🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 10 Vạn Câu Hỏi Vì Sao - Động Vật - Nguyễn Văn Mậu full prc pdf epub azw3 [Tự Nhiên Học] Ebooks Nhóm Zalo LỜI NHÀ XUẤT BẢN Mười vạn câu hỏi vì sao là bộ sách phổ cập khoa học dành cho lứa tuổi thanh, thiếu niên. Bộ sách này dùng hình thức trả lời hàng loạt câu hỏi "Thế nào?", "Tại sao?" để trình bày một cách đơn giản, dễ hiểu một khối lượng lớn các khái niệm, các phạm trù khoa học, các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và con người, giúp cho người đọc hiểu được các lí lẽ khoa học tiềm ẩn trong các hiện tượng, quá trình quen thuộc trong đời sống thường nhật, tưởng như ai cũng đã biết nhưng không phải người nào cũng giải thích được. Bộ sách được dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc do Nhà xuất bản Thiếu niên Nhi đồng, Trung Quốc xuất bản. Do tính thiết thực, tính gần gũi về nội dung và tính độc đáo về hình thức trình bày mà ngay khi vừa mới xuất bản ở Trung Quốc, bộ sách đã được bạn đọc tiếp nhận nồng nhiệt, nhất là thanh thiếu niên, tuổi trẻ học đường. Do tác dụng to lớn của bộ sách trong việc phổ cập khoa học trong giới trẻ và trong xã hội, năm 1998 Bộ sách Mười vạn câu hỏi vì sao đã được Nhà nước Trung Quốc trao "Giải thưởng Tiến bộ khoa học kĩ thuật Quốc gia", một giải thưởng cao nhất đối với thể loại sách phổ cập khoa học của Trung Quốc và được vinh dự chọn là một trong "50 cuốn sách làm cảm động Nước Cộng hoà" kể từ ngày thành lập nước. Bộ sách Mười vạn câu hỏi vì sao có 12 tập, trong đó 11 tập trình bày các khái niệm và các hiện tượng thuộc 11 lĩnh vực hay bộ môn tương ứng: Toán học, Vật lí, Hoá học, Tin học, Khoa học môi trường, Khoa học công trình, Trái Đất, Cơ thể người, Khoa học vũ trụ, Động vật, Thực vật; ở mỗi lĩnh vực các tác giả vừa chú ý cung cấp các tri thức khoa học cơ bản, vừa chú trọng phản ánh những thành quả và những ứng dụng mới nhất của lĩnh vực khoa học kĩ thuật đó; Các tập sách đều được viết với lời văn dễ hiểu, sinh động, hấp dẫn, hình vẽ minh hoạ chuẩn xác, tinh tế, rất phù hợp với độc giả trẻ tuổi và mục đích phổ cập khoa học của bộ sách. Do chứa đựng một khối lượng kiến thức khoa học đồ sộ, thuộc hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, lại được trình bày với một văn phong dễ hiểu, sinh động, Mười vạn câu hỏi vì sao có thể coi như là bộ sách tham khảo bổ trợ kiến thức rất bổ ích cho giáo viên, học sinh, các bậc phụ huynh và đông đảo bạn đọc Việt Nam. Trong xã hội ngày nay con người sống không thể thiếu những tri thức tối thiểu về văn hóa, khoa học; Sự hiểu biết về văn hóa, khoa học của con người càng rộng, càng sâu thì mức sống, mức hưởng thụ văn hóa của con người càng cao và khả năng hợp tác, chung sống, sự bình đẳng giữa con người càng lớn, càng đa dạng, càng có hiệu quả thiết thực; Mặt khác khoa học hiện đại đang phát triển cực nhanh, tri thức khoa học mà con người cần nắm ngày càng nhiều, do đó, việc xuất bản tủ sách phổ biến khoa học dành cho tuổi trẻ học đường Việt Nam và cho toàn xã hội là điều hết sức cần thiết, cấp bách và có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân văn rộng lớn; Nhận thức được điều này, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam cho xuất bản Bộ Mười vạn câu hỏi vì sao và tin tưởng sâu sắc rằng bộ sách này sẽ là người thầy tốt, người bạn chân chính của đông đảo thanh, thiếu niên Việt Nam, đặc biệt là học sinh, sinh viên trên con đường học tập, xác lập nhân cách, bản lĩnh để trở thành công dân hiện đại, mang tố chất công dân toàn cầu. NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM 1. Sự sống ra đời từ bao giờ? Trái Đất mà chúng ta đang sống là muôn hình muôn vẻ, đầy những sự sống đang sinh sôi. Cho đến nay, các loài sinh vật đã biết trên thế giới có khoảng hơn 1.400.000 loài, thêm vào đó có nhiều chủng loại mới vẫn chưa được phát hiện, các nhà khoa học dự đoán, trên cả Trái Đất tồn tại khoảng 10 triệu - 30 triệu loài sinh vật. Kì diệu là những loài này có số lượng lớn, hình dáng khác nhau nhưng lại do cùng một tổ tiên tiến hoá thành. Vậy thì tổ tiên cổ xưa này ra đời từ bao giờ, phát triển như thế nào? Muốn giải đáp vấn đề này, chứng cứ chủ yếu nhất chính là hoá thạch. Ngày nay, hoá thạch cổ xưa nhất mà loài người được biết đến là loài vi khuẩn nguyên thuỷ được phát hiện ở Australia, niên đại sinh tồn của nó cách đây khoảng 3,5 tỉ năm, căn cứ vào suy đoán này, tổ tiên của sự sống có thể xuất hiện cách đây 3,5 tỉ năm. Bốn tỉ năm trước đây, trên Trái Đất đã hình thành hải dương nguyên thuỷ, lúc đó nhiệt độ của nước biển rất cao, cùng với sự giảm dần của nhiệt độ nước đã xuất hiện những điều kiện bên ngoài cần thiết cho sự ra đời của sự sống mới. Tuy nhiên, tình trạng khí quyển vẫn rất tồi tệ, trong không khí hầu như không có oxi, như vậy, sự sống nguyên thuỷ xuất hiện sớm nhất chỉ có thể là sinh vật sống không cần oxi. Ngoài ra, do thiếu oxi, không gian trên Trái Đất không thể hình thành tầng ozon, không có tầng ozon ngăn cản, tia tử ngoại như đi vào nơi không người, cùng một lúc giết sạch và uy hiếp những sự sống non nớt, vậy là sự sống nguyên thuỷ đành phải sống thu nhỏ dưới biển sâu mười mấy mét, thậm chí mấy chục mét. Cùng với sự phát triển chậm chạp của sinh vật, 2,6 tỉ năm trước đây, loài tảo màu lam lục đã xuất hiện. Loài tảo này có chất diệp lục, có thể tạo ra oxi thông qua tác dụng quang hợp. Do vậy, các sinh vật đơn bào thích hợp với môi trường có oxi đã bước lên được vũ đài lịch sử. Phần lớn oxi lúc đó đều kết hợp với sắt trong nước biển hình thành nên oxit sắt. Do vậy, đã hình thành nên các mỏ sắt, ngày nay vẫn còn phổ biến trên thế giới, đó là tài nguyên, đã đảm bảo cung cấp được 70% nhu cầu sắt cho xã hội. Có thể nói, Trái Đất trong thời cổ đại xưa đã để lại một di sản to lớn cho loài người hiện nay. Một số người hiểu biết về quy luật di truyền có thể sẽ hỏi, sự tiếp diễn của sự sống được tiến hành thông qua một thông tin mật mã di truyền ADN, vậy thì mật mã di truyền đầu tiên của sự sống là do đâu truyền lại? Bởi vậy rất nhiều nhà khoa học đã làm nhiều cuộc nghiên cứu lớn, trong đó hai nhà khoa học Mĩ Oley và Miler đã làm một cuộc thực nghiệm rất nổi tiếng nhằm giải đáp vấn đề này. Họ trộn nước và các thành phần khí quyển như amoniac, CH4, hiđro... của thời kì Trái Đất nguyên thuỷ vào bình thuỷ tinh chịu nóng, và dùng hình thức phóng điện để mô phỏng chớp. Sau một tuần, trong bình thuỷ tinh đã sinh ra các phân tử hữu cơ như HCOOH, CH3COOH, CH3CHOHCOOH..., và các thành phần axit amin cấu thành protêin. Hiển nhiên những hiện tượng tự nhiên như chớp có thể tạo ra các phân tử hình thành nên sự sống, nhưng từ phân tử phát triển thành sự sống nguyên thuỷ là một quá trình rất dài, không thể làm một thực nghiệm đơn giản mà có thể đưa ra kết quả được. Nhưng bất luận như thế nào thì cuộc thực nghiệm đã đem đến quỹ đạo mà sự sống có thể phát triển, đồng thời đã làm cơ sở cho việc nghiên cứu cao hơn nữa. Sự sống phát triển đến 1,6 tỉ năm trước, các sinh vật đa tế bào đã hình thành từ đó, sự biến đổi của sự sống được thay đổi ngày càng nhanh chóng. Đến khoảng 700 triệu năm trước, động vật không có xương sống sinh sống ở biển đã xuất hiện và phát triển rất nhanh chóng, quần thể sinh vật nổi tiếng ở Australia chính là sản phẩm của thời kì này. Khoảng 570 triệu năm trước, sinh vật phát triển thành những kết cấu tổ chức cứng, nó khác so với sinh vật tổ chức mềm là chúng rất dễ biến thành hoá thạch. Bởi vậy, dấu vết hoá thạch ở các nơi trên thế giới từ thời kì này bắt đầu gia tăng nhanh chóng, địa chất học gọi thời kì này là kỉ tiền Cambri. Kỉ Cambri đến đã đánh dấu sự đa dạng hoá nhanh chóng của sinh vật, do vậy, thời kì này cũng được gọi là thời kì bùng nổ của sự sống. Ngày nay, các sinh vật đại biểu nhiều lớp trên thế giới mà chúng ta có thể liệt kê ra đều có thể tìm được trong quần thể hoá thạch của thời kì đó. 2. Tại sao sinh vật có thể bị tuyệt chủng? Chim Đô Đô và chim bồ câu Bắc Mĩ là những sinh vật đã từng tồn tại trên Trái Đất với số lượng lớn và sớm đã trở thành di vật của lịch sử. Những loại động vật quý hiếm khác như hổ Đông Bắc, voi Châu Phi, hắc tinh tinh... hiện nay cũng đã đến thời điểm mấu chốt của sự tồn vong. Các nhà khoa học dự đoán, thời đại mà chúng ta đang sống chính là thời đại tai hoạ của sinh vật, tốc độ tuyệt chủng của nó tương đương gấp 4000 lần của thời đại khủng long. Vậy thì tại sao sinh vật có thể bị tuyệt chủng khi mà rất khó biến hoá thành công? Tại sao hiện nay tốc độ tuyệt chủng lại nhanh như vậy? Đầu tiên, chúng ta hãy nhìn xem chim Đô Đô bị tuyệt chủng như thế nào? Chim Đô Đô thân dài 1 m, có thể nặng tới 20 kg, đã từng sống trên đảo Mađagasca - Châu Phi. Tuy được gọi là chim nhưng nó lại giống gà, vịt nuôi ở nhà mà hiện nay chúng ta thường thấy. Chúng không có khả năng bay lượn. Khi dấu chân của loài người đặt lên mảnh đất màu mỡ này thì thịt của chim Đô Đô đã nhanh chóng xuất hiện trên bàn ăn. Vậy là trong thời gian không đầy 200 năm, chim Đô Đô đã bị loài người tiêu diệt sạch. Chim bồ câu Bắc Mĩ cũng có số phận tương tự như vậy, chỉ khác là tốc độ tuyệt chủng nhanh hơn. Năm đó, giữa Mĩ và Mêhicô có khoảng mấy tỉ con chim bồ câu Bắc Mĩ tự do bay lượn, số lượng nhiều đến nỗi khiến người ta cảm thấy khiếp sợ. Ngay sau đó, những tiếng súng vang dội lên không trung không ngớt và đến năm 1914 thì loài động vật nhỏ bé này đã bị đi vào con đường tuyệt chủng. Từ hai ví dụ trên, chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động của loài người là nguyên nhân chủ yếu làm cho một số động vật bị tuyệt chủng. