🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 10 Vạn Câu Hỏi Vì Sao - Trái Đất - Nguyễn Văn Mậu full prc pdf epub azw3 [Tự Nhiên Học]
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Mười vạn câu hỏi vì sao là bộ sách phổ cập khoa học dành cho lứa tuổi thanh, thiếu niên. Bộ sách này dùng hình thức trả lời hàng loạt câu hỏi "Thế nào?", "Tại sao?" để trình bày một cách đơn giản, dễ hiểu một khối lượng lớn các khái niệm, các phạm trù khoa học, các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và con người, giúp cho người đọc hiểu được các lí lẽ khoa học tiềm ẩn trong các hiện tượng, quá trình quen thuộc trong đời sống thường nhật, tưởng như ai cũng đã biết nhưng không phải người nào cũng giải thích được.
Bộ sách được dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc do Nhà xuất bản Thiếu niên Nhi đồng Trung Quốc xuất bản. Do tính thiết thực, tính gần gũi về nội dung và tính độc đáo về hình thức trình bày mà ngay khi vừa mới xuất bản ở Trung Quốc, bộ sách đã được bạn đọc tiếp nhận nồng nhiệt, nhất là thanh thiếu niên, tuổi trẻ học đường. Do tác dụng to lớn của bộ sách trong việc phổ cập khoa học trong giới trẻ và trong xã hội, năm 1998 Bộ sách Mười vạn
câu hỏi vì sao đã được Nhà nước Trung Quốc trao "Giải thưởng Tiến bộ khoa học kĩ thuật Quốc gia", một giải thưởng cao nhất đối với thể loại sách phổ cập khoa học của Trung Quốc và được vinh dự chọn là một trong "50 cuốn sách làm cảm động Nước Cộng hoà" kể từ ngày thành lập nước.
Bộ sách Mười vạn câu hỏi vì sao có 12 tập, trong đó 11 tập trình bày các khái niệm và các hiện tượng thuộc 11 lĩnh vực hay bộ môn tương ứng: Toán học, Vật lí, Hoá học, Tin học, Khoa học môi trường, Khoa học công trình, Trái Đất, Cơ thể người, Khoa học vũ trụ, Động vật, Thực vật và một tập hướng dẫn tra cứu. Ở mỗi lĩnh vực, các tác giả vừa chú ý cung cấp các tri thức khoa học cơ bản, vừa chú trọng phản ánh những thành quả và những ứng dụng mới nhất của lĩnh vực khoa học kĩ thuật đó. Các tập sách đều được viết với lời văn dễ hiểu, sinh động, hấp dẫn, hình vẽ minh hoạ chuẩn xác, tinh tế, rất phù hợp với đọc giả trẻ tuổi và mục đích phổ cập khoa học của bộ sách.
Do chứa đựng một khối lượng kiến thức khoa học đồ sộ, thuộc hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, lại được trình bày với một văn
phong dễ hiểu, sinh động, Mười vạn câu hỏi vì sao có thể coi như là bộ sách tham khảo bổ trợ kiến thức rất bổ ích cho giáo viên, học sinh, các bậc phụ huynh và đông đảo bạn đọc Việt Nam.
Trong xã hội ngày nay, con người sống không thể thiếu những tri thức tối thiểu về văn hóa, khoa học. Sự hiểu biết về văn hóa, khoa học của con người càng rộng, càng sâu thì mức sống, mức hưởng thụ văn hóa của con người càng cao và khả năng hợp tác, chung sống, sự bình đẳng giữa con người càng lớn, càng đa dạng, càng có hiệu quả thiết thực. Mặt khác khoa học hiện đại đang phát triển cực nhanh, tri thức khoa học mà con người cần nắm ngày càng nhiều, do đó, việc xuất bản Tủ sách phổ biến khoa học dành cho tuổi trẻ học đường Việt Nam và cho toàn xã hội là điều hết sức cần thiết, cấp bách và có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân văn rộng lớn. Nhận thức được điều này, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam cho xuất bản bộ sách Mười vạn câu hỏi vì sao và tin tưởng sâu sắc rằng, bộ sách này sẽ là người thầy tốt, người bạn chân chính của đông đảo thanh, thiếu niên Việt Nam đặc biệt là học sinh, sinh viên trên con đường học tập, xác lập nhân cách, bản lĩnh để trở thành công dân hiện đại, mang tố chất
công dân toàn cầu.
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
1. Không khí bao quanh Trái Đất được hình thành như thế nào?
Hằng ngày ta sống trong bầu không khí, hít thở không khí, vậy thực chất không khí được hình thành như thế nào? Vấn đề này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thật đầy đủ, người ta đang cố gắng tìm hiểu và phát hiện thêm.
Người ta cho rằng, ban đầu khi Trái Đất từ tinh vân Mặt Trời ngưng kết lại thành một khối cầu lỏng lẻo, không khí không những đã bao trùm bề mặt Trái Đất mà còn hòa trộn vào bên trong. Khi đó trong không khí, thành phần nhiều nhất là hyđro, chiếm khoảng 90%. Ngoài ra còn có khá nhiều hơi nước, khí mêtan, amoniac, hêli và một số khí trơ khác, nhưng hầu như không có nitơ, oxi và khí cacbonic.
Về sau vì lực hút của tâm Trái Đất, khối cầu lỏng lẻo này co lại. Trong quá trình co lại, không khí bị ép, khiến cho nhiệt độ trong lòng đất tăng lên mạnh mẽ, không khí từ trong lòng đất khuếch tán ra không
trung. Khi Trái Đất nhỏ đến mức độ nhất định, tốc độ thu nhỏ chậm dần, nhiệt độ do hiện tượng co gây ra cũng giảm dần, Trái Đất nguội lạnh đi, vỏ đông kết lại. Phần không khí nằm trong vỏ Trái Đất bị ép ra, đồng thời chịu sức hút của tâm Trái Đất nên nó bao bọc bên ngoài Trái Đất, hình thành tầng khí quyển. Đến đây hơi nước ngưng kết thành nước, khiến cho trên vỏ Trái Đất bắt đầu có nước. Thời kỳ đầu tầng khí quyển vẫn còn rất mỏng, thành phần không khí còn khác xa với khí quyển ngày nay, nhưng vẫn gồm có: hơi nước, hyđro, hêli, amoniac và một số khí trơ khác nữa, v.v..
Sau khi vỏ Trái Đất rắn kết, dưới tác dụng hàng tỉ năm của các chất phóng xạ, nhiệt độ trong lòng Trái Đất không ngừng tăng lên, tạo ra sự điều chỉnh lớn giữa các địa tầng, khiến cho một số vùng nào đó của vỏ Trái Đất phát sinh đứt gãy tầng và chuyển đổi vịtrí, rất nhiều nham thạch và nước trong vỏ Trái Đất dưới điều kiện nhiệt độ cao lại tiếp tục phóng thích ra làm tăng thêm lượng nước trong sông, biển. Một số chất khí bị giữ lại trong đất đá hoặc các địa tầng, bao gồm cả khí cacbonic thoát ra với lượng lớn bổ sung vào tầng khí quyển.
Đến đây trong tầng khí quyển đã có nhiều hơi nước, chúng bị ánh nắng Mặt Trời chiếu xạ, một bộ phận phân giải thành hyđro và oxi. Những oxi này một phần kết hợp với hyđro trong amoniac khiến cho nitơ trong amoniac được giải phóng, một phần kết hợp với hyđro trong khí mêtan khiến cho cacbon trong mêtan phân ly ra. Những cacbon này lại kết hợp với oxi hình thành khí cacbonic.
Như vậy thành phần chủ yếu của không khí biến thành: oxi, hơi nước, nitơ và cacbonic. Nhưng hồi đó khí cacbonic nhiều hơn bây giờ rất nhiều, còn oxi thì ít hơn.
Theo kết quả đo các nguyên tố đồng vị gần đây thì từ ngày hình thành đến nay, Trái Đất đã có hơn năm tỉ năm tuổi. Cách đây khoảng 1,8 - 1,9 tỉ năm, các sinh vật thủy sinh dần dần được hình thành. Cách đây khoảng 700 - 800 triệu năm, thực vật bắt đầu có trên các lục địa. Hồi đó hàm lượng khí cacbonic trong không khí rất nhiều cho nên rất có lợi cho tác dụng quang hợp của thực vật, khiến cho thực vật sinh sôi phát triển mạnh mẽ. Khi một lượng lớn thực vật tiến hành quang hợp đã hút khí cacbonic trong không khí và nhả ra oxi khiến cho hàm lượng oxi
trong không khí tăng lên rất nhanh, cho nên khoảng 500 triệu năm trước, các loại động vật trên Trái Đất cũng tăng nhanh. Sự hô hấp của các động vật lại khiến cho oxi trong không khí chuyển thành khí cacbonic.
Sau khi động, thực vật trên Trái Đất tăng lên, động vật bài tiết và khi chết thi thể của chúng mục rữa, một bộ phận anbumin biến thành amoniac và muối amoni, một bộ phận khác trực tiếp phân giải thành nitơ. Bộ phận biến thành amoniac và muối
amoni thông qua tác dụng oxi hóa và khử oxi của vi khuẩn, có một bộ phận biến thành khí nitơ đi vào không khí. Trong điều kiện nhiệt độ bình thường, khí nitơ không hoạt tính nên rất khó kết hợp với các nguyên tố khác, do đó nitơ trong không khí tích lại ngày càng nhiều, cuối cùng đạt đến hàm lượng như ngày nay.
Hồi đó lớp không khí gần mặt đất đã có được thành phần như ngày nay. Nitơ chiếm khoảng 78%, oxi khoảng 21%, agon gần 1%, tổng số các khí vi lượng khác không đến 1%.
Từ đó có thể thấy sự hình thành bầu khí quyển
một mặt có liên quan đến sự hình thành Trái Đất và vỏ Trái Đất, mặt khác có liên quan với sự xuất hiện của động, thực vật. Nó không phải hình thành một cách cô lập.
Đó là cách giải thích tương đối phổ biến của giới khoa học. Ngày nay loài người đã có kỹ thuật tiên tiến để tìm hiểu tình trạng không khí của các ngôi sao trong Vũ Trụ, qua so sánh kết quả đo lường không khí giữa một số hành tinh có thể thấy rõ, bầu không khí của các hành tinh đang ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Điều đó giúp ta tìm hiểu được rất nhiều quá trình hình thành khí quyển của Trái Đất. Nhưng lý luận về sự hình thành khí quyển phù hợp với thực tế nhất còn phải chờ sự khám phá sâu thêm một bước nữa.
Từ khoá: Tầng khí quyển; Hình thành Trái Đất; Vỏ Trái Đất rắn kết.
2. Tầng khí quyển dày bao nhiêu?
Tầng khí quyển bao quanh Trái Đất, càng lên cao thì mật độ càng thưa loãng, và tiến dần vào trong không gian Vũ Trụ.
Toàn bộ tầng khí quyển có thể chia thành một số tầng:
Tầng không khí liên quan mật thiết nhất với chúng ta là từ độ cao 10 - 12 km kể từ mặt đất. Nó là tầng thấp nhất của khí quyển, gọi là tầng đối lưu.
Trong tầng đối lưu, không khí nóng từ bên dưới không ngừng bốc lên, không khí lạnh bên trên không ngừng chìm xuống, chúng giao lưu nhanh liên tục. Hơi nước trong tầng đối lưu tập trung nhiều nhất, bụi cũng nhiều, chịu ảnh hưởng của mặt đất lớn nhất, các hiện tượng chủ yếu của khí tượng như: mây, mưa, băng tuyết đều phát sinh ở tầng này. Phía trên tầng đối lưu cho đến độ cao 50 km gọi là tầng bình lưu.
Không khí trong tầng bình lưu loãng nhiều so với tầng đối lưu. Hàm lượng hơi nước và bụi bặm ở đó rất ít, cho nên có rất ít các hiện tượng khí tượng. Cách mặt đất khoảng 25 km là khu vực tập trung mật độ khí ozon.
Từ tầng bình lưu trở lên đến 80 km, gần đây có người gọi là tầng trung gian. Ở tầng này nhiệt độ giảm xuống theo
chiều cao.
