận chiến.
Chương 9: Chu Du (Zhou You)
Chu Du (175 - 210) tự là Công Cẩn, người đương thời gọi ông là Chu Lang, người huyện Thư, Lư Giang (nay là huyện Thư Thành, tỉnh An Huy).
Ông là danh tướng nước Ngô thời Tam Quốc, nhà mưu lược quân sự lừng danh trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. Trận Xích Bích do ông chỉ huy là một trận đánh nổi tiếng lấy yếu thắng mạnh trong lịch sử Trung Quốc. Danh nhân thế giới cùng thời với ông có: Tác giả vở kịnh nổi tiếng "Chiếc xe bùn" của Ấn Độ là Sudraka và thiên hoàng Nhật Bản Kogen.
Năm Sơ Bình thứ nhất (190), hưởng ứng lời hiệu triệu thảo phạt gian thần Đổng Trác của Viên Thiệu và Tào Tháo, Tôn Kiên đã đem theo gia quyến chuyển đến Thư Thành, ở trong nhà của Chu Du. Con trai cả của Tôn Kiên là Tôn Sách cùng tuổi với Chu Du nên cả hai thường cùng nhau học, luận bàn chuyện đại sự thiên hạ, hai bên tâm đầu ý hợp, cùng chung chí hướng nên đã kết thành bạn tâm giao.
Sau khi Tôn Kiên mất, Tôn Sách lấy danh nghĩa giúp Viên Thuật bình định Giang Đông nên đã mượn được 3.000 binh mã của Viên Thuật để chuẩn bị công chiếm vùng Giang Đông làm căn cứ địa cho sự nghiệp của
https://thuviensach.vn
mình. Nghe được tin này, Chu Du nhanh chóng thu gom thuyền bè, lương thực, rồi dẫn theo binh mã hưởng ứng theo Tôn Sách, và từ đây, ông đã bước vào con đường giúp họ Tôn sáng lập cơ đồ.
Dưới sự phò tá của Chu Du, Tôn Sách đánh đâu thắng đó, uy danh chấn động bốn phương, quân đội không ngừng lớn mạnh, lên tới hơn 10 vạn quân, vì thế mà có được chỗ đứng vững chắc ở Giang Đông. Năm Kiến An thứ 3 (198), Tôn Sách phong cho Chu Du làm Kiến Uy Trung Lang tướng, lúc này Chu Du mới 24 tuổi. Uy danh của Chu Du mỗi ngày một lớn, người ta thường gọi ông với cái tên thân mật là Chu Lang.
Năm Kiến An thứ 5 (200), Tôn Sách do bị gia bộc ám sát nên bị thương nặng và qua đời, em trai là Tôn Quyền lên nắm quyền. Lúc đó Tào Tháo đã đánh bại Viên Thiệu, thống nhất Trung Nguyên, đang ráo riết chuẩn bị thừa thắng tiến đánh mục tiêu mới, đó là Tôn Quyền. Tào Tháo lấy danh nghĩa thừa tướng nhà Hán, hạ chiếu chỉ đòi Tôn Quyền phải đưa con trai đến làm con tin với mưu đồ không cần đánh mà cũng khuất phục được Đông Ngô. Lúc này các đại thần dưới trướng của Tôn Quyền chẳng ai có kế sách gì hay, Tôn Quyền đành phải đích thân tìm đến Chu Du, đồng thời cho mời Tôn mẫu đến cùng tham gia bàn bạc quyết sách.
Sau khi phân tích tình hình, Chu Du cho rằng với diện tích 6 quận, có tinh binh, lương thảo dồi dào lại đông dân ủng hộ nên không thể đáp ứng theo yêu cầu vô lí của Tào Tháo được. Nếu không muốn khuất phục dưới trướng Tào Tháo thì phải nắm quyền chủ động trong trận chiến này. Theo ông thì nên lặng lẽ quan sát động tĩnh, sau đó sẽ tùy cơ hành sự, nếu như Tào Tháo chủ trương chính nghĩa thì có thể quy thuận theo, còn nếu Tào Tháo có mưu đồ chiếm đoạt thiên hạ thì Đông Ngô cần phải độc lập. Lời nói của Chu Du khiến cho Tôn Quyền như trong mơ bừng tỉnh, gật đầu tâm phục.
Tôn mẫu nắm lấy tay Chu Du, nói với Tôn Quyền "Công Cẩn nói chí phải! Công Cẩn và Bá Phù (tên hiệu của Tôn Sách) bằng tuổi nhau, lớn lên cùng nhau, là một đôi bạn tri kỉ, mẹ coi Công Cẩn như con trai của mình,
https://thuviensach.vn
con nên đối xử với Công Cẩn như anh trai mình". Chính nhờ sự phò tá của Chu Du mà âm mưu của Tào Tháo đã bị thất bại.
Năm Kiến An thứ 13 (208) Tôn Quyền lâm vào tình trạng vô cùng khẩn cấp, Tào Tháo dẫn 20 vạn thủy quân và lục quân tiến sát đến biên giới, đang chuẩn bị tiến đánh Đông Ngô. Dưới sức ép về quân sự do quân Tào gây nên, nội bộ Đông Ngô đã bị chia rẽ và hình thành hai phái: Phái chủ chiến và phái chủ hòa. Sau khi biết tin này, Chu Du đã tức tốc quay lại để phản đối phái chủ hòa. Ông đã tiến hành phân tích tình hình của ta và địch, ông nói: "Tào Tháo tuy đông quân nhưng do chiến trận liên miên nên quân sĩ đều mệt mỏi, lại lấy điểm yếu của mình ra địch với điểm mạnh của đối phương, hơn nữa khí hậu lại không hợp, tất sẽ sinh bệnh, trong khi đó quân tướng dưới trướng Tào Tháo vẫn còn nghi ngại, từ đó có thể thấy quân Tào tuy đông nhưng không đáng sợ”.
Sau cùng, ông đã xin Tôn Quyền cho ông được cầm quân kháng cự và cam kết chỉ dùng 5 vạn tinh binh là có thể đánh tan quân Tào. Điều này đã làm cho Tôn Quyền càng thêm quyết tâm liên minh với Lưu Bị để đánh Tào. Tôn Quyền đã phong cho Chu Du làm đô đốc, Trình Phổ làm phó đô đốc, Lỗ Túc làm hiệu úy quân tán, dẫn quân liên minh với Lưu Bị tại Xích Bích để khai chiến với quân Tào.
Vào lúc này, bệnh dịch đang hoành hành trong quân Tào, nhuệ khí lại bị giảm sút, nên ngay trận đầu xuất quân, quân Tào đã bị thua to, đành phải rút quân về đóng tại bờ bắc sông Trường Giang. Quân Tôn - Lưu trấn thủ tại Giang Nam, từ đó hình thành cục diện đối đầu hai bên bờ sông giữa liên quân Tôn - Lưu và quân Tào. Thủy quân của Tào Tháo rất đông, các chiến thuyền nối đuôi nhau dày đặc như nêm.
Sau khi phân tích tình hình, Chu Du nhận định địch mạnh ta yếu nên không thể cầm cự lâu dài được. Vì vậy, ông đã phái Hoàng Cái dẫn mấy chục chiến thuyền chở đầy cỏ khô tẩm dầu, nhân lúc trời tối giả vờ bơi đến phía quân Tào xin hàng, thấy vậy quân Tào chạy xô ra xem mà không phòng bị gì cả.
https://thuviensach.vn
Đúng lúc đó thì quân Ngô phóng hỏa đốt chiến thuyền, lửa gặp gió lan nhanh vùn vụt, toàn bộ chiến thuyền của quân Tào chìm trong biển lửa, thuận gió ngọn lửa còn cháy lan cả lên bờ, thiêu trụi quá nửa doanh trại quân Tào, khi đo, Chu Du phát lệnh tấn công, kết quả quân Tào đã bị thảm bại.
Từ đó cục diện 3 nước Ngụy, Thục, Ngô được hình thành. Sau đó Chu Du và Trình Phổ dẫn thủy, bộ binh đánh bại đại quân của Tào Nhân, mở rộng căn cứ địa trọng yếu là Kinh Châu cho Tôn Quyền. Trong hơn 10 năm chinh chiến của mình, Chu Du đã nam chinh bắc chiến, không rời mình khỏi yên ngựa, đánh đâu thắng đó. Chu Du thời trẻ vinh quang, lập nhiều kỳ tích, điều này là do tài năng quân sự xuất chúng và thiên tài thống soái của ông mang lại.
Ông là người có con mắt chiến lược, nhìn xa trông rộng, rất giỏi trong việc phân tích, so sánh, đánh giá thực lực mạnh, yếu giữa ta và địch, đưa ra những chiến lược, mưu kế cho những tình thế khác nhau. Trong chỉ huy chiến đấu, ông rất chủ động và linh hoạt. Ông đã vận dụng rất tốt nguyên tắc đánh trận của Tôn Tử: "Nước do đất mà hình thành dòng chảy, binh do địch mà giành được chiến thắng, vậy cho nên binh không có thế cố định, nước không có hình cố định".
Chương 10: Gia Cát Lượng (Zhu Geliang)
Gia Cát Lượng (181 - 234) tự Khổng Minh, người huyện Dương Đô quận Lang Nha thuộc Từ Châu thời Đông Hán (nay là phía Nam huyện Nghị Thủy, tỉnh Sơn Đông).
https://thuviensach.vn
Ông là thừa tướng nước Thục thời Tam Quốc, nhà quân sự, nhà mưu lược và chính trị gia kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tôn vinh là "Thiên hạ kỳ tài", đạo hiệu là "Ngọa Long". Danh nhân thế giới cùng thời với ông có: Hoàng đế La Mã Antoninus và thiên hoàng Nhật Bản Saika.
Thời thơ ấu do bố mẹ mất sớm nên Gia Cát Lượng được người chú nuôi dưỡng. Sau đó, ông cùng chú ruột đến Kinh Châu theo Lưu Bị. Năm Gia Cát Lượng 17 tuổi thì người chú qua đời, từ đó ông định cư tại Long Trung, huyện Đặng (nay là phía tây Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc).
Tại Long Trung, ông đã làm công việc nhà nông, lúc nhàn rỗi thì chuyên tâm đọc sách, ông bái danh sĩ kinh châu là Bàng Đức Công làm thầy. Ông thường xuyên nghiên cứu học tập cùng với Từ Thứ, Thạch Quảng Nguyên, Mạnh Quảng Uy. Thời đó Tương Dương là cửa ngõ giao thông giữa trung du Trường Giang và Trường An, là mảnh đất có vị trí chiến lược, là nơi mà các nước chư hầu đều muốn giành lấy. Gia Cát Lượng ẩn tích tại đây, ông ngầm quan sát đại cục thiên hạ, chuyên tâm vào đạo dụng binh trị quốc, chờ đợi thời cơ thi triển tài năng xuất chúng của mình.
Năm 207, để có được nhân tài Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã đích thân hạ cố đến mời Gia Cát Lượng, nhưng ông từ chối, Lưu Bị đã phải 3 lần đích thân đến mời mới làm động lòng Gia Cát Lượng.
Thấy Lưu Bị cung kính và chân thành, Gia Cát Lượng đã nhận lời làm quân sư cho Lưu Bị. Ngay sau đó, ông đã phân tích cho Lưu Bị nghe về thế cục hiện tại và đưa ra kế sách tổng thể để đại nghiệp thống nhất. Đầu tiên là tiêu diệt thế lực nhỏ yếu của Lưu Biểu, Lưu Chương, rồi chiếm lấy Kinh Châu, Ích Châu để làm căn cứ địa, từ đó tạo nên thế cục 3 nước Ngụy, Thục, Ngô. Tiếp theo là cải cách chính trị, cải thiện mối quan hệ với các dân tộc thiểu số, ổn định nội bộ, tích trữ quân lương, bước tiếp theo nữa là liên kết với Tôn Quyền để cô lập Tào Tháo.
Bước cuối cùng là chia quân làm hai cánh tiến đánh Tào Tháo, thực hiện đại nghiệp thống nhất thiên hạ. Sách lược này của Gia Cát Lượng được người hậu thế gọi là "Long Trung Đối".
https://thuviensach.vn
Gia Cát Lượng sau khi theo Lưu Bị đã khuyên Lưu Bị chiêu mộ các hộ dân du mục để mở rộng quân đội, chẳng mấy chốc số quân đã lên tới hàng vạn người. Lúc này, Tào Tháo đang ráo riết chuẩn bị tiến đánh Kinh Châu, Gia Cát Lượng nhìn trước được thế cục nên đã xin Lưu Bị cho mình sang Đông Ngô thuyết phục Tôn Quyền liên minh lại để chống Tào Tháo. Gia Cát Lượng đã dùng mẹo kích tướng để thuyết phục Tôn Quyền, từ đó tạo thành liên quân Tôn - Lưu chống Tào. Gia Cát Lượng liệu sự như thần, Tào Tháo quả nhiên dẫn binh xuống Giang Nam, hai bên đã gặp nhau tại Xích Bích.
Trong trận này, Tào Tháo gặp thảm bại, buộc phải rút quân về đóng ở Ô Lâm, hình thành thế trận đối địch hai bên sông. Liên quân lại tiếp tục dùng hỏa công khiến cho quân Tào bị tổn thất nặng nề, phải tháo chạy về phía Bắc. Sau trận Xích Bích, cục diện thiên hạ thế chân vạc ba đỉnh gồm Ngụy, Thục, Ngô đã bước đầu được hình thành.
Tiếp sau đó, Gia Cát Lượng bắt đầu thi triển kế sách giúp Lưu Bị xây dựng nhà Hán, rồi đoạt lấy Ích Châu, ổn định Kinh Châu, dùng "chiến tranh tâm lý" để ổn định thống trị. Năm 221, Lưu Bị xưng đế, phong Gia Cát Lượng làm thừa tướng, quân dân đều một lòng hăng say tập luyện, tích trữ lương thực, rèn luyện ý chí để chuẩn bị cho những cuộc tiến quân mới. Vừa lên ngôi hoàng đế, Lưu Bị đã nóng lòng muốn đoạt lấy Kinh Châu, kết quả là bị thảm bại phải chạy về thành Bạch Đế và đã qua đời tại đây.