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội loài người khi con người bắt đầu sử dụng các loại công cụ hiện đại để chặt cây, phá rừng thì những cánh rừng hoang dã xưa kia dần dần bị những toà nhà cao tầng chiếm lĩnh, phá huỷ nơi sinh sống vui chơi của rất nhiều loài động vật. Loài người phát triển đã trực tiếp gây ra các nguồn ô nhiễm cùng với không gian sinh sống của chính mình. Việc xả nước bẩn và nước thải đã làm cho sự sinh sôi của động vật bậc thấp bị ảnh hưởng nghiêm trọng và cũng gây khó khăn đến nước uống cho động vật bậc cao. Ngay sau đó, chúng ta nhìn thấy một số khu vực có trình độ công nghiệp hoá tương đối cao, không chỉ là động vật hoang dã, có khi cả những vật nuôi trong nhà cũng sẽ biến thành dị dạng. Nếu tiếp tục như vậy, sự tuyệt chủng của các loài động vật này chỉ còn là vấn đề thời gian. Loài người còn đưa nhiều động vật lên bàn ăn, ví dụ như ếch. Từ sau khi trở thành món hàng thường xuyên có mặt ở chợ thì việc quản lí đồng ruộng ngày càng ỷ lại vào thuốc trừ sâu. Sự ô nhiễm của thuốc trừ sâu ngược lại đã phá hoại môi trường sinh thái của ếch, sự tuần hoàn ác nghiệt này chắc chắn sẽ đưa loài ếch đi vào con đường tuyệt chủng. Thực ra, không chỉ có loài ếch mà cả loài bò sát, loài chim, loài động vật có vú, thậm chí cả côn trùng cũng đều trở thành đối tượng truy đuổi của các thực khách. Sự xuất hiện của một loài sinh vật phải trải qua sự biến hoá mấy vạn năm, mấy chục vạn năm, vậy mà muốn tiêu diệt nó có lẽ chỉ cần thời gian mấy năm. Đương nhiên, sự tuyệt chủng của một số loài sinh vật là một sự tất nhiên trong lịch sử tiến hoá sinh vật. Ví dụ như quần thể sinh vật cách đây 600 triệu năm, do sự phát triển của động vật đã xuất hiện quần thể mô cứng như loài giáp xác...; những sinh vật chỉ có kết cấu mô nhuyễn thể không chống lại được sự tấn công đành phải trở thành miếng mồi ngon cho các động vật khác; có thể nói đây là một loài sinh vật kế thừa của đời trước. 3. Chất xúc tác trong cơ thể sinh vật có tác dụng gì? Bất kể động vật, thực vật hay loài người, trong cơ thể đều tồn tại các loại chất xúc tác, hoạt động sống của chúng đều không thể tách rời sự giúp đỡ của chất xúc tác. Chất xúc tác quan trọng như vậy, trên thực tế là một loại protêin1 có tác dụng xúc tác trong cơ thể sinh vật. Dưới tác dụng của chất xúc tác mới có thể có hoạt động sự sống như tiêu hoá, hô hấp, vận động, sinh trưởng, phát dục, sinh sôi... mới có thể xuất hiện sự biến đổi hoá học như sự trao đổi vật chất... Chất xúc tác có tác dụng xúc tác rất mạnh, có thể nâng tốc độ phản ứng sinh hoá trong cơ thể sinh vật lên 100 triệu ~ 10 tỉ lần. Ví dụ loài người hay một số động vật bậc cao thì trong thức ăn có một lượng tinh bột lớn, những tinh bột này được đưa vào trong cơ thể, nếu như không có chất xúc tác tinh bột tham gia vào xúc tác thì không thể thuỷ phân thành monosacarit mà cơ thể sinh vật có thể sử dụng được. Có thể nói, động vật đưa thức ăn vào đường ruột tiêu hoá phân giải, sau đó, vật chất phân giải ra sau khi được hấp thu, trong các tổ chức tế bào tiến hành sự biến đổi phức tạp và biểu hiện ra thành các hiện tượng của sự sống thì đều được tiến hành dưới tác dụng của chất xúc tác. Thực ra, không chỉ là động vật và loài người mà hạt giống của thực vật qua nảy mầm, khai hoa, kết quả và tiến hành tác dụng quang hợp cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của chất xúc tác được. Chất xúc tác phát huy được tác dụng quan trọng trong cơ thể sinh vật và cũng đặc biệt thích hợp "sinh tồn" trong cơ thể sinh vật. Đây là do chất xúc tác đặc biệt mẫn cảm đối với nhiệt độ cao, mà phản ứng sinh hoá trong cơ thể sinh vật đều là được tiến hành dưới nhiệt độ thường, áp suất thường, làm cho chất xúc tác thường ở trạng thái hoạt tính. Nếu như chất xúc tác bị đốt nóng lên thì chúng sẽ mất đi hoạt tính. 4. Có sinh vật nào không bao giờ bị chết không? Rất nhiều sinh vật, kể cả con người đều không tránh khỏi cái chết. Đây là một hiện tượng tự nhiên mà tất cả mọi người đều phải chấp nhận. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu tỉ mỉ thì có thể phát hiện, đối với vi khuẩn và đại đa số động vật nguyên sinh thì chết không phải là một kết quả tất nhiên, điều này là như thế nào? Tại sao sự sống lại phải chết? Chúng ta đều biết, bản chất của sự sống là gen di truyền. Do tác dụng của các nhân tố bên ngoài như tia tử ngoại, ô nhiễm v.v. và sự thay đổi bên trong của các tế bào, kết cấu gen sẽ không thể tránh được phát sinh tổn thương nhất định. Thông thường, tổn thương này có thể bị loại bỏ thông qua chức năng phục hồi của chính tế bào, nhưng nếu như sự tổn thương đã đạt đến mức độ nhất định thì sự phục hồi là rất khó khăn hoặc không thể phục hồi được hoàn toàn, dẫn đến sự lão hoá của các cơ quan, của các tế bào, cuối cùng dẫn đến cái chết của sinh vật. Chết là một kết cục không thể tránh được. Vậy thì tại sao còn có sinh vật không bao giờ chết? Nguyên nhân của cái gọi là những vi khuẩn hay một số động vật nguyên sinh không chết là vì chúng có một khả năng tự phục chế rất mạnh. Lấy trùng biến hình amíp làm ví dụ. Sinh vật loại nhỏ này trong thời gian rất ngắn, thông qua phân tách có thể tự phục chế với số lượng lớn. Như vậy, cho dù một vài cá thể có thể lão hoá, có thể chết, nhưng cá thể khác vẫn đang phục chế, chỉ cần điều kiện dinh dưỡng cho phép thì chúng vẫn có thể phục chế không ngừng. Bởi vậy, người và động vật đa tế bào khác sở dĩ có thể chết là do trong tế bào có cơ chế ngăn chặn sự phân tách không hạn chế, giống như lắp một bộ phanh xe tốt. Nếu không phải như vậy thì loài người chúng ta không thể tưởng tượng nổi sẽ đông đến như thế nào. Nếu như bộ phanh xe nào đó mất tác dụng, tế bào ở đó cứ liên tục phân tách, sinh sôi không hạn chế, cuối cùng sẽ hao mòn hết toàn bộ chất dinh dưỡng trong cơ thể sinh vật, tế bào đó sẽ trở thành tế bào ung thư. 5. Tại sao sinh vật cũng có thể khai thác quặng? Nói đến hầm mỏ chúng ta nghĩ ngay sẽ một cảnh tượng máy móc chạy ầm ầm trên công trường, những chiếc cần cẩu to lớn chuyển một số lượng lớn quặng lên những chiếc xe tải... Song phương thức khai thác mỏ kiểu này chỉ thích hợp với khai thác quặng giàu, còn đối với một số quặng nghèo thì chi phí máy móc khai thác quặng và tinh luyện kim loại phải trả rất cao, mất đi giá trị kinh tế của khai thác. Trong trường hợp như vậy, các nhà khoa học liền lợi dụng sinh vật để giải quyết vấn đề khó này. Ví dụ như có một số quặng đồng có hàm lượng đồng rất thấp, không có giá trị chiết xuất, nhưng cũng không thể để lãng phí. Lúc này vi khuẩn có thể phát huy được tác dụng đặc biệt của mình. Người ta để quặng chất đống trong nước ao, để một số vi khuẩn đặc biệt sinh sôi nhiều trong nước ao, chúng biến sunfuarơ (đioxit lưu huỳnh) thành axit sunfuric, mà dung dịch axit sunfuric có thể hoà tan đồng trong quặng đồng thành dung dịch sunfat đồng. Như vậy, việc chiết xuất đồng từ trong sunfat đồng đơn giản hơn nhiều. Sinh vật khai thác quặng có khi còn cần sự tham gia đồng thời của động vật và thực vật. Trong bảng tuần hoàn các nguyên tố kim loại có một thành viên gọi là tanta, nó thuộc vào kim loại hiếm, chiết xuất khó, do vậy giá cả rất đắt. Trước đây, con người chỉ có thể chiết xuất được số lượng ít tanta từ trong phòng thí nghiệm, được coi là vật liệu nghiên cứu quan trọng. Sau đó phát hiện ra có một loại thực vật gọi là cỏ tử linh lăng có thể hấp thu được tanta, đem lại hi vọng mới cho việc sản xuất số lượng tương đối lớn tanta. Nhưng trong sản xuất thực tế, con người đã gặp phải rắc rối, bởi vì cỏ tử linh lăng là một loại cỏ nuôi súc vật rất tốt, nếu như đem toàn bộ chúng đốt thành than, lại từ trong than chiết xuất tanta thì sẽ lãng phí mất một số lượng lớn cỏ nuôi súc vật. Để giải quyết mâu thuẫn này, các nhà khoa học lại tiến hành nghiên cứu sâu hơn, kết quả phát hiện ra rằng, trong phấn hoa của cỏ tử linh lăng có lượng tanta rất cao. Vậy là người ta đã tìm ra được một biện pháp tốt đạt được cả hai mục đích. Ở vùng cỏ tử linh lăng nuôi súc vật, người nuôi thả nhiều ong mật, lợi dụng ong mật làm "tay truyền bá thứ hai" chiết xuất tanta. Như vậy lấy cỏ tử linh lăng hấp thu tanta từ trong đất, lấy ong mật thu thập phấn hoa và gây mật, cuối cùng con người chiết xuất ra tanta quý hiếm từ trong mật ong. Kết quả là cỏ tử linh lăng không cần phải thiêu huỷ, mật ong qua chiết xuất vẫn rất thơm, ngọt và còn là thực phẩm giàu chất dinh dưỡng. Phương pháp mới để sinh vật khai thác quặng càng ngày càng được sự hoan nghênh, do nó có nhiều ưu điểm. Phương thức khai thác quặng này không cần nhiều thiết bị phức tạp, có thể kết hợp việc khai thác quặng với tinh luyện thành một, không chỉ thao tác thuận tiện và giá thành thấp, còn đặc biệt thích hợp với quặng nghèo, quặng phế liệu, quặng còn lại và xử lí quặng cặn, đã có tác dụng thần kì biến quặng phế thải thành quặng quý hiếm. 6. Động vật khác với thực vật ở điểm nào? Động vật và thực vật đều thuộc về sinh vật nhưng chúng lại là hai loại sinh vật lớn khác nhau hoàn toàn, hầu như mọi người đều có thể phân biệt được chúng. Nhưng có một số loại vừa giống động vật lại vừa giống thực vật, ví dụ như san hô mà mọi người đều rất quen thuộc, cách đây hơn 100 năm về trước, do nó nhìn giống như có rễ cây, thân cây, lá cây và cành cây nên dễ nhận nhầm nó là một loại thực vật. Vậy thì rốt cuộc động vật và thực vật có những sự khác biệt chủ yếu nào? Các nhà khoa học quy nạp thành bốn phương diện. Hầu như tất cả thực vật đều nảy mầm sinh trưởng, khai hoa kết quả cùng một chỗ, cũng có thể nói là nếu không động đến gốc đất thì sống được cả đời. Đương nhiên, bên trong này cũng có chút ngoại lệ, như thực vật thuỷ sinh loại nhỏ sống trôi nổi trên nước. Trái ngược lại với thực vật, đại đa số động vật để tìm thức ăn, tránh địch hay nguyên nhân khác thường chạy đi chạy lại, nằm ở trạng thái vận động. Thực vật từ nhỏ đến lớn, các khí quan vẫn phát sinh thay đổi tăng giảm không giống nhau, ví dụ như thời kì nhỏ chỉ có rễ cây, thân cây, lá cây, sau khi trưởng thành mọc ra hoa, sau khi hoa héo tàn lại kết thành quả. Mà đại đa số động vật (trừ động vật bậc thấp) bất kể là bé hay lớn thì các khí quan như ngũ quan, tứ chi không tăng không giảm, chỉ có thể tích là to nhỏ không giống nhau. Ví dụ sư tử con hay hổ con vừa được sinh ra đã có đầy đủ các khí quan giống như cha mẹ của chúng. Về đặc tính thói quen sinh sống của hai loài thì thực vật có đặc điểm rất quan trọng, là ngoài một số ít thực vật kí sinh và ăn ruỗng ra, chúng đều có thể tiến hành tác dụng quang hợp, có thể tự tạo ra "lương thực" nuôi sống chính mình. Động vật lại không thể làm được điều này, chúng chỉ có thể dựa vào thức ăn thực vật hoặc thức ăn động vật khác để nuôi sống bản thân. Sự khác biệt giữa thực vật và động vật còn có một tiêu chuẩn rất rõ rệt. Quan sát tế bào của chúng dưới kính hiển vi thì sẽ phát hiện tế bào của thực vật đều có một tầng vách tế bào vừa dày vừa cứng, mà tế bào động vật thì chỉ có màng tế bào lại không có vách tế bào. 7. Vi sinh vật có những đặc điểm gì? Trong vương quốc của sinh vật có một loại sinh vật đơn bào đặc biệt nhỏ, do vậy các nhà khoa học gọi chúng là vi sinh vật. Vi sinh vật ngoài cá thể nhỏ ra, còn có điểm nào khác nữa? Thứ nhất, vi sinh vật có khả năng sinh sôi đáng kinh ngạc, chỉ cần điều kiện thích hợp, trong thời gian 20 phút, thậm chí ngắn hơn, nó có thể sinh ra một thế hệ mới. Nếu như không có sự hạn chế của điều kiện tự nhiên, một vi sinh vật chỉ cần sinh sôi trong thời gian 2 ngày, con cháu đời sau tập hợp lại thì trên Trái Đất này có nhiều đến mức không thể tưởng tượng được, sức sinh sôi quá lớn như vậy là sự lạc hậu của các vi sinh vật. Khả năng thích ứng sinh tồn của các vi sinh vật cũng vượt xa các sinh vật khác. Ví dụ, có một loại vi khuẩn có thể tiến hành tác dụng quang hợp dưới ánh sáng Mặt Trời, có thể sống không dựa vào khí oxi, nhưng một khi để chúng trong môi trường tối thì chúng có thể lập tức thay đổi lợi dụng khí oxi để sống. Nếu như đặt chúng ra nơi có ánh sáng thì chúng lại có thể lập tức tiến hành tác dụng quang hợp, sống không cần khí oxi. Các nhà khoa học khi nghiên cứu khả năng thích ứng của các vi sinh vật đã phát hiện một khi chất dinh dưỡng mà chúng hấp thu có thay đổi thì nó sẽ phát sinh biến hóa tương ứng trong 1/1000 giây. Nếu như điều kiện môi trường thay đổi xấu đi nhanh chóng thì có một số vi sinh vật sẽ đi vào trạng thái ngủ đông để chống lại môi trường tồi tệ bên ngoài, chờ điều kiện môi trường được cải thiện thì nó sẽ tỉnh lại. Ví dụ như bào tử vi khuẩn nằm ở trạng thái ngủ đông, không sợ nhiệt độ cao, áp suất cao, khô và đói, có thể nói là bào tử hầu như có thể sinh tồn dưới bất kì điều kiện tồi tệ nào. Vi sinh vật còn có một đặc trưng kì diệu là dễ thay đổi, cũng có thể nói là chúng dễ thay đổi theo sự thay đổi của tự nhiên, làm cho chúng có thể an cư lạc nghiệp trong môi trường mà các sinh vật khác không thể tồn tại được. Ví dụ, có một số vi sinh vật có thể sống trong nước nóng 90oC hoặc trong axit sunfuric loãng và axit clohiđric loãng. Chính vì vậy các vi sinh vật nhỏ bé mới trở thành một loại sinh vật phân bố rộng rãi nhất trên Trái Đất. 8. Vi sinh vật có thể tự nhiên sinh sôi không? Một đĩa thức ăn để lâu thì sẽ sinh ra một số sinh vật nhỏ bé. Có khi chúng ta chỉ biết thức ăn bị biến chất nhưng lại không thể nhìn thấy những sinh vật nhỏ bé này. Đó chính là bởi vì thị lực của chúng ta chưa đạt đến mức đó. Nếu như đặt thức ăn dưới kính hiển vi để kiểm tra thì kết quả sẽ khiến mọi người ngạc nhiên. Hoá ra trong đó có hàng nghìn hàng vạn sinh vật nhỏ bé. Chúng ta gọi những sinh vật nhỏ bé này là vi sinh vật. Vậy thì vi sinh vật trong thức ăn xuất hiện bằng cách nào? Thực tế đặt ra trước mắt chúng ta là, trong thức ăn vốn không có vi sinh vật, sau này chúng mới sinh sôi ra. Bởi vậy, lúc đầu mọi người cho rằng vi sinh vật là tự nhiên xuất hiện từ trong thức ăn, học thuyết này được gọi là thuyết sản sinh tự nhiên của vi sinh vật. Vào thế kỉ XVII, nhà nghiên cứu sinh vật của Italia phủ nhận cách nói này. Ông đã làm một cuộc thực nghiệm. Cuộc thực nghiệm như sau: trong hai bình đều để thịt, một bình mở nắp, còn bình kia dùng miếng vải mỏng bịt kín. Sau một thời gian thì có ruồi bay vào trong bình mở nắp, tiếp sau đó sinh ra dòi, còn bình bịt vải kia lại vẫn không thấy ruồi và dòi. Rõ ràng thịt thiu thối không thể xuất hiện ruồi. Ruồi chỉ có thể là kết quả sinh sôi của đời trước. Cuộc thực nghiệm này của Leidy đã phủ nhận thuyết sản sinh tự nhiên. Nhưng những người giữ ý kiến ngược lại thì cho rằng, ruồi là loài động vật ở bậc cao tương đối nên không thể tự nhiên phát sinh, nhưng không có nghĩa là vi sinh vật cũng không thể tự nhiên phát sinh. Tạm thời thì ý kiến của hai bên giằng co vẫn chưa ngã ngũ. Ít lâu sau, khi bước vào thế kỉ XVIII. Cha cố của đạo Thiên chúa đồng thời là nhà nghiên cứu sinh vật của Anh, John - Niderhan cũng đã làm một cuộc thực nghiệm để ủng hộ thuyết sản sinh tự nhiên. Ông để nước thịt cừu đun nóng trên lửa 5 phút, cho vào trong bình và dùng gỗ mềm đậy kín. Theo lí thuyết thì trong trường hợp này, vi sinh vật và ruồi trong không khí không có cách nào chui vào trong bình được, cũng không thể có vi sinh vật nào sinh sôi được. Nhưng sau vài ngày, kết quả kiểm tra lại hoàn toàn trái ngược lại: trong nước thịt cừu có rất nhiều vi sinh vật đang hoạt động. Vậy là thuyết phát sinh tự nhiên đã tìm ra được những chứng cứ mới. Chính vào thời điểm này, ở Italia đã xuất hiện một nhà khoa học tên là Lazzaro Spallanzani. Spallanzani cho rằng, khuyết điểm của Niderhan có thể xuất hiện ở khâu đun nóng trong 5 phút này, nếu như 5 phút không đủ để giết chết tất cả các vi sinh vật ở trong bình, vậy thì kết quả này là bình thường. Bởi vậy, ông Spallanzani đã phỏng theo phương pháp của Niderhan để làm một cuộc thực nghiệm, ông đổ nước thịt cừu vào trong mấy bình, sau khi đun nóng bịt kín miệng bình, trong đó một bình đun nóng 5 phút, các bình còn lại đun nóng 1 giờ. Vài ngày sau, Spallanzani đã kiểm tra, nhận thấy trong bình đựng nước thịt cừu đun nóng 5 phút thì có đầy vi sinh vật, còn trong bình đựng thịt cừu đun nóng 1 giờ thì không có sự tồn tại của bất kì vi sinh vật nào. Sự việc đến đây đã được chứng minh rất rõ ràng rồi, nhưng Niderhan đã phản kích lại: "Đun nóng 1 giờ khó mà làm cho vi sinh vật sinh sôi tự nhiên sợ mà chết hết sạch được, hơn nữa, Spallanzani dùng phương pháp khi đun nóng bịt kín bình, e rằng đã đẩy hết không khí trong bình ra ngoài, trong trạng thái chân không thì vi sinh vật tồn tại làm sao được”? Hiển nhiên là Niderhan đã đuối lí, do vi sinh vật đã có thể phát sinh tự nhiên thì sẽ không cần tới điều kiện nước đã đun nóng bao lâu, vấn đề chỉ là trong trạng thái chân không thì kết quả thực nghiệm liệu đem lại cùng một kết quả không. Trong trường hợp này, Spallanzani khi tiến hành cuộc thực nghiệm tiếp theo, đặc biệt chú ý khi bịt kín bình tránh để không khí lọt ra ngoài, kết quả chứng minh là hoàn toàn giống nhau, như vậy, cuối cùng Niderhan đã không thể nói vào đâu được nữa. Năm 1860, nhà khoa học kiêm nhà vi sinh vật học nổi tiếng người Pháp, Louis Pasteur đã thiết kế một cuộc thực nghiệm hợp lí hơn. Ông đổ nước thịt đun nóng vào bình chịu nhiệt cổ dài và cong, vừa không hạn chế sự ra vào của không khí, cũng không đun nóng bình, kết quả phát hiện ra vi sinh vật đều dính lại phần cong ở cổ bình, còn trong bình không có sự xuất hiện của vi sinh vật. Rõ ràng, vi sinh vật xâm nhập vào từ trong không khí, từ đó đã phủ định triệt để thuyết phát sinh tự nhiên. Đương nhiên, vi sinh vật và tất cả các sinh vật khác cũng giống nhau, đều phải trải qua năm tháng dài mới dần dần biến hoá thành, nhưng quá trình tiến hoá với thuyết phát sinh tự nhiên nói ở trên có sự khác nhau về bản chất. 9. Tại