Từ 80 km trở lên đến
khoảng 500 km, không gian tầng này gọi là tầng nhiệt, nhiệt độ trong tầng này rất cao, sự biến đổi ngày đêm rất lớn. Bắt đầu từ 50 km trở lên đến 1000 km gọi là tầng điện ly. Trong tầng điện ly này ánh nắng Mặt Trời (chủ yếu là tia tử ngoại) chiếu xạ. Các phân tử khí bị điện ly thành ion dương và các điện tử tự do. Trong đó khu vực cách mặt đất từ 80 - 500 km mật độ ion tương đối lớn. Những cực quang đẹp đẽ xuất hiện trong tầng điện ly này.
Cách mặt đất 500 km trở lên gọi là tầng ngoài khí quyển.
Nó là tầng ngoài cùng của khí quyển, là khu vực khí quyển chuyển tiếp vào không gian Vũ Trụ. Phía ngoài của nó không có biên giới rõ rệt, trong điều kiện bình thường, giới hạn trên ở tầng này tương đối thấp, giới hạn trên ở vùng xích đạo lệch về phía Mặt Trời, có bán kính gấp 9 - 10 lần bán kính Trái Đất, nói một cách khác có độ cao khoảng 65.000 km. Ở đó không khí cực kỳ loãng. Như mọi người đã biết âm thanh được truyền đi nhờ không khí. Ở ngoài tầng khí quyển vì không khí rất loãng, nên mặc dù có pháo nổ bên tai bạn cũng khó mà nghe được.
Từ khoá: Khí quyển;tầng đối lưu; Tầng bình lưu; Tầng điện ly; Tầng trung gian; Tầng nhiệt; Tầng ngoài khí quyển.
3. Vì sao càng lên cao, không khí càng loãng?
Chắc các bạn đã từng xem bộ phim vận động viên leo núi Trung Quốc leo lên ngọn Everest (Chômô-lungma). Vận động viên mặc quần áo rất dày, đội mũ chống tuyết và đeo kính bảo hộ, đeo
bình oxi, leo từng bước chậm chạp gian khổ. Vất vả biết bao nhiêu! Vì sao lại thế? Nguyên do là càng lên cao, không khí càng loãng, thiếu oxi, cho nên đừng nói đến leo núi mà chỉ ngồi ở đó không thôi cũng đã phải thở rất khó nhọc.
Vì sao càng lên cao không khí càng loãng?
Mọi người đều biết không khí là thứ nhìn không thấy, sờ không được, nhưng nó là vật chất, gồm nhiều loại phân tử khí cấu tạo nên. Nó cũng chịu sức hút của Trái Đất vì không khí là chất khí có thể nén được, cho nên tầng không khí bên trên ép lên tầng dưới, mật độ tầng không khí dưới bị áp suất càng lớn, do đó cách mặt đất càng cao thì sức ép của không khí phần trên càng nhỏ. Vì vậy mật độ không khí càng đi lên càng nhỏ. Mật độ không khí lớn hay nhỏ là một cách nói khác về nồng độ đặc hay loãng của không khí. Cách mặt đất càng cao không khí càng loãng.
Theo kết quả nghiên cứu, nếu mỗi cm3 không khí sát trên mặt đất chứa khoảng 25,5 triệu tỉ phân tử thì ở độ cao 5 km, mỗi cm3 không khí chỉ chứa khoảng 15,3 triệu tỉ phân tử, ở độ cao 50 km mỗi cm3 không khí chỉ chiếm khoảng 24000 tỉ phân tử, ở
độ cao 100 km, mỗi cm3 không khí chỉ có khoảng 18000 tỉ phân tử, ở độ cao 1000 km, mỗi cm3 không khí chỉ chiếm khoảng 10 vạn phân tử, tức là mật độ chỉ bằng 1/26 vạn tỉ so với mặt đất. Đỉnh Everest ta vừa nói đến ở trên có độ cao 8000 km, mật độ không khí trên đó chỉ bằng 38% mật độ không khí trên mặt đất. Khí oxi trong không khí trên đó đã giảm đi rất nhiều. Vì vậy chỉ có những vận động viên leo núi có sức khỏe rất tốt, ý chí ngoan cường mới có thể leo lên được.
Từ khoá: Thiếu oxi; Mật độ không khí.
4. Vì sao trên không ở vùng cực Trái Đấtcó lỗ thủng ozon?
Tương truyền đời xưa Thủy thần và Hỏa thần gặp nhau, vì tranh quyền xưng bá thiên hạ nên sát phạt lẫn nhau. Thủy thần đại bại vì căm tức mà húc đầu vào các ngọn núi chung quanh. Kết quả là đổ một cột trụ chống trời, gây ra một lỗ thủng lớn. Đó là truyện thần thoại Trung Quốc, không phải là sự thật.
Ngày nay ở trên không vùng
cực Trái Đất đã có lỗ thủng lớn.
Các nhà khoa học gọi đó là lỗ
thủng tầng ozon.
Ở
tầng đẳng
nhiệt cách
mặt đất từ
10 - 50
km có một tầng không khí gọi
là tầng ozon. Phân tử ozon gồm
ba nguyên tử oxi cấu tạo nên,
tức là O3. Tầng ozon có thể hấp
thụ 99% tia tử ngoại của Mặt
Trời, là cái dù bảo hộ loài người
và các sinh vật khác trên Trái Đất. Nhưng cái dù bảo hộ này đã bị phá hoại nghiêm trọng. Mấy năm gần đây các nhà khoa học khảo sát Nam Cực phát hiện thấy trong tầng ozon trên không của Nam Cực đã xuất hiện một lỗ thủng lớn. Theo sự khám phá của vệ tinh khí tượng quỹ đạo cực Vũ vân số 7 thì lỗ thủng này nằm gần điểm cực Nam Cực, hình elip. Diện tích của nó tương đương diện tích nước Mỹ, độ dày vượt quá độ cao đỉnh Chômôlungma của Trung Quốc.
Không chỉ có một lỗ thủng đó mà gần đây các nhà khoa học còn phát hiện trên không của vùng Bắc Cực cũng có một lỗ thủng ozon dày từ 19 - 24 km. Có người còn phát hiện tầng ozon trên toàn cầu đang có xu thế mỏng dần.
“Các lỗ thủng ozon” do đâu tạo ra? Để giải thích vấn đề này, các nhà khoa học có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, điều đó có thể liên quan với nạn cháy rừng liên tiếp ở vùng Amazon, có người cho rằng, tầng ozon đang biến đổi có thể do liên quan với chu kỳ biến đổi tự nhiên của hoạt động các vết đen trên Mặt Trời, một số học giả khác lại cho rằng, sở dĩ xuất hiện lỗ thủng tầng ozon ở các cực là vì ở đó khí hậu lạnh dần. Ban đêm ở điểm cực của Trái Đất, hiệu suất trao đổi nhiệt rất thấp, do đó nhiệt độ trên không ở điểm cực Trái Đất rất thấp, tầng không khí được đốt nóng, nên xuất hiện hiện tượng không khí vận động đi lên, đưa các chất khí trong tầng đối lưu có hàm lượng khí ozon thấp đi vào tầng bình lưu, thay thế chất khí trong tầng bình lưu vốn có hàm lượng khí ozon cao. Như vậy tổng lượng ozon trong cả tầng bị giảm thấp rõ rệt.
Nhưng đa số các nhà khoa học cho rằng, các lỗ
thủng ozon trên vùng cực Trái Đất là do con người gây nên. Cùng với sự phát triển của công nghiệp hiện đại, đặc biệt là sự tăng không ngừng của tủ lạnh gia đình và các nhà máy đông lạnh, khiến cho môi trường làm lạnh freon thải vào trong không khí một lượng lớn clo cacbua, flo cacbua. Những chất này không giống như những hóa chất khác, nó không thể phân giải được trong không khí. Nó bay trôi nổi lên tầng đẳng nhiệt, dưới tác dụng của tia tử ngoại mà sinh ra những nguyên tử flo trôi nổi. Các nguyên tử flo này hấp thụ một nguyên tử oxi trong khí ozon (một nguyên tử flo có thể phá hoại gần 10 vạn phân tử ozon) khiến cho ozon biến thành khí O2, do đó trong không khí xuất hiện lỗ thủng ozon. Vì tầng ozon - dù bảo hộ của Trái Đất bị phá hoại, cho nên sát thủ vô hình của tia tử ngoại bị chọc thủng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến loài người và sinh vật sống trên Trái Đất. Do đó đầu tháng 3 năm 1989, các vị đứng đầu chính phủ của 123 nước trên thế giới và các nhà khoa học đã mở Hội nghị quốc tế ở London với chuyên đề Bảo vệ tầng ozon của khí quyển. Hội nghị đã kêu gọi nhân dân toàn thế giới lập tức hành động ngăn chặn sử dụng các môi chất đông lạnh, bảo vệ tầng ozon của khí quyển, nhanh chóng vá lại lỗ thủng ozon để cứu vãn Trái Đất!
Từ khoá: Lỗ thủng ozon; Môi chất đông lạnh freon
.
5. Vì sao bầu trờicó màu xanh lam?
Bạn đã từng thấy, sau một trận mưa, có lúc bầu trời có màu xanh thẫm như mặt nước hồ phẳng lặng, sau tiếng sét và chớp giật, bầu trời tạm thời xanh đậm, khiến cho tâm thần con người hoảng sợ. Vì sao bầu trời khi nắng sáng lại có màu xanh lam? Hơn nữa trời càng xanh càng thanh khiết.
Lẽ nào trên không lại chứa chất khí màu xanh lam? Nói một cách khác, bản thân không khí là màu xanh lam chăng?
Để giải đáp vấn đề này, chúng ta làm thí nghiệm sau. Dùng một bể thủy tinh hình hộp, trong đó 2/3 bể chứa nước. Dùng một ít bột đất hòa vào nước làm cho nó đục lên. Sau đó đặt bể lên cửa sổ, chọn một buổi sáng trời nắng, vào khoảng 7 - 8 giờ sáng ánh
nắng chiếu song song vào một đầu bể thủy tinh, đầu kia ánh sáng đi ra. Lúc đó bạn sẽ phát hiện một hiện tượng rất thú vị: nước trong bể thủy tinh hiện lên màu xanh lam, còn ánh sáng sau khi đi qua bể sẽ hiện lên màu hồng nhạt và màu vàng tím.
Màu xanh lam nhạt xuất hiện trong bể thủy tinh cũng giống như nguyên lý bầu trời màu xanh trên trời.
Như ta đã biết, bao bọc chung quanh Trái Đất là tầng không khí. Trong không khí chứa nhiều hạt bụi, tinh thể băng và các hạt nước nhỏ li ti. Khi ánh nắng Mặt Trời (ta chỉthấy là chùm sáng trắng, nhưng trên thực tế nó được các ánh sáng từ màu đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím tổ hợp thành) đi qua không khí (giống như đi qua bể thủy tinh chứa nước đục trong thí nghiệm trên). Ánh sáng màu đỏ có bước sóng dài có lực xuyên qua rất lớn (tiếp theo là ánh sáng màu da cam, màu vàng, v.v.) nó có thể xuyên qua các hạt nhỏ trong không khí chiếu xuống mặt đất. Còn những ánh sáng màu lam, chàm, tím có bước sóng ngắn hơn rất dễ bị các hạt nhỏ trôi nổi trong không khí tán xạ khắp các phía, khiến cho không khí xuất hiện màu xanh lam.
Từ khoá: Không trung; Tán xạ.
6. Ảo ảnh trên mặt biển hình thành như thế nào?
Khi trời quanh mây tạnh, đi tàu trên biển hoặc đứng trên bờ biển nhìn ra xa ta thường thấy những cảnh tượng như thuyền bè, đảo, hoặc thành quách xuất hiện nơi chân trời xa xăm. Những người đi trên sa mạc cũng thường thấy nơi chân trời hiện lên mặt nước hồ, cây bên bờ hồ lắc lư làm cho người ta mong mỏi nhanh đến được chỗ đó. Nhưng khi có một trận gió nổi lên thì những cảnh tượng này bỗng nhiên mất hết. Nguyên do vì đó là ảo ảnh, thường gọi là ảo ảnh trên biển.
