🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 100 Mẩu Chuyện Cổ Đông Tây Ebooks Nhóm Zalo NGUYỄN LÂN 100 MẨU CHUYỆN CỔ ĐÔNG TÂY (In lần thứ hai) NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC 1996 Gõ và tạo ebook: tducchau (TVE) Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1. VÌ SỰ NGHIỆP, PHẢI SỐNG 2. MỘT TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC SÁNG NGỜI 3. ĐỨC ĐỘ CỦA MỘT VỊ ANH HÙNG 4. VUA CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI 5. PHẢI TỰ BIẾT MÌNH 6. KHÔNG AI DÁM NHẬN LÀ BẬC HIỀN NHÂN 7. QUYẾT CHÍ 8. CÓ CHÍ TRỞ THÀNH HÙNG BIỆN 9. MUA ĐƯỢC NGHĨA 10. TÌNH VÀ NGHĨA 11. VÌ NGHĨA QUÊN THÙ 12. TRỌNG NGHĨA HƠN TIỀN TÀI 13. CƠM PHIẾU MẪU 14. NGƯỜI CHÍNH TRỰC 15. CÂU TRẢ LỜI CƯƠNG TRỰC 16. NGƯỜI CƯƠNG TRỰC KHÔNG SỢ CHẾT 17. HÃY ĐƯA TÔI TRỞ VỀ HANG ĐÁ 18. KHÔNG THIẾT VÀNG CHẲNG SỢ VOI 19. LỜI NÓI THẲNG CỦA ANNIBAN 20. NGUỒN GỐC TẾT MỒNG BA THÁNG BA 21. THẾ NÀO LÀ TRI KỶ 22. LƯỢNG CẢ BAO DUNG 23. CỨU NGƯỜI ĐÃ KẾT ÁN CHẶT CHÂN MÌNH 24. CỨU NGƯỜI ĐÂU PHẢI VÌ LỢI 25. LIỀU CHẾT THEO THẦY HỌC ĐẠO 26. DŨNG CẢM HƠN NGƯỜI 27. MỘT EM BÉ GAN DẠ 28. PHẢI CHĂNG LÀ TÀ THUẬT 29. ALẾCHXĂNG ĐẠI ĐẾ SỐNG GIẢN DỊ 30. TIN Ở BẠN 31. CÙNG CHỊU KHÁT VỚI QUÂN LÍNH 32. LÀM GƯƠNG CHO TƯỚNG SĨ 33. NHƯỜNG GHẾ CHO LÍNH 34. HẬU ĐÃI GIA QUYẾN KẺ ĐỊCH 35. TRỌNG SÁCH 36. CŨNG ƯỚC LÀ ĐIÔGIEN 37. KHÔNG GIỮ ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC TRỌN ĐỜI 38. MỘT LỜI DÍ DỎM TAI HẠI 39. NÓI NGỌT DỄ NGHE 40. THẾ NÀO LÀ HẠNH PHÚC 41. CÓ GIỎI GIANG GÌ ĐÂU 42. ĐUA ĐÒI 43. ĐÁNG KIẾP TÊN PHẢN BỘI 44. BÀ MẸ BIẾT DẠY CON 45. TÌM THẦY DẠY CON 46. TỰ SÁT ĐỂ KHUYÊN CON 47. CHÚNG KHẨU ĐỒNG TỪ 48. CHỚ NÓI DỐI TRẺ 49. THẾ NÀO LÀ HIẾU 50. HIẾU VỚI MẸ 51. CỨU MẸ BẰNG SỮA CỦA MÌNH 52. VÌ HIẾU MÀ HẾT CÂM 53. MẸ ĐÁNH KHÔNG ĐAU MÀ KHÓC 54. NHÌN VẾT THƯƠNG NHỚ MẸ 55. CẢM HÓA ĐƯỢC NGƯỜI MẸ KẾ ÁC NGHIỆT 56. CON KHẢNG KHÁI, MẸ THẢO HIỀN 57. THẾ MỚI LÀ ANH 58. CHUNG TÌNH 59. THỦY CHUNG 60. XỨNG VỚI NGƯỜI CHỒNG ANH HÙNG 61. CẢI TẠO ĐẤT NƯỚC BẰNG LUẬT 62. MỘT NHÀ LÀM LUẬT CÔNG MINH VÀ DÂN CHỦ 63. MỘT TỤC LỆ DÂN CHỦ 64. NẾU KHÔNG AI BẰNG VUA 65. NHƯỜNG NGÔI 66. VIỆC CAI TRỊ TRONG NƯỚC NÊN THẾ NÀO 67. VÌ TỔ QUỐC TRÊN HẾT 68. QUÊN ĐAU KHỔ ĐỂ CỨU DÂN 69. CỨU NƯỚC TRÊN HẾT 70. SỢ CHÍNH QUYỀN HÀ KHẮC HƠN SỢ HỔ 71. CHỈ CÓ THỂ DỰA VÀO SỨC MÌNH 72. BÉ HẠT TIÊU 73. CON CHẲNG GIỐNG CHA 74. VỎ QUÝT DÀY CÓ MÓNG TAY NHỌN 75. AI NGU 76. CẦU CHO BẠO CHÚA SỐNG LÂU 77. ĂN THUỐC BẤT TỬ MÀ LẠI CHẾT Ư 78. ĐỐI XỬ VỚI BINH LÍNH 79. KHÔNG THẮNG TRỘM 80. ĐỐI XỬ VỚI ĐỊCH 81. ĐÁNH THÌ ĐÁNH NHƯNG HÃY NGHE TÔI ĐÃ 82. MỘT ÔNG QUAN THANH LIÊM 83. HAI THỨ CỦA BÁU 84. KHÔNG NHẬN CÁ TỨC LÀ CÓ CÁ ĂN LÂU DÀI 85. NGƯỜI TÙ ĐƯỢC KÍNH TRỌNG 86. CHỐNG XA XỈ 87. TRỪ BỌN MÊ TÍN HẠI DÂN 88. KHÔNG TIN TƯỚNG SỐ NỮA 89. TÔ TẦN DẠY KHÉO 90. CAN KHÉO 91. LỜI KHEN CÓ SỨC THUYẾT PHỤC 92. SỞ VƯƠNG MẤT CUNG 93. NGƯỜI CHĂN CỪU QUÂN TỬ 94. VÌ NƯỚC NHÀ CHỊU KHUẤT 95. NGƯỜI LÁI TRÂU YÊU NƯỚC 96. DÙNG ĐÀN KHUYÊN VUA 97. NUỐT THAN ĐỂ TRẢ THÙ CHO CHỦ 98. THA THỨ CHO TÊN PHẢN BỘI 99. MẤT LÒNG DÂN THÌ MẤT NƯỚC 100. BIA KỶ NIỆM CATÔNG LỜI NÓI ĐẦU Các cụ ta nói: “Ôn cố tri tân”, có nghĩa là ôn cái cũ biết được cái mới. Tôi rất tâm đắc câu đó, vì qua những gương sáng của lịch sử, ta soi vào sẽ biết được lẽ phải chăng, mà cố tự rèn luyện mình và giúp cho người khác tu dưỡng. Chính vì thế mà năm 1943, tôi đã soạn bộ sách Những trang sử vẻ vang để nêu lên những gương anh hùng của ông cha chúng ta. Ngày nay, những đảo lộn trong thế giới tác động sâu sắc đến các tầng lớp nhân dân ta, gây nên những tác hại lớn về mặt luân thường đạo lí, đến nỗi hằng ngày trên báo chí,… ta đọc thấy những tin đáng đau lòng, như con đánh chết mẹ, vợ đầu độc chồng, học trò chửi cô giáo, bè bạn chém giết nhau, nạn tham nhũng tràn lan, công dân phản Tổ quốc… Là một nhà giáo, tôi vô cùng lo lắng trước những ảnh hưởng xấu xa đối với thế hệ mới lớn lên. Đọc lại những trang sử cũ của nhân loại từ Đông sang Tây trong thời kì cổ đại, tôi thấy yên tâm và tin tưởng vào con người với những tấm gương chói lọi. Tôi thầm nghĩ: Những gương sáng đó sẽ giúp cho mỗi người khi soi vào có thể hoặc tu tỉnh, hoặc cố vươn lên những đỉnh cao của đạo làm người. Vì thế tôi soạn tập 100 mẩu chuyện cổ Đông Tây này, lựa chọn một trăm truyện kể về những mẫu người tiêu biểu trong cổ sử của Hi Lạp, La Mã và Trung Quốc, những cái nôi của văn minh nhân loại. Trong tập này, những người và tên đất Hi Lạp, La Mã, tôi xin dịch theo phiên âm tiếng Pháp, còn tên người và tên đất Trung Quốc thì tất nhiên phiên âm là những từ Hán – Việt. Để kết thúc Lời nói đầu ngắn ngủi và chân thành này tôi mong mỏi rằng các bạn độc giả thân mến sẽ có những ý nghĩ tương tự như những lời phát biểu sau đây của nhà sử học Hi Lạp Phulacơ khi viết về những tinh hoa của lịch sử: “Tôi khắc sâu vào tâm hồn tôi kỉ niệm và hình ảnh của những người đạo đức nhất, lừng lẫy nhất: nếu trong sự giao thiệp với những người tôi buộc phải cùng sống mà khiến tôi có những định kiến xấu xa, đồi bại, không xứng đáng với con người có danh dự, thì tôi cố gắng gạt đi, trừ bỏ đi; tôi sẽ làm cho tưởng mình êm dịu và trong sáng bằng cách nghĩ đến những mẫu mực trọn vẹn về đạo lí và đức độ”. Cuối cùng tôi xin tỏ lời chân thành cảm tạ đồng chí Từ Kính Đàm đã cho tôi mượn nhiều tư liệu quý. Tháng 8 năm 1991 NGUYỄN LÂN 1. VÌ SỰ NGHIỆP, PHẢI SỐNG Họ Tư Mã đời đời làm sử quan. Đến đời nhà Hán, Tư Mã Đàm làm Thái sư lệnh. Trên đường đi theo Hán Vũ Đế, Tư Mã Đàm mắc bệnh nặng. Trước khi từ trần, ông cầm tay con là Tư Mã Thiên mà dặn rằng: – Tổ tiên ta đời đời làm sử quan. Sau khi cha chết, thế nào con cũng phải nối nghiệp làm thái sử. Tư Mã Thiên là một người thông minh tuyệt vời, đã đọc thiên kinh vạn quyển và đã đi chu du khắp nước Trung Hoa, để hiểu biết non sông và nắm bắt mọi sự việc. Vâng lời cha, ông thay cha làm Thái sử lệnh và chuẩn bị viết bộ Sử kí, thực hiện hoài bão lớn lao của người cha. Năm 99 trước Công nguyên, Hán Vũ Đế sai quân vào đánh Hung nô. Một người quen biết Tư Mã Thiên là Lí Lăng đem năm nghìn quân vào biên giới Hung nô, bị tám vạn quân địch bao vây. Suốt mười ngày liền Lí Lăng chỉ huy cuộc chiến đâu, giết hơn vạn quân địch, nhưng cuối cùng, quân sĩ chết hầu hết lại bị chặn đường về, Lí Lăng phải hàng giặc. Vũ Đế nổi giận, muốn giết cả nhà Lí Lăng. Tư Mã Thiên biết tài đức của Lí Lăng, mạnh dạn tâu với nhà vua, bênh vực Lí Lăng. Vũ Đế càng giận, lại nghe lời bọn quần thần, sai bắt giam Tư Mã Thiên và giao cho pháp quan luận tội. Cuối cùng ông bị khép vào tội coi thường nhà vua và bị cung hình (tức là bị thiến). Hồi đó có phép lấy tiền chuộc tội: chỉ cần năm mươi vạn đồng tiền là chuộc được tội chết. Nhưng Tư Mã Thiên nghèo, thanh bạch, không có tiền chuộc, đành phải chịu hình phạt nhục nhã ấy. Uất ức quá, đã có lần ông định tự vẫn. Nhưng ông lại nhớ đến lời trối trăng của cha ông và nghĩ đến quyển Sử kí ông đương viết. Nên ông đành sống để không trái lời cha dặn và nhất là để hoàn thành sự nghiệp cao cả: ghi lại lịch sử của dân tộc kéo dài trên ba nghìn năm từ thời Hoàng Đế cho đến đời Hán Vũ Đế. Quyển Sử kí của ông là một bộ sử vĩ đại trong những bộ sử của nhân loại. 2. MỘT TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC SÁNG NGỜI Vào thế kỉ thứ IV trước Công nguyên, có một người mà gương đạo đức còn sáng ngời mãi mãi trong lịch sử nhân loại. Đó là Phôxiông. Hồi nhỏ, ông từng được học các triết gia Phatông và Đênôcrát ở học đường Acađêmi. Theo lời dạy của các thầy, ông đã tự rèn luyện những đức tính đạo đức mà ông giữ đến trọn đời. Suốt đời, ngay những lúc chỉ huy một đạo quân hùng cường hay được cử đứng đầu Nhà nước, ông vẫn giữ được một cuộc sống đạm bạc đến mức khốn khổ, một tác phong giản dị và một đức liêm khiết tuyệt vời. Khi ông cầm quân ra trận, ông thường đi chân đất và nếu thấy ông khoác áo măng tô thì binh lính kháo nhau rằng trời rét lắm đấy. Người ta không thấy ông cười hay khóc, lúc nào mặt cũng đăm chiêu nghĩ ngợi và khi cần phát biểu thì nói rất ngắn gọn và rất sắc, đến mức nhà hùng biện Đêmôxten phải khâm phục. Một lần vua Alếchxăng gửi tặng ông một trăm đồng tiền vàng, ông hỏi những người đem tiền đến là vì sao trong toàn dân thành Aten, nhà vua lại chỉ tặng ông tiền. – Vì nhà vua thấy chỉ có ông là người đức hạnh và trọng danh dự. – Vậy thì các ông về trình với đức vua là tôi sẽ giữ được như thế cho đến trọn đời. Thấy ông không nhận tiền, những người của Alếchxăng theo ông về tận nhà. Đến ngôi nhà lụp xụp, họ ngạc nhiên thấy vợ ông đang ngồi nhào bột, còn ông thì ra giếng tự kéo nước rửa chân. Mấy người đó thấy vậy, yêu cầu ông nhận tiền và nói rằng không thể để một người bạn của nhà vua sống cực khổ như thế. Ngay lúc đó có một ông lão nghèo đi qua, quần áo bẩn thỉu, nhếch nhác. Phôxiông hỏi: - Các ông thấy tôi khổ hơn ông cụ này ư? - Đâu có thế? - Vậy mà ông cụ vẫn sống thản nhiên. Cho nên tôi không nhận số tiền này. Nó không có ich gì cho tôi. Vả lại nếu tôi dùng nó thì tôi chẳng còn xứng đáng với nhà vua nữa. Alếchxăng vô cùng bực tức trước sự từ chối của Phôxiông và viết thư cho ông nói rằng ai không nhận gì của mình thì không đáng là bạn của mình nữa. Phôxiông trả lời là không thể nhận quà tặng của nhà vua và chỉ xin nhà vua tha tội cho bốn người dân Aten đương bị cầm tù. Alếchxăng đã chuẩn y ngay. Alếchxăng lại cho người đến tặng cho Phôxiông một trong bốn tỉnh ở châu Á mà Phôxiông có thể tự chọn. Mặc dù biết Alếchxăng không bằng lòng. Phôxiông vẫn cương quyết không nhận! Sau khi Alếchxăng qua đời, người thay quyền nhà vua là Ăngtipate vì nể Phôxiông đã giao cho một người bạn của ông là Mêninluýt cai trị một miền ở Aten. Để trả ơn Phôxiông, người này đem biếu Phôxiông một số tiền lớn. Ông đã nói: - Mêninluýt chẳng hơn gì Alếchxăng, vậy tôi không có lí gì nhận tiền của Mêninluýt khi đã không nhận của Alếchxăng. Mêninluýt đáp: - Ông chẳng nhận cho ông thì nhận cho con ông vậy. Phôxiông trả lời: - Nếu con tôi giống tôi thì nó thừa hưởng gia tài của bố nó, còn nếu nó không giống tôi thì số tiền này cũng chẳng thấm gì. Mêninluýt đành đem tiền về. 3. ĐỨC ĐỘ CỦA MỘT VỊ ANH HÙNG Một trong hai vị anh hùng mà Phuytáccơ coi là có đạo đức trong sáng nhất là Pôluýt Temililuýt (*). Khi còn là thanh niên, Pôluýt đã vượt hẳn những người cùng tuổi bằng những đức tính công minh, thẳng thắn, tự tin, khi đã nhận công việc gì làm, thì tận tâm đạt đến mục đích cuối cùng. Khi làm tướng cầm quân, ông yêu cầu quân lính phải giữ kỉ luật thật nghiêm và phải chịu khó rèn luyện. Bản thân ông luôn luôn là một gương sáng của họ. Hồi đó, Tây Ban Nha thuộc quyền cai trị của La Mã. Vì có những cuộc nổi loạn, Pôluýt được cử sang bình định. Sau khi đã ổn định được tình hình của hai trăm năm mươi thành phố, ông trở về La Mã, không đem về một đồng xu nhỏ. Ông cũng được cử sang bình định xứ Liguyri ở Tấy Bắc nước Y. Ông đem tám nghìn quân sang đánh nhau với một đạo quân gồm bốn mươi nghìn người. Nhưng nhờ tài thao lược của ông. Ông đã đánh tan đạo quân đó, hiểu được nhân dân Liguyri và chinh phục được lòng tin của họ. Vào thế kỉ thứ II trước Công nguyên, xứ Maxêđoan hùng cường trước kia trong thời Alếchxăng Đại Đế, đã có một tên vua gian tham và keo kiệt là Pécxê. Pécxê đánh cướp một bộ phận thuỷ quân La Mã rồi câu kết với người Gôloa và một số dân tộc khác định tiến quân vào nước Ý. Lúc đó Pôluýt đã gần sáu mươi tuổi. Dân chúng yêu cầu ông giữ quyền chấp chính. Ông từ chối vì cho rằng mình đã già. Nhưng dân chúng đến tận nhà nài ông ra cầm quyền để chống lại Pécxê. Ông đành phải nhận. Ông đem quân sang xứ Maxêđoan. Tên vua hèn hạ Pécxê lại có một đạo quân rất lớn gồm bốn nghìn kị binh và gần bốn mươi nghìn lục quân. Cuộc chiến đấu cũng gian khổ, nhưng nhờ tài thao lược của Pôluýt, ông đã thắng hoàn toàn và làm chủ được thành Maxêđoan. Pécxê hèn hạ, sợ chết, xin được vào yết kiến Pôluýt. Pécxê quỳ xuống đất và hôn đầu gối Pôluýt. Ông đã nói với Pécxê rằng: – Anh đã làm giảm giá trị thắng lợi của người La Mã, vì đã chiến thắng một kẻ địch hèn hạ, đáng khinh. Nói rồi, ông cho Pécxê đứng dậy và giao người đưa Pécxê đến sống ở một nơi yên ổn với gia đình. Ông cho gọi đến dưới trướng của ông những sĩ quan trẻ, trong đó có con trai và con rể của ông. Họ vào, thấy ông ngồi yên lặng, vẻ mặt trầm tư. Một lúc lâu sau, ông nói với họ rằng chỉ trong một thời gian ngắn, quân đội La Mã đã đánh bại được đạo quân hùng hậu của Pécxê và làm chủ cả cơ nghiệp huy hoàng xưa kia của Alếchxăng đại đế, thí có nên kiêu căng không? Cần phải rút kinh nghiệm mà nghĩ đến những gì còn chờ đón mình ở tương lai, không nên quá vội tự hào. Đó là một bài học khiêm tốn ông đã dạy cho con cái ông và những bạn trẻ của họ. Sau chiến thắng, ông đi thăm các vùng ở Hi lạp. Đi đến đâu ông cũng phủ dụ dân chúng, lấy của kho phát cho dân nghèo và yêu cầu các quan chức phải giữ gìn trật tự và an ninh. Người dân Hi Lạp đều ca tụng tinh thần bao dung rộng lượng, nhất là tính liêm khiết của ông. Ông chỉ cho phép mấy người con của ông trong quân đội lấy một số sách trong thư viện của nhà vua, và không đụng đến những châu báu trong các kho tàng đầy ắp của Maxêđoan. Ông trả lại cho người Hi lạp đất đai của họ, tuyên bố là các thành phố của họ được hoàn toàn tự do và cai trị theo pháp luật của họ. Khi trở về La Mã, ông được đồng bào đón tiếp trọng thể và được giao chức Ngự sử. Ông luôn luôn làm tròn nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm rất cao. Song vì tuổi cao, lại mang bệnh, ông đã từ chức và theo lời khuyên của các thầy thuốc, ông về sống ở Êlê một thành phố ở bờ biển nước Ý. Nhân dân rất tôn kính ông, mỗi lần có hội hè đều mời ông tham dự. Năm 160 trước Công nguyên, ông đã từ trần. Nhân dân La Mã và Maxêđoan thương tiếc ông vô cùng. Ông mất đi, nhưng tiếng thơm của vị anh hùng có đức độ cao siêu còn sáng ngời mãi mãi trong lịch sử. 4. VUA CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI Vào thế kỉ thứ IV trước Công nguyên, vương quốc Maxêđoan (ở phía bắc Hi Lạp hiện nay) có một vị vua hùng mạnh, đã đánh đông dẹp bắc, uy danh lừng lẫy. Đó là quốc vương Philíp. Mặc dầu ngai vàng vững chắc, thần dân quy phục, nhưng ông vua này vẫn luôn luôn nghĩ rằng ở cương vị chúa tể của mình, mình dễ tự phụ mà mắc những sai lầm đáng tiếc, nên ông đã ra lệnh cho một người hầu cận là sáng sáng, khi ông thức dậy thì đến trước long sang dõng dạc nhắc một câu : – Hỡi đức vua Phi líp, nhà vua cũng chỉ là người. Sự cảnh giác đối với bản thân như thế thực đẹp biết bao !. 5. PHẢI TỰ BIẾT MÌNH Trong nước Hi Lạp cổ, có một họa sĩ trứ danh tên là Apen. Ông yêu nghệ thuật, mê hội họa, có tinh thần khiêm tốn, sẵn sàng tiếp thu những lời phê bình đối với những tác phẩm của ông. Muốn được biết những nhận xét của quần chúng đối với những bức họa của mình, ông thường đem bày ở ngoài phố, rồi núp ở phía sau, để nghe những lời bình phẩm của những người qua đường. Một lần, ông bày một bức tranh vẽ một kị sĩ cưỡi ngựa. Bỗng có một anh thợ giày đi qua, dừng lại xem tranh. Anh ta thấy chiếc dép của kị sĩ vẽ không đúng, liền tỏ ý chê. Tối hôm đó, họa sĩ đã sửa ngay rồi lại bày tranh ra. Ngày hôm sau, anh thợ giày lại đi qua, thấy học sĩ đã sửa, lấy làm tự hào. Anh tưởng minh cũng có tài phê bình. Anh liền chê lung tung, từ kị sĩ đến con ngựa. Họa sĩ nghe anh ba hoa, bực mình quá, phải đứng ra nói : – Này anh thợ giày, xin đừng nói thêm nữa vì anh chẳng hiểu gì cả ! 