sao vi sinh vật trong đất lại rất nhiều? Nếu như từ trong một miếng đất màu mỡ, bạn lấy ra một ít đất đặt dưới kính hiển vi kiểm tra thì sẽ phát hiện có rất nhiều vi sinh vật hình thù kì lạ, đủ kiểu sống ở trong đất, tưởng như là đi vào trong một thế giới muôn màu muôn vẻ. Trong 1 gam đất như vậy, số lượng các vi sinh vật có thể nhiều tới mấy tỉ, do vậy con người gọi đất là "ngôi nhà" mà các vi sinh vật thích cư trú nhất. Tại sao trong đất lại có nhiều vi sinh vật đến như vậy? Nguyên nhân chủ yếu nhất là do đất đã cung cấp đầy đủ cho vi sinh vật thức ăn và môi trường sinh sống thích hợp. Chúng ta đã biết, sau khi các loài động thực vật chết đi, thi thể của chúng được chôn trong đất. Điều này làm cho vi sinh vật có nguồn thức ăn không bao giờ cạn. Ngoài ra, trong đất còn có nhiều chất khoáng, như kali, natri, magiê, sắt, lưu huỳnh, photpho..., những khoáng chất này đều là những vật chất cần thiết để bảo đảm cho vi sinh vật có thể sinh trưởng bình thường. Đối với vi sinh vật mà nói thì đất là một môi trường sống đặc biệt thích hợp. Bởi vì trong đất có hàm lượng nước nhất định có thể đáp ứng được nhu cầu sinh trưởng của vi sinh vật, có lượng không khí vừa phải để cung cấp cho vi sinh vật thở, độ axít trong đất gần như trung tính, làm cho đại đa số vi sinh vật đều có thể thích ứng. Ngoài ra còn có một điểm rất quan trọng nữa là sự thay đổi nhiệt độ của bốn mùa trong một năm dưới lòng đất không nhiều, mùa hè không phải chịu cái nóng của Mặt Trời chói chang, mùa đông không có gió lạnh thổi. Do đất có điều kiện môi trường ưu việt như vậy, nó chính là môi trường sống lí tưởng cho nhiều vi sinh vật, do vậy, rất nhiều vi sinh vật muốn sinh sống trong lòng đất. 10. Hình dáng của vi sinh vật nào là nhỏ nhất? Nếu như nói đến các thành viên có thân hình lớn nhất trong thế giới sinh vật thì hầu như tất cả mọi người đều biết dưới hải dương có cá voi, trên mặt đất có voi và còn có loại cây thông lớn thân cao đến 100 m. Nhưng nếu muốn hỏi hình dáng của sinh vật nào là nhỏ nhất thì rất khó trả lời. Trước đây, mọi người đều cho rằng vi khuẩn là sinh vật nhỏ bé nhất, bởi vì mắt thường của con người không nhìn thấy được, mà phải sử dụng kính hiển vi mới có thể nhìn thấy được. Năm 1892, nhà khoa học người Nga Ivanovoski đã phát hiện ra một loại siêu vi trùng, hình dáng thực sự quá nhỏ, kính hiển vi thông thường về cơ bản không thể tìm được tung tích của nó, phải dựa vào kính hiển vi phóng lớn mấy vạn lần hoặc mấy chục vạn lần mới có thể làm cho siêu vi trùng đó hiện hoàn toàn nguyên hình. Lúc đầu, mọi người cho rằng siêu vi trùng đó không thuộc về sinh vật, bởi vì kết cấu của nó quá đơn giản, ngay cả một tế bào hoàn chỉnh cũng không có. Ngoài ra, nó cũng không giống như các vi sinh vật khác, có thể phát triển và sinh sôi trong nơi nuôi cấy. Sau khi con người lấy siêu vi trùng ra từ trong tế bào, dường như không biểu hiện ra hiện tượng có sự sống, nhưng sau khi đưa chúng vào tế bào thì lại hiện ra đặc trưng của sự sống hoàn toàn. Siêu vi trùng hầu như nằm ở giáp ranh sinh vật và phi sinh vật. Sau khi siêu vi trùng được phát hiện thì tất cả các nhà khoa học đều công nhận siêu vi trùng là vi sinh vật nhỏ nhất. Nhưng đến năm 1971, các nhà khoa học phát hiện ra kẻ đầu sỏ gây ra bệnh thân củ hình cọc sợi cho củ khoai tây là một loại vật chất sinh vật nhỏ hơn, đơn giản hơn so với siêu vi trùng. Nó còn nhỏ hơn 80 lần so với siêu vi trùng nhỏ nhất đã biết lúc đó. Do vậy, các nhà khoa học đặt tên nó là "virut". Virut không có protêin, chỉ có axit nucleic, ngoài ra khối lượng phân tử (phân tử lượng) của cả cơ thể gần như bằng với một số phân tử hữu cơ không có sự sống. Bởi vậy, virut chính là vi sinh vật nhỏ nhất hiện nay mà loài người phát hiện được. 11. Tại sao động vật có thể tồn tại được trong sa mạc? Trong ấn tượng của chúng ta, sa mạc là một mảnh đất rất cằn cỗi, đặc trưng chủ yếu nhất của nó chính là thiếu nước. Ngoài lạc đà được coi là "con thuyền của sa mạc" bởi vì nó có khả năng dự trữ nước đặc biệt để có thể đi lại tự do trong sa mạc, thì ở đó quả thật là không có bất kì sự sống nào. Nhưng sau khi chúng ta tiến hành tìm kiếm kĩ trong sa mạc thì có thể phát hiện, tuy ở đây không có rừng rậm tươi tốt nhưng chủng loại thực vật lại không ít, mà ở đây nhìn giống như là một đầm nước tù lại có rất nhiều động vật sinh sống. Vậy trong môi trường khắc nghiệt như vậy thì những động vật này đã tồn tại và sinh sống như thế nào? Chúng ta hãy đi tìm hiểu sa mạc Namibia nổi tiếng ở Châu Phi để xem các loài động vật đã thích ứng ngoan cường với môi trường sa mạc như thế nào? Động vật muốn tồn tại được ở sa mạc thì phải có ít nhất hai khả năng. Một là khả năng đi lại, bởi vì đất cát bất cứ lúc nào cũng có thể chôn vùi động vật; hai là khả năng trữ nước, khi rời khỏi nước thì bất kì sinh vật nào cũng chỉ còn con đường chết. Về hai phương diện này thì con thằn lằn có thể coi là một điển hình nguyên thuỷ, phần trước tứ chi của nó mở ra thành màng lớn, chống đỡ cho cơ thể của nó đi lại thoải mái trong sa mạc; khi màn đêm buông xuống, sương mù bao phủ trong sa mạc thì cơ thể và mắt của thằn lằn liền dùng khả năng tối đa để tập hợp những giọt sương, ngoài ra cái lưỡi dài của nó còn có thể liếm sương trước mắt rất linh hoạt và khéo léo, giống như cái gạt nước trên xe ô tô vậy. Về phương thức vận động rắn lao cũng nhập gia tuỳ tục. Nó ở trong sa mạc không giống như đồng loại sống ở môi trường khác vận động về phía trước. Để ngăn chặn bị cát chôn vùi bất cứ lúc nào, rắn lao cong người sang trái sang phải hết sức để tăng diện tích tiếp xúc với đất cát, và đã hình thành thói quen vận động nghiêng. Về khả năng trữ nước, thằn lằn đuôi vểnh trong loài giáp xác cũng là một loài rất đặc biệt. Để thu gom tới mức tối đa những giọt nước, mỗi khi bắt đầu có sương xuống thì thằn lằn đuôi vểnh bò lên trên đỉnh của núi cát, quay lưng về phía sương từ hướng Đại Tây Dương bay tới, đuôi của nó vểnh cao lên, làm cho thân của nó nghiêng một bên, khi sương mù gặp cơ thể lạnh buốt của con vật, thì sẽ ngưng tụ thành những giọt nước, những giọt nước men theo lưng trượt vào mồm, thằn lằn đuôi vểnh có thể hưởng được những giọt sương từ xa bay tới như mong muốn. Đương nhiên, động vật trong sa mạc không dừng lại ở những đặc điểm này. Mỗi con đều có phương pháp tồn tại riêng, có khả năng kì lạ riêng của mình. Có một số động vật chuyên sống ỷ lại vào thực vật ở sa mạc, một số thì thường ngày giấu mình vào trong hang cát, khi mưa sương xuống thì lập tức bò lên mặt đất sử dụng thế võ toàn thân, bổ sung hàm lượng nước để sinh sống. Bởi vậy, sa mạc kì thực không phải là cấm địa của sự sống, cũng giống như vùng Nam Bắc Cực, biển sâu, trong những môi trường đặc biệt này, tự sinh vật có phương thức sinh hoạt đặc biệt riêng của chúng. 12. Tại sao nói: “Quần thể sinh vật kì diệu không gì sánh được”? Có một loài sinh vật có hình dáng hoặc hình tròn, hoặc hình lá, có loại thậm chí giống như kết cấu của thực vật có rễ, thân, lá, nhưng chúng chắc chắn không phải là thực vật, bởi vì nhìn về cấu tạo tổ chức, loài sinh vật này có kết cấu giống như động vật xoang tràng. Nhưng nếu nói chúng là động vật thì hình như cũng không có lí, bởi vì cả đến miệng, hậu môn chúng cũng đều không có, thậm chí cũng không có khả năng vận động. Vậy thì, rốt cuộc, những loài này là loài gì? Năm 1946, khi nhà khoa học Australia tiến hành kiểm tra địa chất ở vùng miền trung Châu úc, một địa phương ở phía Bắc Adelaide, đã phát hiện một loại quần thể sinh vật hoá thạch đặc biệt. Điều khiến mọi người cảm thấy kì lạ là những sinh vật này không có bất cứ cấu tạo bộ xương nào, cơ thể xác mềm, ngoài ra trong đó đại bộ phận, không ít cơ thể dài trên 1 m. Khi gặp sự tấn công đột ngột của gió bão, những sinh vật này đã bị cát vùi trong lớp đất. Lâu ngày, trong điều kiện môi trường đặc biệt, các hạt cát đã khắc hình dạng của chúng lên trên hoá thạch, khiến cho con người ngày nay có cơ hội nhìn thấy loại sinh vật không thể tưởng tượng nổi này. Qua nghiên cứu kĩ, các nhà khoa học đã phát hiện, đây là một loại quần thể sinh vật tồn tại cách đây khoảng 600 triệu năm, địa chất học gọi là kỉ Venđi (đại nguyên sinh). Do lúc đó còn chưa có kẻ thù tự nhiên nào uy hiếp đến sự sinh tồn của chúng, bởi vậy, những sinh vật không có bộ xương này có thể nằm dưới đáy biển cùng với sự dập dờn của sóng biển, lợi dụng tác dụng của da, hoặc hấp thu chất hữu cơ và oxi từ trong nước biển, hoặc là cộng sinh với sinh vật bậc thấp khác, sống bình yên qua ngày. Cùng với sự kết thúc của kỉ Venđi (đại nguyên sinh) là đến kỉ Cambri, động vật đa tế bào đã xuất hiện, chúng đã mọc ra vũ khí cứng như móng vuốt, càng..., bắt đầu cuộc sống bắt mồi. Như vậy thì quần thể sinh vật đặc biệt này đã trở thành thức ăn ngon cho những động vật mới xuất hiện, và đã biến mất rất nhanh trên Trái Đất. Quần thể sinh vật đã cho chúng ta biết rằng, cách đây rất lâu, trên Trái Đất đã từng có một loài sinh vật rất đặc biệt, chúng khác rất xa với các động vật, thực vật, vi sinh vật mà chúng ta nhìn thấy ngày nay, các nhà khoa học đã đặt cho chúng một cái tên rất đặc biệt, gọi là "giới sinh vật Venđi". 