Vì sao lại xuất hiện hiện tượng này? Muốn trả lời, trước hết chúng ta phải bàn về hiện tượng chiếu xạ ánh sáng.
Khi chiếu ánh sáng vào môi chất có mật độ đồng đều thì tốc độ ánh sáng sẽ không thay đổi, nó sẽ chiếu thẳng về phía trước. Nhưng khi ánh sáng chiếu xiên
từ môi chất này sang môi chất khác sẽ có mật độ khác nhau thì tốc độ ánh sáng sẽ phát sinh biến đổi, hướng chiếu sẽ phát sinh chiết xạ. Hiện tượng này gọi là chiết xạ (khúc xạ).
Khi bạn dùng một gậy thẳng chọc xuống nước, bạn có thể thấy phần gậy trong nước như bị gãy gập so với phần trên. Đó là vì hiện tượng ánh sáng chiết xạ gây nên. Có người đã dùng một trang bị như hình
vẽ dưới đây khiến cho tia sáng từ mặt nước chiếu vào mặt giới hạn mặt nước chia làm hai bộ phận: một phần phản xạ vào trong nước, một phần chiết xạ vào trong không khí, khiến cho ánh sáng chỗ mặt nước nghiêng đi một ít, như vậy làm cho hiện tượng chiết xạ của ánh sáng trong không khí hiện ra càng rõ hơn. Khi hướng của ánh sáng ở mặt giới hạn lệch đi như hình vẽ thứ hai thì toàn bộ ánh sáng sẽ phản xạ vào nước, ánh sáng chiết xạ vào trong không khí không còn nữa. Hiện tượng này gọi là phản xạ toàn phần. Bản thân không khí không phải là một môi chất đồng đều. Nói chung mật độ của nó giảm xuống khi độ cao tăng lên, càng lên cao mật độ không khí càng giảm. Khi ánh sáng xuyên qua các tầng không khí ở những độ cao khác nhau thường xảy ra hiện tượng chiết xạ. Trong cuộc sống, vì chúng ta đã quen với hiện tượng chiết xạ này nên không cảm thấy có gì khác thường.
Nhưng khi nhiệt độ của không khí thay đổi theo chiều thẳng đứng sẽ dẫn đến mật độ không khí cũng thay đổi theo chiều thẳng đứng và sẽ gây ra sự chiết xạ và phản xạ toàn phần khác thường, điều đó dẫn đến hiện tượng ảo ảnh trên mặt biển. Vì tình hình mật độ không khí cụ thể khác nhau, nên hình thức xuất hiện ảo ảnh trên mặt biển cũng khác nhau.
Mùa hè, vào ban ngày,
nhiệt độ nước biển tương đối
thấp, đặc biệt là ở những vùng
có luồng hải lưu lạnh đi qua,
nhiệt độ nước càng thấp. Tầng
không khí dưới cùng do chịu
ảnh hưởng của nước biển nên
lạnh hơn tầng trên, vì vậy xuất
hiện hiện tượng khác thường là
dưới lạnh trên ấm. Lớp khí ở
tầng dưới vốn chịu áp suất khá
cao, mật độ lớn, nay lại cộng
thêm nhiệt độ thấp hơn tầng
trên cho nên mật độ càng cao,
do đó mật độ không khí tầng
dưới đặc tầng trên loãng, chênh
lệch nhau càng rõ rệt.
Giả sử ở chân trời phía
đông chúng ta có một con tàu.
Trong điều kiện bình thường ta không thể nhìn thấy nó, nhưng vì lúc đó mật độ không khí tầng dưới dày đặc, tầng trên loãng, chênh lệch nhau rất lớn cho nên ánh sáng từ con tàu chiếu đến từ lớp không khí đặc chiết xạ sang lớp không khí loãng và phản xạ toàn
phần lên phần trên, rồi lại chiết xạ về lớp không khí đặc phần dưới. Kinh qua con đường gấp khúc như thế chiếu vào mắt ta, ta sẽ thấy được ảnh của nó. Vì thị giác của con người luôn cảm thấy ảnh vật theo đường thẳng do đó chúng ta đã nhìn thấy ảnh của con tàu được nâng cao lên rất nhiều so với con tàu thực, nên gọi là ảo ảnh trên không.
Ở duyên hải Trung Quốc có lúc nhìn thấy những ảo ảnh trên không như thế. Hơn 11 giờ sáng ngày 22 tháng 5 năm 1933, trên đảo Trúc Xá (bên ngoài cửa khẩu vịnh Giao Châu) biển Thanh Đảo, người ta từng phát hiện ảo ảnh trên không. Tin này truyền rất nhanh khắp thành phố, nhiều người đều nhìn thấy. Năm 1957 trên mặt biển gần tỉnh Quảng Đông đã từng xuất hiện ảo ảnh trên không kéo dài liên tục sáu giờ.
Không những mùa hè trên mặt biển nhìn thấy ảo ảnh mà trên mặt sông cũng có lúc nhìn thấy. Ngày 2 tháng 8 năm 1934 trên mặt sông gần vùng Nam Thông cũng đã xuất hiện ảo ảnh. Ngày đó trời nắng sáng, không khí rất nóng. Sau buổi trưa đột nhiên người ta phát hiện thấy trên không sông Trường Giang xuất hiện lâu đài thành quách và những ngôi
nhà bằng gỗ, toàn bộ ảo ảnh kéo dài trên 10 km. Nửa giờ sau di chuyển về phía đông rồi bỗng nhiên mất hẳn. Sau đó lại xuất hiện ba ngọn núi cao sừng sững. Ngọn núi ở giữa giống như lư hương. Nửa giờ sau toàn bộ mất hết.
Trên sa mạc ban ngày, cát, đá bịMặt Trời chiếu nóng nên nhiệt độ lớp không khí gần cát rất cao. Vì không khí truyền nhiệt kém, nên khi không có gió sự trao đổi nhiệt của hai lớp không khí trên và dưới rất ít, điều đó khiến cho sự chênh lệch nhiệt độ không khí theo chiều thẳng đứng rất rõ rệt, dẫn đến hiện tượng mật độ không khí lớp dưới thấp hơn lớp trên. Trong điều kiện đó, nếu phía trước có cây cối mọc trên một vùng ẩm ướt, ánh sáng chiếu từ các ngọn cây sẽ đi từ tầng không khí mật độ lớn vào tầng không khí mật độ nhỏ, hiện tượng chiết xạ sẽ phát sinh. Ánh sáng chiết xạ đi đến tầng không khí gần mặt đất có nhiệt độ cao và mật độ loãng sẽ phản xạ lại toàn phần, ánh sáng lại từ tầng không khí mật độ nhỏ phản xạ về tầng không khí mật độ lớn trên mặt đất. Cứ như vậy qua luồng sáng gấp khúc, sẽ chiếu ảnh của cây vào mắt ta, làm xuất hiện ảo ảnh cây đảo ngược.
Vì ảnh đảo ngược nằm thấp hơn vật thật, cho nên gọi là ảo ảnh ở phía dưới. Loại ảo ảnh đảo ngược rất dễ gây cho ta ảo giác cây mọc bên bờ nước, và cho rằng ở nơi xa nhất định là một hồ nước, thực ra chẳng có hồ nước nào cả.
Phàm những người đã từng đi trên sa mạc đều kinh qua cảm giác tương tự. Đó là vì cát bịMặt Trời đốt nóng cuồn cuộn, khiến cho mật độ không khí từ dưới lên trên tăng lên, vì thế mà sinh ra ảo giác phía dưới.
Loại ảo ảnh nào cũng chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện không có gió hoặc gió rất yếu. Một khi gió đã nổi lên khiến cho không khí các tầng trên dưới bị khuấy trộn, mật độ không khí chênh lệch không
đáng kể, ánh sáng không bị chiết xạ hoặc phản xạ toàn phần thì ảo ảnh sẽ tiêu tan hết.
Từ khoá: Ảo ảnh trên biển; Chiết xạ; Phản xạ toàn phần.
7. Mây được hình thành như thế
nào?
Mây trên trời có cao, có thấp, cao đến 10 km, thấp chỉ có mấy chục mét.
Nguyên nhân hình thành mây rất nhiều, chủ yếu là do không khí ẩm ướt bốc lên. Trong quá trình bốc lên, vì áp suất không khí giảm dần theo độ cao, còn thể tích của nó lại nở ra. Trong quá trình giãn nở nó phải tự tiêu hao nhiệt lượng của mình. Như vậy không khí vừa dâng lên vừa giảm thấp nhiệt độ. Như ta đã biết, khả năng chứa hơi nước của không khí có một giới hạn nhất định. Trong điều kiện nhiệt độ cụ thể, giới hạn lượng hơi nước nhiều nhất mà một đơn vị thể tích không khí có thể chứa được tương ứng với áp suất của hơi nước, người ta gọi đó là áp suất hơi nước bão hòa. Áp suất hơi nước bão hòa sẽ giảm xuống theo độ giảm của nhiệt độ không khí. Cho nên không khí càng lên cao nhiệt độ càng thấp thì áp suất hơi nước bão hòa cũng không ngừng giảm xuống. Khi áp suất hơi nước bão hòa trong không khí giảm đến mức áp suất hơi nước vốn có thì có một bộ phận hơi nước sẽ bám vào các hạt bụi ngưng kết lại để hình thành những giọt nước nhỏ li ti (khi nhiệt độ thấp hơn 0°C có thể hình thành các tinh thể băng). Những hạt nước
này thể tích rất nhỏ, gọi là các giọt mây trong đám mây. Bán kính bình quân của chúng chỉ khoảng mấy micromet nhưng nồng độ rất lớn, tốc độ rơi xuống trong không khí rất nhỏ, có thể có những luồng không khí bốc lên đỡ lấy, do đó nó trôi nổi trong bầu trời. Không khí ẩm ướt làm sao có thể bốc lên để hình thành mây? Có mấy con đường chủ yếu sau:
Thứ nhất là nhờ tác dụng của lực nhiệt. Những ngày hè trong sáng, vì Mặt Trời chiếu mạnh, nhiệt độ lớp không khí gần mặt đất tăng nhanh, không khí nóng và nhẹ sẽ bốc lên trên. Về mùa hè ta thường nhìn thấy những đám mây hình quả núi hoặc hình cái tháp, đó chính là nhờ tác dụng của lực nhiệt mà hình thành.
Thứ hai là tác dụng trượt bề mặt. "Mặt trượt" trong không khí là chỉ bề mặt giao nhau giữa hai tầng không khí nóng và lạnh. Khi không khí ấm và nhẹ bay về phía trước, gặp phải lớp không khí lạnh và nặng cản trở thì lớp không khí ấm sẽ chủ động trượt nghiêng lên trên lớp không khí lạnh.
Mặt giới hạn lúc này gọi là mặt giới hạn ấm. Khi không khí ấm trượt lên trên sẽ hình thành những
tầng mây dày và lớn. Khi lớp không khí lạnh chuyển động về phía trước gặp không khí ấm, sẽ chui xuống lớp không khí ấm và nâng nó lên. Mặt giới hạn lúc này gọi là mặt lạnh. Lớp không khí ấm bị bức nằm trên lớp không khí lạnh sản sinh ra những đám mây dày đặc.
Thứ ba là do tác dụng của địa hình. Không khí của tầng bình lưu gặp sự cản trở của những mạch núi, đồi gò hay cao nguyên sẽ bị dâng cao lên, gặp các dốc núi sẽ hình thành mây hoặc mù.
Ngoài ra thì tác dụng nhiễu loạn theo chiều thẳng đứng của không khí cũng như tác dụng bức xạ lạnh của ban đêm của các tầng mây ẩm ướt cũng khiến cho hơi nước trong không khí kết thành mây.
Cho dù mây được hình thành theo phương thức nào, vì các giọt mây rất nhỏ, tốc độ rơi xuống chậm cho nên chỉ cần một luồng không khí nhẹ bốc lên là có thể đỡ được, làm cho mây trôi nổi bồng bềnh trong không trung.
Từ khoá: Mây; áp suất hơi nước bão hòa; Hạt ngưng kết.
8. Vì sao mây có màu sắc khác nhau?
Chắc bạn đã nhìn thấy mây có nhiều màu sắc. Có đám trắng mịn như bông, có đám đen xịt, có đám xám nhờ nhờ, có đám màu hồng hoặc màu tím, v.v.. Mây có nhiều màu sắc thực chất vì đâu?