6. KHÔNG AI DÁM NHẬN LÀ BẬC HIỀN NHÂN Một hôm, mấy anh thanh niên ở thành Milô trên bờ biển Êgiê đương đi chơi thì thấy một ông lão đương kéo vó. Họ bèn nghĩ ra một trò chơi là trả tiền trước cho một ông lão và hẹn là vó kéo lên lần đầu được bao nhiêu họ lấy hết. Ông lão bằng lòng và thả vó xuống nước. Một lúc sau, kéo vó lên thì không phải là cá mà là một cái đồ trang sức có ba chân bằng vàng. Bọn thanh niên đòi lấy, ông lão không nghe, cho rằng họ chỉ mua cá mà thôi. Hai bên cãi nhau. Dân địa phương kéo đến và bảo họ phải đi hỏi bà đồng thờ thần Apolông ở Đenphơ. Bà đồng bảo họ đem biếu cho người nào là bậc hiền triết giỏi nhất. Lúc bấy giờ ở Hi Lạp có bảy nhà thông thái nổi tiếng về đạo đức cũng như về kiến thức. Trước hết, họ đem biếu nhà triết học kiêm toán học Talét. Nhưng triết gia tự cho là không xứng đáng là bậc hiền nhân, nên giới thiệu người thứ hai, người này giới thiệu người thứ ba, lần lượt đến người thứ bảy. Cả bảy nhà triết học đều không dám nhận là bậc hiền nhân giỏi nhất. Cuối cùng, mọi người khuyên đem đến thờ ở đền Apolông và nói rằng chỉ có thần thánh mới xứng đáng là bậc hiền cao cả nhất !. 7. QUYẾT CHÍ Năm 416 trước Công nguyên, vua nước Ngô là Hạp Lư đem quân sang đánh nước Việt, nhưng quân Ngô bị thua, Hạp Lư bị trúng tên. Khi sắp chết, Hạp Lư dặn lại con là Phù Sai phải trả thù cho cha. Phù Sai quyết chí làm theo lời cha, nên cho người đứng ở giữa sân, để mỗi khi Phù Sai đi qua thì người ấy nói to: - Hỡi Phù Sai, nước Việt giết cha anh mà anh quên ư ? Phù Sai liền trả lời: - Vâng, không dám quên đâu ! Ba năm sau, quả Phù Sai đánh được nước Việt. Vua nước Việt là Câu Tiễn, nghe lời khuyên của Phạm Lãi, xin nhận làm bề tôi của vua Ngô. Nhưng trong lòng vẫn quyết chí phục thù. Hằng ngày Câu Tiễn chất củi gai làm giường nằm và treo ở trước mặt một cái mật đắng, khi ăn nếm mật rồi mới ăn. Một mặt bản thân cùng vợ con chịu khó lao động, mặt khác tôn trọng và biệt đãi những người có tài, cứu giúp những người nghèo. Trong hai mươi năm, Câu Tiễn không lúc nào quên chuyện rửa thù. Khi đã thấy lòng dân theo mình, và tình thế nước Ngô bê bối, Câu Tiễn đem quân tiến đánh nước Ngô. Quân Ngô thua, Câu Tiễn lập lại cơ đồ. Như thế là vì quyết chí Phù Sai trả thù được cho cha, nhưng cũng vì quyết chí mà Câu Tiễn lấy lại được đất nước. 8. CÓ CHÍ TRỞ THÀNH HÙNG BIỆN Trong nước Hi Lạp cổ đại, quần chúng thường tụ họp ở quảng trường để nghe các nhà chính trị trình bày ý kiến của họ, rồi có quyền biểu quyết tán thành hay không ý kiến của diễn giả. Nhà chính trị Đêmôxten muốn hô hào quần chúng đấu tranh cho nền dân chủ, nhưng ông lại có những khuyết tật như nói ngọng, nói lắp, nói nhỏ. Ông quyết tâm rèn luyện giọng nói của mình để thuyết phục được quần chúng. Muốn thế, ông đã tự nhốt mình vào trong một hầm kín, tự gọt rửa đầu để khỏi ra ngoài, rồi cố đọc thật to những bài thơ đã thuộc, luyện giọng, rèn lối phát âm, ra sức tránh nói lắp và tập những cử chỉ thích hợp với lời nói. Sau ba tháng đã có tiến bộ, ông ngậm trong miệng những viên sỏi, rồi vừa chạy trên sườn đồi hoặc bãi biển, ông vừa hét to những lời dõng dạc, để át tiếng gió gào và tiếng sóng gầm. Nhờ có ý chí kiên cường, ông đã trở thành nhà chính trị hùng biện nhất của Hi Lạp ở thế kỉ thứ IV trước Công nguyên. 9. MUA ĐƯỢC NGHĨA Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề thời Chiến quốc. Mạnh Thường Quân nhà rất giàu, lại có tiếng là người nghĩa hiệp. Nhà ông luôn luôn có nhiều khách, gồm những người nghĩa sĩ. Phùng Huyên người nước Tề, làm thực khách ở cửa Mạnh Thường Quân. Một hôm, Mạnh Thường Quân đưa sổ bộ ra hỏi các thực khách xem có người nào biết về việc kế toán, nhờ qua đất Tiết (thuộc Sơn Đông ngày nay), là phong ấp của Thường Quân, để thu các mối nợ, thì xin ký tên vào sổ. Phùng Huyên nhận sổ ký tên, rồi thưa : “Huyên nguyện đi.” Trước khi đi, họ Phùng hỏi: “Thu nợ xong rồi có cần mua vật gì?” Mạnh bảo: “Xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về.” Phùng Huyên đến đất Tiết, cho người thuộc lại mời tất cả những người thiếu nợ đến đông đủ, rồi truyền rằng Mạnh Tướng quốc ra lịnh xóa bỏ tất cả số nợ. Và, để cho mọi người tin tưởng, Phùng đem đốt hết những văn khế nợ. Dân đất Tiết vui mừng, tung hô vạn tuế. Khi họ Phùng trở về, Thường Quân lấy làm lạ cho là đòi nợ cách gì mà mau chóng thế, mới hỏi: - Thu nợ xong phải không? - Thu xong cả. - Có mua gì về không? - Khi đi, Tướng công có bảo: nên mua những vật gì trong nhà còn thiếu. Tôi trộm nghĩ trong bụng Tướng công chất chứa những đồ trân bảo, ngoài chuồng nuôi đầy chó ngựa, nhà sau la liệt những mỹ nhân, vậy vật mà Tướng công còn thiếu, chưa có là điều Nghĩa, nên tôi trộm lịnh mua điều Nghĩa đem về. Thường Quân nghe nói không bằng lòng, nhưng bỏ qua, chẳng nói lại gì. Về sau, vua Tề không dùng Mạnh làm Tướng quốc nữa, phải về đất Tiết ở. Bấy giờ bá tính đất Tiết, nghe tin, nhớ đến ơn xưa, trai gái già trẻ rủ nhau đến đón rước đầy đường, hoan hô nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh quay lại Phùng Huyên mà bảo rằng: - Tiên sinh vì tôi mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy!. 10. TÌNH VÀ NGHĨA Tướng nước Tề đưa quân sang đánh nước Lỗ. Khi đến biên giới, quân lính thấy một người phụ nữ một tay ẵm một đứa bé, một tay dắt một đứa bé khác. Nhưng quân tiến nhanh quá, người phụ nữ kia đặt đứa bé trên tay xuống và ẵm đứa bé đương dắt để chạy nhanh vào rừng. Đứa bé bị bỏ lại vừa chạy theo vừa khóc ầm ĩ. Viên tướng nước Tề cho bắt người phụ nữ và hỏi : - Đứa bé chị đương ẵm chạy là con ai, còn đứa bé chị bỏ lại là con ai ? - Đứa bé tôi ẵm chạy là con anh cả tôi, còn cháu bé tôi đành bỏ lại là con tôi. Khi quân lính kéo đến, tôi không thể nào đưa cả hai đứa đi, đành phải để con tôi lại. - Tình mẹ con là ruột thịt. Sao nàng nỡ bỏ con lại ? - Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công, mặc dầu tôi vô cùng đau xót. Viên tướng nước Tề liền tâu với vua Tề : - Ta mới đến biên cương mà đã thấy một mụ đàn bà nước Lỗ coi trọng nghĩa công hơn tình riêng. Như thế thì nước này không phải dễ mà xâm chiếm. Xin bệ hạ cho quân ta kéo về. Vua Tề cho là phải và cùng toàn quân trở lại. Vua nước Lỗ biết chuyện ấy, thưởng cho người phụ nữ và phong cho hai chữ “Nghĩa cô”. 11. VÌ NGHĨA QUÊN THÙ Đời Đường, có hai ông quan đều có tài là Quách Tử Nghi và Lí Quang Bật. Hai người cùng làm phó tướng cho An Tử Thuận. Nhưng tính khí hai người khác hẳn nhau. Họ lại còn ghét nhau nữa, đến mức gặp nhau không thèm chào, cùng ngồi một xe hoặc cùng dự tiệc một bàn mà không nói với nhau một câu nào. Thiên hạ cho rằng họ là tử thù của nhau. Đến khi Quách Tử Nghi được cử làm tướng thay cho An Tử Thuận, Lí Quang Bật phải ở dưới quyền. Thời đó một vị tướng quốc có quyền sinh, quyền sát đối với người khác. Quang Bật rất lo cho gia quyến mình, liền quyết tâm đến nói với Tử Nghi. – Tôi với ngài vốn có cựu hiềm. Phần tôi dù chết cũng cam tội. Nhưng xin ngài rộng lượng đừng sát hại vợ con tôi. Quách Tử Nghi nghe nói thế, chạy đến nắm tay Lí Quang Bật và nói rằng : – Xin ông đừng nghĩ quẩn, tôi không oán thù gì ông. Hiện nay nước nhà đương loạn lạc. Tôi mong ông vui lòng cộng tác với tôi để yên lòng dân, vì nghĩa lớn… Sau đó, Tử Nghi cử Quang Bật làm Tiết độ sứ, một chức vụ quan trọng. Quang Bật xúc động và hối hận, hết lòng giúp Tử Nghi đáng giặc và trị nước. 12. TRỌNG NGHĨA HƠN TIỀN TÀI Đời Tống có một ông tể tướng tên là Phạm Trọng Yêm nổi tiếng là người trọng nghĩa hơn tiền tài. Ông quyền