13. Mùi hôi của động vật có tác dụng gì? Trong lịch sử tiến hoá mấy tỉ năm của sinh vật, giới động vật không chỉ phát triển thành hàng vạn những loại khác nhau, mà còn hình thành nên các kết cấu tổ chức khác nhau, khả năng khác nhau. Sự khác biệt về mặt kết cấu này đã làm cho giới tự nhiên càng đẹp rực rỡ đa dạng hơn, trong khi chúng ta ca ngợi thiên nhiên thì cũng nên tìm hiểu một chút về những điều kì diệu của những khả năng đặc biệt này? Thải mùi hôi chính là một phương thức độc đáo trong những khả năng kì diệu này. Côn trùng hình gáo có biệt hiệu là "chị hoa" và loài bọ xít được đặt biệt hiệu là "hoàng hậu hôi" chính là tên hiệu của mùi hôi. Đặc điểm then chốt của côn trùng hình gáo là đều giấu một tuyến hôi, khi kẻ địch trước mặt, côn trùng hình gáo sẽ chuyển động cơ quan này, thì trong tuyến hôi lập tức tiết ra chất lỏng màu vàng có mùi rất hôi, làm cho "kẻ địch" ngửi thấy mùi hôi mà chạy mất. Miệng của tuyến hôi của loài bọ xít ở phần bụng của cơ thể, nó toả ra mùi hôi khủng khiếp thường ngày có thể chống địch ở bên ngoài, khi chúng sinh con đẻ cái thì mùi hôi này có thể hình thành một "vòng hôi" xung quanh ấu trùng, như xây lên một bức tường vây bảo vệ con cái tránh sự xâm hại của "kẻ địch". Dáng vẻ đường hoàng của chim chào mào (chim đầu rìu) có ích cho nông lâm cũng có một "khả năng hôi". Khả năng này bình thường được giữ kín, nhưng đến lúc sinh đẻ để chim con ra đời bình an, chim mẹ đã thông qua tuyến mồ hôi ở đuôi tiết ra một dịch lỏng màu nâu đen, một thời gian sau tổ chim có mùi hôi khó thở. Dù có một số động vật chuyên môn ăn trộm trứng chim, nhưng khi đối mặt với hoàn cảnh tồi tệ như vậy cũng đành phải nhượng bộ rút lui. Chim chào mào chính là dựa vào phương thức kì lạ này để bảo vệ đứa con của mình ra đời được an toàn. Trong động vật còn có một số loài có khả năng tiết hôi rõ ràng, như cáo lông đỏ, chồn sóc và chồn hôi mà tất cả mọi người đều biết và nhiều loài tiết hôi ở Châu Mĩ mà mọi người ít biết v.v.. Những động vật này bất cứ lúc nào cũng có thể thải mùi hôi, không những khi chống địch có công hiệu đặc biệt mà cũng là một kí hiệu của cá tính hoá. Tính chất khác nhau của mùi "hôi" còn có thể dựa vào để liên lạc tình cảm và tìm được người bạn đời lí tưởng. Xem ra giới tự nhiên thực sự kì diệu vô cùng. Ngay cả mùi hôi cũng có công hiệu mà chúng ta không ngờ tới. 14. Khi động vật ngủ đông, suốt cả mùa đông không ăn gì, tại sao không bị chết đói? Mỗi khi khí hậu dần dần trở lạnh, thức ăn khan hiếm thì có nhiều động vật đã đi vào ngủ đông. Bởi vậy, hiện tượng ngủ đông là một phương thức thích nghi của động vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn đối với môi trường không thuận lợi. Động vật ngủ đông, suốt cả mùa đông không ăn gì cũng không bị chết đói. Bởi vì trước khi ngủ đông chúng đã sớm bắt đầu công việc chuẩn bị ngủ đông, để vượt qua được thời kì khó khăn này. Công tác chuẩn bị trước khi ngủ đông của những động vật này rất đặc biệt. Bắt đầu từ mùa hè trong cơ thể của chúng đã dần dần tích trữ chất dinh dưỡng, đặc biệt là tích trữ mỡ. Khi kì ngủ đông sắp đến, chất dinh dưỡng tích trữ trong cơ thể tương đối nhiều, động vật béo hẳn lên. Những chất dinh dưỡng được tích trữ này đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể trong cả quá trình ngủ đông. Dù trong cơ thể tích trữ một lượng lớn chất dinh dưỡng nhưng kì ngủ đông kéo dài nhiều tháng như vậy thì làm sao mà đủ dùng được? Hoá ra trong thời gian ngủ đông, động vật nằm ở trong hang ổ, không ăn cũng không hoạt động, hoặc chỉ hoạt động rất ít, số lần thở giảm bớt, thân nhiệt cũng hạ thấp, máu tuần hoàn chậm chạp, trao đổi chất rất yếu, chất dinh dưỡng bị tiêu hao cũng ít. Bởi vậy, chất dinh dưỡng được tích trữ đủ để cung cấp cho cơ thể. Đợi đến khi chất dinh dưỡng được tích trữ trong cơ thể sắp dùng hết thì kì ngủ đông cũng gần kết thúc. Cơ thể của động vật sau kì ngủ đông gầy yếu rõ rệt. Sau khi tỉnh dậy, động vật ngủ đông phải ăn một lượng lớn thức ăn để bổ sung dinh dưỡng, và nhanh chóng khôi phục lại trạng thái bình thường của cơ thể. 15. Động vật trút giận như thế nào? Khi hai động vật không quen biết nhau hoặc sớm đã có "thù hận" với nhau, thường sẽ có thái độ đối với kẻ địch, thái độ này từ doạ dẫm dần dần phát triển thành tấn công, vẻ mặt trở nên hung dữ. Song có khi chúng sẽ đưa ra một số động tác kì lạ, chuyển thái độ phẫn nộ được tích trữ trong lòng lên kẻ thứ ba không hề có liên quan. Đó chính là "hành vi thay đổi" của động vật, còn gọi là "hành vi giận cá chém thớt". Ví dụ có một loài hải âu, khi hai con đều bị kích thích tấn công lẫn nhau, trong đó một con sẽ chuyển sang tấn công mục tiêu bay bên cạnh mình, ngoài ra còn mổ cỏ một cách rất tức tối. Đó chính là cách hải âu chuyển sự phẫn nộ bị kìm nén trong lòng trút lên cỏ mà không có liên quan gì đến mình. Chim công ở Châu úc khi yêu đương hoặc khi tranh đấu sẽ xuất hiện những hành vi thay đổi với nhiều kiểu như chải lông, vươn vai, lắc mình, gãi gãi đầu, ngáp, ngủ gật, lấy thức ăn, xây tổ... Khi hai con căngguru lớn đánh nhau, do trong lòng xuất hiện tâm trạng phức tạp, có khi chúng đột ngột dừng đánh nhau, hành vi thay đổi được thể hiện ra giống như đang chải lông trên người. Khi mèo tấn công con mồi có thể đột ngột dừng lại để liếm cơ thể. Một con cá hung hãn khi doạ nạt các loài cá khác cũng sẽ đột ngột dùng mồm để đào cát hoặc trong lúc tuyệt vọng sẽ xuất hiện hành vi thay đổi như mở to mồm. 16. Tại sao động vật biết áp dụng "chính sách nhượng bộ"? Trong thế giới động vật, hiện tượng tranh đấu là hiện tượng không có gì mới. Song chúng cũng có nguyên tắc tranh đấu của chính mình, đó chính là áp dụng "chính sách nhượng bộ" để tránh hết mức việc đổ máu và ngăn chặn xuất hiện cuộc tranh đấu "một mất một còn". Tại sao vậy? Các nhà khoa học cho biết có hai nguyên nhân chủ yếu: Thứ nhất, động vật cũng biết suy nghĩ đến hậu quả. Bởi vì khi động vật tranh đấu, kẻ bại chắc chắn sẽ bị thương, thậm chí có thể mất mạng, và kẻ thắng cũng có thể bị thương. Do vậy, kẻ mạnh sẽ hết sức tránh bị thương, để tránh ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường sau này của mình, nên khi đánh nhau thường sẽ "không chấp kẻ yếu". Thứ hai, động vật cũng có cách ngừng tranh đấu giữa chừng. Nói chung, nếu như sức lực của hai bên khác nhau xa, chúng sẽ không đánh nhau nữa, cùng lắm chỉ là xung đột một chút. Chỉ khi sức lực của cả hai bên chênh lệch không bao nhiêu thì mới có thể nổ ra cuộc tranh đấu kịch liệt. Song sau khi hai bên qua mấy hiệp đọ sức, sức mạnh yếu sẽ dần dần thay đổi rõ rệt. Lúc này thường là kẻ yếu có khả năng tự biết mình sẽ tự nhận thua hoặc thể hiện tư thế đầu hàng để cầu mong đối phương khoan dung, đó chính là đầu hàng. Ví dụ, khi hai con sư tử đánh nhau, chỉ cần một bên vươn cổ sang phía địch thủ, thì đối phương biết đây là tín hiệu của "khuất phục" liền áp dụng chính sách "nhượng bộ", lập tức ngừng tấn công. Ví dụ như khi hai con chó đang cắn lẫn nhau, chỉ cần một con nằm ngã xuống đất ngửa bụng lên trời, thể hiện "bái phục chịu thua" thì trận tranh đấu này sẽ kết thúc. 17. Màu đỏ và màu vàng của động vật nói cho chúng ta biết điều gì? Màu đỏ là một màu gây kích thích, phấn chấn, nhiệt tình và sức mạnh, nhìn các vật thể có màu đỏ dường như hiện rõ sự lớn mạnh hơn các vật thể có màu sắc khác, do vậy trên thân của một số động vật tương đối bé nhỏ thường có thể nhìn thấy màu sắc này. Một loài chim sinh sống ở Pê-ru, phần đầu và trước ngực của chim trống này có màu đỏ tươi, thường thường có rất nhiều con sống cùng với nhau xoay quanh một con chim mái, thể hiện tình cảm mãnh liệt của mình. Chim cốc biển sống ở trên đảo và vùng ven biển nhiệt đới, đến kì sinh sản, vết hầu của chim trống sẽ phình ra rất to và lộ rõ màu đỏ thẫm, nhìn thẳng trông như một quả khí cầu lớn màu đỏ dùng để dụ dỗ chim mái. Khi mùa sinh sản qua đi thì yết hầu của chúng sẽ thu nhỏ lại, màu đỏ cũng sẽ biến mất. Màu đỏ còn có tác dụng cảnh giới. Đại đa số loài trong họ cá sư tử, toàn thân đều có dịch màu đỏ, hình dạng đáng sợ này thường làm cho kẻ địch nhìn thấy sợ mà tránh xa. Trứng của một số cá sư tử sinh ra có màu đỏ tươi, và liên kết thành mảng trứng rất lớn, dường như để nó cảnh cáo với kẻ xâm phạm rằng "không được ăn đồ vật này". Đối với sinh vật, màu vàng là một màu có sức hấp dẫn kì lạ. Có một loài chim gọi là chim mỏ dài, mỏ của nó do ba màu sắc hợp thành: phần trước sau là màu đỏ thẫm; phần giữa là màu xanh thẫm, phía trước mắt có màu vàng sáng rất dễ nhìn thấy. Đến kì sinh sản, khi một con chim trống vỗ cánh trước mặt chim mái sẽ lộ rõ ra mảng màu vàng chấm tươi sáng, dường như để ra hiệu ngầm với đối phương rằng: "Tôi đang còn là kẻ độc thân !". Cá bướm và cá thiên sứ có màu sắc rất kì lạ, màu vàng sáng trên thân của chúng nổi lên rất rõ trên đá san hô ngầm dưới đáy biển, một số nhà khoa học cho rằng, màu vàng này có thể giúp chúng liên lạc với nhau, là một ngôn ngữ "gọi nhau" không lời. 18. Tại sao các nhà khoa học biết động vật có thể nằm mơ? Con người biết nằm mơ, còn động vật có biết nằm mơ không? Đây