Không cần trả lời bạn cũng biết được, đó là do ngòi bút tự nhiên vẽ lên.
Độ dày mỏng của các đám mây chênh nhau rất lớn. Dày có thể đạt đến 7000 - 8000 m, mỏng thì chỉ mấy chục mét. Có mây dạng tầng rải khắp bầu trời,
hoặc tích tụ thành từng đám riêng lẻ, có mây dạng sóng, v.v. rất nhiều loại. Mây dạng tầng rất dày, lúc mưa giông có thể dồn về một góc trời. Ánh sáng Mặt Trời, hay Mặt Trăng không thể chiếu qua. Màu mây rất đen. Mây dạng tầng mỏng hơn một chút và mây dạng sóng phần nhiều mang màu xám, đặc biệt là mây dạng sóng ở các bờ biển màu sắc càng xám hơn. Những đám mây mỏng ánh nắng dễ chiếu qua, đặc biệt là những đám mây mỏng do tinh thể băng cấu tạo nên, các sợi mây qua ánh nắng Mặt Trời đặc biệt rõ, giống như những sợi bông rất sáng. Dù trên trời có loại mây nào thì ánh nắng Mặt Trời, hay Mặt Trăng vẫn làm cho các vật thể trên mặt đất có bóng. Có lúc những đám mây do tinh thể băng làm nên mỏng đến mức hầu như không thấy rõ, nhưng chỉ cần thấy Mặt Trời hoặc Mặt Trăng có mấy quầng sáng là ta có thể biết được có mây. Loại mây này gọi là mây quấn màn mỏng.
Mây tích thành từng đám dày riêng lẻ, vì chiều dày lớn nên phía có Mặt Trời hầu như toàn bộ ánh nắng bị phản xạ trở lại, do đó màu rất trắng. Còn mặt phía dưới vì ánh nắng không xuyên qua được nên màu đen xám.
Khi Mặt Trời mọc hoặc lặn, vì ánh nắng Mặt Trời chiếu xiên, xuyên qua tầng mây rất dày cho nên các phần tử không khí, hơi nước và các tạp chất sẽ tán xạ phần lớn những ánh sáng sóng ngắn, còn ánh sáng đỏ và màu da cam có sóng dài thì tán xạ rất ít, do đó xuyên qua tầng mây xuống mặt đất. Ánh sáng có ánh dài (đặc biệt là ánh sáng đỏ) chiếm phần lớn, lúc đó không những chân trời phía Mặt Trời mọc hay phía Mặt Trời lặn đều là màu đỏ, ngay cả mặt dưới và các đường viền của đám mây được chiếu sáng đều biến thành màu đỏ.
Vì đám mây là do các hạt nước hoặc tinh thể băng hoặc hỗn hợp cả hai thứ tạo thành, do đó khi Mặt Trời chiếu vào sẽ tạo nên những vầng quang hoặc cầu vồng rất đẹp mắt.
Từ khoá: Mây dạng tầng; Mây dạng đám.
9. Vì sao quầng sáng màu thường hay xuất hiện trên bầu
trời haicực Nam, Bắc?
Khoảng 7 giờ tối ngày 2 tháng 3 năm 1957 ở miền sông Mạc và thành Hôma hoặc tỉnh Hắc Long Giang vùng biên giới Đông Bắc Trung Quốc xuất hiện quầng sáng màu mấy chục năm qua chưa hề có. Một ráng mây sáng đỏ bỗng nhiên nổi lên không trung rồi một chốc biến thành một dải màu vòng cung. Phía trên của nó từ Bắc Hắc Long Giang vươn về chân trời phía Nam. Nó tồn tại 45 phút trên bầu trời đêm.
Tối ngày 29, 30 tháng 9 cùng năm đó, cả một vùng rộng lớn ở 40 vĩ độ Bắc cũng xuất hiện một quầng sáng màu rất ít thấy, làm ửng đỏ cả bầu trời phương Bắc. Mọi người đua nhau xem với niềm hứng thú lạ thường vì đó là hiện tượng tự nhiên rất ít gặp.
Các quầng sáng màu từ xưa tới nay vốn rất hấp dẫn mọi người. Theo những ghi chép chưa đầy đủ thì Trung Quốc từ năm 30 TCN đến năm 1975 đã có 53 lần xuất hiện quầng sáng màu.
Cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhiều nhà vật lý đã làm thí nghiệm chứng minh quầng sáng
màu là do tác dụng của những hạt mang điện trong lớp khí quyển loãng trên cao gây nên. Ở tầng khí quyển có độ cao 80 - 1200 km, không khí vô cùng loãng quầng sáng màu phát sinh ở đó. Mặt Trời là một khối cầu khổng lồ nóng bỏng. Bên trong và bề mặt Mặt Trời liên tiếp diễn ra các phản ứng nhiệt hạch của các nguyên tố hóa học sản sinh ra những luồng hạt li ti mang điện rất mạnh từ Mặt Trời phóng ra khắp bốn phương với tốc độ cực lớn.
Luồng hạt mang điện này khi phóng đến tầng cao có lớp khí quyển Trái Đất, sẽ va đập mạnh với các phân tử khí thưa thớt ở đó mà sản sinh ra hiện tượng phát quang, đó chính là quầng sáng màu.
Quầng sáng màu phần
nhiều xuất hiện ở vùng Nam Cực và Bắc Cực (cực quang), rất ít phát sinh ở vùng xích đạo. Vì sao vậy? Đó là vì Trái Đất giống như một nam châm khổng lồ, cực của nó ở hai đầu Nam, Bắc. Như ta đã biết, kim chỉ nam luôn chỉtheo phương Bắc - Nam, đó là do ảnh hưởng từ trường Trái Đất. Luồng hạt mang điện từ Mặt Trời phóng đến cũng chịu ảnh hưởng từ từ trường Trái Đất, nó vận động theo hình xoắn ốc hướng tới hai cực Bắc, Nam. Cho nên quầng sáng màu phần nhiều xuất hiện trên không hai cực Bắc Nam. Phát sinh ở cực Nam gọi là quầng sáng màu Nam Cực (Nam Cực quang), phát sinh ở cực Bắc gọi là quầng sáng màu Bắc Cực (Bắc Cực quang). Trung Quốc thuộc Bán cầu Bắc, cho nên các vùng đông bắc chỉ có thể nhìn thấy quầng sáng màu Bắc.
Vì sao quầng sáng màu có năm màu? Đó là vì không khí do các khí oxi, nitơ, neon, heli, v.v. cấu tạo nên. Dưới tác dụng của luồng hạt mang điện, các chất khí khác nhau sẽ phát ra ánh sáng khác nhau, do đó mà quầng sáng màu có màu sắc và hình dạng khác nhau. Có những quầng sáng màu giống cái màn, có cái giống cung tròn, có cái thành hình đai, có cái thành luồng sáng, có cái màu đỏ da cam, có cái màu đỏ tím, có cái màu nhạt, có cái màu đậm. Có lúc cả
năm màu đan xen lẫn nhau trông rất đẹp mắt.
Chu kỳ hoạt động của Mặt Trời khoảng 11 năm. Ở thời kỳ hoạt động cao trào, trên Mặt Trời thường xuất hiện những vết đen xoắn ốc khổng lồ, bề mặt Mặt Trời có những vụ nổ lớn sản sinh ra luồng hạt mang điện rất mạnh. Khi luồng này bay đến tầng khí quyển của Trái Đất sẽ kích thích tạo nên những quầng sáng màu rất đẹp. Cho nên số lần xuất hiện quầng sáng màu nhiều hay ít có liên quan với hoạt động của Mặt Trời mạnh hay yếu. Ở thời kỳ Mặt Trời hoạt động mạnh, số lần xuất hiện quầng sáng màu cũng nhiều hơn.
Từ khoá: Quầng sáng màu.
10. Vì sao xuất hiện cầu vồng trên bầu trời?
Sau cơn mưa mùa hè mây đen tan hết, Mặt Trời hiện ra và trên bầu trời thường xuất hiện cầu vồng.
Trung Quốc từ thời Bắc Tống đã có cách giải
thích khoa học về cầu vồng. Hồi đó Thẩm Khoát trong “Mộng Khê bút đàm” đã trích dẫn lời nói của ông Tô Nhan Quang: “Cầu vồng” là ánh mưa trong ánh nắng Mặt Trời. Mặt Trời chiếu vào mưa sẽ có “cầu vồng” là do ánh nắng chiếu vào các giọt nước trong không khí sẽ phát sinh phản xạ và chiết xạ mà gây nên.
Như ta đã biết, khi ánh sáng chiếu qua lăng kính, hướng chiếu của nó lệch đi, hơn nữa dải ánh sáng bắt đầu phân thành các dãy có màu sắc khác nhau từ đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.
Khi trời mưa hoặc sau cơn mưa, trong không khí có vô số hạt nước li ti làm lệch hướng chiếu của ánh nắng. Khi ánh nắng đi qua các giọt nước, không những thay đổi hướng chiếu mà còn bị phân tích thành các ánh sáng màu: đỏ, da cam, lục, lam, chàm, tím. Nếu góc chiếu thích hợp sẽ hình thành cầu vồng như ta nhìn thấy.
Độ lớn nhỏ của các giọt nước trong không khí quyết định mức độ tươi đẹp của cầu vồng. Giọt nước càng lớn cầu vồng càng rực rỡ, giọt nước càng nhỏ, như sương mù thì cầu vồng càng nhạt, thậm chí cầu
vồng màu trắng.
Theo đo đạc, độ rộng bình quân của cầu vồng khoảng gấp năm lần bán kính của Mặt Trời khi ta nhìn từ Trái Đất.
Trong bầu trời không chỉ xuất hiện một cầu vồng mà có lúc đồng thời xuất hiện hai, ba, thậm chí năm cầu vồng, chẳng qua các trường hợp này ít gặp mà thôi. Nếu trong điều kiện nhân tạo, dùng ánh sáng trắng chiếu vào vòi phun nước rất mịn, thậm chí có thể nhìn thấy 17 cầu vồng. Nguyên nhân sản sinh nhiều cầu vồng tương tự đều là ánh sáng Mặt Trời phát sinh phản xạ và chiết xạ qua giọt nước mà thành, nhưng đường đi của ánh sáng phức tạp hơn mà thôi.
Vậy vì sao sau cơn mưa mùa hè thường có cầu vồng còn mùa đông lại không có?
Vì mùa hè thường mưa trận hoặc mưa giông. Phạm vi những cơn mưa này không lớn, thường vùng này mưa, vùng kia nắng, trên bầu trời vẫn có ánh nắng mạnh. Có lúc sau cơn mưa trên bầu trời còn trôi nổi hạt nước. Khi Mặt Trời chiếu qua những giọt nước
này qua tác dụng phản xạ và chiết xạ, cầu vồng sẽ xuất hiện.
Mùa đông khí trời rất lạnh, không khí khô ráo, mưa ít, mưa giông càng hiếm, đa số là mưa dầm hoặc rơi tuyết, vì vậy không thể hình thành cầu vồng. Nhưng cũng có trường hợp trong không trung nếu gặp điều kiện thích hợp vẫn xuất hiện cầu vồng, tuy rất hiếm hoi.
Tục ngữ nói “cầu vồng phía tây trời nắng, cầu vồng phía đông trời mưa”. Căn cứ vào phương xuất hiện cầu vồng, ta có thể dự đoán được thời tiết mấy ngày sau.
Cầu vồng phía đông chứng tỏ bầu trời phía đông chúng ta đang có mưa. Trái Đất chuyển động theo quy luật từ tây sang đông. Cho nên bầu trời phía đông ngày càng đến gần ta. Nếu phía tây có cầu vồng chứng tỏ bầu trời phía tây của chúng ta đang có mưa. Cùng với sự chuyển động của Trái Đất, mưa sẽ dần dần đi qua vùng chúng ta. Do đó khi cầu vồng ở phía đông thì vùng ta dễ bị mưa, khi cầu vồng xuất hiện ở phía tây vùng ta ít có khả năng bị mưa.
Từ khoá: Cầu vồng; Chiết xạ; Phản xạ.
