Cuốn sách “Miền Đất Hứa của Tôi” là một chuyến phiêu lưu cá nhân đầy tò mò của một người con của Israel, mơ hồ trước những biến cố lịch sử đong đầy trên quê hương của mình. Tác phẩm này đưa chúng ta qua không gian và thời gian, khám phá câu chuyện lớn của dân tộc thông qua lịch sử gia đình, câu chuyện cá nhân và cuộc phỏng vấn sâu rộng được tác giả Ari Shavit công phu tìm hiểu và trình bày.
Với sự chân thực và tâm huyết, Shavit đã tái hiện một Israel đầy màu sắc và phức tạp, không chỉ dừng lại ở khía cạnh chính trị. Tác giả, người đồng thời là nhà bình luận nổi tiếng, không bị chi phối bởi bất kỳ quan điểm nào, mà luôn tiếp cận với sự đa chiều và sâu sắc.
“Miền Đất Hứa của Tôi” không chỉ là một cuốn sách về Israel, mà còn là một cuốn tác phẩm giúp ta hiểu sâu hơn về văn hóa và xã hội của đất nước này. Chính tác giả đã khám phá và thể hiện hình ảnh xã hội mình một cách tinh tế, với sự đồng cảm và sự kỹ lưỡng đáng khen.
Tuy không phải là một hồi ký, cuốn sách này vẫn đem lại cảm giác gần gũi qua phong cách viết dí dỏm. Shavit đã dành thời gian tận hưởng và hiểu rõ xã hội mà mình đang sống, không ngần ngại bàn về những thách thức và chuyển biến mà Israel đang phải đối mặt.
Với những suy tư và khuyến khích, Shavit đã nêu ra những quan điểm mới và rõ ràng về tương lai của quốc gia. Cuốn sách đầy kịch tính này thú vị không chỉ bằng cách truyền đạt thông tin mà còn bằng việc thúc đẩy ta suy ngẫm về vấn đề quan trọng này một cách sâu sắc và nhân văn.Các nước châu Ả-rập đã đánh thắng hay chưa? Liệu họ có thể đánh bại Israel chúng ta hay không? Đến một ngày nọ, Chiến tranh Sáu ngày lần thứ hai bắt đầu. Vào tháng 10 năm 1973, âm thanh của còi báo động tràn ngập không gian. Tôi đang ốm, phải nằm trên giường sau bữa trưa yên bình của ngày lễ Yom Kippur, trong khi những máy bay chiến đấu F-4 vẫn bay lượn trên trời. Chúng bay ở độ cao 500 feet trên ngôi nhà của chúng tôi, hướng về kênh đào Suez, chống lại sự tấn công bất ngờ của quân Ả-rập vào Israel. Nhiều chiếc máy bay, trong đó có những chiếc không bao giờ quay về. Lúc đó, với tuổi đôi mươi, tôi ngạc nhiên khi nghe tin quân đội Israel thất bại ở Sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 10 ngày kinh hoàng đó, nỗi lo sợ ban đầu của tôi đã trở thành hiện thực. Israel đặt ở thế nguy nan. Tường thành của Ngôi đền Thứ ba của người Do Thái rung chuyển.Tháng 1 năm 1991, cuộc Chiến tranh Vùng vịnh lần thứ nhất bùng nổ. Tel Aviv bị tên lửa SCUD của Iraq tấn công. Mọi người lo sợ Israel sẽ bị tấn công bằng vũ khí hóa học. Trong tuần qua, người dân Israel mang theo mặt nạ chống độc khi ra ngoài. Sẵn có vào những lúc cảnh báo về việc phóng tên lửa, chúng tôi lập tức đeo mặt nạ và đến những căn phòng được bảo vệ. Mặc dù những cảnh báo cuối cùng không thành hiện thực, nhưng cái gì đó kinh hoàng về nghi lễ khác thường ấy vẫn nằm trong tâm trí. Tôi nghe thấy âm thanh của còi báo động, và sợ hãi nhìn thấy ánh mắt kinh hoàng của những người thân yêu khi họ cất giấu sau những chiếc mặt nạ chống độc của Đức.Qua tháng 3 năm 2002, một làn sóng khủng bố khiến Israel lo sợ. Hàng trăm người thiệt mạng trong vụ đánh bom tự sát của Palestine tại các xe buýt, câu lạc bộ và trung tâm mua sắm. Một đêm, khi tôi đang viết bài nghiên cứu về