Sau khi Lưu Bị qua đời, thái tử Lưu Thiện 17 tuổi lên nối ngôi, phong cho Gia Cát Lượng làm Vũ Vương hầu nắm toàn quyền triều chính. Sau khi nhận lời ủy thác của Lưu Bị, Gia Cát Lượng biết rõ được trọng trách vô vùng lớn lao của mình, ông quyết tâm chấn hưng nước Thục. Gia Cát Lượng, Lý Khôi và Mã Trung mỗi người dẫn theo một cánh quân tiến đến Nam Trung (nay là Vân Nam, Quý Châu và miền Tây Nam Tứ Xuyên).
Dưới sự phối hợp tác chiến của ba cánh quân, quân Thục đã giành thắng lợi và hội hợp tại Điền Trị, chiếm cứ Nam Trung. Bắc phạt quân Ngụy, tiến đến thống nhất toàn bộ là mục tiêu phấn đấu đã được định sẵn trong sách
https://thuviensach.vn
lược Long Trung của ông. Để báo đáp ơn tri ngộ của Lưu Bị, ông đã tuyên đọc bản “Xuất quân biểu" làm chấn động lòng người vào năm Kiến Hưng thứ 5, sau đó ông dẫn 10 vạn quân bắt đầu tiến đánh nước Ngụy.
Hai lần xuất quân đầu tiên bị thất bại, ông đã rút kinh nghiệm và có được bài học quý giá, ông quyết định trước tiên cô lập Kỳ Sơn, mở rộng quân đội, quả nhiên giành được thắng lợi lớn nhất kể từ khi tiến hành Bắc phạt. Nhưng ông cũng thấy trước được thực lực của quân Thục không đủ mạnh nên đã quyết định tích thêm lương thực, chờ đợi thời cơ.
Năm Kiến An thứ 12 (234), Gia Cát Lượng dẫn 10 vạn đại quân đến phía Nam sông Vị Thủy dàn trận để chuẩn bị khai chiến với 20 vạn quân của Tư Mã Ý. Nhưng Tư Mã Ý đã án binh bất động, đoán biết được mưu kế cố thủ, chờ thời cơ phản kích của Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng đã lệnh cho đại quân trồng cấy ngay tại bờ sông Vị Thủy để chuẩn bị trường kỳ kháng chiến với quân Ngụy. Đúng lúc này Gia Cát Lượng do lâu ngày làm việc quá sức nên lâm bệnh nặng, ông đã mất ngay tại doanh trại.
Sau cùng do thực lực không đủ, lương thảo thiếu thốn, trung giám quân Khương Duy và trường sử Dương Nghi theo lời dặn của Gia Cát lượng trước lúc lâm chung nên đã không cho phát tang mà lặng lẽ rút quân về nước. Tư Mã Ý biết tin nhưng lại không dám truy kích vì sợ trúng kế của Gia Cát Lượng, Người đời sau do vậy thường truyền tụng: "Gia Cát Lượng chết mà vẫn còn dọa được Trọng Đạt (tên hiệu của Tư Mã Ý) sống".
Gia Cát Lượng là một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc, ai ai cũng biết, nhà nhà truyền tụng, ông là người biết người biết ta, mưu kế như thần, được xem là hóa thân của trí tuệ.
https://thuviensach.vn
Chương 11: Lý Thế Dân (Li Shimin)
Lý Thế Dân (599 - 699) hiệu là Thái Tông, sử gọi là Đường Thái Tông, là con trai thứ của Đường Cao Tổ Lý Uyên. Ông sinh tại huyện Vũ Công, tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Ông là nhà thực tiễn quân sự võ công lẫy lừng, nhà lý luận quân sự uyên bác. Thời kỳ ông trị vì sử sách gọi là "Trinh quan chi trị". Vĩ nhân cùng thời với ông có: Người sáng lập ra đạo Hồi giáo là Mohamad.
Thời kỳ trị vì đất nước, Tùy Dạng Đế hoang dâm vô độ, làm càn bừa bãi, vì vậy mà đã tiêu tán toàn bộ của cải do dân chúng đổ mồ hôi nước mắt mới làm ra được trong thời kì trị vì của Tùy Văn Đế, khiến bao dân tình lầm than đói rách, ruộng vườn bỏ hoang, các cuộc khởi nghĩa quy mô lớn liên tục nổi lên. Những cảnh tượng này đã in đậm vào sâu thẳm tâm hồn Lý Thế Dân thời niên thiếu. Năm 616, Lý Uyên được phái đến làm thái thú ở Thái Nguyên, năm đó Lý Thế Dân vừa 18 tuổi, ông đã theo cha đến Thái Nguyên. Là thái thú, cha con Lý Uyên bắt đầu dùng tiền bạc để mua chuộc, lôi kéo các hiệp khách, nghĩa sĩ, chiêu mộ nhân tài để chuẩn bị cho kế hoạch trong tương lai.
Năm 617, Lý Uyên đã hòa giải với Đột Quyết, bí mật kết thành đồng minh với Đột Quyết, tiếp đó, Lý Uyên giương cao ngọn cờ phản Tùy, đoạn tuyệt với vương triều nhà Tùy. Khi cha con Lý Uyên dẫn quân đến khai chiến với tướng Tùy là Tống Lão Sinh thì đúng vào thời kỳ mưa dầm không ngớt, thấy tình thế bất lợi, Lý Uyên bèn ra lệnh thu quân để trở về Thái Nguyên. Ngay khi nghe tin, Lý Thế Dân vội vã can ngăn, Lý Uyên đã nghe theo lời Lý Thế Dân, chia quân ra làm 2 cánh, một cánh do Lý Uyên và con trai cả Lý Kiến Thành chỉ huy, tiến đánh quân địch ở phía đông thành, còn Lý Thế Dân thì dẫn một cánh quân tiến đánh tại phía Nam thành, tạo nên thế gọng kìm, kết quả là quân của Tống Lão Sinh đã bị đánh bại.
Khi Lý Uyên dẫn quân đến Hà Đông thì quân Tùy đã cố thủ trong thành trì, không chịu ra đánh; Lý Uyên đã có phần lưỡng lự, Lý Thế Dân nhìn thấu thời cuộc, phán đoán chính xác xu thế phát triển của thời cuộc nên đã
https://thuviensach.vn
dốc hết tiền bạc để cứu trợ dân nghèo, từ đó chiêu mộ được vô số quân sĩ, binh lực mỗi ngày một mạnh, chẳng mấy chốc quân số đã lên đến 13 vạn.
Sau khi đánh chiếm xong Trường An nhưng còn chưa kịp ổn định thì Lý Uyên bị 10 vạn quân của Tiết Cử phía Tây Bắc tiến đánh, tình thế vô cùng nguy hiểm, Lý Thế Dân đã đích thân dẫn 10 vạn đại quân đi nghênh chiến và đã quét sạch thế lực tàn dư của vương triều nhà Tùy. Trong lúc binh biến tại Dương Châu, Tùy Dạng Đế đã bị ép buộc thắt cổ tự vẫn, Lý Uyên lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Vũ Đức, lập ra vương triều nhà Đường của họ Lý.
Lý Uyên sau khi lên ngôi hoàng đế, thiên hạ vẫn không được thái bình, kẻ thù số một mà chính quyền nhà Đường phải đối mặt là Tiết Cử. Năm 618 Tiết Cử xâm chiếm Kinh Châu, Lý Thế Dân dẫn quân đến đánh nhưng thất bại đành phải quay trở về.
Lần thứ hai Lý Thế Dân lại dẫn quân đến đánh, nhưng lần này ông đã thực hiện kế sách thành cao hào sâu cố thủ, không ra đánh mà chờ đợi thời cơ phản kích vì ông biết rằng sau khi Tiết Cử qua đời, con trai là Tiết Nhân Quý lên nắm quyền, tính tình Tiết Nhân Quý hiếu thắng ngạo mạn nên không coi quân nhà Đường ra gì, hơn nữa quân Tiết Nhân Quý đang trong lúc binh hùng tướng mạnh, nhuệ khí bừng bừng, lại từ nơi xa đến nên rất muốn đánh nhanh, thắng nhanh.
Trong hơn 60 ngày cố thủ, quân địch đã giảm nhuệ khí, đợi đến khi quân địch chuẩn bị rút lui thì Lý Thế Dân hạ lệnh cho tướng quân Bàng Ngọc dẫn quân ra nghênh chiến dụ địch, còn mình thì đích thân dẫn một đội kị binh tinh nhuệ đột nhập vào giữa trận của quân địch, cùng lúc đó, các tướng quân nhà Đường cũng lần lượt kéo đến, tạo thành vòng vây nội công ngoại kích khiến cho Tiết Nhân Quý bại trận, buộc phải xin hàng. Đúng vào lúc này thì thế cục phương Bắc trở nên hết sức căng thẳng, Lưu Vũ Chu sau khi khởi binh chiếm cứ Mã Ấp, lại được sự dốc sức ủng hộ của Đột Quyết nên đã xưng đế. Đường Cao Tổ Lý Uyên thấy tình hình cam go như vậy đã chủ
https://thuviensach.vn
trương bỏ Sơn Tây, nhưng Lý Thế Dân kiên quyết phản đối, ông xin vua cha cho phép dẫn quân đi thu phục Thái Nguyên.
Năm 619, Lý Thế Dân thân chinh dẫn đại quân vượt qua sông Hoàng Hà đóng băng để nghênh chiến với thủ hạ của Lưu Vũ Chu là tướng Tống Kim Cương. Lý Thế Dân vẫn lựa chọn đối sách phòng thủ vững chắc, chờ đợi thời cơ phản công. Ông ra sức trưng tập quân lương, củng cố hậu phương, xây dựng tường thành vững như thép, quyết không mạo muội nghênh chiến.
Đến lúc lương thảo của Tống Kim Cương đã hết và chuẩn bị rút lui, ông liền phái một đội kị binh áp sát Tây Hà, còn bản thân thì dẫn quân ra sức truy kích. Tống Kim Cương bị thảm bại, Lưu Vũ Chu thấy vậy bèn tháo chạy sang Đột Quyết, Lý Thế Dân đã thu lại được Thái Nguyên.
Năm 621, cũng vẫn kế sách cũ, củng cố hậu phương, kiên định phòng thủ không ra đánh để làm nhụt nhuệ khí quân địch, chỉ cần một trận, Lý Thế Dân đã tiêu diệt hai nước Hạ và Trịnh, thu về dải đất rộng lớn Nam, Bắc sông Hoàng Hà, đặt nền móng vững chắc cho đại nghiệp thống nhất của vương triều nhà Đường.
Năm 626, anh trai là Lý Kiến Thành và tứ đệ là Lý Nguyên Cát cấu kết với nhau hòng chiếm đoạt ngôi vị và muốn giết ông. Thấy được âm mưu này, Lý Thế Dân đã hạ lệnh bắn chết anh trai và tứ đệ. Qua đó chiến thuật đánh đòn phủ đầu của ông đã được thể hiện rất rõ nét. Lý Thế Dân tuổi trẻ công thành danh toại, năm 26 tuổi đã lên ngôi hoàng đế.
Ông bắt đầu sự nghiệp quân sự của mình năm ông mới 16 tuổi, khi đó ông đã dùng kế cắm nhiều cờ để lừa quân địch, điều đó cho thấy kiến thức quân sự uyên thâm ngay từ thời niên thiếu của ông. Năm 18 tuổi, ông đã đích thân dẫn quân đi đánh trận, trong nhiều năm xông pha trên chiến trường, tài năng quân sự của ông đã được phát huy toàn diện. Về mặt chỉ đạo chiến lược, ông là một nhà quân sự lựa chọn kế sách lùi một bước để tiến ba bước, lấy thủ làm công. Tư tưởng chiến lược đánh đòn phủ đầu cũng được ông vận dụng rất thành công.
https://thuviensach.vn
Xét về mặt chiến thuật ông là một cao thủ trong sách lược đánh úp, đánh bất ngờ, ông rất giỏi phát huy tác dụng đột kích của kị binh tinh nhuệ, ông đã thoát ly khỏi khuôn mẫu đánh trận truyền thống là hai bên dàn trận trên mặt đất rồi tiến đánh lẫn nhau. Về mặt lý luận quân sự, ông cũng có những đóng góp rất lớn, có những kiến giải độc đáo có thể hình thành riêng một phái. Ông đã phát huy được cốt lõi trong binh pháp cổ đại như: "Tôn Tử", "Tư Mã Pháp" và "Ngô Tử".
Chương 12: Nhạc Phi (Yue Fei)
Nhạc Phi (1103 - 1142) tự Bằng Cử, người Thang Dương, Tương Châu (nay là Thang Dương, tỉnh Hà Nam), là vị tướng trứ danh triều Tống. Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Vị quân vương nhân từ cả đời cống hiến cho sự nghiệp thống nhất Hồi giáo Saladin.
Nhạc Phi xuất thân trong gia đình cố nông, gia cảnh vô cùng bần hàn. Thời niên thiếu ông là người trầm ngâm ít nói, nhưng rất có chí khí. Ông có "sức mạnh như thần", ở độ tuổi vị thành niên ông đã có thể kéo được cây cung lớn 300 cân (~ 150kg) và có thể lên được dây nỏ nặng 8 thạch (khoảng 500kg). Ông theo người cùng làng học cưỡi ngựa, bắn cung, chăm chỉ dùi mài "Binh pháp Tôn Tử". Ông là một thiếu niên văn võ song toàn, luôn được người dân trong làng tán thưởng.