11. Khí tượng, thời tiết và khí hậu có gì khác nhau?
Trong cuộc sống, ba danh từ “khí tượng”, “thời tiết”, “khí hậu” hầu như chúng ta gặp hằng ngày. Ví dụ khi bạn nghe Đài phát thanh hoặc xem báo thường thấy thông tin dự báo thời tiết. Khi bạn đi xa nhà hoặc tham quan du lịch đến một vùng khác thường hỏi thăm thời tiết vùng đó tốt hay xấu. Có lúc bạn muốn tìm hiểu thời tiết sắp tới cũng có thể gọi điện thoại cho Đài khí tượng. Nhưng hàm nghĩa chính xác của các từ khí tượng, thời tiết, khí hậu là gì? Chúng khác nhau ra sao thì ít người nói được chính xác.
Khí tượng, nói một cách dễ hiểu đó là chỉ những hiện tượng vật lý của khí quyển phát sinh trong Vũ Trụ, như gió, mây, mưa, tuyết, sương mù, cầu vồng, quầng Mặt Trời, Mặt Trăng, sấm, chớp, v.v.
Thời tiết là chỉ sự ảnh hưởng tổng hợp của các đặc điểm khí tượng trong thời gian ngắn đối với cuộc
sống con người. Ví dụ, ta có thể nói hôm nay thời tiết tốt, nắng đẹp, gió vừa, trời trong muôn dặm, hôm qua thời tiết xấu, mưa và nổi gió, trời u ám và ẩm ướt khác thường, v.v. nhưng không thể nói thời tiết thành khí tượng;
Khí hậu là chỉ những đặc điểm, tình hình khí tượng nhiều năm, một năm hoặc một thời gian dài đối với một vùng nào đó hay cả thế giới. Ví dụ các đảo trên biển Đông không chỉ mùa hè rất nóng mà mùa xuân, mùa thu cũng nóng, ngay mùa đông cũng không rét, hơn nữa không chỉ một năm như thế mà nhiều năm đều như thế. Vì vậy chúng ta có thể gọi là khí hậu nhiệt đới bốn mùa ấm áp. Lại ví dụ đại bộ phận các khu vực thuộc lưu vực Trường Giang, mùa xuân và mùa thu ấm áp, mùa hè nóng bức, mùa đông giá rét. Ta có thể gọi đó là “khí hậu ôn đới, bốn mùa rõ rệt”.
Đến đây chắc chắn bạn đã hiểu được khí tượng, thời tiết và khí hậu khác nhau ra sao. Chúng tuy hàm nghĩa không giống nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Từ khoá: Khí tượng; Thời tiết; Khí hậu.
12. Trong một ngày không khí lúc nào trong lành nhất?
Rất nhiều người có thói quen luyện tập vào buổi sáng, hơn nữa họ cho rằng không khí buổi sáng trong lành. Thực ra hiểu thế là không đúng.
Không khí tươi mới hay không được quyết định bởi việc không khí bị ô nhiễm nặng hay nhẹ. Nguồn ô nhiễm không khí chủ yếu do bụi khói nhà máy nhả ra, khí thải ô tô, khói bếp dân cư và khí cacbonic do cây cối ban đêm thải ra. Theo đo đạc trong 24 giờ một ngày, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều không khí ô nhiễm nhẹ cho nên tương đối tươi mới, trong đó khoảng 10 giờ sáng và 3 - 4 giờ chiều không khí tươi mới nhất. Sáng sớm, chập tối và ban đêm không khí ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó khoảng 7 giờ sáng và 7 giờ tối là cao điểm ô nhiễm, lúc đó không khí kém nhất.
Có những nguyên nhân khác nhau tạo nên sự tươi mới cho không khí trong một ngày, chủ yếu là các nhân tố của khí tượng. Vì sự biến đổi chênh lệch
nhiệt độ theo chiều thẳng đứng giữa ban ngày và ban đêm rất lớn, khi nhiệt độ mặt đất cao hơn nhiệt độ của không khí thì lớp không khí trên mặt đất sẽ bốc lên, các chất ô nhiễm khuếch tán lên cao. Khi nhiệt độ mặt đất thấp hơn nhiệt độ không khí trên cao, trên bầu trời sẽ hình thành tầng nhiệt độ ngược (tầng nghịch nhiệt). Nó giống như một cái chảo úp trên không của mặt đất, khiến cho các chất ô nhiễm trong không khí trên mặt đất không khuếch tán được. Nói chung, ban đêm, sáng sớm, chập tối dễ xuất hiện tầng nhiệt độ ngược, cho nên không khí ở những thời điểm này đục nhất.
Đến ban ngày sau khi Mặt Trời mọc, nhiệt độ mặt đất nhanh chóng tăng cao, tầng nhiệt độ ngược dần dần biến mất. Do đó các chất ô nhiễm khuếch tán nhanh. Nói chung đến 10 giờ sáng không khí trên mặt đất tươi mới nhất. Vì vậy thời gian tập thể dục buổi sáng nên chọn khi Mặt Trời mọc, tốt nhất là tập thể dục giữa lúc 10 giờ sáng và 3 - 4 giờ chiều, vì lúc đó không khí tươi mới nhất.
Từ khoá: Mức độ tươi mới của không khí; Tầng nhiệt độ ngược (tầng nghịch nhiệt).
13. Bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông được phân chia như thế nào?
Nhiều người sống ở vùng ôn đới đều biết rõ đặc trưng của bốn mùa. Mùa xuân ấm áp hoa nở khắp nơi, mùa hè nóng nực, mùa thu mát mẻ, mùa đông giá rét. Nhưng khi có người hỏi bốn mùa được phân chia như thế nào thì số người hiểu rõ không nhiều lắm.
Trong khí tượng học, có hai phương pháp để phân chia bốn mùa. Phương pháp thứ nhất, mùa xuân từ tháng 3 - tháng 5, mùa hè tháng 6 - tháng 8, mùa thu tháng 9 - tháng 11, mùa đông tháng 12 - tháng 2. Cách phân chia này đơn giản, rõ ràng, dễ nhớ, nhưng không thể phản ánh sự khác biệt của các vùng khác nhau. Trên thực tế ở những vùng khác nhau do vĩ độ địa lý, do cách biệt xa hay gần và do độ cao so với mặt biển khác nhau nên đặc trưng bốn mùa khác nhau rất lớn. Cách thứ hai là dùng nhiệt độ của khí hậu (nhiệt độ của năm ngày) để phân chia. Tức nhiệt độ khí hậu dưới 10°C là mùa đông, từ 10 - 12°C là mùa thu và mùa xuân, cao hơn 22°C là mùa
hè.
Dùng nhiệt độ khí hậu để phân chia bốn mùa, sự khác biệt của các mùa, của các vùng Trung Quốc sẽ phản ánh rất rõ ràng.
Ở miền Bắc Hắc Long Giang, Đông Bắc Nội Mông, là vùng mùa đông dài, không có mùa hè, xuân thu nối liền nhau, miền Trung Hắc Long Giang là mùa đông dài, mùa hè ngắn, xuân thu cách nhau. Đặc trưng bốn mùa ở đó đã có thể nhận thấy.
Đi về phương Nam hiện tượng bốn mùa ngày càng rõ rệt. Đến vùng Trung hạ lưu Trường Giang mùa xuân ấm, mùa hè nóng, mùa thu mát, mùa đông rét, phân biệt rõ ràng.
Quảng Đông và Quảng Tây lại một cảnh tượng khác. Mùa hè dài, không có mùa đông, xuân đi thu tới. Đến các đảo trên biển Nam Hải quanh năm là mùa hè, từ đầu đến cuối năm đều là quang cảnh vùng nhiệt đới.
Cao nguyên Bắc Tạng vì cao hơn mặt biển rất nhiều, quanh năm là mùa đông. Nhưng vùng chung
quanh thấp hơn, mùa đông dài,
không có mùa hè, mùa xuân và
mùa thu ngắn ngủi.
Ở Vân Nam không ít vùng
mùa đông không rét, mùa hè
không nóng, bốn mùa đều là
mùa xuân. Chẳng trách người
ta gọi Côn Minh là “Thành phố
mùa xuân”.
Từ khoá: Mùa; Nhiệt độ;
Khí hậu.
14. Trên Trái Đất vì
sao chiathành
nhiệt đới, ôn đới,
hàn đới?
Trên Trái Đất ta sinh sống, vì góc độ chiếu sáng của ánh nắng Mặt Trời khác nhau, do đó ở những
vùng khác nhau nhận được lượng nhiệt chênh lệch nhau rất rõ rệt.
Điều đó sản sinh ra sự khác biệt về khí hậu giữa các vùng. Các nhà khoa học đem những vùng có nhiệt độ không khí, lượng mưa và quang cảnh thiên nhiên giống nhau quy thành loại hình khí hậu như nhau, đem những vùng khác có nhiệt độ, khí hậu, đặc trưng mưa và quang cảnh tự nhiên cùng một loại quy kết thành loại hình khí hậu khác. Vì vậy sản sinh ra những đới khí hậu khác nhau.
Thông thường người ta chia Trái Đất thành ba đới khí hậu là: nhiệt đới, ôn đới và hàn đới. Vì ôn đới và hàn đới ở Nam và Bắc bán cầu đều có cho nên trên Trái Đất có năm đới khí hậu.
Khí hậu nhiệt đới lại có thể chia thành ba loại hình khí hậu khác nhau: khí hậu xích đạo, khí hậu nhiệt đới và khí hậu cận nhiệt đới.
Khí hậu xích đạo tức là khí hậu của vùng xích đạo. Đặc trưng của nó là nhiệt độ khí hậu cả năm cao, độ ẩm lớn, oi bức và nhiều mưa. Nhiệt độ bình quân năm của khí hậu nhiệt đới nói chung nằm trong khoảng từ 25 - 30°C, sự biến đổi nhiệt độ trong năm rất ít. Cả năm lượng mưa nhiều, trên lục địa sau buổi trưa mưa và sấm nhiều, trên biển buổi tối mưa, sấm
nhiều. Lượng mưa hằng năm thông thường từ 1000 - 3000 mm, các tháng phân phối đồng đều. Vùng bồn địa Cônggô, bờ biển phía đông vịnh Ghinê ở châu Phi, lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ, Inđônêxia châu Á đều thuộc khí hậu xích đạo.
Khí hậu nhiệt đới: nhiệt độ cả năm khá cao, bốn mùa không rõ, nhưng hai mùa khô và ẩm rất rõ, cả năm chia thành mùa khô và mùa mưa. Gió bão rất nhiều. Ấn Độ, Mianma, Campuchia, Việt Nam và đảo Hải Nam Trung Quốc đều thuộc khí hậu nhiệt đới.
Khí hậu cận nhiệt đới: phần lớn thời gian trong năm thuộc vùng áp suất cao của vùng cận nhiệt đới khống chế và hoạt động vì ảnh hưởng của gió mùa nên mùa hè nóng bức, mưa nhiều, mùa đông ấm và ít mưa. Phía Nam sông Trường Giang và phía Bắc khu vực Nam Lĩnh của Trung Quốc đều thuộc vùng khí hậu này.
Khí hậu ôn đới: vì vịtrí địa lý khác nhau nên có thể phân thành ba loại hình: khí hậu biển ôn đới, khí hậu lục địa ôn đới và khí hậu gió mùa ôn đới. Khí hậu biển ôn đới cả năm ôn hòa, lượng mưa bốn mùa không đều, mưa nhiều, độ ẩm lớn: Anh, Hà Lan, v.v.
của châu Âu thuộc vùng khí hậu này. Khí hậu lục địa ôn đới mùa hè nóng, mùa đông rét, lượng mưa cả năm ít, tập trung vào mùa hè: các vùng như Tân Cương, Cam Túc, v.v. của Trung Quốc thuộc vùng khí hậu này. Vùng khí hậu gió mùa ôn đới mùa hè chủ yếu là khí hậu gió mùa biển, nhiệt độ cao, mưa nhiều, mùa đông chủ yếu là gió mùa lục địa rét, khô ráo: lưu vực sông Trường Giang trở về Đông Bắc Trung Quốc thuộc loại khí hậu này.