là câu hỏi rất thú vị. Trước đây, khi các nhà khoa học quan sát thói quen sinh hoạt của hươu cao cổ hoang dã và hươu cao cổ ở trong vườn bách thú đã phát hiện ra rằng, cách ngủ của chúng rất thú vị, có hai cách ngủ nông và ngủ sâu. Khi ngủ nông, cơ thể nằm ngang, nhưng chiếc cổ dài lại vẫn cao thẳng đứng, một phần đại não vẫn nằm ở trạng thái hưng phấn như trước, làm cho người ta có cảm giác nó vẫn "chưa ngủ". Chỉ khi ngủ sâu, hươu cao cổ mới để đầu đặt nằm lên phần đuôi, tuy nhiên thời gian kéo dài không quá 20 phút. Vậy thì rốt cuộc là tại sao? Các nhà khoa học căn cứ vào khảo sát thực địa đối với hành vi của hươu cao cổ đã giải thích rằng, do sư tử là kẻ thù chính của hươu cao cổ, nó thường đột ngột tấn công hươu cao cổ, vì vậy hươu cao cổ trong thời gian dài đấu tranh với kẻ thù mới dùng bí quyết "vươn cổ khi ngủ" kết hợp với "ngủ sâu trong thời gian ngắn" để đề phòng sư tử tấn công đột ngột, đạt được mục đích vừa an toàn lại vừa có thể nghỉ ngơi thích hợp. Điều thú vị là một nhà nghiên cứu động vật người Mĩ khi khảo sát hươu cao cổ ở vùng Đông Nam Châu Phi đã phát hiện ra rằng: một con hươu cao cổ bị theo dõi toàn thân nằm xuống ở tư thế ngủ say "khò khò". Nhưng đột nhiên nó bỗng đứng phắt dậy, lồng lộn điên cuồng, hiện ra một bộ dạng rất kinh khủng. Đối với hành vi kì quái không thể hiểu nổi này, ban đầu các nhà khoa học suy đoán, có lẽ là xung quanh có cái gì đã kích động đến nó, nhưng qua kiểm tra tỉ mỉ thì tất cả mọi thứ ở xung quanh đều rất yên ổn. Điều này làm cho các nhà khoa học cảm thấy kì lạ không thể giải thích nổi. Sau đó, qua nhiều lần phân tích mới nhận ra rằng, ban ngày chú hươu cao cổ này đã từng chịu sự tấn công của sư tử, suýt nữa là rơi vào móng vuốt của sư tử, do vậy suy ra là giữa đêm nó nằm mơ thấy ác mộng là có liên quan với sự việc ban ngày. Sau đó, các nhà khoa học tiến hành cuộc nghiên cứu sâu hơn và đã phát hiện ra, khi động vật ngủ, đại não có thể phát sóng điện từ giống như não người khi nằm mơ, do vậy động vật cũng có thể nằm mơ. Họ sử dụng "máy điện não đồ" để kiểm tra động vật, phát hiện ra rằng có động vật nằm mơ nhiều, thời gian dài, có động vật lại nằm mơ ít, thời gian ngắn hơn. Ví dụ, sóc và dơi thường nằm mơ, còn loài chim lại nằm mơ tương đối ít, động vật bò sát hầu như không nằm mơ. Các nhà khoa học cho rằng điều này có thể liên quan đến việc chúng bất cứ lúc nào cũng phải giữ cảnh giác đối với kẻ thù của tự nhiên để có thể kịp thời chạy thoát. 19. Tại sao có một số động vật thích cuộc sống bầy đàn? Có một số động vật có bản năng tự nhiên sống độc lập. Ví dụ như hổ chúa sơn lâm nổi tiếng, ngoài lúc sinh sản ra thì luôn không thích làm bạn cùng với đồng loại, thậm chí không chịu đến gần đồng loại. Vì vậy, trong thành ngữ có câu "một núi khó có thể sống hai hổ". Nhưng cũng có rất nhiều động vật lại không chịu đựng được cô độc và lạnh lẽo, trời sinh ra đã thích sống bầy đàn… Ví dụ như chim cánh cụt, voi biển, kiến... Vậy thì tại sao những động vật này muốn sống thành bầy đàn? Muốn trả lời câu hỏi này, có thể đi ngược trở lại một chút, tại sao hổ có thể sống đơn độc? Điều này đương nhiên liên quan đến bản lĩnh của hổ. Hổ có móng vuốt sắc nhọn, khả năng chạy nhanh, dù cho là vồ bắt những đối thủ gan góc, nó cũng có thể tự nhiên thoải mái, thức ăn kiếm được như vậy cũng không cần chia cho bất cứ đồng loại nào. Đa số các loài trong động vật họ mèo như báo, mèo, báo xali... dựa vào sự linh hoạt và hung hãn của mình để sống nên không muốn làm bạn với đồng loại. Nguyên nhân mà giới tự nhiên có sức hấp dẫn chính là sự đa dạng. Có một số động vật, bản lĩnh của chúng không đủ khả năng đánh nhau một chọi một với những động vật khác, đành phải nhờ sức mạnh của cả bầy. Sói chính là một loài động vật như vậy. Một con sói đơn độc khi nhìn thấy lợn rừng thì sợ hãi đến chạy cũng không kịp, nhưng cả bầy sói thì dường như lại không sợ gì cả, đây chính là ưu điểm khi sống bầy đàn kiếm ăn. Ngoài ra, sống bầy đàn cũng có tác dụng khác, như chim cánh cụt sống ở địa cực thường là hàng ngàn hàng vạn con sống cùng nhau. Bởi vì nơi chúng sống là thế giới băng tuyết tràn ngập, tuy trên mình có lớp mỡ dày, nhưng hiển nhiên sống thành bầy có thể sưởi ấm được cho nhau, cuộc sống bầy đàn này có tác dụng chống lạnh rất tốt. Khỉ cũng có cuộc sống bầy đàn, tuy sự linh hoạt và thông minh của khỉ ai cũng nhìn thấy nhưng sự yếu đuối của chúng cũng rất dễ thấy. Rất nhiều động vật lớn ăn thịt như hổ, báo... thường muốn đem khỉ làm thành một bữa tiệc ngon của chúng, điều này làm cho các con khỉ không thể không liên kết lại với nhau để đề phòng. Trên cành cây cao, một con khỉ tay đưa lên trán, thì ra nó đang canh gác đấy, đó chính là cuộc sống bầy đàn an toàn và có lợi. Bất luận là sống bầy đàn dưới hình thức nào thì mục đích của chúng đều là cùng có lợi, về mặt ý nghĩa mà nói thì kẻ yếu càng dễ sống bầy đàn hơn. Song quy mô sống bầy đàn còn phải căn cứ vào không gian sinh tồn, sự phong phú về thức ăn hay không, cùng với số lượng và sự mạnh yếu của kẻ săn mồi để quyết định. Nếu như số lượng cá thể trong bầy đàn quá nhiều, thức ăn có hạn, không thể phân phối được, không gian có hạn không cùng hưởng được thì sống bầy đàn kiểu này rõ ràng là không cần thiết. Ngược lại, nếu như số lượng cá thể trong bầy đàn quá ít, cũng không đạt được mục đích sống bầy đàn thì sống bầy đàn không có ý nghĩa gì. Vì vậy, bầy đàn lớn hay nhỏ cũng phải căn cứ vào nhu cầu, như vậy mới có thể có tác dụng nhất định đối với sự sinh tồn. Chủng loại không giống nhau, căn cứ vào nhu cầu của bản thân thì sẽ hình thành quy mô bầy đàn hoàn toàn khác nhau. Con mồi có thể tạo thành quần thể lớn trên 1 triệu con, cá sác-đin cũng thường là hàng ngàn, hàng vạn con tụ tập sống cùng nhau, nhưng đại đa số động vật sống bầy đàn chỉ là mấy con, mấy chục con hoặc là mấy trăm con sống cùng nhau. Thỉnh thoảng, sau khi số lượng quần thể của động vật sống bầy đàn đạt được quy mô nhất định thì sẽ xuất hiện tình trạng phân đàn. Châu chấu như tất cả chúng ta đều biết, khi mật độ trong đàn đạt đến giới hạn cao nhất thì cánh của bộ phận cá thể sẽ dài ra, khả năng bay sẽ nâng cao, vì lợi ích của cả đàn thì bộ phận châu chấu này sẽ chủ động di chuyển đi tìm không gian sinh tồn mới. Cần phải nói rõ là có một số cá thể nhỏ bé, chủng loại khác nhau, vì lợi ích chung chúng cũng sẽ tạm thời tụ tập lại với nhau, lợi dụng thính giác, thị giác và khứu giác của mỗi bên để đề phòng kẻ thù chung. 20. Kĩ thuật nhân bản là gì? Nhân bản vốn là một kĩ thuật sinh vật rất ít gặp, cho dù là các nhà sinh vật học cũng chưa chắc đã hiểu hết về nó. Bởi vì sự phân công khoa học kĩ thuật lại càng ngày càng kĩ lưỡng, người cùng ngành cũng sẽ có cảm giác "khác ngành như anh em cùng cha khác mẹ". Nhưng tháng 2 năm 1997, sau khi tin tức một chú cừu là Đô-li thông qua kĩ thuật nhân bản đã ra đời được truyền đi, lập tức nhận được sự chú ý ở khắp nơi trên thế giới. Từ đó, nhân bản đã trở thành chủ đề hấp dẫn đối với mọi người. Nhân bản là dịch theo từ tiếng Anh clone. Nguyên nghĩa của nó là chỉ những mầm non và những cành non dùng phương pháp sinh sản vô tính hoặc sinh sản dinh dưỡng để cấy thực vật. Cùng với sự chuyển dịch của thời gian, nội hàm của nhân bản đã được mở rộng. Chỉ cần là do một tế bào cá thể đạt được trên 2 tế bào, lớp tế bào hay một sinh vật, do một loạt nhân bản sản sinh ra hàng loạt ADN. Đó chính là sinh sản vô tính. Có thể thấy rằng nhân bản là một phương pháp sinh sản vô tính. Thực ra, nhân bản không xa lạ gì đối với chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta cũng thường phải dùng đến phương pháp sinh vật sinh sản vô tính này. Ví dụ, mỗi khi mùa xuân đến, muôn hoa đua nở, người thích trồng hoa cỏ sẽ làm thử nghiệm giâm cành thực vật. Từ trên một cây, cắt cành cây xuống, thông qua giâm cành sẽ được rất nhiều cây có cùng vật chất di truyền, đó chính là nhân bản. Sinh sản vô tính ở động vật bậc thấp là thường thấy hơn cả. Sinh sản phân tách ở vi khuẩn, ấu trùng là tách dọc hoặc tách ngang cơ thể của chính bản thân chúng, sau đó thoát khỏi cơ thể của chúng để trở thành cá thể độc lập, đây cũng thuộc về nhân bản. Nhưng sinh sản vô tính ở động vật bậc cao có tồn tại hay không? Các nhà khoa học cho rằng, do một thể tế bào trưởng thành sinh sản vô tính trở thành một động vật hoàn chỉnh là không có khả năng. Tuy trong một thể tế bào, có đủ thông tin di truyền của một động vật hoàn chỉnh, nhưng thể tế bào đã được chuyên biệt hoá. Nói một cách thông thường là tế bào gan chỉ có thể sinh ra tế bào gan, tế bào tuyến sữa chỉ có thể sản sinh ra tổ chức tuyến sữa... nhưng sự ra đời của cừu Đô-li đã thay đổi hoàn toàn nhận thức này của con người, nó đã mở ra thời kì động vật bậc cao cũng có thể nhân bản được. Có thể nhận thấy rằng nhân bản là một ngành kĩ thuật của thể sinh vật thông qua thể tế bào tiến hành sinh sản vô tính. Nói một cách thông thường thì những sinh vật do kĩ thuật nhân bản sinh sản ra chỉ cần có cơ thể mẹ, chứ không cần cơ thể bố. 21. Mẹ của cừu "Đô-li" là ai? Cừu "Đô-li" có tiếng tăm lẫy lừng là sản phẩm của kĩ thuật nhân bản. Sự khác