Năm Kiến Viên thứ 3 (1125) tướng nước Kim là Ngột Thuật dẫn quân xuống phía Nam xâm phạm lãnh thổ nước Tống, chiếm Hàng Châu, Việt Châu (nay là Thiệu Hưng), tiến đánh Minh Châu (nay là Ninh Ba) với ý đồ bắt sống hoàng đế nước Tống là Triệu Cấn.
https://thuviensach.vn
Đứng trước tình thế tướng soái tháo chạy, sĩ tốt tan tác, hoàng đế lưu vong, quân Kim kéo đến nhanh như vũ bão, dân chúng hoảng loạn kêu gào thảm thiết, Nhạc Phi đã tập hợp lực lượng, ông trích máu của mình ra để động viên thuộc hạ và nói: "Ta nguyện một đời tận trung báo quốc, lập công ghi vào sử sách, nguyện chết cũng không từ nan". Tất cả sĩ tốt đều cảm động trước tinh thần trung quân ái quốc của ông và bày tỏ quyết tâm theo ông chiến đấu đến cùng. Ông lần lượt đóng quân tại các huyện Quảng Đức và Nghi Hưng, tại đây ông ra sức lập lại trật tự, thu gom những binh sĩ rời ngũ từ đó mở rộng sức mạnh của đội quân để chuẩn bị dẫn quân về phía Bắc.
Sau khi nắm rõ tình hình quân địch, Nhạc Phi dẫn quân chủ động xuất kích và đã đánh bại quân Kim ở Thường Châu và Trấn Giang, nhanh chóng thu hồi lại Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Ông nhậm chức Phủ sử Thông Thái, từ đó uy danh đại chấn bốn phương. Năm Thiệu Hưng thứ nhất. Nhạc Phi đã lần lượt đánh bại bọn thảo khấu gồm Lý Thành, Trương Dụng, Tào Thành. Do lập được công lớn nên ông được phong làm Vũ An Quân Tuyên Thừa Sứ.
Tháng 6 năm Thiệu Hưng thứ hai, sau khi thảo phạt xong thế lực bọn thảo khấu Lý Thành, Trương Dụng, Tào Thành, Nhạc Phi phụng mệnh lần đầu đóng quân tại Giang Châu. Lúc này quân của Nhạc Phi khoảng hơn 2 vạn, tuy đời sống hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng do quân luật nghiêm minh nên không hề có trộm cắp, quân sĩ phải nhịn đói, không dám làm phiền nhiễu dân chúng, khi ngủ trọ tại các gia đình cứ sáng sớm tinh mơ đã dậy quét dọn đường ngõ sạch sẽ, rửa sạch nồi niêu, xoong chảo, sau đó mới rời đi, quân sĩ đã để lại trong lòng dân chúng hình ảnh cao đẹp, đói cho sạch rách cho thơm. Dân chúng Giang Châu cảm tạ công đức của ông đã cho xây dựng đền thờ sống Nhạc Phi, trong đền cho đắp tượng ông, sớm tối thờ cúng. Sau khi ông qua đời, đền được đổi thành Nhạc Vương Miếu. Bên cạnh miếu có đào "Tiều Mã Trì" (ao cho ngựa tắm) và "Nhạc Công Ca Tỉnh" (giếng Nhạc công).
https://thuviensach.vn
Tháng 3 năm Thiệu Hưng thứ ba, Nhạc Phi phụng mệnh đi trấn áp quân khởi nghĩa nông dân ở Kiều Châu (nay là thành phố Cán Châu) và Cát Châu (nay là huyện Cát An). Nhạc Phi lựa chọn các cách đánh khác nhau, chỉ nửa tháng sau, toàn bộ quân khởi nghĩa đã bị đánh tan. Sau đó ông dẫn quân về hướng Kiều Châu, tại vùng đất làng Cẩm Y Hưng Quốc, ông đã có cuộc giao chiến với quân khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa tuy hữu dũng nhưng vô mưu, lại thiếu kinh nghiệm chiến trận nên mấy trăm doanh trại chỉ trong chốc lát đã bị quân Nhạc Phi đánh tan, các thủ lĩnh đều bị bắt sống.
Tháng 9, Nhạc Phi dẫn quân đến Hàng Châu, vào triều chầu kiến Triệu Cấn, Triệu Cấn đã ban tặng cho ông, áo giáp sắt, ngựa, cung tên và cả chiến bào, đồng thời còn tặng cho ông lá quân kỳ bên trên có thêu 4 chữ "Tinh Trung Nhạc Phi" và tấn phong cho ông làm Trấn Nam Quân Thừa Tuyên Sứ, Giang Nam Tây Lộ Thư, Kỳ Châu Chế Tri Sứ, tiếp tục đóng quân ở Giang Châu.
Tháng 3 năm Thiệu Hưng thứ tư, Nhạc Phi phụng mệnh thu phục Tương Dương, ông dẫn quân từ Giang Châu đến đóng tại Ngạc Châu (nay là Vũ Hán), sau đó lại từ Ngạc Châu di chuyển đến Giang Bắc Thượng, rồi đích thân dẫn cánh quân đến Tương Dương, trước tiên thu phục Y (Dương Y), Lạc (Lạc Dương), Thương (Thương Châu), Quắc (Quắc Châu), sau đó tiến hành bao vây và công chiếm vùng đất Trần, Thái, rồi đánh bại quân Tề, Ngụy. Tin thắng trận báo về triều đình, ông được sắc phong làm quan thái úy.
Sau khi thu phục được Tương Dương, ông rất được hoàng đế Triệu Cấn và tể tướng Trương Tuấn nể trọng. Vì muốn tước bỏ binh quyền của Lưu Thế Quang, hoàng đế Triệu Cấn và tể tướng Trương Tuấn đã hạ chiếu chỉ cho sáp nhập quân của Lưu Thế Quang vào quân của Nhạc Phi và giao trọng trách "rửa nỗi nhục nước nhà, cứu toàn dân thiên hạ" cho Nhạc Phi. Nhưng khi sắp sửa sáp nhập thì Triệu Cấn và Trương Tuấn đã đột ngột thay đổi ý định, bãi bỏ việc sáp nhập quân đội.
https://thuviensach.vn
Sau khi nhận được ngự trát, Nhạc Phi bèn tức tốc đến cầu kiến Triệu Cấn, xin cho hai quân sáp nhập làm một, nhưng ông đã thất bại. Tháng 3 năm thứ 7, Nhạc Phi trong tâm trạng buồn rầu, chán nản đã viết bản tấu chương gửi đến triều đình Nam Tống, xin được trao lại binh quyền để lui về Lư Sơn. Ông đã viết liền ba bản tấu xin từ chức, nhưng Triệu Cấn cũng viết liền ba bức ngự chỉ thúc Nhạc Phi dẫn quân trở về. Lệnh vua bất khả kháng, Nhạc Phi đành phải quay về Kiến Khang, vào triều thỉnh tội. Triệu Cấn ra lệnh cho ông trấn giữ Giang Châu, chi viện cho Hoài Chiết.
Sau mùa thu năm thứ 7, Nhạc Phi phụng mệnh lần thứ hai đóng quân ở Giang Châu, trong thời gian này, ông đã dùng kế phản gián khiến cho nước Kim phế bỏ Ngụy Tề Lưu Dự, đồng thời ông cũng đã cùng với Hàn Thế Trung dâng biểu tấu, xin cho xuất quân Bắc phạt.
Năm Thiệu Hưng thứ 10, quân Kim chia làm 4 đường kéo xuống phía Nam tiến đánh nước Tống.
Tháng 6, Nhạc Phi lại một lần nữa từ Ngạc Châu xuất quân Bắc phạt, đánh bại quân của Ngột Thuật tại Yển Thành (nay là Yển Thành - Hà Nam), thừa thắng tiến thẳng đến Châu Tiên Trấn (phía Tây Nam thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam ngày nay). Hai bên dẫn quân hai bên bờ sông, khí thế bừng bừng chuẩn bị một trận quyết chiến. Đang lúc chờ thời cơ vượt sông thì Cao Tông nghe theo lời gièm pha của Tần Cối đã dùng 12 đạo kim bài hạ lệnh lui quân khẩn cấp.
Khi nhận được chiếu lệnh, Nhạc Phi lòng đau như cắt, uất ức muôn phần, ông đã thở dài than rằng "Công lao 10 năm hủy trong một giờ; châu quận đoạt được bỗng chốc mất trắng; giang sơn xã tắc khó lòng phục hưng; thế giới càn khôn, biết ngày nào khôi phục". Sau khi về đến Lâm An (nay là thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang), Nhạc Phi bị bãi bỏ toàn bộ binh quyền, giáng xuống làm Khu Mật Phó Sứ. Ít lâu sau, ông bị gian thần vu cáo, hãm hại nên phải chịu cảnh tù đày. Ngày 29 tháng 2 năm Thiệu Hưng thứ 11 (tức ngày 27 tháng 1 năm 1142) ông đã bị bọn gian thần vu cho tội "Có lẽ có" (làm phản) và bị sát hại khi mới 39 tuổi.
https://thuviensach.vn
Chương 13: Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khàn)
Thành Cát Tư Hãn (1165 - 1227) họ Bột Nhi Chỉ Cân, tên Thiết Mộc Chân, thuộc dòng họ Khất Nhan, người Mông Cổ. Ông là vị vua khai sinh ra nước Mông Cổ, nhà quân sự nổi tiếng thế giới thế kỷ 13 về tài cầm quân. Triều Minh phong ông làm Thái tổ. Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Hoàng đế đế quốc La Mã Frederick.
Thành Cát Tư Hãn sinh ra trong một gia đình quý tộc Mông Cổ. Do sự thù hận, tàn sát lẫn nhau giữa các bộ lạc nên phụ thân ông đã bị chết thảm, cả nhà ông bị bộ lạc hắt hủi, ruồng bỏ. Tuổi thơ gian nan với biết bao nhọc nhằn hiểm nguy đã hình thành nơi ông nghị lực, một tính cách phi thường, kiên cường và dũng cảm. Sau khi thủ lĩnh bộ lạc Mông Cổ là Hốt Đô Thích Hãn qua đời, toàn bộ lạc chịu sự khống chế của Trát Mộc Hợp. Thiết Mộc Chân bèn theo Trát Mộc Hợp sống cuộc sống du mục. Thiết Mộc Chân rất khéo lấy lòng người, ông ra sức tập hợp người, ngựa để củng cố sức mạnh và mở rộng đội quân của mình. Khi thời cơ đã chín muồi, ông bèn thoát ra khỏi sự khống chế của Trát Mộc Hợp thành lập lãnh địa riêng của mình.
Vào khoảng thập niên 80 thế kỷ 12, Thiết Mộc Chân xưng Hãn. Thấy vậy, Trát Mộc Hợp bèn dẫn quân của 13 bộ lạc đến thảo phạt. Thiết Mộc Chân chia quân làm 13 cánh nghênh chiến, nhưng do binh lực còn yếu nên đã diễn ra một cuộc chiến không cân sức. Cuối cùng Thiết Mộc Chân đã bị đánh bại, phải tháo chạy, sử sách gọi trận đánh này là "Thập Tam Dực Chi Chiến" (trận đánh 13 cánh quân). Năm 1196, Thiết Mộc Chân đã cùng với Thoát Lý Hãn của bộ lạc Khắc Liệt xuất quân trợ giúp nước Kim đánh bại
https://thuviensach.vn
người Tháp Tháp Nhi (Tactaro) trên sông Oát Lý Trát (nay là Ô Lặc Cát - miền Đông nước Mông Cổ). Nước Kim liền phong cho Thiết Mộc Chân làm Sát Ngột Lỗ (tương đương bộ trưởng) và phong vương cho Thoát Lý Hãn, từ đó Thoát Lý Hãn xưng là Vương Hãn.
Sau này, Thiết Mộc Chân liên minh với Vương Hãn xuất quân tiến đánh bộ lạc Nãi Man, trên đường quay trở về thì chạm trán với bộ lạc Nãi Man. Vương Hãn trông thấy quân địch hùng mạnh, khí thế bừng bừng thì có phần hoảng sợ nên đã lặng lẽ cho quân lùi ra phía sau để cho quân của Thiết Mộc Chân đối đầu với kẻ địch. Sau khi biết tin, Thiết Mộc Chân đã nhanh chóng rút quân về bản doanh của mình là Lý Xuyên (nay là phía Tây thượng lưu sông Khắc Lỗ Luân của Mông Cổ).
Sau khi Thiết Mộc Chân rút quân về bản doanh thì đối đầu với quân địch chính lại là Vương Hãn. Quân của Vương Hãn ngay lập tức bị quân Nãi Man đánh bại, đang trong lúc nguy khốn thì Thiết Mộc Chân phái tứ kiệt là Bắc Nhĩ Thuật, Mộc Hoa Lê, Bắc Nhĩ Hốt và Xích Lão Ôn dẫn quân đến cứu viện, đánh bại quân Nãi Man. Trong sự xung đột, tranh giành giữa các bộ lạc, Thiết Mộc Chân đã khôn khéo sử dụng những mâu thuẫn để liên kết, chia rẽ, phân hóa kẻ địch, dần dần ông đã thoát khỏi sự lệ thuộc.
Từ năm 1201 đến 1204, Thiết Mộc Chân lần lượt tiêu diệt bản doanh của 4 bộ lạc Tháp Tháp Nhi, Hãn Vương, Uông Cổ Bộ và Thái Dương Hãn của Nãi Man. Từ đó, Thành Cát Tư Hãn trở thành người thống trị lớn nhất trên toàn cao nguyên Mông Cổ.
Năm 1206, Thiết Mộc Chân đã cho mở đại hội Hốt Lý Đàn bên sông Oát Nan Hà (nay là sông Ngạc Nộn - Mông Cổ), ông trở thành Đại Hãn nước Mông Cổ, được gọi là Thành Cát Tư Hãn. Các bộ lạc lân cận như Cát Lợi, Cát Tư, Uý Ngột Nhi, Cáp Thích Lỗ lần lượt quy thuận Thành Cát Tư Hãn vào các năm 1207, 1209 và 1211.
Giới quý tộc Mông Cổ mới nổi bừng bừng khí thế, phát triển nhanh như vũ bão, luôn có tham vọng chiếm hữu toàn bộ của cải, vì vậy Thành Cát Tư Hãn đã ba lần cất quân tiến đánh Tây Hạ (vào các năm 1205, 1207 và
https://thuviensach.vn
1209), để tránh cuộc chiến thảm khốc xảy ra, Tây Hạ bất đắc dĩ phải tiến cống mỹ nhân để cầu hòa.
Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn dẫn đại quân xuống phía Nam tiến đánh nước Kim. Năm 1215, quân Mông Cổ chiếm được Trung Đô, sau khi tiêu diệt quân Kim tại Liêu Tây, quân Mông Cổ liền công chiếm Bắc Kinh (nay là phía Tây Ninh Thành ở nội Mông Cổ). Năm 1208, tiêu diệt Tây Liêu. Năm 1209, Thành Cát Tư Hãn dẫn 20 vạn đại quân bắt đầu cuộc viễn chinh phía Tây, mở cuộc chiến xâm lược Hoa Thích Tử Mô (Khorazme). Ông chia quân làm nhiều cánh, tiến hành bao vây vào các nơi trọng yếu rồi lần lượt tiêu diệt.
Ông đã dùng chính sách chém giết hàng loạt, san phẳng các thành, dùng tù binh làm bia chắn để uy hiếp kẻ địch nhằm giải quyết mối họa về sau. Quyền chủ động trên chiến trường chỉ do phía quân Mông Cổ nắm giữ. Năm 1219, quân Mông Cổ bao vây công phá thành Ngọa Đáp Thích (Utrar). Một năm sau thì chiếm được thành này, năm 1220, Thành Cát Tư Hãn công chiếm thành Bất Hoa Thích (Bukhara) và thành đô mới của Hoa Thích Tử Mô (Khozme) là Sa Mã Nhĩ Can (Samarkand; nay là Samairgan thuộc Uzbekistan).
Sau đó, Thuật Xích, Oa Khoát Đài và Sát Hợp Đài lại dẫn quân đến đánh thành Ngọc Long Kiệt Xích (Urganchi; nay là Urgench thuộc Turkmenistan). Đà Lôi dẫn quân tiến vào vùng hồ Hô La San (Khorasan). Thiết Biệt và Tốc Bất Đài phụng mệnh Thành Cát Tư Hãn truy bắt quốc vương Hoa Thích Tử Mô, quốc vương nước này đã tháo chạy đến một hòn đảo hoang ở biển Caspian, về sau do lâm bệnh nặng nên đã qua đời tại hòn đảo này.
Năm 1221, Đà Lôi đã chiếm được toàn bộ Hô La San (Khorasan). Thành Cát Tư Hãn truy kích Trát Lan Đinh nhưng không bắt được, lại rút quân về.
Năm 1222, Thành Cát Tư Hãn thực thi chính sách thống trị, giám sát chặt chẽ trên toàn bộ vùng đất chiếm được Lỗ Hoa Xích (Arquchi).
https://thuviensach.vn
Năm 1223, ông cho rút quân về Sa Ma Nhĩ Can (Samarkand) lúc này đang là mùa đông giá rét, bước sang năm sau thì bắt đầu rút quân về nước. Lần chinh chiến phía Tây này của Thành Cát Tư Hãn là một cuộc thảm sát vô cùng lớn và hiếm có trong lịch sử, nó đã phá hủy khắp nơi, để lại nỗi thống khổ cho dân chúng các dân tộc ở Trung Á, Tây Á và một số nước châu Âu khác.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn xuất quân tiến đánh Tây Hạ. Sang năm sau, nước Tây Hạ đã bị tiêu diệt. Ngày 12 tháng 7 năm 1227 (theo lịch Tây Hạ), Thành Cát Tư Hãn lâm bệnh nặng và qua đời, trước lúc lâm chung, ông còn đưa ra chiến lược liên kết với nước Tống để diệt nước Kim.
Thành Cát Tư Hãn có tài năng quân sự và khả năng chỉ huy chiến đấu kiệt xuất. Về mặt chiến thuật, ông rất coi trọng việc liên minh với nơi xa tiến đánh nơi gần, hết sức tránh đối đầu với nhiều kẻ địch, từ đó thoát khỏi thế cô lập. Về mặt dùng binh, ông rất coi trọng các chiến thuật tình báo thăm dò quân địch, xé nhỏ, bao vây, tập kích bất ngờ từ xa, giả thua dụ địch, tiêu diệt địch trong lúc di chuyển. Sử sách ca ngợi ông là "điềm đạm, kế sách như thánh, dụng binh như thần", tuy nhiên, trong lúc chiến đấu lại quá dã man tàn khốc, lạm sát dân vô tội, hủy hoại vô tội vạ nhà cửa, ruộng vườn, thành thị, dẫn đến những hậu quả nặng nề.
Chương 14: Lý Thuấn Thần (Li Sun Sin)
Lý Thuấn Thần (1545 - 1598), tự là Nhữ Hài, hiệu là Đức Thủy, quê gốc ở Khai Phong, tỉnh Kinh Ki. Ông sinh ra tại Seoul, là tướng lĩnh hải quân
https://thuviensach.vn
Triều Tiên, anh hùng dân tộc kháng Nhật. Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Nhà tư tưởng người Pháp Mongaigne và nữ hoàng Anh Elizabet.
Năm 1576, sau khi đỗ Vũ Khoa, ông nhậm chức Giám Đẳng huyện Tỉnh Ấp, tỉnh Toàn La, năm 1591 nhậm chức Tiết Độ Sứ tả thủy quân Toàn La. Thập niên 80 thế kỷ 16, Toyotomi Hideyoshi dùng vũ lực thống nhất Nhật Bản, sau đó đã tiến hành xâm lược nước ngoài với mưu đồ thôn tính Triều Tiên, chinh phục Trung Quốc, xưng bá khu vực Đông Á. Tháng 7 năm 1592, Hideyoshi đã nhân cơ hội nội bộ vương triều họ Lý ở Triều Tiên mâu thuẫn lục đục, đã phái Konishi dẫn theo 15 vạn quân xâm lược Triều Tiên. Năm đó đúng vào năm Nhâm Thìn, nên thường gọi là Chiến tranh vệ quốc Nhâm Thìn Triều Tiên. Sau khi đổ bộ lên Fushan, quân Nhật tiến nhanh như vũ bão, trong vòng 2 tháng đã lần lượt chiếm được Seoul, Khai Thành và Bình Nhưỡng, tiến thẳng đến Hàm Kính, từng bước áp sát biên giới Trung Quốc. Nhưng thủy quân Nhật liên tiếp bị thủy quân Triều Tiên do Lý Thuấn Thần chỉ huy đánh cho tơi bời.
Là danh tướng hải quân Triều Tiên, để chống lại sự xâm lược của kẻ địch, Lý Thuấn Thần rất chú trọng luyện tập thủy quân. Ông đã lập nên hạm đội tàu bọc sắt đầu tiên trên thế giới - Quy thuyền. Chiến hạm này bề ngoài giống như lưng con rùa (Quy), thân được làm bằng gỗ trắc, cứng, ngoài cùng được bọc một lớp thép, trên mặt lớp thép là vô số những gai thép nhọn, những mũi dùi nhọn sắc, đầu thuyền có hình rồng, bên trong có chứa hơi khói lưu huỳnh. Xung quanh thân tàu bố trí hơn 30 hốc pháo và hốc súng, hai bên mạn thuyền có gắn 10 mái chèo.
Loại chiến thuyền này có hỏa lực rất mạnh, tính phòng hộ rất tốt lại cơ động linh hoạt nên đã phát huy được uy lực kinh người trong chiến tranh vệ quốc. Lý Thuấn Thần dẫn thủy chiến thiết giáp này đánh trăm trận trăm thắng, cắt đứt liên lạc giữa hải quân và lục quân của quân Nhật, phá vỡ kế hoạch thủy lục song tiến của quân Nhật, khiến cho sự hỗ trợ chi viện của quân Nhật bị thất bại. Cùng lúc đó, nhân dân ở các vùng bị quân Nhật chiếm đóng cũng thi nhau nổi dậy, anh dũng chống Nhật. Họ triển khai lối đánh du kích khiến cho quân Nhật khốn đốn. Vua của Triều Tiên là Tuyên
https://thuviensach.vn
Tổ đã lui về Nghĩa Châu để kháng cự, mặt khác sai sứ giả đến cầu viện nhà Minh - Trung Quốc.
Tháng 1 năm 1593, hoàng đế nhà Minh đã phái tổng binh Lý Như Tùng dẫn hơn 4 vạn quân sang trợ giúp Triều Tiên đánh Nhật. Tháng 2, dưới sự trợ giúp của quân đội Trung Quốc, quân và dân Triều Tiên đã thu phục lại được Bình Nhưỡng và Khai Thành, rồi tiếp tục vây khốn quân Nhật ở Seuol. Tháng 5, quân Nhật bị đánh bại, buộc phải rút về phòng thủ tại hai thành phố ven biển là Toàn La và Khánh Thượng, đồng thời phái sứ thần đến xin nghị hòa với mưu đồ nhân cơ hội này tập hợp và củng cố sức mạnh để phản công trở lại.
Tháng 8 năm 1593, Nhật Bản đòi Triều Tiên phải cắt 9 tỉnh ở Nam bộ cho Nhật Bản, nhưng đòi hỏi phi lý này đã bị phía Triều Tiên bác bỏ. Đầu năm 1597, cuộc đàm phán tan vỡ, bắt đầu từ tháng 2, Toyotoma mở rộng thủy quân lên tới 14 vạn và hàng trăm chiến thuyền tiến quân về Triều Tiên. Quân Nhật liên tục công chiến Khánh Thượng, Toàn La và Trung Thanh.
Vương triều nhà Lý đã trúng kế ly gián của quân Nhật nên đã bãi chức thống đốc thủy quân của Lý Thuấn Thần và cho viên tướng bất tài là Nguyên Điếu lên thay, điều này đã khiến cho thủy quân Triều Tiên bị tan tác.
Sau này, dưới sự thúc ép của triều thần, Lý Thuấn Thần lại được trọng dụng. Ông đã xây dựng lại thủy quân trên cơ sở 12 chiến thuyền và 130 thủy binh còn sót lại. Vào tháng 10, thủy quân của ông đã đánh chìm hơn 30 chiến thuyền và tiêu diệt hơn 4.000 thủy binh Nhật tại vùng biển Minliang. Theo đề nghị cứu viện của Triều Tiên, Trung Quốc lại một lần nữa xuất quân trợ giúp. Liên quân Triều - Trung đã đánh tan quân Nhật tại Tắc Sơn và Thanh Sơn, truy kích đến tận Úy Sơn, Tù Sơn, Thuận Thiên.
Tháng 8 năm 1598, Toyotoma Hideyoshi lâm bệnh nặng qua đời, đã để lại di chúc ra lệnh rút quân. Tháng 10, liên quân Triều - Trung đã tiến đánh Úy Sơn và Thuận Thiên. Tháng 12, quân Nhật ở Thuận Thiên nhiều lần đột phá vòng vây nhưng bất thành bèn cầu viện quân Nhật ở Tù Sơn. Liên quân
https://thuviensach.vn
Triều - Trung đã có trận đánh ác liệt với quân Nhật chi viện cho Thuận Thiên trên vùng biển Luliang, kết quả đánh chìm hơn 400 chiến thuyền của quân Nhật, tiêu diệt hàng vạn thủy quân Nhật.
Nhưng trong trận chiến ác liệt này, danh tướng Triều Tiên Lý Thuấn Thần và lão tướng Trung Quốc Đặng Tử Long đã anh dũng hi sinh. Cuối năm đó, tàn quân Nhật một số thì tháo chạy, một số thì bị bắt, số còn lại thì bị tiêu diệt, cuộc chiến kết thúc. Trong cuộc chiến này, quân và dân Triều Tiên đã không sợ uy lực cường bạo, anh dũng kháng chiến, dưới sự trợ giúp của quân đội Trung Quốc đã đập tan cuộc xâm lược của Nhật Bản, bảo vệ được độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, và đã viết nên ca khúc khải hoàn về sự hợp tác chiến đấu giữa quân dân Triều Tiên và Trung Quốc.
Chương 15: Peter Alexeyvich Romanop (Đại đế Peter I)
Peter Alexeyvich Romanop (1672 - 1725), Sa Hoàng Nga (27-4-1682), hoàng đế Nga (22-10-1721), nhà chính trị, nhà quân sự, thống soái và nhà ngoại giao lỗi lạc của nước Nga, vĩ nhân cùng thời với ông có: Nhà thiên văn học Anh Halley, nhà Vật lý học người Anh: Isaac Newton.
Peter I sinh ngày 9 tháng 6 năm 1672 tại Moscow. Ông là người có ý chí kiên cường, tài năng xuất chúng, có chí hướng và lập trường kiên định. Ông là người hiếu học, đọc rộng biết nhiều, rất thích quân sự, đặc biệt là hải quân. Từ năm 1697 đến năm 1698 ông đã theo đoàn sứ giả nước Nga đi du lịch nước ngoài để khảo sát và học tập khoa học kỹ thuật tiên tiến của Tây Âu dưới cái tên hạ sĩ Peter - Mikhalop. Đầu tiên ông tham gia khóa học pháo binh tại Konigsheng, sau đó đến làm thợ mộc tại xưởng đóng tàu ở
https://thuviensach.vn
Amsterdam. Tại đây, ông học kỹ thuật đóng tàu và cách vẽ bản đồ, ông đã mời rất nhiều nhân viên khoa học kỹ thuật đến nước Nga làm việc, đồng thời ông cũng đã học xong khóa học lý luận học đóng tàu tại nước Anh.
Là một nhà quân sự, ông xứng đáng với vai trò là người kiến tạo lực lượng vũ trang và là một trong những thống soái hải lục quân tài hoa và có học vấn cao nhất trong lịch sử nước Nga cũng như thế giới thế kỷ 18. Ông đã tiếp tục cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ được bắt đầu năm 1686, nhiều năm phấn đấu để đem lại cho nước Nga những cảng biển ở miền Bắc và miền Nam.