Khí hậu hàn đới là khí hậu vùng cực Trái Đất, giá rét. Có hai loại hình. Một loại nóng nhất nhiệt độ bình quân từ 0 - 10°C. Băng tuyết quanh năm không tan nên còn gọi là “khí hậu vĩnh đông”: Bắc Cực và đại bộ phận lục địa Bắc Mỹ thuộc vùng khí hậu này.
Từ khoá: Nhiệt đới; ôn đới; Hàn đới.
15. Vì sao chỗ nóng nhất không phải là xích đạo?
Trên Trái Đất chỗ nào nóng nhất? Rất nhiều người cho rằng, xích đạo là nơi nóng nhất, vì khu vực
xích đạo Mặt Trời chiếu sáng quanh năm. Thực ra chỗ nóng nhất không phải là xích đạo. Nếu bạn không tin, hãy tra cứu các ghi chép về khí tượng thế giới sẽ rõ. Ở châu Á, châu Phi, châu Úc và Nam Bắc châu Mỹ bạn có thể phát hiện rất nhiều sa mạc rất xa xích đạo, nhiệt độ ban ngày ở đó nóng hơn xích đạo rất nhiều. Theo ghi chép, nhiệt độ cao nhất ở vùng xích đạo rất ít khi vượt quá 35°C, còn ở sa mạc Xahara châu Phi, nhiệt độ cao nhất ban ngày đến 55°C, nói chung trên 40°C. Ở sa mạc ẢRập, nhiệt độ cao nhất ban ngày đạt 45 - 50°C. Sa mạc Gôbi của Trung Quốc nhiệt độ cao nhất ban ngày đạt khoảng 45°C.
Vùng xích đạo nhận ánh nắng Mặt Trời nhiều nhất, vậy vì sao lại không phải là nơi nóng nhất?
Mở bản đồ thế giới ra xem ta sẽ thấy rõ: vành đai xích đạo đại bộ phận là biển. Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương đều nằm trong vùng xích đạo.
Biển xích đạo rộng lớn, nó có đặc điểm khác với lục địa là có thể truyền nhiệt xuống dưới sâu. Đồng thời nước biển bốc hơi đòi hỏi phải tiêu phí nhiều
nhiệt, cộng thêm nhiệt dung nước biển lớn nên nhiệt độ nước tăng cao chậm hơn trên mặt đất. Do đó nhiệt độ biển ban ngày ở vùng xích đạo tăng lên chậm, còn trên sa mạc tình hình lại hoàn toàn khác hẳn. Ở đó cây cối thưa thớt, không có nước, nhiệt dung của đất, cát nhỏ nên nhiệt độ tăng nhanh. Bản thân đất, cát truyền nhiệt kém, nhiệt lượng rất khó truyền xuống phía dưới. Khi cát bề mặt đã rất nóng thì lớp cát phía dưới vẫn còn mát, cộng thêm sa mạc không có nước bốc hơi để tiêu hao nhiệt lượng, cho nên khi Mặt Trời đứng bóng, nhiệt độ trên sa mạc tăng lên rất nhanh, mặt cát bịthiêu đốt nóng bỏng. Ngoài ra mây và mưa trên xích đạo đều nhiều hơn trên sa mạc rất nhiều. Hằng ngày buổi chiều đều có mưa. Như vậy, nhiệt độ buổi chiều sẽ không tăng cao nữa, còn trên sa mạc nắng suốt ngày, rất ít mưa. Do đó nhiệt độ buổi chiều còn tiếp tục tăng cao. Cho nên chỗ nóng nhất ban ngày không phải ở xích đạo mà trên sa mạc.
Từ khoá: Xích đạo; Sa mạc.
16. Trên thế giớichỗ nào lạnh
nhất và nóng nhất?
Bạn có biết trên thế giới chỗ nào lạnh nhất và nóng nhất không? Trên thế giới chỗ lạnh nhất là Châu Nam Cực, nhiệt độ bình quân năm là -25°C, nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất là -88,3°C, đã từng có ghi chép là -94,5°C. Ở đó vĩ độ cao, hơn nữa là một lục địa toàn băng, đồng thời là khu vực bão tố lớn nhất trên thế giới. Ngoài ra trên lục địa những nơi có người ở, chỗ lạnh nhất được xem là hai vùng Uâyhôzanck và Aormikhan ở Đông Xibêri, Nga.
Nhiệt độ bình quân hằng năm ở hai vùng đó là -15°C, tháng 3 mùa đông dưới -40°C. Nhiệt độ thấp nhất ở Uâyhôzanck là -68°C (1892), ở Aormikhan thấp nhất là -78°C (1933).
Sở dĩ khu vực Uây-Ao đặc biệt lạnh là vì vĩ độ và địa thế ở đó quyết định. Ở đó vĩ độ cao, vành đai Bắc Cực đi qua đó nên gió biển ấm áp không thổi đến được, đặc biệt là các miền Đông Nam, Tây Nam và Nam của khu vực này bị mạch núi Chiaski bao vây, chỉ có phía bắc mở ra Bắc Băng Dương, nhưng hai chỗ này đều nằm trong thung lũng cho nên không khí ấm phía nam đều bị che khuất. Còn khí hậu giá lạnh ở
phía bắc lại có thể tràn thẳng vào và dừng lại trong thung lũng. Ở vùng này ánh nắng Mặt Trời vốn ít, nhiệt độ đã thấp lại cộng thêm không khí giá rét, đúng là đã ở trong tuyết lại thêm băng, khiến cho vùng này quanh năm lại càng lạnh giá hơn.
Trên thế giới điểm nóng nhất là Masawa ở Xaipia châu Phi. Masawa ở bên biển Hồng Hải, nhiệt độ bình quân tháng giêng là 26°C, tháng 7 là 35°C, nhiệt độ bình quân cả năm là 30,2°C. Ta có thể thấy ở đó tháng nào cũng nóng, hầu như ngày nào cũng là mùa hè.
Vì sao vùng đó lại nóng như thế? Tuy ở trên bờ biển nhưng Hồng Hải là biển nhiệt độ cao. Hơn nữa ở đó hằng năm chủ yếu là gió đông bắc, tức là từ vùng sa mạc ả Rập khô ráo thổi đến, khu vực Masawa cao hơn mặt biển 10 m, cho nên gió đông bắc làm tăng thêm độ nóng vùng này, mưa rất ít. Toàn năm lượng mưa chỉ có 180 mm, không thể có tác dụng hạ nhiệt. Vừa khô vừa nóng là đặc điểm của sa mạc Masawa.
Điểm xuất hiện nhiệt độ cao nhất trên thế giới là Xômali, châu Phi. Ở đó nhiệt độ trong bóng mát còn cao hơn 63°C. Nghe nói nhiệt độ ở sa mạc Xahara
châu Phi còn cao hơn, trứng gà vùi dưới cát cũng có thể chín được, nhưng đó chỉ là nhiệt độ của cát chứ không phải là nhiệt độ của không khí.
Từ khoá: Nhiệt độ cao nhất; Nhiệt độ thấp nhất.
17. Vì sao độ nóng và độ lạnh ở Bắc bán cầu biến đổi lớn hơn Nam bán cầu?
Trong một năm nhiệt lượng ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống Bắc bán cầu và Nam bán cầu gần như nhau. Điểm khác nhau chỉ là mùa hè ở Bắc bán cầu ít hơn mùa hè ở Nam bán cầu, mùa đông ở Bắc bán cầu dài hơn mùa đông ở Nam bán cầu. Nhưng sự biến đổi nhiệt độ của Bắc bán cầu và Nam bán cầu lại khác nhau rất lớn. Bắc bán cầu biến đổi nhiều còn Nam bán cầu biến đổi ít.
Các mùa ở Bắc bán cầu và Nam bán cầu hoàn toàn ngược nhau. Khi Bắc là mùa hè nhận nhiệt lượng
Mặt Trời nhiều nhất thì Nam là mùa đông nhận nhiệt lượng ít nhất. Tháng giêng hằng năm có thể tiêu biểu cho mùa lạnh nhất của Bắc thì đó lại là thời kỳ Nam nóng nhất. Tháng 7 là mùa nóng nhất của Bắc thì đó là thời kỳ Nam lạnh nhất.
Theo nguyên lý, mặt đất nhận được nhiệt lượng giống nhau nhiệt độ sẽ tăng lên giống nhau. Nhưng trên thực tế tháng giêng ở Bắc và tháng 7 ở Nam, tháng 7 ở Bắc và tháng giêng ở Nam nhiệt độ lại khác nhau rất nhiều. Trước hết lấy nhiệt độ bình quân của một bán cầu để xét. Tháng giêng Bắc bán cầu là 8,1°C, tháng 7 là 22,4°C, cách nhau 13,4°C, tháng giêng ở Nam bán cầu là 17°C, tháng 7 là 9,7°C chỉ chênh nhau 7,3°C. Ta lại lấy nhiệt độ bình quân của vĩ độ riêng biệt để xét, ví dụ 40 vĩ độ Bắc tháng giêng là 5°C, tháng 7 là 24°C, chênh nhau 19°C, 40 vĩ độ Nam tháng giêng là 15,6°C, tháng 7 là 9°C, chỉ chênh nhau 6,6°C. Cuối cùng lấy nhiệt độ bình quân của những chỗ cá biệt mà xét. Ví dụ tháng giêng ở Bắc Kinh là - 4,7°C, tháng 7 là 26°C, chênh nhau 30,7°C. Ở Morbon (miền Nam Ôxtrâylia) tháng giêng là 20,6°C, tháng 7 là 9,8°C chỉ chênh nhau 10,8°C.
Tình hình trên đây chứng tỏ tuy cùng một điều
kiện bức xạ ánh nắng Mặt Trời, nhưng lạnh nóng lại biến đổi rất khác nhau. Đó là vì nguyên nhân gì? Nguyên nhân là nhiệt lượng bức xạ của ánh nắng Mặt Trời tuy là nguồn gốc làm cho nhiệt lượng không khí nóng lên, nhưng trực tiếp ảnh hưởng đến sự biến đổi nóng lạnh của không khí lại là nhiệt lượng bức xạ của mặt đất nhiều hay ít. Mặt đất tiếp thu nhiệt lượng của Mặt Trời đồng thời lại không ngừng thải nhiệt. Tình trạng mặt đất nhận và thải nhiệt rất phức tạp, đó là vì trên mặt đất tồn tại nhiều loại đất đá có tính chất khác nhau. Ví dụ nước, đá, đất, cây cối, nhà ở, v.v. những vật này tiếp thu năng lượng Mặt Trời không giống nhau. Lấy lục địa và hải dương để nói, vì nhiệt dung của chúng khác nhau, cho nên tình hình hấp thu và nhả nhiệt, phương hướng truyền nhiệt rất khác nhau. Do đó sự biến đổi nhiệt trên biển rất ít, còn sự biến đổi nhiệt trên đất liền luôn rất lớn.
Diện tích của Bắc bán cầu và Nam bán cấu là tương đương, nhưng sự phân bố biển và lục địa trên hai bán cầu lại rất khác nhau. Bắc bán cầu lục địa rất lớn. Diện tích lục địa trên Bắc bán cầu chiếm 39% tổng diện tích bán cầu, còn diện tích biển chiếm 81%. Vì diện tích biển Nam bán cầu lớn, về mùa hè khi Mặt Trời chiếu nắng rất mạnh, nước biển đã tích trữ một
lượng nhiệt rất lớn. Còn mùa đông Mặt Trời yếu ớt thì nước biển lại nhả ra rất nhiều nhiệt. Như vậy khiến cho mùa hè ở biển không nóng quá, mùa đông không lạnh quá. Sự biến đổi nhiệt trong một năm không lớn như Bắc bán cầu.
Từ khoá: Chênh lệch nhiệt độ; Nhiệt dung.
18. Vì sao khi Trái Đất gần Mặt Trời nhất thì Trung Quốc lại là mùa đông?
Chúng ta đều có kinh nghiệm: khi ta càng gần lò lửa thì cảm thấy nóng và sẽ càng lúc càng nóng, khi xa lò lửa cảm thấy nhiệt lượng ít và càng ngày càng lạnh.