Jerusalem, tiếng nổ vang lên. Tôi biết nó ở quán bar gần nhà. Tôi nhanh chóng bỏ viết và chạy ra ngoài. Ba chàng trai, ngồi trong quán với nửa chai bia – đã thiệt mạng. Một phụ nữ nhỏ bị thương nằm góc quán. Những người bị thương khác kêu lên và khóc thét. Nhìn xung quanh quán bar sáng lên bởi ánh đèn, đã bị nổ tung, tôi – một nhà báo – tự hỏi: Chúng ta sẽ làm gì tiếp theo? Liệu chúng ta có thể chịu đựng được cảnh kinh hoàng này trong bao lâu? Có phải một ngày nào đó, ý chí sống đầy tự hào của người Israel sẽ phải đầu hàng trước những thế lực đang cố gắng hủy diệt chúng?Thắng lợi quyết định của cuộc Chiến tranh 1967 đã xóa tan nỗi sợ trước chiến tranh. Sự hồi phục trong những thập kỷ 1970 và 1980 đã làm lành vết thương sâu của năm 1973. Quá trình hòa bình thập kỷ 1990 đã chữa lành sẹo năm 1991. Sự thịnh vượng vào cuối thập kỷ 2000 đã che giấu nỗi kinh hoàng của năm 2002. Bằng sự thiếu hiểu biết, người Israel tiếp tục tin tưởng vào bản thân họ, vào quốc gia và dân tộc của mình. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi im lặng của tôi vẫn không bao giờ tan biến. Dù việc thảo luận hay thể hiện nỗi sợ là điều hiếm khi, nó vẫn luôn theo tôi khắp nơi. Có vẻ như những thành phố của chúng tôi được xây dựng trên cát trơn, còn những ngôi nhà sao đó không bao giờ chắc chắn. Ngay cả khi dân tộc trở nên mạnh mẽ và giàu có hơn, tôi luôn cảm thấy chúng ta dễ bị tổn thương. Tôi nhận ra rằng chúng ta liên tục đối mặt với nguy cơ. Dù cuộc sống của chúng ta phồn thịnh, giàu có và hạnh phúc ở nhiều khía cạnh, nỗi sợ luôn hiện hữu, rằng một ngày nào đó, cuộc sống bình thường sẽ chấm dứt như ở Pompeii. Quê hương yêu quý của tôi có thể sẽ tan rã khi đội quân Ả-rập hoặc thế lực Hồi giáo mạnh mẽ vượt qua các hàng phòng thủ và xóa sổ tồn tại của nó.Những gì tôi nhớ nhất là sự chiếm đóng. Chỉ một tuần sau khi tôi hỏi cha xem liệu người Ả-rập có chinh phục Israel không, Israel đã chiếm đóng các vùng đất của người Ả-rập ở Bờ Tây và Gaza. Một tháng sau đó, gia đình tôi bắt đầu một chuyến viếng thăm.Gia đình tôi đã có cơ hội thăm các thành phố Ramallah, Bethlehem, và Hebron; mỗi nơi đều chứa đựng những dấu vết của quá khứ đau buồn. Những chiếc xe jeep, xe tải, cùng các phương tiện quân sự Jordan bị tàn phá, những lá cờ trắng đầu hàng treo trên từng ngôi nhà. Những con phố bị chặn bởi những chiếc xe hơi Mercedes đen hội tụ tận mắt chúng tôi sự thật khó lòng chối bỏ. Cảnh những đứa trẻ Palestine sợ hãi thành thục, cùng cha mẹ với vẻ bị áp đặt, đều khiến tôi rơi vào suy tư. Một lúc sau, tôi nhận ra sức mạnh và kiêu hùng của người Israel trở nên bày tỏ trước mắt, với lòng tự hào và niềm phấn khích đầy mãnh liệt.
Khi còn trẻ, tất cả đều trông rất tốt đẹp. Chúng tôi tin rằng sự chiếm đóng quân sự là lẽ nhân đạo. Israel hiện đại đem đến sự tiến bộ và thịnh vượng cho vùng đất Palestine. Trải qua những tuần đó, những người hàng xóm kém may mắn đã được tiếp cận với điện, nước máy và dịch vụ y tế không từ bỏ lúc trước. Họ cần hiểu rằng không phải cuộc sống của họ đã từng hoàn hảo như thế. Chắc chắn họ sẽ biết ơn cho những điều mà chúng tôi mang lại. Bình yên giờ đã thống trị khắp nơi trên lãnh thổ Israel, người Ả Rập và người Do Thái cùng chia sẻ cuộc sống hòa bình, an lành và phồn thịnh.