Từ năm 1695 đến năm 1696, ông đã tiến hành cuộc viễn chinh Azov và đã chiếm được cảng biển Azov, từ đó củng cố được vị thế của nước Nga bên bờ biển Azov. Đầu năm 1700, phía Bắc nổ ra chiến tranh; tháng 8, nước Nga tuyên chiến với Thụy Điển. Tháng 11, sau khi quân Nga bị bất lợi ngay tại trận đầu xuất quân, tại Narva, ông đã tiến hành cải cách quân sự (phát triển sự nghiệp quân sự nhằm lấy lại lợi thế).
Năm 1701 - 1704, nhân lúc quân chủ lực Thụy Điển bị mắc kẹt lại Ba Lan, ông đã dẫn quân tấn công vào bờ biển của Paulo, lần lượt chiếm Noteberg, Narva,. . Bắt đầu từ năm 1703, ông đã cho xây thủ đô mới là St.Peterburg bên sông Nitva.
Đầu năm 1708, vua Thụy Điển Charlie 12 dẫn quân tiến đánh nước Nga, Peter đã cho quân giả vờ rút lui để dụ địch tiến vào sâu, rồi dùng kế vườn không nhà trống, chia quân thành những đội quân nhỏ rồi liên tục tập kích tiêu hao quân Thụy Điển.
Tháng 10, ông đích thân dẫn quân nghênh chiến và đã đánh bại quân chi viện của Thụy Điển do Carl Lewenhaupt chỉ huy, tiêu diệt 9000 quân, thu được toàn bộ những khẩu pháo và quân nhu.
Tháng 7 năm 1709, trong chiến dịch Poltawa, ông đã chỉ huy quân Nga tiêu diệt chủ lực của quân Thụy Điển, đảo ngược tình thế trận chiến. Charlie dẫn theo hơn 1.000 quân tháo chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi Nga và Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến, mùa hè năm 1711, ông dẫn quân về phía Nam tiến
https://thuviensach.vn
đánh Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đến bờ sông Pruth thì rơi vào vòng vây dày đặc của quân Thổ Nhĩ Kỳ và quân Crimean. Do cạn lương thảo, quân Nga buộc phải xin hòa, rút quân về Azov, cho phép Charlie 12 quá cảnh về nước và đình chiến với Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng sau đó quân Nga lại tiếp tục các cuộc tấn công Thụy Điển.
Tháng 8 năm 1714, ông đích thân dẫn hạm đội tiên phong nước Nga đánh tan hạm đội của Thụy Điển, đây là thắng lợi đầu tiên kể từ ngày hải quân Nga ra đời, rồi tự tấn phong cho mình làm trung tướng hải quân. Tháng 5 năm 1721, ông đã ký "Hòa ước Nystadt" với Thụy Điển, giành được một vùng đất rộng lớn và cảng biển Baltic. Tháng 10, ông được Viện Khu Mật phong làm "Đại đế" và "Quốc phụ". Nước Nga đổi quốc hiệu thành Đế quốc Liên bang Nga.
Trong chiến tranh phía Bắc từ năm 1700 đến năm 1721, Peter I đã đem về cho nước Nga chiến thắng và quyền đi lại trên biển Baltic, từ đó nước Nga có thể thiết lập quan hệ trực tiếp với phương Tây. Nước Nga bắt đầu bước vào hàng ngũ các cường quốc châu Âu.
Từ năm 1722 đến năm 1723, ông lại phát động cuộc viễn chinh xâm lược Persian, và đã chiếm được khu vực bờ tây biển Caspian, trong đó có cả hai thành phố là Berbent và Bak, đồng thời tiếp tục mở rộng về phía Đông, chiếm luôn bán đảo Kamchatka và quần đảo Kurile. Trong cuộc đời mình, ông còn có ý định đánh chiếm khu vực phía Bắc Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, nhưng do thực lực có hạn nên không thực hiện được ý đồ.
Trong thời gian ông tại vị, hải, lục quân Nga được biên chế hết sức nghiêm ngặt. Lục quân được biên chế thành: Đoàn, Lữ, Sư. Hải quân được biên chế thành: Hạm đội, Tổng đội và Trung đội. Peter I rất chú trọng đổi mới trang bị kỹ thuật của hải lục quân, ông tổ chức nghiên cứu và chế tạo chiến hạm theo mẫu mới, đại bác theo kiểu mới, đạn dược theo công thức mới.
Từ năm 1701 đến năm 1719, ông đã cho mở trường học hàng hải, trường học pháo binh, trường đào tạo kỹ sư và học viện hải quân. Sáng tạo trong
https://thuviensach.vn
chiến thuật của ông là: Lúc tác chiến và vây đánh nơi trọng yếu thì phải tập trung pháo binh; dùng đội quân thiện chiến ném lựu đạn để tăng cường hai cánh của đội hình chiến đấu; xây lô cốt dã chiến nhiều mặt, kị binh thực thi đoản đao đột kích, bộ binh tiến hành đao sắc xung kích.
Peter I từng biên soạn rất nhiều tác phẩm lý luận quân sự và lịch sử nổi tiếng như: "Điều lệnh quân nhân", "Điều lệnh hải quân","Chương trình quản lý khu cảng hải quân và chế tạo tàu thuyền", "Sách chiến thần hay ghi chép quân sự"... Đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng quân sự của ông là: Trị quân nghiêm minh, trọng dụng hiền tài, chú trọng tấn công chiến lược, chủ trương đánh địch ngay trên đất địch. Lúc cần thiết ông cũng rất giỏi trong việc lựa chọn chiến thuật phòng ngự để dụ địch vào sâu, lấy lối đánh du kích tiêu hao kẻ địch mạnh, khi có điều kiện thuận lợi mới tiến hành quyết chiến. Ông chú trọng rèn luyện binh sĩ bằng thực tế chiến đấu, ông cũng rất giỏi trong việc tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm sau thất bại. Trên phương diện chỉ huy chiến đấu, ông phản đối rập khuôn máy móc, chủ trương vận dụng linh hoạt các chiến thuật trong chiến đấu.
Ngày 8 tháng 2 năm 1725, Peter I đã qua đời tại Peterburg, ông được an táng tại đại giáo đường Peter Paulo trên thánh địa Peter Paulo.
Chương 16: Alexander Danilovic Miansikov
Miansikov (1693 - 1729) là nhà chính trị, nhà quân sự nổi tiếng người Nga. Năm 1727 được phong quân hàm Đại Nguyên soái. Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Nhà toán học, thiên văn học người Anh Halley, Sa hoàng Nga đại đế Peter I.
https://thuviensach.vn
Miansikov sinh năm 1673 tại Moscow. Thời nhỏ, ông từng làm đầy tớ cho Liefult, sau thành binh sĩ hậu cần cho đại đế Peter I. Nhờ vào sự trung thành, chăm chỉ và thật thà, ông đã được Peter I tín nhiệm và quý mến. Từ năm 1673, ông bắt đầu sự nghiệp công danh của mình khi trở thành một pháo thủ, ông từng theo sát bên Peter I đi quan sát khắp nơi trên nước Nga. Ông từng tham gia vào cuộc viễn chinh Azov từ năm 1695 đến năm 1696 (bản thân ông từng tham gia chiếm Azov). Năm 1697 đến 1698, ông theo đoàn sứ giả đi Tây Âu du ngoạn.
Trong một khoảng thời gian rất dài, Miansikov không nắm giữ chức vụ gì, nhưng do biết tận dụng sự tín nhiệm, tình cảm của Peter I đối với mình nên ông có ảnh hưởng rất lớn trong các công việc cung đình và quốc gia, đồng thời ông cũng không ngừng theo đuổi mục tiêu của mình.
Miansikov là người thông minh, nhanh nhẹn, ông rất có tài quản lý hành chính và quân sự, đồng thời cũng có thể lực sung mãn và khả năng làm việc hiếm có. Sau khi Liefult qua đời (1699), ông trở thành một trong những trợ thủ tâm phúc của Peter I.
Từ năm 1703 trở đi, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh Noteburg và nhậm chức đô đốc tỉnh Ingermanland (sau này là tỉnh St. Peterburg). Ông từng chỉ đạo xây dựng một số nhà máy đóng tàu tại St. Peterburg, Kronstadt, trên sông Niva và sông Svely. Năm 1704, ông được tấn phong quân hàm thiếu tướng. Thời kỳ chiến tranh phương Bắc từ năm 1700 đến năm 1721, Miansikov từng chỉ huy đa số lực lượng bộ binh và kị binh, ông trở thành một quan chức quân sự nổi tiếng. Trong bao vây tấn công và tổng lực tấn công, ông luôn thể hiện tài năng xuất chúng của mình, luôn bình tĩnh, dũng cảm, và rất có kỹ năng chiến thuật, tinh thần chủ động.
Năm 1705, ông đã chỉ huy quân đội chiến đấu với quân Thụy Điển ở Lithuania.
Ngày 8 tháng 10 năm 1706, ông chỉ huy quân Nga đánh bại quân Thụy Điển do tướng Marjor Phillid chỉ huy tại Kalisz. Tháng 8 năm 1708 trong
https://thuviensach.vn
thắng lợi của quân Nga tại trận đánh Lexnia (được Đại đế Peter I gọi là “mẹ của trận đánh Poltawa”), ông đã góp công rất lớn.
Tháng 11 năm 1708, Miansikov đã chiếm được căn cứ của quân phản loạn là thành Baturin. Thành Baturin từng là nơi cất giữ lương thực và đạn dược của quân Thụy Điển. Năm 1709, trong chiến dịch Poltawa, ông đã phát huy được vai trò vô cùng to lớn của mình trong chiến thắng này. Lúc bắt đầu cuộc chiến, ông chỉ huy quân tiền tuyến, sau đó tham chiến, ông đã tiêu diệt được đội quân do tướng Sheilly chỉ huy và bắt sống Sheilly. Sau này lại đánh bại cánh quân do Los chỉ huy, từ đó làm tiêu hao sức mạnh quân đội của Charlie XII. Đến lúc này thì thắng lợi của quân Nga đã nằm trong tầm tay.
Miansikov truy kích quân Thụy Điển tháo chạy từ Poltawa đến bến sông Dneiper thì đuổi kịp, ngày 30 tháng 6 năm 1709, cánh quân này đã phải đầu hàng. Sau thắng lợi của chiến dịch Poltawa, Miansikov được tấn phong làm nguyên soái lục quân.
Từ năm 1709 đến năm 1713, Miansikov đã chỉ huy quân Nga công chiếm Warsaw, Kurland và Holstein. Từ năm 1714 trở đi, ông quản lý vùng biên giới nước Nga đoạt được từ tay quân Thụy Điển (khu vực ven biển Paulo và Enola), đồng thời phụ trách công việc thu thuế của quốc gia. Ông cũng phụ trách các công việc của đất nước khi Peter I ra nước ngoài.
Trong khoảng thời gian từ năm 1718 đến năm 1724 và khoảng thời gian từ năm 1726 đến năm 1727, ông giữ chức vụ giám đốc học viện hải quân. Trong thời gian đảm nhận các chức vụ trên ông luôn tỏ ra là người có tài quản lý xuất chúng, nhưng cũng phần nào nói lên tính cách tham lam vô độ và chuộng hư vinh của ông. Miansikov không bao giờ bằng lòng với thu nhập do địa vị của ông mang lại, vì vậy ông đã bắt đầu kinh doanh các nhà máy công nghiệp. Ông giàu lên nhanh chóng nhờ vào việc đứng ra nhận làm các hợp đồng bao thầu của nhà nước. Ông tham ô trắng trợn, ăn bớt công quỹ, xâm phạm đến cả lĩnh vực của người khác.
https://thuviensach.vn
Từ năm 1714, do những hành vi gian lận và biển thủ, ông đã liên tục bị điều tra, sau đó bị phạt một khoản tiền rất lớn. May nhờ vào sự bênh vực của Peter I nên ông mới thoát khỏi ra hầu tòa.
Sau khi Peter I qua đời, Miansikov đã dựa vào lực lượng cấm vệ quân, đưa Ecaterina I lên ngôi. Trong thời trị vì của nữ hoàng Ecaterina I, Miansikov hầu như nắm toàn bộ quyền chấp chính nước Nga.
Ngày 25 tháng 5 năm 1727, Miansikov trở thành người đầu tiên được phong quân hàm cao nhất nước Nga: Đại Nguyên soái.
Ngày 25 tháng 5, ông đã tổ chức lễ đính hôn cho cháu đích tôn của Peter I là Peter II với con gái của ông là Maria. Tuy nhiên trong quá trình đấu tranh giành quyền lực cá nhân, ông đã không nhận được sự trợ giúp của cấm vệ quân nên đã không thể loại bỏ được đại biểu giới quý tộc cũ vốn luôn đối địch với ông - đó là ảnh hưởng của công tước Golichin và công tước Dogoruky.
Ngày 8 tháng 9 năm 1727, Miansikov bị tố cáo tội phản quốc và biển thủ quốc khố, cả nhà bị lưu đày đến Beriozov (nay là Beriozo thuộc bang Triomenska). Toàn bộ gia sản nhà ông đều bị sung vào công quỹ. Năm 1729, ông qua đời tại Beriozov.
Chương 17: Alexander Vasilievich Suvorov
Alexander Vasilievich Suvorov (1729 - 1800), Đại Nguyên soái lừng danh của nước Nga, ông được ví là "vị thần trong chiến tranh". Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Nhà triết học người Đức Emmanuel Kant, vị
https://thuviensach.vn
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ Oashington và cha đẻ của nhạc giao hưởng người Áo Franz Joseph Haydn.
Suvorov sinh năm 1729 trong một gia đình quý tộc quân đội ở Moscow. Từ nhỏ ông đã say mê quân sự, ông rất thích đọc các sách về lịch sử quân sự. Ông sùng bái Alexander, Caesar, Hannibal và đại đế Peter I.
Năm 1742, ông đăng ký gia nhập cấm vệ quân, cuộc đời quân sự của ông bắt đầu từ đây. Từ năm 1756 đến năm 1758, ông làm việc tại viện lục quân. Trong 7 năm chiến đấu dưới sự chỉ huy của Alexander Rumyantsev, ông đã dần dần nổi lên như một ngôi sao sáng.