Quỹ đạo Trái Đất quay quanh Mặt Trời theo hình elip. Cự ly giữa Trái Đất và Mặt Trời luôn luôn biến đổi. Các nhà thiên văn học cho ta biết: hằng năm ngày 3 tháng giêng là ngày Trái Đất gần Mặt Trời nhất, ngày 4 tháng 7 là ngày Trái Đất xa Mặt Trời
nhất. Mặt Trời là một khối cầu phát nhiệt. Theo nguyên lý thì càng gần Mặt Trời nhiệt độ càng nóng tức là thời kỳ Trái Đất nóng nhất nên là tháng giêng, lạnh nhất nên là tháng 7. Nhưng trên thực tế tháng giêng là mùa giá rét, còn tháng 7 là mùa hè nóng nực. Vì sao lại thế?
Nguyên là sự nóng lạnh của khí hậu tuy do nguồn nhiệt hấp thụ được từ Mặt Trời nhiều hay ít quyết định, nhưng khi Trái Đất gần Mặt Trời vẫn không phải là nguyên nhân chủ yếu để quyết định nhiệt lượng thu được nhiều hay ít. Bởi vì ngày 3 tháng giêng hàng năm, Trái Đất cách Mặt Trời khoảng 147 triệu km, ngày 4 tháng 7 Trái Đất cách Mặt Trời 152 triệu km, cự ly khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời của hai ngày đó chỉ chênh nhau 2% (khoảng 5 triệu km) cho nên ảnh hưởng của nhiệt lượng mà Trái Đất thu được không chênh nhau lắm.
Nguyên nhân chủ yếu quyết định sự nóng, lạnh của khí hậu trên Trái Đất là độ nghiêng chiếu sáng của ánh nắng Mặt Trời trên mặt đất. Nếu độ nghiêng này càng lớn thì nhiệt lượng một đơn vị diện tích trên mặt đất thu được càng ít. Ánh nắng mùa đông chiếu lên Bắc bán cầu hoàn toàn nghiêng, cộng thêm ngày ngắn đêm dài, cho nên khí hậu giá rét, còn mùa hè ánh nắng chiếu tương đối vuông góc với Trái Đất, cộng thêm ngày dài đêm ngắn cho nên khí hậu rất nóng.
Ở Nam bán cầu tháng giêng nóng, tháng bảy lạnh. Điều đó thực ra cũng không phải vì tháng giêng Trái Đất gần Mặt Trời, tháng bảy cách xa, mà vẫn là do độ nghiêng của ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống Nam bán cầu lớn hơn tháng 7.
Từ khoá: Độ chiếu nghiêng; Chiếu thẳng.
19. Vì sao mùa xuân và mùathu ở phương Bắc Trung Quốc rất ngắn?
Các mùa trong năm được phân chia và có tên gọi khác nhau nhờ vào mức độ lạnh, ấm của khí hậu và sự thay đổi dài, ngắn của ngày và đêm. Chúng ta đều biết rằng khí hậu mùa xuân và mùa thu ấm áp, mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh giá. Nếu như chia một năm thành bốn mùa thì số ngày của các mùa dường như là bằng nhau, chỉ hơn kém một hai ngày thì cũng không tính là có mùa ngắn hay mùa dài. Nhưng bởi vì vịtrí của các nơi trên Thế giới là khác nhau, có nơi ở phương Bắc, có nơi ở phương
Nam; có nơi cách xa biển, có nơi lại gần biển; có nơi là đồng bằng, có nơi lại là núi cao; có nơi thường có loại gió phương này thổi, có nơi lại thường có loại gió phương khác thổi; có loại ta gọi là gió Đông Nam, có loại ta gọi là gió Đông Bắc,… Vì thế, trong cùng một khoảng thời gian nhưng khí hậu ở các nơi cũng có rất nhiều khác biệt. Ví dụ, vào tháng một ở Cáp Nhĩ Tân khắp nơi là tuyết trắng nhưng ở Quảng Châu ta vẫn có thể nhìn thấy những bông hoa đang khoe sắc thắm. Thông thường, ta dùng nhiệt độ cao, thấp để phân định mùa theo những đặc điểm khí hậu thực tế của từng vùng miền. Ở Trung Quốc, cách thông dụng nhất là lấy nhiệt độ trung bình của mỗi hậu (năm ngày là một hậu), nhiệt độ phân giới giữa lạnh và ấm là 10°C và nhiệt độ phân giới giữa ấm và nóng là 22°C. Dưới 10°C được quy định là mùa đông, từ 10°C đến 22°C được quy định là mùa xuân và mùa thu, từ 22°C trở lên sẽ được quy định là mùa hạ. Căn cứ theo tiêu chuẩn đó để phân định ra các mùa thì độ dài ngắn bốn mùa của các vùng miền sẽ không giống nhau.
Mùa xuân ở phương Bắc Trung Quốc khá ngắn, thường không đến hai tháng. Ví dụ mùa xuân ở một số nơi như Bắc Kinh bắt đầu từ 1-5 tháng 4 đến 21-25
tháng 5, ở Thẩm Dương là từ 21-25 tháng 4 đến 10- 14 tháng 6, ở Cáp Nhĩ Tân là từ 26-30 tháng 4 đến 20-24 tháng 6. Có thể thấy thời tiết ở những vùng này, vừa dỡ đi lò sưởi của mùa đông là phải nhanh tay dựng lều hóng mát đón mùa hạ.
Việc xác định mùa là căn cứ theo nhiệt độ, như vậy việc tăng, giảm nhiệt độ nhanh hay chậm sẽ quyết định mùa dài hay ngắn. Ở phương Bắc Trung Quốc vào mùa đông, bức xạ Mặt Trời rất yếu, thời gian chiếu sáng lại ngắn, hơn nữa lại thường có luồng không khí lạnh từ phương Bắc tràn về, nhiệt độ rất thấp. Sau khi khoảng thời gian lạnh nhất vào tháng 1 qua đi, một mặt do bức xạ Mặt Trời dần mạnh hơn, mặt khác do lượng không khí lạnh không ngừng suy yếu nên nhiệt độ dần tăng lên, thời tiết cũng dần trở nên ấm áp hơn, nhưng lượng mưa thời gian này rất ít khiến cho không khí khô hanh. Đến hết tháng 3, do bức xạ Mặt Trời tiếp tục mạnh hơn và không khí lạnh tiếp tục suy yếu khiến cho nhiệt độ trên mặt đất nhanh chóng tăng cao. Do đó các vùng ở phương Bắc thông thường là từ tháng 3 đến tháng 4, biên độ nhiệt độ tăng lên cao nhất, nhiệt độ trong tháng 4 tăng lên rõ rệt so với tháng 3. Ví dụ, nhiệt độ trung bình ở Bắc Kinh vào tháng 3 là 4,4°C, lúc này thời tiết còn khá
lạnh, đến tháng 4 nhiệt độ trung bình là 13,2°C, lúc này trời đã sang Xuân, thời tiết ấm áp, dễ chịu.
Trong khoảng thời gian mùa xuân, lượng nước mưa vẫn chưa nhiều, ngoại trừ những ngày trời nổi gió thì phần lớn vẫn là những ngày nắng với không khí khô hanh, bức xạ Mặt Trời liên tục mạnh lên, nhiệt lượng được hấp thụ trên mặt đất tự tăng lên nhanh chóng, nhiệt độ không khí cũng theo đó tăng lên mạnh mẽ. Trải qua không đến 2 tháng mùa xuân là đã bắt đầu vào mùa hạ. Ví dụ nhiệt độ trung bình trong tháng 5 ở Bắc Kinh đạt tới 20,2°C, đến tháng 6 liền tăng cao đến 24,2°C. Cho nên mùa xuân ở Bắc Kinh thường khá ngắn.
Tương tự như vậy, sau khoảng thời gian nóng nhất vào tháng 7 qua đi, bức xạ Mặt Trời lại yếu dần, luồng không khí lạnh không ngừng mạnh lên, do đó nhiệt độ lại từng bước giảm thấp, biên độ giảm xuống thấp nhất là từ tháng 10 đến tháng 11. Ví dụ nhiệt độ trung bình vào tháng 10 ở Bắc Kinh là 12,5°C đến tháng 11 giảm xuống còn 4,0°C, lúc này đã vào Đông lạnh giá.
Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu khiến cho
mùa thu và mùa xuân ở phương Bắc Trung Quốc rất ngắn là bởi vì vĩ độ ở đây khá cao, mùa đông tới sớm và qua đi muộn. Vì vậy, mùa đông ở các khu vực vĩ độ phía bắc Bán cầu dài hơn các khu vực vĩ độ phía nam Bán cầu.
Từ khoá: Vĩ độ.
20. Vì sao nhiệt độ giữa miền Bắc và miền Nam Trung Quốc vào mùa đông chênh lệch rất nhiều,
còn vào mùa hèlạichênh lệch rất ít?
Vào mùa đông, nhiệt độ thấp nhất ở miền Bắc Trung Quốc thường hạ xuống đến -40~30°C, khắp nơi trên đồng ruộng đều bị phủ lên những lớp tuyết dày đặc. Trái lại, nhiệt độ ở miền Nam đều từ 0°C trở lên, nhiệt độ tối thiểu cũng không xuống dưới âm độ. Đến mùa hè, nhiệt độ giữa miền Bắc và miền Nam lại
chênh lệch rất ít, đây là quy luật gì?
Vì độ cao nhiệt độ trong không khí trên Trái Đất được quyết định bởi số lượng và cường độ bức xạ Mặt Trời mà bề mặt Trái Đất hấp thụ là nhiều hay ít và mạnh hay yếu. Nếu ánh sáng chiếu với cường độ mạnh trong một thời gian dài, bề mặt Trái Đất sẽ nhận một lượng nhiệt lớn từ các tia nắng của Mặt Trời, đồng thời làm cho lượng nhiệt trong không khí phát ra cũng sẽ nhiều, nhiệt độ không khí sẽ cao lên; nếu là ngược lại, thì nhiệt độ không khí sẽ thấp xuống.
Ở Bán cầu Bắc Trung Quốc, mùa đông thường có Mặt Trời chiếu sáng, tất cả là chiếu nghiêng. Do mức độ chiếu nghiêng-độ xiên của ánh sáng Mặt Trời khi chiếu xuống khác nhau, một số vùng miền Bắc độ nghiêng nhiều hơn so với miền Nam, lượng nhiệt từ Mặt Trời mà mỗi đơn vị diện tích trên mặt đất ở miền Bắc thu được ít hơn miền Nam, cũng có thể nói, cường độ chiếu sáng ở miền Bắc yếu hơn so với miền Nam Trung Quốc.
Nhìn từ góc độ độ dài thời gian chiếu sáng, vào mùa đông, thời gian chiếu sáng trong một ngày ở
miền Nam dài hơn ở miền Bắc. Ví dụ như trong suốt mùa đông, thời gian chiếu sáng ở thành phố Hải Khẩu, tỉnh Hải Nam khoảng 10.9 tiếng một ngày, mà ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, tỉnh Hắc Long Giang thì chỉ có khoảng 8.6 tiếng một ngày. Ngược lại cùng vào mùa hè nhưng thời gian chiếu sáng ở miền Bắc dài hơn miền Nam. Ví dụ như trong suốt mùa hè, ban ngày Cáp Nhĩ Tân dài đến khoảng 15.7 tiếng, còn Hải Khẩu chỉ có độ dài khoảng 13.2 tiếng.
Mặt khác, vào mùa đông, miền Bắc thường xuyên bị ảnh hưởng bởi sự hoạt động của luồng không khí phương Bắc, mang lại thời tiết lạnh ở những nơi có vĩ độ xa; ở miền Nam rất ít khi có luồng không khí như ở phương Bắc hoạt động nên nhiệt độ vẫn tương đối cao. Nhưng đến mùa hè, gió mùa Đông Nam hoạt động ở miền Nam, cũng có thể mang những luồng gió ấm thổi từ miền Nam lên miền Bắc.