cao chức trọng mà cuộc sống vẫn thanh đạm, suốt đời chỉ chăm lo đến việc cứu giúp những người nghèo trong thiên hạ. Chính ông đã thực hiện khẩu hiệu “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Có một lần ông sai con là Thuần Nhân chở một thuyền có năm trăm thúng thóc về quê giúp dân. Trên đường về, Thuần Nhân vào thăm một người bạn cũ của cha là Thạch Mãn Khanh đương trong cảnh cùng quẫn vì vừa gặp ba cái tang một lúc, lại có hai người con gái lớn tuổi mà không có chồng, chẳng biết nương tựa vào đâu. Thuần Nhân liền giúp cho cả năm trăm thúng thóc. Khi trở về kể chuyện cho cha. Phạm Trọng Yêm nói: – Sao con không cho nốt cả cái thuyền? Thuần Nhân đáp: – Thưa cha, con cũng đã tặng cả chiếc thuyền rồi. Phạm Trọng Yêm khen: – Có như thế con mới xứng là con ta. 13. CƠM PHIẾU MẪU Hàn Tín lúc hàn vi vì nghèo phải ăn bám vào một số người, nên không ai ưa. Tín thường đến ăn nhờ ở nhà một người đình trưởng. Nhưng cứ ăn không, người ta cũng ghét. Một hôm Tín đến nhà đình trưởng, thấy vợ người này ngồi trên phản ăn cơm, chị ta không cho Tín ăn. Tín buồn rầu ra đi. Hằng ngày Tín ra cái hang ở dưới thành câu cá, nhưng chẳng được là bao, nên bị đói. May có một bà giặt vải trông thấy, thương tình, bà nhường cho một phần cơm của bà trong nhiều ngày. Đến khi bà giặt hết vải, Tín cảm ơn bà và nói : – Sau này, cháu sẽ đền ơn bà xứng đáng. Bà ta trả lời : – Tôi thấy cậu đói, nên mới cho ăn, chứ mong gì cậu báo đáp đâu. Ít lâu sau, Hàn Tín theo Hạng Lương, rồi Hạng Vũ, nhưng không được trọng dụng. Tín bèn sang đất Hán. May gặp được thừa tướng Tiêu Hà. Thừa tướng giới thiệu với vua Hán. Hàn Tín được Hán Vương tin yêu và phong cho làm đại tướng. Lúc vinh hiển, Hàn Tín nhớ đến ơn bà giặt vải (phiếu mẫu : bà mẹ giặt vải), quay về, biếu bà nghìn lạng vàng. Do đó có câu : “Bát cơm phiếu mẫu, trả ơn nghìn vàng”. 14. NGƯỜI CHÍNH TRỰC Arixtít là một tướng có tài của thành quốc Aten. Sau khi chiến thắng vẻ vang quân xâm lược Ba Tư ở Maratông, ông có những ý kiến bất đồng với Têmixtôclơ nên bị đi đày. Nhưng khi quân Ba Tư lại đem đại đội binh mã đến xâm lược Hi Lạp lần nữa, ông cấp tốc trở về, nói với Têmixtôclơ rằng : – Ông vẫn có thể không đồng ý với tôi, nhưng trước mắt phải cứu Tổ quốc đã. Têmixtôclơ giàn hoà với Arixtít và cùng nhau bàn việc đánh giặc. Trong trận đánh ở Platê, có sự tranh giành những phần đất chiếm được giữa người Aten và người Xpáctơ. Ông nói : – Chúng ta đến đây để bảo vệ Tổ quốc Hi Lạp, chứ không phải để tranh giành nhau. Ông yêu cầu quân đội Aten nhường nhịn quân đội Xpáctơ. Hai bên lại cùng nhau chiến đấu chống quân xâm lươc Ba Tư và đã lập được chiến công hiển hách ở Platê và ở Xalamin. Song sau đó, hai bên lại có xích mích. Arixtít lại ra sức giàn hoà để Aten và Xpáctơ phối hợp với nhau bảo vệ Tổ quốc chung là Hi Lạp. Ông đi đến đâu, người ta cũng đều nghe theo lẽ phải. Cả hai bên đều giao cho ông soạn những điều kiện của một hiệp định đồng minh. Ông đã nêu lên nhiệm vụ chung là bảo vệ đất nước Hi Lạp nhưng mỗi thành quốc vẫn giữ quyền độc lập về mặt nội trị. Mọi người đều đồng ý. Ông đã đi đến các miền của cả hai thành quốc, hô hào nhân dân đóng góp để xây dựng một quỹ chung của toàn Hi Lạp. Mọi người đều hưởng ứng và cả hai thành quốc đều giao cho ông quản lí quỹ chung ấy. Ông tỏ ra hết sức trung thực đến mức cả người Aten và người Xpáctơ đều đặt cho ông cái tên là “Người chính trực”. Đức độ của ông còn sáng ngời trong lịch sử Hi Lạp. 15. CÂU TRẢ LỜI CƯƠNG TRỰC Đơnít cha là tên bạo chúa ở đảo Xixin. Có lần, Đơnít ngỏ ý muốn kết hôn với con gái của Arixtít người bạn của triết gia Platông. Arixtít nói : – Thà chết chứ không thể gả con gái cho một tên bạo chúa. Để trả thù, Đơnít cha ra lệnh giết hết những con cái khác của Arixtít và hỏi ông có còn giữ ý kiến là không gả con gái cho mình không ? Arixtít trả lời : – Ta thất vọng về việc mi đã làm, nhưng ta không hối hận về lời ta đã nói. 16. NGƯỜI CƯƠNG TRỰC KHÔNG SỢ CHẾT Trong thời Xuân Thu, ở nước Tề, quyền bính ở trong tay một tên quyền thần là Thôi Trữ. Thôi Trữ muốn hạ sát vua Trang Công để lên ngôi báu. Thôi Trữ liền họp các quan trong triều lại để ăn thề. Mọi người đều sợ hãi vâng theo. Riêng có Án Anh, một sĩ phu cương trực, nhất quyết không tán thành. Thôi Trữ lấy lời dụ dỗ và đe dọa Án Anh : "Ngươi theo ta, ta sẽ chia cho nửa đất nước, bằng không ta sẽ giết ngươi". Trước mặt bọn quân lính lăm lăm gươm giáo, Án Anh vẫn bình tĩnh nói : - Lấy lợi mà dụ người ta làm điều phản bội là bất nhân. Lấy giáo mác mà dọa cho người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, chứ ta không chịu khuất kẻ bất nhân, bất dũng. Nghe lời nói khảng khái và cương trực như thế, Thôi Trữ không dám sát hại Án Anh. Án Anh ung dung đứng dậy và lững thững bước ra. 17. HÃY ĐƯA TÔI TRỞ VỀ HANG ĐÁ Ở thế kỉ thứ V trước Công nguyên, trên đảo Xixin có một tiểu quốc tên là Xiraquydơ – một xứ đẹp và trù phú, nhưng nhân dân đau khổ dưới ánh thống trị của hai cha con tên bạo chúa Đơnít. Độc ác nhất là tên Đơnít cha. Đơnít cướp ngôi từ năm 25 tuổi và trị vì trong 38 năm. Đó là một thời kì gieo nhiều tai vạ cho nhân dân xứ ấy: bóc lột mọi người đến xương tủy và vơ vét mọi của cải cho đầy túi tham, tàn sát những người chống đối lại. Một lần y muốn lấy một người con gai của Arixtít, người bạn của triết gia Platông. Biết tin ấy Arixtít đã thẳng thắn trả lời : “Thà chết chứ không thể gả con gái cho một bạo chúa!”. Thế là sau một thời gian, Đơnít đã giết toàn bộ các con của Arixtít. Bất kể người nào Đơnít nghi là phản y đều ra lệnh giết ngay. Trong cuộc chơi đánh quần, y giao thanh bảo kiếm cho một người hầu cận. Một người đứng đó nói đùa : – Ngài không sợ anh ta dùng bảo kiếm giết ngài ư ? Nghe nói thế, người hầu cận mỉm cười. Tên bạo chúa ra lệnh xử tử cả hai người : một người vì đã chỉ cách cho người hầu cận giết y, một người đã mỉm cười hình như tán thành ý đó. Đơnít lại còn làm thơ và muốn mọi người phải ca tụng thi phẩm của mình. Một hôm, trong một bữa tiệc thết những thương nhân trong nước, y đọc một bài thơ mới làm và hỏi ý kiến thi sĩ Philôxen. Nhà thơ đã nói thẳng ý kiến của mình, làm cho cử tọa cười ồ. Đơnít liền ra lệnh đầy Philôxen ra một cái hang đá là nơi dùng làm ngục. Mấy tháng sau, cũng trong một bữa yến tiệc, tên bạo chúa nhớ đến Philôxen, cho người đi mời ông về dự. Cuối bữa tiệc, Đơnít lại đọc một bài thơ mới sáng tác và hỏi ý kiến của nhà thơ. Thi sĩ bình tĩnh nói : – Hãy đưa tôi trở về hang đá ! 18. KHÔNG THIẾT VÀNG CHẲNG SỢ VOI Piruýt là vua xứ Epirơ ở Hi Lạp, đem quân sang đánh La Mã. Người La Mã cương quyết chống cự. Sau một số trận, hai bên đều bắt được một số tù binh. Piruýt cử một phái đoàn sang phía La Mã đề nghị giảng hòa, nhưng vẫn đóng quân trên đất Ý. Nghị viện La Mã cũng cử một phái đoàn cho nghị sĩ Phabrixiuýt sang thương thuyết để đòi quân đội Hi Lạp phải trở về nước. Khi Phabrixiuýt đến nơi, Piruýt đón tiếp nồng hậu và tặng một số vàng. Phabrixiuýt không nhận. Ngày hôm sau, muốn đe dọa phái bộ La Mã, Piruýt vì biết rằng người La Mã chưa được biết con voi, một động vật khổng lồ, nên bố trí một con voi đến nơi sẽ bàn bạc, nhưng giấu nó sau một tấm thảm. Khi Phabrixiuýt ngồi yên chỗ thì tấm thảm được kéo lên, con voi giơ vòi lên đầu Phabrixiuýt và rống lên một tiếng kinh hồn. Phabrixiuýt bình tĩnh nói với Piruýt : – Hôm qua vàng của ngài không khiến tôi cảm động còn hôm nay con voi của ngài cũng chẳng có tác dụng gì hơn. 19. LỜI NÓI THẲNG CỦA ANNIBAN Anniban là một tướng giỏi của Cáctagiơ, ở gần thành phố Tunis hiện nay, và là kẻ thù không đội trời chung của quân đội La Mã trong thế kỉ thứ III