Năm 1763, ông giữ chức trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh Suzdal, ông đã viết cuốn "Điều lệnh trung đoàn Suzdal". Năm 1768, ông được tấn phong quân hàm Chuẩn tướng. Năm 1771, trong trận chiến tại Stravic, ông đã dẫn 800 quân đánh tan hơn 3.000 quân của đảng Quý tộc Ba Lan, từ đó danh tiếng lừng lẫy khắp nơi. Năm 1773, ông dẫn quân tham gia cuộc chiến Nga - Thổ và đã nhiều lần lập công. Năm 1774, ông đã tham gia trấn áp cuộc khởi nghĩa của nông dân do Pugchev lãnh đạo. Từ năm 1776 đến năm 1783, ông dẫn quân hoàn thành việc sáp nhập Crimean vào lãnh thổ nước Nga.
Năm 1786, ông được tấn phong quân hàm Thượng tướng. Trong cuộc chiến tranh Nga - Thổ từ năm 1787 đến năm 1791, ông dẫn quân tham gia thế trận phòng ngự tại Inbuan và vây đánh Ochakov, trận công chiến căn cứ Izmir. Trong trận đánh bên sông Lemuniuc, ông đã đánh bại quân chủ lực Thổ Nhĩ Kỳ, và đã được sắc phong làm bá tước Lemunic.
Năm 1794, ông dẫn quân dập tắt cuộc khởi nghĩa nông dân Ba Lan, sau đó được tấn phong làm Nguyên soái và giữ chức tư lệnh quân Nga đóng tại Ba Lan và Ukraina. Tháng 6 năm 1797, do phản đối việc tiến hành chế độ quân đánh thuê của Sa hoàng Paulo I nên ông bị cách chức.
Năm 1798, nước Nga tham gia liên minh chống Pháp lần thứ hai của châu Âu. Do yêu cầu quyết liệt của các nước đồng minh, ông lại được bổ
https://thuviensach.vn
nhiệm làm tổng tư lệnh liên quân Nga - Áo tại chiến trường miền Bắc nước Ý. Năm 1799, ông dẫn quân thực hiện cuộc viễn chinh trên đất Ý.
Trong trận chiến bên sông Trebbia và vùng đất Nove, ông đã chỉ huy quân tiêu diệt quân Pháp đóng tại đo, giải phóng Bắc Ý. Tiếp theo đó lại dẫn quân vượt qua dãy núi Alpes hiểm trở, tiến vào phá vỡ vòng vây của quân Pháp trên lãnh thổ Thụy Sĩ. Sau khi liên minh Nga - Áo tan vỡ, ông phụng mệnh rút quân về nước. Tháng 10 năm đó, ông được phong danh hiệu Đại Nguyên soái. Năm 1800, ông lâm bệnh nặng và qua đời tại nhà riêng bên dòng sông Kriokovski ở Peterburg (nay là thành phố Leningrad).
Suvorov cả đời chinh chiến trận mạc từ Nam chí Bắc, chiến thắng lẫy lừng, trận Trinbuan là một bằng chứng rõ nhất về tài năng chỉ huy kiệt xuất của ông.
Năm 1787, khi chiến tranh Nga - Thổ nổ ra, Thượng tướng Suvorov đã chỉ huy quân phòng ngự tại Trinbuan ngăn chặn tàu chiến của quân địch xâm nhập vào sông Dneiper, bảo vệ được Nicolasenop và Cherson, cắt đứt con đường lưu thông của địch đến Crimean, đây là lần chạm trán thứ hai của ông với quân Thổ Nhĩ Kỳ.
Suvorov vừa đến Trinbuan liền ngay lập tức đi quan sát và tìm hiểu tình hình quân địch. Ông ra lệnh xây dựng công sự, chuẩn bị sẵn sàng nghênh chiến với địch. Ngày 13 và 14 tháng 9 năm 1787, quân Thổ Nhĩ Kỳ liên tiếp tiến hành công kích hai lần nhưng đều thất bại. Từ ngày 30 tháng 9 trở đi, quân địch từ trên biển thực hiện cuộc oanh kích lần thứ ba vào Trinbuan để yểm hộ cho quân chủ lực đổ bộ lên bờ.
Lúc này, Suvorov đang làm lễ cầu nguyện tại nhà thờ, ông bình tĩnh như không có gì xảy ra, nói với người báo cáo tin tức: "Hãy để cho chúng đổ bộ cả lên bờ đi". Thấy quân địch đã đổ bộ lên bờ, quan quân đều hết sức lo lắng, trong khi đó, Suvorov vẫn thản nhiên như không vì ông muốn tiêu diệt hết toàn bộ quân địch.
Khi đó, ông chỉ có tổng cộng 1.700 sĩ quan và binh lính mà quân Thổ Nhĩ Kỳ có tới hơn 5.000 quân. Đợi khi quân Thổ Nhĩ Kỳ đã đổ bộ hết lên
https://thuviensach.vn
bờ, Suvorov mới ra lệnh pháo kích. Sau mệnh lệnh của ông, pháo của quân Nga nhất tề vang lên, tiếp theo đó là đội kị binh lao thẳng vào trận địa quân dịch. Trận chiến quyết liệt đã diễn ra, một viên bi của quả pháo địch đã bắn trúng vào phần dưới ngực ông, ông lảo đảo rồi gục xuống, mọi người khiêng ông vào trong chiến lũy, nhưng vừa tỉnh dậy ông lại lao ngay ra chiến trường.
Suvorov tập trung toàn bộ binh lực tại căn cứ, tiến hành cuộc tấn công lần thứ ba vào kẻ địch. Lần thứ ba này quân Nga đã làm cho địch chết như ngả rạ. Chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ toàn bộ chiến hào của 15 cánh quân địch đều bị thất thủ, số còn lại thì tháo chạy ra biển. Vai trái của Suvorov lại bị trúng đạn, nhưng ông vẫn chiến đấu kiên cường. Sau 9 tiếng đồng hồ chiến đấu anh dũng không mệt mỏi, cuối cùng thế trận phòng ngự tại Trinbuan của quân Nga đã đại thắng.
Suvorov chinh chiến nhiều năm trên chiến trường, tổng cộng ông đã từng chỉ huy hơn 60 trận chiến. Ông rất quan tâm đến khó khăn của binh sĩ, ông được mọi người tín nhiệm, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, thuộc lòng lịch sử chiến tranh nước Nga và châu Âu. Ông rất chịu khó học hỏi tri thức khoa học tiến bộ phương Tây. Ông quyết chí cải cách, mạnh dạn sáng tạo. Ông mạnh dạn loại bỏ chiến thuật dàn quân đánh trận, chủ trương tập trung binh lực đánh thẳng vào hướng chính, tiêu diệt lực lượng chủ đạo của địch.
Ông chú trọng cơ động nhanh, tấn công thần tốc quyết liệt, đưa ra nguyên tắc chiến thuật tổng hợp là quan sát, tần tốc và mãnh công, ông cũng đi tiên phong trong việc trị quân nghiêm minh, luyện tập quân đội theo đúng yêu cầu thực tế chiến đấu. Ông giản dị như những binh sĩ bình thường, được mọi người gọi là "Chiến sĩ nguyên soái". Tác phẩm nổi tiếng của ông là "Khoa học giành chiến thắng".
https://thuviensach.vn
Chương 18: Mikhail Illarionovich Kutuzov
Mikhail Illarionovich Kutuzov (1745 - 1813), tướng lĩnh lừng danh, nguyên soái của nước Nga, ông được ví như là "Vị thần trong chiến tranh". Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Nhà triết học người đức Emmanunel Kant, Tổng thống đầu tiên của Mỹ Washington và cha đẻ nhạc giao hưởng người Áo Franz Joseph Haydn.
Kutuzov sinh năm 1745 trong một gia đình kỹ sư quân sự tại Peterburg. Năm 1759, ông tốt nghiệp trường kỹ sư pháo binh và ở lại trường làm giảng viên. Năm 1761, ông được phong quân hàm chuẩn úy, sau đó được điều đến làm trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh Anstrakhan theo nguyện vọng của bản thân mình. Chưa đầy 1 năm kể từ ngày nhậm chức, ông đã có rất nhiều đóng góp và thành tích.
Từ năm 1762, ông được cử làm sĩ quan tùy tùng dưới trướng quan tổng đốc Reve, cũng năm đó, ông được tấn phong quân hàm đại úy. Từ năm 1764 đến năm 1795, ông phục vụ trong quân ngũ, giữ chức chi đội trưởng chi đội độc lập. Năm 1767, ông tham gia vào ủy ban soạn thảo pháp luật. Năm 1770, ông được điều đến quân đoàn số 1 đóng tại miền Nam. Ông cũng từng tham gia vào chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ năm 1768.
Trong cuộc chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ cuối thế kỷ XVIII, dưới sự chỉ huy của Alexander Rumyanstev và Suvorov, Kutuzov đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ông trở thành một sĩ quan quân sự.
Trong thời gian chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ (1768 - 1774), Kutuzov là sĩ quan tham mưu, ông đã từng tham gia vào các trận quyết chiến bên sông Larga và Kagle. Ông luôn thể hiện là người anh dũng, cương nghị, tích cực chủ động. Do có nhiều thành tích trong chiến đấu, ông được tấn phong quân hàm Thiếu tá, giữ chức tham mưu trưởng. Năm 1771, do thành tích trong
https://thuviensach.vn
chiến đấu, ông lại được tấn phong quân hàm Trung tá, năm 1772, ông được điều đến quân đoàn 2 Crimean.
Tháng 7 năm 1774, trong trận chiến gần khu Suma phía bắc Arustan, Kutuzov đã bị thương ở mắt phải và góc trán, khi đó ông là tiểu đoàn trưởng. Ông buộc phải ra nước ngoài để chữa trị vết thương.
Ông đã lần lượt đi qua các nước như Áo, Anh, Phổ. Sau khi trở về nước, ông đã làm việc dưới trướng của Suvorov sáu năm kể từ năm 1776. Suvorov đã giao cho ông trọng trách tổ chức bảo vệ vùng Crimean. Năm 1777, ông được tấn phong quân hàm Thượng tá và giữ chức vụ trung đoàn trưởng trung đoàn kị binh Mariubochin. Năm 1782, được phong quân hàm Chuẩn tướng; đến năm 1784, được phong quân hàm Thiếu tướng. Từ năm 1785, ông giữ chức trung đoàn trưởng trung đoàn kị binh Bugshi do ông thành lập.
Trong thời gian giữ chức vụ này và khi tập luyện kị binh, ông đã đưa vào nhiều phương pháp chiến thuật mới mẻ, độc đáo, và ông đã viết nó thành điều lệnh.
Thời kỳ đầu chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ (1787 - 1791), ông nhận nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam nước Nga bên sông Burg.
Mùa hạ năm 1788, ông dẫn quân kị binh tham gia trận đánh Ochakov và lại bị thương. Sau này ông còn tham gia chỉ huy các trận đánh ở Ackerman, Khazaney, Bendery.
Tháng 12 năm 1790, ông chỉ huy quân đoàn 6 tấn công và chiếm được Izmail, lập chiến công vang dội. Suvorov đánh giá rất cao tinh thần chiến đấu của quân Kutuzov. Sau chiến thắng Izmail, Kutuzov được phong quân hàm trung tướng và giữ chức vụ tư lệnh Izmail.
Sau nhiều lần kháng cự với cuộc tấn công của quân Thổ Nhĩ Kỳ nhằm chiếm lại căn cứ Izmail này. Ngày 15 tháng 6 năm 1791 ông đã mở cuộc đột kích bất ngờ và đã đánh tan hơn 2 vạn quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Baladag. Trong trận đánh tại Mozin năm 1791, ông đã dùng chiến thuật linh hoạt, cơ động, giáng một đòn chí tử vào quân Thổ Nhĩ Kỳ.
https://thuviensach.vn
Kutuzov là nhà ngoại giao, nhà chính trị thiên tài. Năm 1794, ông được cử làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã giải quyết được hàng loạt vấn đề có lợi cho nước Nga và đã làm cho quan hệ hai nước được cải thiện đáng kể.
Năm 1794, ông được bổ nhiệm là hiệu trưởng trường vũ trang lục quân quý tộc. Ông đã ra sức cải tiến công tác tập luyện sĩ quan: Cho mở thêm môn học chiến thuật và lịch sử quân sự. Ông chú trọng rèn luyện tinh thần trách nhiệm, lòng dũng cảm và tính chủ động của người quân nhân cho các sĩ quan tương lai. Từ năm 1795 trở đi, ông giữ chức tư lệnh và quan sát viên quân đội đóng tại Ba Lan. Năm 1798, ông được tấn phong quân hàm thượng tướng. Ông còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đại sứ của mình tại Phổ. Trong hai tháng dừng chân ở Beclin, ông đã tranh thủ lôi kéo được Phổ liên minh với nước Nga để chống lại nước Pháp. Ông từng giữ chức vụ thống đốc Litva (1799 - 1801) và thống đốc Peterburg (1801 - 1802).
Thời kỳ đầu chiến tranh Vệ quốc năm 1812, tháng 7 Kutuzov được đề bạt giữ chức tư lệnh quân Peterburg và Moscow. Do có đóng góp lớn trong chỉ huy quân đội Nga, nên ông được sắc phong làm công tước Smolensk và được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng Nhất - huân chương George hạng Nhất.
Tháng 1 năm 1813, quân Nga vượt qua biên giới tiến vào Tây Ấn, do sức khỏe của Kutuzov bị giảm sút nên cuộc viễn chinh này đã không được hoàn thành.
Ngày 28 tháng 4 năm 1813, ông đã qua đời tại một thành nhỏ ở Silesia (nay là Bolasvath - Ba Lan). Thi thể của ông sau khi xử lý chống rữa đã được chuyển về Peterburg và an táng tại nhà thờ Kasansky.