Qua đó cho thấy, vào mùa đông, cường độ chiếu sáng ở miền Nam mạnh hơn miền Bắc, thời gian chiếu sáng lại dài, điều này đã làm cho nhiệt độ giữa miền Bắc và miền Nam khác nhau rất nhiều. Vào mùa hè, tuy độ chiếu sáng ở miền Nam mạnh hơn ở miền Bắc, nhưng thời gian chiếu sáng so với miền Bắc ngắn hơn,
mà lại còn có gió mùa Đông Nam hoạt động, có thể tiếp tục thổi lên miền Bắc, điều này cũng làm giảm đi sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa. Cho nên sự chênh lệch nhiệt độ vào mùa hè giữa hai miền Nam Bắc Trung Quốc tương đối ít, vì vậy hàng năm vào mùa hè, ở tỉnh Hắc Long Giang, nông dân vẫn có thể trồng lúa như thường lệ.
Từ khoá: Cường độ ánh sáng,thời gian chiếu sáng.
21. Vì sao Trùng khánh, Vũ Hán, Nam Kinh được gọi là “Balò lửa lớn”?
Trùng Khánh, Vũ Hán, Nam Kinh đều là những nơi có mùa hè vô cùng nóng nực, và đã trở thành những trung tâm nóng nực nổi tiếng ở Trung Quốc. Đây vốn được coi là “ba lò lửa lớn” của lưu vực sông Trường Giang. Mức độ nóng của những nơi này so với Tân Cương có sự khác biệt rõ rệt. Mỗi năm, cứ đến giữa mùa hè tầm tháng 7, Mặt Trời chiếu xuống vô số những ánh nắng chói chang. Xung quanh những cánh đồng lặng gió, nhiệt độ thường trên 30°C. Ở Trùng Khánh khi nóng nhất nhiệt độ lên tới 44°C, Vũ Hán đạt tới 42,2°C, Nam Kinh khoảng 43°C. Đêm xuống, khi Mặt Trời đã lặn, sức nóng vẫn không hề suy giảm, không giống như Thượng Hải, dù cho ban ngày rất nắng nóng, nhưng đêm đến có gió làm giảm sức nóng. Ở Trùng Khánh, Vũ Hán, Nam Kinh cho dù có gió vẫn rất nóng, khiến mọi người cảm thấy vô cùng khó chịu.
Vậy tại sao những địa danh trên lại nóng đến như thế? Nguyên nhân chủ yếu hình thành mùa hè vô cùng nóng nực ở Trùng Khánh và Vũ Hán là do ảnh hưởng của địa thế. Hai địa danh này đều nằm trong vùng lòng chảo của lưu vực lòng sông Trường Giang, bốn bề đều có núi bao bọc, diện tích đồng bằng ở giữa không lớn, địa thế tương đối hẻo lánh. Trong vùng lòng chảo trời nắng ít mây, sức nắng gay gắt. Gió Đông Nam từ ngoài biển thổi vào, do trên đường đi tới những vùng lòng chảo này, gặp phải rất nhiều núi, gò đồi ngăn cản, dẫn đến một bộ phận hơi nước tương đối lớn đã chuyển thành mưa, khi tới vùng lòng chảo, lượng hơi nước không còn nhiều. Thêm vào đó do từ trên núi thổi xuống vùng lòng chảo, từ trên cao thổi xuống thấp, dòng khí không đủ nặng nên không thể ngưng thành mưa, ngược lại khiến bầu trời càng quang hơn, nhiệt độ cũng càng cao hơn.
Ngoài ra còn có một nguyên nhân nữa là do tốc độ gió ở vùng lòng chảo rất chậm (Trùng Khánh vào tầm tháng 7 tốc độ gió trung bình mỗi giây là 1.1m, tốc độ gió ở Vũ Hán mỗi giây là 2.2m), sự lưu thông của gió không mạnh, khí nóng bên trong vùng lòng chảo thoát ra rất khó khăn, càng tăng thêm cường độ nóng.
Ngoài Trùng Khánh và Vũ Hán ra, mùa hè của Cửu Giang cũng vô cùng nóng, nguyên nhân cũng tương tự như hai địa danh nêu trên.
Còn nguyên nhân dẫn đến mùa hè nóng nực ở Nam Kinh, chủ yếu là do vào dịp tháng 7, đúng vào giữa mùa hè, khi thời tiết có mưa đã đi qua, trời nắng gắt không mây, thời gian Mặt Trời chiếu sáng trong ngày dài, đồng thời nơi đây lại ở vào vùng cận nhiệt đới dưới sự khống chế của áp lực không khí cao (đó là đỉnh khí áp cao của Thái Bình Dương) trong một thời gian dài, bầu trời cao có dòng khí nặng, thêm vào đó lại thuộc địa phận lòng sông Trường Giang, là nơi nằm trong phạm vi có nhiều đồi núi bao quanh, sức nóng trên bề mặt của mặt đất không dễ dàng giải tỏa, cho nên vào mùa hè, khí hậu ở Nam Kinh cũng vô cùng nắng nóng.
Từ khoá: Vùng lòng chảo; Khí áp cao cận nhiệt đới.
22. Vì sao gió cát trong mùa xuân
ở miền Bắc Trung Quốc lại đặc biệt lớn?
Khi mùa xuân đến với miền Bắc Trung Quốc, những cơn gió Tây Bắc tràn về mang theo mình cả cát bụi, khiến cho cảnh sắc mùa xuân nơi đây không còn tươi tắn.
Vậy cát bụi trong không trung từ đâu đến?
Mở bản đồ ra, chúng ta có thể thấy, gần phía tây đồng bằng Hoa Bắc là cao nguyên Hoàng Thổ, phía tây bắc lại là sa mạc Gôbi nổi tiếng. Chất đất của cao nguyên Hoàng Thổ và sa mạc đều là đất pha cát rất tơi xốp. Loại đất pha cát này khi gặp gió sẽ bị cuốn lên không trung. Mùa xuân ở miền Bắc của Trung Quốc thường xuyên có gió Tây Bắc thổi. Gió Tây Bắc đến từ tây Siberia, sau khi đi qua sa mạc Gôbi và cao
nguyên Hoàng Thổ, liền mang theo đất pha cát tới phía nam, khiến cho đồng bằng Hoa Bắc ngập chìm trong cát bụi. Đương nhiên, cũng vì mùa xuân ở Hoa Bắc là lúc thời tiết ít mưa và gió thổi mạnh, đồng thời cũng có một bộ phận cát bụi là đất tơi xốp của vùng đó hoặc các vùng lân cận bị gió to thổi cuốn tới mà dẫn tới hiện tượng gió cát trong mùa xuân ở miền Bắc Trung Quốc lại đặc biệt lớn như trên.
Thực ra không chỉ miền Bắc Trung Quốc có hiện tượng gió cát, mà ở phía nam, có lúc cũng xảy ra hiện tượng thời tiết như vậy. Khi đó bầu trời có màu xám vàng, Mặt Trời có phần bị che khuất, bụi cát vàng từ không trung rơi xuống, khiến cho mặt bàn và ghế trong phòng bị phủ một lớp cát mỏng, mịn. Trong tình trạng thời tiết như thế, nếu đi ra bên ngoài, khi trở về trên áo, mũ và mặt bạn cũng bị bám một lớp cát mịn.
Thì ra, loại cát này cũng giống cát ở sa mạc và cao nguyên Hoàng Thổ được thổi đến đến từ miền Bắc. Sau khi gió Tây Bắc làm nhiễu động một bộ phận tương đối nhỏ của cát và cuốn lên cao cùng gió thổi theo hướng Nam đến miền Nam, do sức gió đến từ miền Nam ở trên cao đã bị yếu đi, nên nó không
còn khả năng mang theo bụi cát khiến chúng bị rơi xuống.
Từ khoá: Gió cát mùa xuân.
23. Vì sao mùa xuân đến sớm trên đất Hoa Bắc?
Lượng mưa tuyết của cả năm ở Hoa Bắc Trung Quốc (bao gồm lượng mưa và lượng tuyết) bình quân đạt vào khoảng 600 mm. Có nơi mưa nhiều, có nơi mưa ít. Những nơi mưa nhiều như sườn đông núi Thái Sơn có thể đạt tới 1000 mm. Những nơi mưa ít chỉ có trên dưới 400 mm như ở sườn tây núi Thái Nguyên và một số vùng khác. Ở mỗi thời kỳ, lượng mưa tuyết trong cả năm phân bố không đồng đều, ngoài lượng mưa vào mùa hạ là nhiều nhất, các thời kỳ khác đều rất ít. Nếu lấy tháng 3, tháng 4, tháng 5 là mùa xuân, thì lượng mưa tuyết mỗi năm của mùa xuân chỉtrên dưới 10% so với cả năm. Ví dụ như ở Bắc Kinh, lượng mưa tuyết bình quân cả năm là 682,9 mm, tháng 3 đạt 9,1 mm, tháng 4 đạt 22,4 mm, tháng 5 đạt 36,1 mm. Theo ghi chép trong vòng
94 năm từ 1841-1960 thì lượng mưa tuyết từ tháng 3 đến tháng 5 có sự thay đổi như sau: Vào tháng 3 lượng mưa tuyết dưới 10% mm có trong 67 năm, chiếm tỉ lệ 71,3% trong số lượng các năm. Lượng mưa từ 10% đến 20% mm có trong 18 năm, chiếm tỉ lệ 19,2%, từ 20 mm trở lên có trong 9 năm, chiếm tỉ lệ 9,6%. Lượng mưa tuyết dưới 10 mm vào tháng 4 có trong 45 năm, chiếm tỉ lệ 47,9% trong số lượng các năm, lượng mưa tuyết từ 10-20 mm có trong 19 năm, chiếm 20,2%, lượng từ 20 mm trở lên có trong 30 năm, chiếm tỉ lệ 31,9%. Lượng mưa tuyết dưới 10 mm vào tháng 5 có trong 22 năm, chiếm 23,4% lượng mưa tuyết các năm, từ 10-20 mm có trong 20 năm, chiếm 21,3%, từ 20 mm trở lên có trong 52 năm, chiếm 55,3%. Có thể thấy lượng mưa tuyết bình quân dưới 10 mm chiếm 47,5%, mưa tuyết vào mùa xuân ở mức dưới 10 mm bình quân chiếm 20,2%, lượng mưa tuyết bình quân từ 20 mm trở lên chiếm 32,3%. Ghi chép này cũng cho thấy, lượng mưa bình quân trong 1 tháng dưới 20 mm chiếm 70%. Vì thế rất dễ xảy ra hiện tượng mùa xuân đến sớm.
Vì sao mùa xuân đến sớm trên vùng Hoa Bắc lại là vấn đề tương đối nghiêm trọng?
Điều này cần dựa vào lượng mưa tuyết Hoa Bắc để cắt nghĩa. Trung Quốc là đất nước có khí hậu gió mùa, mùa đông gió chủ yếu từ hướng Tây Bắc thổi tới, lượng khí ẩm rất ít, không khí lại rất khô hanh. Mùa Hạ gió chủ yếu từ vùng biển hướng Đông Nam thổi vào, mang theo luồng không khí ẩm, đây là căn nguyên chủ yếu của mưa tuyết. Mỗi năm, gió mùa hạ thổi vào Hoa Bắc muộn hơn một chút so với Hoa Trung và Hoa Nam, thời gian gió ngừng thổi lại sớm hơn so với Hoa Trung và Hoa Nam. Thông thường, thời kỳ gió mùa ở vùng Hoa Bắc vào khoảng tháng 7 và tháng 8. Hai tháng này cũng là mùa mưa trong năm ở Hoa Bắc. Trong mùa mưa, mưa tuyết rất nhiều, ví dụ như Bắc Kinh lượng mưa tuyết bình quân trong tháng 7 và tháng 8 chiếm 63% lượng mưa tuyết bình quân trong cả năm. Phần lớn vào mùa xuân, thời tiết ở khu vực Hoa Bắc vẫn bị khống chế bởi luồng không khí khô hanh của đại lục, muốn hình thành mưa tuyết là tương đối khó. Có điều khí hậu mùa xuân không ổn định như mùa đông. Đây là thời kỳ xuất hiện nhiều hiện tượng khí áp, một số hiện tượng khí áp thổi từ hướng Tây của Giao Viễn đến, do thời tiết khu vực Hoa Bắc và Tây Bắc sinh ra, khi mà dòng khí áp này đi qua, có thể gây ra thời tiết xấu như mưa tuyết và gió lớn. Mưa tuyết mùa xuân ở