trước Công nguyên. Sau khi thắng quân La Mã ở Cannơ, ông bị triệu hồi về Cáctagiơ, rồi ông bị thất bại nặng nề, phải chạy sang giúp vua Ăngtiôcốt ở nước Xiri, cũng là người chống đối người La Mã. Ăngtiôcốt xây dựng một đạo quân lớn để đi đánh quân La Mã. Một hôm, ông dẫn Anniban đến duyệt đội quân ấy, gồm những binh lính ăn mặc sang trọng với những đồ trang sức bằng vàng bạc sáng ngời, những kị binh oai vệ cưỡi những con ngựa đóng yên nạm bạc rực rỡ, những cỗ xe đầy ắp gươm giáo choáng lộn… Với con mắt của một vị tướng dày kinh nghiệm, Anniban cảm thấy đội quân ấy không có khí thế chiến đấu. Nhưng Ăngtiôcốt lại rất tự hào về đội quân hào nhoáng của mình, nên hỏi Anniban : – Anh xem đạo quân này có đẹp không, liệu đã đủ đánh bại được quân La Mã chưa ? Anniban chậm rãi trả lời : – Rất đủ cho người La Mã, dù họ có tham lam vơ vét đến mức nào. 20. NGUỒN GỐC TẾT MỒNG BA THÁNG BA Trùng Nhĩ là công tử nước Tấn, em là Tấn Huệ Công, sợ anh trở về cướp ngôi sai người đi mưu sát, Trùng Nhĩ cùng một số người tâm phúc, trong đó có Giới Tử Thôi, chạy trốn ra nước ngoài. Đi đường họ bị kẻ gian cướp hết vàng bạc, châu báu. Không có lương ăn, thầy trò vừa chạy vừa bị đói. Có kẻ tùy tùng nói : “Hay là ta vào các thôn xóm cướp lấy lương ăn”. Trùng Nhĩ can rằng : – Cướp phá như thế là đạo tặc. Chẳng thà chết đói còn hơn. Những người đi theo vào rừng kiếm rau hoang về ăn, nhưng Trùng Nhĩ không nuốt được và người cứ lả đi. Bỗng Giới Tử Thôi đem dâng một bát cháo thịt. Trùng Nhĩ ăn thấy ngon miệng, mới hỏi Tử Thôi : – Anh lấy đâu được thịt thế này ? Tử Thôi trả lời : – Tôi nghe nói : người con hiếu bỏ thân mình để thờ cha mẹ, người trung thần bỏ thân vì chúa. Nay công tử đói, tôi cắt thịt đùi nấu cháo dâng lên. Trùng Nhĩ ứa nước mắt mà rằng : – Ơn này biết bao giờ đền được ! Rồi thầy trò cũng đến được nước Tề. Sau chuyến bôn ba ở một số nước, Trùng Nhĩ lấy lại được ngôi báu, lên làm vua, hiệu là Tấn Văn Công. Tấn Văn Công ban thưởng chức tước cho những người có công phục quốc. Giới Tử Thôi vốn người điềm đạm, liêm khiết, thấy những kẻ chung quanh ỷ thế làm xằng, khinh bỉ chúng, nên cáo ốm, rút lui về quê, yên phận nghèo, khâu giày thuê, lấy tiền nuôi mẹ. Mẹ Giới Tử Thôi nói với con : – Con khó nhọc theo giúp Trùng Nhĩ. Nay Tấn Văn Công ban thưởng cho những người tòng vong, sao con không ra nhận ơn mưa móc. Tử Thôi nói : – Con đã không muốn làm quan thì vào yết kiến làm gì ? Bà mẹ nói : – Con đã là người trọng liêm sỉ lẽ nào mẹ lại tỏ ra không xứng đáng với con ? Tử Thôi mừng quá, cõng mẹ vào sống ở một cái hang trong rừng sâu, săn hái nuôi mẹ. Khi có người báo tin ấy cho Tấn Văn Công, nhà vua hối hận, cho người đi tìm kiếm Giới Tử Thôi. Được biết Giới Tử Thôi đã cõng mẹ vào sống trong rừng, nhưng tướng sĩ đi tìm không thấy. Tấn Văn Công cho rằng Tử Thối vốn là người có hiếu, nếu đốt rừng chắc ông sẽ đem mẹ ra. Do đó nhà vua ra lệnh đốt cả khu rừng. Sau ba ngày, cả khu rừng bị cháy hết. Quân lính tìm thấy thi hài hai mẹ con Giới tử Thôi ôm nhau chết thiêu dưới một gốc cây. Tấn Văn Công ứa nước mắt khóc, truyền cho mai táng trọng thể và lập đền thờ. Cảm phục lòng khảng khái của Giới Tử Thôi, nhân dân trong nước lấy ngày hôm ấy là ngày mồng ba tháng ba, làm ngày không đốt lửa nấu ăn, mà chỉ ăn đồ lạnh. Từ đó, ngày mồng ba tháng ba là tiết hàn thực. 21. THẾ NÀO LÀ TRI KỶ Lịch sử Trung hoa có kể hai cặp bạn tri kỉ. Đó là Chung Tử Kì với Bá Nha và Bảo Thúc Nha với Quản Di Ngô tức Quản Trọng. Chung Tử Kì là người thời Xuân Thu, bạn tri âm của một nhạc sĩ giỏi là Bá Nha. Một hôm, Bá Nha đánh đàn cho Tử Kì nghe. Khi đàn, Bá Nha nghĩ đến núi, Tử Kì khen là tiếng đàn vòi vọi như núi cao; đến khi Bá Nha đàn mà nghị đến dòng sông, thì Tử Kì khen là tiếng đàn như cuồn cuộn như nước sông. Bá Nha cho rằng hiểu được mình chỉ có Tử Kì. Cho nên, khi Tử Kì từ trần, Bá Nha đập đàn đi, không gẩy nữa ! Bảo Thúc Nha và Quản Di Ngô là hai người bạn từ lúc hàn vi. Đi buôn với nhau, khi chia lãi, bao giờ Bảo Thúc cũng để cho Quản Trọng nhận phần hơn, vì biết rằng Quản Trọng có mẹ già và gia đình quẫn bách. Khi Quản Trọng chịu nhịn trước sự doạ nạt của bọn côn đồ, Bảo Thúc Nha không chê là nhát vì hiểu rằng Quản Trọng có bụng bao dung. Quản Trọng ba lần ra trận bị thua, ba lần làm quan bị giáng, Bảo Thúc Nha không chê là bất tài vì hiểu rõ hoàn cảnh. Chính Bảo Thúc đã hiểu được tài năng của Quản Trọng, nên đã tiến cử Quản Trọng cho Tề Hoàn Công. Đến khi Bảo Thúc Nha chết, Quản Trọng khóc như mưa và nói rằng : “Sinh ta là cha m ẹ, hiểu rõ ta là Bảo Thúc Nha”. 22. LƯỢNG CẢ BAO DUNG Một buổi tối, Vua Trang Vương nước Sở thời Chiến Quốc, đãi tiệc rượu cho bá quan. Vua tôi đang ngà ngà say thì một ngọn gió mạnh thổi tắt hết đèn nến. Lúc đó, một viên quan kéo áo người cung nữ đúng bên cạnh. Người cung nữ liền giật đứt cái dải mũ của viên quan ấy rồi đến tâu với vua : – Có một viên quan kéo áo ghẹo thiếp, thiếp giật được dải mũ của anh ta. Xin bệ hạ cho thắp đèn nến lên, kẻ nào mất dải mũ là kẻ đã ngạo mạn ghẹo thiếp. Vua Trang Vương cười và nói : – Cho người ta uống rượu say thì người ta quên cả lễ phép. Đoạn vua phán : – Hôm nay trẫm muốn mọi người đều say đến đứt cả dải mũ thì mới thực là vui. Các quan đều răm rắp dứt dải mũ của mình. Khi đèn nến thắp lại, mũ ai cũng không còn dải nên không biết là ai đã ghẹo cung nữ. Hai năm sau, có cuộc chiến tranh giữa nước Sở và nước Tấn. Cuộc chiến đấu rất găng, Trang Vương nhận thấy ở bên cạnh mình có một võ quan xông xáo đánh rất hăng và luôn luôn che chở cho vua. Kết quả quân Sở đã thắng. Trang Vương cho đòi viên quan võ ấy lại hỏi : – Trẫm đối với nhà ngươi cũng như đối với mọi người khác, sao trong cuộc chiến đấu vừa qua, nhà ngươi rất dũng cảm che chở cho trẫm đến cùng ? Người võ quan thưa : – Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần là Tưởng Hùng, người trước kia đã dại dột kéo áo cung nữ, bị giật dải mũ. May nhờ bệ hạ không nỡ trị tội, nên kẻ hạ thần chỉ chờ dịp để báo đền ơn trời biển. Thực là may cho kẻ hạ thần. Vua Trang Vương thấy rõ là việc bao dung của mình đã được báo đáp. 23. CỨU NGƯỜI ĐÃ KẾT ÁN CHẶT CHÂN MÌNH Trong thời Xuân Thu ở nước Vệ có một vị quan chuyên xét việc ngục hình, tên là Quý Cao. Có một lần Quý Cao đã phải kết án chặt chân một người. Về sau, nước Vệ có nội loạn, các quan chức phải chạy trốn, trong số đó có Quý Cao. Khi chạy đến cổng thành, thì thấy người giữ cổng lại là người mà trước kia Quý Cao đã kết án chặt chân. Không ngờ chính người đó lại tìm mọi cách cứu thoát Quý Cao. Sau khi thoát nạn, Quý Cao hỏi người giữ cổng thành: - Trước kia, tôi theo phép nước kết án chặt chân anh, nay tôi gặp nạn, sao anh lại chỉ lối cho tôi trốn? Người giữ cổng trả lời: - Tôi có tội, theo phép nước, đáng bị chặt chân. Nhưng khi ông luận tội, tôi thấy ông đã tìm cách nới tay để làm nhẹ tội cho tôi. Lúc tôi bị chặt chân, tôi thấy nét mặt ông buồn rầu, bứt rứt. Tôi thấy rõ tấm lòng của một bậc quân tử, nên tôi cứu ông. Nghe chuyện ấy, Khổng Tử khen Quý Cao là người dùng pháp luật mà có lòng nhân từ. Thực ra người đáng khen hơn Quý Cao chính lại là người giữ cổng thành mà lịch sử chẳng để lại tên tuổi. 24. CỨU NGƯỜI ĐÂU PHẢI VÌ LỢI Vì muốn báo thù cho cha bị Sở Bình Vương giết, Ngũ Tử Tư bỏ nước Sở sang nước Ngô. Vua Sở ra lệnh : "Ai bắt được Ngũ Tử Tư sẽ được trọng thưởng". Ngũ Tử Tư bị quân Sở đuổi, phải bỏ chạy, giữa đường gặp một con sông. May sao dưới sông có một chiếc thuyền đánh cá. Cụ lái đò chở Ngũ Tử Tư qua sông. Khi đến bờ bên kia, Tử Tư cởi thanh kiếm nói : - Thanh kiếm này đáng giá trăm lạng vàng, xin biếu cu. Cụ ngư ông trả lời : - Theo lệnh nước Sở, ai bắt được Ngũ Tử Tư thì được thưởng năm vạn thạch lúa và cho hưởng tước quan to. ta biết anh là Ngũ Tử Tư, muốn cứu anh, chứ cái kiếm của anh có nghĩa lí gì. Ngũ Tử Tư vô cùng cảm động trước thái độ cao thượng của ông cụ đánh cá. 25. LIỀU CHẾT THEO THẦY HỌC ĐẠO Có một thời, những người cầm quyền thành quốc Aten căm thù nhân dân nước láng giềng là Mêgarơ, đến mức quyết định hễ một người dân nào của nước này sang nước mình sẽ bị xử tử. Song thanh niên Mêgarơ cũng như thanh niên Aten rất mê triết gia Xôcrát, một ông thầy có phương pháp giảng dạy độc đáo gọi là phương pháp “đỡ đẻ”, tức là bằng những câu hỏi, ông khiến học trò tự mình tìm ra chân lí về các vấn đề đạo đức mà ông cho là mục đích chủ yếu của triết học. Ông không dạy bằng sách vở và chẳng để lại một tác phẩm nào. Nhưng đồ đệ của ông thì rất đông, trong số đó có những triết gia lỗi lạc như Platông, Xênôphông, Arixtôphan là những người đã ghi lại những lời dạy của ông. Thanh niên Mêgarơ sang học ông, nếu bị bắt thì phải chết. Ấy thế mà họ vẫn cứ liều chết mà đến với thầy. Trong số họ, có Ơcơlít (*), cứ khi màn đêm phủ xuống Ơcơlít khoác một áo dài và trùm một cái khăn, giả làm phụ nữ trốn sang nghe Xôcrát giảng dạy, rồi đến gần sáng lại trở về Mêgarơ. Chính vì thanh niên tha thiết học Xôcrát, mà chính quyền Aten không tán thành và kết án ông là đã làm hư hỏng thanh niên. Họ bắt ông phải uống nước cây độc cần. Cho đến phút cuối cùng ông vẫn bình tĩnh trò chuyện thản nhiên với môn đệ, không tỏ ra một chút gì là sợ hãi. ---------- (*) Không phải là nhà toán học trùng tên sống sau đó một thế kỉ. 26. DŨNG CẢM HƠN NGƯỜI Một người xứ Tétxali đem đến bán cho vua Philíp nước Maxêđoan một con ngựa rất khỏe và đẹp mã, tên là Buxêphan. Nhà vua sai kị mã thử cưỡi ngựa, nhưng không ai trèo được lên lưng nó. Trong số quần thần có một vài người cũng thử mà không được. Cứ sờ đến ngựa là nó cất vó và đá. Philíp cho là con ngựa bất kham và không muốn mua. Thái tử Alếchxăng tâu rằng : - Con ngựa này đẹp quá, không mua thì uổng. Xin phụ vương cho con thử cưỡi. Vua Philíp cũng ngại, nhưng Alếchxăng năn nỉ nên nhà vua phải ưng. Cả triều thần cũng lo sợ. Khi những người khác thử ngựa, Alếchxăng đã chú ý theo dõi và thấy rằng con ngựa ấy có chứng sợ bóng của nó dưới đất. Trong khi con ngựa còn đương thở hồng hộc, thái tử lấy lời lẽ ngọt ngào dỗ dành và lấy tay vuốt ve nó. Khi thấy ngựa đã thuần, thái tử bèn cầm lấy dây cương, kéo cho đầu ngựa quay về phía mặt trời, rồi nhảy lên lưng nó. Thái tử gò cương thật chặt, nhưng không đánh, không thúc. Khi thấy con ngựa như muốn chạy thì buông lỏng cương, thét lên một tiếng, lấy gót chân thúc vào bụng ngựa và cho chạy nước đại. Vua Philíp và đình thần lo ngại, hồi hộp. Đến khi thái tử cho ngựa quay về, mặt mày hớn hở, nhà vua và triều thần cả mừng, vỗ tay khen. TừđóBuxêphantrởthànhconngựaquícủaAlếchxăngvàđãtheo chàngđixungtrậnkhắpnơi. 27. MỘT EM BÉ GAN DẠ Ở xứ Maxêđoan xưa, có tục lệ là khi nhà vua làm lễ tế thần, phải có một cậu bé con nhà quý phái đứng bên cạnh dâng hương, giơ cao một bình hương có than hồng. Chẳng may, trong một buổi lễ, khi Hoàng đế Alếchxăng đương hành lễ, một cục than đỏ rơi xuống cánh tay em bé cầm bình hương. Than đốt cháy da thịt xèo xèo, mùi khét xông lên. Em bé đau dữ dội, nhưng để cho buổi lễ giữ được tính nghiêm trang, em bé cắn răng chịu đựng, không nhúc nhích. Buổi lễ kết thúc, nhà vua ôm em bé, ca ngợi tinh thần dũng cảm của em, xứng đáng với một dân tộc anh hùng. 28. PHẢI CHĂNG LÀ TÀ THUẬT Ở nước La Mã cổ có một người nông dân nguyên là nô lệ đã được giải phóng. Anh ta chỉ có một thửa ruộng nhỏ, nhưng mùa nào lúa má của anh cũng rất tốt và gia đình anh cũng gặt hái được những vựa thóc đầy ắp. Trong khi đó, thì những nhà hàng xóm tuy có ruộng nương rộng gấp nhiều lần mà mùa màng thì thất bát thảm hại. Ai nấy đều ghen ghét anh và cho rằng anh đã dùng những tà thuật ma quái lấy hết chất màu mỡ ở ruộng người khác về ruộng nhà mình. Người ta làm đơn kiện anh và bắt anh phải ra toà. Hôm ra hầu tòa, anh đem theo cả vợ con, người nào người nấy đều khoẻ mạnh, vạm vỡ, đồng thời anh dắt theo mấy con bò béo tốt và những lưỡi cày sắc bén, những bàn cuốc to và nặng, rồi anh trình toà rằng : – Đây là những tà thuật của tôi, tiếc rằng còn có những thứ có thể làm chứng cho tôi mà tôi không thể phô bày ở đây được. Đó là công lao một nắng hai sương, đó là những giọt mồ hôi đổ ròng ròng, đó là những gánh phân đêm đêm chúng tôi phải đem ra đổ ruộng… Trước những chứng cớ rành rành, toà án phải tha bổng cho anh. 29. ALẾCHXĂNG ĐẠI ĐẾ SỐNG GIẢN DỊ Là một vị đại đế, đánh đông dẹp bắc, bách chiến bách thắng, thế mà Alếchxăng luôn luôn giữ được một nếp sống thanh đạm. Có một bà chịu ơn ông là nữ vương Ađa xứ Cari gửi đến những thực phẩm cao quý và sai những người nấu bếp giỏi đến làm bánh cho ông ăn. Nhưng Alếchxăng đã cảm tạ và từ chối. Sáng nào, ông cũng dậy thật sớm, đi bộ hàng giờ rồi mới về ăn sáng, nên ăn rất ngon miệng. Thức ăn bữa trưa và bữa tối cũng rất đơn giản. Ông ra lệnh cho người hầu cận không được cho ông nằm gường đệm quá êm, quá ấm, vì cho là như thế sẽ hư thân đi. Những khi dân địa phương dâng thịt, cá, hoặc sơn hào hải vị, ông đều ban cho quần thần cả. Vì sống thanh đạm, nên ông rất khỏe. Có lần ông đã vật nổi một con sư tử, nên sứ thần nước Xpáctơ đã nói : – Bệ hạ tranh đế vị với sư tử, thật vinh quang quá. 30. TIN Ở BẠN Trên đường đi đánh nước Ba Tư, Alếchxăng bị ốm nặng. Các quan ngự y thấy bệnh nguy cấp, không dám bốc thuốc vì sợ trách nhiệm. Riêng có thầy thuốc Philíp là người được Alếchxăng tín nhiệm, nghĩ rằng nếu sợ trách nhiệm mà không chữa cho nhà vua thì không đành, nên đã dùng một phương thuốc rất mạnh, một là sẽ thành công, hai là đành chịu tội. Thấy Philíp bốc thuốc, một kẻ vốn không ưa ông viết một bức sớ dâng Alếchxăng nói rằng Philíp đã nhận mật ước với địch để đầu độc nhà vua, sau này sẽ được thưởng nhiều vàng ngọc và được kết duyên với công chúa Ba Tư. Alếchxăng đọc tờ mật sớ, chẳng nói với ai, chỉ bỏ xuống dưới gối. Khi Philíp sắc thuốc xong đem vào dâng cho Alếchxăng uống. Nhà vua một tay đưa cho Philíp bức mật sớ, một tay cầm bát thuốc và uống một hơi. Song thuốc quá mạnh, nên vừa uống khỏi miệng, thì Alếchxăng bất tỉnh nhân sự. Philíp tiếp tục săn sóc nhà vua. Một lúc sau, Alếchxăng tỉnh dậy rồi cố gắng đứng lên cho quần thần trông thấy. Mọi người đều mừng rỡ. Khi biết chuyện, ai nấy đều kính phục lòng tin bạn của nhà vua. 31. CÙNG CHỊU KHÁT VỚI QUÂN LÍNH Alếchxăng cùng với đội kị binh đi qua một bãi sa mạc, ròng rã trong mười một ngày rồi. Trời nắng như thiêu như đốt, cát nóng bốc lên làm cho khó thở. Nước đem theo đã hết, mọi người đều khát đến bỏng cả cổ. Bỗng có hai người dân Maxêđoan dắt đến một con la mang một thùng nước. Một người múc nước vào một cái mũ sắt dâng lên cho Alếchxăng. Alếchxăng hỏi nước ấy đem đi đâu. Họ trả lời : - Nước này chúng tôi kiếm được từ xa, đem về cho lũ con đương lả đi vì khát. Nhưng nhà vua cũng khát, xin để Người uống trước. Alếchxăng cầm lấy chiếc mũ, nhưng thấy tướng sĩ đều ngoảnh cổ nhìn một cách thèm thuồng, ông liền trả mũ nước và nói : - Trẫm không thể uống một mình, trong khi toàn quân đương khát. Cảm ơn lòng tốt của các người. Các ngươi hãy mau mau đem nước về cho các cháu nhỏ. Thấy nhà vua cũng nhịn khát, tướng sĩ đếu cảm phục và thúc ngựa tiến nhanh về phía trước. 