Trải qua 50 năm trên chiến trường, Kutuzov đã trở thành nhà quân sự vô cùng uyên bác. Ông là một trong những người có học vấn cao nhất phương Tây thời kỳ bấy giờ, ông tinh thông các tiếng Anh, Pháp, Đức, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ. Để đối phó với chiến lược tổng quyết chiến của Napoléon, Kutuzov đã lựa chọn chiến thuật phân tán trong khoảng thời gian và không
https://thuviensach.vn
gian tương đối lớn nhằm tiến hành một loạt các trận đánh để giành thắng lợi.
Đặc điểm chiến lược của ông là: Hành động kiên quyết, tập trung tiêu diệt gọn toàn bộ, tác chiến với nhiều hình thức khác nhau, cơ động bao trùm và mạnh dạn, ông cũng luôn cân nhắc khả năng giành thắng lợi.
Ông luôn chuẩn bị tốt mọi điều kiện cần thiết để tiêu diệt quân địch và dốc hết sức để đạt được mục tiêu. Cuộc phản công trong chiến tranh Vệ quốc năm 1812 là một minh chứng cho nghệ thuật thống soái của ông. Kutuzov còn là một nhà lý luận quân sự lỗi lạc, quan điểm tiến bộ của ông được thể hiện rất rõ trong mệnh lệnh và giáo lệnh. Đến thời kỳ Liên Xô, tài năng quân sự của ông mới được công nhận. Để kỉ niệm quân Nga đã chiến thắng quân xâm lược Napoléon, người ta đã xây dựng bia tưởng niệm Kutuzov vào năm 1973 tại Moscow.
Chương 19: Napoléon Bonaparte
Napoléon (1769 - 1821) - nhà quân sự, nhà chính trị lẫy lừng trong lịch sử cận đại nước Pháp. Là người sáng lập, thống soái và là hoàng đế của đế quốc Pháp đầu tiên (sử sách gọi ông là Napoléon đệ nhất). Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Nhà bác học người Anh Edmund Cartwight, nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Mozart và nhà thơ Anh nổi tiếng George Byron.
Napoléon sinh ngày 15 tháng 8 năm 1769 trong một gia đình quý tộc sa sút tại thành Ajacco trên đảo Corse nước Pháp. Từ nhỏ ông đã say mê quân sự. Năm 1789, nước Pháp nổ ra cuộc cách mạng của giai cấp tư sản, ông đã đồng tình và ủng hộ cuộc cách mạng này, vì vậy ngay lập tức, ông đã trở thành người ủng hộ Jacobin.
https://thuviensach.vn
Tháng 7 năm 1793, Napoléon cầm quân, chỉ một trận đã công chiếm được thành trì Toulon của Đảng Bảo hoàng nên rất được Jacobin Phi Robexpièrre khen ngợi. Ngày 14 tháng 1 năm 1794, ông được phong hàm Chuẩn tướng, lữ đoàn trưởng lữ đoàn pháo binh.
Ngày 16 tháng 10 năm 1795, ông được tấn phong làm thiếu tướng hải quân, tư lệnh quân đội bảo vệ Paris. Ông đã trở thành một nhân vật tầm cỡ được mọi người biết đến trong các lĩnh vực quân sự và chính quyền.
Ngày 2 tháng 3 năm 1796, ông được phong làm tư lệnh quân đội Pháp - Ý, khi đó ông mới 26 tuổi. Từ đây, ông bắt đầu cuộc đời chiến đấu độc lập của mình. Ngày 9 tháng 10 năm 1799, ông đã phát động cuộc đảo chính Brumaire và trở thành người chấp chính số một. Ngày 14 tháng 6 năm 1800 tại Marengo, ông đã đánh bại quân Áo khiến cho liên minh chống Pháp lần thứ hai bị tan rã.
Tận dụng thời cơ hoãn binh tạm thời trên đại lục châu Âu, ông đã dốc tâm trị quốc nhằm phát triển nội lực đất nước, rất nhanh, nước Pháp đã trở nên phồn vinh, giàu có.
Tháng 5 năm 1802, sau cuộc bỏ phiếu, Napoléon đã trở thành người chấp chính tối cao, quyền hành chính, tư pháp và lập pháp đều do ông nắm giữ.
Ngày 18 tháng 5 năm 1804, Napoléon đã khoác áo hoàng bào, chính thức tuyên cáo mình là hoàng đế của đế quốc Pháp đầu tiên, hiệu là "Napoléon đệ nhất". Ngày 9 tháng 8 năm 1805, ba nước Áo, Anh và Nga đã kết thành liên minh chống Pháp lần thứ ba.
Napoléon đích thân dẫn quân đi ứng chiến và đã giành được thắng lợi trong các trận đánh lớn như Ulin, Austerlitz, Nga hoàng và vua Áo bỏ chạy thục mạng.
Napoléon thừa thắng đã cùng với các nước chư hầu ở Nam Đức, Trung Đức và Tây Đức kết thành đồng minh Rlein và đặt dưới sự bảo hộ của mình. Mùa thu năm 1806, Anh, Nga và Phổ đã kết thành đồng minh chống Pháp lần thứ tư. Ngày 1 tháng 10, Phổ đã tuyên chiến với Pháp trước. Chỉ trong ngày 14, quân Pháp đã có hai trận đánh vang dội tại Iena và Aulstart,
https://thuviensach.vn
quân của Phổ hầu như bị tiêu diệt. Ngày 27 tháng 10, quân Pháp tiến quân đánh chiếm Beclin, nhà thơ nổi tiếng người Đức, Harry Heine từng nói phóng đại là "Napoléon dùng một hơi đã thổi bay cả Phổ", tiếp sau đó quân Pháp tiến về phía Đông giao chiến với quân Nga.
Ngày 14 tháng 6 năm 1807, hai bên gặp nhau lại Friendland, Napoléon đã đánh cho quân Nga tơi bời, buộc Nga hoàng phải xin hòa. Nhằm bóp nghẹt các hòn đảo thuộc Anh, ông đã cho thực thi chính sách phong tỏa đại lục châu Âu; tháng 10 năm 1807, ông đã phát động cuộc chiến chinh phục bán đảo Iberian. Khi quân Pháp đổ bộ lên bán đảo này thì vấp phải sự kháng cự quyết liệt của cư dân trên đảo, quân Pháp ngay lập tức bị sa lầy, không tài nào thoát ra được.
Đầu năm 1809, để đối phó với liên minh chống Pháp lần thứ 5 của Phổ và Áo, không đợi cuộc chiến ở Tây Ban Nha kết thúc, Napoléon vội vã rút quân về nước rồi tiến về phía Đông đánh Áo. Với ý chí gang thép, Napoléon đã chuyển bại thành thắng, buộc nước Áo phải cắt đất đổi lấy hòa bình. Tháng 3 năm 1810, ông lấy công chúa nước Áo là Maria Louisa làm vợ. Đế quốc Napoléon bước vào thời kỳ đỉnh điểm của sự thịnh vượng. Nhưng đúng vào lúc Napoléon đắc chí nhất thì cũng là lúc sự nghiệp xưng bá của ông xuất hiện tình thế đảo ngược. Năm 1812, Napoléon tập trung 50 vạn quân tiến hành cuộc viễn chinh đánh nước Nga. Ông tiến quân nhanh như vũ bão, mạnh như chẻ tre như muốn nuốt chửng thành Moscow. Nhưng quân dân Nga đã chiến đấu anh dũng, cộng thêm thời tiết giá rét đã khiến cho quân của ông bị thất bại.
Năm 1813, liên minh chống Pháp lần thứ sáu được thành lập, Napoléon dẫn 40 vạn quân nghênh chiến với liên quân, không ngờ trong trận đánh ở Leipzig ông đã bị thảm bại, các nước chư hầu và các bang nhỏ khác đã thừa cơ nổi dậy thoát khỏi sự khống chế của nước Pháp, Napoléon rơi vào cảnh thân cô thế cô, bốn phương thù địch. Ngày 6 tháng 4 năm 1814, ông buộc phải thoái vị và bị lưu đày đến đảo Elbe ở Địa Trung Hải và vương triều Bourbon được khôi phục trở lại. Tưởng rằng thế cục đã được an bài, không
https://thuviensach.vn
ngờ kẻ thất bại lại có thể lập nên kỳ tích hiếm thấy trong lịch sử. Napoléon đã trốn thoát khỏi hòn đảo được canh phòng nghiêm ngặt.
Ngày 20 tháng 3 năm 1814, không mất một mũi tên hòn đạn, ông đã chiếm lại được Paris, lại một lần nữa lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều mà sử sách gọi là "Bách nhật vương triều" (vương triều tồn tại 100 ngày).
Quốc vương các nước châu Âu lại một lần nữa tập hợp binh lực, kết thành liên quân chống Pháp lần thứ bảy. Tháng 6 năm 1815, trong trận đánh tại Waterloo, quân Pháp đã bị tiêu diệt, Napoléon lại một lần nữa phải thoái vị. Tháng 10, ông bị lưu đày đến đảo St.Helena. Ngày 5 tháng 5 năm 1821, ông lâm bệnh nặng và qua đời trên hòn đảo này ở tuổi 51. Bốn ngày sau, người dân trên đảo đã tổ chức mai táng cho ông. 19 năm sau, vua nước Pháp Louis Phillip đã phái chiến hạm ra hòn đảo để đưa hài cốt ông về đất liền. Ngày 15 tháng 12 năm 1840, toàn dân Paris thành kính tham gia nghi lễ rước linh hồn ông được tổ chức vô cùng long trọng. Rất nhiều người đã bất chấp thời tiết rét buốt, hộ tống linh cữu của ông đến viện quân y bên bờ sông Seine.
Chương 20: Simon Boliver
Simon Boliver (1783 - 1880), nhà lãnh đạo phong trào giành độc lập châu Mỹ La Tinh. Vĩ nhân thế giới cùng thời với ông có: Kỹ sư người Anh phát minh ra xe lửa là George Stephenson, nhà thơ Anh George Gordon Byron, người đứng đầu phong trào đấu tranh độc lập Nam Mỹ San Martin.
Boliver sinh ra trong gia đình quý tộc da trắng tại thành phố Caracas, thủ đô Venezuela. Ông từng học tại Caracas và Madrid, chịu ảnh hưởng của
https://thuviensach.vn
phong trào Ánh sáng ở châu Âu thế kỉ XVII-XVIII. Ông từng đến một số nước châu Âu, trong đó có Pháp.
Năm 1807, sau khi Boliver trở về Caracas, ông đã phản đối cuộc chiến của bọn thống trị thực dân Tây Ban Nha. Sau nhiều năm trăn trở, ông đã đến Venezuela, dưới sự lãnh đạo của ông, trải qua bao đấu tranh gian khổ, cuối cùng nước Cộng hòa thứ hai Venezuela đã ra đời.
Năm 1811, Hội đồng Nhân nghị Venezuela đã thông qua "Bản tuyên ngôn độc lập", tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Venezuela. Boliver tham gia vào quân đội, ông được phong quân hàm Thượng tá và giữ chức vụ tư lệnh một căn cứ quân sự trọng yếu. Nhưng Boliver đã không thể củng cố vững chắc căn cứ của mình, quân thực dân sau khi được tăng viện đã buộc ông phải rời bỏ Caracas. Sang năm sau, Venezuela đã bị quân thực dân Tây Ban Nha trấn áp. Ông lưu vong đến New Granda, tại đó ông đã kêu gọi toàn dân đứng lên phản đối chế độ thực dân của Tây Ban Nha, giải phóng Venezuela và Nam Mỹ.
Năm 1813, ông đã dẫn 300 quân đánh Venezuela, giải phóng Caracas, xây dựng lại nước cộng hòa, ông nhậm chức vụ lãnh đạo tối cao và được phong tặng danh hiệu "Anh hùng giải phóng". Nhưng vào tháng 7 năm 1814, nước cộng hòa này lại một lần nữa bị quân đội Tây Ban Nha trấn áp. Đến năm 1815, cùng với sự sụp đổ của đế quốc Napoléon, nhà vua Tây Ban Nha đệ nhất Ferdinand đã quay trở lại với ngôi vị của mình. Dưới sự trợ giúp của "Đồng minh thánh thần", đã phái hơn 3 vạn quan binh chính phủ đến đóng tại châu Mỹ thuộc sự cai trị của Tây Ban Nha. Bọn chúng hoành hành ngang ngược tại New Granda và Venezuela, gây ra vô số đau thương, chết chóc.
Các cuộc đấu tranh giành độc lập đều bị đàn áp đẫm máu, bóng đêm của chế độ thống trị thực dân đã bao trùm lên khắp châu Mỹ La Tinh. Sau năm 1815, các cuộc phản kháng của nhân dân trên vùng đất châu Mỹ dưới sự cai trị của thực dân Tây Ban Nha đã bước vào giai đoạn khó khăn và gian khổ hơn rất nhiều. Sau thất bại, Boliver đã lưu vong đến Jamaica, nhưng không
https://thuviensach.vn
vì vậy mà ông từ bỏ lý tưởng đấu tranh của mình, ngược lại, ông đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm và bài học sau những lần thất bại, ông.
Ông đã nhận thức được rằng, mặc dù con đường đấu tranh phía trước còn đầy chông gai, nhưng chế độ thực dân cuối cùng cũng sẽ bị đánh đổ. Năm đó ông đã viết thư kêu gọi nhân dân tiếp tục đấu tranh. Năm 1816, được sự trợ giúp của chính quyền cách mạng Haiti, ông đã dẫn quân đội đổ bộ lên Venezuela, tiến đánh quân đội thực dân. Ông tuyên bố giải phóng nô lệ và hứa sẽ phân chia đất đai cho các chiến sĩ, nên được sự ủng hộ của toàn dân, đội quân của ông nhanh chóng lớn mạnh. Tiếp đó, Boliver đã cho xây dựng căn cứ quân sự bên bờ sông Orinoco và tiếp tục mở rộng quân đội của mình.
Năm 1818, ông lại một lần nữa thành lập nước cộng hòa và được bầu làm Tổng thống. Năm sau, ông đã giải phóng Bogota.