biệt lớn nhất giữa con vật nổi tiếng trong giới khoa học kĩ thuật này với cừu bình thường chính là nó không có cha, nhưng lại có 3 mẹ. Tại sao nói như vậy? Chúng ta hãy nhìn toàn bộ quá trình ra đời của cừu "Đô-li". Đầu tiên, các nhà khoa học lấy ra một tế bào từ trong tuyến sữa của một con cừu mẹ, đây là một tế bào bình thường mà bản thân không có khả năng sinh sản. Nuôi dưỡng tế bào ngoài cơ thể mẹ trong khoảng thời gian 6 tháng, sau đó lại tách nhân tế bào của nó ra dùng cho bước thứ hai. Tiếp theo các nhà khoa học lại lấy ra tế bào trứng chưa thụ tinh của một con cừu mẹ khác, loại bỏ đi nhân tế bào ở bên trong, đổi nhân tế bào của tế bào tuyến sữa ở con cừu mẹ thứ nhất. Cuối cùng thông qua phóng điện kích hoạt làm cho nhân tế bào này bị tế bào trứng "bướng bỉnh" có thể tiến hành tách tế bào như trứng thụ tinh bình thường vậy. Khi tiến hành tách tế bào đến một giai đoạn nhất định cũng chính là đã hình thành phôi thai nhỏ bé, sau đó cấy ghép phôi thai này vào trong tử cung của con cừu mẹ thứ ba. Quá trình sau này hoàn toàn giống với giai đoạn sau của quá trình mang thai thông thường, phôi thai ở trong cơ thể cừu mẹ thứ ba không ngừng phát triển cho đến khi sinh nở. Về góc độ khoa học thì mẹ đẻ của "Đô-li" chỉ là một con, đó chính là cừu mẹ cung cấp gen nhân tế bào tuyến sữa. "Đô-li" từ chỗ mẹ đẻ đã kế thừa toàn bộ đặc trưng của gen ADN, cũng có thể nói rằng, "Đô-li" là sản phẩm phục chế 100% của con cừu mẹ đó. Sau khi "Đô-li" trưởng thành, hình dáng giống y hệt mẹ đẻ. Hai con cừu mẹ cung cấp tế bào trứng và giúp đỡ phôi thai lớn lên, nếu như cũng là mẹ của "Đô-li", cùng lắm chỉ có thể tính là "mẹ mang thai hộ". Ngày 13 tháng 4 năm 1998, chính "Đô-li" cũng đã làm mẹ, nó giống như tất cả những cừu mẹ thông thường đã đẻ ra một chú cừu con một cách thuận lợi, đặt tên là "Banny", còn cha của "Banny" là một chú sơn dương đực bình thường ở xứ Wales (Anh). 22. Tại sao động vật có thể trở thành "xưởng chế tạo thuốc" sống? Xưởng chế tạo thuốc là nơi sản xuất dược phẩm, bãi chăn nuôi là nơi chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hai nơi dường như không có liên quan gì với nhau, nhưng cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, nơi chăn nuôi lại cũng có thể trở thành một bộ phận của xưởng chế tạo thuốc. Gây ra sự biến đổi phương thức chế tạo thuốc này là kĩ thuật sinh vật hiện đại hoá, nó làm cho một số động vật biến thành "nhà máy" thuốc tổng hợp. Trên thực tế, nơi chăn nuôi ở trên nhắc đến phải gọi nó là "xưởng thuốc động vật" thì thích hợp hơn. Xưởng thuốc động vật có điểm gì ưu việt? Tất cả những người trong ngành y đều biết, protein C ở cơ thể con người có tác dụng chữa trị và phòng chống máu đông, là một loại thuốc chống đông máu. Loại thuốc như vậy trước đây do xưởng chế tạo thuốc áp dụng phương pháp tổng hợp nhân tạo sản xuất ra, tuy cũng có tác dụng chống đông nhất định nhưng so với protein C ở cơ thể người thì hiệu quả còn kém xa. Do chiết xuất nguyên liệu protein C ở cơ thể người chắc chắn phải lấy từ bản thân của cơ thể người, mà muốn sản xuất số lượng lớn thì khó khăn rất lớn. Để giải quyết vấn đề nguyên liệu protein C ở cơ thể người, các nhà khoa học đã quan sát đến lợn. Bởi vì lợn tương đối thích hợp với chăn nuôi quy mô lớn, giá thành chi phí sẽ không quá cao. Đương nhiên, đây không phải là lợn thông thường mà là lợn chuyển gen thông qua xử lí đặc biệt, cũng có thể nói rằng, những con lợn này đã khống chế gen protein C ở cơ thể người chuyển vào trong cơ thể lợn. Nhìn lợn chuyển gen chẳng có gì khác với lợn thông thường, nhưng trong sữa của chúng có protein C ở cơ thể con người. Điều người ta kinh ngạc khó hiểu là trong mỗi mililit sữa người chỉ có 5 mg protein C của cơ thể con người, còn trong sữa của lợn chuyển gen lại có thể cao đến 100 mg, thậm chí là nhiều hơn. Đương nhiên, một đàn lợn chuyển gen cũng giống như một xưởng chế tạo thuốc động vật. Chúng không chỉ có thể sản xuất ra protein C của cơ thể con người mà còn có thể sản xuất ra các dược phẩm sinh vật khác như hồng cầu, axit lactic CH3CHOHCOOH... Ngày nay, các nhà khoa học đang nuôi cấy động vật chuyển gen khác để cho xưởng thuốc động vật phát huy được tác dụng lớn hơn. 23. Động vật có thể tự chữa bệnh cho mình được không? Khi con người ốm phải đi bệnh viện chữa trị, còn động vật trong vườn bách thú ốm thì do bác sĩ thú ý chữa trị cho chúng, nhưng động vật sống trong môi trường tự nhiên hoang dã khi bị bệnh thì phải làm thế nào? Một số nhà khoa học nghiên cứu về hành vi của động vật đã phát hiện, có một số động vật khi bị bệnh đã biết lợi dụng thực vật hoang dã vốn có ở xung quanh. Điều này cũng giống như con người khi sống ở trên núi cao rừng sâu, cách xa bệnh viện thành phố thường dùng thảo dược để chữa bệnh cho chính mình. Đã có một ví dụ thực tế như sau: Những người thợ săn ở vùng núi thường nhìn thấy một số con thú hoang bị thương chạy vào hang núi nào đó, họ rất lấy làm lạ liền theo dõi để biết nguyên nhân. Kết quả họ đã phát hiện ra những con thú hoang bị thương chạy đến một nơi gần vách núi dốc đứng, áp sát miệng vết thương lên vách núi, vẻ đau đớn trên mặt dần dần biến mất. Hiện tượng kì lạ này đã gây được sự chú ý của các nhà khoa học, họ cùng đến nơi vách núi dốc đứng kia, nhìn thấy có một dịch dính đặc giống như là mật ong rừng màu đen. Qua phân tích hoá học, họ phát hiện rằng, thể dịch này gồm có hơn 30 nguyên tố vi lượng dùng để chữa trị gãy xương rất hiệu quả. Hoá ra các con thú hoang bị thương đi đến đó là để lợi dụng thể dịch này tự chữa vết thương cho chính mình. Những ví dụ giống như vậy có rất nhiều. Ví dụ như khi con nai sừng hươu (mi lộc) bị đau bụng ỉa chảy sẽ đi gặm những cành non và vỏ cây sồi, cây tùng... Bởi vì ở bên trong đó có chứa Tanin, có tác dụng ngừng ỉa chảy. Mèo hoang tham ăn sau khi đã ăn phải thức ăn có độc, vừa bị nôn vừa đi ỉa chảy, lúc đó nó sẽ đi tìm một loại cỏ lau có vị đắng, sau khi ăn gây nôn oẹ, nôn hết những chất độc trong bụng ra ngoài. Hoá ra cỏ lau có một loại kiềm sinh vật, có tác dụng thúc đẩy nôn chất độc ra ngoài. 24. "Tiếng địa phương" của động vật được hình thành như thế nào? Loài người do ở những khu vực không giống nhau nên đã xuất hiện những tiếng địa phương khác nhau. Ví dụ, khu vực Giang Nam ở Trung Quốc thì nói tiếng Tô Bắc, tiếng Ninh Ba, tiếng Tô Châu, tiếng Thiệu Hưng v.v. Vậy thì động vật có tiếng địa phương hay không? Vào đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX, hai vợ chồng nhà nghiên cứu loài cá voi nổi tiếng ở Mĩ, khi khảo sát cá voi đã phát hiện ra rằng, tiếng kêu của cá voi sống ở vùng biển Đại Tây Dương rất khác so với cá voi sống ở vùng biển Hawai Thái Bình Dương, điều này có phải là do cá voi sống ở trong những khu vực khác nhau có "tiếng địa phương" khác nhau không? Nhà khoa học Nhật Bản chuyên nghiên cứu ngôn ngữ của các loài cá heo cho rằng, ngôn ngữ của loài cá heo rất giống với ngôn ngữ của loài người, không chỉ có "tiếng phổ thông" thông dụng, mà còn có "tiếng địa phương" đặc biệt của mình. Ông đã đưa ra một ví dụ, loài cá heo Quan Đông sống ở Đại Tây Dương có 17 loại ngôn ngữ, còn loài cá heo Quan Đông sống ở Thái Bình Dương có 16 loại ngôn ngữ, giữa chúng có 9 ngôn ngữ là thông dụng, chiếm khoảng một nửa, còn một nửa ngôn ngữ khác là mỗi bên tự có, đều không nghe hiểu lẫn nhau, đó chính là tiếng địa phương của loài cá heo. Cách đây không lâu, một nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu hải dương thế giới ở San Diego của Mĩ và một nhà khoa học thuộc Trung tâm dịch vụ động vật hoang dã của Canađa, khi tìm hiểu về loài báo biển ở châu Nam Cực đã cùng phát hiện ra tiếng kêu của loài báo biển ở vùng biển bán đảo Nam Cực khác với tiếng kêu của loài báo biển sống ở vùng biển ở gần eo biển Mc Murdo. Gần đây, nhà nghiên cứu về loài chim ở Trường đại học của xứ Wales đã dùng khí cụ thanh phổ lần lượt thu tiếng hót của chim ở xứ Wales và vùng Sussex đã phát hiện ra rằng tuy chúng cùng một loại chim nhưng sự vận động hài hoà của thanh âm và âm điệu của tiếng hót khác nhau. Điều này đã cho thấy không chỉ có các con thú biển có tiếng địa phương mà loài chim cũng có tiếng địa phương, vấn đề là trước đây chúng ta chưa nghiên cứu qua. Vậy thì "tiếng địa phương" của động vật được hình thành như thế nào? Các nhà khoa học cho rằng cùng một loài động vật sống ở nơi khác nhau tính từ ngày chúng vừa ra đời thì vẫn là tiếng kêu nghe được của động vật ở khu vực đó, trong quá trình trưởng thành sau này, chúng không ngừng mô phỏng âm thanh tự mình nghe được, lâu dần tiếng kêu của động vật ở khu vực này hình thành những đặc điểm nhất định, do vậy, "tiếng địa phương" của động vật dần dần xuất hiện. Điều này giống với trường hợp hình thành tiếng địa phương của loài người. 