32. LÀM GƯƠNG CHO TƯỚNG SĨ Alếchxăng tiến quân vào nước Ba Tư với một nghìn kị binh và một số đông lục quân. Hồi đó đương là mùa đông. Vì không thông thạo địa hình, đạo quân đã tiến vào một triền núi, lại phải đi qua một vùng cả năm có tuyết. Vì lạnh quá, tuyết đã đóng thành băng (rắn như đá). Quân lính rét run cầm cập, lại bị những mảnh băng cứa vào chân. Họ tưởng đương dắt nhau vào chỗ chết, nên mất hết dũng khí. Nhìn thấy thế, Alếchxăng không những chẳng quở mắng họ, mà còn tự mình xuống ngựa, đi bộ qua những đám băng, tay cầm một cái cuốc chim, vừa đi vừa chặt những mảnh băng sắc. Các tướng lĩnh noi gương chủ tướng cũng xuống ngựa đi theo. Quân lính nhìn thấy thế, không thể chùn bước. Do đó chẳng bao lâu, đạo quân đã vượt khỏi thung lũng đóng băng và đến một nơi đã có dân cư sinh sống. Thế là nhờ gương dũng cảm của nhà vua mà cả đạo quân đã vào sâu được nước Ba Tư sau ba mươi ngày gian khổ. 33. NHƯỜNG GHẾ CHO LÍNH Trong cuộc tiến quân vào miền Tây Bắc nước Ấn Độ, đạo quân của Alếchxăng phải trải qua một giai đoạn đầy thử thách, vì đương là mùa đông, lại có một đợt rét như chưa từng có bao giờ. Nhiều binh lính đã chết vì rét. Vua Alếchxăng một mình xông xáo khắp nơi, tập họp lại những người đi tản mạn, thấy người nào ngã thì đỡ dậy và khuyên nhủ họ cố gắng bước tới. Gương sáng của nhà vua đã kích thích được toàn quân. Một hôm trong khi tướng sĩ chuẩn bị dựng trại đóng quân, Alếchxăng ngồi sưởi trước đám lửa trại, trên một cái ghế mà người ta vẫn đem theo để ông ngồi. Bỗng nhà vua nhìn thấy một người lính đương cố lết đi và sắp ngã xuống, ông vôi vàng chạy lại, xốc anh ta lên rồi kéo vào đám lửa trại, cho anh ta ngồi trên ghế của mình. Một lúc sau được sưởi ấm, anh tỉnh ra. Thấy mình ngồi trên ghế của nhà vua, anh sợ hãi đứng dậy. Alếchxăng bảo anh ta cứ ngồi sưởi, rồi nói rằng : - Anh đã thấy sự khác biệt giữa anh và lính Ba Tư chưa ? Nếu họ mà ngồi lên trên ghế của vua họ, thì họ mất đầu, còn anh thì chính trẫm để cho anh ngồi trên ghế của trẫm. Cử chỉ đó của Alếchxăng đã khiến cho cả đạo quân cảm động. 34. HẬU ĐÃI GIA QUYẾN KẺ ĐỊCH Sau khi đại thắng quân Ba Tư khiến vua Ba Tư là Đariuýt phải chạy trốn, Alếchxăng vào thành Itxút, chiếm toàn bộ kho tàng. Trong số tù binh bị bắt, có cả mẹ, vợ và hai con gái của Đariuýt. Những người này tưởng rằng Đariuýt đã chết, nên than khóc ầm ĩ. Alếchxăng động lòng thương, cho người ra báo với họ là Đariuýt chưa chết chỉ chạy trốn mà thôi. Ông ra lệnh cho tướng tá đưa các bà hoàng và công chúa vào ở riêng một cung cấm, với những thị tì hầu hạ và tất cả những tiện nghi trong cuộc sống. Ông cấm quân lính không được bén mảng đến nơi cung cấm. Những người phụ nữ Ba Tư này rất đẹp. Khi Alếchxăng đến thăm họ, bao giờ cũng giữ lễ độ và tự kiềm chế, tuy rằng ông đã nói: "Những phụ nữ Ba Tư là một cái khổ cho con mắt". Chính vì thế mà mẹ, vợ và con gái của Đariuýt rất biết ơn ông. Sau này, khi biết tin Alếchxăng từ trần, bà mẹ của Đariuýt khóc lóc thảm thiết và nhịn ăn cho đến chết. 35. TRỌNG SÁCH Khi Alếchxăng chiếm được thành Gada, kinh đô nước Xi Ri lúc bấy giờ, tướng sĩ thấy trong số châu báu ở trong kho, có một cái tráp rất quý. Tướng sĩ đem đến trình nhà vua. Alếchxăng cũng trầm trồ khen ngợi và hỏi quần thần : - Ta nên đựng gì trong cái tráp này cho thực xứng đáng ? Mọi người đều tâu mỗi người một ý. Sau cùng Alếchxăng nói : - Theo ý trẫm, chỉ có một thứ đáng đựng trong tráp ấy. Đó là quyển Iliát, vì quyển này đã giúp cho trẫm và toàn quân bách chiến bách thắng. 36. CŨNG ƯỚC LÀ ĐIÔGIEN Điôgien, một triết gia Hi Lạp trong thế kỉ thứ IV trước Công nguyên, là người coi khinh mọi tài sản vật chất, đến mức hằng ngày chỉ sống trong một cái thùng gỗ. Một hôm, nhân dân Hi Lạp hội họp ở eo biển Côranhtơ, để hoan nghênh người anh hùng Alếchxăng. Các danh sĩ trong vùng đều đến yết kiến đủ mặt. Riêng có triết gia Điôgien không đến. Alếchxăng thân chinh đến thăm ông. Khi quan quân, ngựa xe ầm ầm kéo đến, Điôgien đương nằm sưởi nắng. Alếchxăng tiến tới chào và hỏi có muốn điều gì chăng. Điôgien bình tĩnh trả lời : – Có, tôi chỉ muốn anh tránh ra, đừng che lấp bóng nắng của tôi. Lúc ra về, các tướng theo hầu tỏ vẻ bực tức và cho Điôgien là gàn dở, là bất lịch sự. Alếchxăng nghe thấy, phát biểu rằng : - Nếu trẫm không phải là Alếchxăng thì cũng ước gì được là Điôgien. 37. KHÔNG GIỮ ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC TRỌN ĐỜI Alếchxăng đại đế, một vị anh hùng vĩ đại của cổ Hi Lạp, ngay từ nhỏ đã ra sức rèn luyện một thể lực cao cường, một ý chí sắt đá, một cuộc sống bình dị, những đức tính cao quý như hiếu thảo với mẹ, nhân hậu với kẻ thù, đồng cam cộng khổ với chiến hữu, đã xây dựng được một sự nghiệp lớn lao, vang lừng trong lịch sử cổ đại từ năm 334 đến năm 323 trước công nguyên. Ấy thế mà sau khi thất vọng vì quân lính không chịu theo mình vượt Hằng Hà để chinh phục Ấn Độ, phải quay trở về thành Babilon. Con người giàu đức tính cao cả ấy, từ trước vẫn coi khinh những cuộc truy hoan, lại sinh ra đam mê tửu sắc, say đắm trong những cuộc vui vật chất tầm thường, đến mức làm cho sức khỏe phi thường của mình cứ giảm sút dần dần, rồi cuối cùng mang bệnh và chỉ trong mười ngày, đã phải trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 33. Ôi! Một bậc vĩ nhân của lịch sử, chỉ vì thất vọng trong bước tiến của mình mà đã kết thúc cuộc đời một cách sa đọa như thế !. 38. MỘT LỜI DÍ DỎM TAI HẠI Trong một cuộc chiến đấu, vua Philíp của quốc gia Maxêđoan đương cho quân bao vây thành địch là Mêtôn. Có một tay thiện xã giỏi bắn cung là Atxte ra mắt nhà vua để xin ở dưới trướng. Anh ta khoe là bắn trăm phát trăm trúng, dù một con chim đang bay mà anh ta bắn cũng phải rơi xuống. Vua Philíp dí dỏm trả lời: - Được rồi, khi nào trẫm đánh giặc chim sẻ, sẽ dùng nhà ngươi. Nghe câu đùa cợt ấy, Atxte căm tức. Anh ta liền trốn vào thành và chờ dịp trả thù. Một hôm đứng ở trên thành, anh nhìn thấy vua Philíp đi giám sát các công sự. Anh liền bắn một mũi tên có ghi dòng chữ "Gửi cho con mắt bên phải của Philíp". Mũi tên đã trúng đích. Nhà vua sai bắn trả vào trong thành chiếc tên có ghi một câu: "Nếu Philíp hạ được thành thì Atxte sẽ bị treo cổ". Đúng là tay thiện xạ đã bị xử giảo. Thế là Philíp vì một câu dí dỏm mà bị mất một mắt. Còn Atxte vì muốn trả thù mà mất mạng. Đó là một bài học cho những người hay nhạo báng và cho những kẻ nặng lòng hiềm thù. 39. NÓI NGỌT DỄ NGHE Phôxiông là một vị tướng giỏi của Hy Lạp trong thế kỉ thứ IV trước Công nguyên. Hồi đó, các hòn đảo của Hy Lạp không chịu đóng thuế cho thành quốc Aten. Chính quyền cử Phôxiông đi thu thuế ở các đảo và cho đem theo hai mươi chiến thuyền. Phôxiông nói : - Nếu bảo tôi đi chiến đấu thì phải cho tôi một lực lượng lớn hơn. Nhưng nếu để tôi đi đến với những bạn đồng minh, thì tôi không cần đến những chiến thuyền ấy. Sau đó, ông chỉ dùng một chiếc thuyền nhỏ rồi chẳng cần nghi vệ gì, ông thân mật đến thăm từng đảo. Với những lời giản dị, ngọt ngào, ông trình bày mục đích chuyến đi thăm. Các đảo vui vẻ đóng thuế và cho nhiều thuyền bè chở theo tiền bạc. 40. THẾ NÀO LÀ HẠNH PHÚC Xôlông là một triết gia đồng thời là một nhà chính trị giỏi của thành quốc Aten trong thế kỉ thứ VI trước Công nguyên. Khi cầm quyền, ông đã khiến đồng bào ông, nhất là những người nghèo, được sống yên vui và ông đã đặt ra những đạo luật rất dân chủ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao, ông đã đi chu du nhiều nước như Ai Cập, đảo Síp và nhiều miền ở Á Châu. Nghe tiếng ông, Crêduýt vua xứ Lidi ở bờ biển Egiê mời ông đến thăm. Nhờ có mỏ vàng, Crêduýt là ông vua giàu nhất thời bấy giờ. Thủ đô của nhà vua ở Xácđô huy hoàng, lộng lẫy, với những lâu đài rực rỡ đầy những tác phẩm nghệ thuật hiếm hoi, cao quí. Khi tiếp Xôlông, Crêduýt mặc một cẩm bào dát đầy ngọc lóng lánh, rồi đưa vị khách đi thăm