Chỉ khi bước vào quân ngũ, tôi mới hiểu rằng vẫn còn điều gì đó bất ổn. Sau sáu tháng gia nhập lữ đoàn ưu tú của Lực lượng Phòng vệ Israel, tôi được giao trách nhiệm đến những thành phố từng biết trong tuổi thơ của mình. Những nhiệm vụ bất công như kiểm tra, theo dõi tại gia, giải tán biểu tình bằng lực lượng trở thành nỗi đau đớn lớn nhất của tôi. Khi phải đột nhập vào những tổ ấm, kéo các thanh niên khỏi giường vào nửa đêm, tôi tự hỏi bản thân: Điều gì đang xảy ra ở đây? Tại sao tôi lại phải bảo vệ quê hương bằng cách hành hạ người dân bị tước đoạt quyền lợi và tự do? Tại sao Israel của tôi lại lấn át và đàn áp dân tộc khác?
Vậy là, tôi trở thành một người chống chiến. Ban đầu, với tư cách một nhà hoạt động xã hội và sau đó là một nhà báo, tôi dồn lòng vào cuộc chiến chống lại sự chiếm đóng. Trong thập kỷ 1980, tôi phản đối việc thành lập các khu định cư trên lãnh thổ Palestine. Ở thập kỷ 1990, tôi ủng hộ việc thành lập nhà nước Palestine dưới sự lãnh đạo của Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Đầu thế kỷ 21, tôi đồng ý với quyết định một phía của Israel rút lui khỏi Dải Gaza. Tuy nhiên, hầu hết các nỗ lực chống lại sự chiếm đóng mà tôi tham gia cuối cùng đều thất bại. Gần nửa thế kỷ sau chuyến đi đầu tiên của gia đình tôi tại Bờ Tây bị chiếm đóng, Bờ Tây vẫn còn dưới sự chiếm đóng. Như một khối u ác tính, chiếm đóng đã trở thành một phần không thể tách rời trong tồn tại của nhà nước Israel. Đồng thời, nó cũng trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của tôi với tư cách là một người Israel. Mặc dù tôi phản đối sự chiếm đóng, tôi cũng phải chịu trách nhiệm với nó.
Không thể phủ nhận hoặc trốn tránh sự thật: dân tộc mình đã trở thành kẻ chiếm đóng. Đến vài năm trước, tôi bắt đầu nhận ra rằng nỗi sợ liên quan đến tương lai của dân tộc không thể tách rời khỏi tổn thương về đạo đức liên quan đến chính sách chiếm đóng của Israel. Nước này là duy nhất ở phương Tây chiếm đóng dân tộc khác, nhưng cũng là duy nhất ở phương Tây đang đối diện với nguy cơ mất tồn tại. Sự chiếm đóng và đe dọa đã tạo nên đặc tả đặc biệt cho tình hình của Israel. Đó là điều không thể phủ nhận.Cuộc xung đột Israel-Palestine là một chủ đề nóng bỏng không nguôi. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta cần nhìn từ góc độ toàn diện, không chỉ tập trung vào một phía. Với tư cách là một cư dân gốc Israel, tôi đã trải qua nhiều trải nghiệm và quan sát sâu rộng về vấn đề này. Viết cho Haaretz – tờ báo uy tín của Israel từ năm 1995, tôi đã cống hiến sự hiểu biết và quan điểm riêng của mình về tình hình hiện tại của quốc gia. Trái với niềm tin mạnh mẽ vào hòa bình và giải pháp hai quốc gia, tôi đã nhận ra nhiều khiếm khuyết và thành kiến trong phong trào hòa bình. Viết về các vấn đề nhạy cảm, tôi luôn thách thức quan điểm của cả hai phe và không ngần ngại đặt ra những câu hỏi đầy khó khăn. Thấu hiểu về sự phức tạp của tình hình chiếm đóng và đe dọa, giọng điệu của tôi thường được xem là khác biệt trên phương tiện truyền thông. Có một thực tế mà chúng ta không thể phủ nhận, rằng không có giải pháp đơn giản cho vấn đề Israel-Palestine và tình hình của Israel ngày nay đầy thách thức, đòi hỏi sự suy tư và thấu hiểu sâu sắc.Cuốn sách này là một hành trình cá nhân đầy phiêu lưu của một người Israel, khám phá mạnh mẽ về quốc gia và dân tộc của mình. Từ lịch sử gia đình đến phỏng vấn sâu sắc, tác giả cố gắng kể một câu chuyện rộng lớn về Israel và đặt ra những câu hỏi sâu sắc về tương lai của đất nước. Ngoài ra, sách cũng giới thiệu chi tiết về các sự kiện lịch sử, như cuộc chiến đấu ác liệt giữa Israel và các quốc gia láng giềng, hay ngày lễ trang trọng nhất của người Do Thái. Với kiến thức và sự đam mê về chủ đề này, cuốn sách thực sự là một tài liệu đáng đọc để hiểu sâu hơn về Israel và vùng đất huyền thoại Babylon.