Tháng 12 năm 1818, Venezuela đã liên hợp với New Granda để lập ra nước Cộng hòa Đại Colombia, Boliver được bầu làm Tổng thống. Đầu tháng 8 năm 1819, quân đội của ông đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt với quân đội thực dân Tây Ban Nha tại Bozela. Nước cộng hòa Đại Colombia tuyên bố thành lập (năm 1839 lại chia thành Venezuela, Colombia và Ecuador), Boliver được bầu làm Tổng thống của nước cộng hòa Đại Colombia.
Đầu năm 1821, lợi dụng tình thế có lợi là trong đất nước Tây Ban Nha nổ ra cuộc cách mạng, Boliver đã tranh thủ dẫn quân vượt qua dãy núi Andes, tiến quân vào miền Bắc Venezuela. Trên bình nguyên Carabobo, với ưu thế về binh lực, ông đã đánh tan quân thực dân, thừa thắng tiến về giải phóng Caracas. Ngay sau đó, quân khởi nghĩa đã giành được chiến thắng rực rỡ ở Pichincha và giải phóng toàn bộ Ecuador. Sau giải phóng, Ecuador sáp nhập vào nước cộng hòa Đại Colombia.
Hạ tuần tháng 7 năm 1822, hai vị anh hùng trong cuộc đấu tranh giành độc lập Nam Mỹ là Boliver và San Martin gặp nhau tại cảng Guayaquil.
https://thuviensach.vn
San Martin đã xin rút lui, và như vậy nhiệm vụ giải phóng Peru đã được giao cho Boliver.
Năm 1823, ông chỉ huy quân đội tiến vào Peru, liên kết với hơn 4.000 quân của Achentina và Chile tạo nên liên quân hùng mạnh.
Ngày 6 tháng 8 năm 1824, liên quân đã có trận đánh trên bình nguyên Junin và đã giành được chiến thắng giòn giã.
Ngày 9 tháng 12 năm 1824, một trận chiến "chấm dứt chế độ cai trị của thực dân Tây Ban Nha và đem lại độc lập cho châu Nam Mỹ" đã nổ ra tại Ayacuho, chiến hữu của Boliver là Antonio Jos De Sucre đã mưu trí dùng ít thắng nhiều. Năm 1825, Peru được giải phóng. Để tưởng nhớ tới Boliver, Peru đã đổi tên thành Bolivia. Năm 1826, quân đội thực dân Tây Ban Nha trên đất châu Mỹ đã hoàn toàn bị tiêu diệt tại Guayaqil. Từ năm 1829, Boliver đã rút khỏi vị trí Tổng thống, cuối năm đó ông đã qua đời tại Colombia.
Chương 21: Kelasaviz
Kelasaviz (1780 - 1831) nhà lý luận quân sự, nhà sử học quân sự kiệt xuất của nước Phổ. Vĩ nhân thế giới cùng thời ông có: Nhà vật lý học nổi tiếng người Anh Michael Faraday, nhà văn nổi tiếng người Pháp Honore de Balzac, nhà thơ người Nga Alexander Segeevich Puskin.
Kelasaviz sinh ra trong gia đình quý tộc tại thị trấn Burger gần Magdeburg, nước Đức mà ông sống lúc này đang trong thời phong kiến cát cứ lạc hậu và đầy biến động. Năm 12 tuổi ông gia nhập quân đội Phổ và chính thức bước vào con đường chinh chiến.
https://thuviensach.vn
Năm 1818, ông trở thành hiệu trưởng trường sĩ quan Berlin và được phong quân hàm tướng. Trong 12 năm đảm nhận cương vị này, ông đã dồn hết tâm trí và sức lực vào việc nghiên cứu lý luận quân sự và lịch sử chiến tranh, đồng thời viết sách và xây dựng học thuyết của mình. Sau khi ông qua đời, vợ ông là Mary đã chỉnh lý và cho xuất bản "Di tác tướng quân Kelasaviz" tổng cộng gồm 10 quyển, 3 quyển đầu là "Luận chiến tranh", 7 quyển sau là tác phẩm lịch sử chiến tranh.
Kelasaviz gọi chiến tranh là: "Rồng đổi màu", ông cho rằng chiến tranh trong mỗi thời kỳ đều không giống nhau. Mỗi cuộc chiến đều có đặc điểm riêng, chiến tranh là công cụ của chính trị, trong chiến tranh thì chiến đấu đóng vai trò quyết định.
https://thuviensach.vn
Sắc thái cơ bản của nó bao gồm ba phương diện, đó là: tính dữ dội của yếu tố cuộc chiến, hoạt động của tính tất nhiên và tính ngẫu nhiên. Chiến tranh là xuất phát điểm của việc nghiên cứu và thảo luận vấn đề chiến tranh của Kelasaviz, là căn cứ để ông đưa ra hình thái "chiến tranh tuyệt đối" và "chiến tranh hiện thực".
Tính dữ dội của các yếu tố chiến tranh có được là khi đặt chiến tranh vào trong lĩnh vực trừu tượng của khái niệm thuần. Ông coi chiến tranh như là một cuộc vật lộn giữa hai người được mở rộng ra, vì thế chiến tranh là một hành vi bạo lực, mục tiêu mà nó nhắm tới là đánh đổ đối phương. Đây chính là cái gọi là hình thái "chiến tranh tuyệt đối". Nhưng chiến tranh trong thực tế lại đa dạng, phong phú, một trong những nguyên nhân cản trở việc hình thái chiến tranh tuyệt đối thực hiện đó là cả tính tất nhiên và tính ngẫu nhiên của chiến tranh chúng đều phát huy tác dụng cùng lúc. Chiến tranh do một đất nước, thống soái và con người tiến hành.
Con người thì có người kiên cường, có người lại mềm yếu, có người trước sau như một, nhưng cũng có người lại không trung thành tuyệt đối. Ngoài ra trong chiến tranh còn tồn tại khó khăn như tình huống mập mờ. Kelasaviz gọi tính không triệt để và khó khăn về tình huống mập mờ trong chiến tranh là "trở lực".
Trong tình huống trở lực chồng chất, tính tất nhiên và tính ngẫu nhiên sẽ có một khoảng trống hoạt động đầy đủ. Trong chiến tranh thực tế, một bên tác chiến có thể dựa vào đặc điểm và tình hình của đối phương rồi đưa ra sự phán đoán về hành động của đối phương dựa theo tính tất nhiên, từ đó xác định sức mạnh đối phương cần sử dụng, nhưng không cần thiết phải theo đuổi tìm hiểu đến cùng.
Tính ngẫu nhiên khiến cho chiến tranh trở nên đầy cơ hội, may mắn và bất hạnh, vì vậy mà chiến tranh cũng giống như đánh bạc. Một nguyên nhân khác khiến cho hình thái chiến tranh tuyệt đối không thể thực hiện được là chiến tranh đang dần phụ thuộc vào công cụ chính trị. Bất kể cuộc chiến tranh nào cũng đều có mục đích chính trị. Nếu như mục đích chính trị mà
https://thuviensach.vn
nó theo đuổi không lớn thì sự phản kháng của đối phương sẽ không quá mãnh liệt, và vì vậy mục đích chính trị của chiến tranh vừa là thước đo sức mạnh vừa là thước đo mức độ quyết liệt của cuộc chiến. Chiến tranh là hành động bạo lực, vì vậy trong chiến tranh ắt sẽ phải có hi sinh, đổ máu, bất kể quan điểm nhân từ, mềm yếu nào cũng đều có hại; chiến tranh giống như đánh bạc, đầy tính tất nhiên và tính ngẫu nhiên, vì vậy mà chỉ có tinh thần mạo hiểm và thiên tài thống soái mới có nhiều đất dụng võ.
Trong tư tưởng quân sự của Kelasaviz, chính trị là người mẹ mang thai đứa con chiến tranh. Chiến tranh phụ thuộc vào chính trị, là công cụ của chính trị, vì vậy thống soái cần phải có đầu óc chính trị, cần phải nhận thức chính xác cuộc chiến mình đang tham gia và sử dụng công cụ này một cách chính xác. Do động cơ của các cuộc chiến tranh không giống nhau nên mỗi cuộc chiến tranh tất nhiên cũng sẽ không giống nhau.
Trong bất cứ tình huống nào cũng không được coi chiến tranh là thứ độc lập mà phải xem nó là công cụ của chính trị. Khi sử dụng công cụ này cần phải hiểu được đặc điểm của nó, làm cho tiến trình của chiến tranh phù hợp với các ý đồ chính trị, yêu cầu chính trị thích ứng với các biện pháp chiến tranh.
Chính trị không thể đưa ra yêu cầu mà chiến tranh không thể thực hiện được. Ông luôn nhấn mạnh chiến tranh là phục vụ cho chính trị, quan điểm quân sự phải phục tùng quan điểm chính trị, tất cả ý đồ muốn làm cho quan điểm chính trị phải phục tùng quan điểm quân sự đều là hoang đường. Sau khi chiến tranh bùng nổ, nó vẫn chưa thoát khỏi chính trị.
Mối liên hệ về chính trị giữa chính phủ với nhau sẽ không vì chiến tranh mà chấm dứt, mà là được tiếp tục bằng một cách thức khác. Điều này cũng có nghĩa là:
"Chiến tranh chính là sự tiếp tục của chính trị thông qua một biện pháp khác" .
Kelasaviz cho rằng trong chiến tranh thì chiến đấu và đổ máu là hai thứ cuối cùng giải quyết mọi vấn đề. Mục đích của chiến tranh rất đa dạng và
https://thuviensach.vn
phong phú: đánh đổ kẻ địch, tìm diệt quân địch, chiếm lĩnh lãnh thổ của nước địch, xâm nhập khu vực của địch, chờ địch tấn công. Để đạt được những mục đích này chỉ có một cách duy nhất đó là chiến đấu. Chiến đấu là gì? Đó chính là tiêu diệt quân đội của địch. Tiêu diệt quân đội địch không chỉ là tiêu diệt sức mạnh vật chất của kẻ địch mà còn là đánh đổ sức mạnh tinh thần của địch. Sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần có ảnh hưởng lẫn nhau, kết hợp và bổ sung cho nhau.
Muốn tiêu diệt quân đội kẻ địch thì phải trả một cái giá khá đắt và phải chấp nhận mạo hiểm, nhưng giá trị thu được lại rất lớn, vì vậy là hoàn toàn xứng đáng. Tiêu diệt quân đội kẻ địch và bảo tồn phía mình là hai mặt không thể thiếu của việc thực hiện một ý đồ chung. Thống soái có thể vận dụng mọi biện pháp, lợi dụng điểm yếu của kẻ địch để đạt được mục đích giảng hòa nhằm tránh một cuộc xung đột lớn và đổ máu. Nhưng muốn làm được điều này thì cần phải có căn cứ đầy đủ vì phải nắm chắc thành công, đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn sàng tinh thần chiến đấu.
Chương 22: San Martin
San Martin (1778-1850) được tôn vinh là "Hộ quốc công" của nước Cộng hòa Peru. Ngoài ra ông còn được tôn vinh nhiều danh hiệu khác như "Người giải phóng châu Nam Mỹ", “người đứng đầu phong trào đấu tranh giành độc lập” của ba nước cộng hòa Peru, Chile và Achentina, "người đặt nền móng cho tự do" và "Washington của Nam Mỹ".
Cha của San Martin từng nhậm chức phó đô đốc, bản thân ông là một sĩ quan quân đội từng tham gia phản đối cuộc chiếm đóng của Napoléon ở Tây Ban Nha, ông không những có kinh nghiệm chỉ huy quân đội mà còn có lý tưởng lớn. Thời trẻ San Martin rất say mê đọc sách. "Luận khế ước xã hội" của Jan Jacques Rousseau và các tác phẩm của Voltaire, Montesquieu,
https://thuviensach.vn
Denis Garibaldi Diderot và Baron Holbach đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông. Sau này, San Martin dấn thân vào cuộc đấu tranh giải phóng lật đổ ách thống trị của thực dân. Sau ròng rã hai năm trời với biết bao công lao vất vả, ông đã huấn luyện nên đội quân giải phóng Aldes, chủ yếu là do người da đen và người lai hợp thành.
Đầu năm 1817, San Martin dẫn 5.000 quân viễn chinh vượt qua dãy núi Aldes rồi bất ngờ đánh úp quân phòng thủ Tây Ban Nha tại Chile khiến cho quân Tây Ban Nha tại Chile bị tiêu diệt hoàn toàn. Thắng lợi này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ, nó thúc đẩy chiến tranh giải phóng Nam Mỹ từ phòng ngự chiến lược chuyển sang tấn công chiến lược.
Tháng 2 năm 1818, Chile tuyên bố độc lập. Không lâu sau, San Martin lại tập hợp lực lượng, lập ra một đội hải quân quy mô nhỏ rồi theo đường biển tiến quân vào Peru. Peru khi ấy là mảnh đất thực dân vững chắc nhất của Tây Ban Nha tại châu Mỹ.
Tháng 7 năm 1818, San Martin dẫn quân tiến đánh Lima, một tuần đã giải phóng được Lima, Peru tuyên bố độc lập. Do lập được những chiến công bất hủ trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Nam Mỹ nên San Martin đã trở thành tổng tư lệnh quân đội miền Bắc Achentina.
Có thể nói là nếu như không có San Martin thì sẽ không có sự giải phóng Nam Mỹ, cũng sẽ không có được độc lập và tự do của các nước cộng hòa Nam Mỹ.
Nhưng đúng lúc mọi người hân hoan chào đón chiến thắng của San Martin với một tấm lòng ngưỡng mộ và khâm phục vô hạn thì San Martin đã chủ động rút khỏi chức vị tổng tư lệnh quân đội miền Bắc Achentina để đến làm tỉnh trưởng của một tỉnh hẻo lánh là Guley. Tại đó ông đã tổ chức huấn luyện tân binh và tiến quân vào Chile. Sau khi Chile được giải phóng, chính phủ mới đã bổ nhiệm ông làm quan hành chính cao nhất, nhưng ông đã từ chối để quay sang đảm nhiệm một trọng trách nặng nề nhất lúc bấy giờ là tổ chức liên minh giữa quân đội Achentina và Chile để tấn công trận
https://thuviensach.vn