25. Tại sao động vật có các loại đuôi khác nhau? Các động vật khác nhau sẽ có đuôi không giống nhau, hình dáng lớn nhỏ của chúng có sự khác biệt lớn, tại sao đuôi có thể hình thành đa dạng, hình dáng lại không giống nhau như vậy? Đó chính là để động vật thích ứng với môi trường sống xung quanh, để sinh tồn tốt hơn, do vậy đã biến đổi thành các đuôi có hình dạng khác nhau, ngoài ra đuôi khác nhau cũng có tác dụng không giống nhau. Đại đa số loài cá để sống thích ứng trong môi trường nước nên hình dáng của đuôi đều giống cái quạt, khi quẫy mạnh trông giống như là chiếc máy đẩy để đẩy mạnh cơ thể bơi lên phía trước. Đồng thời, đuôi của loài cá còn có thể điều khiển phương hướng, có tác dụng bánh lái. Đuôi của chuột túi có tác dụng rất lớn, khi vận động có thể làm cho cơ thể giữ được thăng bằng, khi nghỉ ngơi, chiếc đuôi lớn đặt trên đất cùng với hai chân sau tạo thành một giá đỡ hình tam giác để nâng đỡ cơ thể một cách vững chắc. Loài khỉ nhện sống ở trong vùng rừng nhiệt đới Nam Mĩ có một đuôi còn dài hơn cả cơ thể, có tác dụng rất lớn so với bốn chân, do vậy người ta gọi nó là cánh "tay" thứ 5. Khi ăn, khỉ nhện quấn đuôi dài lại treo cơ thể vững chãi trên cành cây, còn chân tay dùng để ăn. Khi nghỉ ngơi, nó thường ngủ treo ngược lên, cho dù đã ngủ say, đuôi cũng sẽ không bị rơi xuống. Khi nhảy nhót giữa cây này với cây kia, đuôi có sức quấn chặt cũng phát huy được tác dụng rất lớn. Hổ được mệnh danh là "chúa tể của muôn loài", ngoài hàm răng sắc nhọn, chiếc đuôi đằng sau vừa to vừa dài là một vũ khí có sức mạnh khác của hổ. Khi hổ tấn công con mồi, nó sẽ vung đuôi rất mạnh như chiếc roi sắt quất mạnh về phía đối phương làm cho con mồi ngã lăn ra. Thường ngày chúng ta nhìn thấy ngựa không ngừng vẫy cái đuôi dài trông giống như là một động tác vô nghĩa. Thực ra ngựa bị sự quấy nhiễu của loài muỗi, vẫy đuôi giống như là khua phất trần đuổi những con côn trùng nhỏ bé đáng ghét đó. Sóc có chiếc đuôi rất lớn có rất nhiều tác dụng. Do sóc thường xuyên nhảy qua nhảy lại trên cây rất dễ ngã từ trên cây cao xuống, chiếc đuôi này có tác dụng giữ được cân bằng nên nó được an toàn hơn nhiều. Đương nhiên, nhỡ không chú ý bị ngã xuống thì lông trên chiếc đuôi lớn này sẽ xù tung ra giống như một chiếc dù làm cho tốc độ rơi xuống chậm lại, bảo vệ cho chúng không bị thương. Khi mùa đông giá lạnh, buổi đêm sóc ngủ trong hốc cây, cuộn tròn thân vào trong, chiếc đuôi lớn lại trở thành "cái chăn" giữ ấm cho cơ thể. Gần đây, các nhà khoa học phát hiện ra, sóc coi sự thay đổi cách vẫy đuôi là ngôn ngữ trao đổi giữa chúng. 26. Động vật chơi đùa có phải chỉ là để vui hay không? Trong xã hội loài người, chơi đùa sẽ mang lại rất nhiều niềm vui cho chúng ta, đặc biệt là trẻ em, hầu như hằng ngày đều không thể rời xa trò chơi. Thực ra không chỉ có loài người mà nhiều loài động vật cũng rất thích chơi trò chơi. Ví dụ, mấy chú chó dễ thương tụ tập lại với nhau thường sẽ lăn đi lộn lại trên đất tiến hành trò chơi đánh, cắn lẫn nhau. Nhìn bề ngoài thì trận đấu rất quyết liệt, thực ra, chúng đã phối hợp thoả thuận ngầm với nhau, rất có chừng mực, chắc chắn sẽ không làm bị thương bất cứ một bên nào. Nói đến động vật chơi đùa thì không tránh khỏi sẽ liên tưởng đến một quy luật rất phổ biến trong sinh vật học. Đó chính là tiết kiệm năng lượng hết mức. Đã như vậy thì tại sao rất nhiều động vật phải tiêu hao một số lượng lớn năng lượng để chơi những trò chơi không có mục đích rõ ràng như vậy? Các nhà khoa học cho chúng ta biết rằng, động vật chơi đùa có thể là vì nhu cầu kiếm sống sau này. Khi hắc tinh tinh còn nhỏ thường chơi một trò chơi như sau: dùng bàn tay múc một chút nước, sau đó dùng răng nhai nát lá thành một nắm và dùng nó để hút nước trong lòng bàn tay. Sau khi hắc tinh tinh trưởng thành mỗi dịp mùa khô đến thì nó dùng phương pháp này để lấy nước trong hốc cây để giải khát. Vì vậy có người cho rằng, đối với cuộc sống tương lai, trò chơi giúp cho động vật từ nhỏ sớm biết học cách kiếm sống. Nếu như cho hắc tinh tinh một cái gậy, chúng sẽ dùng gậy đuổi nhau giống như người đuổi vịt vậy. Hắc tinh tinh chơi đùa như vậy để trong cuộc sống sau này dễ dàng biết cách sử dụng gậy, điều này có nghĩa là chơi đùa không chỉ là học tập mà còn là một cách rèn luyện. Nhưng động vật cũng có thể chơi một số trò chơi không hề liên quan đến kiếm sống. Ví dụ, hà mã thích thổi khí dưới nước, thổi những chiếc lá bập bềnh trên mặt nước. Có một số nhà khoa học cho rằng, động vật chơi loại trò chơi này là tự mình giải trí, đó là biểu hiện thiên tính của động vật. 27. Các nhà khoa học tính toán số lượng động vật hoang dã bằng cách nào? Tính toán con số động vật hoang dã có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc sử dụng, bảo vệ và cứu giúp động vật hoang dã. Do động vật lớn nhỏ không thống nhất, vì vậy phương pháp tính toán cũng không giống nhau. Đối với động vật nhỏ thì phương pháp truyền thống trước đây là trong khu vực phân bố của chúng, vạch mẫu ra một phạm vi nhỏ, sau đó tiến hành đếm, cuối cùng tính ra số động vật trong khu vực phân bố này. Cách đây không lâu, nhà hoá học khí tượng - giáo sư ở Trung tâm nghiên cứu khí tượng quốc gia Mĩ, khi nghiên cứu loài mối, đã phân tích rất nhiều tổ mối ở Đông Phi, và dùng máy vi tính ghi lại số con mối trong mỗi tổ mối. Họ cho rằng, bình quân một tổ mối có khoảng 2.000.000 ~ 3.000.000 con mối. Đối với động vật loại lớn có thể áp dụng phương pháp đếm trực tiếp. Số động vật được đếm như vậy chính xác hơn so với con số tính toán hoặc dự đoán. Những người như nhà sinh vật học Charles.A.Manen ở Hiệp hội bảo vệ động vật hoang dã Mĩ, khi khảo sát loài cá sấu mồm rộng ở công viên quốc gia Manu vùng Đông Nam Pêru thuộc Châu Nam Mĩ, căn cứ vào đặc điểm, hai mắt phát sáng vào ban đêm của loài động vật này, khi ngồi thuyền độc mộc theo dõi bên hồ vào ban đêm thì có thể nhìn thấy điểm phát sáng màu đỏ to nhỏ không giống nhau. Những đôi mắt này đều là của cá sấu mồm rộng lớn nhỏ. Đếm con số và sự lớn nhỏ của những điểm sáng màu đỏ thì có thể biết được số lượng cá sấu mồm rộng và kích thước của chúng. 28. Động vật được phân loại như thế nào? Nếu như bạn có một bình thuỷ tinh nuôi một, hai con tôm nhỏ, sau giờ học, ngồi yên lặng quan sát nó bơi về phía trước bằng cách nào, nhảy lùi về phía sau như thế nào, và dùng càng lấy thức ăn cho vào trong mồm bằng cách nào thì có thể tăng thêm nhiều kiến thức về động vật học. Bạn xem cơ thể của tôm được phân thành rất nhiều đốt, trên bề mặt các đốt có khoác vỏ cứng, có rất nhiều đốt chân linh hoạt, trong thân còn có mang dùng để thở thích ứng với cuộc sống trong nước. Bạn có thể đã biết động vật nhỏ này có dòng họ tương đối lớn, tên gọi dòng họ của chúng là "động vật giáp xác". Không chỉ có các loại tôm mà còn có rất nhiều giống cua, thậm chí ấu trùng nuôi cá vàng đều thuộc dòng họ này. Bởi vì những động vật này đều có những đặc điểm của tôm, các nhà động vật học đã quy chúng thành một loài là động vật giáp xác. Giống với động vật loài này như bướm, rết, bò cạp, nhện..., tuy không sống ở trong nước, cũng không có vỏ cứng giống như tôm nhưng chúng cũng có chân linh hoạt và phân ra thành đốt, các nhà động vật học đã kết hợp những động vật này và động vật giáp xác thành một loài động vật tiết túc (chân đốt). Chủng loại động vật của giới tự nhiên rất nhiều, theo thống kê, ước tính sinh vật hiện nay có khoảng 1.500.000 loài thì động vật đã chiếm hơn 1.000.000 loài. Để nhận biết, nghiên cứu và sử dụng động vật thì phải phân loại chúng. Mặc dù các loài động vật khác nhau có hình thái không giống nhau, nhưng động vật cùng một loài về hình dáng thường có rất nhiều điểm giống nhau. Các nhà động vật học căn cứ vào sự đồng nhất và sự khác biệt, từ nhỏ đến lớn của động vật, phân chúng ra thành nhiều loại. Loài hay còn được gọi là "giống" là loại nhỏ nhất, cũng là đơn vị cơ bản trong phân loại động vật. Những loài gần giống nhau tập hợp thành chi, những chi gần giống nhau lại tập hợp thành "họ", "họ" tập hợp thành "bộ", rồi "bộ" lại tập hợp thành "lớp", "lớp" tập hợp thành ngành. Ngành tập hợp lại thành giới. Giới là đơn vị lớn nhất trong phân loại. Giới động vật, giới thực vật. Hiện nay giới động vật tất cả được phân thành 20 loại, trong đó chủ yếu có mấy loại sau: loại động vật nguyên sinh, như trùng đế giầy, amíp; động vật hải miên (bọt biển); loại động vật ruột khoang như sứa, san hô; loại giun dẹt, như oa trùng, trùng hút máu...; loại giun tròn, như giun đũa và trùng kí sinh khác sống kí sinh vào cơ thể thực vật và động vật; loại giun đốt, như giun đất, tằm cát, đỉa...; động vật nhuyễn thể, như ốc, cá mực...; loại động vật tiết túc, như tôm, cua, côn trùng...; loại động vật da gai, như hải sâm, hải hoàng...; loại động vật có xương sống, như cá, ếch, rùa, rắn, chim, thỏ... 1 Lớp bò sát 15 Lớp chân đầu 30 Lớp sán đốt 2 Lớp chim16 NGÀNH NHUYẾN THỂ31 Trùng hút máu 3 Lớp có vú17 Lớp 2 mảnh vỏ32 Trg xoáy trôn ốc 4 L. Hải đởm 18 Lớp đỉa33 NGÀNH GIUN DẸT, SÁN 5 L. Hải sâm 19 Lớp chân bụng34 NGÀNH RUỘT KHOANG 6 L. Sao biển20 Lớp song kinh?35 Lớp san hô 7 NGÀNH ĐV CÓ DÂY SỐNG22 Lớp lông bụng 36 Lớp thuỷ tức 8 Lớp lưỡng cư23 NGÀNH GIUN TRÒN37 Lớp sứa 9 Lớp cỏ24 Lớp nhiều chân 38 NGÀNH HẢI MIÊN 10 Loài đuôi rắn 25 Lớp giáp xác 39 L. Hải miên xoắn 11 NGÀNH ĐV DA GAI26 Lớp đốt tròn 40 L. Hải miên ĐỐT27 Lớp chân lụng41 NGUYÊN SINH 12 NGÀNH ĐV CHÂN ĐỘNG VẬT 13 PHÂN NGÀNH NHỆN 28 NGÀNH GIUN ĐỐT 14 PHÂN NGÀNH 29 L. trùng bánh