khắp nơi trong lâu đài, chỗ nào cũng đầy những của quý, vật lạ, lại cho dẫn Xôlông vào thăm các kho tàng chứa chan vàng bạc, ngọc ngà. Lúc Xôlông về ngồi nói chuyện, Crêduýt hỏi ông : – Theo ý ông, từ xưa đến nay, ông thấy người nào là người hạnh phúc nhất đời ? Xôlông trả lởi : – Đó là Tenluýt, một công dân bình thường của Aten. – Anh ta thế nào mà ông cho là hạnh phúc nhất. – Sống trong một thành phố thịnh vượng, ông ấy vẫn giữ nền nếp đạo đức và nhũn nhặn, đã hi sinh một cách vẻ vang khi chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Nghe thế, Crêduýt cho Xôlông là gàn, nhưng cũng cứ hỏi thêm xem ông ta có cho người hạnh phúc thứ hai là mình hay không. Xôlông lại nói : – Tôi biết hai anh em là Bitông và Clêôbít họ yêu thương nhau rất mực và có hiếu đối với mẹ. Một hôm bà mẹ muốn đi lễ đền thờ thần Juynông. Nhưng chờ bò đến chở xe cho mẹ không thấy, hai anh em liền thay bò kéo xe cho mẹ. Mọi người đều ca tụng hai người con hiếu thảo và khen bà mẹ thực là hạnh phúc vì đã có những người con như thế. Nghe xong, Crêduýt nổi nóng, hỏi : – Thế ông không cho trẫm là người hạnh phúc ư ? Xôlông chậm rãi trả lời : – Cuộc đời người ta thường thăng trầm, nên tôi không dám tin vào những của cải vật chất ở đời này. Sau đó Xôlông rút lui. Được ít lâu, cái mà Crêduýt cho là hạnh phúc đã tan tành : Con trai của nhà vua đi săn, gặp nạn chết. Rồi Xiruýt vua Ba Tư đem quân đến đánh xứ Lidi. Crêduýt bị bắt làm tù binh và bị kết án phải thiêu sống. Khi bước lên giàn thiêu, hai tay bị trói ra sau, trước mặt Xiruýt, Crêduýt đã kêu to ba lần : “Ôi ! Xôlông”. Xiruýt ngạc nhiên, hỏi : “Xôlông là ai ?” Crêduýt bèn kể lại những lời nói của Xôlông. Xiruýt khôn ngoan hơn vua Lidi, hiểu ngay lời nói của Xôlông và ra lệnh tha chết cho Crêduýt. 41. CÓ GIỎI GIANG GÌ ĐÂU Trần Nghiêu Tư đời nhà Tống nổi tiếng là người bắn cung giỏi, thường cũng lấy thế làm hãnh diện. Một hôm ông bắn cung trong vườn, có một ông lão bán dầu đi qua, đặt gánh dầu đứng xem. Ông lão thấy ông bắn mười phát thì trúng đích được tám, chín, gật đầu, mỉm cười. Trần Nghiêu Tư hỏi ông lão: – Ông thấy tôi bắn thế nào? Có giỏi không? Ông lã bình tĩnh trả lời: – Cũng thường thôi! Trần Nghiêu Tư tự ái, hỏi: – Thế ông cho tôi là bắn không giỏi à? Ông lão nói: – Ông hãy xem đây. Rồi ông đặt một cái chai dưới đất, để một đồng tiền lên miệng, và múc dầu trong thùng, rót vào chai qua lỗ đồng tiền. Ông rót đầy chai mà không dây một chút dầu nào ra đồng tiền cả. Ông thủng thỉnh nói: – Tôi cũng chẳng giỏi giang gì đâu. Chẳng qua là quen tay mà thôi. Trần Nghiêu Tư cảm thấy ngượng nghịu. Âu cũng là một bài học hay cho những kẻ tự phụ! 42. ĐUA ĐÒI Trang Chu trong sách Trang Tử có kể một câu chuyện về nàng Tây Thi, người phụ nữ đẹp nổi tiếng ở Trung Quốc xưa. Cái đẹp của Tây Thi đúng là cái đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nên Câu Tiễn muốn lấy lại nước đã dùng Tây Thi làm kế mĩ nhân để làm cho vua nước Ngô là Phù Sai phải say đắm. Song Tây Thi có chứng đau bụng. Mỗi khi cơn đau nổi lên thì nàng ôm bụng và nhăn mặt. Nhưng chính lúc nàng nhăn mặt, người ta lại cảm thấy nàng đẹp vô cùng và ca ngợi. Một người phụ nữ trong làng thấy thế cũng giả đau bụng và nhăn mặt. Nhưng những người trông thấy đều tưởng là ma quỷ hiện hình rồi bỏ chạy cả. Ngày nay không phải không có những kẻ đua đòi bắt chước mà chỉ mua cười cho thiên hạ. 43. ĐÁNG KIẾP TÊN PHẢN BỘI Một hôm, Phabrixiuýt lúc đó là một vị chấp chính của La Mã đương ở nơi đóng quân trong cuộc chiến đấu cứu quốc chống đội quân xâm lược của Piruýt, thì có người đem đến trình một bức thư của người thầy thuốc riêng của Piruýt. Trong thư, tên thầy thuốc đề nghị là sẽ đầu độc Piruýt, nếu phía La Mã trọng thưởng và như thế sẽ không còn phải kháng chiến nữa. Phabrixiuýt liền viết thư cho Piruýt một bức thông điệp trong đó có những câu: "Chúng tôi gửi cho ngài bức thư này của người thầy thuốc của ngài, để ngài thấy rằng ngài đương chiến đấu với những người chính trực và ngay thẳng, và ngài đương tin những kẻ xấu xa và phản bội. Chúng tôi cho ngài biết sự phản bội này không phải là mong ngài trả ơn, mà chính là để tránh lời dị nghị nói xấu chúng tôi là sẽ thắng ngài nhờ một sự phản bội". Nhận bức thông điệp, Piruýt cho bắt tên thầy thuốc, tra khảo và trị tội. Để trả ơn người La Mã, Piruýt trả hết tù binh, không đòi bồi thường gì và yêu cầu kí hòa ước. Phía La Mã cũng trả lại một số tương đương tù binh. Còn như nếu muốn kí hòa ước thì Piruýt phải rút hết quân về nước. 44. BÀ MẸ BIẾT DẠY CON Mạnh Kha khi còn nhỏ sống ở một ngôi nhà gần nghĩa địa. Một hôm bà mẹ thấy con đào đất, lăn khóc như những người trong các đám tang. Bà nghĩ bụng chỗ ấy không phải là nơi cho con con ở, nên đã dọn nhà đi. Nhưng lần này nhà lại ở gần chợ. Mạnh Kha thấy người buôn bán lừa đảo, cãi cọ nhau, cũng bắt chước cùng với những trẻ khác buôn bán, lừa đảo, cãi cọ. bà mẹ lại thấy không nên cho con ở chỗ ấy, nên đã dọn nhà đến ở gần một trường học. Mạnh Kha thấy học trò cắp sách đi học, chào thầy lễ phép, học tập ngoan ngoãn, Mạnh Kha cũng bắt chước những học trò ấy. Bà mẹ vui lòng, cho rằng chỗ mới này mới thực hợp với việc giáo dục con mình. Một buổi, Mạnh Kha thấy nhà hàng xóm mổ lợn, hỏi mẹ: – Người ta mổ lợn làm gì, hở mẹ ? Bà mẹ trả lời : – Để cho con ăn đấy. Nói thế, bà biết rằng đã lỡ lời, và muốn để con không nghĩ rằng mình nói dối, bà đã mua thịt lợn về cho con ăn. Từ đó bà khuyên nhủ con phải học tập cho ngoan. Một hôm, bà đương ngồi dệt vải thì thấy con bỏ học về nhà chơi, bà liền cầm dao cắt đứt tấm vải. Mạnh Kha thấy thế, hỏi mẹ: – Sao mẹ lại cắt vải đi ? Bà nói : – Con đang đi học mà bỏ học thì có khác nào mẹ đương dệt vải mà cắt vải đi ! Mạnh Kha hối hận và hứa với mẹ từ sau sẽ chăm chỉ học tập. Quả nhiên, nhờ sức học rộng và tài cao, Mạnh Kha đã trở thành một bậc hiền triết. Đó là Mạnh Tử, người mà các nhà nho sau này tôn là bậc á thánh. 45. TÌM THẦY DẠY CON Vua Philíp xứ Maxêđoan biết con mình là Alếchxăng rất thông minh, nhưng không thể dạy được bằng uy lực, phải dùng lí lẽ mới có thể thuyết phục. Nhà vua đã giao cho một số giáo quan dạy nhạc, dạy văn, nhưng không người nào có đủ tài đức để dẫn dắt người học trò dĩnh ngộ này. Năm 345 trước Công nguyên, nhà vua biên thư cho nhà hiền triết thông thái nhất thời ấy là Arixtốt, để nhờ dạy dỗ thái tử. Một khu vực rộng được dành riêng cho thầy trò trong việc giảng dạy. Alếchxăng chẳng những đã học được của ông thầy vĩ đại khoa luân lí, khoa chính trị, khoa vật lí, mà còn học được những khoa bí truyền cao siêu, trong đó có khoa chữa bệnh. Nhờ Arixtốt hướng dẫn, Alếchxăng đã hăng say học tập, ham đọc bộ Iliát và những bi kịch của Ơripít, của Étsin, của Xôphốclơ... Alếchxăng rất tôn kính Arixtốt, thường nói: "Yêu thầy như cha đẻ, vì cha thì nuôi dưỡng, còn nhờ có thầy mới biết cách sống ở đời cho phải đạo." 46. TỰ SÁT ĐỂ KHUYÊN CON Vương Lăng là người đất Bái, vừa có tài thao lược, vừa nổi tiếng là người con hiếu thảo đối với mẹ. Ngay từ lúc còn hàn vi, Lưu Bang, tức Bái Công, người sau này là Hán Cao Tổ, vua đầu tiên của nhà Tây Hán, đã rất quý Vương Lăng và coi như một bậc đàn anh. Sau khi nhà Tần bị tiêu diệt, Lưu Bang và Hạng Vũ tranh giành quyền thế. Vương Lăng đem quân bản bộ đi theo Lưu Bang. Hạng Vũ liền bắt giam mẹ Vương Lăng và yêu cầu bà khuyên con bỏ Lưu Bang mà về với Hạng Vũ. Khi sứ giả đến nói với bà mẹ Vương Lăng ý ấy, bà nói: - Hãy về nói với con tôi là một lòng theo Hán Vương, đừng vì già này mà sinh nhị tâm. Dứt lời, bà cầm gươm tự sát để Vương Lăng khỏi vì mẹ mà bỏ Lưu Bang. Cái chết của bà được lịch sử muôn đời ca ngợi.